Chạy
quanh Hồ Tây là chuỗi đường hẻm đuổi nhau sau các khóm lau sậy um tùm hoặc những
dải đường mòn giữa các lùm cỏ uốn lượn quanh co, tô điểm cho các vườn ươm cây cảnh.
Vết
tích chiến tranh vẫn còn đó. Thi thoảng lại thấy một lô cốt của lính Pháp nhô
ra mặt hồ, còn đứng lừng lững với những lỗ châu mai sâu hoắm hướng ra phía hồ
như vẫn sẵn sàng khạc đạn uy hiếp những tốp du kích từ đâu đó thâm nhập, gây
kinh hoàng cho binh lính trong các đồn bốt mà quân Pháp trấn đóng quanh đô
thành.
Những
ngày chiến tranh đã qua hơn một năm rồi, kể từ khi những người lính Pháp cuối
cùng tiếp nối nhau qua Cầu Long Biên về tập kết ở Hải Phòng trước ngày xuống tầu
vượt đại dương vào Nam [1]. Cuộc chiến chống Pháp chấm dứt từ hôm ấy.
Người dân Hà Nội hồ hởi đón mừng cuộc sống trở lại yên lành như thời thái bình
thịnh trị của thành Thăng Long xưa.
Cửa
hàng cửa hiệu nhộn nhịp trở lại. Xưởng thợ lại ro ro tiếng máy vọng ra đường phố
xen lẫn tiếng chuông xe điện leng keng. Trường học lần lượt mở cửa đón học sinh
nhộn nhịp. Các trường đại học cũng tuyển sinh trở lại… Tất cả đang hứa hẹn một
cuộc sống tươi mới rộn rã.
Sau
cả tuần bù đầu sách vở, sớm chủ nhật nào cũng vậy, từng tốp sinh viên, học sinh
đạp xe len lách giữa những bụi lau sậy, vòng quanh Hồ Tây, làm một cuộc picnic.
Mỗi tốp lên đường mang theo một sở thích.
Lố
nhố các tốp xe đạp trên đường Cổ Ngư [2]. Tốp thì mang quần vợt và các túi bóng
tennis. Họ đạp một vòng quanh hồ rồi dừng tại sân quần vợt Trường Chu Văn An. Tốp
thì đèo theo túi lưới lộ rõ những trái bóng đá. Họ đạp hết vòng hồ, rồi dừng ở
sân bóng Quần Ngựa. Tốp khác mang đàn… ghi-ta và accooc [3]. Mấy chú nhóc còn mang theo kèn acmonica.[4]
Picnic
quanh Hồ Tây là một hành trình vĩ đại. Từ sớm tinh mơ, những đoàn xe đạp lố nhố.
Đủ kiểu xe. Xe nam. Xe nữ. Xe đua… Đủ loại người. Thanh niên. Thiếu nữ. Thêm cả
mấy chú choai. Mỗi người mang vài ổ bánh mì pa-tê, hoặc một hộp ghi-gô [5] xôi, cho vào ba lô, sà-cột đeo ngang
hông, buộc bi đông nước vào khung xe…, lỉnh kỉnh, nhưng hào hứng. Và thế là …
lên đường. Mấy chú nhóc cũng đeo những ba lô tí hon, vừa đạp xe vẹo sườn… vừa
nghêu ngao “Ngày nào năm xưa em còn bé tí teo. Nằm cạnh bên mẹ em bé hơn con
mèo. Ngày nào năm xưa em còn khóc í e. Đòi mẹ mua bánh, bánh đâu bé
nhè.”
Nhóm
bạn bè gặp nhau không ước hẹn. Họ là những cô gái, chàng trai Hà Nội, có người
còn trẻ măng, có người đã không còn trẻ nữa. Các anh chị lớn tuổi là sinh viên.
Vài anh chị là học sinh Chu Văn An, có cô nữ sinh Trưng Vương, có anh từ mấy
trường ở Hải phòng cũng lên nhập bọn; Một nhóm vốn là học sinh Hà Nội tản cư [6] tít mít tận các chiến khu kháng chiến
trở về. Hai anh từng học trường Hùng Vương, Phú Thọ. Một anh nữa học trường Huỳnh
Thúc Kháng, Nghệ An. Một anh lạc loài, lớn tuổi nhất, gọi là anh Hoàng, vốn học
Chu Văn An, sau vào trường thiếu sinh quân Việt Bắc, học xong gia nhập bộ đội
tình nguyện Lào, sau hòa bình trở về Hà Nội. Cả nhóm giao du với nhau, rồi thi
vào những trường đại học ở Hà Nội. Họ hẹn gặp trên bãi cỏ đầu ngõ vào làng Võng
Thị, chỗ gần chùa Tĩnh Lâu, dân làng gọi là Chùa Sải. Bãi cỏ xanh mượt mà, nhìn
ra Hồ Tây sóng biếc, thơ mộng.
Bờ
hồ bên kia, chếch bên phải một chút là dãy mái ngói đỏ của Trường Chu Văn An lấp
ló sau vài khóm lau ven hồ.
Anh
Hoàng lặp đi lặp lại câu chuyện thời xa xưa của Trường Chu Văn An. Thời ấy người
Pháp đặt tên trường là Trường trung học Bảo hộ, tiếng Tây là Lycée du
Protectorat, gọi tắt là Lypro. Anh học lớp Đệ Tam, còn hai năm nữa hết bậc tú
tài. Lớp học sinh hồi ấy đầy nhiệt huyết, hòa trong các phong trào yêu nước chống
Pháp. Trong một lần mít tinh, nhà đương cục Pháp đến nói một chuyện gì đó xúc
phạm những người yêu nước. Thế là một anh đứng bật dậy… giơ cao tay mạnh mẽ như
kiểu hô khẩu hiệu,.. Les enfants de Lypro![7] Cả hội trường nhất tề đứng dạy, đồng
thanh Debout! [8]… Ngày hôm sau có lệnh bắt anh. Cứ mỗi lần
kể lại câu chuyện, mắt anh đều ánh lên một niềm hãnh diện, là đứa con của
Lypro. Cũng từ lúc nào đó, mọi người gọi anh là Hoàng Lypro.
Đầu
tiên nhóm chỉ có bốn năm người. Một anh kéo accooc, tên là Quý, mọi người gọi
là Quý accooc. Một anh tên Hùng, có giọng nam cao, nên gọi là Hùng tenor. Một
cô bạn tên Quỳnh, học sinh Trưng Vương, có giọng nữ trung, nên gọi là Quỳnh
mezzo… Phút chót thêm chú nhóc chẳng biết tên gì, học trường nhạc gần Cửa Nam,
nên gọi là chú Nhóc trường nhạc. Trẻ con vây quanh xem cả hội đàn hát. Chủ nhật
sau xuất hiện vài ba người nữa, thêm một cây ghi-ta… Dần dần nhóm có đến hơn chục
người. Trẻ con từ các ngõ ngách trong làng Võng Thị kéo ra, líu tíu vây quanh.
Thế
là thành một nhóm du ca. Nhóm du ca họp với nhau vào mùa đông, nên họ ngẫu hứng
đặt tên là Nhóm Du ca Mùa Đông.
Bài
ca được mọi người tán thưởng đầu tiên là sáng tác của cựu học sinh Hà Nội Huy
Du, Sẽ về thủ đô. Họ hát để sống lại những tháng năm trên chiến khu Việt Bắc
ngóng trông ngày trở lại Hà Nội… Bọn học sinh Hà Nội không về chiến khu cũng
thích bài hát này, vì ca từ thiết tha, mượt mà, như vang lên từ đáy con tim người
Hà Nội. Tiếng đàn accooc của Quý lấp lánh… Bài hát kỳ lạ. Mỗi lần cất tiếng hát
là một lần có bạn gái rút khăn thấm nước mắt. Những tràng vỗ tay cổ vũ, rồi có
tiếng “Bis. Bis” [9].
Thế
là nhóm lại đồng thanh cất tiếng hát… “Ai về thủ đô tôi gửi vài lời… nghe
có tiếng hát láy…cho tôi gửi vài lời…” Và có những lời ca tiếp sau “Tây
Hồ mờ xa là nhà tôi đó. Đây chợ Đồng Xuân bên dòng Nhị Hà. Đi học về qua
luôn hát vui ca.”
Tiếng
đàn im. Mọi người nín thở. Chờ đợi. Rồi khoan thai. vọng lên óng ả giọng của Quỳnh
mezzo… “Đây Hồ Hoàn Gươm bên nhịp cầu hồng. Khi chiều dần buông tôi
hay qua đó…” Mọi người im bặt. Quý accooc kéo mạnh hơi cho âm thanh lớn
hơn… Quỳnh mezzo chậm rãi, giọng trầm xuống, êm ả…“Hoa phượng hè vui in đỏ đường
dài. Tô đậm lòng tôi năm tháng khôn nguôi.”
Quý
accooc nín hơi lấy sức… Buông tay khỏi phím, rồi vẫy tay bắt nhịp. Đập mạnh tay
vào bàn phím, anh ta nghển cổ lấy hơi…, và hát bằng giọng trầm hùng theo nhịp
đàn “Đô thành kháng chiến”. Anh ta đập mạnh chân… “Sôi sục phố phường.” Anh lại
dướn người lên mạnh mẽ… “Sông Hồng kia dâng sóng cùng quê hương.” Rồi lại dướn
cao hơn nữa, lấy hơi… “Lên đường kháng chiến tiêu diệt quân thù. Năm cửa ô reo
bước quân ca vang”.
Cả
nhóm cất vang đồng thanh hùng tráng “Cất bước ra đi chiều năm xưa. Dặm dài
kháng chiến (ư) quên ngày về. Bụi đường trường chinh pha mái tóc. Vẫn nhớ khi
đi ghi lời thề…”
Hát
xong, Hoàng Lypro, vẫn ôm ghi ta, mắt mơ màng nhìn những ngọn sóng bạc của Hồ Tây,
long lanh rớm ướt… Các bạn ạ. Cuối năm bốn tám đầu năm bốn chín [10], chúng mình được nghe bài hát này lần đầu.
Anh em trong lớp cứ nhập tâm hát mãi vì ca từ sao mà đằm thắm. Nó đúng với tâm
trạng lớp học sinh xếp bút nghiên lên chiến khu kháng chiến. Từ sau ngày tiếp
quản thủ đô, không thấy bài này được hát vì trong một cuộc chỉnh huấn có giảng
viên cao giọng phê phán rằng, nó mang tâm tình “tiểu tư sản”. Thú thật chúng
mình đâu có biết “tiểu tư sản” là cái gì…, chỉ thấy rất buồn, nhớ Hà Nội xưa,
và mãi đến sau này cứ phải chờ dịp gì đấy, chẳng hạn, kỷ niệm ngày về thủ đô để
được nghe đài và những buổi ca nhạc ở Nhà Hát lớn, hy vọng được nghe lại bài
hát này. Ôi! nó bồi hồi, xúc động. Gợi nhớ một thời lớp thanh niên Hà Nội hào
hoa xếp bút nghiên đi kháng chiến, vô tư và hồn nhiên đến mức quên ngày về!
Nhưng dù gian khó, tâm hồn lãng mạn vẫn hẹn nhau ngày về. Xúc động lắm. Nó gợi
lớp trẻ nhớ về một thời những chàng trai cô gái Hà Nội hào hoa đi vào cuộc
kháng chiến bằng những tình cảm vô cùng trong sáng.
Là
lại rộn lên “Bis. Bis”
Quý
ôm accooc dạo vài phím… Anh ta đàn một mạch, như thể độc tấu Sẽ về Thủ đô,
không ra hiệu cho mọi người hát… Mọi người tưởng anh dạo nhạc quá đà… Nhưng hết
bài… tự dưng nghe lạc hẳn, chuyển sang một giai điệu hoàn toàn khác. Hết bài
này, lại đến bài khác.
Quỳnh
ra hiệu cho Quý dừng lại. Anh chàng kéo bi-đông nước cột vào khung xe đạp, ngửa
cổ tu một hơi. Quỳnh mở hộp ghi-gô xôi xéo mang từ nhà đi mời mọi người. Anh
Hoàng ghi-ta chìa tay nhận một thìa đầy xôi của Quỳnh mezzo, vỗ gọn vào miệng.
Dù tiếng accooc đã ngừng, mấy cậu bé vẫn vừa nhai, vừa hát, vừa khoát tay, đánh
nhịp chân và hát. Một chú tinh nghịch đặt ngửa cái mũ kê-pi xuống nền cỏ. Một
chú ném mấy đồng xu lấp lánh ánh bạc vào lòng mũ. Chú nữa lên tiếng: “Xu ném
vào mũ rồi đấy. Các ca sĩ hát đi!”
Vài
tuần sau lại thấy nhóm du ca kéo đến. Bọn trẻ trong làng Võng Thị lại kéo đến
kín bãi. Tiếng accooc vang mặt hồ. Thi thoảng có tiếng bàn tay đập vào mặt đàn
gỗ… Tiếng ai đó cất lên hòa lẫn tiếng ghi-ta. Cả nhóm hát vang, oai hùng như tiếng
chân của đoàn quân xung trận… Thế rồi cả nhóm dừng lại, cười vui râm ran, lôi
bánh mì và nước uống, chia cả cho bọn trẻ từ trong làng ra góp vui đàn hát…
Bỗng
dưng anh chàng Quý ngồi bệt xuống nền cỏ, rồi từ từ ngả lưng trên bãi,… vẫn nằm
ôm cây đàn accooc trên ngực. Bỗng anh đột nhiên anh kéo mạnh cây đàn, vừa khẽ
ngân nga, kéo cả hội cùng hát theo.
“Chiều
chưa đi màn đêm rơi xuống.
Anh
dừng lại, đột nhiên lên giọng hào hứng… Đây chính là “Hội ca” của chúng ta, của
Nhóm Du ca Mùa Đông… Nhóm du ca của chúng ta gặp nhau vào mùa đông. Chọn bài
hát Đêm đông là quá chuẩn… Chúng ta gọi là Bản Du ca Mùa Đông nhá.
Nào… Anh chàng vẫn nằm trên cỏ, đập tay mạnh lên bàn phím của accooc, ngồi nhổm
dậy, chống một chân trong tư thế như anh lính quỳ bắn súng trên bãi tập, rồi đứng
thẳng, vẫn ôm cây accooc, và cất tiếng hát từ đầu, Bản Du ca Mùa Đông.
Chiều
chưa đi màn đêm buông xuống.
Đâu
đấy buông lững lờ tiếng chuông.
Đôi
cánh chim bâng khuâng rã rời.
Tự
nhiên mọi người có cảm giác như mặt hồ đóng băng. Chết lặng trong cảm xúc đằm
thắm. “Thời gian như ngừng trong tê tái. Cây trút lá cuốn theo chiều mây. Mưa
giăng mắc nhớ nhung, tiêu điều. Sương thướt tha bay, ôi đìu hiu!… Đêm
đông... Ôi ta nhớ nhung đường về xa xa…”
Quý
ngân nga và lắc nhẹ đầu, bên trái, rồi bên phải, rồi ngửa cổ như để lấy hơi hứng
chí nhắc lại… “Đêm đông…Ôi ta nhớ nhung đường về xa xa…” Thế là cả nhóm cao giọng
đồng thanh, riêng Hoàng ghi-ta thì hát âm vang nhất với giọng trầm trầm buồn buồn.
Bỗng
nhóm du ca lặn mất tăm. Mãi hai tuần sau mới quay lại. Bọn trẻ trong làng lại
kéo ra. Lần này có hiện tượng mới, rất mới… Anh chàng Quý accooc đi cùng với em
Quỳnh mezzo. Đến bãi cỏ hai người dừng lại. Quý ngồi ghếch trên yên xe, chống một
chân xuống đất, tháo cây accooc khỏi vai, đặt phịch xuống nền cỏ. Rồi cả hai
buông xe, đứng sát nhau. Lướt nhìn một vòng mọi người, cười hi hi:
Các
bạn hôm nay vui quá nhỉ!
Có
tiếng hưởng ứng của Hoàng ghi-ta:
À.
Vui vì sự kiện này đây - anh ta vừa nói vừa lướt bàn tay qua hai người mới đến,
hướng về Quỳnh mezzo trước và dừng lại ở Quý accooc. Cả hội cùng cười rộ.
Quý
cười hưởng ứng, ôm vai Quỳnh lắc lắc làm cô bé đỏ mặt, gỡ tay Quý khỏi vai và
ngồi phịch xuống thảm cỏ, lảng chuyện:
Các
anh chị ăn xôi nhá. Hôm nay Quỳnh có xôi lạc lạp xường này.
Thế
rồi Quý ôm accooc. Lại ngân nga… “Chiều chưa đi màn đêm buông xuống…”
Cuộc
sống những tưởng từ nay cứ như thế yên bình. Bãi cỏ trước ngõ hẻm vào làng Võng
Thị trở thành nơi hẹn hò thân thương của nhóm du ca.
Nhưng
rồi, … khi kết thúc chiến tranh cũng là bắt đầu không khí bận rộn của cách mạng.
Xuất hiện những chiếc loa cỡ đại trên cột điện. Loa phát liên hồi các bài giáo
huấn, nhắc mọi người luôn nhớ truyền thống của chiến tranh. Mấy đoàn ca múa nhạc,
gọi là “của các nước anh em”, như Trung Quốc, Triều Tiên, rồi xiếc Liên Xô… đến
Hà Nội, mang tình hữu nghị của bè bạn đến với dân ta. Học sinh, sinh viên thủ
đô dang tay đón họ đầy ngưỡng mộ, như nhìn thấy tương lai của chính đất nước
mình.
Đường
phố dồn dập các sự biến. Cách mạng không chấp nhận mọi thứ của trật tự cũ, phải
xóa bỏ hoàn toàn trật tự của tư bản và phong kiến.
Trường
học nhộn nhịp phong trào, hết văn hóa, thể thao, lại đến phong trào thi đua …,
rồi những cuộc về nông thôn, vừa để lao động cải tạo tư tưởng, vừa để giúp đỡ
nông dân…
Các
trường nháo nhác. Thi thoảng một vài sinh viên mất tích. Bạn bè không biết nhà
trường đã làm gì với họ. Chỉ thấy một số bạn đột nhiên bặt tăm, không có mặt ở
lớp… Bạn nọ ngơ ngác hỏi bạn kia… không ai biết… Dần dần mới vỡ ra các nhẽ.
Một
anh đột nhiên không đi học. Mãi cả tháng sau mọi người mới biết, nhà trường đã
phát hiện, anh đã từng là nhân viên gì đó, đại loại là thư ký đánh máy trong một
đơn vị hải quân của Pháp. Thế là nhà trường phải thải loại. Trong các cuộc học
tập chính trị tập trung, nhà trường giải thích, là đề phòng địch cài người luồn
sâu leo cao. Vì nhà nước mở trường là để đào tạo cán bộ phục vụ trong các cơ
quan của nhà nước. Tốt nghiệp xong là vào làm việc cơ quan, thành nhân viên nhà
nước suốt đời.
Báo
chí tới tấp đưa tin cuộc nổi dậy làm cải cách ruộng đất. Giải phóng rồi thì đến
cách mạng dân cầy, rồi cải tạo tư sản, … phải xóa bỏ buôn bán tư nhân, triệt mầm
mống của tư bản, … anh bán phở, chị bún riêu, thợ cắt tóc, thợ đóng giầy… nhất
nhất cũng phải là cán bộ nhà nước hoặc xã viên hợp tác xã.
Mọi
thứ đều sôi động. Giống như đều bị cuốn vào các trận chiến.
Đến
lượt hai anh bạn học sinh của nhóm du ca bị đội cải cách [11] ở quê nhà gọi về, không được tiếp tục
đi học nữa. Một trong hai anh đó, chính là Quý accooc. Họ mất tăm từ đấy. Không
ai biết các anh ấy đi đâu. Sau mới nghe nói, các cụ thân sinh của họ là địa chủ,
bị đưa ra đấu tố, và kết quả là con cái nhà địa chủ không thể được học trong
các nhà trường cách mạng.
Hoàng
nghe mấy bạn kể chuyện thì chột dạ, tại sao nhà Quý là địa chủ? Hoàng biết gia
đình họ. Nhà anh ta chỉ có hơn mẫu ruộng [12]. Cũng có một con bò. Bố anh ta tự đi
cày, đi bừa. Mẹ vẫn đi làm đồng. Các em vẫn đi chăn bò, cắt cỏ. Gia đình Hoàng
còn hơn hẳn nhà Quý, rất có thể cũng sẽ vướng vào thành phần địa chủ, mà có khi
còn tồi tệ hơn. Anh lo lắng ra mặt. Nhân chủ nhật, Hoàng đạp xe ra bến xe Hàng
Lọng [13], chất xe đạp lên nóc một xe khách về
quê. Anh đạp một mạch từ thị xã về gần làng thì gặp thầy giáo cũ. Kín đáo kéo
vào một góc nghĩa trang bên đường, thầy giáo hỏi “Cậu biết gia đình thế nào mà
về? Nguy hiểm lắm”. Thầy khuyên anh quay trở lại thị xã tìm nhà quen hỏi thăm.
Xem có ổn không?
Hoàng
quay trở lại thị xã. Hỏi ra, gia đình anh thuộc thành phần địa chủ, mà là loại
địa chủ cường hào gian ác và tay sai đế quốc. Anh lạnh người. Họ nhầm lẫn? Câu
chuyện cứ như đùa.
Anh
lần từng đoạn. Ông nội làm công chức của Pháp. Ờ. Tay sai đế quốc. Một lần
tranh luận với một đồng sự người Pháp, cụ bị anh ta thộp ngực. Nghe anh ta chửi
“Dân mọi … Đồ lợn anamit”. Cụ uất. Đứng thẳng người chộp bàn tay viên quan chức
Pháp, vặn một vòng và tát thật mạnh vào mặt anh ta. Nhà đương cục Pháp đương
nhiên phải bênh người của họ. Cụ bị đuổi việc. Cụ dốc vốn liếng mua một dãy nhà
rẻ tiền cho học sinh trọ học ngay tại thị xã quê hương anh. Ờ. Tư sản nhà cửa.
Khi vốn liếng khá hơn, cụ về quê tậu mấy mẫu ruộng định theo đuổi nghề nông. Ờ.
Địa chủ là đúng rồi. Nhưng rồi họ hàng kích động, cụ đã mang văn tự ruộng đi cầm
cố ở một nhà địa chủ để có tiền chạy đua giành chức lý trưởng. À. Thế là muốn
ngoi lên cường hào. Nhưng rồi cụ bị thua. Trắng tay. Thành vô sản.
Mới
đầu, Đội qui gia đình anh là bần nông. Nghe hợp lí. Nhưng rồi Đội xét lại. Nhà
ông nội từng có mấy mẫu ruộng, nên phải địa chủ. Ngẫm ra cũng chẳng sai. Rồi đội
nối dài thành phần của cụ, … phải là cường hào, phải là tư sản, phải là tay sai
đế quốc. Đội nhắc đi nhắc lại là đường lối chủ trương đấu tranh giai cấp địch
ta sáng suốt.
Ngẫm
lại, đội xét gia đình ông nội là bần nông, vô sản, hay địa chủ đều đúng cả. Và
tất cả cũng đều vớ vẩn cả. Vớ vẩn vì nhà anh là bần nông. Rồi vẫn vớ vẩn vì lại
là địa chủ. Nghĩ mà thấy hài hước như đùa. Xã hội toàn những chuyện hài hước
như đùa. Nông dân được đội “phát động giác ngộ lập trường giai cấp”, tố giác
trăm thứ “Giá mà” của ông nội…
Anh
nghe đủ các thứ “Giá mà” ấy: Giá mà ông nội thắng chức lý trưởng thì cụ chắc chắn
là cường hào ác bá; Giá mà ông nội không mang ruộng cầm cố để giành chức lý trưởng
thì cụ có rất nhiều ruộng, phải là địa chủ mới đúng; Giá mà ông nội không bán
nhà để về quê tậu ruộng thì chắc chắn cụ là tư sản nhà cửa. Giai cấp tư sản là
chắc chắn; Giá mà ông nội không tát viên quan người Pháp, thì cụ cứ yên vị là
tay sai của đế quốc thực dân… Tất cả cái “Giá mà” được cộng lại, và đội đã xếp
gia đình anh là đối tượng nguy hiểm nhất của cách mạng. Xét tội cụ, rõ ràng nặng
gấp mấy lần ông Cửu Kiên cùng làng. Cứ như ông Cửu Kiên chỉ có một tội là mở
công ty buôn bán đồ mỹ nghệ với người Pháp. Ông can tội cấu kết với đế quốc thực
dân. Một hôm, công ty của người Pháp về làng làm việc, ông cho dựng cổng chào
đón đoàn trước cửa ra vào phòng khách với dòng chữ Pháp “Bienvenu” [14], mà sau cũng bị kết tội gián điệp, bị bắt
cóc, rồi bị bó vào chiếu, buộc đá dìm xuống sông thủ tiêu mất xác.
Với
những điều nông dân tố giác với đội cải cách, gia đình Hoàng đã có một thành phần
rất chi phức tạp, là … địa chủ cường hào, kiêm tư sản, lại làm tay sai cho đế
quốc. Thật đúng. Và cũng thật ngớ ngẩn. Hoàng càng như loạng choạng trong hầm tối.
Kêu ai bây giờ. Lộ mặt ra là bị bắt. Rồi bị đưa đi biệt xứ. Đành cam chịu. Rồi
anh chép miệng “Họ ngớ ngẩn là phải, vì họ là những cốt cán ngoi lên từ cách mạng,
họ theo lệnh của cấp trên…” Mà cấp trên là ai mới được chứ? Nghĩ cho cùng, dù
là ai, thì cấp trên cũng chẳng hơn gì mấy anh cấp dưới. Cấp trên của họ cũng từ
loại người như họ mà đi lên.
Nhưng
rồi cái thứ ngớ ngẩn ấy được ghi vào một tờ giấy gọi là lý lịch. Mà đâu chỉ
mình anh. Toàn dân này như thế. Mọi người đều mang cái lý lịch ngớ ngẩn do mấy
anh đội gán chạy dài cả cuộc đời. Cuối cùng, các thứ thành phần ghi trong bản
lí lịch do loại người ấy cắt đặt trở thành căn cứ để được phân biệt đối xử và
được ban phát các “chế độ” trong làng, ngoài nước.
Vài
tuần sau, nhóm du ca vắng thêm hai người, Hùng tenor và một anh chàng nữa. Các
bạn hỏi nhau. Không ai biết. Mọi người nghĩ các bạn ốm, rủ nhau đi thăm. Đến
nhà nào cũng gặp những con mắt nghi kị. Nài nỉ mãi, mọi người trong nhà mới bật
ra một câu hỏi đầy sợ sệt… “Thưa các ông bà gia đình chúng tôi phải làm gì?”. Gặng
hỏi mãi, các gia đình mới tin là bạn bè đến hỏi thăm, và cho biết hai anh bị đuổi
học, bị đưa đi biệt tích ở đâu không rõ, vì can tội tham gia mấy tạp chí Giai
Phẩm của sinh viên, hết Giai phẩm Mùa Xuân lại đến Giai Phẩm Mùa Đông. Sau khi
đọc đầy hứng thú Giai phẩm Mùa Xuân hai anh chàng rủ nhau lọ mọ đến Tòa soạn cởi
mở tâm tình tán thưởng, rồi trở thành cộng tác viên của Ban biên tập Giai phẩm.
Mấy anh bị liệt ngay vào nhóm Nhân văn - Giai phẩm. Hai anh mất tăm từ đó.
Cô
bạn Quỳnh mezzo đi lấy chồng. Ông chồng không phải là Quý accooc. Cả nhà không
cho đợi Quý accooc. Quý mất tích đi đâu không rõ. Anh ta lẳng lặng bỏ đi vì thấy
mình hèn kém với thân phận là con cái địa chủ. Không có với Quỳnh một phút chia
tay, cũng không nói với Quỳnh một lời vĩnh biệt. Quỳnh không nói được nửa lời.
Yên lặng. Không thể lộ cái lai lịch liên quan với gia đình địa chủ.
Cuối
cùng bị gia đình dồn ép… Con gái có thì… Quỳnh lấy một ông là thầy giáo cũ của
cô. Ông dạy toán. Một lần nhân giảng về định lý Pythagore, ông cười cười kể
chuyện thầy Pythagore yêu học sinh… Mọi người trong lớp nhận ra, cứ mỗi lần nói
đến chuyện này, ông lại hướng về cô ta, coi bộ rất tình cảm. Thế là mọi người
trong lớp bình luận, ông muốn nhắn nhủ với cô bạn Quỳnh, là ông yêu cô ta… Rồi
mỗi lần những đứa trong lớp gặp cô, luôn cười cười hỏi … như móc máy “Mày học
thuộc định lý Pythagore chưa ?”
Thế
mà thành chuyện thật. Sau khi Quỳnh tốt nghiệp trung học một thời gian, ông thầy
đã cưới cô ta làm vợ. Cô bỏ học ở nhà mở lớp dạy thêu ren. Rồi cô đẻ cho ông một
đứa con gái. Ít năm sau ông bị ung thư chết. Đứa con gái bỏ không làm thêu ren
với mẹ, theo bạn bè vượt biển trốn đi nước ngoài. Cô bơ vơ. Thi thoảng lại cất
tiếng hát những bài hát của nhóm du ca, với cô là một kỷ niệm đẹp và một quá khứ
đã bị chôn vùi vĩnh viễn.
Một
chủ nhật, nhóm du ca hẹn họp mặt tại nhà một anh bạn. Họ bàn tán đầy lo lắng và
phẫn nộ … về một chuyện. Lo lắng và phẫn nộ với bọn Tàu Cộng, mà một số người vẫn
đinh ninh “Bốn phương vô sản đều là anh em”… Thì ra chẳng có anh em nào hết.
Chúng vẫn là một bè lũ tầu ô, như hồi bốn lăm nhớp nhúa, bê tha trên đường phố.
Chúng vẫn ngông nghênh như ngàn xưa vẫn vậy. Không khí chiến tranh tràn ngập thủ
đô. Sinh viên, học sinh nghỉ học. Họ được điều động đi đào hầm và đắp chiến lũy
để xây dựng Phòng tuyến Sông Cầu cắt ngang tỉnh Hà Bắc [15], tạo một vành đai bảo vệ phía bắc Hà Nội.
Câu chuyện gợi nhớ lại Phòng tuyến Sông Cầu của Lý Thường Kiệt ngăn chặn quân
xâm lược Tống từ mấy trăm năm trước.
Đến
một buổi họp mặt khác, các bạn nhóm du ca chuyền tay nhau bức thư viết chung của
Hoàng Lypro và Quý accooc. Thì ra, dù nhóm du ca tan tác, hai anh vẫn giao du với
nhau – một anh là con nhà địa chủ, một anh là con nhà địa chủ-tư sản-cường
hào-gian ác … tay sai đế quốc thực dân. Hai anh rủ nhau vượt sông Bến Hải để
vào Nam vào một đêm tối trời, nhưng bị bắt, bị giam ở Hỏa Lò. Sau được một ông
chú của Hoàng, là phó giám đốc một sở, đứng ra bảo lãnh. Được tha, nhưng bị đuổi
học. Hai anh bàn nhau ra làm công nhân mỏ, và giờ đây, hai anh chào mọi người để
lên biên giới. Chừng nửa tháng sau, bạn bè còn nhận được bức thư thứ hai của
hai người, báo tin họ ở chung một đơn vị. Các anh không quên nhắn nhủ lời hẹn ước
sớm về hội ngộ với nhóm du ca.
Rồi
cả nhóm được tin cả đơn vị của các anh đã tan tác trong hai trận nã pháo liên tục
của bọn Tàu từ bên kia biên giới.
Các
thành viên của nhóm du ca bây giờ tan tác. Họ đi đâu không ai hay biết. Nhưng rồi
xuất hiện các trang mạng internet. Một người trong nhóm du ca mở ra một trang mạng,
đặt cái tên gợi nhớ những tình cảm của nhóm du ca đã chìm trong năm tháng…,
trang mạng mang tên “Bản Du ca Mùa Đông”. Khi bật lên thì nổi lên giai điệu tha
thiết “Đêm đông ôi ta nhớ nhung đường về xa xa” Người sáng lập trang mạng không
phải ai khác, mà chính là chú nhóc trường nhạc Cửa Nam ngày trước cùng với chị
Như Quỳnh Mezzo. Chú kêu gọi các anh các chị nhóm du ca liên lạc với nhau qua
trang mạng để ôn lại những kỉ niệm vui buồn.
Các
thành viên của nhóm du ca được cơ hội thường xuyên gặp gỡ hàn huyên nhờ sáng kiến
của chị Quỳnh và chú nhóc trường nhạc. Cũng nhờ trang mạng mà rất nhiều tin tức
được mọi người chia sẻ. Mọi người có dịp tìm lại những sự kiện đã lùi xa vào
quá khứ. Trang mạng đưa tin “Các anh hy sinh vào một ngày đầu thu trong chiến đấu
chống quân xâm lược và được phong liệt sĩ”; Một đoạn khác viết “Hai anh đã hy
sinh khi đang chiến đấu bảo vệ đồng đội và người dân khỏi quân xâm lược từ bên
kia biên giới”; Một đoạn khác nữa tường thuật “Hai anh đã hi sinh khi đang chiến
đấu bảo vệ đồng đội”; Một trang mạng khác nói “Các anh bị sát hại vì những tên
‘côn đồ’, chứ không phải bọn xâm lược, từ bên kia biên giới kéo sang”.
Trang
mạng nhớ đến một thời của nhóm du ca.
Nhớ
đến nơi hội ngộ của nhóm du ca, nay đã không còn là bãi cỏ đầu làng Võng Thị nữa.
Chỗ ấy bây giờ đã là một xóm phố tấp nập người qua kẻ lại. Những buổi cuối
cùng, nhóm du ca gặp gỡ tại nhà một anh bạn ven đô có tên là làng Ngọc Thụy. Rồi
nhóm tan vào một ngày mùa đông, khi cuộc chiến bùng phát và những lớp thanh
niên như các bạn trai gái trong nhóm Du ca Mùa Đông vượt Trường Sơn vào chiến
trường. Biết bao người con của Hà Nội ra đi không trở lại… Những người còn sống
nâng cây đàn accooc kéo những bản tình ca của những người con mơ ngày Sẽ về
Thủ đô… đến những ca khúc bi tráng của thành Thăng Long xưa, nhưng nhớ nhất là
bài Đêm Đông …, Bản du ca Mùa Đông, hội ca của nhóm du ca.
Vào
buổi tưởng niệm những người con của Tổ Quốc đã hy sinh trong cuộc chiến biên giới
với giặc Tầu, một vị nhân sĩ đã đọc lời tưởng niệm [16]:
Thương
ơi! Hỡi linh hồn các anh hùng liệt sĩ chống giặc Tàu Cộng! Hỡi dân lành bỏ
mạng dưới gót giầy của phát xít Bắc Kinh!
Ba
mươi mấy năm, mấy trăm tờ báo Mà chỉ có một bài nhắc đến cuộc chiến này. Không
quan chức nào nhắc đến chiến công! Không chương trình nào tôn vinh tưởng nhớ!
Các
quan chức không nhắc đến đã đành, Dân thương nhớ, cúi đầu tưởng niệm cũng bị
ngăn chặn, cấm đoán! Biết lấy gì an ủi vong linh các Anh!
Mẹ
Việt Nam ơi!
Hỡi
Mẹ Việt Nam!
Cô
bé Quỳnh mezzo bây giờ đã là bà già bảy mươi tuổi có dư. Bà mang một niềm tin
vô vọng gặp lại với Nhóm Du ca Mùa Đông ngày ấy.
Nhưng
rồi, giọng trĩu nặng của các bậc trưởng thượng [17] trước tượng đài Đức Vua như kéo bà
về với thực tại. Hiển hiện trước mắt bà là vòng hoa mang dải băng đen với dòng
chữ trắng trang trọng “Đời đời nhớ ơn các liệt sỹ chống giặc Tàu Cộng xâm lược”.
Bà
đứng lặng, hoài vọng những kỷ niệm da diết của Thăng Long xưa vẫn còn vang vọng
bản tình khúc bất diệt của nhóm du ca ngày trước…
Đột
nhiên, một tốp người mặc áo đỏ, choàng cờ cũng mầu đỏ in hình búa liềm xông đến,
nhún nhẩy đảo điên, cười nhạo nhí nhố như bọn say rượu, vừa giật vòng hoa, nhăn
nhở và xua đuổi từ các bậc trưởng thượng đến các em nhi đồng đang vây quanh Tượng
đài Đức Vua. Bà ngơ ngác, không hiểu sao, thì một cô gái mặc áo đỏ và cũng
choàng cờ chói đỏ, xông đến xô bà choạng vạng.
Bà
bị đẩy sát lề đường, mặt vẫn hướng về phía Tượng đài. Bà nhìn rõ chiếc vòng hoa
bị bọn người khoác cờ dùng gậy vụt nát. Bà ngã dúi, ngồi sát lề đường… Rồi bình
tâm trở lại, bà lặng lẽ bước về phía Tượng đài. Bỗng bà nghe vọng giai điệu thiết
tha…
“Ai
về thủ đô cho gửi vài lời.
Tây
Hồ mờ xa là nhà tôi đó
Hoa
phượng hè vui in đỏ đường dài
Tô đậm lòng tôi năm tháng khôn nguôi”
Tô đậm lòng tôi năm tháng khôn nguôi”
Bọn
người choàng cờ đỏ dường như thấy mình đã xong việc, ngạo nghễ bỏ đi. Bà chậm
chạp trở lại phía Tượng đài, lặng lẽ đứng ôm lẵng hoa hồng trắng còn giữ trong
tay, như cố không để bọn người kia giật mất. Bà trầm mặc như một pho tượng, tưởng
như chính mình đang ôm cây ghi-ta, tỉa từng giai điệu thiết tha của bài Đêm
đông… Bà lẳng lặng đặt lẵng hoa dưới chân Tượng đài.
Bà
khẽ cất giọng nữ trung ấm áp của em Quỳnh mezzo ngày trước ru cho những người
chị, người anh, các em gái, em trai, và bây giờ đến thế hệ các con, các cháu của
bà,… đã ngã xuống để bảo vệ từng nắm đất thấm máu những người con của Tổ Quốc.
“Đêm
đông. Ta mơ giấc mơ gia đình yêu thương.
Đêm
Đông. Ta lê bước chân phong trần tha hương.
Có
ai thấu tình cô lữ đêm đông không nhà… ”
Thoáng
một nỗi buồn man mác, bà lẳng lặng sống lại với tình yêu đằm thắm của nhóm du
ca trong chuỗi tháng ngày xa xưa ấy…
Tự
dưng bà thấy trống trải giữa lòng Hà Nội ồn ào người xe tấp nập.
Như
người lữ khách cô đơn trong Bản Du ca Mùa Đông.
[1] Theo Hiệp định Genève năm 1954, Việt Nam bị chia thành
hai miền. Quân đội của Chính phủ Hồ Chí Minh tập kết ở Miền Bắc; Quân đội Pháp
và quân đội Chính phủ Bảo Đại tập kết ở Miền Nam.
[4] Kèn kim loại, khi thổi phải ngậm cả miệng lên mặt kèn
và nghe phát âm giống như tiếng đàn accooc.
[6] Dân thành phố di chuyển về tạm cư ở nông thôn, miền
núi. Cách nói giống như “sơ tán” hồi thập niên 1970.
[16] Phỏng theo bài của một nhân sĩ đọc tại chân tượng đài
liệt sĩ ở Hà Nội nhân kỷ niệm ngày chống Tàu Cộng xâm lược năm 2013.
Hà Nội, Mùa Đông 2015
Phạm Hoài Vũ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét