Năm nay chúng ta kỷ niệm 50 năm mất nhà văn Nguyễn Huy Tưởng,
và chỉ 2 năm nữa, sẽ kỷ niệm 100 năm sinh của ông. Vậy thì nên đặt vấn đề tiếp
tục nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp ông, và qua trường hợp ông, đề cập các
vấn đề khác thuộc văn học sử Việt Nam.
Tôi muốn nêu như gợi ý về một vài điểm như sau.
1/ Thứ nhất, vấn đề nhà văn và tham vọng quyền lực
Đặt vấn đề này tức là tiếp cận Nguyễn Huy Tưởng không chỉ như
một tác gia văn học mà còn như một nhân vật lịch sử; đối tượng này cần tiếp cận
cả bằng nghiên cứu văn học lẫn bằng nghiên cứu sử học, ít nhất là nghiên cứu tiểu
sử.
Đây là một thực tế xảy ra với các nhà văn tham gia Văn hóa Cứu
quốc, ‒ tổ chức cách mạng thuộc Mặt trận Việt Minh do Đảng CS Đông Dương lập ra
và lãnh đạo. Tình thế là: các nhà văn này tham gia một tổ chức cách mạng; khi
cách mạng thắng lợi, tổ chức cách mạng trở thành nhà nước, trở thành chính phủ,
thì không ít nhà văn thành viên tổ chức này có thể trở thành quan chức nhà nước,
trở thành chính khách.
Điều này không xảy ra ngay lập tức mà xảy ra từ từ, nhưng khả
năng thì mở ra ngay khi cách mạng thành công, tổ chức cách mạng trở thành bộ
máy quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, tâm thế trở thành quan chức cấp cao, trở
thành chính khách, ‒ nói khác đi là tham vọng quyền lực, ‒ sẽ xuất hiện và chi
phối định hướng sống và hành động của không ít nhà văn là thành viên của tổ chức.
Tất nhiên không phải ở mọi thành viên Văn hóa Cứu quốc đều nảy
sinh tham vọng quyền lực. Những trường hợp như Nguyễn Hồng, Kim Lân chẳng hạn,
người ta ít quan sát thấy biểu hiện của tham vọng này, mặc dù hai ông đều có đủ
tư cách “khai quốc công thần” như các thành viên khác. Nhưng những trường hợp
như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng chẳng hạn, là những người có đầy đủ hơn
(so với các thành viên khác) về điều kiện học vấn, về năng lực hoạt động xã hội,
lại sớm được Đảng giao phụ trách tổ chức văn nghệ sĩ này, thì tham vọng quyền lực
không thể không nảy sinh và chi phối định hướng tiến thân của họ. Tôi vừa kể
tên Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, nhưng hoàn toàn có thể kể tên vào nhóm
có tham vọng này những người khác nữa: Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu, Huy Cận, và
nhiều người khác.
Nêu ra dưới ánh mặt trời, đây là những tham vọng có thực, hơn
nữa, không hề là một loại tâm thế “xấu” (như tập quán định giá nào đó có thể
quan niệm). Người nghiên cứu cần ghi nhận những trường hợp này, hơn thế, cần
tìm hiểu sự định hướng tiến thân này (tham vọng quyền lực) chi phối ra sao đến
hoạt động xã hội và nội dung sáng tác của con người vốn là văn nghệ sĩ ấy.
Nguyễn Huy Tưởng với vai trò là một trong số những người tham
gia Văn hóa Cứu quốc, sau cách mạng được giới thiệu ra ứng cử và được bầu vào
Quốc Hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I, ‒ rõ ràng là có điều kiện để thực hiện
tham vọng quyền lực với những nội dung cụ thể (và cao hơn những vị trí đã đạt
được) như: vào BCH trung ương Đảng, làm bộ trưởng, ‒ tức là những vị trí tối
thiểu để đứng vào hàng chính khách.
Nhưng Nguyễn Huy Tưởng đã lâm bệnh và mất sớm; những gì có thể
xảy ra (về sự tiến thân chính trị) đã không xảy ra. Mặt khác, qua nhật ký của
ông, người ta có thể thấy nhà văn này đã trải qua những quá trình tư tưởng, tâm
lý để tự định cho mình con đường lấy sáng tác làm sự nghiệp chung thân.
Nói cho cùng, dù có chia sẻ hay không chia sẻ sự tự định hướng
của Nguyễn Huy Tưởng thì hầu hết những văn nghệ sĩ, ‒ do đi với cách mạng mà số
phận được đặt trước tham vọng quyền lực, ‒ đều không đạt được gì trong tham vọng
ấy. Người sát cánh trong Văn hóa Cứu quốc với Nguyễn Huy Tưởng là Nguyễn Đình
Thi có thể là một “ca” điển hình. Là “khai quốc công thần” như mọi thành viên
Văn hóa Cứu quốc khác, trong đời mình lại được giao đứng đầu các tổ chức văn
nghệ sĩ trong những khoảng thời gian rất dài, nhưng Nguyễn Đình Thi chưa một lần
được tham gia BCH trung ương Đảng, chưa một lần được làm bộ trưởng, nghĩa là
chưa khi nào có được cái vị thế chính danh của một chính khách, mặc dù có thể
nói Nguyễn Đình Thi dư thừa năng lực ấy.
Phải chăng đây chính là giới hạn không thể vượt qua cho tham
vọng quyền lực của người văn nghệ sĩ đi với cách mạng? Liệu có thể so sánh ra
sao những trường hợp ở nước ta với những trường hợp tương tự ở các nước khác, từ
những M. Gorki đến A. Fadeev ở Liên Xô, R. Garaudy và L. Aragon ở Pháp, v.v…?
2/ Thứ hai, về độ chênh trong sự thức nhận trạng
thái chính trị xã hội của thế giới đương thời ở văn nghệ sĩ nước ta so với nước
ngoài.
Về mặt này, Nguyễn Huy Tưởng và nhiều nhà văn gạo cội cùng thời
ông như Nguyễn Tuân, đã để lại những chứng từ là những bài viết, những ý kiến
cho thấy các ông đều có cùng một nhận thức, cùng một kiểu tâm trạng trước các sự
biến ở Hungary, Ba Lan … trong năm 1956, đó là: lo lắng cho sự tồn tại của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nước bạn, và chỉ có thế mà thôi.
Trong sự soi sáng lịch sử, người ta sẽ thấy, ngay những con người nhạy bén nhất ở xã hội Bắc Việt Nam khi ấy đã không hề nhận biết rằng những biến động ấy có nghĩa là một bộ phận không nhỏ dân Hungary, Ba Lan đã nhận thấy “chủ nghĩa xã hội hiện thực” là không thể chịu đựng được nữa đối với họ, rằng phản ứng đó của dân các nước này là có lý, hơn thế, là đáng đồng tình. Những Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, v.v…, vào những năm 1950-60, dù có dịp được đặt chân đến dăm ba nước Đông Âu, cũng vẫn không hề biết đến điều đó.
Trong sự soi sáng lịch sử, người ta sẽ thấy, ngay những con người nhạy bén nhất ở xã hội Bắc Việt Nam khi ấy đã không hề nhận biết rằng những biến động ấy có nghĩa là một bộ phận không nhỏ dân Hungary, Ba Lan đã nhận thấy “chủ nghĩa xã hội hiện thực” là không thể chịu đựng được nữa đối với họ, rằng phản ứng đó của dân các nước này là có lý, hơn thế, là đáng đồng tình. Những Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, v.v…, vào những năm 1950-60, dù có dịp được đặt chân đến dăm ba nước Đông Âu, cũng vẫn không hề biết đến điều đó.
Để giải thích sự “không biết” này ở cả những văn nghệ sĩ hàng
đầu lẫn những người dân đương thời ấy ở Việt Nam, có thể nêu lên độ chênh lệch
về trải nghiệm một chế độ xã hội: khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia
phe XHCN (dấu mốc có thể là năm 1955) thì các nước Đông Âu đã có dư 10 năm trải
nghiệm chế độ ấy, đã cảm nhận được tính chất chuyên chế độc đoán của hệ thống
chính trị, tính chất trì trệ ít hiệu quả của nền kinh tế chỉ huy-quốc doanh
hóa-hợp tác hóa, cũng cảm nhận sự can thiệp và áp đặt mang tính đế chế của
chính nước đàn anh Xô-viết…, và đang khởi động quá trình vượt thoát chế độ đó.
Thế mà đúng lúc ấy, những nhà thơ nhà văn đến từ đất nước chậm phát triển này lại
chỉ thấy chế độ ấy, kinh tế ấy là ưu việt, kể từ những gì thô sơ đơn giản nhất.
“…Lông nhông trâu sắt chạy / Anh ngồi hát vặn máy / Chị đi
giày làm vườn / Con lớn đi nhà trường / Con thơ ra nhà trẻ …”(Dưới dàn nho, thơ
Nông Quốc Chấn, ‘Văn nghệ’, s. 37, tháng 11/1952).
Trích dẫn một câu cho vui, chứ thật ra có hàng ngàn hàng ngàn
câu chữ ca tụng ngọt sớt và nông cạn như vậy, được viết bởi những ngòi bút thậm
chí đã từng giành được vinh quang chân chính trên đàn văn Việt Nam trước đó
hàng chục năm.
Sự cảm nhận chán ngán của những dân tộc đã biết đến thực chất
của mô hình “chủ nghĩa xã hội hiện thực” và sự cảm nhận háo hức của những dân tộc
bắt đầu tiếp nhận mô hình ấy, rõ ràng là lệch pha nhau.
Nhưng nếu chỉ bằng vào cách giải thích trên đây, thì tuy nhận
ra được văn nghệ sĩ là thuộc về dân tộc, là nằm trong dân tộc, nhưng lại bỏ mất
phương diện khác: ở những trường hợp tài năng sáng tạo lớn, văn nghệ sĩ là kẻ
vượt lên cao hơn cái tầm trung bình của dân mình.
Nguyễn Huy Tưởng, qua nhật ký hơn là qua các sáng tác đã công
bố, đã tự chứng tỏ ông không sùng bái “phe” xã hội chủ nghĩa một cách giản đơn.
Ông có những trang nhật ký nhận xét những kém cỏi của phim ảnh Xô-viết chiếu tại
các rạp Hà Nội, tức là ông vô tình đã cảm thông được với những công chúng Hà
Thành từng xem phim của Hollywood trước tháng 10/1954. Cũng trong nhật ký hơn
là trong sáng tác, ông có cái nhìn ít lý tưởng hóa vào đời sống thực xung
quanh, đời sống dân tình, phố xá Hà Nội… Nhưng những bức xúc của ông đối với
cái chế độ mà ông là công thần khai quốc hầu như chỉ dừng lại ở những hiện tượng,
và những bức xúc ấy cũng chỉ thiên về tình cảm. Còn trong lý trí, trong lý tưởng,
ông vẫn mơ về sự toàn thắng của “phe ta”, tức phe xã hội chủ nghĩa, ‒ cái hệ thống
thế giới sẽ sụp đổ vào năm thứ 31 kể từ khi Nguyễn Huy Tưởng qua đời
(1960).
Với giới văn nghệ sĩ và cả giới trí thức nước ta ở nửa sau thế
kỷ XX vừa qua, mọi khả năng nghĩ mới nghĩ khác, mọi khả năng hoài nghi những
“chân lý tuyệt đối”, “lý tưởng tuyệt đối” hầu như chỉ được bộc lộ kể từ Đảng CS
cầm quyền cho phép đổi mới, “nhìn thẳng vào sự thật”, vào năm 1986. Điều được
thấy như thực trạng hiển nhiên này, ngẫm ra lại thật là khác biệt biết bao, chẳng
hạn, so với thời sống dưới ách thực dân, những thường dân có học qua tiểu học,
đọc được báo quốc ngữ, đôi khi cả một ít báo chữ Pháp, đều có thể, ‒ trên những
nét chung nhất ‒ biết cùng lúc, nghĩ cùng chiều với các dân tộc khác đương thời
về những hiện trạng chi phối đời sống nhân loại thời mình, từ việc phe phát-xít
thắng thế ở Đức ở Ý hay những vụ án kỳ lạ ở Moscou năm 1937…
Dù sao thì quá khứ vẫn chỉ là quá khứ. Điều được trông chờ là
phải chăng từ nay, dân Việt Nam, trí thức Việt Nam, văn nghệ sĩ Việt Nam sẽ có
năng lực bình thường cùng nghĩ với những gì nhân loại đương thời
đang nghĩ, hay vẫn cứ nghĩ chậm hơn, như đã từng lệch pha với nhân loại, khi
còn sống trong thế giới của “chủ nghĩa xã hội hiện thực” (1945-1991)?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét