Thiền ngộ với tư duy nghệ thuật
Phương Lựu
Tư duy nghệ thuật là một loại tư
duy mang tính chỉnh thể nhằm phản ảnh và biểu hiện thế thái nhân tình vô cùng
phong phú phức tạp muôn màu muôn vẻ, cho nên ngoài tư duy hình tượng là cơ sở,
nó còn thu nạp nhiều yếu tố khác của các loại tư duy thể nghiệm,
lô-gic đa trị mơ hồ, vô thức và nhất là trực giác nữa. Lýluận văn học hiện đại
phươngTây với B. Croce và H. Bergson đã làm sáng tỏ ở những bình diện và cấp độ
khác nhau về vai trò của trực giác trong tư duy nghệ thuật. Nhưng từ thời xa
xưa ở phương Đông đã đề cập đến vấn đề này, mà tiêu biểu là quan niệm đốn
ngộ của Thiền tông có sắc thái riêng cần tìm hiểu để nếu không có gì
bổ sung cho lý thuyết chung về trực giác, thì cũng có ý nghĩa cho việc tìm hiểu
đặc điểm của thơ văn cổ điểnTrung quóc, nếu không muốn nói thêm của cảViệt Nam
nữa
I, Thiền tông với vấn đề đốn ngộ
Phật giáo vào Trung Quốc đã hình thành nhiều tông phái, nhưng
kết hợp nhuần nhuyễn nhất với văn hoá bản địa là Thiền Tông. Nói kết hợp nhuần
nhuyễn thì ắt sẽ không có chuyện lép vế của chủ hoặc khách. Không phải ngẫu
nhiên mà các tông phái khác đều mang những tên là lạ (Tam luận tông, Pháp tướng
tông, Luật tông, Tịnh thổ tông, Mật tông, Thiên đài tông, Hoa nghiêm tông) duy
chỉ có tông phái này mang tên là Thiền (Thiền tông). Thiền vốn
là phiên âm từ tiếng Phạn Dhyana (cho nên lúc đầu còn gọi là Thiền na) có nghĩa
là Trầm tư mặc tưởng (Méditation), suy tư trong tĩnh lặng có tác dụng khắc phục
những khổ đau, lại phát dương được trí tuệ, mà đây vốn là cách tu luyện cơ bản
vốn có trong Phật giáo. Cái hay ho vào bậc nhất của khách vẫn tự kiên trì
đựợc là như vây. Còn phần đóng góp thêm của chủ cũng khá rộng rãi, thậm chí
phải kể cả Nho gia. Những quan niệm như “Chúng sinh thị Phật”, “Minh tâm kiến
tính” của Thiền tông dường như có thấp thoáng tư tưởng “Nhân giai vi Nghiêu
Thuấn”, “Chính tâm tu thân”của Nho gia, song điều này làm cho nó xích gần với
giới quyền thế thiên về quan niệm “nghệ thuật chức năng”. Nhưng may thayThiền
tông khai thác nhiều hơn ở Đạo gia và bởi thế nó càng gần gũi hơn nhiều với
giới văn nhân sĩ phu thiên về quan niệm “nghệ thuật thẩm mỹ” gần mấy
nghìn năm qua. Có thể xét vấn đề theo các mặt sau:
Phạm trù Không kết hợp với
phạm trù Vô. Đây vốn là hai phạm trù khác nhau. Không của
Phật giáo vốn là sự phủ nhận cõi trần gian này. Còn Vô của Đạo
gia lại là sự khái quát tính chất bản thể của vũ trụ. Vô không
có nghĩa là không có gì hết, mà chẳng qua là không thể định nghĩa thuyết minh
gì được. Lão Tử nói: “Đạo mà có thể nói ra được, thì không phải là đạo vĩnh
hằng. Danh mà có thể nói ra được thì không phải là cái danh vĩnh hằng. Vô danh
mới là khởi thủy của đất trời. hữu danh là cội nguồn của vạn vật. Cho nên phải
căn cứ vào cái thường không thấy được để thể nghiệm cái kỳ diệu của đạo và căn
cứ vào cái thường hiển hiện để thể nghiệm vạn vật”(Đạo đức kinh, chưong
1). Đạo với tư cách là khởi thuỷ của đất trời, được gọi là Vô,
chẳng qua là vì nếu nói hữu thì không có bằng cớ gì để chứng
minh được cả. Nhưng Thiền tông lại dùng ngay khái niệm Vô này
thuyết minh cho khái niệm Không của mình, nghĩa là cho hai cái
vốn khác nghĩa thống nhất lại với nhau. Trong Đàn kinh, tác phẩm
kinh điển của Thiền tông, thuỷ tổ Huệ Năng rất ít dùng khái niệm Không, mà
lại dùng rất nhiều khái niệm Vô: “Ngã thử pháp môn, tòng
thượng dĩ lai, tiên lậpvô niệm vi tông, vô tướng
vi thể, vô trú vi bản”(Môn phái này của ta, từ xưa đến nay,
đều lấy việc không suy nghĩ về cái gì làm tôn chỉ, lấy cái không có tương
quan làm thực thể, lấy cái không có nơi chốn làm gốc rễ”(Toạ thiền
phẩm, đệ ngũ). Có thể thấy không phải chỉ là thuật ngữ khái niêm, mà cả ý
tứ thì những cái “vô niệm”, “vô tương”, “vô trú” của Thiền tông đã thông lưu
với cái “vô tượng”, “vô vi”, “vô trí” của Đạo gia .
”Tức tâm tức Phật”, ”Chúng sinh thị Phật”
phảng phất cái tinh thần “Tề vật luận” của Đạo gia. Bởi vì trong Phật giáo
nguyên thuỷ, thì Phật vốn là hình ảnh của một đấng cao cả siêu nhiên, nhưng với
Thiền Tông thì Phật không khác gì những con người bình thưòng trên trần thế.
Trang Tử nói: “Sự vật không có cái kia, thì sẽ không có
cái này…Cho nên cái kia là sinh ra từ cái này, cái này là phải dựa
vào cái kia… trong đúng có sai, trong sai có đúng…”(1). Cho nên
đẹpxấu, cao sang thấp hèn, giàu nghèo như nhau cả. Thiền tông đã phát huy cách
tư duy này “thông nhất nhị nguyên” này để cho rằng sang hèn, sống chết, hữu
thường với vô thường, kể cả Phật với người không có ranh giới tuyệt đối, mà
quan trọng là tuỳ tâm xem xét.
Thiền tông hấp thu tinh thần tự do tự tại,
chan hoà với thiên nhiên của Đạo gia, phản đối việc tu hành khổ hạnh, chủ
trương chỉ cần hằng ngày sống một cách tự nhiên là có thể ngộ đạo. Khi thiền sư
Nguyên Luật hỏi thiền sư Đại Châu Huệ Hải rằng hoà thượng tu hành có dụng công
không thì được trả lời”—Đương nhiên phải dụng công. Dụng công như thế nào? Đói
thì ăn, mệt thì ngũ!Mọi người đều như thế cả, thì hoà thưọng dụng công khác thế
nào? Khác chứ! Khác ra sao? Nói chung người ta ăn cơm, lại không lo ăn
cơm, mà cứ lo trăm công nghìn việc, ngủ thì không chịu ngủ mà lại cứ nghĩ ngọi
mưu kế, thế không khác sao?” (Ngũ đăng hội nguyên)
Cuối cùng Thiền tông tiếp thu tư
tưởng”thiên nhân hợp nhất”, “vật ngã lưỡng vong” của Đạo gia, chủ trương con
người trong giao lưu tình cảm giữa tự nhiên đất trời, có thể ngộ đạo thành
Phật: “Cái để giải thich đạo là đi, ở, nằm ngồi, không có cái gì không phải là
đạo. Cái để ngộ ra Phật pháp thì cứ tự tại ngang dọc không có gì không phải là
Phật pháp” (Ngũ đăng hội nguyên).
Chính vì trên một mức độ nhất định, đã tổng
hợp đựoc những tinh hoa của hai trên ba cái nôi văn minh của loài người, Thiền
tông mang một đặc điẻm hiếm có là có thể vô biên hoá lòng người: “Hàng trăm
hàng ngàn pháp môn đều có thể thu về trong gang tấc, hằng hà sa số đạo đức kỳ
diệu đều bắt nguồn từ lòng người” (Ngũ đăng hội nguyên). Từ đây
Thiền tông khẳng định rằng Phật không ở thế giới bên kia, mà ở ngay trong lòng
của mọi người trên trần thếnhân tâm là Phật tâm: “Tâm lượng bao la như cõi hư
không…có thể bao hàm nhật nguyệt tinh tú, mọi loại thảo mộc, người thiện, kẻ
ác, thiên đàng địa ngục đều có trong đấy cả”(Đàn kinh). Như thế
đạoThiền không siêu thoát khỏi trần thế, tránh được sự cuồng tín của tôn giáo,
phù hợp tâm tưởng của giới văn nhân sĩ phu. Toàn bộ cõi đời, hữu hình cũng như
vô hình được cảm thụ bởi lòng người, cho nên Thiền tông đã mở ra cái khả
năng bất tận trong việc chủ quan hoá toàn bộ thế giới khách quan. Nhưng bằng
cách nào?
Trả lời vấn đè này sẽ chạm ngay khái niêm then
chốt của Thiền tông là Tự ngộ. Chữ Ngộ vốn có
nghĩa là tĩnh dậy sau giấc ngủ, và trừu tưọng hơn là bừng tỉnh sau cơn mê muội
(giác ngộ). Trong tác phẩm kinh điển của Thiền tông có viết: “Chư phật trong ba
cõi, mười hai bộ kinh đều có trong tự tínhcủa con người… Nếu nhìn thấu được tự
tính, tức ngộ ra được thì thành Phật… Nếu tự tính còn đang mê muội thì chỉ là
chúng sinh, khi nào tự tính phát lên mới thành Phật” (Đàn kinh). Tự ngộ có
hai dạng là Tiệm ngộ (ngộ dần ra) ít được nhắc đến, và Đốn
ngộ (bừng ngộ lên) thường được sử dụng hơn. Là một loại trực giác tức
thì, đốn ngộ mang những đặc điểm sau: 1) Tính phi lý về mặt kết quả: Trực giác
thông thường tuy phi lý về mặt quá trình, nhưng kết quả thì ít nhiều đều giải
thích được. Trái lại, đốn ngộ, thì không những quá trình mà kết quả cũng rất
phi lý. Trong ngôn ngữ và mệnh để của Thiền tông thường bắt gặp những câu đại
khái như: “Lý công ẩm tửu, Trưong công tuý” (Ông Lý nốc rượu, ông Trưong say
mềm); “Nhân tòng kiều thượng quá, kiều lưu thuỷ bất lưu” (Người qua trên
cầu, cầu trôi, nước ngừng chảy”. v. v… Không phải là nói xằng, mà kẻ nói người
nghe đều tin như vậy. Ý tứ sâu xa của Thiền gia là sự vật như mình cảm thấy chứ
không phải theo lý lẽ mà con người tự đặt ra. Tính ngẫu nhiên về mặt cơ hội.
Không phải lúc nào cũng đốn ngộ được mà phải gặp cơ may, nhưng rất lạ lẫm không
ăn nhập vào đâu cả. Môn đệ tháp tùng sư tổ trên đường đi thấy có đàn vịt trời
bay qua. Thầy hỏi cái gì vậy, trò trả lời vịt trời. Hỏi tiếp ở đâu, thì được
trả lời là bay qua rồi, thầy liền bóp nhẹ vào mũi, trò liền ngộ ra là đạo
bay mất rồi. Chả là vì theo Thiền tông đạo nằm trong mọi sự mọi vật,
sư phụ muốn môn đệ phải luôn luôn giác ngộ điều đó. Tính linh hoạt về mặt lĩnh
hội. Ý nói rằng không nên trực tiếp bám vào câu chữ, mà phải lý giải rất linh
động theo cảm nghĩ của mình. Thí dụ thày hỏi: “Sư tổ từ hướng tây đến là có ý
gì” thế mà cảc trò trả lời đâu đâu, nào là “Tùng cao bách thấp”, “Chim bay như
chim, cá lội như cá” . v. v… Tóm lại từ cơ hội qua kết quả đến lĩnh hội. v.v,
tất cả đều tỏ ra phi lý, chứng tỏ thế giới Thiền tông không tồn tại và tác
động như thế giới hiện thực, nhưng chính vì thế mà nó có chỗ gần
gũi hơn với thế giới nghệ thuật, nhất là thơ.
Thiền tông chủ trương “vô niệm” không có nghĩa
là không suy nghĩ, mà là suy nghĩ không chịu ảnh hưỏng bởi cái gì cả: “Phải
trái, tốt xấu… không hề chịu ràng buộc, luôn luôn tự do tự tại” (Ngũ đăng
hội nguyên). Lòng dạ trong sáng, vô tư, không cầu mong danh lợi thì dễ
sáng tạo và thưỏng thức cái đẹp. Đó là về thái độ thẩm mỹ, còn phương thức thẩm
mỹ thì mang tính chất gián cách theo nguyên tắc “Đạo bất tại thanh sắc, nhi bất
ly thanh sắc” (Đạo tuy không tách rời, nhưng không nằm trong thanh sắc - Ngũ
đăng hội nguyên). Cho nên thấy sắc đẹp không thể không nhìn, nhưng lòng
không rối, điều này phù hợp với chức năng của cái đẹp và nghệ thuật là chỉ bồi
dưỡng tâm hồn tình cảm con người, chứ không hề đáp ứng những quyền lợi thiết
thực.
Cần lưu ý thêm rằng so với mối quan hệ giữa Cơ
đốc giáo và nghệ thuật thường nặng về mặt đề tài thì mối quan hệ giữa Thiền
tông với nghệ thuật sâu nặng hơn gần như trọn vẹn từ nội dung đến hình thức,
thậm chí có ý kiến cho rằng “thi, thư, hoạ, thiền nhất thể hoá”. Nguyên nhân
sâu xa là từ nhu cầu nội tại muốn gần gũi nghệ thuật của chính Thiền tông. Học
giả Nhật bản Linh Mộc Đại Chuyết từng giải thích: “Thiền Tông đã đem điều đắc ý
nhất thể hiện trong thơ chứ không phải bằng triết học là đương nhiên. Bởi vì
Thiền tông thiên về cảm tính hơn là lý tính, cho nên không tránh khỏi xu hưóng
thi hoá”(2). Quả vậy, Thiền tông không thích diễn đạt tư tưởng bằng lý luận
trừu tượng, cố ý tránh xa hệ thống văn tự thưòng chất chứa những mệnh đề
lô-gic, thậm chí đã tuyên bố hẵn “bất lập văn tự”! Giáo lý Thiền tông thường
được gửi gắm qua những câu chuyện bình dị trong đời sống thường nhật. Sự gắn bó
với nghệ thuật, do đó là tất yếu vậy.
II, Diệu ngộ với tư duy nghệ thuật
Trong quá trình liên hệ với thơ hay nói rộng
ra là nghệ thuật, thì viêc đưa thiền vào nội dung của thơ (dĩ thiền nhập thi)
đã có tử trước, nhưng dùng thiền bàn về thơ (dĩ thiền luận thi) mà then chốt là
xoay quanh vấn đề đốn ngộ thì đến đờì Tống mới ngày càng dồn dập. Nhưng ban đầu
chỉ thiên về cấp độ câu chữ, tất nhiên không phải không quan trọng, vì có
khi”một chữ mà nghĩ ba năm mới được, giảng ngàn năm chưa xong”. Nhưng dù sao
đây cũng chỉ là yếu tố, cho nên càng về sau đến gần cuối đời Tống mới triẻn
khai vấn đế đốn ngộ trên cấp độ chỉnh thể về thế gíơi tư tưởng nghệ thuật của
cả bài thơ. Khương Quỳ tác giả của cuốn thi thoại Bạch Thạch đạo nhân
thi thuyết cho rằng: “Làm văn thơ công phu ở văn tự, nhưng
không thể lấy văn tự làm nên kỳ diệu, muốn rời bỏ loại văn không diệu kỳ thì
tốt nhất phải tự ngộ”. Như thế là đến đây hai chữ diệu và ngộ đã có khả năng
kết lại làm một trong thi học (mặc dù nó vốn có trong thiền học) và tiếp theo
sẽ được Nghiêm Vũ triển khai một cách toàn diện. Trong Thương Lãng thi
thoại, Nghiêm Vũ viết:
“Đạo Thiền ở chỗ diệu ngộ, đạo thơ cũng ở chỗ
diệu ngộ. Học vấn của Mạnh Hạo Nhiên còn cách xa Hàn Dũ, nhưng thơ thì trên tài
Hàn Dũ, chẳng qua là vì có diệu ngộ. Chỉ có diệu ngộ mới làm nên bản sắc và
đáng lưu hành… Thơ có tài riêng không liên quan đến sách, có thú riêng không
liên quan đến lý. Người xưa đâu phải không đọc nhiều sách, không thấu lý lẽ,
nhưng chỉ ai không sa vào con đường lý lẽ, không vướng vào mạng lưới ngôn từ, thì
mới trên tài. Bởi vì thơ là để ngâm vịnh tính tình. Các nhà thơ Thịnh Đưòng chỉ
biết hứng thú, như linh dương treo sừng, không tìm đâu ra vết tích. Chỗ kỳ diệu
của nó thấu triệt lung linh, không thể nắm bắt, như thanh âm giữa trời, sắc đẹp
trong dung nhan, khuôn trăng dưới đáy nước, hình ảnh trong gương, lời có hạn mà
ý vô cùng”(3)
Có thể thấy Nghiêm Vũ đã vạch rõ thơ không chỉ
là chữ nghĩa sách vở và tư duy thơ, nói rộng ra là tư duy nghệ thuật, do đó,
không thể là tư duy lý tính mà phải là một loại tư duy trực giác kỳ diệu như
trong đạo Thiền. Tất nhiên không thể bệ nguyên si thiền ngộ vào thi ngộ, bởi vì
ở đây vẫn có sự khác biệt. Trước hết là khác nhau về xuất phát điểm. Thơ như
Nghiêm Vũ đã nói là “ngâm vính tính tình”, còn Thiền thì chủ trương “minh tâm
kiến tính” (sáng lòng để thấy được tính Phật), nhưng “vong tình” (quên đi tình
cảm của mình). Thứ hai là mục đích cũng khác, ngộ trong Thiền hướng đẽn cõi
Niết bàn, còn trong thơ là hướng về thế giới thẩm mỹ. Cuối cùng là phương tiện
cũng có chỗ khác. Thơ tuy nói là phải ý tại ngôn ngoại, nhưng không thể vứt bỏ
ngôn ngữ, vì phải có ngôn ngữ hiện diện, tạo ra biên độ, thì mới có thể suy ra
cái bên ngoài nó ở đâu. Còn Thiền tất nhiên cũng có dùng ngôn ngữ, nhưng còn sử
dụng cử chỉ, đông tác để giác ngộ . v. v…Tuy khác nhau như vậy, nhưng do Thiền
chủ trương không cần tụng niệm giáo lý, nghiền ngẫm kinh kệ, tu hành khổ
hạnh mà chỉ cần chân tâm bừng ngộ ra là thành Phật, thì thơ vẫn có thể vận dụng
loại tư duy trực giác phi lý tính như vậy để sáng tác và thưởng thức.
Nhưng đây mới chỉ là bừng ngộ, còn nói “diệu
ngộ” thì kỳ diêu ở chỗ nào? Nghiêm Vũ chẳng đã nói rõ những biểu hiện của nó:”…
Thấu triệt lung linh, không thể nắm bắt, như thanh âm giưã trời, sắc đẹp trong
dung nhan, ánh trăng dưới đáy nước, hình ảnh trong gương…. ”. Nghĩa là nó hư hư
thực thực. Thanh âm, sắc đẹp, ánh trăng, hình ảnh đều là những điều có
thực trong đời, nhưng khi đi vào thơ ca hay nghệ thuật nói chung thì gián cách
không thể tiếp cận được. Điều này rất đúng với triết lý của Thiền. Thiền tông
không hề quay lung với cuộc sống, nhưng cuộc sống đều đã được nội tâm hoá. Xem
ra rất duy tâm về mặt triết học, nhưng lại rát biện chứng về mặt nghệ thuật.
Bởi vì nghệ thuật không phải là bản thân đời sông khách quan, mà chỉ là hình
ảnh chủ quan của cuộc sống khách quan đó mà thôi: “Đạobất tại thanh sắc, nhi
bất ly thanh sắc” như trên đã nói. Hiện thực trong nghệ thuật, do đó chỉ là ảo
ảnh để thưởng ngoạn, chiêm ngưỡng, chừ không thể nào chiếm lĩnh (nắm
bắt), tiêu thụ được.
Ở đây cũng cần lưu ý thêm là Nghiêm Vu không
chỉ nhấn mạnh tính chất “ý tai ngôn ngoại”, đa nghĩa, mà là “ngôn hữu tận nhi ý
vô cùng” (lời thì có hạn mà ý vô cùng). Chúng ta biết rằng nghệ thuật Trung
quốc thiên về biểu hiên chủ quan, khác với phưong Tây thiên về tái hiện khách
quan. Cho nên ở phưong Tây chỉ nói đến hinh tượng, nhưng ở Trung
quốc từ xa xưa lại nói ý tượng- tức là qua cái hình tượng thiên về
khách quan phải bộc lộ cho được cái ý chủ quan của nghệ sĩ. Nhưng không phải là
coi nhẹ cái khách quan, cứ lo đột xuất cái chủ quan, mà ngày người ta càng nhận
ra cái ý chủ quan càng nhấn mạnh phong phú bao nhiêu thì càng phải gắn bó với
cái khách quan bấy nhiêu. Cho nên khái niệm ý tượng đã phát
triển thành khái niệm ý cảnh. Điều này quả có bộc lộ gián tiếp qua
lối diễn đạt của Nghiêm Vũ:Không phải chỉ có thanh âm, ánh trăng, hình ảnh trơ
trọi thì tất yếu sẽ “đơn nghĩa”mà luôn gắn chúng với bầu trời, với đáy nước,
với gương soi, qua các chiều kích, góc nhìn, các quan hệ. v. v…thì những thực
thể ấy bỗng lung linh đa dạng, và chính vì thế mà Nghiêm Vũ mới nâng cái đa
nghĩa lên thành “ý vô cùng”.
Cũng cần lưu ý thêm rằng Nghiêm Vũ còn nêu
những khái niệm hữu quan khác, mà trước hết là “hứng thú”: “Thơ cóthú riêng…”,
“Các nhà thơ Thịnh Đưòng thưòng nói hứng thú…”. Điều này là có kế
thừa các khaí niệm vốn có trước đó như “hứng tượng”, “tình hứng”, “cảm
hứng”. v. v. ., nói chung là chỉ một trạng thái tâm lý say mê khác thường trong
quá trình sáng tác. Sự dồi dào về cảm xúc, khi đạt đến trạng thái kết tinh sẽ
cháy bùng trong tâm tưởng của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục tiêu da diết
không bằng con đường lý trí mà gần như trực giác bản năng. Như thế có thể nói
diệu ngộ là gắn bó chặt chẽ với cảm hứng. Thứ hai là với “học lực” (học vấn).
Như trích dẫn ở trên, Nghiêm Vũ có viết: “Thơ có tài riêng không liên quan đến
sách vở…Học lực của Mạnh Hạo Nhiên còn cách xa Hàn Dũ, song thơ thì trên tài
Hàn Dũ…”, nhưng thực chất đây là Nghiêm Vũ chống lại xu hướng cực đoan đương
thời cuả Hoàng Đình Kiên chủ trương “lấy chữ nghĩa làm thơ, lấy tài học làm
thơ, lấy nghị luận làm thơ”, chứ không phải phủ nhận học vấn bởi vì sau đấy ông
còn viết: “Nếu không đọc nhiều sách, không cùng kỳ lý, thì cũng không đến tận
cùng được”(4). Nghiêm Vũ cũng không cho thơ ca chỉ là tình cảm, mà là “tính
tình”, mà có phần khác với tình, tính ít nhiều mang màu sắc lý tính, và còn nói
rõ: “Nhà thơ Đường chuộng hứng thú nhưng trong đấy có cả lý trí”. Cho nên “diệu
ngộ” trong thơ ca tuy vẫn mang gương mặt trực giác phi lý tính, nhưng từ trong
sâu thẳm lại có khả năng bộc lộ chân lý và đạo lý. Ba là liên quan với trên
Nghiêm Vũ còn nhấn mạnh khái niêm “thức” (nhận thức). Mở đầu Thương
Lãng thi thoại, ông đã viết: “Người học thơ phải lấy nhận thức làm
chủ, nhập môn phải nghiêm chỉnh, lập chí phải cao. . . Nếu chỉ là vai ngoại
đạo, che lấp chân thức, thì không thuốc nào chữa được và cuối cùng cũng không
thể nào bừng ngộ lên được”(5)
Cuối cùng là khái niệm “pháp” chỉ nhưng
phép tắc làm thơ. Trong Thưong Lãng thi thoại, có hẵn một
chương Thi pháp mà bản rát cụ thể về từ pháp, cú pháp, chương
pháp. Nhưng ngay trong chương Thi biện có tính chất
nguyên lý, cũng có một sự khái quát chung: “Phép của thơ có năm loại là thể
chế, cách lực, khí tượng, hứng thú, âm tiết…Nhưng hay nhất của thơ là nhập
thần. Chỉ có nhập thần mới đến được tận cùng”(6). Tóm lại có thể thấy tuy đột
xuất lên vấn đề diệu ngộ, nhưng không độc tôn nó, mà Nghiêm Vũ thừa nhận rằng
trên cơ sở cảm hứng tột độ là diệu ngộ, phải chú ý cả các mặt khác như học vấn,
trinh độ nhận thức, phép tắc.
Bất kỳ học giả lớn nào cũng đi đến tận cùng tư
tưởng của mình, mới phát hiện ra cái mới mẻ. Mới nhưng phải đúng, cho nên họ
thường không bỏ qua những chân lý cũ, chỉ là tổ chức chúng lại trong một hệ
thống mới. Như thế về phía tâm lý tiếp nhận tỏ ra hồ hởi với cái mới mẻ là dễ
hiểu, nhưng nếu không biết đến nhưng lập luận toàn diện khác, thì dù không cố ý
vẫn làm sai lệch nguyên ý của tác giả. Do vậy chớ nên huyền bí hoá khái niệm
“diêụ ngộ “ trong thi học của Nghiêm Vũ. Đã đành nó có màu sắc tôn giáo, nhưng
đây là Thiền tông, một loại tôn giáo rất “đời thường”. Vả chăng Nghiêm Vũ không
phải là thi tăng, mà là nhà thi học, hơn nưã còn là nhà thơ, ông thấu hiểu vai
trò của chân lý và đạo lý trong thơ cũng như công phu lao tâm khổ tứ trong việc
làm thơ!
-------------------
(1) Trang Tử, Lý Song chú
dịch, Trung hoa thư điếm, Bắc kinh 1994, tr. 18
(2) Thông hướng Thiền học chi lộ,
Linh Mộc Đai Chuyết, Thưọng hải cổ tịch xuất bản xã 1989, tr. 19
(3) (4) Trung quốc lịch đại văn luận,
Quách Thiệu Ngu chu biên, Thưọng hải cổ tịch xuất bản xã 2001, tập II, tr. 424.
(5) (6) Trung quốclịch đại văn luận, Quách
Thiệu Ngu chủ biên, Thưọng hải cổ tịch xuất bản 2001, tâpII,
tr. 423
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét