Nhà thơ, nhà phê bình văn học
Nhà thơ, nhà nghiên cứu và phê bình văn học Vũ Bình Lục năm
nay đã chạm vách thất thập, nhưng sức làm việc của ông vẫn rất sung mãn. Là tấm
gương chuyên cần trong lao động nghệ thuật, nhưng ông lại rất cẩn trọng và
khiêm nhường. Và, mấy ai biết ông từng là lính đặc công, là một thương binh
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ!.
* Thưa ông, độc giả đọc thơ cũng như các tác phẩm phê bình
văn học của Vũ Bình Lục đã nhiều. Không ít người tò mò muốn biết, đó là bút
danh hay tên khai sinh của ông?
- Nên hiểu thế nào nhỉ? Đó là tên khai sinh, không hẳn thế,
nhưng cũng là bút danh của tôi. Gốc tích tôi họ Vũ Đình, viễn tổ ở Hải Dương,
chứ không phải là Vũ Bình, cũng không có liên quan gì đến một địa danh của tỉnh
Hà Nam. Khi học lên lớp năm đầu cấp II (trung học cơ sở bây giờ), người ta viết
nhầm Vũ Đình thành Vũ Bình, thì bây giờ vẫn cứ như thế đấy thôi! (cười).
Nhà thơ Vũ Bình Lục (Thứ 2) cùng đồng nghiệp văn chương
bên lề
cuộc hội thảo về khoa học lịch sử, vừa được
tổ chức tại Văn Miếu, Quốc Tử Giám,
Hà Nội.
* Ông từng qua quân ngũ, rồi lại có khoảng hơn chục năm làm
thầy đồ ở quê và gần 20 năm dạy học ở Tây Nguyên, đến khi nghỉ hưu mới về Hà Nội
ngồi viết văn? Xem ra ông có nhiều gắn bó với vùng “rừng thiêng nước độc”?
- Kể cả những năm chiến tranh thì tôi có khoảng một phần tư
thế kỷ sống với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, suýt nữa thành A Ma Lục còn
gì! (cười). Thực ra tôi cũng có cơ hội giảng dạy ở một vài trường đại học, trong đó có Đại học Tổng
hợp Sài gòn. Nhưng tôi vốn nhát gan, không dám xa cái gia đình be bé của mình khi
trong tay chả có chút tiền bạc nào để kiếm một chỗ ở nho nhỏ nơi thị thành. Thì
đành vậy! Đấy là thời bao cấp. Khi tôi chuyển cả gia đình vào Tây Nguyên, nhiều
người bảo tôi bị điên, tự dưng lại bỏ quê để lao vào chốn rừng thiêng nước độc.
Quả có hơi nóng đầu một tý khi tôi thích chỗ thoáng đãng rộng rãi, lại còn mơ
làm ông chủ đồn điền cà phê nữa cơ đấy...
Nhà thơ Vũ Bình Lục (phải) cùng nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Nhưng tôi không gặp thời, lại không thuộc nhóm người có tư
duy trội về kinh tế.
Vả chăng, nếu thành ông chủ đồn điền thì tôi chả bao giờ thành nhà văn được nữa!
(lại cười).
* Ông toan tính gì khi quyết định về Hà Nội?
- Tôi biết và cũng được nghe một số người nói rằng, nhà
văn Nguyễn Tuân, cả họa sĩ Nguyễn Sáng nếu không sống ở Hà Nội thì không thể
thành nghệ sĩ lớn được. Ngẫm ra có phần đúng. Một số nhà văn từng nhiều năm dạy
học ở miền núi như Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp… rồi họ cũng “tuột xích” về
Thủ đô. Đơn giản bởi Thăng Long - Hà Nội là đất văn hiến hàng nghìn năm, lại là
nơi hội tụ nhiều anh tài khắp bốn phương. Sống và giao tiếp thường xuyên với những
người tài hơn thì đương nhiên mình học hỏi được ở họ rất nhiều...
* Tôi - nhà thơ, nhà phê bình văn học Phạm Đình Ân cũng nghĩ
như thế và đã làm như thế. Nhưng với Vũ Bình Lục thì khác, ông về Hà Nội hơi muộn?
- Muộn quá ấy chứ! Tuy nhiên, những năm tháng quăng quật với
cuộc sống ở núi rừng Tây Nguyên cũng không hề lãng phí...
* Bằng chứng là đến nay ông đã xuất bản được gần hai chục đầu
sách? Ông hài lòng với cuốn nào nhất?
- Mấy cuốn “Giai phẩm với lời bình”, tôi chủ yếu nhờ người
khác làm chế bản, cho nên còn một số điều chưa ưng ý. Từ cuốn “Hồn thiền trong
thơ Lý - Trần” trở lại đây, tôi cố gắng bám sát khi chế bản, vì thế bớt đi nhiều
lỗi, trước đó thậm chí có cả lỗi ngớ ngẩn. Đến cuốn “Thánh thơ Cao Bá Quát” thì
khá hơn. bộ sách “Hồng hạc cõi trời Nam” có nhiều tiến bộ, nhưng chúng cũng sẽ
được chỉnh lý và bổ sung khi tái bản.
Nhà thơ Vũ Bình Lục trong một chuyến đi thực tế.
* Có thắc mắc nhỏ, tại sao ông không viết ngay từừ những năm
tháng trực tiếp chiến đấu ở chiến trường?
- Tôi là lính đặc công trực tiếp đối mặt với kẻ địch. Chiến
trường khu V vô cùng ác liệt. Sốt rét, đói khát quanh năm, nhất là từ sau Tết Mậu
Thân 1968. Song đối diện với chính mình mới là điều khó khăn nhất. Đồng đội cứ
vơi dần đi sau mỗi lần hành quân. Trận thắng nhiều, nhưng trận thua không phải
là ít. Đối phương mạnh hơn mình nhiều lần về vũ khí và điều kiện sinh hoạt cá
nhân. Đương nhiên mình phải nghĩ ngợi nhiều, có lúc cảm thấy căng thẳng, thậm
chí nản lòng. Thế nhưng, như bao đồng đội khác, tôi đã không gục ngã. Chúng tôi
đã chiến thắng bằng ý chí.Tại sao tôi không viết được gì trong chiến trường? Có
lẽ ở thời điểm đó tôi nghĩ đấy không phải là việc của mình, khi mà chúng tôi
luôn đối mặt trực diện với địch, cái chết lúc nào cũng rình rập. Điều này khác
hẳn với hoàn cảnh của các nhà thơ tuyên huấn, chẳng hạn như anh Phạm Tiến Duật.
Các bác ấy sống bên cạnh cơ quan chỉ huy, được tiếp tế quân nhu đưa từ miền
Bắc vào, xung quanh toàn quân ta, có cả những nữ thanh niên xung phong trẻ
trung, xinh đẹp, thi thoảng mới thấy thằng giặc ở trên trời, làm thơ được quá
đi chứ! (cười hồn nhiên)...
* Cũng lạ. Giữa súng ống, trận mạc thì ông không viết. Sau
chiến tranh thì ông lại viết khá nhiều và có nhiều bài thơ hay về chiến tranh?.
- Đất nước thống nhất, mọi người được sống trong hòa bình,
song cũng có quá nhiều người mãi mãi không được hưởng niềm hạnh phúc ấy. Đó là
những con người ưu tú, là những chiến sĩ dũng cảm, là tinh hoa của dân tộc
mình. Càng lùi xa ngày đất nước được giải phóng, tôi nhận ra chiến tranh vẫn
còn đâu đó khắp hang cùng ngõ hẻm, trong mỗi thân phận con người...
Gương mặt chiến tranh có nhiều góc cạnh. Nhìn sâu vào mới thấy,
mới cảm nhận được, cả nỗi đau và vẻ đẹp nhân văn lấp lánh ở đâu đó. Tôi viết về
góc khuất của chiến tranh, về đám
cưới một linh hồn, về người lính đầu bạc ru con, không phải là ru một linh hồn
con trẻ dính hậu quả chất độc điôxin, cả về những ký ức không vui... Tôi đã
hoàn thành bản thảo một cuốn sách vài ba trăm trang ghi lại quãng đời chiến đấu
của mình, những năm tháng đi qua chiến tranh, cũng chỉ để cho con cháu đọc, để
chúng suy nghĩ và thấy rằng cuộc sống của hòa bình quý giá như thế nào.
* Có vẻ như ông lao tâm khổ tứ vì những cái mà có người cho là
đã cũ, nhiều người làm rồi, mà cũng chả kiếm được tiền được bạc gì ở đó cả?
- Ai hiểu như thế là họ nhầm rồi. Hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước, cha ông ta đã sáng tác rất nhiều, nói như các cụ ta xưa thì sách vở
có thể chất thành gò đống, xe kéo voi thồ cũng không hết. Nhưng giặc phương Bắc
dã tâm tiêu diệt tận gốc nền văn hóa của ta, đồng
hóa dân tộc ta, biến nước ta thành quận huyện của họ. Số sách vở còn lại chẳng
được bao nhiêu nhưng vô cùng quý giá. Các cụ ta xưa đã nối tiếp nhau sưu tầm,
nghiên cứu, nhưng những sáng tác ấy đều bằng chữ Hán, chữ Nôm. Sưu tầm nghiên cứu
thì đã nhiều người, nhiều thế hệ làm rồi, chủ yếu ở mức độ văn bản học. Tôi dựa
trên kết quả của các thế hệ đi trước để làm tiếp công việc dịch các tác phẩm ấy
ra thơ lục bát truyền thống, bình giải cái hay, cái đẹp của thơ ca xưa để bạn đọc ngày nay dễ tiếp nhận.
Mình tài hèn sức mỏng, song cố gắng làm được đến đâu hay đến đó...
* Thơ Lý - Trần thì ông đã làm rồi. Cao Bá Quát và Nguyễn
Trãi ông cũng làm rồi. Sắp tới ông còn định giới thiệu những danh nhân văn hóa
nào nữa?
- Tôi có kế hoạch bổ sung thêm về thơ Lý - Trần, chỉnh
lý thêm nữa, vì đây là cuốn sách chuyên đề đầu tiên tôi làm. Vả lại, thơ Lý -
Trần rất giá trị, đặc biệt là những tác giả chưa hoặc ít được biết đến ở giai
đoạn mà tôi gọi là Vãn Trần, tức cuối đời Trần, khi nhà Trần đã suy thoái. Sắp
tới, tôi dự định dịch thơ và bình giải thơ chữ Hán của Nguyễn Du, rồi sáng tác
của các bậc danh nho Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm...
* Ông còn viết về văn chương đương đại? Bí quyết gì để ông
làm được nhiều việc như thế?
- Tôi vẫn sáng tác và thường xuyên viết bài bình thơ cho Báo
Nhi Đồng, rồi cộng tác với Đài Tiếng nói Việt Nam, viết tham luận cho một số cuộc
hội thảo văn chương và lịch sử, viết lời giới thiệu cho một số tập thơ...
Nói bí quyết thì thành quan trọng hóa vấn đề. Chỉ là tôi đắm
đuối với văn chương từ hồi bé. Tôi đọc rất nhiều và trí nhớ rất tốt. Người ta bảo
hãy cứ sống đi rồi hẵng viết. Sống và đọc để tích lũy vốn sống và tri thức. Và,
khi tôi đã đến độ chín rồi thì viết rất nhanh. Một năm làm việc của tôi có khi
bằng cả mười năm cộng lại...
Phạm Đình Ân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét