Trong dịp nhớ về 80 năm ra đời Tự Lực văn đoàn (TLVĐ), có khá
nhiều bài viết, nghiên cứu thảo luận về văn đoàn này; song như thường lệ, số lớn
ý kiến thường chỉ thiên về kể công lao, đóng góp của TLVĐ, xem nó như một tấm
gương; ít thấy ai đặt hoạt động TLVĐ vào đời sống văn nghệ đương thời để mô tả,
nhận định các hoạt động cụ thể của nó; cũng ít thấy ai chú ý tìm hiểu xem TLVĐ
được cảm nhận ra sao trong tầm nhìn của những người đương thời, nhất là những đồng
nghiệp viết văn làm báo, hoặc công chúng văn nghệ thời ấy.
Thiết nghĩ, nếu xem xét hoạt động của TLVĐ từ tầm nhìn gần,
không lý tưởng hóa, người ta sẽ thấy TLVĐ ra đời và hoạt động như một nhóm lợi
ích.
Khái niệm “nhóm lợi ích” được sử dụng vào nghiên cứu ở lĩnh vực
xã hội nhân văn, song chỉ mới thường được dùng để xem xét các hoạt động kinh tế
xã hội hơn là các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Nhưng thật ra, trong loại hình
đa dạng các nhóm lợi ích, bên cạnh nhiều loại khác, người ta cũng kể tới các
nhóm có tổ chức trong các lĩnh vực tôn giáo, khoa học và văn hóa (nhà thờ, các
giáo phái, các hiệp hội khoa học, các hội văn nghệ sĩ, v.v…). [1]
Những nhóm văn nghệ sĩ được liên kết một cách tự do, tự nguyện,
theo đuổi các hoạt động văn hóa-xã hội có hoặc không có lợi nhuận, hầu hết đều
có thể xem như các nhóm lợi ích. Ta thấy rõ, chẳng hạn, một tờ báo tư nhân
không thể là một “xí nghiệp công ích”; nó do một người hoặc một nhóm bỏ vốn đầu
tư và điều hành hoạt động, hưởng lợi hoặc chịu thiệt hại từ kết quả hoạt động của
mình.
TLVĐ gồm 7 thành viên: 1/ Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), 2/
Khái Hưng (Trần Khánh Giư), 3/ Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), 4/ Hoàng Đạo (Nguyễn Tường
Long), 5/ Thế Lữ (Nguyễn Đình Lễ), 6/ Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), 7/ Xuân Diệu
(Ngô Xuân Diệu); các thành viên này cùng với nhiều người khác trong gia đình
Nguyễn Tường và một số người thân khác của các thành viên, hoạt động trên 2 tờ
tuần báo “Phong Hóa” (1932-1936), “Ngày Nay” (1935; 1936-1940), và nhà xuất bản
Đời Nay (1934-1945).
So với nhiều nhóm nhà văn khác, khi tụ khi tán, suốt những
năm 1930-1945, thì cơ sở ấn loát kể trên của TLVĐ tỏ ra vững vàng hơn hẳn. Tuy
nhiên, các cơ sở báo chí xuất bản này không hoạt động như một cơ sở kinh doanh ấn
loát bất kỳ nào đó.
Người ta biết, chẳng hạn, nhà xuất bản Tân Dân của Vũ Đình
Long hoạt động xuất bản sách báo như một tổ chức sản xuất kinh doanh ấn phẩm,
chủ yếu là các loại ấn phẩm văn học; doanh nghiệp này làm ra khá nhiều loại ấn
phẩm, cả đều kỳ (tuần san, bán nguyệt san, nguyệt san) lẫn không đều kỳ (sách),
quy tụ sự tham gia của khá nhiều nhà văn, dịch giả, nhà biên khảo; tuy vậy,
doanh nghiệp này lại không tính đến, thậm chí không chấp nhận sự tập hợp các
nhà văn tại đây theo các dấu hiệu đồng thuận về những tư tưởng hay thị hiếu nghệ
thuật nhất định. Do vậy, giữa ông chủ Tân Dân và các nhà văn cộng tác với các ấn
phẩm của nhà Tân Dân chỉ có các quan hệ lao động (thuê người làm và làm thuê)
hoặc thương mại (mua bản thảo, bán bản thảo) mà trong đó sự xung đột lợi ích là
khá thường trực (dù không lớn, chủ yếu chỉ xoay quanh vấn đề định mức hoặc cách
tính nhuận bút), sự cộng đồng lợi ích tuy vẫn có nhưng là tương đối nhỏ; còn lại,
hầu như không có gì gắn bó họ với nhau thành một nhóm lợi ích.
Trong khi đó, các tờ “Phong Hóa”, “Ngày Nay” và nhà xuất
bản Đời Nay ưu tiên hoạt động như công cụ, như phương tiện của nhóm tác gia
trong TLVĐ. Nó ưu tiên đăng tải tác phẩm của các thành viên trong nhóm, sau đó
mới dành chỗ đăng một số tác phẩm của các cộng tác viên, tức là những người
ngoài nhóm ấy, chỉ có liên hệ hoặc thân hoặc sơ với hầu hết hoặc một vài thành
viên của nhóm. Ngay sau khi sắp hoàn tất việc đăng báo, các tác phẩm của các
thành viên sẽ được chuyển sang khâu in thành sách. Chính nhờ được đặt vào quy
trình liên tục này về ấn loát nên các tác phẩm của các nhà văn trong TLVĐ đều
được công bố trọn vẹn, hầu như không tác phẩm nào bị dở dang, mất mát (trừ những
tác phẩm mới chỉ đăng trên “Ngày Nay, kỷ nguyên mới”, 1945, ví dụ truyện dài
“Xiềng Xích” của Khái Hưng). Trong sự tiếp cận của các giới sự tầm nghiên cứu hậu
thế, đây là một lợi thế khá lớn của các nhà văn trong TLVĐ so với phần đông tác
giả đương thời, tác phẩm thường đăng tải trên nhiều tờ báo khác nhau, thường bị
gián đoạn do các báo bị đóng cửa hoặc có thay đổi thành phần tòa soạn, rốt cuộc
là số tác phẩm bị thất lạc, mất mát không ít.
Cùng với việc đảm bảo tốt khâu công bố tác phẩm cho các nhà
văn trong nhóm, TLVĐ còn chú trọng tạo dư luận, gây tiếng vang cho các nhà văn
thành viên, xây dựng uy tín, giá trị cho sự nghiệp văn chương của họ. Đây là một
chiến lược nhiều mặt, được hai tờ báo “Phong Hóa”, “Ngày Nay” và các thành viên
TLVĐ ráo riết thực hiện theo nhiều cách, nhất là trong dăm bảy năm đầu từ khi
nhóm này xuất hiện.
Chẳng hạn, người ta có thể thấy, từ khi ra đời (1933) đến khoảng
1938, TLVĐ có chiến lược hạ uy tín những tác gia khác, ngoài văn phái mình.
Trước hết, việc này nhắm vào những người già, những tác gia
thuộc thế hệ trước.
Vì sao một trong những thói tật khá phổ biến ở xã hội đương
thời là tật nghiện rượu, lại không được các biếm họa trên “Phong Hóa” gán cho
hai gã Lý Toét, Xã Xệ hư cấu, như đối với nhiều thói tật khác, mà lại gán cho một
Tản Đà cụ thể? Điều này, vào năm 1937, Vũ Trọng Phụng có lời giải:
“Xưa kia, muốn cho Thế Lữ nổi tiếng về thơ mới, Tự Lực văn
đoàn đã phải dùng đến cách làm cho thiên hạ tưởng Nguyễn Khắc Hiếu là một kẻ
không có tư cách nhân phẩm gì nữa, khốn nạn vô cùng”. [2]
Cố nhiên, đến những năm 1938-39, TLVĐ sẽ thay đổi thái độ,
trên Ngày Nay sẽ có những bài khen ngợi thơ Tản Đà, rồi nhà Đời Nay đề nghị in
thơ Tản Đà thành các tập tuyển, v.v… Nhưng ở thời đầu TLVĐ, việc nhóm này đả
kích Tản Đà, là điều thấy rõ; đó cũng là lúc phong trào thơ mới đang khởi lên,
việc bài xích thơ cũ, khuếch trương thơ mới được xem là một nhiệm vụ lớn mà
TLVĐ muốn giành lấy trọng trách.
Có thể nói, TLVĐ, thông qua các biếm họa, hý họa, các mục vui
cười trên “Phong Hóa”, đã tỏ rõ một ý hướng liên tục bôi nhọ thể diện khá nhiều
nhân vật uy tín đương thời. Trong số ấy, Tản Đà chỉ là một, và hẳn chưa phải là
đối tượng hàng đầu. Bởi, ngay từ đầu, được nhắm đến thường xuyên ở các trang
châm biếm, hý hước của “Phong Hóa” là bộ đôi Vĩnh - Quỳnh.
Nước Nam có hai người tài
Thứ nhất sừ Ĩnh thứ hai sừ Uỳnh
Một sừ béo múp rung rinh
Một sừ lểu đểu như hình cò hương
Không vốn liếng chẳng ruộng nương
Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu
Bây giờ đang xỉa xói nhau
Người cầu lập hiến, kẻ câu trực quyền
“Thưa các ngài, thực vi tiên,
Muốn xem chiến đấu, quẳng tiền vào đây” [3]
Bài thơ châm biếm này phải chăng là “hiền lành”, “vô hại”,
theo như lời bình của không ít phê bình gia hậu thế? Thưa không! Bởi sự lược
quy nghề làm báo vào nghề “buôn bán dư luận”, – xưa cũng như nay, dù là câu đùa
cũng vẫn cứ nhuốm màu xuyên tạc độc ác; vả chăng, tại sao văn phái Tự Lực lại
loại trừ mình khỏi nghề “buôn bán dư luận” trong khi chính mình cũng làm báo? Ở
đây, tư tưởng chính trị của Phạm Quỳnh về một nền “quân chủ lập hiến”, của Nguyễn
Văn Vĩnh về thiết chế “cai trị trực tiếp” của chính quyền Pháp, – vốn là hai đề
xuất có trọng lượng trong những thảo luận đương thời về tương lai chính trị
Đông Dương, – đã bị nhóm Tự Lực đả kích phủ định. Vậy nên, có thể nói, nếu từ
thời ấy cho đến tận cuối thế kỷ XX, một bộ phận lớn của công chúng người Việt vẫn
còn giữ những định kiến bất công đối với hai nhân vật hàng đầu này của văn hóa
Việt Nam thời hiện đại (Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh), thì, góp vào việc xây dựng
những định kiến ấy, phổ cập định kiến ấy vào công chúng, không thể không có phần
công sức đáng kể của “Phong Hóa”, “Ngày Nay”, hai cơ quan của TLVĐ!
Ngay Phan Khôi, cùng thế hệ Tản Đà, người đã rất sớm nhận ra
và lên tiếng khen giọng điệu báo chí mới mẻ của “Phong Hóa”, [4] nhưng
đáp lại, “Phong Hóa” luôn dùng lối diễu cợt để giữ khoảng cách, để dứt khoát gạt
Phan Khôi về phái già. Bỏ qua rất nhiều trò chọc ghẹo vốn là đương nhiên khó
tránh khỏi của thể tài hài báo, ít ra vẫn có một sai lạc không thể biện hộ, ấy
là việc “Phong Hóa” và TLVĐ tạo ra thành ngữ “lý luận Phan Khôi” với hàm ý chế
nhạo.
Trong khi tư duy lô-gích là cái thiếu nhất ở người Việt,
trong khi Phan Khôi là nhà báo thể hiện sự cố gắng nhiều hơn hết để nghĩ mới về
mọi sự mọi việc, trong khi chính TLVĐ cũng hướng tới cái mới, duy lý, tiến bộ
cho văn hóa xã hội Việt, thì chính họ lại dựng lên thành ngữ này, hùa theo luồng
định kiến thông tục cũ kỹ trong giới cầm bút vốn đặc trưng cho xu thế thù ghét
lý tính, bài xích lý luận của số đông với tâm thế gia trưởng thủ cựu; ở phương
diện này, Nhất Linh (nếu ông là tác giả chính của thành ngữ này) chỉ đứng ngang
với những cây bút tầm thường, và tỏ ra thấp hơn Phan Khôi rõ rệt.
Nhưng khi đó Nhất Linh và các thành viên TLVĐ đã hành động
theo lợi ích nhóm, mà chiến lược là hạ uy tín của những “đàn anh” trong báo giới
văn giới, bất kể là ai.
Mãi đến năm 1939, người ta mới thấy “Ngày Nay” in một bài của
Phan Khôi về “lịch sử tóc ngắn” với lời dẫn vừa phải. [5] Đó có thể
xem là cử chỉ giải hòa của TLVĐ đối với người đàn anh này chăng?
Một trong những cách nữa để TLVĐ tạo sự chú ý đến sáng tác của
các nhà văn trong nhóm là gây ra những sự cố. Tố cáo cây bút nào đó, càng có
tên tuổi càng tốt, dường như đã “ăn cắp” tác phẩm của nhà văn nhóm mình, ‒ là một
thủ đoạn đắc sách. Theo cách này, đầu năm 1936, “Phong Hóa” phao lên rằng Nguyễn
Công Hoan đã “chịu khó sưu tầm để viết “Lá Ngọc Cành Vàng” giống “Nửa Chừng
Xuân”, và “Cô Giáo Minh” giống hệt “Đoạn Tuyệt”. [6]
Cách tạo dư luận ở đây là tận dụng, lạm dụng văn trào lộng,
hý hước, để khi bị chất vấn theo lối nghiêm chỉnh thì trả lời: đấy chỉ là một
câu khôi hài. Nhưng họ biết, lời nói đùa có thể được công chúng tin chắc hoặc
ngờ ngợ tin là thật, vì thế dù sao Nguyễn Công Hoan cũng phải lên tiếng, tuy
ông chỉ nhấn mạnh rằng ý tứ truyện “Cô Giáo Minh” trái hẳn với “Đoạn Tuyệt”. [7]Đến
lượt Khái Hưng đáp lại, khăng khăng giữ nhận định riêng: hai cuốn “Cô Giáo
Minh” và “Đoạn Tuyệt” “giống nhau lắm”, rồi đánh trống lảng, chuyển câu
chuyện sang trò chơi phán đoán về giá trị: cuốn nào hay hơn sẽ còn lại, tất
nhiên là lộ rõ cái ý: sách của tác giả TLVĐ nhất định phải hay hơn! [8]
Đặt trong tình trạng khá đa dạng về văn phái, về báo chí văn
học đương thời, giọng điệu khẳng định tác phẩm của văn phái mình hay hơn các
văn phái khác, báo mình xử sự tốt đẹp hơn báo khác, ‒ hầu như là một kỹ thuật
phòng ngự-phản công rất mực phổ cập. Các báo “Phong Hóa”, “Ngày Nay” của TLVĐ
không nằm ngoài ứng xử ấy. Khác với thái độ công bằng của Phan Khôi trong vai
trò “Ngự sử đàn văn”, các trang “Phong Hóa” trên đó Hàn Đãi Đậu nhặt nhạnh “những
hạt đậu dọn” trong vườn văn thiên hạ, thường lưu ý bắt bẻ những sai sót, lầm lạc
trong thơ văn các tác giả khác, chứ gần như không khi nào động đến tác phẩm các
thành viên TLVĐ.
Sự hoạt động liên tục của các trang này – bên cạnh tác dụng cảnh
báo giới viết văn viết báo đương thời về nhiệm vụ làm sáng sủa câu văn tiếng Việt
– còn mang lại những kết quả chỉ có lợi riêng cho TLVĐ, tạo cho văn đoàn này và
các thành viên của nó một thế đứng trên, thế đứng đàn anh, áp đảo đối với các
cá nhân nhà văn cũng như các văn phái khác, đương thời. Các tờ báo của TLVĐ có
mặt liên tục trong gần 10 năm, cho nên áp lực mà họ tạo ra trong đời sống văn
nghệ đương thời là rất mạnh, khiến họ mặc nhiên được xem như nhóm văn nghệ chi
phối diện mạo văn học những năm 1930-40. Chỉ cần đọc hồi ức Nguyên Hồng về lần
đầu tiên được gặp Thế Lữ, khoảng 1934-35 ở Hải Phòng, cảm nhận cảnh người anh họ
sang trọng, tài cao, học cao, hỏi han ban phát và khích lệ người em họ nghèo
khó ham học ham viết, [9] là có thể hiểu vì sao, khi nói tới Vũ Trọng
Phụng, báo “Ngày Nay” lại sẵn sàng miệt thị ông là “nhà văn xã hội kỳ quặc”
chuyên “lòe độc giả bằng cái học vấn sơ học của mình”. [10]
Giới nghiên cứu hậu thế hiện nay thường hướng cái nhìn ngưỡng
mộ về di sản của TLVĐ, song cũng nên biết một phần dư luận đương thời đối với
văn đoàn này ra sao. Người ta không khó để thấy được tìm được những ví dụ loại
này ở báo chí Hà Nội đương thời.
Xin dẫn một số ý kiến độc giả gửi tới “Hà Nội Báo”, biểu đồng
tình với việc báo này phê phán TLVĐ, nhân những tranh luận giữa tuần báo này với
“Phong Hóa”, từ đầu năm 1936 cho tới khi “Phong Hóa” bị đóng cửa.
Các độc giả này kể ra ba cái tội của báo “Phong Hóa”
là:
1/ chế diễu cái ngu dốt của dân quê:
“Bọn Lý Toét, Xã Xệ không phải là bọn độc ác, không phải là
cái “họa” cho xã hội, trái lại họ hiền lành, tâm hồn ngay thật, một hạng người
vô sản khổ sở đáng thương hơn đáng cười […] Thế sao Phong Hóa lại nêu
ra làm trò? [….] lấy cái thông minh (!) của mình mà chế diễu cái ngu dốt
của người, có nên không?” (ý kiến ông Thiện Quả); [11]
2/ chế diễu những người tàn tật:
“Chế diễu cái say của thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã là
quá lắm rồi, vì đó là cái đời tư của người ta, nhưng đến cái lỗ mũi to và hơi đỏ
đỏ ở trên mặt nhà thi sĩ ấy, thì đã có tội tình gì, mà có một độ, các ông đưa
ra làm đầu đề cho biết bao bức hí hước? […] Trên mặt báo Phong Hóa, đã biết
bao lần, các ông đưa những người ấy ra làm trò cười cho một hạng người dư ăn dư
để! Thật ra cái pha trò ấy, người có chút ít giáo dục, ai chịu được? Một bức
tranh vẽ một người mù bị sa hố chẳng hạn, có thể làm cho một đám trẻ con đua
nhau cười rũ rượi. Rồi đám trẻ con ấy hẳn phải nhờ Phong Hóa mà biết
khinh ngạo người tàng tật nghèo khổ?!” (ý kiến ông Phạm Văn Tính); [12]
3/ dìm đồng nghiệp: “Không có một cách cạnh tranh bất chính
nào là Phong Hóa không dùng tới, để dìm đồng nghiệp xuống. Bất kỳ một tờ báo
nào mới ra cũng bị Phong Hóa nói xỏ nói xiên, nói châm nói chọc, có khi kéo cả
đại đội ra để công kích. Họ công kích như vậy để làm gì? Cốt cho đồng nghiệp
lùi đi, để trên bãi cỏ xanh, chỉ còn một mình họ ăn…” (ý kiến ông Đặng Thế
Xương).[13]
Như vậy, có thể nói, trong tầm nhìn của công chúng đương thời,
tiếng nói của TLVĐ không phải chỉ có một chiều được hưởng ứng, đồng tình, mà
còn gây không ít những phản cảm, phản kháng.
Nhìn vào hoạt động ngôn luận của các thành viên TLVĐ, có thể
thấy rõ rằng, khi đang hoạt động trong văn đoàn, họ luôn luôn giữ thái độ nhất
quán của văn đoàn đối với mọi vấn đề, mọi sự việc trong đời sống văn nghệ. Chỉ
sau khi đã ra khỏi quỹ đạo của TLVĐ, họ mới bộc lộ ý kiến riêng, thái độ riêng.
Đứng trong TLVĐ, Xuân Diệu trước sau bảo vệ quan niệm thơ mới
của “trường phái Tự Lực”, tức là bảo vệ lối thơ mới kiểu Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy
Cận,… chứ không thừa nhận thành tựu sáng tác thơ của các tác giả ngoài văn
đoàn, bất kỳ là ai. Xuân Diệu từng viết các bài mang tính luận chiến chống kiểu
thơ tượng trưng, siêu thực của Hàn Mặc Tử, Bích Khê, điều này có thể giải thích
được, vì hướng của các nhà thơ này đưa thơ đi ra khỏi phạm vi lãng mạn duy lý
quen thuộc với “trường phái Tự Lực”. Nhưng ngay đối với những nhà thơ khá tương
đồng về kiểu sáng tác, ví dụ Huy Thông, thì “trường phái Tự Lực” cũng bài xích.
Thế Lữ trong vai Lê Ta của những dòng “tin văn … vắn” đã không ít lần bới móc
những ý tứ tiểu tiết dường như là vô lý trong thơ Huy Thông, chẳng hạn Lê Ta rất
cố gắng chứng minh cô Tần Ngọc mà nhà thơ Huy Thông gửi gắm tâm sự kia, thật ra
là một nữ nhân vật bịa tạc! Sự việc ấy xét ra chẳng có gì hại gì đến luân lý,
nhưng sở dĩ bị bới móc, có thể chỉ vì Huy Thông là người thuộc nhóm Lê Tràng Kiều,
Lưu Trọng Lư, nhóm gắn với tờ “Hà Nội Báo” vốn xung khắc với TLVĐ.
Mãi đến năm 1946, khi Xuân Diệu là nhà báo tham gia phái đoàn
Phạm Văn Đồng sang Pháp, có gặp Phạm Huy Thông và đem bài thơ “Chào sứ giả của
tự do” thi sĩ này tặng phái đoàn về đăng bán nguyệt san “Tiên Phong” (của Hội
văn hóa cứu quốc). Rồi năm 1955, cựu thành viên TLVĐ ấy mới lần đầu tiên viết về
nhà thơ này, khẳng định “Huy Thông là một thi sĩ Việt Nam nổi tiếng đã gần 25
năm nay. Tác giả Tiếng địch sông Ô để lại cho những người đã đọc thơ
mình một cảm tưởng hùng mạnh, trẻ trung đến nay chưa xóa nhòa trong trí nhớ.” [14] Vẫn
còn “trong trí nhớ”, tức là Xuân Diệu đã biết từ lúc “Tiếng địch sông Ô” ra đời,
nhưng nhất quyết không nói đến viết đến, khi Xuân Diệu còn là người của TLVĐ,
vì đó là thành tựu sáng tác của một tác gia ngoài văn đoàn mình!
Nhìn chung, thái độ thường là kẻ cả, trịch thượng của các
thành viên TLVĐ đối với các nhà văn và các nhóm văn nghệ khác đương thời, một mặt
tạo cho họ uy thế, sự thán phục, sự lắng nghe, sự bắt chước, học theo làm theo,
từ phía những cây bút khác, nhất là số người đang tập tành nghề viết; nhưng mặt
khác cũng tạo khoảng cách giữa các nhà văn trong TLVĐ đối với các nhà văn khác.
Khoảng cách này có thể đã khiến hầu hết các nhà văn trong TLVĐ xem thường,
không tính đến, không xem xét, không tiếp nhận kinh nghiệm từ các nhà văn ngoài
TLVĐ; đây là điều không hay, thậm chí có hại cho con đường sáng tác của họ.
Các nhà thơ mới trong TLVĐ, – chủ yếu là Thế Lữ và Xuân Diệu
– chứng tỏ được vai trò dẫn đầu ở giai đoạn đầu của phong trào thơ mới; sáng
tác của hai ông có thể được xem là đỉnh cao của thơ mới thời đầu, tạm gọi là kiểu
thơ lãng mạn duy lý (cảm xúc lãng mạn, ngôn ngữ duy lý).
Nhưng phong trào thơ mới không dừng lại ở đó. Từ những năm
1938 – 1940, trong phong trào vừa thấy có hướng siêu thực, tượng trưng (trường
thơ Bình Định, “trường thơ loạn”, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên), vừa thấy
có hướng tìm lại chất trừu tượng phương Đông (nhóm Xuân Thu Nhã Tập, với Phạm
Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh), vừa thấy có hướng tìm lại hồn thơ và
chất liệu thơ Việt dân gian (nhóm “Bắc Hà” với Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Giản
Chi, Nguyễn Bính), v.v…
Trong tình hình ấy, nhóm thơ TLVĐ tuy có phát hiện thêm được
một số giọng thơ mới (Huy Cận, Tế Hanh) làm tăng thanh thế cho nhóm mình, nhưng
có vẻ như cả hai người chủ trì, Thế Lữ và Xuân Diệu, quá tự tín, chỉ lên tiếng
phê phán chứ không thừa nhận sự hữu lý của các hướng phát triển mới trong phong
trào thơ tiếng Việt. Việc nhà “Đời Nay” in tập thơ “Mây” (1943) của Vũ Hoàng
Chương chưa đủ tỏ độ cởi mở của TLVĐ đối với các nhà thơ ngoài nhóm ấy. Trong
khi đó, chính sáng tác thơ của hai cây thơ chủ chốt này của TLVĐ đã bắt đầu tỏ
ra khô cạn. Sau khi cho in “Mấy vần thơ, tập mới” (1941), Thế Lữ cạn nguồn thơ,
chuyển sang hoạt động sân khấu, và trên thực tế cũng dần dần rời khỏi TLVĐ. Còn
Xuân Diệu thì sau tập “Thơ Thơ” (1938), bản thảo tập “Gửi hương cho gió” đã
không được nhà Đời Nay của TLVĐ đứng in, phải đưa in ở nhà xuất bản Thời Đại
(1945), tên tác giả Xuân Diệu ở tập này không còn gắn với TLVĐ như tập trước mà
chỉ còn gắn với bộ đôi Huy-Xuân. Sau tháng Tám 1945, Xuân Diệu dần dần gắn với
bán nguyệt san “Tiên Phong” của Văn hóa Cứu quốc, và hoàn toàn cách ly với địa
chỉ 80 Grand Buddha (Quán Thánh) khi ấy là tòa soạn của tờ “Ngày Nay, kỷ nguyên
mới” !
Các nhà văn trong TLVĐ từng khiến giới viết truyện đương thời
cảm phục và gắng sức đua theo, vì kiểu tiểu thuyết luận đề là do họ đề xướng và
cho ra mắt những sản phẩm đầu tiên. Song, mô hình tiểu thuyết luận đề chỉ có thể
là điểm xuất phát chứ chưa thể là giải pháp cho mọi vấn đề của sáng tác văn
xuôi tự sự bằng tiếng Việt ở thời đại mới. Những tiểu thuyết luận đề đầu tiên
ra mắt chừng vài ba năm là đã thấy xuất hiện các sáng tác cùng kiểu thức ấy của
những cây bút ngoài TLVĐ. Quá trình văn học diễn ra trong chưa đầy 20 năm đã
làm xuất hiện một nền tiểu thuyết khá phong phú với rất nhiều tác giả và tác phẩm.
Tuy vậy, điều đáng nói lại là, nếu như các cây bút văn xuôi trong TLVĐ đã in dấu
vào mô hình thể tài tự sự này ở điểm khởi đầu, thì chính họ lại không có sản phẩm
nào nằm trong sự kết tinh của cả quá trình phát triển ấy. Quả thật, không có
tác phẩm nào đáng gọi là kiệt tác trong số các tiểu thuyết TLVĐ. Bởi nếu nói đến
kiệt tác ở văn xuôi tự sự hư cấu giai đoạn ấy, người ta chỉ kể được “Số Đỏ” (của
Vũ Trọng Phụng) và “Chí Phèo” (của Nam Cao), hai tác phẩm của hai nhà văn ngoài
văn đoàn Tự Lực.
Lý giải điều này là việc không dễ.
Tuy vậy, có thể nghĩ tới một trong những lý do là sự quá tự
tín của các nhà văn trong TLVĐ. Họ đã nghĩ một cách nghiêm chỉnh đến việc tiếp
nhận kinh nghiệm sáng tác của các nhà văn Âu Tây, nhưng họ lại hầu như hoàn
toàn xem thường kinh nghiệm sáng tác của giới viết văn người Việt cùng thời với
mình.
Chẳng hạn, về ngôn ngữ, họ chủ trương và thực hành việc
viết bằng một thứ tiếng Việt trong sáng, giản dị, dễ hiểu, song họ hầu như
không để ý đến việc những người viết văn đương thời thể nghiệm hoặc xử lý ra
sao đối với chất liệu đời sống Việt Nam hoặc chất liệu ngôn ngữ tiếng Việt. Hoặc,
họ có hầu như ngay từ đầu những ý tưởng về nhu cầu thoát khỏi chế độ đại gia
đình để tìm đến kiểu gia đình hạt nhân, vốn phù hợp với sự phát triển con người
cá nhân của một lớp thanh niên mới xuất hiện trong xã hội thuộc địa Âu hóa những
năm 1920-30; song họ có khá ít sự hiểu biết về các tầng lớp dưới, ở cả thôn quê
lẫn đô thị cũng đương thời ấy. Thế nhưng họ lại xem thường những khảo sát về những
lớp người ấy do các nhà văn nhà báo bên ngoài văn phái họ thực hiện.
Công việc viết phóng sự cho báo chí chẳng hạn, đem lại cơ hội
cho người viết đến trước ít ra hai vấn đề lớn của sáng tác tiểu thuyết: sự
nghiên cứu đời sống và sự miêu tả ngôn ngữ.
Đời sống mà nhà văn nhà báo tiếp cận theo lối phóng sự đưa lại
những nhận xét, nhận định về người và việc, những xu hướng, thói tật, vấn đề,
v.v... mà rồi ra chính họ có thể đưa trở lại trang viết với mức độ hư cấu rộng
rãi hơn.
Cũng chính diện mạo cụ thể của con người các vùng miền mà nhà
văn nhà báo xúc tiếp khi thực hiện các phóng sự buộc họ phải xử lý các dạng biệt
ngữ, phương ngữ (so với các chuẩn mực nào đó), phải dần dà làm công việc miêu tả
ngôn ngữ – tức là cho thấy những con người đương thời đang nói năng ra sao. Những
thực hành loại này đã từ báo chí đi vào văn chương, từ phóng sự đi sang tiểu
thuyết. Từ Nguyễn Công Hoan đến Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, rồi Vũ Bằng, Nguyễn
Đình Lạp, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, v.v…, trên thực tế đã thể nghiệm cái
thao tác mà M. Bakhtin coi như một trong những nội dung chính của sự sáng tạo
trong nghệ thuật viết tiểu thuyết. [15] Một trong những điểm đặc sắc
của “Số Đỏ” và “Chí Phèo”, có thể nói, là đặc sắc về ngôn từ tự sự, những đặc sắc
cho phép các tác phẩm này không chỉ tiêu biểu cho xu hướng “tả thực” mà còn có
khả năng mở sang văn xuôi tự sự thuộc các xu hướng hiện đại, thậm chí “hậu” hiện
đại !
Trong khi đó, có vẻ như các tác gia trong TLVĐ hầu như đứng
ngoài sự nghiên cứu đời sống, đứng ngoài hoạt động miêu tả ngôn ngữ. Mấy tác
gia hàng đầu của tiểu thuyết TLVĐ như Nhất Linh, Khái Hưng dường như quá tự tín
khi đưa ra các luận đề mà họ cho là các vấn đề chính của xã hội và con người Việt
Nam đương thời. Cố nhiên họ đã có lý – và đã đắc thắng – trong một thời gian nhất
định. Song việc coi thường những đồng nghiệp “học vấn sơ học” tìm tòi ra sao
trên những vấn đề của đời sống Việt, và cả những màu sắc ngôn từ, ở những vùng
miền cụ thể, đã khiến những sáng tác về sau của họ yếu dần về độ sâu sắc của
các vấn đề đời sống con người, nhạt nhòa dần về màu vẻ của ngôn từ nghệ thuật.
Các tiểu thuyết của họ có văn phong sáng sủa, mực thước,
nhưng cả tác giả, người kể chuyện lẫn các nhân vật trong truyện đều nói cùng một
giọng, mọi nhân vật đều nói như nhau, hầu như không cho thấy các sắc thái giọng
nói.
Đấy chỉ là một trong số những dấu hiệu về sự khác biệt, song
lại là khác biệt về “bí kíp” của sự nhạt nhẽo ngày càng lộ rõ trong ngôn ngữ của
các tác gia văn xuôi TLVĐ, so với những sắc giọng đậm và mặn, có khi thô lỗ, có
khi tục tằn, in dấu khẩu ngữ, biệt ngữ, phương ngữ trong mạch văn của không ít
tác gia ngoài TLVĐ.
Mà đấy chỉ là một trong những ví dụ về hệ quả của thế đứng
cách bức, trịch thượng và xa lạ, của TLVĐ so với những nhà văn đương thời ngoài
nhóm ấy.
Điều đó gây thiệt hại cho họ, cho văn chương, chứ không phải
cái gì khác.
Chú thích:
[1] Về khái niệm “nhóm lợi ích”, tác giả có tham
khảo 2 tài liệu: 1/ V.I. Pantin, Gruppy interesov// Federalnyj obrazovatelnyj
portal, 14 Maja 2012 (chữ Nga); 2/ Alan Phan, Lợi ích từ … các nhóm lợi
ích// tuanvietnam.vietnamnet.vn, 26/5/2011 (chữ
Việt).
[2] Vũ Trọng Phụng: Để đáp lời báo “Ngày
Nay”: Dâm hay là không dâm// Tương Lai, Hà Nội, s. 9 (25.3.1937)
[3] Phong dao mới// Phong Hóa, Hà Nội, s. 14 (22
Septembre 1932), tr. 2.
[4] Bài có lẽ sớm nhất của Phan Khôi về Phong Hóa
là bài “Vẽ hình” trong mục “Những điều nghe thấy” ký Thông Reo (Trung Lập, Sài
Gòn, ngày 5 và 6 Février 1933).
[5] Xem: Phan Khôi: Lịch sử tóc ngắn // Ngày
Nay, Hà Nội, s. 149 (15 Fevrier 1939).
[6] Xem: Xuân thủ đâm ân // Phong Hóa, Hà Nội,
s. 172 (31 Janvier 1936), tr. 3 (Lưu ý: đây là nhại mấy từ “Xuân thủ đàm ân” /=
đầu xuân nói việc ơn ích/ mà các báo đương thời thường đặt làm tên mục thông
tin những việc thăng thưởng cho quan lại, viên chức; tòa soạn Phong Hóa ghi chú
từ “đâm” là “nẩy ra đâm ra”; đây là một trong rất nhiều mục châm biếm, hài hước
thường xuyên trên báo Phong Hóa).
[7] Nguyễn Công Hoan: Từ “Đoạn Tuyệt” đến “Cô
Giáo Minh” // Hà Nội Báo, Hà Nội, s. 9 (4 Mars 1936), tr. 8-9.
[8] Khái Hưng: Cùng ông Nguyễn Công Hoan // Phong
Hóa, Hà Nội, s. 177 (6 Mars 1936), tr. 4 (đăng lại trên Hà Nội Báo, s. 11,
ngày 18 Mars 1936, tr. 9-11)
[9] Nguyên Hồng: Nhà thơ ở Ngõ Nghè (trích hồi
ký “Bước đường viết văn”, 1970) trong sách: Thế Lữ, Cuộc đời trong nghệ
thuật, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1991, tr. 57-68.
[10] Nhất Chi Mai: Ý kiến một người đọc: Dâm hay
không dâm?// Ngày Nay, Hà Nội, s. 51 (14 Mars 1937), tr. 137 [báo đánh số
trang theo thứ tự trong bộ báo cả năm]
[11] Tội trạng báo “Phong Hóa”// Hà Nội Báo, Hà Nội,
s. 13 (1 April 1936), tr. 11 – 12.
[12] Tội trạng báo “Phong Hóa”// Hà Nội Báo, Hà Nội,
s. 14 (8 April 1936), tr. 8.
[13] Tội trạng báo “Phong Hóa”// Hà Nội Báo, Hà Nội,
s. 15 (15 April 1936), tr. 21.
[14] Xuân Diệu: Thi sĩ Phạm Huy Thông, chiến sĩ của
hòa bình// Văn nghệ, Hà Nội, s. 65 (11.3.1955), tr. 1, 8.
[15] M.M. Bakhtin: Ngôn ngữ tiểu thuyết, in
trong: Lý luận và thi pháp tiểu thuyết. Phạm Vĩnh Cư dịch và giới thiệu.
Hà Nội: Trường Viết văn Nguyễn Du, 1992, tr. 78-139.
Tháng Tám - tháng Chín 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét