Ba
mươi năm xa Huế, về lại, Huế vẫn còn xanh. Trong lúc nhiều nơi khác thì có nơi
đã đổi trắng hay hóa vàng. Đổi trắng, vì quá nhiều tòa nhà vôi gạch mới mọc.
Và, vàng đi vì khuynh hướng đô thị hóa “diêm dúa” nửa vời.
“Sân khấu” Ngọ Môn
Con sông xanh mát thường trôi chảy êm đềm là linh hồn của
thành phố. Với Huế, sông Hương không phải chỉ là linh hồn mà còn là thể phách
tinh anh của thành phố. Núi ấy phải có sông ấy. Sông ấy phải có núi ấy và bầu
trời Xuân xanh, Hạ trắng, Thu vàng, Đông tím... mới hội đủ đường nét tạo hình
cho một tác phẩm tâm ảnh trong lòng người đi. Phía Nam và phía Bắc, Đà Nẵng và
Quảng Trị là hai thành phố đẹp và có thể thay thành phố cũ ra thành phố mới như
tái sinh. Đà Nẵng một ngày nào đó có thể đẹp như Hồng Kông. Quảng Trị - Đông Hà
có thể đẹp như phố mới. Nhưng Huế thì khó mà có được một sự thay hình đổi dạng
tương tự vì Huế đã định hình thành một biểu tượng: Huế tự làm nên Huế mất rồi!
Một cặp phạm trù mâu thuẫn và sinh khắc đã làm nên xứ Huế. Ngay điều kiện thiên
nhiên và thời tiết cay nghiệt “Tháng tám nắng nám trái bưởi. Giêng hai (lạnh
tới mức) cắn tay không ra máu” cũng đã vẽ nên một cảm nhận sinh khắc ngoài
tầm thay đổi. Rồi tới cảnh một trú xứ Thần kinh miên mật đến thế mà Huế thơ, Huế
mộng; nhưng Huế vẫn “tộng bộng” hai đầu. “Tộng bộng” là một biểu tượng cởi mở
thông thoáng, một phong thái tiếp nhận cái mới không cần điều kiện. Nhưng có ai
quên được rằng, những người Huế khai phá tiền phong thời chúa Nguyễn Hoàng tiến
về Nam là đoàn lữ khách “tới nơi đây đất nước lạ lùng; con chim tê kêu cũng sợ,
con cá nớ vẫy vùng cũng run”. Phải chăng vì thế mà cái “đẹp… dễ sợ!” thì
chỉ Huế mới có. Huế đã mang số mệnh hy sinh chính mình cho nghĩa lớn của Huyền
Trân. Tên gọi cụt ngủn: “Huế, Sịa, Nong, Truồi, Chuồn, Cồn, Hương, Bồ, Dinh,
Trò, Độn…” đã không làm cho tình Huế ngắn đi và đất Huế hẹp lại mà cảm xúc mãi
dài ra quá tầm một đời người ngắn ngủi.
Có một lối sống, lối nghĩ, lối hành xử theo một phong cách riêng gọi là “văn hóa Huế”. Cũng như có một lối gọi tên, phát âm và diễn đạt riêng gọi là “tiếng Huế” hay phương ngữ Huế. Huế toàn ròn không thể thay bằng một Huế khác như người Việt “Huế xa”… mô đó; không thể thay bằng một người Tây hay người Mỹ trở về! Bà mẹ quê lưng còng tóc bạc, lụm khụm hái mớ rau tập tàng luộc cho con ăn không thể thay bằng một hình ảnh “Amy” mô đó… mặc váy đầm, tóc mi-nhon, dắt chó chạy loăng quăng trên đường Thượng Tứ được.
Có một lối sống, lối nghĩ, lối hành xử theo một phong cách riêng gọi là “văn hóa Huế”. Cũng như có một lối gọi tên, phát âm và diễn đạt riêng gọi là “tiếng Huế” hay phương ngữ Huế. Huế toàn ròn không thể thay bằng một Huế khác như người Việt “Huế xa”… mô đó; không thể thay bằng một người Tây hay người Mỹ trở về! Bà mẹ quê lưng còng tóc bạc, lụm khụm hái mớ rau tập tàng luộc cho con ăn không thể thay bằng một hình ảnh “Amy” mô đó… mặc váy đầm, tóc mi-nhon, dắt chó chạy loăng quăng trên đường Thượng Tứ được.
Ba tuần về với Huế vào cuối tháng Ba, khi những cơn lạnh và
cơn mưa bất chợt cuối mùa làm Huế vừa già đi, vừa trẻ lại. Tôi đã bắt gặp và cảm
nhận từ trong chính mình một chút co ro của tuổi già và một chút tươi mát của
tuổi trẻ khi cỡi xe máy Honda chạy loanh quanh khắp các ngã đường quanh Huế và
từ làng lên Huế; từ Huế về làng.
Hơn nửa đời sống với Huế, tôi thường tự hào là mình đã thuộc
lòng... từng cái ổ gà trên đường qua Đập Đá, đường về An Cựu, đường xuống Bãi
Dâu, đường tới Bao Vinh, đường vô Mang Cá, đường ra An Hòa… hay nhớ rõ màu rêu
từng mùa trên những bức tường vôi gạch cổ thành. Thế mà nay về lại, vẫn bị lạc
đường hỏi lối loanh quanh. Nghĩa là Huế có mở rộng. Huế thêm nhiều con đường và
phố xá lên theo.
Mỗi khi nói đến một thành phố mới, một con đường mới mọc lên
thường đồng nghĩa với một khung cảnh thiên nhiên vừa bị biến cải qua bàn tay
tái tạo của con người. Tội nhất là những dòng sông rầu đời tuyệt vọng bởi những
công trình khai thác không tiếc thương “tình sông nghĩa núi“ của kỹ thuật lạnh
lùng. Hình như càng ngày, văn minh nhân loại càng gắn bó tha thiết với những dòng
sông. Như châu Mỹ trẻ trung hơn châu Âu nên những con sông không bị biến
thành những lạch nước quặn mình làm kiểng cho những công trình xây dựng lâu đài.
Những dòng trường giang như Mississippi, American, Colorado ở Mỹ, Wheaton ở Canada vẫn còn là những bờ xanh lồng bóng nước như hôm nay. Trong khi đó, những con sông nổi tiếng một thời ở châu Âu, vốn đã lên lão từ thời Trung Cổ, như sông Seine ở Paris, sông Thames ở Luân Đôn, sông Brisbane ở Úc, sông Danube ở Đức… đã bị những cơn lũ đô thị hóa biến thành những dòng kênh quặn mình giữa hai bờ thành lũy bê tông và cao ốc. Hy vọng mãi sau nầy rằng, mai tê cô Thắm con nhà Huế có về làng, dẫu có lỡ để cho “hương đồng cỏ nội bay đi ít nhiều” thì cũng vẫn còn thấp thoáng đâu đó đôi nét mặn mà của cô gái chân quê.
Những dòng trường giang như Mississippi, American, Colorado ở Mỹ, Wheaton ở Canada vẫn còn là những bờ xanh lồng bóng nước như hôm nay. Trong khi đó, những con sông nổi tiếng một thời ở châu Âu, vốn đã lên lão từ thời Trung Cổ, như sông Seine ở Paris, sông Thames ở Luân Đôn, sông Brisbane ở Úc, sông Danube ở Đức… đã bị những cơn lũ đô thị hóa biến thành những dòng kênh quặn mình giữa hai bờ thành lũy bê tông và cao ốc. Hy vọng mãi sau nầy rằng, mai tê cô Thắm con nhà Huế có về làng, dẫu có lỡ để cho “hương đồng cỏ nội bay đi ít nhiều” thì cũng vẫn còn thấp thoáng đâu đó đôi nét mặn mà của cô gái chân quê.
Dẫu có đi khắp năm đồng bảy đội, tuổi già trở về Huế, vẫn thấy
Huế đẹp với những bờ xanh: Bờ sông, bờ suối, bờ ao, bờ hồ, bờ rào, bờ cỏ… Dòng
sông Hương xa tít tắp có thể nhìn thấy trong tầm mắt từ đồi Vọng Cảnh, qua chùa
Linh Mụ, chạy dọc theo thành phố, rẽ về Vỹ Dạ, qua ngã Ba Sình trước khi xuôi về
biển. Hai bên bờ sông vẫn còn xanh mướt. Dòng nước xanh, lác đác lục bình, đôi
cụm lau lách hoang dã vẫn còn thấy nhau và những con đò xuôi ngược. Sông An Cựu,
Sông Bồ, sông Đào, hồ Ngự… vẫn còn bờ xanh với mùa Xuân và dây leo đong đưa với
mùa Hạ. Nếu Huế mất những bờ xanh, làng tôi mất những bờ cây dại dọc sông Bồ
thân ái có lẽ tôi sẽ mất đi những hoài niệm một thời nhưng vẫn còn kéo dài và
khắng khít của ngày xưa và bây giờ đã trên 60 năm. Và, trong tâm thức của những
người trên 60 tuổi như tôi, đã sống nửa đời ở Huế và một nửa ở quê người, khái
niệm về quê hương không còn thuần nhất như xưa. Bạn bè sống một đời ở Huế có lẽ
khó tình chia sẻ nỗi niềm phân chia trong lòng người có hai bến bờ để tới. Tôi
có Quê Mẹ, đó là quê hương nguồn cội đã sinh tôi ra và nuôi tôi khôn lớn một thời.
Nhưng tôi cũng có Quê Người, đó là một quê hương khác đã dang tay cưu mang đời
tôi và gia đình – giữa lúc cơn bão tâm lý, tri thức và cuộc sống quay cuồng tới
đỉnh điểm – mà không cần điều kiện hay sự đổi chác nào. Trong một trạng thái
tâm lý “dùng dằng nửa ở nửa về” như thế, những bờ xanh của Huế đã dang tay đón
tôi lại. Sự cuốn hút của thiên nhiên đầy tâm cảm là một sáng tạo tuyệt vời của
tình yêu cuộc sống.
Mùa Xuân năm nay, chúng tôi muốn làm một cuộc du lịch “tùy
duyên”. Tùy duyên trong du lịch có nghĩa lấy vui làm chính. Còn đi đâu cũng được,
miễn sao tìm được thú vị và an lạc trên mỗi bước đi. Lần nầy “tùy duyên về Huế”,
trong lứa tuổi về chiều ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp, chúng tôi thường
đùa rằng, may thì gặp duyên lành, không may thì gặp duyên chướng. Về Huế tháng
Ba. Nắng chưa rát da rát thịt và thời tiết đã qua những tháng mưa Đông… héo úa
tâm hồn! Thời điểm nầy Huế có Festival, mùa Phật Đản và vụ gặt Đông Xuân. Festival
với những lễ hội rộn ràng đầy màu sắc, Phật Đản với những thuyền hoa rực rỡ
trên sông Hương và mùa gặt năm nay nghe bà con nói được mùa với rau cỏ xanh hơn
năm ngoái. Nếu Huế không có những bờ xanh của sông núi, ruộng đồng thì lễ hội,
thuyền hoa, lúa mùa lấy đâu làm chỗ dựa thiên nhiên cho con người núp bóng.
Chúng tôi cũng có mặt giữa những người Huế gần, Huế xa và
khách xem từ bốn phương tám hướng trong buổi mở đầu Huế Festival năm 2012. Có
thể nói mà không sợ bị cho là đại ngôn rằng, “sân khấu Ngọ Môn” đêm khai hội là
một kiệt tác đẹp hiếm thấy có tầm cỡ toàn cầu, vì đây là dấu tích của một công
trình kiến trúc đế vương non hai thế kỷ còn đọng lại trước mắt nhân gian. Tôi
chỉ thấy cảnh phế tích đấu trường Colosseum thời đế quốc La Mã ở Ý là nơi có thế
gây cảm giác mạnh cho du khách vì lịch sử bi hùng vủa nó. Nhưng Colosseum chưa
hề tổ chức… “festival” nên Huế vẫn là nơi xứng đáng cho những lễ hội mang tính
văn hóa và truyền thống gây được cảm tình yêu mến cho du khách khó tính vì đã
quá từng trãi với bao ngõ ngách địa cầu thời hiện đại.
Lần này tôi về Huế, được gặp lại những người quen, bạn bè ở
Huế và từ Pháp, Mỹ, Úc, Canada cùng từ nhiều nơi trong nước “ghé Huế mùa Xuân
cho khỏi nóng”. Từ những năm trước, nhiều anh chị em gốc Huế sống xa quê tự động
ngồi lại với nhau và góp tay nhau thành một nhóm sinh hoạt từ thiện và văn
nghệ, văn hóa Huế gọi là “Huế Xa”. Anh chị em chỉ có một tấm lòng chung là: “Huế
Xa mà không xa Huế.”
Chúng tôi ở lại Huế lâu hơn vì được sống với bà con, bạn bè
trong màu xanh mùa Xuân tươi mát của Huế. Buổi trưa đi trên Cầu Mới, nhìn về
phía cầu Trường Tiền và cầu Bạch Hổ còn ẩn hiện trong màn sương mỏng và nắng mơ
phai đầy ẩn dấu như người con gái Huế khi chưa biết “phía bên tê”. Chao ơi là đẹp!.
Bờ xanh sông Hương
Nấn ná ở với Huế lâu lắm cũng chỉ tới ba tuần. Tôi thích về
làng ra sau vườn hái rau tươi luộc chấm tương ngon như ngày còn mẹ. Lên thành
phố, Huế vẫn còn dáng vẻ phố cổ của một thời; có nghĩa là chưa bị biến dạng sau
những bóng dáng “đại gia” nửa quê, nửa tỉnh, nửa thị, nửa thành. Huế bây chừ
cũng có những nơi cho bạn bè hẹn nhau đầy hương vị như Vỹ Dạ Xưa, Không
Gian Xưa, Ven Đồi, Tân Hương Sen, Hoàng Trúc, cà phê Cây Đa Thành Nội, cà phê
Thiên Đường.
Về lại Mỹ, nghe tin Huế “nóng như chảo bắp rang” mà tội Huế
quá. Bên nầy trời Cali nhớ Huế, chúng tôi bỗng nhớ bạn bè, làng xóm, người thân
quen. Chỉ nhớ lại lớp học nhỏ bé của chúng tôi ở trường Hàm Nghi Huế thôi cũng
đủ hình ảnh để tính đời dâu biển. Gặp lại thầy xưa, bạn cũ tưởng như mới chiều
hôm trước thôi mà hóa ra đã gần một đời đi qua.
Bốn thế hệ trường Hàm Nghi Huế: Thất1 - Tứ 1 (1959-63)
(Hình chụp trước cổng Di Luân Đường - Quốc Tử Giám;
trường Hàm Nghi cũ. Tháng 4-2012)
Nhớ nhất là tiếng vọng thời gian “mới đó” thảng thốt mà ngậm
ngùi của Huế: Mới đó mà đã 53 năm. Mới đó mà thằng Phúc, thằng
Ni, thằng Phụ, thằng Lân, thằng Hòa... trong lớp đã ra đi hơn bốn chục năm rồi. Mới
đó mà cả lớp đều đã lên hàng ông nội, ông ngoại. Mới đó mà thằng
Viêm đã có chắt! Mới đó mà thế hệ những đứa học trò nhỏ chúng tôi
ngày nào nay đã thành những “cụ” già gặp nhau với ít nhiều dáng vẻ lụm khụm và
những nụ cười vui buồn vui bay tóc trắng. Và, mới đó mà những nàng
dâu Hàm Nghi hương sắc một thời bây chừ hoá ra… đẹp lão. Các cụ chỉ còn biết cố
níu lại thời gian bằng tiếng xưng hô “thằng, con, mi, tau…”, của những ngày xưa
thân ái cho đã cái miệng (không răng) mà thôi.
Xa Huế, người ta có thể quên những mảnh sống vui buồn, những
ngày sướng khổ trong một chặng đời nào đò. Nhưng mấy ai quên được những con đường
quê hương đã từng quặn mình giữa bao tuồng ảo hóa của thời gian và cuộc thế
trùng trùng dâu biển. Càng về già, tâm hồn lại trở thành chơn chất và thanh thản
hơn để còn thương nhớ những bờ xanh của Huế. Mong Huế còn mãi những bờ xanh.
Màu xanh sớm mai của Huế chính là nền đậm cho Màu tím Huế buổi chiều. Và màu sắc
Huế cũng là nhịp cầu thế hệ nối tuổi già vàng phai và tuổi trẻ xanh mướt mượt
mà; nối kẻ ra đi và người ở lại- cho dẫu là Huế Xa mà không xa Huế.
Huế, tháng tư đầu mùa hạ 2012
Trần Kiêm Đoàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét