Chỉ có những tư tưởng đến với chúng ta
khi đang bước đi mới
có giá trị mà thôi
Friedrich Nietzche
Không hiểu sao tôi lại nghĩ rằng thi sĩ là một loài Volunteer - một kiểu người tình nguyện để nối liền các khoảng trời yêu thương và cay đắng
vô hạn trên đời này gần lại với nhau. Không có bất kỳ một sự sinh lợi nào cho bản
thân người ấy. Một sự liên tưởng thật ngẫu nhiên mà chẳng cần đến một nguyên cớ
nào. Bỗng nhiên một lần ngẫu nhiên khác ta gặp nó trong đời sống hiện sinh mà lại
hiện hình như ảo giác. Ta lại thấy nó có vẻ không giống như thế nữa.
Chuyến bay từ Nội Bài qua hai chặng đường dài và cả một đại
dương lớn nhất quả đất của đoàn cán bộ tư pháp cao cấp Việt Nam bỗng nhiên gặp
sự cố phải dừng lại ở sân bay Dallas, không chuyển kịp chặng thứ ba để về
Washington. Đoàn tư pháp nhà ta xem chừng bị khám xét kỹ càng và lâu hơn mà vẫn
chưa ra khỏi thủ tục an ninh. Thì ra một thành viên trong đoàn đã mang theo vài
gói hàng đặc biệt mà bản thân ông cũng không để ý. Nó tròn và dài khoảng 25, 30
cm. Mỗi thứ nặng độ trên dưới một cân. Được gói giấy nhật trình nhiều lớp, phía
ngoài buộc bằng lạt giang rất ngay ngắn và chắc chắn. Giữa lúc còn đang lúng
túng thì bỗng nhiên có một người đàn ông châu Á bước tới. Ăn vận chỉnh tề. Tóc
bạc trắng rẽ ngôi rõ ràng. Kính gọng vàng. Trắng trẻo. Nói tiếng Anh sõi. Thực
là một tay công chức hạng sang. Và sự việc của đoàn tư pháp mau chóng được giải
tỏa. Thì ra bà vợ vị khách tư pháp của nước Mỹ lần đầu tiên chuẩn bị cho chồng
đến Hoa Kỳ kia sợ khó khăn về thực phẩm và cũng muốn để tiết kiệm một chút nữa.
Theo phương châm “cơm nhà áo vợ - không sợ thằng nào” - đã chơi mấy đòn… bánh
tét! Lúc này người đeo kính gọng vàng mới xưng danh là Việt kiều, trước là một
công chức ở Sài Gòn, định cư sang đây đã hơn ba chục năm, nhà ở gần sân bay. Nhớ
Việt Nam lắm, thường ra sân bay Dallas để tìm người Việt ở bển qua, gặp khó
khăn gì thì giúp đỡ. Làm một volunteer mà! Vậy là cái ngẫu nhiên tôi gặp cho sự
liên tưởng ấy đơn giản và nhẹ nhàng vậy thôi. Vâng, thi sĩ là một loài
volunteer. Và một trong những người phù hợp với điều này có lẽ là nhà thơ Tô
Thùy Yên.
Trước năm 1975, khi còn là sinh viên Đại học, tôi đã được đọc
Vũ Hoàng Chương, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Thị Hoàng… qua các giáo trình và tài
liệu in roneo về văn học đô thị miền Nam. Nhưng chưa đọc Tô Thùy Yên. Vả chăng
thời đó thơ của ông cũng chưa được xuất bản thành sách.
Gần đến và sau năm 2000, tôi mới đọc thơ ông qua văn chương mạng. Nhất là khi Thơ tuyển Tô Thùy Yên được tác giả xuất bản tại Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ mùa thu 1995. Tập thơ có 37 bài, tập trung từ bài Cánh đồng con ngựa chuyến tàu, viết khoảng tháng 4/1956 khi ông mới 18 tuổi, và bài cuối cùng của tập – Sáng nay ta còn đi bên nhau, viết tháng 6/1995 ở Hoa Kỳ. Vậy là 37 bài mà trọn vẹn gần một đời sáng tác 40 năm. Được biết, vào năm 2004, ông còn xuất bản tập Thắp tạ nữa. Đến bây giờ tôi vẫn chưa được gặp Tô Thùy Yên mặc dù đã đôi lần qua Mỹ công tác. Sau hòa bình năm 1975, ông đã qua các trại cải tạo cả trong Nam ngoài Bắc có nhẽ đến hơn 10 năm. Rồi năm 1993. HO cùng với cái hích của thượng đế đã đưa ông sang định cư ở Hoa Kỳ.
Gần đến và sau năm 2000, tôi mới đọc thơ ông qua văn chương mạng. Nhất là khi Thơ tuyển Tô Thùy Yên được tác giả xuất bản tại Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ mùa thu 1995. Tập thơ có 37 bài, tập trung từ bài Cánh đồng con ngựa chuyến tàu, viết khoảng tháng 4/1956 khi ông mới 18 tuổi, và bài cuối cùng của tập – Sáng nay ta còn đi bên nhau, viết tháng 6/1995 ở Hoa Kỳ. Vậy là 37 bài mà trọn vẹn gần một đời sáng tác 40 năm. Được biết, vào năm 2004, ông còn xuất bản tập Thắp tạ nữa. Đến bây giờ tôi vẫn chưa được gặp Tô Thùy Yên mặc dù đã đôi lần qua Mỹ công tác. Sau hòa bình năm 1975, ông đã qua các trại cải tạo cả trong Nam ngoài Bắc có nhẽ đến hơn 10 năm. Rồi năm 1993. HO cùng với cái hích của thượng đế đã đưa ông sang định cư ở Hoa Kỳ.
Tôi đọc Tô Thùy Yên trong tổng thể thế giới tinh thần của ông
trải dài đến 40 năm ấy. 40 năm đầy những biến cố khôn lường của đời sống, của
thân phận con người mà theo ông gia tốc của lịch sử thật khắc nghiệt và nghiêm
cẩn biết nhường nào đối với thân phận ấy. Tôi đi giữa thế giới tinh thần Tô
Thùy Yên, cái thế giới thống nhất một tâm trạng nặng lòng với đất nước quê
hương mà ẩn chứa bao điều thương yêu và trắc ẩn, day dứt của tình người. Mặc dầu
cái cảm xúc của Nỗi đợi đầy buồn chán và bất lực bên ngôi nhà trăm
năm cửa khép hờ mưa nắng, mãi chẳng ai về qua gọi cho hay Ánh
tàn dư mỗi khi mặt trời xao xuyến mọc, một ngày nữa xuống với đời ta vui
biết mấy mà cũng buồn biết mấy trong nỗi nhớ khôn nguôi mái nhà xưa khăng khít
ngói âm dương để rồi Giã biệt trần trụi giữa vô cùng mà bởi vì thế muốn
gom lại quá khứ của tình yêu làm đống lửa dỗ dành, kể cho nhau nghe về hoa gạo
nở ban trưa, về đêm hoa sữa nở trong nỗi phụ tình đau đớn chẳng thể nào nguôi…
Mặc dầu cái suy ngẫm về hai phía trong một không gian lịch sử như nỗi lòng uẩn
khúc, đầy trắc ẩn và tan nát tâm can bắt đầu từ bài thơ có 3 trường đoạn Chiều
trên phá Tam Giang, viết tháng 1/1972 về người lính Việt Cộng đến Thức
giấc trong biệt giam, viết năm 1991 nặng gánh nỗi ưu phiền về lịch sử đổi phiên
người gác ngục lúc giày đinh, lúc dép râu mà thôi… Mặc dầu… Và mặc dầu… Điều
khó tránh khỏi của một người như Tô Thùy Yên và cả bao người khác nữa mà gia tốc
lịch sử đã cuốn vào trong nó không sao cưỡng lại được những năm nửa sau thế kỷ
20. Nhưng cảm hứng chủ đạo trong thơ Tô Thùy Yên không phải sự mặc dầu đó. Cảm
hứng chủ đạo cả một đời thơ ông là sự trở về trong yêu thương đầy
nhân tính và dạt dào chủ nghĩa nhân văn. Một sự trở về với muôn sắc thái tình cảm
đáng yêu, đáng trân trọng và cũng thật day dứt biết bao nhiêu. Cả một thân phận.
Cả một đời thơ, Cả yêu thương và cay đắng. Cho sự trở về ấy.
Lớn lao và bao trùm tất cả là đất nước quê hương, là mỗi ngôi
nhà mở cửa. Để từ chiến tranh đau thương và mất mát trở về với hòa bình trong hạnh
phúc bình yên. Ít có nhà thơ đương đại nào nói được sự trở về ấy của hòa bình vừa
giản dị mà xúc động, vừa trang trọng mà tràn ngập không khí cổ thi như Tô Thùy
Yên.
Ta tưởng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta, ngựa đá đã qua sông.
Đó là sự trở về theo và như là quy luật muôn đời của tự nhiên
và khát vọng không bao giờ nguôi ngoai của loài người. Bóng tối rồi sẽ tan đi,
đêm cũ cũng như quá khứ, cũng như trăng, tất cả sẽ lặn để chúng ta trở về trong
ánh sáng ấm áp mà chan hòa của dương thế.
Mãi rồi trời cũng sáng ra
Phần trăng, trăng lặn, phần ta ta về.
Đôi khi sự trở về trong sự an phận của một kiếp người. Một
ngày kia trở lại cuộc sống cộng đồng như một ngôi nhà lớn, lòng ta trang trải với
cuộc đời dù đã đi qua bao nhiêu lầm lẫn và cay đắng mà giờ yên tịnh trong sự thảnh
thơi.
Ngày kia trở lại ngôi nhà lớn
Lòng những bằng lòng một kiếp chơi.
Cảm xúc trở về quê hương, trở lại gian nhà cỏ ngày xưa, trở về
với dòng sông cũ, lạch nguồn xưa để chiêm nghiệm một đời vất vả, nghe tiếng đàn
khuya nơi xứ sở mà trải lòng với bản thân ta trong sự bình yên muôn thuở của một
phận người
Như là,
Quê ta đâu cũng là sông nước
Phơi phới triều lên bát ngát bờ
Cuốn tiếng đàn khuya trên bến Bắc
Trải tình về lại lạch nguồn xưa.
Hay như là:
Ta về tắm lại dòng sông cũ
Luống những bình yên kiếp dã tràng.
Và trong dòng nước trở về tha thiết giống như một buổi sáng
chợt nghe thấy tiếng sáo thướt tha đến bận lòng của James Galway, ta thấy long
lanh như cuộc đời thi sĩ Tô Thùy Yên cùng với sự trở về của người em thương mến - Em trở về em chờ biến đổi. Sự trở về ấy đương nhiên chứng kiến sự đổi
thay của cuộc đời, người xưa chợt gặp lại chính mình, không rõ là của ngày xưa
hay của bây giờ vì cái tuổi lưng chừng không xác định
Em về vườn cũ thăm cây trái
Gặp tuổi lưng chừng khóc giữa hoa.
Với Tô Thùy Yên, sự trở về không chỉ có nghĩa không gian và
thời gian mà chính là sự trở về với bản thân mình và với ông, sự trở về này đã
từ rất sớm, không phải đợi đến sự ngã ngũ của lịch sử, sự đi xa chốn cũ của đời
người. Tô Thùy Yên đã từng viết đề tựa cho một bài thơ: Có một gã du hành
muôn nơi muôn năm trở về kể chuyện. Ý chừng kể để Hư không nghe. Bài thơ nổi tiếng Chiều
trên phá Tam Giang có 3 phân khúc lớn với 153 câu là minh chứng cho điều
trở về với bản thân ấy. Khúc 1 ông bày tỏ dường như không hiểu được lý trí của
người lính phía bên kia vừa sốt rét vừa đói nhưng lòng đã quyết với lời nguyền
sinh Bắc tử Nam. Không hiểu được sứ mệnh của người ấy, Tô Thùy Yên ước ao nếu cả
hai cùng gom góp lại thì mặt đất này sẽ đổi khác bao nhiêu? Ý nghĩ ấy hiện hình
khi Chiều trên phá Tam Giang đang rộn ràng tiếng chiến trận mà lại im
lìm trong sự cảm thông. Để từ đó trở về với người em gái đang rời thư viện dưới
vòm cây yên tĩnh. Có thể lúc này trời đang mưa, người ấy đi nép vào hàng hiên,
sướt mướt nhìn bong bóng nước như những đóa hoa nở gấp rút chảy trên hè phố Sài
Gòn. Và dù như thế cũng không thể níu kéo được Tô Thùy Yên ở khúc 3 của bài thơ
trở về với chính bản thân mình trên mịt mùng nghi hoặc, sự vô nghĩa của chiến
tranh khi tuổi thanh xuân của ông mất tích giữa những tấn tuồng bần tiện của lịch
sử… Tô Thùy Yên đã trở về với bản thân mình. Với xiết bao đau đớn. Lúc ấy vào
tháng 6/1972, khi ông tròn 34 tuổi, ông đang ở phía bên kia và như thế vô hình
chung ông đang làm tình nguyện viên tuyên truyền cho … Vietcong. Cũng như thế,
bài Trường Sa hành dài tới 64 câu, viết tháng 3/1974 mặc dù mang âm
hưởng cổ thi mà bây giờ vẫn còn nguyên giá trị và nó được xếp vào một trong những
bài thơ hay viết về biển đảo.
Tôi nghĩ tất cả sự trở về bằng nhiều con đường và đa sắc ấy đều
có bắt nguồn từ sự trở về với bản thân của Tô Thùy Yên - cái bản ngã của một
thi sỹ hết lòng yêu thương trìu mến quê hương đất nước mình cả trong máu thịt lịch
sử của nó. Bởi thế khi tôi đọc Làng ta, ngựa đá đã qua sông, thấy như đâu
đây âm hưởng thơ của đấng quân vương thời Trần thuở trước.
Bài thơ Ta về dài tới 31 khổ đều đặn với 126 câu 7
chữ viết vào tháng 7/1985 như là một sự quy tụ thế giới tinh thần và tư tưởng cảm
xúc của Tô Thùy Yên. Bài thơ như một bản hòa tấu trên dòng nhạc của những dòng
bảy chữ nhịp điệu bình thản và êm ả kể về sự đoàn viên thanh thoát qua bao
nhiêu cay đắng và mất mát để đến được với tin yêu, đồng điệu. Với 17 điệp
khúc Ta Về. Như bóng đêm quá trễ, Như lá rơi về cội. Như hạt sương trên cỏ.
Như sợi tơ trời nắng. Như ý thơ xiêu tán. Như đứa con phung phá. Như tiếng kêu
đồng vọng. Như giấc mơ thần bí. Như nước Tào Khê chảy. Như bóng ma hờn tủi… Để
cuối cùng là Ta về như hạc vàng thương nhớ, bao nhiêu nguồn cơn tâm trạng
được dồn nén trong bài thơ ấy. Một tấm lòng. Một sự cảm nhận. Một sự cô đơn.
Ta về - một bóng trên đường lớn
Tô Thùy Yên ơi! Thơ ông và đời ông không phải một bóng trên
đường nữa. Biết bao người đã và đang tìm đến, tìm thấy sự đồng điệu tâm hồn với
ông. Đọc thơ ông mà đồng cảm, đồng vọng. Đất nước đã hòa bình rồi, hãy lật vạt
áo lên mà xem cuộc đời đã đề thơ trên đó, sẽ thấy những vần thơ ông viết hiện
ra trên đó bằng cả sự dạt dào cảm xúc với sự sâu lắng của trải nghiệm, cho dù vạt
áo ấy đã tàn phai năm tháng và bao cung bậc buồn vui của cuộc đời.
Tôi không trở về câu chuyện của hơn 60 năm trước khi Tô Thùy
Yên xuất hiện như một trong những thi sỹ có diện mạo riêng trong tạp chí văn
nghệ Sáng tạo phát hành ở Sài Gòn số 1 vào tháng 10/1956 đến tháng
9 - 1959 thì dừng lại. Cả thảy được 31 số. Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyến muốn
tìm một hướng phát triển mới của thơ Việt trên con đường tìm về thơ tự do. Gần
giống với câu chuyện thơ tự do - thơ không vần của Nguyễn Đinh Thi ở núi rừng
Việt Bắc hồi năm 1949. Nhưng dường như, bên cạnh các tên tuổi như Vũ Hoàng
Chương thì Thanh Tâm Tuyến, Tô Thùy Yên,… được độc giả miền Bắc đọc nhiều hơn cả.
Có thể cả Nguyên Sa, Bùi Giáng nữa. Sau năm 1975, có người nói rằng, thi ca miền
Nam trước 1975 là sự kéo dài của thơ mới 30 - 45. Tôi không cùng quan điểm đó,
mặc dù ngay cả đọc thơ Tô Thùy Yên đặc biệt thành công ở thể thơ bảy chữ trên
những khổ bốn dòng đều đặn của ông, ta nghe như âm hưởng của thể thơ này rất
thành công ở thời thơ mới được dóng dả lại với một nguồn cảm hứng đa thanh đa sắc.
Và đôi khi tôi cũng có cảm giác mơ hồ như gặp lại Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược
Pháp, khi Tô Thùy Yên trở về ngôi nhà cũ trong hoài niệm tuổi hoa niên.
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi.
Hoặc tâm trạng đợi mà chẳng đợi như buổi sáng rừng vô minh thức
giấc canh gà giữa miền ý thức mơ hồ không xác định bởi sự hoang sơ:
Ta đợi mơ hồ như chẳng đợi
Nhưng đọc thơ tuyển Tô Thùy Yên, cảm thấy dường như ông càng
ngày càng đi xa hơn điểm xuất phát ban đầu - những năm cuối của thập niên 50 - Thơ tự do, để trở về với thơ trường thiên, chỉn chu và đều đặn 7 chữ 4 dòng thật
quy cũ mà tạo ra sự khác biệt nổi trội, để thơ ông tràn ngập không khí cổ thi.
Mọi người còn nhớ rõ, phong trào thơ mới (1930-1945) vắng bóng thơ trường
thiên. Ngoại trừ trường hợp Phạm Huy Thông với Tiếng địch sông Ô và
Nguyễn Nhược Pháp với Chùa Hương và Sơn Tinh Thủy Tinh. Trong những
bài thơ nửa sau thế kỷ XX của Tô Thùy Yên, phần lớn là thơ trường thiên, thơ
dài mà không phải truyện thơ. Ở đó, ông đã để chất tự sự vốn có và là thế mạnh
của truyện thơ trung đại, nhường chỗ cho khoảng rộng mênh mông của cảm xúc và
suy tưởng. Thơ ông là cả một miền bình nguyên của tâm trạng kết hợp với những
hình tượng thơ độc đáo. Phải là những nhà thơ có tài năng mới viết hay được loại
thơ này, Tô Thùy Yên đã làm được điều đó - điều mà không nhiều nhà thơ đương đại
Việt Nam đã làm. Hoặc giả là họ không chuộng làm theo hướng đó. Hãy xem. Ta
trở lại căn nhà cỏ, năm 1972 – 96 câu; Rồi tất cả sẽ nguôi ngoai –
tháng 7/1972 – 68 câu; Chiều trên phá Tam Giang tháng 6/1972 – 153
câu; Trường Sa hành – tháng 3/1974 – 64 câu; Mùa hạn – 1979
– 188 câu; Tàu đêm – 1980 – 108 câu; Ta về - tháng 7/1985 –
124 câu; Ánh tàn dư – 166 câu; Giã biệt – 1993 – 225 câu…
Trong số này, Trường Sa hành, Ta về… đã ghi danh tên tuổi Tô Thùy Yên
trong gia phả thi ca Việt Nam hiện đại. Loạt bài này cũng thể hiện quan niệm đầy
đủ của ông: “Thi ca là tiếng reo hứng khởi của cảm thức vừa bừng dậy của con
người trước những huyền nhiệm thiên hình vạn trạng của sự sống.” Có điều lạ,
tôi chưa tìm thấy dấu ấn Hòa Kỳ trong thơ ông.
Trở lại câu chuyện đến Hoa Kỳ ở Dallas. Tôi đã đi qua những
thành phố Mỹ. Thường là rất ngắn: Washington. Newyork. Memphis. Boston. San
Francisco. Los Angeles. Santa Clara. San Jose và cả thị trấn nhỏ thanh bình
Alexandria - ở bờ tây sông Potomac. Rất gần với trung tâm Washington. Tôi không
hiểu và không hình dung được chàng tình nguyện viên Tô Thủy Yên của chúng ta sẽ
sống như thế nào, có bao nhiêu độc giả thơ ở cái đất nước rộng mênh mông mà đâu
cũng hiện diện nét tài hoa hơn người này? Lịch sử đã sắp đặt Việt Nam và Hoa Kỳ
có duyên nợ với nhau, kể từ khi Thomas Jefferson mang giống lúa từ Việt Nam về
trồng ở các nông trại của ông ấy ở Virginia và hiện có hàng triệu đồng bào ta
đang sinh sống ỏ Mỹ. Nhưng để hiểu được nước Mỹ không phải là điều dễ dàng.
Thông tin từ Mỹ đến Việt Nam những năm 2000 trờ đi vô cùng thuận lợi. Nền
văn hóa Mỹ hàng ngày hàng giờ đến từng gia đình Việt Nam, nhiều hơn hẳn các quốc
gia khác qua các kênh truyền hình HBO, Cinemax, Star Movies, CNN, Discovery,
Sports, National Geographic ... và cả Internet nữa. Tuy vậy nước Mỹ rộng lớn vẫn
là điều chưa được hiểu nhiều lắm? Cùng một thời gian, các nhà lãnh đạo Mỹ nghĩ
gì? Nền khoa học và sản xuất Mỹ đang hướng tới điều gì cho hiện tại và tương
lai? Nước Mỹ đang nghĩ gì? Hẳn là những điều ấy rất khác so với nhiều nơi trên
thế giới. Khác không thể so sánh được. Một nhà thơ tài năng và trí giả vào bậc
nhất của thi ca Việt Nam hiện đại mà tôi vô cùng kính trọng và yêu mến, thời
chiến tranh chống Mỹ cứu nước có viết:
Ở nước Mỹ có cái dây thòng lọng
Lần đầu tiên đến Hoa Kỳ, trước khi gặp người bạn đeo kính gọng
vàng ở Dallas kia, tôi vẫn bị ám ảnh câu thơ đó. Nhưng rồi một lần, bên dưới ngọn
tháp bút chì trắng bạc uy nghiêm, đứng dưới trời xanh, tôi mải mê ngắm những
cành anh đào đang độ nở rộ vào tháng 4 xung quanh hồ Tide cũng như khu công
viên rộng lớn quanh đó, tôi nghĩ ngoài cái dây thòng lọng đó, nước Mỹ còn nhiều
thứ vũ khí khác, mà một trong số chúng không phải là hoa anh đào. Khác với ở Cu
Ba, ta cứ gặp 3 người một chỗ là y như là có cuộc mít tinh rồi. Còn ở Mỹ, có lẽ
họ trầm lặng hơn. Tuy không giống như ở Nga và vùng Bắc Âu ta luôn nhìn thấy
nét trầm buồn trên những cánh rừng và nóc các tòa pháo đài cổ xưa, trong khi đọc
văn của L.Tonxtoi và H. Andersen tôi luôn có cảm tưởng lấp lánh đâu đây ánh mặt
trời và sự tan chảy của những dòng nước mùa xuân. Dường như so với ở Australia
và New Zealand, người Mỹ hay nói nhiều hơn hai từ “for what?” Để làm gì? Vì cái
gì? Cho cái gì?... rất Mỹ. Tôi cố tìm một liên tưởng hay một ẩn dụ cho hai từ
đó mà chưa tìm được. Bỗng đâu, trên chuyến bay nội địa từ San Jose đi Los
Angeles hoặc từ Memphis đi San Francisco, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy người
tiếp viên hàng không là nam giới. Trạc độ tứ tuần. Béo. Thấp. Da bánh mật. Mặc
quần sóoc. Áo thun cộc tay, để lộ hai vòng kìm cuồn cuộn cơ bắp. Đầu húi cua.
Giống hệt một võ sỹ quyền anh. Anh ta lẳng lặng chẳng nói gì cầm cái rổ nhựa
chìa ra trước mặt khách. Những chiếc khăn giấy như run rẩy trong rổ nhựa. Vâng,
cần gì tiếp viên như ở những nơi khác là những cô gái xinh đẹp với những nụ cười
và lời mời chào thân ái. Để làm gì kia chứ? Không cần thiết? For what? Nhưng
cũng không ở đâu có óc tưởng tượng kỳ diệu như người Mỹ. Không có điều đó khoa
học và nghệ thuật chẳng làm được điều gì nên chuyện.
Trong một lần du thuyết ở Memphis trước vài trăm cử tọa, phần
đông là người Mỹ và cả một số bà con Việt kiều do đoàn luật sư Memphis tổ chức.
Vào đêm hôm trước, ông thị trưởng thành phố đã mời tôi phát biểu tại hội trường
Bảo tàng mục sư Luther King, ngay sát ban công tầng 2 nơi ông ấy bị bắn chết.
Trước khi đăng đàn, để làm hài lòng chúng tôi, một vị luật sư còn đóng giả ca sỹ
Elvis Presley rất giống. Tôi hăng hái vào cuộc. Các bạn hãy nhìn ra khung cửa
kính của Tòa lâu đài này, phía xa kia là dòng sông Mississippi vĩ đại, có một
cây cầu sắt hình cánh chim nối thành phố với bờ bên kia. Nơi đó là bang
Arkansas, quê hương của tổng thống Bill Clinton. Ở Hà Nội, vào tháng 7 năm
2000, ông ấy đã nói: Chúng ta không thể thay đổi được quá khứ. Cái mà
chúng ta có thể thay đổi được chính là tương lai. Tôi đến với các bạn cũng với
tinh thần đó,.v..v.. Khi kết thúc cuộc nói chuyện, hội trường đang vỗ tay rầm rập
bỗng đột ngột dừng lại. Một bé gái chừng 7,8 tuổi chạy thẳng từ dưới lên và
nói: “Ông ơi ông, em yêu ông lắm”. Mẹ cháu bé vội chạy lên và nói: “Cháu muốn
nói, cháu kính yêu ông lắm”. Có lần ở Boston, trong một bữa cơm ở nhà riêng của
một vị giáo sư già, ngay gần học viện Harvard. Đó là một tòa biệt thự cổ. Xung
quanh vườn đang mùa tháng 4, hoa lê nở trắng muốt, thật tinh khiết. Một người bạn
Mỹ hỏi: Vì sao trong lịch sử, người Việt Nam sau khi đánh thắng kẻ thù xâm lược
lại chủ động cầu hòa và xin triều cống? - Đúng vậy, người Việt Nam đã chủ động
cầu hòa, không phải vì sợ mà vì muốn hoa lê trong vườn kia không phải chỉ nở một
lần rồi tắt bởi chiến tranh. Nó cần nở hai lần và mãi mãi mỗi khi mùa xuân đến…
Chắc rằng Tô Thùy Yên khi nghe những chuyện này sẽ bảo tôi cũng như người đàn
ông đeo kính gọng vàng ở Dallas - cũng chỉ là một tình nguyện viên của xứ sở
mình mà thôi. Nhà văn Mỹ Mark Twain đã từng nói: “Cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn vô
cùng nếu chúng ta được sinh ra ở tuổi 80 và dần dần tiến đến tuổi 18”. Điều đó
là đúng. Nhưng nếu xảy ra như vậy thì người ta sẽ ít có cơ hội hơn để trở thành
một tình nguyện viên ngay từ lúc khởi đầu?
Bây giờ, làng ta, ngựa đá đã qua sông. Để có được điều
tưởng chừng như đơn giản ấy, hàng triệu người Việt Nam đã phải ngã xuống trong
thế kỷ 20. Bây giờ nhìn lại chúng ta mới thấy hết cái giá của chiến tranh. Cái
giá của hòa bình. Đất nước đã yên hàn. Bây giờ là sự trở về. Đúng như điều Tô
Thùy Yên thường tâm niệm và đau đáu cả một đời thơ. Giờ đây, người ta đã hát nhạc
Văn Cao và Trịnh Công Sơn ở những giáo đường văn hóa lộng lẫy nhất của đất nước
cũng như ở mọi làng quê xa xôi khắp Bắc Trung Nam, những khúc hát đoàn viên
khao khát hòa bình, và nhân ái. Đó là điều mà Tô Thùy Yên đã ao ước và dự báo từ
rất sớm, cách đây 30 năm - từ tháng 7 năm 1985, khi ông viết Ta về:
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.
Từ câu
nói của F.Nietzche làm đề tựa cho bài viết này, tôi nhớ đến câu chuyện cháu bé
nói tiếng Việt ở Memphis và trẻ con Việt Nam bây giờ ở các thành phố đô thị
không biết cái đèn dầu Hoa kỳ là gì. Có chăng chỉ còn trong sách vở và trên những
khám thờ heo hút ở làng quê xa xôi. Vậy mà nó đã từng là phương tiện thắp sáng
chủ yếu trong bóng đêm ở thế kỷ 20. Nó ám ảnh đời sống đến nỗi danh họa Bùi
Xuân Phái để tâm sức vẽ hàng trăm bức đèn dầu và cuốn nhật ký của ông có ghi
dòng đầu tiên và là tên gọi của cuối sách: Viết dưới ánh đèn dầu. Hồi thập
niên 50, Bùi Xuân Phái nói Tôi nghĩ mình là người có tài. Ba mươi năm sau,
ông ấy lại nói: Tôi ngờ mình là người có tài. Chắc giờ ông lại nói như hồi
1950. Và nếu ai hỏi Tô Thùy Yên, có lẽ ông cũng trả lời tương tự như vậy.
Hà Nội, mùa xuân 2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét