Thơ Nguyễn Viết Lãm - Hương ngâu thoảng bay
Thi sĩ, y là người đi gieo hạt trái tim mình
trên cánh đồng yêu thương
Kahlil Gibran
Tôi chưa một
lần được gặp Nguyễn Viết Lãm ở ngoài đời nhưng qua những trang thơ, trang hồi
kí, cùng các bài tiểu luận phê bình văn học, tôi hình dung ra một Nguyễn
Viết Lãm, một nhà văn hoá đa diện giàu tri thức, kinh qua nhiều trải nghiệm mà
vẫn giữ trong mình cốt cách, phẩm tính của một thi sĩ tài hoa. Sự nghiệp văn
học của Nguyễn Viết Lãm khá phong phú, ông viết nhiều, bền bỉ như chính con
người mình: thơ ca, hồi kí - tùy bút, dịch thuật, nghiên cứu - phê bình. Ở lĩnh
vực nào, Nguyễn Viết Lãm cũng để lại những dấu ấn riêng. Song, trước hết, nhắc
đến Nguyễn Viết Lãm là nhắc tới một nhà thơ mà hành trình thi ca và đặc trưng
thơ của ông đã có những đóng góp nhất định cho thơ ca Hải Phòng nói riêng và
thơ ca Việt nam nói chung.
Con đường thơ Nguyễn Viết Lãm - Sự miệt mài
không ngừng nghỉ
Cuộc đời Nguyễn
Viết Lãm gắn liền với những biến chuyển của lịch sử xã hội đất nước gần một thế
kỉ (1919- 2013) nên thơ ca của ông trải qua nhiều giai đoạn: Thơ Mới- lãng mạn,
thơ ca cách mạng, thơ sau đổi mới. Ở cả ba giai đoạn của thơ Việt thế kỉ XX,
chưa bao giờ thơ Nguyễn Viết Lãm ở vị trí tiên phong hay đại diện cho một trào
lưu, một xu hướng thơ nhưng không thể phủ nhận niềm mê say của ông dành cho thơ
từ thưở thiếu thời tới những năm cuối đời. Trong hồi kí, Nguyễn Viết Lãm kể
rằng ông cũng như người bạn thân là Chế Lan Viên rất thích đọc tác phẩm của nhà
văn Pháp Andre Gide, trong đó câu mở đầu tác phẩm "Những chất dinh dưỡng
trần gian" của Gide khiến ông tâm đắc: " Ơi Na-tha-na-ên, ta sẽ dạy
cho ngươi niềm say mê..."
Không có
mặt trong hợp tuyển "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh trước 1945
nhưng Nguyễn Viết Lãm trước hết vẫn là một nhà Thơ Mới. Thời đó, Nguyễn Viết
Lãm cho đăng thơ, truyện, tiểu luận trên các tờ Tiểu thuyết thứ bảy, Tiểu
thuyết thứ năm, Tao Đàn, Sông Hương...với các bút danh Việt Chi, Tường Khanh,
Nguyễn Hạnh Đàn. Dễ nhận thấy dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực trong
các bài thơ của ông thời kì này như: Trăng vào cửa tháp, Trăng thanh
tân, Màu đi...Đọc lại ta vẫn thấy một tâm hồn tuổi hoa niên với những xao
động, chút buồn mơ hồ, len nhè nhẹ trong những vần thơ lãng mạn khi theo Trăng
vào cửa tháp:
Thánh thót sương khuya từng giọt điểm
Huyền hổ đỉnh tháp bóng trăng soi
khi lắng lòng với Màu đi:
Anh lắng giữa đêm dài
Khe khẽ tiếng màu đi
Qua những kẽ bàn tay không cầm hương được nữa
Qua những kẽ thời gian rạn vỡ...
Chỉ riêng những vần thơ ấy thôi đã làm nên
gương mặt thơ Nguyễn Viết Lãm trong nhóm thơ Quy Nhơn- Bình Định, khác với cái
đau thương quằn quại của Hàn Mặc Tử, khác với cái kì dị siêu tưởng của Chế Lan
Viên trong Điêu tàn, khác với cái phảng phất Đường Thi của Quách
Tấn... Không như những bạn thơ tiền chiến kịp hoàn tất thời kì hoàng kim ngay
khi vừa xuất hiện, Nguyễn Viết Lãm lộ diện trên làng thơ thời ấy rụt rè, khiêm
nhường. Đó là những vần thơ đẹp, chớm nở trong hồn thơ người thanh niên mang
bút danh Hạnh Đàn ngày ấy, nó mở ra con đường thơ và lưu một dấu ấn trong
thơ ông.
Thời kỳ văn
nghệ kháng chiến 1945- 1975, Nguyễn Viết Lãm viết đều. Ông liên tiếp cho ra đời
các tập thơ: Đồng xanh (1948), Chân trời (1961), Mặt
trời thân yêu (1975) cùng hàng loạt các tập bút kí, dịch thuật. Đó
cũng là quãng thời gian hoạt động cách mạng và hoạt động văn nghệ sôi nổi trong
đời ông. Cũng như những nhà Thơ Mới - lãng mạn khi đó, Nguyễn Viết Lãm
"phá cô đơn, ta hòa hợp với người" (Chế Lan Viên), mở rộng biên độ đề
tài trong thơ mình để kịp thời thâu nhận muôn mặt của đời sống chiến đấu và lao
động, của quê hương, đất nước. Đúng như nhà thơ Vũ Quần Phương nhận định:
"Thời kì này, thơ Nguyễn Viết Lãm đề tài hợp với cảm xúc, có nhiều bài
nhuyễn, cảm động về tình, sâu sắc về ý. Không ít bài thơ được đánh giá cao ở
thời điểm nó ra đời như Hạ long đêm bốc vác, Hầm chỉ huy đặt trong lòng
núi... nhưng hôm nay đọc lại, chất thơ không còn được cuộc đời cộng hưởng
như xưa." Thiết nghĩ, tính thời vụ không phải hạn chế riêng của thơ Nguyễn
Viết Lãm mà nó là hạn chế chung của thơ ca kháng chiến. Chỉ khi nào thơ thực sự
được chắt ra từ một cõi riêng, vút ra từ một cây đàn xúc cảm, một trái tim nghệ
sĩ thổn thức thì mới neo đậu bền lâu trong trái tim người đọc. Nguyễn Viết Lãm
đã có những vần thơ như thế trong lúc cất tiếng gọi Dạ lan:
"Dạ lan, dừng bước, dạ lan hương", lúc ngước nhìn Đàn
chim non trên biển: "Ai từng ngăn sóng biếc/ Ai cầm được chim
âu/ Sa Huỳnh Quy Nhơn Phan Thiết/ Chim bay trên sóng bạc đầu", lúc Ăn
với em một quả xương rồng: "Quả ngọt màu son/ Như lòng người gái đảo/
Ôi, cái gió tháng ba/ Sém vàng ngọn cỏ/ Tóc phi lao cháy đỏ lưng đồi/ Gai trắng
chích lòng tay/ Nhói đau như một điều kỉ niệm" hay là khi nằm nghe Xônat
ánh trăng mà mường tượng: "Cánh đồng hướng dương vàng những
trăng/ Trăng chảy trên đường làng/ Trên những màn sương huyền ảo/ Tâm hồn
Bethoven giông bão/ Bỗng trở về thanh thản bình yên". Giữa khói lửa chiến
tranh, những vần thơ ấy như tiếng vĩ cầm du dương, dịu hiền.
Sau 1975, thơ Nguyễn Viết
Lãm có những tìm kiếm để trở về bản thể thơ mình. Thơ ông thời kì này như thứ
ngâu nở hoa muộn, hương thơm dịu. Nó kết hợp giữa cảm xúc và triết lí, những
hồi ức trong những bài thơ tưởng nhớ về Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan,
Nguyên Hồng. Qua thơ Nguyễn Viết Lãm, ta bắt gặp thân phận và chân dung tác giảBỉ
vỏ:
Anh khóc giận, khóc vui
Hồn nhiên như trẻ nhỏ
Đấy, hồn anh cửa mở
Anh đặt xòe bàn tay
Lòng anh là bến đỗ
Nghe nắng gọi sông đầy
khúc Nguyện cầu cho cho nhà
thơ họ Chế:
Cái quàng tay trên vai mình vẫn ấm,
Ngâu sân chùa hương ngát cả hàng hiên
Những chuyến đi tới Maxcơva, Xô-chi, Biển Đen
để lại chùm Tứ tuyệt đường xa khá tinh lọc của con người giàu
trải nghiệm. Năm 2004, tập thơ Hương ngâu của Nguyễn Viết Lãm
đạt giải thưởng của Ủy ban Liên hiệp toàn quốc các hội VHNT như một sự nhìn
nhận, định giá xứng đáng cho đóa ngâu nở hoa bền bỉ
này.
Đặc trưng thơ Nguyễn Viết Lãm
Theo chiều dài thời gian, thơ
Nguyễn Viết Lãm khá đa dạng về đề tài, chất liệu, cảm hứng, bút pháp. Thơ ông
là sự tổng hòa của một nhà thơ giàu tri thức, một tâm hồn bình dị, một bản tính
khiêm nhường, lặng lẽ như một đóa ngâu dịu dàng nở trong vắng lặng, thuần
khiết.
Chất hư ảo là
một trong những đặc trưng của hồn thơ Nguyễn Viết Lãm. Nhà thơ Vũ Quần Phương
nhận định: "Ấy là chất u ẩn, ma quái, một tính trội của thơ Quy Nhơn hồi
ấy". U ẩn thì tôi thừa nhận nhưng ma quái thì chưa hẳn. Thơ Nguyễn Viết
Lãm không có những bóng ma Hời như Chế Lan Viên khi mơ về Chiêm Thành bí ẩn,
không có những cười khóc rùng rợn, đau đớn với máu và hồn như thơ Hàn Mặc
Tử. Chỉ phảng phất cái hư ảo, u hoài của những câu thơ về Tháp Chàm như:
Áo sương mỏng dính vào da thịt
Vò võ chim trời gọi trở canh
(Trăng
vào cửa tháp)
về trăng muộn:
Hoàng hôn đã bước qua song lạnh
Phòng vắng run run những ánh thừa
(Trăng
thanh tân)
về những tiếng sương khuya:
Sương khoan thai và dịu hiền
Thánh thót điểm trên cõi lòng nhạc sĩ
Thơ Nguyễn Viết
Lãm có dấu ấn của phép tương giao mà ông chịu ảnh hưởng của các nhà thơ tượng
trưng, siêu thực Pháp khi hồn ông suy tưởng với những thi ảnh gắn với biểu
tượng: áo sương, giọt trăng, tiếng sương, trăng đôi cánh nõn, sợi
hương dạ lan, cầu Khúc tinh, bắt nắng trong lòng tay hay bọc
hương ngâu trong vạt áo nâu sồng...
Những hình ảnh biểu tượng đó không phải lạ trong sách vở cổ kim, Đông Tây mà
người đọc nhiều, trải nhiều như ông đã biết song Nguyễn Viết Lãm đã dựa trên sự
mở rộng trường nghĩa và thi ảnh, mang đến ý nghĩa mới cho ngôn từ, hình ảnh thơ
mình. Có được điều này bởi hồn thơ ông giàu chất suy tưởng, có phần ảnh hưởng
của Chế Lan Viên, người bạn thơ thân nhất của ông. Nhưng cái suy tưởng của Chế
Lan Viên mang sức nặng của trí tuệ, triết lí còn ở Nguyễn Viết Lãm lại gắn với
cảm xúc.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng cho rằng: Làm thơ không phải là sự phiên dịch ý
tình ra hình ảnh mà phải có sự gắn kết của tư tưởng và cảm xúc, hình ảnh và
ngôn từ. Thơ Nguyễn Viết Lãm tuy không phải là những ngọn tháp sừng sững như
những bạn thơ cùng thời của nhóm thơ Quy Nhơn, Bình Định ngày ấy song níu giữ
ta lại ở sự quyện hòa của cảm xúc và tri thức, của giọng điệu và bút
pháp.
Xúc cảm
trong thơ Nguyễn Viết Lãm dịu nhẹ mà lắng sâu. Chút mơ mộng, hư ảo mang hơi
hướng Quy Nhơn, Bình Định và cái dìu dịu, lắng sâu trong hơi thơ, giọng thơ của
ông đã trở thành phong vị riêng cho thơ Nguyễn Viết Lãm trong phong trào thơ ca
đất Cảng những năm chống Mỹ và sau đổi mới.
Đó là thứ hương
ngâu, đằm sâu, không lập tức quyến rũ mà hương phai lâu. Nhớ Nguyễn Viết Lãm,
tôi nhớ đến thứ hương ngâu ấy: "Ngâu vàng hương thoảng
bay/ Khói hoàng hôn lặng lẽ..." Mùi hương ngâu dịu dàng, hướng thiện ấy
phù hợp với tự bạch của Nguyễn Viết Lãm về thơ: "Tôi có ý thức thường
xuyên đưa vào thơ mình tình cảm nhân hậu, vì theo tôi, thơ là địa hạt không
dành cho sự độc ác và hận thù" (Lời nguyện).
Hải Phòng, những ngày đầu tháng 6/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét