Nhớ người nhạc sĩ chân thành Hoàng Trọng
Quỳnh
Giao
Nhạc sĩ Hoàng Trọng (1922 –
1998)
Người nhạc trưởng đang điều
khiển dàn nhạc. Hai hàng lệ làm nhoè mắt ông khiến ông không nhìn rõ được dòng
nhạc. Nhưng ông có cần nhìn rõ đâu, bởi nó-dòng nhạc- có trong ông đã lâu lắm rồi,
nó là xương là máu của ông mà!…Những người nhạc sĩ đang cắm cúi đàn, đều là những
người đã làm việc với ông từ hơn hai thập niên trước, có người là bạn của ông từ
nửa thế kỷ qua. Người ngồi dương cầm là nhạc sư Nghiêm Phú Phi, cộng tác với
Hoàng Trọng từ bao lâu rồi nhỉ, có lẽ là từ khi mới du học bên Pháp về, vào đầu
thập niên 50. Nơi hàng ghế đầu của dàn violons có Đan Thọ, bạn của ông từ ngày ở
ngoài Bắc, trong ban nhạc Bảo An, người đã trình tấu những đoạn ad-lib có phong
điệu tzigane bất hủ cho nhưng bài tango trác tuyệt của Hoàng Trọng. Tiếng đàn
Đan Thọ vẫn như xưa: lả lướt mềm mại, nhưng khuôn mặt ông, cũng như của nhạc sĩ
Hoàng Trọng, đã đầy nếp nhăn… Cạnh đó vẫn dàn violons có Phạm Văn Phúc, Trần Nhật
Hiền, có Nguyễn văn Mô, có violoncelle Cao Thanh Tùng, những sinh viên trường
nhạc ngày xưa từng cộng tác với ông khi vừa tốt nghiệp. Những mái đầu rất xanh
ngày đó, nay đã ngả muối tiêu…
Hai người ca sĩ nhìn về phía khán giả, tức là quay lưng về phía dàn nhạc đang trình bầy song ca bản Lạnh Lùng, bài hát ông viết từ mùa Đông 1946. Đó là bài song ca ông soạn cho một nam và một nữ. Người nữ ca sĩ đang hát, nhìn về phía khán giả, nhưng không nhìn thấy gì trước mắt cả, mà chỉ thấy lại khung cảnh cũ, đã mấy chục năm qua. Nàng thấy lại phòng thu thanh nóng bức, đầy khói thuốc lá. Nàng nghe lại tiếng cười nói vui nhộn và thân mật của những người ca sĩ xung quanh, mà nàng gọi họ bằng cô, bằng chú. Ngày ấy nàng mới 16, 17 thôi. Cô bé vừa chạy thục mạng gọi xich lô đến đài cho kịp giờ thu, trên áo dài trắng còn mang huy hiệu trường Gia Long. Cuốn sách nhạc nàng viết tay những bài hát mình yêu thích còn nằm trong cặp, để trên bàn.
Hai người ca sĩ nhìn về phía khán giả, tức là quay lưng về phía dàn nhạc đang trình bầy song ca bản Lạnh Lùng, bài hát ông viết từ mùa Đông 1946. Đó là bài song ca ông soạn cho một nam và một nữ. Người nữ ca sĩ đang hát, nhìn về phía khán giả, nhưng không nhìn thấy gì trước mắt cả, mà chỉ thấy lại khung cảnh cũ, đã mấy chục năm qua. Nàng thấy lại phòng thu thanh nóng bức, đầy khói thuốc lá. Nàng nghe lại tiếng cười nói vui nhộn và thân mật của những người ca sĩ xung quanh, mà nàng gọi họ bằng cô, bằng chú. Ngày ấy nàng mới 16, 17 thôi. Cô bé vừa chạy thục mạng gọi xich lô đến đài cho kịp giờ thu, trên áo dài trắng còn mang huy hiệu trường Gia Long. Cuốn sách nhạc nàng viết tay những bài hát mình yêu thích còn nằm trong cặp, để trên bàn.
Cô Kim Tước vừa ký tặng nàng
bài Đừng Xa Nhau của Phạm Duy, lời đề tặng là “ tặng Trang bài của tôi đang yê
thích”. Cô Mộc Lan thì đề tặng bài Lặng Lẽ của Lâm Tuyền với lời thủ thỉ “tặng
cháu bài của cây si cổ thụ”. Chị Mai Hương thì tặng bài Chú Cuội với lời đề “ tặng
Trang bài hát đầu tiên của chị”. Ngay trang đầu tiên của tập nhạc là bài hát do
người trưởng ban đề tặng: “tặng cháu bài chú viết từ mùa đông năm cháu vừa chào
đời”. Nàng thích làm sao lời đề tặng! Vì nó cho thấy rõ sự ý nhị kín đáo mà lại
đầy tình cảm của ông. Ông mà đề năm 1946, thì cũng thường thôi, có phải không?
Bài hát đó mang tên Lạnh Lùng…
Người nữ ca sĩ chớp mắt, cố
không để tâm trí mình đi quá xa, xa cái khung cảnh hiện tại, cô đang trình diễn
trên sân khấu nhạc hội tại rạp Le Petit Trianon ở San Jose, miền Bắc
California, kỷ niệm một đời phụng sự âm nhạc của Nhạc Sĩ Hoàng Trọng. Chính ông
nắn nót viết lời nhắn, về hát cho ông…”Lần cuối đây”, ông nhấn mạnh với nét chữ
đã ngả nghiêng.
Không cần phải kể thêm, chắc
độc giả đã đoán cô học trò đó chính là kẻ viết bài này…
Thấm thoát đã hơn 30 năm, kẻ
từ khi nhạc sĩ Hoàng Trọng mời tôi hát cho ban Tây Hồ thay thế cho Mẹ. Tôi phải
nói sao cho đủ lòng biết ơn của tôi đối với ông, khi mình còn là một đứa bé con
15 tuổi đã được hát với toàn người lớn. Người nhỏ thứ nhì sau tôi là chị Mai
Hương cũng mới lập gia đình. Có chồng là thành người lớn rồi, tôi nghĩ vậy.
Hát cho ban Tây Hồ là hạnh
phúc lớn của tôi lúc đó, mặc dù, cùng lúc hoặc sau đó, các nhạc sĩ khác cũng lần
lượt mời tôi cộng tác hát trên đài phát thanh Sài Gòn như: Văn Phụng, Nghiêm
Phú Phi, Hoàng Lang, Võ Đức Tuyết, Vũ Thành, Đan Phú, Y Vân, Võ Đức Thu, Anh Ngọc,
Phạm Duy, Nhật Bằng, Hoàng Nguyên (trong ban nhạc mà trưởng ban là nhạc sĩ Anh
Việt, cũng có mặt tại San Jose ngày hôm đó). Và dĩ nhiên cả ban nhạc của Dương
Thiệu Tước nữa chứ.
Năm 1962, là năm mà đất nước
đất nước còn tương đối yên ổn. Thời kỳ này chính quyền ông Diệm để ý và nâng đỡ
nhiều sinh hoạt về văn hóa. Nơi trường nhạc người ta thấy có mời nhạc trưởng
người Đức qua dậy và điều khiển dàn hoà tấu của trường nhạc. Vào năm trước đó,
nhạc trưởng Otto Solhner đã hoà âm và điều khiển dàn nhạc của trường trong bài
“Con Đường Cái Quan” của Phạm Duy, có đi lưu diễn ở Đà Lạt. Khi ấy tôi mới 14,
lần đầu đi hát với người lớn, nhưng vẫn với tên Đoan Trang của mình trong Ban
Thiếu Nhi.
Cái tên Quỳnh Giao ra đời
khi nhạc sĩ Hoàng Trọng mời tôi hát thay cho Mẹ.
Ban đầu, tên tôi là Quỳnh
Dao với chữ “ D” mới đúng, nhưng Hoàng Trọng cứ ghi là Quỳnh Giao với chữ “G”.
Thành thử cũng chính ông là người làm tôi phải giữ tên mình là Quỳnh Giao với
chữ “G”, nhất là khi có truyền hình, generique bao giờ cũng ghi chữ G mặc dù
tôi có dặn và các chú Phạm Duy, Anh Ngọc, Hoàng Lang đều ghi là Dao…Ông bướng lắm
đấy!
Lúc bấy giờ, Chủ sự phòng
Văn Nghệ của đài là Vũ Thành. Vốn là Nhạc sĩ chân chính và cẩn trọng, ông chú ý
đến phẩm chất nghệ thuật nên dành nhiều đặc ân cho các nhạc sĩ có chân tài như
Hoàng Trọng, Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Nhật Bằng. Ông xin trả thù lao rất cao
cho phần hòa âm công phu, nhờ đó mà các ca khúc nghệ thuật của chúng ta được
thăng hoa và tồn tại mãi trong lòng người yêu nhạc. Và ông vua tango Hoàng Trọng
còn là vua hòa âm thời đó. Ông hòa âm cho dàn nhạc đã hay mà viết cho hợp ca
càng xuất sắc. Hát bè phụ của ông là dùng hết công phu để nâng giọng solist, để
làm nổi giọng chính. Bè ông viết không rườm rà mà đan lượn uyển chuyển đầy nghệ
thuật. Hát trong ban của ông, ngoài đơn ca, tôi còn song ca, tam ca, hợp ca, rồi
phụ họa, bài nào cũng tân kỳ và độc đáo. Vì vậy mà tôi thường háo hức trước
ngày thu thanh, như chờ ngày hội vậy. Tính ông cẩn thận, thường đưa bài trước để
tập dượt, ngoài xấp bài hát còn kèm miếng giấy nhỏ ghi chú, mà giờ đây tôi như
còn thấy rõ trước mắt:
1/ Mưa trên phím ngà (đơn
ca)
2/ Tình Xuân (tam ca) QG bè nữ 1
3/ Thương về quê cũ (hợp ca)
4/ Bạn Lòng (song ca vơí An)
5/ Thiên Thai (phụ hoạ)
2/ Tình Xuân (tam ca) QG bè nữ 1
3/ Thương về quê cũ (hợp ca)
4/ Bạn Lòng (song ca vơí An)
5/ Thiên Thai (phụ hoạ)
Cứ như thế hàng tuần, Hoàng
Trọng lái chiếc lambretta mầu xám, áo chemise mầu xám hoặc xanh, chứ không có mầu
nào khác, đến đài phát thanh. Ông luôn luôn đến đài trước giờ đã định. Hát
xong, cả ban rủ nhau đi ăn phở 44, tôi nhớ là ông không ăn hành ngò, bị tôi ghẹo
là ăn như đi tu. Gương mặt ông nghiêm nghị trong dáng u buồn, khi nào trêu ông
cười được thì chúng tôi vui suốt buổi. Ông luôn đón nghe và thu thanh lại
chương trình của mình, nên ca sĩ nào lỡ hát sai thì nơm nớp lo! Cô Mộc Lan hay
đòi đứng cạnh tôi, nhờ tôi đếm mesure trước cho đỡ hồi hộp. Ông cứ đòi thu đi
thu lại một bài hát cho thật hoàn toàn làm chú Anh Ngọc có lần đòi “ bỏ của chạy
lấy người, thà mất tiền còn sướng hơn, chứ hát nhọc quá”, khiến mọi người được
dịp cười ầm. Hoàng Trọng rất thích chụp hình, nên cứ bắt tụi tôi làm người mẫu
cho ông huấn nghệ. Đôi khi để trả thù cho những lúc ông nghiêm nghị, tôi lè luỡi
làm trò. Bức hình buồn cười ấy, năm 1992, sang Mỹ, ông đưa tôi xem lại. Cười
đâu không thấy, tôi chỉ thấy cay cay nơi con mắt…
Vào thời kỳ bắt đầu có truyền
hình, Hoàng Trọng lập Ban Tiếng Tơ Đồng, mỗi lần đi thu mất cả một ngày thật vất
vả cho giới nghệ sĩ chúng tôi. Ông chọn và mua vải bắt may đồng phục cả nam lẫn
nữ, và thành phần ca sĩ thì mời thật đông. Chúng tôi biết chắc là ông lỗ vốn. Vậy
mà Hoàng Trọng say mê, không mỏi mệt, ngay cả giây phút cuối cùng trên sân khấu
ở San José mà tôi kể ở đoạn trên, ông vẫn say mê. Nhìn bàn tay ông run rẩy, tôi
chỉ sợ ông sẽ ngất ngay lúc ấy… Hát xong tôi chào khán giả quay lại nắm tay cám
ơn ông. Tôi thấy hai hàng lệ ông tuôn rơi mà mình chợt nghẹn ngào.. Hôm đó, tôi
không thốt được lời cám ơn ông…
Các ca nhạc sĩ đều từ giã
ông để về ngay sáng hôm sau. Riêng tôi vì đến từ xa, đã ở lại đến tối hôm sau mới
đi Virginia. Buổi sáng chủ nhật đó, vợ chồng Hoàng Cung Fa, con trai ông đưa
tôi đến thăm ông và dự định ở chơi cho đến giờ tôi ra phi trường. Vừa vào nhà,
không khí đã có vẻ u buồn: người vợ hiền bé nhỏ của ông cho biết cả đêm qua
Hoàng Trọng không ngủ được, và vừa nôn hết thức ăn ra rồi. Tôi vẫn cố hồn
nhiên, cười cười: “ chắc là chú vui quá vì đã xong chương trình hôm qua, nên mới
không ngủ được chứ gì?” tôi trêu tiếp: “và lúc chị Tâm hát xong bài Chiều Rơi
Đó Em cháu mới hết lo, chỉ sợ chú cảm động quá mà ngất đi đấy chứ!”.
Tôi nói đùa mà như tự trấn
an mình, vì lúc đó chú than là hơi bị khó thở. Cả nhà bàn bạc không biết có nên
đưa đi nhà thương hay không, vì nhà thương đã có hẹn là thứ năm mới vào khám để
hôm sau mới mổ tim. Người con trai tên Út mới 17 tuổi mà chững chạc như người lớn,
đột nhiên thưa với mẹ là nên đưa cha đi nhà thương ngay. Nét mặt cậu giống hệt
chú Hoàng Trọng của tôi lúc trẻ, nên càng nhìn mình càng thấy xót xa. Cô gái út
tên Kim Mi mới 12 tuổi xinh thật là xinh, mà hầu cha cũng thật là giỏi, đang
ngơ ngác đứng nhìn. Cung Fa và Bạch La, là hai người con lớn từ xa đã về dự
ngày nhạc hội của cha. Bạch La và Phước cùng hai con về từ bên Đức, còn Cung Fa
và Dung về từ Virginia. Cả nhà lo lắng, ủ rũ. Mọi người chờ chú vào nhà trong
thay áo, rồi đi hai xe đưa chú vào nhà thương Palo Alto. Tôi ngồi xe do chị Thu
Tâm lái, nhìn chị, tôi thương cảm hết sức và hiểu được tình yêu của hai người.
Tình yêu của họ có lẽ bắt đầu bằng sự cảm phục về tài, và tồn tại bằng sự chia
sẻ nghệ thuật trong những năm cô đơn và đau buồn của người nhạc sĩ sau 75.
Tôi thấy họ đẹp vô cùng, và tôi cũng thấy được cái hạnh phúc cuối cùng của chú Hoàng Trọng. Tôi ngồi ghế ngoài phòng đợi với Phước và Bạch La, khi hai mẹ con đưa chú vào phòng khám, mà lờ mờ nghĩ rằng có thể đây là lần cuối tôi được nhìn thấy chú…
Tôi thấy họ đẹp vô cùng, và tôi cũng thấy được cái hạnh phúc cuối cùng của chú Hoàng Trọng. Tôi ngồi ghế ngoài phòng đợi với Phước và Bạch La, khi hai mẹ con đưa chú vào phòng khám, mà lờ mờ nghĩ rằng có thể đây là lần cuối tôi được nhìn thấy chú…
Trở về Virginia vài ngày,
tôi gọi điện thoại hỏi thăm, thi gặp ngay giọng của Dung, người con dâu trả lời,
tôi giật mình lo sợ: Dung và Fa đã về Virginia rồi, nay lại có mặt ở đó, nghĩa
là tình hình không khả quan, có khi bệnh tình đã nguy ngập. Dung nói “ chị gọi
vào nhà thương cho cha em đi, chắc ông vui lắm đó. Mấy hôm nay cha nói mớ toàn
tên bài hát và có nhắc đến tên chị nữa đó”. Tôi nghẹn ngào xin số của nhà
thương. Gọi vào gặp chị Thu Tâm, và được chuyển ngay cho Hoàng Trọng. Tôi hỏi
thăm và cố nói vui: “ Chú ơi, ráng khỏe lại nhé, mình còn làm vài chương trình
nữa chứ!” Hoàng Trọng chỉ ừ ừ cám ơn, giọng thều thào như qua tấm lá chắn. Tôi
lại hỏi: “Chú ơi, cháu muốn hát một bài tango của chú, chú khuyên bài gì, Tình
Trăng được không?”. Tôi nghe như có niềm vui: “Ừ, hát Tình Trăng thì hay lắm,
chưa hát đĩa bài ấy đấy.”
Vài tuần sau thì mẹ tôi gọi
từ quận Cam của Cali, báo cho biết chú Hoàng Trọng vừa ra đi. Sau đó Nguyễn
Thành Vân (người song ca với tôi bản Lạnh Lùng ở San Jose) gọi báo tin, kèm lời
than “trời ơi! ai biểu ông làm chương trình nhạc làm chi, mệt quá ổng mới vào
nhà thương đó.” Tôi an ủi Vân: “ không đâu, ông có được niềm vui sau cùng đó,
Vân à”.
Sống với âm nhạc cả một đời,
chú đặt tên cho con toàn là nốt nhạc: Hoàng Nhạc Đô, Hoàng Cung Fa, Hoàng Bạch
La, Hoàng Thiên Út (tức khóa Đô trong nhạc) chứ không phải út ít như nghĩa thường,
và Hoàng Kim Mi. Ông chỉ thiếu Ré và Sol vốn là chữ khó dùng để đặt tên được vì
nghe không thuận tai. Còn nốt Si thì tôi trộm nghĩ đó chính là tên của ông:
Hoàng Trọng là người si mê âm nhạc đến tận cùng, và ông gắn bó với nhạc cho tới
hơi thở cuối cùng.
Hoàng Trọng viết nhạc từ thời
còn thanh niên cho tới gần đây, và tôi ít thấy nhạc sĩ nào có trí nhớ hơn ông.
Sau 1975, phần lớn các nhạc sĩ mất hết tài liệu và tác phẩm của mình. Người nào
may mắn có tác phẩm trình bày trong tape, được người khác mang theo khi di tản,
thì mới còn mong ghi lại lời ca ý nhạc của mình. Nhưng, nhạc thì không quên được,
chứ lời thường bị quên. Phần lớn các nhạc sĩ còn phải hỏi ca sĩ về lời của bài
hát mình viết. Các nhạc sĩ như Văn Phụng, Ngọc Bích, Tuấn Khanh, v..v..thường gọi
chúng tôi hỏi lời bài hát, Cô Châu Hà cũng còn quên lời nhạc của chú Văn Phụng,
và mẹ tôi không nhớ lời các ca khúc Dương Thiệu Tước bằng chính tôi, vì mình vẫn
hát mãi… Chính các ca sĩ chúng tôi đã tiếp tục đem lại sự sống cho các ca khúc
và giữ chúng tồn tại ở ngay trong tim mình. Cho nên, với thời gian thì quên lời
là sự thường, đó là trường hợp chung. Chỉ riêng chú Hoàng Trọng thì có lẽ ông
quên tất cả để chỉ nhớ nhạc, nhớ lời.
Khi qua Mỹ năm 1992, Hoàng
Trọng mang theo một cuốn sách nhạc nhỏ, giấy rất xấu, tự chép tay tất cả các
tác phẩm của mình, từ bài đầu tiên cho đến về sau, từ lời tim óc của mình đến lời
ca của người khác, với đầy đủ năm sáng tác nữa… Ông đã in lại tặng cho vài người
trong chúng tôi mấy bản chép tay thật tỉ mỉ công phu đó. Đối với tôi, đây là
món quà vô giá.
Là một ca sĩ đã hát nhạc của
ông từ mấy chục năm nay, tôi biết nói gì để cảm ơn Hoàng Trọng?
Tánh ông ít nói, nên xưa nay
tôi cũng ít có dịp thố lộ sự tri ân của mình. Từ nay, tôi chỉ còn lẩm nhẩm lại
bài “ Nhạc Sầu Tương Tư” để nghe tiếng lòng ấp úng của ông trước nhan sắc của một
giai nhân Hà Nội thời trước, hay Lạnh Lùng để thấm thía với tình quê hương dạt
dào trong lòng ông. Ai đó có nói là người Việt mình thương nơi chôn nhau cắt rốn
đậm đà hơn các sắc dân khác. Tôi thấy đúng vì vẫn rưng rưng mỗi khi hát bài Lạnh
Lùng, Chiều Tha Hương, hay Buồn Nhớ Quê Hương, Chiều Về Thôn Xưa, hoặc Đường Về…Những
tuyệt tác trên nhịp điệu tango của Hoàng Trọng có một phong thái rất mới mà
cũng rất Việt Nam. Nó có nét Tây Phương về nhịp điệu, mà lại rất Á Đông trong
nét nhạc. Đông phương mà sang trọng chứ không bình dân quê kệch. Các ca khúc Mộng
Ban Đầu, Mộng Ngày Hồi Hương hay Tình Trăng… nghe ròn rã nhịp điệu mà vẫn gợi
lên hình ảnh đằm thắm của quê hương.
Khi Hoàng Trọng yêu màu
xanh, ông làm những bài xanh ngát hương đời và niềm tin. Những Mộng Đẹp Ngày
Xanh, Khúc Ca Mầu Xanh, hay Thanh Bình Nhạc Khúc… chan chứa tình người và những
hy vọng tươi đẹp cho đất nước. Ông đã làm cho lũ bạn trường Gia Long của tôi mê
màu tím khi sáng tác Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tím, Ngàn Thu Áo Tím hoặc Cánh Hoa
Yêu…Tuổi hoa niên của chúng tôi có bị ảnh hưởng bởi dòng nhạc của ông, dòng nhạc
mơ mộng mà chân thật như con người đó, ít nói, ít cười mà đằm thắm và đam mê
kín đáo.
Thưa chú Hoàng Trọng,
Giờ đây, hồi tưởng lại cả một
đoạn đường sáng tác của chú, từ miền Bắc tới trong Nam và trong những ngày cuối
của cuộc đời trên đất Mỹ, cháu thật kính trọng lòng say mê và phục vụ âm nhạc
nơi chú. Những người có may mắn để biết, làm việc và sống gần chú đều yêu
thương và quý trọng chú. Có một điều rõ ràng hơn cả, là chú không bao giờ giả dối,
làm dáng, cường điệu. Ngay cả sự vụng về của chú cũng là điều làm cháu yêu quý
chú. Cháu biết ơn chú mà cũng biết là chú không cần cháu nói ra điều đó. Chú thấy
không, đến phút cuối cháu cũng chỉ nắm tay chú mà không nói lên được điều gì cả.
Cháu chỉ mong là chú hiểu cháu và nghe được lời cám ơn của cháu, bây giờ và mãi
mãi.
Giờ đây, ở nơi đó, chú có biết
không, cháu vẫn còn nghe vẳng bên tai câu hát mà cháu có lúc đùa nghịch, bắt bẻ
chú, vì chú dùng chữ “mà” lập đi lập lại nhiều lần:
Mà mơ, mà nhìn lên cõi trời
cao,
Mà ngùi thương những năm nào,
Mà mong tìm một ánh sao…
Mà ngùi thương những năm nào,
Mà mong tìm một ánh sao…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét