Tòa biệt thự của ông chủ Thắng tọa lạc trong một khuôn viên rộng
rãi, có vườn cây, non bộ, có hồ bơi xanh ngắt quanh năm. Ông chủ dáng người trẻ
khỏe, tươi tốt hồng hào, đôi mắt bé tí núp sau cặp kính cận dày cộp bốn phẩy bảy
mươi nhăm đi ốp. Sáng nào cũng vậy, sau khi thể dục xong, ông chủ Thắng lại dắt
đàn chó của mình ra cổng cho chúng đi vệ sinh quanh mấy gốc cây trên hè phố.
Đàn chó gồm năm con đen bóng và béo mượt, con nào cũng nhanh nhẹn, lừng lững
như những chú bê con. Đó là giống chó quý ngoại quốc có tên gọi Yalơ. Ngoài cái
dáng cân đối, to đẹp đến mức có người đã tặng cho bẩy chữ: “thiên hạ đệ nhất mĩ
cẩu chủng” (giống chó đẹp nhất thiên hạ), chúng còn có cái cơ quan phát âm hoàn
hảo và hiệu quả không chê vào đâu được. Chưa cần sủa, những con chó quý ấy chỉ
hộc lên một tiếng, là đã đủ cho những kẻ yếu bóng vía phải táng đởm kinh hồn.
Còn khi chúng cất tiếng sủa mới thật là kỳ vĩ. Cũng là thứ ngôn ngữ muôn đời của
loài chó thôi, nhưng những âm thanh phát ra từ những cuống họng đặc biệt ấy,
nghe như được tuôn ra từ những cống ngầm, cách xa hàng trăm bước vẫn có cảm
giác nó dộng thẳng vào màng nhĩ, làm âm u cả đầu óc đến nửa ngày chưa tan.
Ông chủ Thắng yêu quý đàn chó của mình lắm. Cứ nhìn cái vẻ hớn
hở, tự hào của ông mỗi khi đi giữa đàn chó thì biết. Cánh cổng vừa mở, đàn chó
hồng hộc lao ra như những con ngựa xổng chuồng, vừa hung hăng nhìn người đi đường,
vừa ngoái trông mặt ông chủ như chờ một mệnh lệnh. Ông chủ Thắng quỳ xuống một
chỗ, kêu từng con tới gần, hai bàn tay ông nhẹ nhàng và thành thạo lần lượt bóp
bóp, giải khai mấy cái huyệt nằm dưới háng chúng. Tại sao ngày nào ông cũng phải
làm những động tác này? Bởi giống chó Yalơ vốn có nhược điểm hễ cứ ghếch cẳng
sau lên là bị chuột rút, đau đớn không sao chịu nổi. Mà giống chó tính ưa sạch
sẽ, bài bản, không ghếch được một cẳng lên thì chúng không đái được. Vì thế nhà
nào nuôi giống chó Yalơ cũng phải học cách bóp huyệt như thế. Xong xuôi cái thủ
tục vật lý trị liệu ấy, đàn chó chạy tản ra, mỗi con chọn một gốc cây, ngửi ngửi
một tý cái chỗ ấy xem có xứng đáng không, đoạn đàng hoàng ghếch chân lên, ồ ồ
tương ra như suối. Ông chủ Thắng đứng một chỗ, chỉ huy cái cuộc bài tiết tập thể
ấy lẫm liệt như một vị tướng. Ông quan sát, nghe ngóng, thuộc lòng tính nết từng
con. Đến nỗi chỉ cần nghe tiếng đái, ông cũng biết con nào khoẻ, con nào có triệu
chứng trái gió, trở giời...
Chứng kiến tất cả những cảnh diễn ra hàng ngày ấy, phía bên
kia đường, là một gã ăn xin nằm khoèo trên vỉa hè. Gã xuất hiện ở đó từ ngày
nào không ai để ý. Chỉ biết rằng đó là một gã ăn xin đói khát, vừa rách rưới vừa
hôi hám. Sáng nào gã cũng nhìn đàn chó bên kia đường bằng cặp mắt mê mẩn, không
phải mê vẻ đẹp của chúng, mà là mê cái sự sung sướng ấy. Không biết từ lúc nào,
gã đã thuộc lòng cả những sự sung sướng diễn ra bên trong ngôi biệt thự kia. Những
con chó được nằm trong đệm mút êm ái, được tắm táp bằng thứ xà bông hảo hạng,
có người chuyên lo chải lông, bắt rận, có người chuyên lo việc ăn uống. Những bữa
ăn của chúng mới thật tuyệt vời. Mùa nào thức ấy, có khi là những miếng thịt bò
bít tết thơm điếc mũi, có khi là những khúc giò heo trắng nõn nà. Riêng cơm thì
chủ ăn gì, chó ăn nấy, cứ gọi là thả cửa, no đến kềnh bụng thì thôi. Từ khi làm
ăn phát đạt, ông chủ Thắng không hề tiếc tiền cho những thú chơi sang, đặc biệt
là chơi chó. Dân gian có câu: “dĩ hiếu vi sang” (lấy hiếu làm sang). Ông chủ Thắng
cũng là người con chí hiếu, ông đón bố từ dưới quê lên, thuê hẳn một bà già lo
săn sóc. Ông bố ngoài bảy mươi tuổi nằm bệt một chỗ, ăn ỉa phải có bà già ấy
nâng đỡ, quanh năm không được tắm rửa thành ra người hôi như cú. Cũng may mà
căn phòng ông nằm khuất hẳn phía sau, nên cái mùi ấy không ảnh hưởng gì đến
toàn cảnh sang trọng, thơm tho của ngôi biệt thự. Gã ăn xin đói khát chóp chép
miệng thèm thuồng. Gã ước gì được sướng như những con chó kia. Gã đâm ra nghĩ
ngợi vẩn vơ. Ôi, cái câu thành ngữ: “sướng như tiên” nếu quả có tiên thật, thì
đây chính là một thứ tiên bốn cẳng đang hiện hữu trước mắt gã, cần gì phải tìm
kiếm, tưởng tượng đâu đâu...
Có một điều mà những ông chủ của giống chó Yalơ như ông chủ
Thắng trên kia không hề hay biết. Ấy là cái lai lịch, gốc gác ly kì của chúng.
Phải lần ngược lại từ thời xa xưa, khi con chó Yalơ đầu tiên du nhập xứ này. Đó
là một con chó đực cường tráng, lạ mắt và to đẹp đến nỗi, đứng bên cạnh nó, những
con chó bản xứ đương thời trông mới nhỏ bé, xấu xí và thảm hại làm sao. Con
Yalơ tân kỳ không hiểu vì bản chất ngông nghênh hay do chưa kịp “nhập gia tùy tục”,
mà lại có một thói quen rất tệ hại. Nó cứ thích đứng ghếch một cẳng lên ngôi miếu
nhỏ cạnh bờ sông mà đái, đái mãi làm sụt cả nền đất, khiến ngôi miếu đổ lệch về
một bên. Ngôi miếu bé tí mỗi chiều không đầy bốn tấc, cao năm tấc, vừa đủ chứa
một bát hương cắm mấy chân nhang xiêu vẹo và một cái đĩa sành sứt mẻ, chẳng có
bài vị bài viếc gì ráo, ngay đến một nửa chữ cũng không. Chẳng ai biết ngôi miếu
ấy thờ cái gì, nhân sự kiện gì mà lập nên. Cứ tưởng rằng đã là miếu, thì dù lớn
nhỏ gì cũng tất có thần chủ, té ra không đơn giản như thế. Chỉ biết rằng lúc nó
bị nghiêng thì tiếng chuyển nghe ầm ầm, cả một vùng xung quanh tưởng như có động.
Thổ địa vùng ấy biết việc không thể xem thường, bèn lật đật tới tận nơi xem
xét, mới hay con chó trứ danh kia làm bậy...
Điều khó tin nhưng có thật là đến cả thổ địa cũng quan liêu
không biết thần chủ của ngôi miếu ấy là ai. Thấy nó tọa lạc gần bờ sông thì
đoán chắc là thờ một vong hồn chết trôi nào đấy. Bèn giở danh mục chết trôi từ
những năm tý, năm sửu... ra tra xét. Danh sách biên chép rõ ràng các loại chết
trôi sấp, trôi ngửa, trôi vùn vụt, trôi lờ đờ, trôi do lụt lội, trôi do trượt
chân... từng qua vùng này kể tới hàng ngàn. Song tất cả nếu chưa kịp đầu thai
thì cũng đều có nơi, có chốn, tịnh không có vong hồn nào trú ngụ nơi đây. Lại
giở các danh mục khác ra. Toàn những kiểu chết bất đắc kỳ tử, nào là chết do loạn
lạc, bị tên bắn dao đâm, chết do đói khát, do chán sống hay oán hận vì tình, chết
theo kiểu quăng xác nơi chợ búa, ngòi rãnh hay treo mình lủng lẳng trên cây...
Những số này đông không kể xiết. Thế mà cũng tuyệt không lần ra manh mối. Cái
miếu đó té ra để nguyên thì cứ tưởng là có chủ, đến khi bị nó đái đổ mới hay chẳng
phải của ai. Tóm lại đó là một ngôi miếu hoàn toàn vô tích sự, do ai lập nên
thì chắc chỉ người ấy mới hiểu rõ lý do.
Việc đến đây lẽ ra có thể xí xóa cho xong, con chó Yalơ ngoại
quốc kia kể như vô sự. Song thổ địa ấy vốn có tính cẩn thận, chu đáo xưa nay, lại
cảm thấy có gì không ổn, suốt ngày đêm cứ áy náy trằn trọc, tâm thần hoảng hốt
không yên. Bèn làm sớ tâu đến thành hoàng. Vị thành hoàng quả nhiên sáng suốt
cao minh, lại sẵn có chủ kiến rõ ràng, hơn hẳn những thổ địa kiến thức hẹp hòi,
nông cạn. Miếu không có thần chủ thì là... miếu chung chứ sao. Ngay lập tức,
thành hoàng xếp vụ này thuộc vào loại trọng án, sai lâu la áp giải linh hồn con
chó Yalơ ấy tới xét xử. Lâu la một tay cầm chiếc rọ, một tay cầm quạt lông tới
trước cổng nhà chủ khẽ phẩy một cái, linh hồn con chó rời khỏi chỗ nằm, nghiêng
ngả lướt qua hàng rào, rồi mờ mịt chui tọt vào chiếc rọ. Lâu la đóng nắp lại,
dùng ngón tay trỏ nhấp nước bọt viết lên một chữ: “niêm” rồi mang về
trình thành hoàng.
Bấy giờ vong hồn các xứ nghe tin có kẻ dám đái đổ miếu thờ,
thì tất thảy đều nghiến răng căm giận, bèn rủ nhau rùng rùng kéo tới hò hét ầm
ĩ, đòi thành hoàng phải xử thật nghiêm. Đến khi biết cái miếu đó vốn không phải
của ai, mấy lâu nay hương khói lạnh tanh, chẳng khác gì những thứ vô tri vô
giác vẫn tồn tại trên đời, thì lại bấm nhau tản đi hết mà không thèm quan tâm tới
nữa. Con chó Yalơ kia quả không hổ là giống chó ngoại danh tiếng, ít nhiều có
chút kiến thức học mót được từ nơi xuất xứ. Nay thấy mình đột nhiên
trở thành tội nhân bị đưa ra xét xử, nó lớn tiếng đòi phải có luật sư bào chữa,
hay ít ra cũng có quyền tự cãi để bảo vệ cho mình. Cũng may bấy giờ nền luật
pháp của cõi âm u cũng có nhiều tiến bộ, yêu sách của con chó nhanh chóng được
chấp thuận. Cáo trạng dài ngót trăm trang quy con chó Yalơ phạm tội đái đổ miếu
thờ, báng bổ thần linh, làm cho vong hồn mất nơi nương tựa, có nguy cơ xói mòn
cả tín ngưỡng nhân gian... Việc ấy nếu cứ tiếp diễn thì không những cõi âm u mất
nơi trông cậy, mà ngay cả cõi trần cũng khó bề yên ổn được tâm linh...
Cáo trạng tuy đanh thép, song còn có chỗ hớ, đó là không nêu
được đích danh kẻ bị hại là ai. Con chó Yalơ láu cá vin vào chỗ hớ ấy, cãi lấy
cãi để, lớn tiếng đòi được chất vấn kẻ bị hại kia. Thành hoàng xem ra đuối lý,
liếc mắt nhìn tả hữu, mong có ai đứng ra tự nhận mình là người bị hại, tiếc rằng
đám tả hữu lúc trước to mồm là thế, nay nhất tề ngoảnh mặt làm ngơ, vong hồn
các xứ thì đã lảng hết cả rồi. Thật là trần sao âm vậy, những câu: “cháy nhà
hàng xóm bình chân như vại” hoặc: “cha chung không ai khóc”... lại đúng cả với
cõi âm u. Thành hoàng cay đắng nhìn cái vẻ ngông nghênh của gã chó Yalơ kia mà
sôi tiết, muốn quật cho nó hộc máu ra mà chưa biết phải xử trí thế nào, một kẻ
dám báng bổ dường ấy, chẳng lẽ đành phải xử trắng án hay sao?...
Bấy giờ thành hoàng có một vị mưu sĩ họ Giả tên Sử, thường gọi
là Giả Sử tiên sinh. Vị này vốn là một tay học trò có tiếng hay chữ, nhưng cứ động
thi là rớt oành ọach. Có người đùa mới vỗ vào bụng mà bảo: “cái bụng lắm chữ
này sao cứ thi rớt mãi như thế?”. Tiên sinh phẫn chí quá bèn lấy dao tự mổ bụng
ra, tính moi hết chữ vứt đi cho hả giận. Ai ngờ mổ bụng rồi bới mãi, chữ đâu
chưa kịp thấy thì hồn đã về chín suối. Thành hoàng thương là kẻ chết oan, lại
thấy tay kẻ sĩ hụt ấy có vẻ đa mưu túc trí nên giữ lại làm cố vấn bên cạnh
mình. Giả Sử tiên sinh thấy mọi người cố tình lảng tránh, trong khi thành hoàng
đang hết sức tức giận, bèn tiến ra nói:
- Ngươi đã thừa nhận rằng đó là một ngôi miếu, thì dù không
biết chủ của nó là ai, cũng không được phép đái vào. Đó có phải rõ ràng là báng
bổ hay không? Huống chi ngươi từ nơi xứ lạ qua đây, chưa quen phong tục, không
biết lễ nghi, những gì không biết thì lại càng không được động tới. Nay ngươi
dám đem cái thứ luật pháp ngoại quốc nào đó ra, giữa nơi tôn nghiêm mặc tình la
lối, thái độ nhơn nhơn, dương dương tự đắc, thật không coi kỷ cương, phép tắc
ra gì. Chỉ nguyên tội ấy, cũng đáng phải xử ngươi trăm vạn lần...
Thành hoàng nghe nói mừng quá, bèn nhân đà nương theo mà quát
tháo, sai lâu la rọ mõm con Yalơ lại, không cho cãi nữa, khép vào tội đem vứt
trôi sông, án lệnh lập tức thi hành. Con Yalơ có vẻ vùng vằng không phục, song
mõm bị cột chặt rồi, không làm sao cãi thêm được, bèn lấy lại tư thế,
tỏ ra coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nó lừ lừ quay đầu theo lâu la, ra vẻ phớt
tỉnh sự đời, cong cái đuôi lên, đường hoàng bước ra khỏi cửa.
Con Yalơ đi rồi, thành hoàng và đám tả hữu thở phào như vừa
trút xong gánh nặng, nét mặt ai cũng có vẻ hả hê trông thấy. Chỉ có một người vẫn
tỏ ra đăm chiêu. Chính là vị Giả Sử tiên sinh kia. Chợt nghĩ ra điều gì, tiên
sinh vội nói:
- Không xong rồi. Án tuyên như thế, xem ra còn có chỗ hớ. Nó
đã tỏ thái độ không sợ chết, thì ném trôi sông phỏng có ích gì. Chưa kể thế
gian bây giờ còn nhiều mê lú, thấy xác chó chết trôi, biết đâu người ta lại vớt
nó lên, có khi còn lập miếu thờ nữa thì thật là tai hại. Thế thì bản án lại
thành ra một cách phong thần không công cho nó hay sao?
Thành hoàng và mọi người nghe nói ngớ ra vội hỏi
- Thế thì phải làm thế nào bây giờ?
Tiên sinh mặt vẫn đăm chiêu, vừa ngẫm nghĩ đến đâu, vừa nói
ra đến đấy:
- Nó đang sướng, bắt phải khổ, cho tiệt cái thói ngông
nghênh. Nó đang có chủ, bắt phải vô chủ, đang mượt mà, bắt phải lở lói, đang no
ấm, bắt phải đói rách, đang có nhà, bắt phải đi hoang... Thế thì chỉ có thể là
lốt người, một lốt người sống kiếp ăn xin...
Thành hoàng lại mừng quớ lên. Vội vàng sai người đi gọi ngay
gã lâu la kia đem con chó Yalơ về để xử lại, hóa phép cho nó phải mang lốt một
kẻ ăn xin. Tại sao vừa mới xử xong lại có thể thay đổi ngay như thế? Chuyện
bình thường ở cõi âm u. Cũng như những giấc mơ, cứ việc tha hồ thay đổi xoành
xoạch mà có sao đâu. Con Yalơ đã bị trói túm bốn vó, chuẩn bị quẳng xuống sông.
Người đi gọi may vừa tới kịp, bèn cùng gã lâu la kiếm đòn khiêng xỏ vào giữa bụng
nó, lủng lẳng khiêng con chó về lại công đường...
Nói về nhà chủ của con Yalơ, buổi sáng hôm đó thức dậy, không
thấy con chó quý của nhà mình đâu, lại thấy bên cạnh chiếc ổ bằng đệm mút vẫn
dành cho nó, lù lù một gã ăn xin vừa lở lói, vừa rách rưới, ruồi nhặng bâu đầy
người, hôi hám không sao chịu được. Cả nhà ấy hoảng hồn vừa kinh sợ, vừa ghê tởm,
vội vàng vớ lấy gậy gộc, xua đuổi bằng được gã ăn xin kia ra khỏi nhà...
Về phía thành hoàng, từ khi xử lại bản án phạt con chó Yalơ
biến thành gã ăn xin, thì có vẻ hả hê, đắc ý, cho là đáng đời cái thứ ngoại lai
láo xược. Bất ngờ lại phát hiện vẫn còn một chỗ hớ chết người. Thì cũng lại từ
vị Giả Sử tiên sinh kia. Tiên sinh đưa ra ý kiến, rằng bây giờ đang gặp thời loạn
lạc, chính là lúc vật đổi, sao dời. Người ta sống ở đời vào những lúc như thế
này, có thể lên voi, xuống chó không sao mà lường trước được. Dân gian có câu:
“chó nhảy bàn thờ”. Gă ăn xin kia chắc gì đã cam chịu mãi kiếp ăn xin, lại vốn
có chút kiến thức tân kỳ, biết đâu gã chẳng gặp thời mà lộn kiếp giống như khối
kẻ khác, mà đổi đời làm nên công hầu khanh tướng, thì cái hình phạt kia chẳng
hoá ra lại may mắn cho gã lắm hay sao...
Thành hoàng nghe bàn chợt tỉnh ngộ, giật mình đến toát cả mồ
hôi. Bèn bấm đốt ngón tay, tính ra thì con chó Yalơ kia đã sống kiếp ăn xin được
bẩy bẩy bốn mươi chín ngày. Lập tức truyền cho đòi linh hồn gã ăn xin tới, sửa
lại bản án lần thứ hai. Đó là bắt trở về kiếp chó Yalơ như cũ, song yểm vào hai
bên háng nó hai cái huyệt, để mỗi khi ghếch chân lên đái, sẽ bị chuột rút mà
đau đớn toàn thân. Từ đó giống chó Yalơ phải mang cái hình phạt chuột rút ấy di
truyền tới mãi tận con cháu sau này. Cũng may đó là giống chó quý, ai cũng mong
có nó để làm sang, cho nên người ta đã nhanh chóng tìm ra phương pháp giải hai
cái huyệt đó, thành ra không ảnh hưởng gì đến sự sinh sôi, nảy nở của nòi giống
chúng sau này...
Từ con chó Yalơ đầu tiên du nhập ấy, truyền đến đàn chó năm
con của ông chủ Thắng bây giờ tính ra phải đến mười lăm, mười sáu đời. Không hiểu
sao gã ăn xin bên kia đường lại biết rõ cái gốc gác tổ tiên ấy của chúng. Đó là
một bí ẩn không ai biết được. Gã đặc biệt ghi nhớ quãng thời gian ngắn ngủi bốn
mươi chín ngày làm kiếp ăn xin của con chó Yalơ tổ tiên kia. Gã lại tiếp tục
nghĩ ngợi vẩn vơ. Biết đâu trong bốn mươi chín ngày ấy, gã ăn xin - Yalơ kia
cũng kịp để lại nòi giống thì sao? Nếu thế thì lại biết đâu gã chính là một
trong số hậu duệ của nó? Nghĩa là gã cũng có họ hàng, bà con với đàn chó tiên cảnh
bên kia đường(!). Nghĩ đến điều đó, gã cảm thấy sướng rơn người. Một hy vọng được
đổi đời, đổi kiếp sống chợt loé lên, dần dần choán hết tâm trí gã. Mặc kệ, gã cứ
tin chắc như thế, sống phải có niềm tin mới được, Gã đã có niềm tin, dù đang phải
sống một kiếp đi hoang. Gã bắt đầu nhìn đàn chó Yalơ kia bằng ánh mắt của một kẻ
họ hàng. Niềm tin của gã dần dần được củng cố. Đến nỗi một hôm, gã mơ gặp cụ tổ
ăn xin ấy. Cụ cũng rách rưới và hôi hám bò đến xoa đầu gã mà bảo rằng:
- Mi đúng là hậu duệ của ta. Đến mi là đời thứ sáu. Vì
mi có niềm tin, nên sẽ được trở về kiếp chó Yalơ danh tiếng. Cũng chỉ còn bốn
mươi chín ngày nữa thôi. Có điều hãy tránh xa các ngôi miếu, dù đó là miếu
hoang. Đừng bao giờ lặp lại cái tội lỗi của ta...
Gã ăn xin sướng đến mê ly. Gã mong cho chóng đến cái ngày ấy.
Gã sẽ trở thành có chủ, có chăn ấm, nệm êm, được ăn uống no nê, sướng miệng, khỏi
phải suốt ngày lê la nhặt nhạnh, chịu cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Từ hôm
đó gã nằm bẹp ở một góc vỉa hè, sống bằng niềm tin, niềm hy vọng đang làm nở
nang từng khúc ruột. Nụ cười tươi đã bắt đầu xuất hiện trên môi gã, làm sáng bừng
khuôn mặt dúm dó, sáng bừng cả góc vỉa hè vốn tối tăm, ẩm ướt nơi gã nằm. Hiện
tượng quái đản đó thỉnh thoảng làm người đi đường phải giật mình để ý. Người ta
kháo nhau rằng chỗ đó hình như có ma, giữa ban ngày nó cứ nằm trông ra đường, vừa
giương mắt nát người đời, vừa nhe răng cười nhăn nhở...
Phía bên kia đường, năm con chó Yalơ vẫn vô tư hưởng những sự
giàu sang, sung sướng dành cho chúng, vẫn hàng ngày tung tăng thăm viếng các gốc
cây và thỉnh thoảng ra oai bằng những tiếng sủa làm rợn cả lòng người. Có vẻ
như chúng không hề nhận ra rằng có một kẻ mới nhận ra mình có họ hàng với
chúng, đang nằm dài đếm từng ngày, từng giờ, mong trút bỏ lốt người để được nhập
vào cái đàn quý phái ấy.
Thế rồi thời khắc kỳ diệu mà gã ăn xin hằng tin kia cũng đến
gần. Còn đúng một ngày một đêm, chính xác là không đầy hai mươi bốn tiếng đồng
hồ nữa, gã sẽ thoát khỏi cái kiếp người không nhà cửa, đi hoang, đói rách này,
để trở lại làm kiếp chó Yalơ tiên cảnh kia. Gã sung sướng, hồi hộp đến lịm đi.
Gã đâu biết rằng nguồn dinh dưỡng ít ỏi còn lại trong cơ thể gã, thực ra cũng
chỉ đủ để duy trì sự thoi thóp của gã đúng bằng cái thời hạn ấy. Song điều đó
cũng không sao, gã vẫn còn kịp chán. Miễn là đúng lúc ấy, gã được trở thành một
chàng chó Yalơ, được nhập vào cùng đàn với những anh em máu mủ kia, thì sự no đủ,
khỏe khoắn sẽ lập tức đến với gã ngay.
Thời gian cứ nhích dần, nhích dần. Chỉ còn vài giờ nữa... Gã
cảm thấy “ông tổ ăn xin” lần trước đang bò đến gần. Dễ hiểu thôi, “ông” đến để
chứng kiến cái giờ phút thiêng liêng, cái giờ phút gã trút bỏ lốt người... Chợt,
gã bỗng phân vân tự hỏi: không biết nên trở về lốt chó từ đầu xuống trước hay từ
dưới chân lên? Điều này trong suốt những ngày chờ đợi, gã không hề nghĩ đến.
Như thế nào cho phải đây? Gã bỗng cảm thấy mình bị tách ra làm hai phần, đang
chứng kiến cuộc tranh nhau giữa phần đầu và phần chân của chính gã. Phần đầu gã
hung hăng:
- Phải biến thành chó từ đầu xuống mới công bằng. Chính ta đã
lưu giữ cái gien di truyền kia từ suốt bao nhiêu đời. Ta đã chán ngấy cái lốt
người, nay ta phải trở về lốt chó trước...
- Không được - phần chân gã gào lên - phải biến từ chân lên mới
đúng. Để ta còn đủ sức phóng qua con đường này, chui vào trong biệt thự kia mà
nhập bọn với đàn anh em của ta...
- Nếu ta không giao cái gien di truyền mà ta đang giữ đây,
thì làm sao các ngươi trở về lốt chó được. Tại sao lại tranh nhau với ta - phần
đầu cố gắng cãi.
- Ai dám đảm bảo rằng khi đã mang lốt chó, ngươi không quên
chúng ta? Nhất là khi có được cái mũi thính của giống Yalơ danh tiếng, thì mùi
thức ăn dù có ở cách xa đây vạn dặm, cũng đủ làm cho ngươi mê lú mất rồi. - Phần
chân lập tức đáp trả.
- Ta chưa bao giờ trông thấy một con người mang cặp chân tay
chó cả - phần đầu tiếp tục cãi - điều đó làm cho ta xấu hổ đến chết mất. Dù chỉ
còn một khoảnh khắc mang cái lốt đầu người, ta cũng không chịu nổi. Vậy phải để
ta biến thành chó trước cho xong.
- Thế chẳng lẽ chúng ta sẽ hãnh diện lắm khi phải mang trên cổ
một cái đầu chó hay sao? - phần chân cãi lại - điều đó gây phiền phức cho chúng
ta biết dường nào. Nhất là sẽ không biết lối mà đặt chân, tay vào đâu cho phải
phép...
Cứ thế chúng cãi nhau, tranh nhau được biến thành chó trước.
Phần đầu kiên quyết không nhường phần chân, phần chân cũng không chịu phần đầu.
Thân xác gã ăn xin rốt cuộc cứ phải trơ mãi cái lốt người như thế. Thời gian đã
nhích gần đến cái mốc cuối cùng. Sốt ruột vì cứ phải chứng kiến mãi cuộc tranh
giành, “ông tổ ăn xin” của gã buồn bã lên tiếng:
- Xem kìa, tại sao lại tranh nhau. Thời hạn đã hết rồi, sự sống
cũng không còn ở trong mi nữa. Bây giờ, dẫu có được trở lại lốt chó, thì mi
cũng không đủ sức vượt qua con đường này, không đủ sức nhập vào với đàn chó bên
kia. Rốt cuộc chỉ là một con chó chết mà thôi.
Nói xong, “ông tổ ăn xin” ấy quay lưng bỏ đi. Phần đầu và phần
chân gã nghe ra lập tức tỉnh ngộ, chúng thôi cãi nhau, lại nhập vào làm một như
cũ. Gã ăn xin cũng vừa tỉnh ngộ, vừa hoảng hốt thấy cơ hội không còn. Gã vội vã
gào lên van xin, tiếng gào đã không còn chút sinh khí, tắt lịm lại giữa chừng:
- Tôi van người, tôi xin người, hãy cho tôi mang lốt chó
Yalơ, dù chỉ còn là một cái xác...
Buổi sáng hôm ấy, đám đông dân chúng hiếu kỳ túm năm tụm ba đứng
từ xa chỉ trỏ, một chiếc xe hòm đỗ lại cạnh chỗ gã ăn xin. Mấy người đeo khẩu
trang từ trên xe nhảy xuống, họ lôi ra từ trong thùng xe một chiếc hòm gỗ xấu
xí, bỏ cái xác còng queo của gã vào, đậy nắp lại rồi dán lên phía trên một tờ
giấy có ghi dòng chữ: “VÔ THỪA NHẬN”. Xong xuôi, họ ì ạch khiêng chiếc hòm gỗ
lên xe rồi đóng sập cửa lại, chiếc xe rồ máy phóng đi. Đám đông cũng thôi chỉ
trỏ, dần dần giải tán. Phía bên kia đường, cánh cổng lại mở như thường lệ, đàn
chó năm con lại hùng dũng phóng ra, theo sát phía sau là ông chủ Thắng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét