Dân ca Khmer
Người Khmer (hay còn gọi là Khmer Krom, Khơ Me
K’rôm, Khơ-me Crộm, Khơ-me hạ, Khơ-me dưới) là bộ phận dân tộc Khmer sống
ở đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam. Danh từ này có thời gọi là người Việt gốc
Miên.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do
triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp
thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý… Lại có
những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum.
Khmer là từ được viết theo phiên âm tiếng Pháp. Tiếng Việt
phiên âm thành Khơ me trong khi các thư tịch cũ của người Việt dùng
danh từ Cao Miên (高棉) hay Cao Man. Trước năm
1975 còn có các tên gọi khác như Cul, Cur, Việt gốc Miên, Thổ…
Tộc Khmer ở Việt Nam là một dân tộc có nguồn gốc lịch
sử từ Đế quốc Khmer (Empire Khmer), Đế quốc Cao Miên hay Đế quốc
Angkor, là một cựu đế quốc rộng lớn nhất Đông Nam Á (với diện tích lên đến 1
triệu km², gấp 3 lần Việt Nam hiện nay) đóng trên phần lãnh thổ hiện nay thuộc
Campuchia.
Đế quốc Khmer, tách ra từ Vương quốc Chân Lạp, đã từng
cai trị và có phần đất phiên thuộc mà ngày nay thuộc lãnh thổ của các quốc gia:
Lào, Thái Lan và miền Nam Việt Nam.
Bản đồ Đế quốc Khmer cuối thế kỷ 12.
Sự khởi đầu của kỷ nguyên Vương quốc Khmer Angkor được cho là
bắt đầu từ năm 802 sau Công nguyên. Trong năm này, vua Jayavarman II đã tự xưng
“Chakravartin” (Hoàng đế của thiên hạ).
Trong quá trình tạo lập nên đế chế này, người Khmer đã có các
mối quan hệ thương mại với đế quốc Java và sau đó với đế quốc Srivijaya giáp
biên giới đế quốc Khmer về phía Nam. Di sản lớn nhất của Đế quốc Khmer là
Angkor – kinh đô của Đế quốc này vào thời cực thịnh của nó. Angkor là chứng
tích của sức mạnh và sự thịnh vượng của Đế quốc Khmer và cũng là hiện thân của
nhiều tín ngưỡng mà nó đã mang trong mình. Các tôn giáo chính thức của đế chế
này là: Ấn Độ giáo, Phật giáo Đại thừa cho đến khi Phật giáo Nam truyền chiếm
ưu thế sau khi được du nhập từ Sri Lanka vào thế kỷ 13.
Tuy nhiên tới năm 1431, cuối cùng thì Angkor thất thủ trước
quân Thái. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 là giai đoạn suy tàn liên tục và thu hẹp
đất đai của Đế quốc Khmer. Từ giữa thế kỷ 15, Đế quốc Khmer liên tục bị các cuộc
xâm lăng của vương quốc Ayutthaya (Thái Lan cổ) tàn phá. Angkor liên tục bị chiếm
đóng và tàn phá.
Sang đầu thế kỷ 17, Đế quốc Khmer có sự gắng gượng ổn định
đôi chút dưới thời vua Chay Chettha II, tuy không thể bằng các thời kỳ trước đặc
biệt là thời Angkor, với việc thành lập một thủ đô mới tại Oudong năm 1618. Vua
Chey Chettha II đã mở rộng quan hệ với chúa Nguyễn ở Đàng Trong của Việt Nam, để
cân bằng ảnh hưởng từ vương quốc Ayutthaya của Thái Lan. Ông đã cho phép một số
ít người Việt đến sống tại Prey Nokor (sau này là Sài Gòn). Bằng sức ép lên đất
nước còn đang suy yếu, vua chúa Việt Nam từ từ chiếm được tất cả các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long, bắt người Khmer phải đổi họ, tên theo tiếng Việt.
Bản đồ Campuchia (bảo hộ) và Nam Kỳ (thuộc địa)
của Pháp khoảng
năm 1863-1876 (thời kỳ đầu
Campuchia nằm dưới sự bảo hộ của Pháp 1863-1890).
Từ giữa thế kỷ 17 trở đi, Đế quốc Khmer trở nên suy yếu trầm
trọng trước hai láng giềng hùng mạnh và tham vọng bành trướng là Xiêm và Đàng
Trong (Việt Nam). Sự định cư của người Việt ở châu thổ sông Cửu Long từ đầu thế
kỷ 17 dẫn tới việc họ sáp nhập hoàn toàn vùng đó vào năm 1757, vì thế Đế quốc
Khmer mất một trong những vùng lãnh thổ trù phú nhất của họ.
Đến cuối thế kỷ 17, Đại Việt hoàn thành việc chiếm đóng vùng
đất Nam Bộ bây giờ. Chứng tích lịch sử này đã tạo nên sự cộng hưởng toàn bộ dân
số người Khmer vùng ĐBSCL trở thành một tộc trong tổng số 54 tộc anh em của Việt
Nam.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Khmer ở Việt
Nam có dân số 1.260.640 người, có mặt tại nhiều tỉnh ở Nam Bộ. Người Khmer cư
trú tập trung tại các tỉnh:
Sóc Trăng (397.014 người, chiếm 30,7 % dân số toàn tỉnh
và 31,5 % tổng số người Khmer tại Việt Nam)
Trà Vinh (317.203 người, chiếm 31,6 % dân số toàn tỉnh và 25,2 % tổng số người Khmer tại Việt Nam)
Kiên Giang (210.899 người, chiếm 12,5 % dân số toàn tỉnh và 16,7 % tổng số người Khmer tại Việt Nam)
An Giang (90.271 người)
Bạc Liêu (70.667 người)
Cà Mau (29.845 người)
Sài Gòn (24.268 người)
Vĩnh Long (21.820 người)
Cần Thơ (21.414 người)
Hậu Giang (21.169 người)
Bình Phước (15.578 người)
Bình Dương (15.435 người)
Trà Vinh (317.203 người, chiếm 31,6 % dân số toàn tỉnh và 25,2 % tổng số người Khmer tại Việt Nam)
Kiên Giang (210.899 người, chiếm 12,5 % dân số toàn tỉnh và 16,7 % tổng số người Khmer tại Việt Nam)
An Giang (90.271 người)
Bạc Liêu (70.667 người)
Cà Mau (29.845 người)
Sài Gòn (24.268 người)
Vĩnh Long (21.820 người)
Cần Thơ (21.414 người)
Hậu Giang (21.169 người)
Bình Phước (15.578 người)
Bình Dương (15.435 người)
Dân tộc Khmer là dân tộc chiếm 90% dân số tại Cambodia
(Campuchia). Dân tộc Khmer nằm trong nhóm các dân tộc dùng ngôn ngữ Mon-Khmer sống
trên khắp Đông Nam Á. Ngôn ngữ của người Khmer là tiếng Khmer. Đa số người
Khmer là tín đồ Phật giáo Khmer – một kiểu Phật giáo hòa trộn nhiều thành phần
của Ấn Độ giáo, thuyết vật linh (tục thờ cúng thần sông núi, cây cỏ…), và tục
thờ cúng tổ tiên.
Quần thể Angkor Wat của Đế chế Khmer.
Cụ thể hơn, Phật giáo của người Khmer là Phật giáo nguyên thủy,
tên phổ thông là Phật giáo Nam tông. Phật giáo Nam tông là Phật giáo gốc mà đức
Phật Thích ca khai sinh và các quan niệm Phật giáo, giáo lý cũng được người
Khmer bảo tồn nguyên vẹn. Nhiều người Khmer định cư ở các vùng lân cận tại Thái
Lan (Khmer Surin), và đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam (Khmer Krom).
Người Khmer thường có bề ngoài điển hình của người Đông Nam
Á, trông gần giống người Thái và người Lào. Tuy nhiên, người Khmer không thuần
chủng, bề ngoài có nhiều nét khác nhau, đó là do kết quả của nhiều thế kỷ pha
trộn với người Ấn Độ, người Mã Lai và người Trung Hoa. Các lễ hội chính của người
Khmer là:
- Đôn ta (lễ báo hiếu ông bà)
- Đua bò
- Chôl-chnam-thmay (lễ hội Năm mới)
- Óc-om-bok (lễ cúng trăng)
- Đua bò
- Chôl-chnam-thmay (lễ hội Năm mới)
- Óc-om-bok (lễ cúng trăng)
Các lễ hội Phật giáo:
Bayon
Ở Việt Nam thì người Khmer sống chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu
Long, Việt Nam thuộc các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên
Giang, An Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang,
Bến Tre được gọi là Khmer Crộm. Crộm là phiên âm tiếng Việt của tiếng Khmer, có
nghĩa là Dưới.
Người Khmer có 2 lễ lớn trong năm:
– Tết Chuôn Chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu
tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
– Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng
10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum – sóc.
Người Khmer thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông
nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt
trăng (ok ang bok).
Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến
5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ
tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con
cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên
nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít
năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc
lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại
nhiều tàn dư mẫu hệ. Tình trạng ngoại tình, đa thê, ly hôn, hoặc loạn luân giữa
những người có huyết thống trực hệ, ít khi xẩy ra vì tục lệ tuyệt đối nghiêm cấm.
Odong
Tục hoả thiêu sau khi qua đời của người Khmer đã có từ lâu đời.
Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp “Pì chét đẩy“, xây cạnh ngôi chính điện
trong các chùa.
Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước.
Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ
độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho
cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ.
Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm
cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng
để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải,
làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng),
bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không
màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp
(Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu
Long ưa dùng.
Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ
thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau,
củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm Ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ
Inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc,
các sọc, cá trê, tôm tép, mắm Pơ Inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng
nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối.
Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả,
ca ri…).
Trang phục dân tộc Khmer
Trang phục nam nữ Khmer trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ
tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những
người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả
đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc
vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú
rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái
quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ
cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt(váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ,
quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khmer (Wện) gần gũi với chiếc áo
dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ
trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn
miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của
người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền “tắc rán” hoặc
thuyền “đuôi tôm” chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua)
dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có
vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp
lễ Chào mặt trăng (OK-ang Bok – tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi
trong chùa, được cư dân trong các “Phum“, “Sóc” coi như vật thiêng.
Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc
nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo Nguyên thủy (Thérévada),
ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu
chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú – những dấu
vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Người Khmer có cả một kho tàng văn hóa phong phú về truyện cổ
như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân
khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc ấn Ðộ, vừa
có nguồn gốc Ðông Nam á. Nổi tiếng nhất là thể loại trường ca Riêm kê là
thể loại sáng tác bằng thơ ca dân gian dài hàng vạn câu. Cốt truyện chủ yếu vay
mượn từ sử thi Ramayana của Ấn Độ.
Người Khmer còn có “Dàn nhạc ngũ âm” và các nhạc cụ truyền thống
tạo ra các tác phẩm độc đáo mang đậm phong cách giống Thái Lan và Lào tương tự
nhau.
Dưới đây mình có các bài:
– Đế quốc Khmer bị diệt vong như thế nào?
– Sắc màu văn hóa truyền thống dân tộc Khmer
– Một số đặc điểm nghệ thuật dân tộc của người Khmer Nam Bộ
– Múa Rô Băm – một thời vàng son trong đời sống tinh thần của người Khmer xưa
– Đặc sắc Lễ hội Thắk Kôông của người Khmer, Sóc Trăng
– Lễ ngàn núi của người Khmer Nam Bộ
– Lễ hội Xuống đồng của người Khmer Bình Phước
– Nét đẹp văn hóa trong lễ hội thả diều sáo của người Khmer, Bình Phước
– Độc đáo Lễ cầu an của người Khmer
– Trang phục của dân tộc Khmer
– Nét tương phản trong kiến trúc của người Khmer
– Bún nước lèo – Đậm đà hương vị ẩm thực Khmer
– Cốm dẹp – món ăn dân dã của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long
– Sắc màu văn hóa truyền thống dân tộc Khmer
– Một số đặc điểm nghệ thuật dân tộc của người Khmer Nam Bộ
– Múa Rô Băm – một thời vàng son trong đời sống tinh thần của người Khmer xưa
– Đặc sắc Lễ hội Thắk Kôông của người Khmer, Sóc Trăng
– Lễ ngàn núi của người Khmer Nam Bộ
– Lễ hội Xuống đồng của người Khmer Bình Phước
– Nét đẹp văn hóa trong lễ hội thả diều sáo của người Khmer, Bình Phước
– Độc đáo Lễ cầu an của người Khmer
– Trang phục của dân tộc Khmer
– Nét tương phản trong kiến trúc của người Khmer
– Bún nước lèo – Đậm đà hương vị ẩm thực Khmer
– Cốm dẹp – món ăn dân dã của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long
Cùng với 16 clips tổng thể nền văn hóa đặc thù của một dân tộc
đã có một lịch sử vương triều với nền văn minh thuộc một trong những vương quốc
hùng mạnh có một không hai một thời trong vùng Đông Nam Á để các bạn tiện việc
tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
Đền thờ Angkor Wat là một trong những di sản của đế quốc
Khmer.
Đế quốc Khmer bị diệt vong như thế nào?
(Minh Long)
Biến đổi khí hậu có thể là nguyên nhân gián tiếp dẫn tới sự sụp
đổ của vương quốc Khmer tại Campuchia cách đây gần 600 năm.
Đế quốc Khmer từng trải dài trên phần lớn lãnh thổ Đông Nam Á
từ năm 801 tới năm 1400 trước khi biến mất đột ngột. Livescience khẳng định đây
là một trong những nền văn minh vĩ đại nhất trong lịch sử loài người trước khi
nó suy vong. Trong nhiều thập kỷ qua giới sử học đưa ra vô số lời giải thích về
sự diệt vong của đế quốc Khmer. Một số chuyên gia cho rằng nguyên nhân là cuộc
xung đột với các quốc gia khác, trong khi nhiều người khẳng định đế chế này bị
tiêu diệt do đất đai thoái hóa.
Nhưng, theo Livescience, Brendan Buckley – một chuyên gia về
khí hậu của Đại học Columbia, Mỹ đã tìm ra bằng chứng đáng tin cậy về việc đế
quốc Khmer suy vong do thiếu nguồn nước dành cho sản xuất nông nghiệp và sinh
hoạt. Tình trạng đó khiến hệ thống thủy lợi quy mô lớn của Angkor – kinh đô của
đế chế – tê liệt, trong khi hệ thống này rất quan trọng với nền kinh tế nông
nghiệp. Thủ phạm gây nên tình trạng khan hiếm nước là hai đợt hạn hán nghiêm trọng
do biến đổi khí hậu gây nên.
Buckley và các đồng nghiệp đã dựng lại bức tranh khí hậu
trong khu vực xung quanh kinh đô Angkor của đế chế Khmer cổ bằng cách nghiên cứu
những vòng tròn bên trong thân các cây bách tại một vườn quốc gia gần đó. Những
vòng tròn cho thấy vương quốc này từng trải qua một đợt siêu hạn hán kéo dài tới
ba thập kỷ – từ khoảng năm 1330 tới năm 1360. Sau đó đó vương quốc còn hứng chịu
một đợt hán hán khắc nghiệt hơn nhưng ngắn hơn trong khoảng thời gian từ năm
1400 tới năm 1420. Buckley cho rằng hai đợt siêu hạn hán có thể khiến mùa màng
thất bát và bệnh truyền nhiễm lan rộng – hai thảm họa đối với một đất nước có mật
độ dân số lớn. Thế rồi tới năm 1431, vương quốc sụp đổ sau một cuộc tấn công của
nước Xiêm (Thái Lan ngày nay).
Đền thờ Angkor Wat là một trong những di sản của đế quốc
Khmer.
“Vào thời đó kinh đô Angkor đối mặt với hàng loạt vấn đề xã hội,
chính trị và văn hóa. Sự thay đổi lớn của môi trường đã đẩy người dân Khmer tới
giới hạn cuối cùng trong khả năng chịu đựng và họ không thể thích nghi được với
thay đổi ấy. Tôi không nói biến đổi khí hậu là nguyên nhân trực tiếp khiến nền
văn minh Khmer cổ sụp đổ, nhưng chắc chắn một đợt hạn hán kéo dài tới 30 năm phải
gây nên một tác động nào đó”, Buckley phát biểu.
Nhóm của Buckley cũng tìm thấy bằng chứng về những mùa mưa mạnh
khiến hệ thống thủy lợi của kinh đô Angkor bị phá hủy. Trong mùa mưa bình thường,
hệ thống thủy lợi khổng lồ – gồm kênh rạch, đê, hồ chứa nước – của Angkor có thể
chịu được lượng mưa lớn. Nhưng sau một đợt siêu hạn hán kéo dài, hệ thống ấy có
thể bị hủy hoại.
Các chuyên gia cho rằng El Niño, được tạo nên bởi sự ấm lên của
dòng nước ấm ở phía đông Thái Bình Dương khiến một lượng hơi nước rất lớn bay
vào không khí, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn những mùa mưa ở
khu vực xung quanh Angkor khiến hạn hán kéo dài.
“Chúng ta cần nhớ rằng các nền văn minh vẫn có thể bị tổn
thương trước biến động của khí hậu”, Kevin Anchukaitis, một thành viên trong
nhóm nghiên cứu, phát biểu.
Nhiều nghiên cứu trước đây chứng tỏ rằng những thay đổi đột
ngột về môi trường có thể đẩy các nền văn minh cổ tới tình trạng diệt vong. Nền
văn minh của người Anasazi ở phía tây nam nước Mỹ, đế chế của người Maya ở
Trung Mỹ và vương quốc Mesopotamia (phía tây nam châu Á ngày nay) của người
Akkadian là những nền văn minh biến mất vì biến đổi khí hậu.
Sắc màu văn hóa truyền thống dân tộc Khmer
(Thạch Nam Phương)
Dân tộc Khmer là một dân tộc có mặt sớm ở vùng đất Nam bộ,
nhiều ngôi chùa của đồng bào người Khmer trên vùng đất này đã chứng minh được
điều đó. Có nhiều ngôi chùa đã ghi dấu trong lịch sử mở cõi của Đồng bằng sông
Cửu Long sớm hơn rất nhiều so với tên gọi Gia Định, một tên gọi chính thức đặt
dấu ấn cho việc mở cõi và cai trị của chúa Nguyễn ở vùng đất này. Song song với
việc ghi dấu ấn cho việc định cư của mình, người dân Khmer cũng kế thừa nền văn
hóa Ăngco, nền văn minh lúa nước cộng với tập tục sinh hoạt của những nhóm lưu
dân của người Kinh, người Hoa, người Chăm tạo nên một bản sắc, một nền văn hóa
riêng của mình. Nền văn hóa đó có giá trị tiêu biểu, không lẫn lộn, pha tạp,
nhưng vẫn đảm bảo yếu tố hài hòa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nền văn
hóa đó cần được gìn giữ và phát huy nhằm chống sự “xâm thực” của các nền văn
hóa khác, bảo toàn nguyên vẹn yếu tố gốc có như vậy mới thấy được sự phong phú
đa dạng trong nền văn hóa Việt Nam.
GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA TÔN GIÁO
Trong các trường văn hóa của đồng bào Khmer Nam bộ thì văn
hóa tôn giáo nổi lên như một sự tự nhiên vốn có, mặc dù văn hóa tôn giáo đến với
đồng bào Khmer Nam bộ không phải là sớm nhất. Không phải “người Khmer thích gọi
tín ngưỡng Phật giáo Theravada”, mà thật sự tín ngưỡng Phật giáo của họ là tín
ngưỡng Phật giáo Theravada. Đồng bào Khmer Nam bộ nói chung sử dụng đạo Phật
như một tôn giáo của dân tộc mình, các giá trị của tôn giáo đó dần chuyển thành
tín ngưỡng của dân tộc ( ở đây ta tạm gọi là tín ngưỡng Phật giáo). Theravada
là một bộ học thuyết được các bậc Trưởng lão ( Trưởng lão bộ ) kiết tập lần thứ
nhất sau khi đức Phật niết bàn. Trưởng lão bộ là tập hợp tất cả các bài thuyết
giảng của đức Phật, những người thực hành theo bộ này ta thường gọi là Phật
giáo nguyên thủy ( hay tiểu thừa). Bộ kinh này sau khi kiết tập đã nhanh chóng
lan truyền đến cư dân trong tiểu vùng Đông Nam Á qua đường biển từ phía Nam. Do
đó ta thường gọi tôn giáo của người Khmer là Phái Nam tông, Đạo Phật nguyên thủy,
Phái Tiểu thừa hay Phật giáo Nam tông Khmer Nam bộ.
Do mang trong mình tính ngưỡng Phật giáo nên các tín ngưỡng của
đồng bào dân tộc Khmer cũng gắn chặt với tôn giáo. Ngôi chùa của người Khmer là
một giá trị văn hóa vật thể đặc biệt. Đó là nơi tập hợp cư dân trong vùng, là
nơi diển ra hầu hết các lễ hội cộng đồng. Các lễ hội tôn giáo này vẩn còn được
đồng bào Khmer gìn giữ và thực hành như lễ ban hành giáo lý (Bon meakh
bâuchea), lễ Phật đản (bon pisakh bâuchea), lễ nhập hạ (bon chaul vâssa), lễ xuất
hạ (bon chênh vâssa), lễ xuất trần (bon asoch bâuchea), lễ dân áo cà sa (hay lễ
dân y – kathin năh tean), lễ an vị tượng Phật (bon putthea phisik), lễ kết giới
(khánh thành chính điện – bon bânchoh seima), lễ kết giới tạm (bon bânchoh
kôl), lễ hội linh (bon pchum bôn), lễ câu siêu (bon băng skâul), lễ đại cầu
siêu (chhak môha băng châul), lễ ngàn núi (bon phoum pon), lễ đi tu (bon bâm
bous)…Tất cả những lễ hội đó tuy rằng chỉ là lễ hộ của tôn giáo nhưng vào những
ngày này hầu hết những bà con người Khmer điều tham gia như thực hiện trách nhiệm
của mình với cộng đồng.
Họ cùng với nhau, người có công người có của “hùn nhau làm
phước”, như cách nói của người dân Khmer. Những lễ hội đó đã được đồng bào
Khmer gìn giữ và duy trì thực hành từ bao đời nay.
Tôn giáo chuyển dần sang tín ngưỡng những tưởng sẽ làm mất đi
giá trị vốn có của văn hóa tôn giáo. Nhưng dân tộc Khmer đã gìn giữ nó một cách
trọn vẹn thực hành một cách rốt ráo không xề xòa, qua loa. Tạo nên sắc màu
riêng biệt trong các lễ hội tôn giáo so với một số dân tộc khác.
Giá trị văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng của dân tộc Khmer còn biểu
hiện rõ ở vị trí nhà Sư. Sư cả của một ngôi chùa là trung tâm đoàn kết của cả
phum, sóc. Ngày trước, khi hệ thống pháp luật vẫn còn hạn chế thì Sư cả có vị
trí như một “quan tòa”. Ngôi chùa và nhà Sư của người Khmer là người nắm giữ,
lưu giữ hầu hết những giá trị văn hóa. Những lễ hội lớn của cộng đồng, không nhất
thiết phải là lễ hội tôn giáo thì nhà Sư vẫn có một vị trí nhất định. Trong một
cuộc lễ hội nào đó (ví như Lễ hội đua ghe ngo) thì nhà Sư là người quyết định mọi
việc, từ việc tuyển chọn, phân công người tham gia lễ hội, đến việc hạ thủy ghe
ngo, ngày giờ tập luyện…
Luyện tập chèo Ghe Ngo.
Vị trí của nhà Sư luôn ở vị trí trang trọng nhất trong các lễ
hội nên con trai trong các gia đình Khmer đến 12 tuổi thường được đưa vào chùa
đi tu. Đi tu không phải là nhu cầu, mục đích cá nhân, mà là một tập tục, một sắc
thái của người dân Khmer, việc đi tu này là hoàn toàn tự nguyện, có người tu 3
ngày, có người tu 3 năm hay lâu hơn. Đi tu với người Khmer là để thành người, để
xã hội nhìn nhận như một người có đầy đủ tư cách về đạo đức (trả ơn cha mẹ) và
văn hóa (học tập văn chương, ngôn ngữ, phong tục,…).
GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA DÂN GIAN
Tín ngưỡng Tô tem của người Khmer Nam bộ cũng khắc rõ hình tượng,
hoàn cảnh sống của một tộc người trên vùng đồng bằng trũng nước. Do đó không phải
ngẫu nhiên hình tượng con rắn Naga được người Khmer chọn làm hình tượng chạm trổ
trên các xà nhà, đầu cột, trên các vật dụng thờ cúng, trang trí trong nhà. Đặc
biệt rắn thần Naga còn được xem là tổ tiên của dân tộc Khmer qua truyền thuyết
về sự phối ngẫu giữa Preak Thôn, con trai thần Mặt trời và nàng Neak, con gái
vua rắn Naga. Nhận thức được giá trị văn hóa của tín ngưỡng này nên hầu hết người
dân Khmer không di cư, di canh, luôn “bám trụ” với vùng sông nước Nam bộ này,
nơi đã sinh ra tổ tiên của mình. Dùng sức dẻo dai của loài rắn nước Naga mà
sinh sống và phát triển trên vùng nê địa đầm lầy Nam bộ. nhân đó cũng sản sinh
ra nhiều lễ hội mang màu sắc của nền văn minh lúa nước như cúng trăng, đua ghe
ngo, đua bò,…
Từ khi được sinh ra đời đến khi trở lại với tổ tiên, người
Khmer Nam bộ cũng như các tộc người khác luôn có nhiều lễ hội ghi dấu sự có mặt
của mình trên thế gian này và sự hàm ơn đối với các thế lực siêu nhiên. Những lễ
hội đó phần nào phản ánh được sắc màu văn hóa mang dấu ấn dân tộc tính của họ,
đới với người Khmer đó là lễ cắt tóc trả ơn mụ ( pithi kat sâk bâng kâk chmâp),
lễ giáp tuổi (pithi kat chup), lễ lên nhà mới (pithi lơng phteah thmây), lễ
cúng ông tà (pithi đâun lơng neaka), lễ xúc hồn (pithi chênh chât prô lưng), lễ
nhập thần (pithi đâun lơng arăk), lễ cúng sân lúa (pithi sên lean), lễ cúng tổ
(pithi thvay kru), lễ chúc thọ (bon châmrơnpreah chôn), lễ cầu an (pithi kâm
san srol), lễ dâng phước (bonđa), lễ giỗ (bon khnop 100 thngai – giỗ 100 ngày,
bon khnop chnăm – giỗ năm/ hằng năm), lễ dâng bông (bon khkar), lễ khánh thành
(bon sâm pith),… những lễ hội đó được thực hiện tại nhà một gia chủ nào đó
nhưng không vì thế mà có thể bỏ qua những tiết lễ.
Nói đến lễ hội dân gian của đồng bào Khmer Nam bộ có thể nhắc
ngay đến lễ hội đua bò của vùng Bảy núi – An Giang và lễ hội đua ghe ngo ở Sóc
Trăng. Đây là hai lễ hội mang tính đặc thù chuyên biệt của người Khmer Nam bộ.
Một lễ hội mang tính hàm ơn đối với thời tiết thiên nhiên, vật nuôi trong việc
canh tác nông nghiệp góp phần cho mùa vụ bội thu tạo nên sức sống, sự phát triển
trong đời sống của người nông dân Nam bộ; một lễ hội mang tính gợi nhớ tới quá
trình khai phá vùng đất hoang vu, quá trình đấu tranh giữa các thế lực để bảo vệ
cương thổ. Những giá trị đó nhất định không thể bị mai một được.
Bên cạnh những giá trị văn hóa của lễ hội dân gian như trên
thì những giá trị văn hóa của các loại hình nghệ thuật đang được bà con người
Khmer gìn giữ cũng là giá trị không thể bỏ qua. Nghệ thuật múa dân gian Lâm
thôn từ lâu đã là nguồn cảm hứng của biết bao nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ sáng
tác nên nhưng ca khúc ru ngọt lòng người. Nghệ thuật múa trống sadâm, nghệ thuật
múa cổ rôbăm, nghệ thuật hát aday, nghệ thuật tuồng cổ dìkê, dùkê,…tất cả đều
có giá trị văn hóa riêng biệt cần phải kiểm kê một cách kỷ lưỡng nhằm gìn giữ
và lưu truyền cho hậu thế.
Không chỉ có vậy, giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc
của dân tộc Khmer trên vùng đất này còn có những ngành nghề nông nghiệp truyền
thống như làm lúa nước, làm khô, chế biến thức ăn,…đặc biệt món mắm pàhoóc và cốm
dẹp nổi tiếng thơm ngon, là đặc sản mang dân tộc tính rõ rệt của người dân
Khmer Nam bộ. Bên cạnh đó là những vật dụng sinh hoạt hằng ngày, vật dụng bắt
cá,…do người Khmer chế tác ra cũng có phần khác biệt với nhiều dân tộc khác.
Bên cạnh văn hóa lễ hội truyền thống, văn hóa nghệ thuật thì văn hóa ẩm thực và
ngành nghề truyền thống có giá trị đặc biệt quan trọng cần phải ra sức kiểm kê
và gìn giữ cẩn thận. Đó là cách ứng xử khoa học và văn minh đối với các giá trị
văn hóa.
Nhận thức được những giá trị văn hóa vô song đó trong nền văn
hóa đầy màu sắc của đồng bào dân tộc Khmer. Chúng ta cần phát huy để những giá
trị đó ngày càng trở nên rõ nét hơn trong nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Có như thế những giá trị văn hóa đó mới thực sự đi vào đời
sống xã hội và cả thế giới sẽ hiểu rõ hơn nền văn hóa đa sắc tộc của Việt Nam.
Để phát huy các giá trị mà chúng ta đã khẳng định đó, trước hết phải khẩn
trương, kiểm kê một cách đầy đủ để hiểu hơn nền văn hóa của đồng bào dân tộc
Khmer nhằm đề ra kế hoạch gìn giữ, bảo tồn để các giá trị của nền văn hóa đó
không bị mai một dần đi.
Một số đặc điểm nghệ thuật dân tộc của người Khmer Nam Bộ
(Bài: NSƯT Sơn Lương – ảnh Hồng Bỉnh Hiếu)
Người Khmer Nam Bộ có một kho tàng nghệ thuật dân tộc phong
phú và độc đáo, được lưu truyền từ xưa đến nay với nhiều loại hình: âm nhạc,
múa, sân khấu, mỹ thuật, kiến trúc… VanVN.Net xin giới thiệu với bạn đọc bài
nghiên cứu dưới đây của Nghệ sĩ ưu tú – Nhạc sĩ Sơn Lương về một số đặc điểm của
các loại hình nghệ thuật này.
Với người Khmer Nam Bộ, âm nhạc, múa, sân khấu… không chỉ tồn
tại trong lễ hội dân tộc mà còn có mặt trong những sinh hoạt đa dạng khác của
cuộc sống. Các hoạt động nghệ thuật thường diễn ra trong lễ hội, lấy sân chùa
hoặc gia đình làm nơi biểu diễn chính. Có thể điểm qua một số loại hình nghệ
thuật như sau:
Về âm nhạc
Âm nhạc ở đây bao gồm cả ca hát là bộ phận hữu cơ của nghệ
thuật biểu diễn. Có thể nói mỗi người Khmer đều rất nhạy cảm với âm thanh và nhịp
điệu, chỉ cần nghe tiết tấu trống là nhảy múa được. Họ luôn giữ âm nhạc như nhịp
đập của ý tưởng, cái ý tưởng ấy không chỉ diễn tả bằng lời mà còn bằng âm thanh
và điệu bộ.
Tâm hồn người Khmer Nam Bộ được thể hiện rõ nhất trong các
bài hát dân gian, từng lời ca tiếng hát đã làm lay động đến tình cảm sâu kín của
con người.
Hát trong lao động sản xuất thì có những bài:
“Chriêng boong som nanh” (hát quăng chài),
“Chrêng Káp Chhơ” (hát đốn cây),
“Chriêng Stung Srâu” (hát cấy lúa)…
“Chrêng Káp Chhơ” (hát đốn cây),
“Chriêng Stung Srâu” (hát cấy lúa)…
Trong phong tục, lễ nghi thì có rất nhiều bài hát, chỉ riêng
lễ cưới đã có hàng trăm bài, điểm sơ qua như hát mở rào, hát quét chiếu, hát buộc
chỉ, hát cắt hoa cau…
Trong sinh hoạt, người Khmer Nam Bộ cũng phong phú về thể loại
hát trữ tình:
- Aday (đối đáp),
- Chom riêng (độc xướng).
- Chom riêng (độc xướng).
Các loại bài Sắc Crova (hò) với nội dung lời hát đơn giản, mộc
mạc:
Cro bây si Srâu.
Boong minh hean đing.
Cro bây đơ ching.
Boong đing ôy mơl…
Boong minh hean đing.
Cro bây đơ ching.
Boong đing ôy mơl…
tạm dịch:
Con trâu ăn lúa,
anh không dám đuổi,
khi trâu đi rồi,
anh đuổi cho xem.
anh không dám đuổi,
khi trâu đi rồi,
anh đuổi cho xem.
Đi cùng bài hát là các loại hình dàn nhạc. Chúng ta dễ dàng bắt
gặp ở hầu hết các phum, sóc đều có các loại dàn nhạc phục vụ cho từng tính chất
lễ hội, sinh hoạt vui chơi riêng biệt:
Voong Phliêng Khxe (dàn nhạc dây) là loại dàn nhạc dân
gian phục vụ cho các buổi sinh hoạt theo phong tục tập quán. Dàn nhạc này gồm
các loại nhạc cụ:
– Trô u (đàn gáo)
– Trô sô (đàn cò)
– Khưm (đàn tam thập lục)
– Chapây Vêng (đàn Chom Riêng)
– Skôr đay (trống nhỏ)
– Khôlôy (sáo trúc)
– Trô sô (đàn cò)
– Khưm (đàn tam thập lục)
– Chapây Vêng (đàn Chom Riêng)
– Skôr đay (trống nhỏ)
– Khôlôy (sáo trúc)
Voong Phliêng Pinh Peát (dàn nhạc ngũ âm) là loại nhạc cổ
điển thường dùng trong những ngày lễ ở chùa, đám tang, đám làm phước. Nhạc cụ
trong dàn nhạc chủ yếu là bộ gõ, gồm:
– Đàn Rô nett ek (đàn thuyền)
– Đàn Rô nett thung (đàn thuyền thung)
– Rô nett đek (đàn thuyền bằng sắt)
– Kôông tut (đàn cồng vòng nhỏ)
– Kôông thom (đàn cồng vòng lớn)
– Trống Săm phô (trống nhỏ để ngang)
– Skor thom (cặp trống lớn)
– Chhưng (chủm chọe) làm bằng đồng.
– Đàn Rô nett thung (đàn thuyền thung)
– Rô nett đek (đàn thuyền bằng sắt)
– Kôông tut (đàn cồng vòng nhỏ)
– Kôông thom (đàn cồng vòng lớn)
– Trống Săm phô (trống nhỏ để ngang)
– Skor thom (cặp trống lớn)
– Chhưng (chủm chọe) làm bằng đồng.
Voong Phlêng Dù kê có các nhạc cụ:
– Trô Alea (đàn gáo)
– Trô sô
– Khưm
– Trống nhỏ
– Trống lớn
– Cồng
– Phèn la
– Chủm chọe…
– Trô sô
– Khưm
– Trống nhỏ
– Trống lớn
– Cồng
– Phèn la
– Chủm chọe…
Voong Phlêng Rô băm gồm:
– Sralay – Rom (kèn)
– Trống nhỏ
– Trống lớn
– Cồng
– Trống nhỏ
– Trống lớn
– Cồng
Có thể nói, âm nhạc là bạn đường không thể thiếu đối với người
Khmer. Chính âm nhạc đã gõ nhịp cho từng quãng đường đời của họ bằng những giai
điệu trầm bổng, vui buồn, trữ tình, hùng tráng từ lúc con người mới sinh ra cho
đến khi về nơi an nghỉ cuối cùng.
Múa gáo dừa, một thể loại thường xuyên
được các đoàn nghệ thuật
Khmer biểu diễn.
Về nghệ thuật múa
Trong các loại hình nghệ thuật biểu diễn, múa chiếm một vị
trí quan trọng, luôn có mặt trong mọi sinh hoạt tập thể. Thể loại múa phổ biến
của người Khmer Nam Bộ là múa dân gian dân tộc gắn liền với cuộc sống đời thường,
được giữ gìn trong khung của phong tục tập quán và lế nghi tôn giáo.
Các điệu múa hiện nay còn lưu giữ được là: múa Rom vong (múa
vòng), múa Saravan trong sinh hoạt tập thể; múa Rom leo (múa Lào), múa Rom
Kbách (múa cung đình), múa Aday (múa xen kẽ đối đáp), múa trống Sa dăm, múa
trong lễ cưới, múa trong lễ cúng Arặc (múa của thầy cúng lúc lên đồng)…
Sân khấu Dù Kê còn được tổ chức trong các lễ hội cổ truyền.
Về nghệ thuật sân khấu
Nghệ thuật sân khấu của người Khmer Nam Bộ được các nhà
chuyên môn đánh giá có trình độ phát triển cao so với các dân tộc ít người khác
ở Việt Nam. Nổi bật có sân khấu cổ Rô Băm và sân khấu Dù Kê. Cả
2 hình thức này đều mang nhiều yếu tố thuộc các lĩnh vực nghệ thuật múa, hát,
thơ, nhạc, mỹ thuật…
Sân khấu Rô Băm sử dụng ngôn ngữ múa làm vai trò chủ
đạo nên tên gọi đầy đủ của nó là Rom Rồ Băm (Múa Rô Băm). Tuy nhiên,
về mặt kết cấu vỡ diễn vẫn thể hiện qua tuyến kịch như các loại hình sân khấu
khác.
Chị Lâm Thị Hương, nghệ nhân dân gian
hiếm hoi biểu diễn Rô
Băm ở Sóc Trăng.
Vỡ diễn của sân khấu Rô Băm hầu hết là vỡ cổ tích,
đứng đầu là Rem Kê (ảnh hưởng trường ca Ấn Độ Ramayana) với các
nhân vật như: Nàng Sê Đa, Hoàng tử Phrés Riem, Khỉ thần Hanuman… Đặc
điểm của sân khấu Rô Băm là các nhân vật được hư cấu theo 2 tuyến thiện
– ác. Nhân vật Chằn đại diện cái ác, Khỉ tài trí thông minh
đại diện cái thiện nhưng đều phải mang mặt nạ, đây chính là điểm khác biệt cơ bản
giữa Rô băm với Dù kê.
Dù kê là sân khấu ca kịch dân tộc, tương tự như cải lương của
miền Nam. Sân khấu Dù kê ra đời khoảng thập niên 20 của thế kỷ XX. Đây là sản
phẩm văn hóa tinh thần do bàn tay khối óc người Khmer Nam Bộ sáng tạo nên, được
một bộ phận người Kinh, người Hoa và người dân Campuchia rất ưa chuộng.
Múa Rô Băm - một thời vàng son trong đời sống tinh thần của người
Khmer xưa
(TQ – DTV)
Có thể nói trong các loại hình nghệ thuật của người Khmer
xưa, Rô Băm là loại kịch múa được cho là đã đạt đến một trình độ nghệ thuật rực
rỡ. Người ta còn liên tưởng Rô Băm của người Khmer với nghệ thuật hát Tuồng của
người Kinh: tinh túy đấy nhưng số công chúng có mỹ cảm và trình độ thưởng thức
không nhiều…”
Đôi nét về điệu múa Rô Băm
Rô Băm còn gọi “Rom Rô Băm” là loại kịch múa cổ điển sân
khấu cung đình của người Khmer xưa. Nếu Dù Kê có thể truyền tải những
vấn đề của cuộc sống đương đại thì Rô Băm chuyên về diễn tả những “chuyện xưa
tích cũ”.
Điệu Rô Băm được các nghệ sĩ múa chuyên nghiệp biểu
diễn những động tác và tư thế của đôi bàn tay, trong tư thế phối hợp nhịp
nhàng, uyển chuyển, uốn cong của toàn thân. Người xem cảm thấy bâng khuâng,
thương nhớ các nàng Apsara (vũ nữ thiên đình) mà hình ảnh tuyệt vời
còn lung linh trên mặt đá; với sức mạnh khái quát thể hiện tính chất trang
nghiêm sùng kính của truyền thống tôn giáo và cung đình từ thời xa xưa… thể hiện
ý tình sâu kín nhất của các nhân vật. Muốn đạt được trình độ đó, nhiều nghệ sỹ
phải trải qua nhiều năm rèn luyện.
Trong vở diễn Rô Băm thường có hai tuyến nhân vật
vua, hoàng tử, công chúa… không mang mặt nạ. Và ngược lại những nhân vật mang mặt
nạ gồm nhiều loại, nhưng nổi bật nhất là vai chằn – Yeak- đại diện cho phái ác.
Ngoài ra, trong vở diễn Rô Băm cũng thường có vai hề xuất hiện để gây cười làm
vui nhộn sân khấu”.
Sân khấu Rô Băm ngoài động tác múa, còn dùng lời
nói, lời hát để giải thích các tình tiết, sự kiện, hành động của diễn viên. Nội
dung thường là tích cổ như vở Riêm kê trích từ anh hùng ca Ấn độ Ramayana… Nhân
vật trở thành mẫu người lý tưởng của người Khmer như nàng Sêđa xinh đẹp thuỷ
chung, hoàng tử Rama tài giỏi nhưng gặp nhiều chuyện gian truân, khổ ải. Khỉ thần
Hanuman có nhiều pháp thuật cao cường… Các vở khác như Ra Ta Na Vông, Linh
Thôn… cũng đều đượm tinh thần Phật giáo “Ở hiền gặp lành”, làm việc ác ắt phải
đền tội.
Âm nhạc Rô Băm ngoài phần hát còn có nhạc đệm gồm trống “Cồn”
và kèn Slayrom. Đây là dàn nhạc chủ yếu gây không khí cổ động cho đêm diễn và đệm
múa, có âm lượng lớn, diễn tấu như: trống thúc mạnh mẽ trong những màn chiến đấu,
khi khóc than thì cất lên tiếng kèn nghe thật ai oán….
Theo các nghệ nhân thì Rô Băm xưa kia thường biểu diễn ngay
dưới đất, có rải rơm lên trên, ánh sáng đốt bằng dầu mù u. Ngày nay sân khấu được
dựng trên bục cao cho khán giả dễ coi, ánh sáng được thay bằng điện. Đạo cụ cho
diễn viên được trang bị khá hơn. Phông màn thường vẽ cung vua hay cảnh rừng
già. Phía trước có kê một cái bàn con với ít ghế nhỏ. Màn chỉ được kéo lên một
lần trong suốt vở diễn. Mỗi khi chuyển cảnh “ông Bầu” giới thiệu qua cảnh tiếp
để người xem dễ theo dõi.
Rô Băm - Loại hình nghệ thuật
độc đáo của người Khmer ở Kiên
Giang.
Một thời hoàng kim
Những năm thập niên 60 của thế kỷ XX là khoảng thời gian
hoàng kim nhất của Rô Băm. Hàng năm các đoàn nghệ thuật Rô Băm thường đi lưu diễn
ở đám làm phước, các chùa… Đoàn đi diễn đến đâu đều được bà con Khmer địa
phương “hậu đãi” lo nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Các diễn viên hết lòng đem tài
năng nghệ thuật ra phục vụ công chúng. Nhiều đêm diễn trăng sáng, mưa trái mùa
lâm râm, tiếng ếch nhái oang oang khắp đồng và nhảy loạn xạ trên sân cỏ nhưng
bà con vẫn nhiệt tình, chăm chú, say mê xem đoàn diễn hết đêm này đến đêm khác.
Múa Rô Băm không dễ như một số loại hình khác. Ðể có diễn
viên, đoàn Rô Băm Bưng Chông phải đào tạo từ khi các diễn viên ở độ tuổi 10 –
12 chứ khi trẻ đã lớn khó tập lắm. Còn để múa được, phải tập liên tục ít nhất
là ba tháng. Ðiều đặc biệt của loại hình nghệ thuật này là cho đến nay vẫn chưa
có trường đào tạo nên phần lớn tự đào tạo tại lò nhà mà thôi. Vì thế, chỉ có ai
thật sự yêu nghề, dám hy sinh cho nghề mới theo nổi. Và, có lẽ vì vậy mà ngày
càng ít người đến với Rô Băm.
Xã hội hiện đại kéo theo các loại hình nghệ thuật phát triển
rầm rộ. Những đêm diễn Rô Băm trong sân chùa, trên những cánh đồng sau thu hoạch,
hay trong các lễ hội truyền thống của người Khmer Nam bộ đã dần thưa khán giả
và đi vào quên lãng. Rô Băm là bộ môn nghệ thuật thuộc di sản văn hóa của đồng
bào Khmer. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ trình độ để thưởng thức Rô Băm, do
tính sử thi ẩn chứa trong loại hình nghệ thuật này. Tính triết lý khắt khe,
nhân văn cổ điển trong từng vở diễn Rô Băm luôn được đề cao.
Do đó, nó đòi hỏi người xem phải có kiến thức và am tường bộ
môn nghệ thuật này. Muốn Rô Băm không bị thất truyền, thì cần có sự quan tâm hỗ
trợ từ nhiều phía. Ngành chủ quản phải trực tiếp chỉ đạo và thực hiện việc sưu
tầm, đào tạo lớp diễn viên trẻ múa dẻo. Đặc biệt, ở các phum sóc nếu có điều kiện
nên khuyến khích thành lập các đội Rô Băm quần chúng để giao lưu rộng rãi.
Trong xu hướng hiện nay, người ta quay về với cội nguồn, nhiều
loại hình văn hóa dân gian đã được công nhận di sản văn hóa của thế giới như Cồng
chiêng (Tây Nguyên), Hát Quan họ (Bắc Ninh), múa Hoa Đăng (cung đình Huế), Hát
Xoan, Ca Trù… Rô băm, cũng rất xứng đáng là kiệt tác trong kho tàng văn hóa của
dân tộc vì các loại hình này đã tồn tại khá lâu và vẫn được nhiều người ưa
thích.
Lễ hội Thắk Kôông của người Khmer.
Đặc sắc Lễ hội Thắk Kôông của người Khmer, Sóc Trăng
(TH-Cinet-DTV)
Hàng năm, đồng bào Khmer tổ chức lễ hội Thắk Kôông nhằm cầu
mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, con người có được cuộc sống an
lành, hạnh phúc… Đây là một trong những nét văn hóa đặc sắc, riêng biệt của người
Khmer ở Sóc Trăng.
Đồng bào Khmer Sóc Trăng có rất nhiều lễ hội truyền thống
trong năm. Hầu hết các lễ hội của mang đậm tinh thần Phật giáo Tiểu thừa. Trong
đó, không thể không nhắc đến Lễ hội Thắk Kôông.
Lễ hội Thăk Kôông, hay còn gọi là lễ hội cúng dừa, được tổ chức
ở chùa Mahasal Thatmon, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, từ ngày
14 – 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội bắt nguồn từ truyền thuyết: Ngày xưa, ở
An Trạch, tự nhiên nổi lên một gò đất hình dạng như chiếc cồng. Mỗi lần có chân
người dẫm lên, gò đất phát ra âm vang như tiếng cồng. Ai lên giẫm được là gia
đình may mắn, khỏe mạnh và mùa màng thuận lợi. Được ít lâu, tiếng cồng trong gò
đất nhỏ dần rồi mất hẳn. Người dân trong vùng tin là gò đất có thần linh, nên lập
một ngôi miếu thờ. Hàng năm, dân làng An Trạch cùng nhau tổ chức lễ hội cầu an ở
miếu này và gọi đó là lễ hội Thăk Kôông. Trong tiếng Khmer, Thăk Kôông có nghĩa
đạp cồng, nhằm gợi lại sự tích về tiếng cồng vang lên từ đất.
Trong ngày lễ hội đông đảo bà con đến chùa cầu nguyện.
Lễ hội Thăk Kôông cũng như lễ hội cầu an, mong được trúng
mùa, bà con bình an lao động sản xuất. Những lễ vật dâng cúng trong lễ này lại
là những thứ hoa trái mang đậm dấu ấn tín ngưỡng. Chiếc bình bông làm bằng trái
dừa vạt miệng, đây là loại trái cây có nước tinh khiết, ngọt lành.
Theo một số người, cúng dừa là nhằm cầu xin trời phật ban cho
sự ngọt ngào để công ăn việc làm thuận phát, con cháu hiếu thảo. Ngoài ra, bên
cạnh dừa, người ta còn dâng cúng trầu cau, bông sen, nhang đèn… Đó là những vật
phẩm đồng bào Khmer Nam bộ gọi là Slathođôl – biểu tượng cho sự thanh khiết và
thiêng liêng. Mỗi gia đình tùy theo lời nguyện của mình mà đem theo dâng cúng,
thường thường mỗi gia đình đem 1 hay 2 cặp dừa dâng cúng nhưng cũng có gia đình
đem đến 7 – 8 cặp dừa, có màu sắc khác nhau. Đa số lễ vật cúng có năm thứ tượng
trưng cho năm vị Bồ Tát.
Kết thúc lễ, người Khmer tổ chức nghi lễ tống tiễn. Tất cả lễ
vật: muối, gạo, củi… được đặt trong một chiếc thuyền bằng bẹ chuối. Các vị Acha
tiến hành thắp nhang cầu khấn, tạ ơn thần linh. Sau 3 tuần rượu, nghi lễ kết
thúc, tiếng trống, tiếng cồng vang lên, cờ lễ kéo xuống, kết thúc lễ hội. Lễ vật,
thuyền lễ bằng chuối được mang đến một con kênh, thả trôi theo dòng nước.
Sau khi du khách ra về, bà con thực hiện nghi lễ rắc tro để cầu
cho mùa màng tươi tốt. Nghi lễ này trước đây được thực hiện bởi những bà lão và
thiếu nữ người Khmer, ngày nay, có sự tham gia của tất cả mọi người, người
Khmer cũng như người Việt, người Hoa trong vùng. Họ lấy những hạt giống ngũ cốc
đã được đặt trên bệ thờ suốt những ngày lễ hội, một ít tro, nhang từ các lư
hương… mang ra rải trên cánh đồng, để dâng cúng đất đai, hồn lúa, những vị thần
bảo hộ cho ruộng vườn, để tỏ lòng biết ơn và cầu mong những hạt giống ấy, những
tro, nhang ấy sẽ mang về một vụ mùa bội thu, người dân no ấm, hạnh phúc.
Lễ hội Thăk Kôông của đồng bào Khmer ở Sóc Trăng thể hiện ước
vọng về sự an lành, hạnh phúc, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu,
người người có được cuộc sống an lành, giúp người ta nhớ về cội nguồn, tổ tiên,
ông bà để sống chan hòa và yêu thương nhau hơn.
Lễ ngàn núi của người Khmer Nam Bộ
(TH-Cinet - DTV)
Người Khmer Nam Bộ xưa và nay đều có những hình thức sinh hoạt
văn hóa độc đáo thể hiện qua phong tục tập quán, lễ hội, ca múa,… trong số các
nghi lễ trước đây của họ phải kể đến Lễ ngàn núi.
Từ khi được sinh ra đời đến khi trở lại với tổ tiên, người
Khmer Nam Bộ cũng như các tộc người khác luôn có nhiều lễ hội ghi dấu sự có mặt
của mình trên thế gian này và sự hàm ơn đối với các thế lực siêu nhiên. Những lễ
hội đó phần nào phản ánh được sắc màu văn hóa mang dấu ấn dân tộc của họ. Đối với
người Khmer, Lễ ngàn núi (Beân Phnom Ponn) – là nghi lễ làm phước với mục đích
xin lỗi thú vật tha thứ cho con người.
Theo quan niệm, người Khmer cho rằng, đối với mọi sinh vật họ
đều có lỗi vì đã đuổi giết chúng để ăn thịt, bảo vệ mùa màng, bảo vệ sức khỏe,…
Họ lo sợ khi con người qua đời sẽ bị các loài thú kéo nhau trả thù và linh hồn
người chết phải xuống địa ngục. Do đó, đồng bào trong phum sóc hàng năm hùn tiền
bạc lại để tổ chức Beân Phnom Ponn.
Lễ có thể tổ chức tại phum, sóc, hay ở chùa. Thời gian không
cố định, nhưng thường diễn ra trong những ngày khô ráo trước khi vào năm mới (Tết
Chôl Chnam Thmây) một hai tháng. Lễ Beân Phnom Ponn kéo dài hai, ba ngày dưới sự
hướng dẫn của Achar và các vị sư sãi.
Chuẩn bị mâm cỗ cúng lễ ngàn núi.
Đầu tiên mọi người chọn khoảng đất trống cất tạm nhà hội để
làm lễ. Trước nhà hội là một khoảng sân lớn. Nơi đó, họ dựng bàn thờ, trong có
tượng Phật, chung quanh đắp các ngọn núi cát hình vuông, núi cách núi cỡ thước
tây, trên núi có cắm cây hoặc tre làm hàng rào. Người ta tin rằng mỗi hạt cát đắp
núi sẽ giúp giải thoát được một kẻ có tội ở trần thế. Vì thế, họ hăng say đắp
núi, mong đức Phật ban phước lành cho mọi người.
Buổi lễ bắt đầu, mọi người tập trung trong nhà hội để đọc
kinh dưới sự hướng dẫn của Achar. Rồi mỗi người cầm một nắm nhang đang cháy đi
chung quanh “ngàn núi” và cắm lên các núi đó. Xong, họ tiếp tục vào bàn thờ Phật.
Họ đốt nhang, đèn cầy làm lễ cúng tam bảo, cầu mong tam bảo tha thứ cho họ, đừng
để các thú vật bị giết bắt tội họ trong kiếp sau. Họ nguyện dâng hết những điều
thiện họ làm hiện nay cho tất cả những thú vật đã bị con người sát hại. Lễ
xong, họ trở ra theo đường cũ. Những người khác dự lễ cứ tuần tự làm như thế.
Trong những ngày tổ chức lễ, bà con dâng cơm cho sư sãi trong
chùa vào sáng và trưa, tối dâng trà, đường, sữa. Ngày cuối, khi các nhà sư thọ
trai, mọi người dự lễ ăn chung mâm cơm thì lễ ngàn núi cũng chấm dứt.
Lễ hội Xuống đồng của người Khmer Bình Phước
(TH- Cinet-DTV)
Lễ hội xuống đồng hay còn gọi là Sen Đây S’Re, lễ cúng ruộng,
cúng xuống giống là lễ hội tiêu biểu, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa đặc trưng
về truyền thống sản xuất lúa nước của người Khmer ở Bình Phước.
Theo tập quán của người Khmer (Bình Phước), mỗi người sinh ra
đều được cha mẹ định cho một ngày tốt và họ sẽ sử dụng để thực hiện các công việc
quan trọng trong cuộc đời, trong đó có việc chọn ngày làm đất, gieo mạ, cấy
lúa. Sau khi làm đất, gieo mạ, đến ngày các gia đình cúng thần linh để cầu xin
mưa thuận gió hòa và một mùa bội thu. Lễ xuống đồng thường bắt đầu vào mùa mưa
(khoảng tháng 4, 5 âm lịch).
Mở đầu lễ hội Xuống đồng là nghi thức cột mạ. Nghi thức này
mang ý nghĩa hồn của cây mạ sẽ được vẹn toàn hơn, cấy xuống sẽ tốt hơn. Sau đó
là nghi lễ cúng thần linh. Nghi lễ này được thực hiện với 2 quy mô khác nhau: Lễ
cúng hằng năm sẽ nhỏ hơn so với lễ cúng ba năm. Thời gian tiến hành lễ hội được
lựa chọn theo ngày tốt của chủ ruộng (theo quan niệm của người Khmer, khi sinh
ra mỗi người có một ngày tốt)
Trước khi tổ chức lễ hội, chủ ruộng không biết các nghi thức
nghi lễ cúng xin thần linh sẽ mời một người trong sóc (ấp) biết thực hiện các
nghi lễ trong lễ xuống đồng (thường là già làng hoặc là người lớn tuổi trong
sóc, ấp) và mời các chủ ruộng bên cạnh ruộng của mình cùng tham dự lễ xuống đồng
của gia đình mình.
Khấn tạ ơn thần linh.
Lễ vật cúng gồm có xôi, gà, cau, trầu, chuối, rượu, hai bó mạ
và có thêm một bộ đầu heo để tạ ơn thần linh. Với các năm bình thường, mỗi nhà
chỉ cúng một con gà và chuối, xôi, cau, trầu, rượu và hai bó mạ. Sau khi cúng
xong các gia đình xuống đồng cấy lúa.
Trong số các thần trong đời sống tâm linh của người Khmer thì
bà Bống là vị thần gần gũi nhất, giúp đỡ con người nhiều nhất. Bởi vậy, trên
mâm lễ có 2 nắm lá trầu, hoa và chuối là những món bà Bống thích. Gia chủ thường
xin bà Bống chứng giám nghi lễ, tấm lòng của mình trước, sau đó xin thổ thần và
các vị thần khác cùng cô hồn chứng giám. Trong lúc cúng lễ, con cháu, những người
thân thích đến chúc mừng và góp tiền cúng các thần.
Sau lễ khai mạc, đông đảo người dân ở các ấp tập trung đến
chòi của mình để thực hiện nghi lễ cúng thần. Ở 3 chòi của 3 ấp, các gia đình
và già làng hát 3 bài tiếng Khmer, kết thúc mỗi bài mọi người đều đồng thanh hô
to để thể hiện quyết tâm gặt hái mùa màng bội thu. Sau khi đã cúng lễ, mọi người
xuống đồng thực hiện các công đoạn nhổ mạ, bừa đất và cấy lúa. Trên 3 chòi các
già làng, bà con thân thích trò chuyện, ăn xôi, thịt và uống rượu. Không khí
vui tươi, rộn ràng và phấn khởi lan tỏa khắp cánh đồng.
Thông qua lễ hội các vị già làng đã truyền dạy cách thức tổ
chức và ý nghĩa của lễ hội cho cộng đồng. Đây là dịp mọi người trao đổi kinh
nghiệm, giúp đỡ nhau trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, tăng cường tính cố kết
cộng đồng.
Nét đẹp văn hóa trong lễ hội thả diều sáo của người Khmer, Bình
Phước
(TH-Cinet-DTV)
Lễ hội thả diều từ lâu đã in đậm trong tâm thức của người
Khmer nói chung và của người Khmer ở Bình Phước nói riêng.
Với dân số khoảng 9000 người, cư trú rải rác trên khắp các
huyện, thị xã trong tỉnh Bình Phước, người Khmer đã tạo nên một diện mạo văn
hóa vô cùng phong phú và đặc sắc. Vốn là cư dân nông nghiệp làm ruộng lúa nước
và rất sùng tín đạo Phật. Mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Khmer đều
gắn với ý niệm nước - nắng, ẩm – khô nên nghề thủ công cổ truyền phần nào thể
hiện đời sống tâm linh của họ, đều tập trung vào việc làm diều.
Trong ý niệm của người Khmer, Diều (Khlèn) - nghĩa gốc là
Chim Diều hâu là biểu tượng của mặt trời - nắng. Diều thả cũng nằm trong ý niệm
đó. Người Khmer thả diều khi gió mùa Đông Bắc tràn về xua tan mây mù để nắng trở
về, thường là vào tháng Kádek (tương ứng với tháng 10 âm lịch). Thả diều là một
biểu tượng cầu nắng để hạt lúa chóng chín, chóng được gặt hái…
Diều thả của người Khmer có khá nhiều loại, nhưng phổ biến nhất
là Khlèn phnon, còn gọi là Por kón (mang con) hoặc Mékón (mẹ con). Diều được làm
bằng tre và vải trúc bâu, tơ chuối hoặc tơ dâu. Tơ chuối được sử dụng từ thời cổ
xưa nhất. Người ta tước tơ từ bẹ chuối, đem phơi nắng và phơi sương cho mềm và
dai, buộc quả dọi vào sợi tơ rồi treo lên, khâu lại bằng chỉ gai hoặc chỉ vải rồi
đem bọc ra ngoài sườn diều. Xong quét lên toàn bộ diều một lớp nước sắc dây
“cây chân bò” giã nát, sau đó đem phơi ngoài trời cho khô. Dùng vải trúc bâu
cũng quét nước sắc này. Nếu dùng tơ dân thì cũng phải giã nát vỏ cây dâu rồi
đun sôi lên. Sau đó vớt các váng nổi trên mặt, cũng có thể đổ nước vỏ dâu đun
sôi lên một tấm vải rồi đem phơi nắng.
Khlèn phnon (diều mẹ con) thường có kích thước lớn, dài 1,50m
đến 2,40m. Ở đuôi diều gắn hai dải dài từ 10m đến 20m kết bằng lá thốt nốt gọi
là kraman hoặc kantuy. Dây thả diều dài từ 50m đến 300m làm bằng sợi tơ, sợi
gai hoặc các loại sợi cây khác. Khi thả diều phải có ít nhất từ 3 người trở lên
để tung diều lên không trung. Khlèn phnon bao giờ cũng gắn sáo (êk). Sáo lớn bằng
cả sải cánh diều, được gắn trước mũi diều. Sáo bé gắn ở hông diều. Âm của 2 sáo
được hòa vào nhau.
Khi làm sáo phải đòi hỏi sự chuyên môn cao, tinh tế trong
thao tác, thính về âm điệu. Lấy một thân tre già dài uốn cong thành một cánh
cung, chuốt mỏng 2 đầu, khoét một cái mấu một chỗ ở trên thân tre làm sao để
móc được các sợi dây tơ tằm hoặc tơ chuối để buộc lưỡi gà cân đối, chặt chẽ vào
thân cây tre nhằm tạo ra được âm thanh mong muốn.
Lưỡi gà được làm bằng thân cây mây chẻ ra, chuốt mỏng, mài
trơn bằng thóc hoặc giấy ráp thủy tinh rồi hơ bóng trên lửa. Có khi chỉ cần
khoét 3 lỗ nhỏ ở 2 đầu để xỏ dây buộc. Hai đầu mút lưỡi gà và các dây buộc đều
được nhúng sáp ong. Để thử âm thanh của sáo, người ta buộc dây vào cây sáo rồi
quay nhanh quanh người. Nếu âm lượng chưa đủ thì cho thêm sáp ong vào. Lưỡi gà
cũng có thể làm bằng cây thốt nốt hoặc lá chuối, song âm thanh không vang bằng.
Ngoài Diều sáo còn có Diều đèn (Khlèn kôm) cũng gọi là đèn bay
(kôm hòk) hình hộp hoặc hình ống trụ. Có chiếc cao đến 5m đồ sộ như một kinh
khí cầu và phải cần đến 4 – 5 người để thả. Ban ngày Diều sáo vi vu trên trời
cao, ban đêm diều đèn lung linh trong ánh trăng thanh.
Hàng năm đến ngày lễ hội thả diều, người dân trong cộng đồng
đều đến tụ hội quanh ngôi của mình với tâm thức hướng về cái thiêng, cái thiện.
Cái thiêng, cái thiện đó đã giúp cho họ thêm tin tưởng vào cuộc sống của mình
trong cộng đồng. Thả Diều sáo là nét đẹp văn hóa mang đậm phong cách truyền thống
của người Khmer cần được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Bà con Khmer dâng lễ.
Độc đáo Lễ cầu an của người Khmer
(Cinet – DTV)
Tuy không phải là ngày lễ lớn nhưng Lễ cầu an của người Khmer
đã thể hiện được nét văn hóa đặc sắc của một dân tộc sinh sống lâu đời tại vùng
sông nước Đồng bằng Sông Cửu Long.
Người Khmer là dân tộc có nét văn hóa độc đáo riêng góp phần
tạo nên nét đặc thù của văn hóa vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Biểu hiện đậm nét
sắc thái văn hóa đó có phần quan trọng của hệ thống lễ hội.
Sau mỗi vụ màu, đồng bào Khmer lại tổ chức múa hát để vui
chơi giải trí sau thời gian làm lụng cực nhọc nên đồng bào gọi đây là hội làng
(tiếng Khmer gọi là Panh-Kom-San-Srok). Bên cạnh việc vui chơi giải trí, hội
làng còn có thêm một nghi thức tôn giáo là cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng
năm mới được bội thu và cầu cho muôn vật được sống an vui…. Vì thế ngày lễ này
còn được gọi là lễ cầu an.
Lễ cầu an của đồng bào dân tộc Khmer được diễn ra vào những
ngày sau Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây, tức vào khoảng cuối tháng 3, đầu tháng
4 âm lịch. Để chuẩn bị cho ngày lễ cầu an, vào ngày cuối cùng của Tết cổ truyền
Chôl Chnăm Thmây, các hương phụ lão trong phum sóc ngồi lại chọn ngày tốt và
thông báo cho mọi người biết thời gian và địa điểm tổ chức lễ cầu an.
Trước ngày lễ, ban tổ chức họp bàn cách tổ chức như chi phí
bao nhiêu rồi phân công người đi vận động đồng bào đóng góp. Trai tráng trong
phum sóc thì tập trung lại chặt cây dựng lều ngoài đồng ruộng để làm nơi tổ chức
lễ, còn các bà, các hương thân phụ lão thì lo việc tâm linh: Chuẩn bị bàn thờ
phật, nơi dành riêng cho các sư, nơi biểu diễn văn nghệ và các trò chơi dân
gian giải trí, đồng thời chuẩn bị hoa đăng, nhang đèn để phục vụ ngày hội.
Biểu diễn văn nghệ.
Xưa kia, lễ cầu an thường được tổ chức trong hai ngày đêm,
bao gồm các nghi thức như: Thỉnh các vị sư đi sớt bát theo từng hộ gia đình để
cầu siêu, cầu an cho cho gia đình được mạnh khỏe, hạnh phúc; thỉnh chư thiên, mời
các vị sư đọc kinh cầu an, để tế các vị thần bảo vệ đất đai và làm lễ gọi hồn
lúa để cầu cho mùa màng được bội thu; cuối cùng là nghi thức thả đèn gió để
mong ước nhiều điều may mắn, suôn sẻ, an vui đến mọi nhà…
Lễ được cử hành tại một rạp lễ dựng trên một khoảng đất trống,
rộng rãi trong phum và nghi thức quan trọng nhất, khởi đầu lễ là cúng thần bảo
hộ của phum tại miếu. Thờ Neak ta là một loại tín ngưỡng của người Khmer và
chúng ta có thể gặp miếu thờ Neak ta ở hầu hết các phum sóc của người Khmer.
Trong những ngày diễn ra lễ cầu an, ngoài cúng theo phong tục,
bà con còn tổ chức biểu diễn văn nghệ và các trò chơi dân gian giải trí mang đậm
nét văn hóa của dân tộc Khmer trong phum sóc. Đặc biệt, tại một số tỉnh có đông
đồng bào dân tộc Khmer: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang…, còn có đoàn nghệ thuật
Khmer Cà Mau đến biểu diễn giúp vui làm cho ngày lễ thêm phần náo nhiệt.
Ngày nay, lễ cầu an của đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ đã được
lược bớt những nghi thức rườm rà, tốn kém nhưng nhìn chung vẫn giữ được nét
truyền thống của đồng bào Khmer. Có thể nói, văn hóa Khmer có vai trò quan trọng
trong việc hình thành vùng văn hóa Nam Bộ tạo cho du khách những ấn tượng về sự
phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa của người Khmer cũng như lễ hội của
họ sẽ góp phần không nhỏ vào việc phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
Trang phục dân tộc Khmer.
Trang phục của dân tộc Khmer
(TQ – DTV)
Đối với người Khmer, trang phục không chỉ để mặc mà còn phải
thỏa mãn cả về mỹ thuật, tín ngưỡng và tâm linh.
Tùy theo từng hoàn cảnh khác nhau mà người phụ nữ Khmer lựa
chọn cho mình những bộ trang phục truyền thống khác nhau. Cũng giống như nhiều
dân tộc thiểu số khác, trang phục truyền thống của phụ nữ Khmer khá cầu kỳ và
màu sắc rực rỡ.
Đó là sự kết hợp hài hòa giữa áo tầm vông (còn gọi là áo cổ
vòng), vận xà rông và “sbay” cùng với những hạt cườm, hạt kim sa lấp lánh được
đính trên nền hoa văn tinh xảo. Áo tầm vông thường được dệt bằng tơ tằm hay chỉ
kim tuyến với nhiều họa tiết hoa văn khác nhau, xà rông là một mảnh thổ cẩm rộng
khoảng 1m, dài 3,5m khi mặc thì cuốn lại che nửa người phía dưới. Để tôn thêm
nét dịu dàng uyển chuyển đầy nữ tính trong bộ lễ phục này không thể thiếu
“Sbay” – một loại khăn lụa mềm mại được cuốn chéo từ vai trái xuống bên sườn phải.
Điểm nổi bật trên trang phục truyền thống của người phụ nữ
Khmer là bao giờ cũng đính hạt cườm hay kim sa sáng lấp lánh kết hợp với hoa
văn tinh xảo, thêm vào đó là gam màu khá sặc sỡ… càng làm tăng thêm vẻ đẹp của
trang phục.
Trang phục dân tộc Khmer trong ngày hội.
Trong những ngày lễ, tết, người dân Khmer thường diện trang
phục chủ yếu là màu vàng. Đây là màu gợi không khí hội hè, cũng là màu sắc chủ
đạo trong trang trí kiến trúc tôn giáo truyền thống thường gặp trong các ngôi
chùa Phật giáo.
Để làm nên bộ trang phục dân tộc đặc sắc, người Khmer có kỹ
thuật nhuộm khá tinh tế gọi là “tkat”và “batik” khiến vải vóc, tơ lụa bóng mà
màu sắc không phai. Váy của phụ nữ Khmer được dệt bằng chất liệu tơ tằm, sợi
bông hoặc chỉ kim tuyến, kết hợp rất nhiều hoa văn và họa tiết.
Người Khmer quan niệm để được khoẻ mạnh cần đeo vào cổ tay hoặc
thắt lưng một sợi dây bùa có gắn một mảnh xương hay nanh vuốt thú dữ như hổ,cá
sấu,heo rừng… để ngăn trừ gió độc, tà ma… do vậy, trang sức là bộ phận rất quan
trọng trên trang phục từ xưa đến nay. Nghề chế tác đồ trang sức hình thành từ rất
sớm và có những sản phẩm độc đáo. Những chiếc vòng cổ, lắc tay có môtip đa dạng
nhưhình trăng lưỡi liềm, hình thoi, hình trái cây, hình chim, hình thú… được
đông đảo phụ nữ ưa chuộng và họ coi đây là vật dụng không thể thiếu mỗi khi đi
ra đường.
Biểu hiện rõ nhất trang phục phục truyền thống của người
Khmer là trong lễ cưới. Theo phong tục, chú rể sẽ mặc chiếc “sampôt hôl” có màu
đỏ và trang trí hoa văn. Ngoài ra, chú rể có thể mặc loại áo Khmer ngắn màu đỏ
hoặc trắng, cổ đứng, tay dài, cài 9 cúc ở phía trước. Nơi vai trái vắt dải khăn
(khăn kânxail) đeo thêm con dao cưới (kầm pach) nhằm mục đích múa mở đường
trong lễ cưới, để cắt trầu cau cho cô dâu dùng, hoặc còn được giải thích là biểu
tượng cho lòng trung thuỷ, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu (qua sự tích nàng
Tiêu, chàng Tum)…
Vy Marya trong trang phục truyền thống Khmer.
Cô sinh
ra và lớn lên ở Sóc Trăng, và là
Á Hậu 1 dân tộc VN, Trương Thị May,
dân tộc Khmer trong trang phục truyền thống.
Trang phục cưới truyền thống dân tộc
Khmer.
Trong khi đó, trang phục truyền thống của cô dâu là chiếc
“sampôt” bằng sợi kim tuyến hay tơ tằm màu đỏ sậm hoặc màu hồng cánh sen sậm,
dài đến cổ chân, có dệt hoa văn cùng chiếc áo ngắn tay bó chẽn hoặc để hở một
bên vai (xabây). Một tấm “sronko” có dạng như chiếc yếm hình bán nguyệt quàng
phi trước quanh chân cổ, che phủ hầu hết phần trên của ngực áo.
Ngoài ra, cô dâu còn quàng xéo ngang ngực tấm khăn hình chữ
nhật dệt bằng sợi kim tuyến rực rỡ. Trên đầu đội mũ cưới quý phái hình tháp nhọn
3 tầng và một chiếc khăn lộng lẫy “kà păng”. Chiếc mũ của cô dâu thường có màu
đỏ, trang trí họa tiết sặc sỡ bởi các hạt ngọc trai, hạt xoàn nhân tạo hay thêu
hoa cườm xà xung quanh. Trên mũ cắm tua tủa các cây trâm (sniêk sok) gắn bông
hoa tròn đủ màu như một rừng hoa khoe sắc (tượng trưng cho tuổi trẻ của cô dâu
tươi đẹp như mùa xuân). Nơi chân mũ gắn hai chuỗi hạt ngọc rũ dài xuống hai bên
tai của cô dâu.
Trang phục của cô dâu Khmer còn có thêm hoa tai được làm bằng
hình cầu, chế tác bằng đồng thau giống hình dáng của các loại trái cây. Đây có
thể là một nét riêng biệt của dân tộc Khmer mà không phải nơi nào cũng có được.
Chùa của người Khmer.
Nét tương phản trong kiến trúc của người Khmer
(TQ-DTV)
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự tương phản rõ rệt giữa
nhà của người dân trong phum, sóc với chùa. Ngôi nhà ở của người dân tre lá đơn
sơ bao nhiêu (của tầng lớp bần cố nông) thì ngôi chùa lộng lẫy bấy nhiêu.
Trước đây các phum, sóc của người Khmer thường tọa lạc trên
suờn đồi (vùng Kiên Giang, An Giang) hoặc trên những giồng cao (ở vùng đất
trũng). Gần đây do áp lực kinh tế thị trường và dân số, các phum, sóc của người
Khmer đã ở dọc hai bên trục quốc lộ, dọc các dòng sông hay kênh rạch.
Nhà của người Khmer làm đơn giản, mái lợp lá dừa nước, ít nhà
lợp ngói. Nhà thường làm theo kiểu mái dài về phía sau. Đồng bào làm nhà thường
dùng con số lẻ như chiều cao 5m, 7m và cửa thường quay về hướng Đông.
Người Khmer vốn ở nhà sàn, nhưng nay nhà sàn chỉ còn lại rất
ít ở dọc biên giới Việt – Campuchia và một số nhỏ trong các chùa phật giáo
Khmer là nơi hội họp sư sãi và tín đồ.
Nay số đông người Khmer ở nhà nền đất như người Kinh. Nhà nền
đất có thể chia làm hai dạng: Dạng nhà nghèo, nhà cỡ nhỏ chỉ có hai mái, mái
trước ngắn, mái sau dài, cột kèo đều bằng gỗ nhỏ, bằng tre, mây buộc, mái lợp
lá dừa hoặc lá thốt nốt, xung quanh che phên lá đơn giản. Còn nhà cỡ lớn thường
gắn với tầng lớp trung phú nông. Nhà bốn mái gồm: hai mái chính, hai mái phụ đầu
hồi. Kết cấu bộ khung nhà đều bằng gỗ, các cột xà ngang, xà dọc, kèo dâm, kèo
trích gắn kết với nhau bằng những lỗ đục mộng ngoàm. Xung quanh nhà thường có
ván gỗ hoặc xây tường che khuất.
Trong nhà được bài trí như sau: Nhà chia làm hai phần theo
chiều ngang, một phần làm nơi ở, một phần dành cho bếp núc. Phần dành để ở lại
chia thành hai phần theo chiều dọc bởi những vách ngăn: phần phía trước, ở giữa
kê bàn ghế tiếp khách, bên cạnh thường có tủ kính đựng những chiếc gối thêu vừa
để trang trí vừa tiện dùng có khách. Sau bộ bàn ghế tiếp khách là bàn thờ Phật.
Nửa sau, bên phải là buồng của vợ chồng chủ nhà. Về bên trái là phòng con gái.
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự tương phản
rõ rệt
giữa nhà của người dân trong phum, sóc với chùa.
Cách bố trí nhà như vậy là do người Khmer quan niệm: mọi tín
ngưỡng thờ cúng đều được thực hiện ở trên chùa. Khi cần cúng tổ tiên, khi có lễ
cưới, lễ tang thì bài ra cúng ở giữa nhà.
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự tương phản rõ rệt giữa
nhà của người dân trong phum, sóc với chùa. Ngôi nhà ở của người dân tre lá đơn
sơ bao nhiêu (của tầng lớp bần cố nông) thì ngôi chùa lộng lẫy bấy nhiêu.
Đến vùng người Khmer cư trú, trông từ xa thấy một không gian
cây cổ thụ xanh tốt, trong đó kiến trúc gạch ngói, đó là một ngôi chùa. Dựng
chùa, nuôi chùa là hạnh phúc lớn của toàn dân Khmer. Người Khmer dành hết mọi
nguồn lực, tài nghệ và vật liệu xây dựng tốt nhất cho ngôi chùa. Cao và nổi bật
lên trung tâm ngôi chùa Khmer là chính điện được tổ hợp giữa kiến trúc gỗ, gạch
đá, ngói thành ngôi nhà cao to 5 – 7 gian, chạy dọc theo hướng Đông – Tây với
hàng hiên rộng bao quanh, nóc nhọn vút như lưỡi búa chổng ngược lên nhau, trên
nóc cột đỉnh chỏm tháp vá các đầu mái vút lên như những nóc dừa.
Trong chùa bàn thờ Phật bao giờ cũng đặt ở đầu nhà phía Tây,
Phật nhìn về phía Đông phù hộ chúng sinh. Có những ngôi chùa hai bên còn mở một
hoặc hai gian thành ra ngôi chùa bốn mặt, mở ra bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.
Mỗi ngôi chùa Khmer là một bảo tàng về nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc tượng pháp bích họa trang trí trên trần, trên cửa, cột, hàng hiên, bệ
tượng, thân tượng…với những mô-típ hoa văn rồng rắn, hoa lá, chim muông, thú vật
xung quanh những sự tích về Phật.
Bún nước lèo Khmer.
Bún nước lèo - Đậm đà hương vị ẩm thực Khmer
Thưởng thức một tô bún nước lèo nóng hổi, lẫn mùi thơm của sả
với ngải bún, có vị mặn ngọt của mắm, mùi hăng của các loại rau mùi cùng với vị
cay của ớt, chúng ta mới cảm nhận được hết hương vị đặc biệt của món ăn mang đậm
hương vị ẩm thực Khmer.
Từ bao đời nay, Nam Bộ được xem là vùng đất của sự hội tụ bản
sắc văn hóa của các tộc người Việt - Hoa - Chăm - Khmer. Trong đó, văn hóa ẩm
thực làm nên nét riêng của mỗi tộc người. Nếu như người Hoa có hủ tíu, người
Chăm có món Tung lò mò thì người Khmer có món bún nước lèo nổi tiếng khắp nơi,
được nhiều du khách biết đến.
Tài liệu ẩm thực Việt Nam ghi nhận, bún nước lèo có lịch sử từ
lâu đời và từ lâu đã trở thành món ăn truyền thống của người Khmer. Đến thăm đồng
bào Khmer mà không thưởng thức một tô bún nước lèo thì đó thật sự là một thiếu
sót to lớn trong hành trình của bạn.
Bằng cảm nhận tinh tế về hương vị và sự tài tình trong việc kết
hợp sự đang dạng về thực phẩm và gia vị, người Khmer đã mang đến những tô bún
nước lèo đầy hấp dẫn.
Tài liệu ẩm thực Việt Nam ghi nhận, bún nước lèo có lịch
sử từ lâu đời và từ lâu đã trở thành món ăn truyền thống của người Khmer.
Để có được một tô bún thơm ngon, cần đến sự khéo léo của người
chế biến khi nấu nước lèo. Bởi nước lèo chính là “linh hồn” của tô món ăn. Gia
vị không thể thiếu khi chế biến nước lèo là cây ngải bún. Vì đây là gia vị khử
mùi tanh của mắm và làm thơm nước lèo. Điều đặc biệt là nước lèo ở đây trong
veo, không lợn cợn. Bởi người khơ me có công thức chế biến rất lạ. Nước lèo được
nấu bằng xương ống, xương sườn lợn, tôm thẻ ninh nhỏ lửa trong nước, hớt bọt để
lấy nước dùng trong, ngọt; hoặc có thể nấu từ củ cải trắng và thêm nước dừa
tươi cho có độ ngọt thanh. Sau đó gia thêm mắm bằng cách: mắm cá sặc nấu với nước,
sôi hớt bọt kỹ, lọc bỏ xương lấy nước. Cho nước mắm vào nấu chung với nước hầm
xương, cá, nước dừa xiêm và thêm nước lã. Kế đến mới cho ngải bún, sả cây vào nấu
sôi. Đây là giai đoạn quan trọng phải hớt bọt thật kỹ thì nồi nước lèo mới
trong, ngọt thanh, rất ngon.
Để món ăn thơm ngon hơn, điều quan trọng là biết chọn loại
bún. Những cọng bún làm từ gạo dẻo sẽ là lựa chọn tốt nhất. Món bún nước lèo
Sóc Trăng không thể thiếu cá lóc, tép và thịt heo quay. Cá lóc sau khi luộc
chín phải được tách xương và da bỏ đi, chỉ còn giữ lại những miếng thịt trắng
phau. Còn tép thì phải là loại tép đất bóc hết vỏ, chỉ còn lại phần thân đỏ
tươi cuộn tròn. Thịt heo quay vừa có nạc vừa có mỡ, được xắt sợi chỉ to hơn đầu
đũa ăn một chút. Ăn kèm với bún có rau muống, giá, bắp chuối, hẹ và rau thơm.
Đặc biệt, chính nước chấm được nấu từ me, nước mắm ngon, hòa
cùng đường tạo nên hỗn hợp nước chấm ngon và hấp dẫn. Một tô bún nóng hổi.
Trong đó, có sự hòa quyện của vị mằn mặn thơm phức của mắm, thơm giòn của thịt
quay, ngọt dai của tôm tươi, thêm vài miếng cá lóc phi lê mềm tan, mùi thơm đặc
trưng của ngải bún hòa quyện trong bát nước lèo trong veo đã làm nên một món ăn
đậm chất Khơ me.
Cốm dẹp được rang bằng nồi đất sẽ rất
thơm, ngon.
Cốm dẹp - món ăn dân dã của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu
Long
(TH-CinetDTV)
Cốm dẹp không chỉ là một món ăn ngon, nó còn mang ý nghĩa tâm
linh sâu sắc, mang đậm nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer ở Đồng
bằng sông Cửu Long.
Trong văn hóa ẩm thực của đồng bào dân tộc Khmer ở đồng bằng
sông Cửu Long có nhiều món ăn dân dã rất nổi tiếng, ngon miệng như: Bập bè nấu
canh mắm, bún nước lèo, mắm bò hóc, bánh rừng, bánh ống… Trong đó, cốm dẹp là
món ăn dân dã được nhiều người ưa thích.
Khi hạt nếp vừa giòn thì cho vào cối,
dùng cối bồng,
chày bằng gỗ để quết.
Sau đó, dùng nia sảy cho hết trấu rồi
đem sàng để có
được loại cốm ngon nhất.
Cách làm cốm dẹp rất đơn giản, nguyên liệu gồm có nếp mới, dừa
rám vỏ, đường thốt nốt hoặc đường cát. Nếu làm theo truyền thống thì cốm dẹp
thường được quết vào buổi chiều hoặc vào những đêm trăng sáng. Dụng cụ được bày
biện trước sân nhà, bên cạnh bếp lửa được đốt bằng rơm có con cháu vây quanh rất
nhộn nhịp. Nếp được ngâm nước khoảng chừng vài phút trước khi bỏ vào nồi rang.
Nếu rang bằng nồi đất thì cốm dẹp sẽ rất ngon, số lượng nếp rang tùy thuộc cối
quết lớn hay nhỏ, phải rang nếp chín thật đều. Khi hạt nếp vừa giòn thì cho vào
cối, dùng cối bồng, chày bằng gỗ để quết.
Chày dùng để quết cốm dẹp có hình trụ, dài khoảng 1,5 m, nơi
tay cầm được vuốt tròn vừa nắm, hai đầu bự ra. Hai người quết cốm thường là một
nam một nữ trong phum, sóc đứng đối diện nhau bên cối, mỗi người một tay cầm
chày, một tay cầm cây gạt vừa quết vừa gạt cho hạt nếp dính chày rớt xuống cối.
Họ luân phiên quết cho đến khi những hạt nếp dẹp lép thì nghiêng cối cào hết cốm
ra nia. Cầm nia trên tay, người ta sảy cho hết trấu rồi đem sàng để có được loại
cốm ngon nhất. Cốm mới quết rất giòn và dẻo. Muốn cốm ngon hơn, người ta phải
phối hợp cốm dẹp với dừa nạo và đường cát trắng.
Cốm dẹp sẽ trở thành rất ngon sau khi
hoàn chỉnh.
Theo kinh nghiệm của người Khmer thì cứ hễ 1 lít cốm dẹp thì
dùng 1 trái dừa vàng bẹ đã nạo cùng nửa ký đường cát trắng. Ba thứ này trộn vào
nhau để chừng 4 - 6 giờ cho những hạt cốm thấm đường, dừa, trở nên mềm dẻo mới
ngon. Muốn để ăn lâu ngày hoặc đem làm quà cho bà con, bè bạn, người ta gói cốm
đã trộn sẵn trong lá chuối, lá dừa như đòn bánh tét, bánh dừa đem nấu hoặc hấp.
Khi đó, ta có bánh tét cốm dẹp, ngon và lạ miệng.
Không chỉ là một món ăn ngon, cốm dẹp còn là một món ăn mang
ý nghĩa tâm linh sâu sắc, mang đậm nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc
Khmer. Trong ngày lễ Oc Om Boc hay còn gọi là Lễ cúng trăng, cốm
dẹp được đồng bào tôn kính dùng để lễ vật dâng lên Trời, Phật nhằm tạ ơn các đấng
thiêng liêng đã ban bố cho chúng sanh một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội
thu.
Lễ Tết của người Khơ Me
Khmer Classical Dance
Story of Preah Thong Neang Neak
Story of Preah Thong Neang Neak
Princess Buppha Davi Perform Apsara Dance
Điệu múa Rô Băm - Khmer
Apsara - Cambodian Royal Dance
Độc đáo nhạc cụ dân tộc Khmer
Nhạc ngũ âm khmer
Múa cổ tích dân tộc Khmer
Điệu múa Cánh cung nửa vầng Trăng - ĐH Trà Vinh
Dân ca Khmer
Múa trống Chhay Đam của dân tộc Khmer Nam bộ
Lễ hội Ok-Om-Bok nhận danh hiệu
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Lễ hội đua bò Bảy Núi - Tri Tôn
An Giang của dân tộc Khmer
An Giang của dân tộc Khmer
Đua Ghe Ngo - Sóc Trăng 2014
Đua Ghe Ngo - Sóc Trăng 2014 (Việt ngữ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét