Thực ra, tôi biết Nguyễn Duy thật sự từ những năm đói kém khốn khổ của đất nước,
khi ông viết “Đánh thức tiềm lực” với tất cả niềm hăm hở muốn “rũ ruột gan ra đếm”.
ĐÒ LÈN
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần.
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm.
Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!
9-1982
NGUYỄN DUY
NGUYỄN DUY
Có lẽ cũng chẳng cần dài dòng thêm với bài thơ đã
quá nổi tiếng này của Nguyễn Duy. Chỉ muốn cảm bài thơ này theo một cách hồn
nhiên và trong trẻo nhất của tâm hồn mình, khi tuổi giờ đây đã vụt bay mất
chữ thơ. Để muốn cảm cho đến tận cùng đắng đót một nỗi lòng! (T.H.N)
Thực ra, tôi biết Nguyễn Duy thật sự từ những năm đói kém khốn
khổ của đất nước, khi ông viết “Đánh thức tiềm lực” với tất cả niềm hăm hở muốn
“rũ ruột gan ra đếm”. Thật sự bài thơ đó gây choáng với một học sinh chuyên Văn
thời đó thuộc thơ Tố Hữu, thơ “Ngục trung nhật kí” đến gần như nằm lòng, thích
viết những lời có cánh. Còn Nguyễn Duy trong vốn liếng chỉ có mỗi bài “Hơi ấm ổ
rơm” với những câu thơ lành hiền, cùng một gu thơ thời đó. Một tự cảm mới lạ từ
“Đánh thức tiềm lực” chưa hết thì ông lại có bài thơ “Nhìn từ xa, Tổ quốc…” với
những lời còn sốc đến nỗi sau này bài thơ bị cấm (!). Và tôi để ý thơ ông từ
đó!
Càng đọc Nguyễn Duy, càng thấy phục tài thơ với những vần thơ ứa nước mắt của “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, với “Tôi về xứ Huế mưa sa – Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa…”. Nguyễn Duy khiến tôi nao lòng và sởn gai ốc với những tứ thơ thật “độc” trong “Về làng”:
Làng ta ở tận làng ta
Mấy năm một bận con xa về làng
Gốc cây hòn đá cũ càng
Trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay…”
Cũng là lục bát nhưng không phải theo kiểu Nguyễn Du thời trung đại, cũng là làng quê mà không phải là làng quê theo kiểu Nguyễn Bính. Mà là lục bát Nguyễn Duy, làng quê Nguyễn Duy. Và tôi chợt nhận ra, sau này có đọc Nguyễn Duy ở thể thơ nào thì vẫn cứ ám bởi một hồn lục bát – mang theo một nỗi niềm ám ảnh khôn nguôi về một vẻ đẹp rất xưa, rất thánh thiện đã không còn nguyên vẹn nữa! Cả “Ánh trăng” ngũ ngôn hay bài “Đò Lèn” này cũng thế! Dường như tâm thức Nguyễn Duy đặt trọn trong “Đò Lèn” – bài thơ viết năm 1982 – để sau này bùng nổ trong hàng loạt bài dữ dội hơn, gai góc hơn, tung phá hơn và bụi bặm hơn!
“Đò Lèn” là một địa danh neo đậu con thuyền tình quê, tình bà cháu! Rất đậm chất địa phương Thanh Hóa trong hàng loạt những địa danh quê hương tác giả. Và những địa danh, địa điểm xuất hiện hàng loạt trong bài thơ lại làm thành một hành trình kết nối với kí ức, đánh thức từng kỷ niệm…
Viết về một vùng quê của riêng mình, nhưng Nguyễn Duy đánh thức hoài niệm của biết bao nhiêu người về cố hương. Với thế hệ học sinh bây giờ, cái kỉ niệm đèm đẹp, tinh nghịch ấy của Nguyễn Duy ắt hẳn sẽ được nhiều đồng cảm. Nhất là với những ai đã từng là một cậu bé quê nghèo!
Tôi chợt nhớ một lời hát thời kháng Pháp của một nhạc sĩ tài danh trùng tên khác họ với tác giả bài thơ – Phạm Duy: “Làng tôi không xa kinh kì sáng chói…”. Còn rất lâu những kí ức làng quê mới nguôi ngoai trong những tâm hồn Việt! Nguyễn Duy của thời kháng Mĩ có một tuổi thơ thật thanh bình và táo tợn. Không gian của đền, chùa bao bọc cậu bé ấy không đủ sức lôi kéo tuổi thơ chìm đắm trong thế giới tâm linh. Nghịch nhiều thì nhớ lâu: câu cá, bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, ăn trộm nhãn chùa Trần… toàn là phạm giới cả! Nhưng cũng chẳng ai nỡ lòng mà phạt cậu bé ở cái tuổi còn “níu váy bà đi chợ Bình Lâm” (mà có biết đâu những trò nhất quỉ nhì ma… giấu người lớn mà nghịch đẻ mà quở phạt!)
Cái thế giới “Tiên Phật thánh thần” ấy chỉ đủ sức hấp dẫn cậu bé tò mò ở cái lạ lẫm, thú vị của nó. Thế giới của bà với niềm tin tuyệt đối vào đấng siêu nhiên thì chỉ là nơi để “chơi”, để “xem” của cậu bé, với những ấn tượng trực quan:
mùi huệ trắng quyện hương trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Đứa cháu cứ vô tâm mà lớn lên, để rồi đến mãi về sau mới ngỡ ngàng nhận ra có một thế giới thực tại đầy cơ cực của bà, với câu thơ đọng mãi niềm day dứt: “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế…”. Đọc những câu thơ này của Nguyễn Duy, tôi lại nhớ hình ảnh trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, cũng là hình ảnh của kí ức về phố huyện với mẹ con chị Tí ban ngày mò cua xúc tép, đêm đêm bán hàng nước cho khách đi tàu chờ tàu. Hình như khi thật lớn khôn, con người mới có dịp suy ngẫm và nghẹn ngào vì sự vô tâm của chính mình, để vẽ lại những hình ảnh quá khứ bằng tất cả niềm xót xa thương cảm và cả nỗi ân hận của chính mình! Và Nguyễn Duy đã nói hộ cho bao người nỗi niềm ấy:
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
Giữa bà tôi và Tiên Phật thánh thần…
Đứa cháu rồi cũng lớn, cũng bớt vô tâm khi dần nhận ra bóng dáng bà hiện hữu lớn dần trong tâm trí. Nhưng biết là biết vậy, cảm là cảm vậy, cũng lờ mờ hiểu chuyện, nhưng cảm giác cồn cào của dạ dày lấn át niềm tin vào một đấng cứu khổ cứu nạn:
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm… Những học sinh của thế hệ bây giờ có lẽ khó mà hiểu cảm xúc có phần nghiệt ngã trong khổ thơ mang theo âm vang của đạn bom hủy diệt :
Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!
Ghê gớm thay sức mạnh của chiến tranh, khi con người bị đặt vào ranh giới của sự sống - chết mới thật sự bừng tỉnh. Giọng điệu thơ Nguyễn Duy quả có phần “báng bổ thần linh” khi rũ sạch mọi niềm tin tôn giáo! Nhưng đó là lúc niềm tin khác lớn lên, mạnh mẽ và bền bỉ: bà mới thật sự là chỗ dựa, là điểm trụ bất chấp cái chết rình rập, là đấng cứu khổ cứu nạn thật sự! Mặc kệ “nhà bay mất”, đền chùa “bay tuốt”. Khi cái Ác hiện hữu, rình rập thì bà là hiện thân của cái Thiện, cái Thật bảo bọc chở che cho cháu, cho cả gia đình. Bà là Sự Sống Con Người mạnh hơn Cái Chết!
Bài thơ khép lại bằng một cảm nhận thời gian, khi đứa cháu lớn lên trong thời chiến, như bao người thực hiện nghĩa vụ công dân thiêng liêng. “Dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi” đâu chỉ là dòng sông quê mà còn là dòng thời gian với bao điều còn mất, để vun thêm và cũng lấy đi bao phù sa cho tâm hồn con người! Cứ mải miết trên một hành trình đời người, trải qua bao hiện thực tàn khốc, yêu thương và căm thù, đến lúc quay trở về bến đò quê năm xưa mới bàng hoàng vì một nỗi ăn năn muộn mằn:
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!
Đời người, khi ngộ ra lẽ tử sinh, không khỏi ám ảnh câu thơ của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều: “Trăm năm còn có gì đâu – Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì”. Người ta rồi cũng phải tuân theo qui luật tự nhiên! Và nỗi đau đọng lại là của người còn sống. Niềm day dứt của Nguyễn Duy không đem lại cảm nhận về nỗi mất mát một cách nặng nề, mà trái lại khiến tâm trí người đọc hình dung đầy đủ trọn vẹn nhất về hình ảnh người bà kính yêu của nhà thơ. Người đời thường gọi đó là sự hy sinh vô bờ bến, là tấm lòng vị tha của con người đã thấu triệt triết lý Từ Bi Hỉ Xả!.
Càng đọc Nguyễn Duy, càng thấy phục tài thơ với những vần thơ ứa nước mắt của “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, với “Tôi về xứ Huế mưa sa – Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa…”. Nguyễn Duy khiến tôi nao lòng và sởn gai ốc với những tứ thơ thật “độc” trong “Về làng”:
Làng ta ở tận làng ta
Mấy năm một bận con xa về làng
Gốc cây hòn đá cũ càng
Trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay…”
Cũng là lục bát nhưng không phải theo kiểu Nguyễn Du thời trung đại, cũng là làng quê mà không phải là làng quê theo kiểu Nguyễn Bính. Mà là lục bát Nguyễn Duy, làng quê Nguyễn Duy. Và tôi chợt nhận ra, sau này có đọc Nguyễn Duy ở thể thơ nào thì vẫn cứ ám bởi một hồn lục bát – mang theo một nỗi niềm ám ảnh khôn nguôi về một vẻ đẹp rất xưa, rất thánh thiện đã không còn nguyên vẹn nữa! Cả “Ánh trăng” ngũ ngôn hay bài “Đò Lèn” này cũng thế! Dường như tâm thức Nguyễn Duy đặt trọn trong “Đò Lèn” – bài thơ viết năm 1982 – để sau này bùng nổ trong hàng loạt bài dữ dội hơn, gai góc hơn, tung phá hơn và bụi bặm hơn!
“Đò Lèn” là một địa danh neo đậu con thuyền tình quê, tình bà cháu! Rất đậm chất địa phương Thanh Hóa trong hàng loạt những địa danh quê hương tác giả. Và những địa danh, địa điểm xuất hiện hàng loạt trong bài thơ lại làm thành một hành trình kết nối với kí ức, đánh thức từng kỷ niệm…
Viết về một vùng quê của riêng mình, nhưng Nguyễn Duy đánh thức hoài niệm của biết bao nhiêu người về cố hương. Với thế hệ học sinh bây giờ, cái kỉ niệm đèm đẹp, tinh nghịch ấy của Nguyễn Duy ắt hẳn sẽ được nhiều đồng cảm. Nhất là với những ai đã từng là một cậu bé quê nghèo!
Tôi chợt nhớ một lời hát thời kháng Pháp của một nhạc sĩ tài danh trùng tên khác họ với tác giả bài thơ – Phạm Duy: “Làng tôi không xa kinh kì sáng chói…”. Còn rất lâu những kí ức làng quê mới nguôi ngoai trong những tâm hồn Việt! Nguyễn Duy của thời kháng Mĩ có một tuổi thơ thật thanh bình và táo tợn. Không gian của đền, chùa bao bọc cậu bé ấy không đủ sức lôi kéo tuổi thơ chìm đắm trong thế giới tâm linh. Nghịch nhiều thì nhớ lâu: câu cá, bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, ăn trộm nhãn chùa Trần… toàn là phạm giới cả! Nhưng cũng chẳng ai nỡ lòng mà phạt cậu bé ở cái tuổi còn “níu váy bà đi chợ Bình Lâm” (mà có biết đâu những trò nhất quỉ nhì ma… giấu người lớn mà nghịch đẻ mà quở phạt!)
Cái thế giới “Tiên Phật thánh thần” ấy chỉ đủ sức hấp dẫn cậu bé tò mò ở cái lạ lẫm, thú vị của nó. Thế giới của bà với niềm tin tuyệt đối vào đấng siêu nhiên thì chỉ là nơi để “chơi”, để “xem” của cậu bé, với những ấn tượng trực quan:
mùi huệ trắng quyện hương trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Đứa cháu cứ vô tâm mà lớn lên, để rồi đến mãi về sau mới ngỡ ngàng nhận ra có một thế giới thực tại đầy cơ cực của bà, với câu thơ đọng mãi niềm day dứt: “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế…”. Đọc những câu thơ này của Nguyễn Duy, tôi lại nhớ hình ảnh trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, cũng là hình ảnh của kí ức về phố huyện với mẹ con chị Tí ban ngày mò cua xúc tép, đêm đêm bán hàng nước cho khách đi tàu chờ tàu. Hình như khi thật lớn khôn, con người mới có dịp suy ngẫm và nghẹn ngào vì sự vô tâm của chính mình, để vẽ lại những hình ảnh quá khứ bằng tất cả niềm xót xa thương cảm và cả nỗi ân hận của chính mình! Và Nguyễn Duy đã nói hộ cho bao người nỗi niềm ấy:
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
Giữa bà tôi và Tiên Phật thánh thần…
Đứa cháu rồi cũng lớn, cũng bớt vô tâm khi dần nhận ra bóng dáng bà hiện hữu lớn dần trong tâm trí. Nhưng biết là biết vậy, cảm là cảm vậy, cũng lờ mờ hiểu chuyện, nhưng cảm giác cồn cào của dạ dày lấn át niềm tin vào một đấng cứu khổ cứu nạn:
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm… Những học sinh của thế hệ bây giờ có lẽ khó mà hiểu cảm xúc có phần nghiệt ngã trong khổ thơ mang theo âm vang của đạn bom hủy diệt :
Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!
Ghê gớm thay sức mạnh của chiến tranh, khi con người bị đặt vào ranh giới của sự sống - chết mới thật sự bừng tỉnh. Giọng điệu thơ Nguyễn Duy quả có phần “báng bổ thần linh” khi rũ sạch mọi niềm tin tôn giáo! Nhưng đó là lúc niềm tin khác lớn lên, mạnh mẽ và bền bỉ: bà mới thật sự là chỗ dựa, là điểm trụ bất chấp cái chết rình rập, là đấng cứu khổ cứu nạn thật sự! Mặc kệ “nhà bay mất”, đền chùa “bay tuốt”. Khi cái Ác hiện hữu, rình rập thì bà là hiện thân của cái Thiện, cái Thật bảo bọc chở che cho cháu, cho cả gia đình. Bà là Sự Sống Con Người mạnh hơn Cái Chết!
Bài thơ khép lại bằng một cảm nhận thời gian, khi đứa cháu lớn lên trong thời chiến, như bao người thực hiện nghĩa vụ công dân thiêng liêng. “Dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi” đâu chỉ là dòng sông quê mà còn là dòng thời gian với bao điều còn mất, để vun thêm và cũng lấy đi bao phù sa cho tâm hồn con người! Cứ mải miết trên một hành trình đời người, trải qua bao hiện thực tàn khốc, yêu thương và căm thù, đến lúc quay trở về bến đò quê năm xưa mới bàng hoàng vì một nỗi ăn năn muộn mằn:
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!
Đời người, khi ngộ ra lẽ tử sinh, không khỏi ám ảnh câu thơ của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều: “Trăm năm còn có gì đâu – Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì”. Người ta rồi cũng phải tuân theo qui luật tự nhiên! Và nỗi đau đọng lại là của người còn sống. Niềm day dứt của Nguyễn Duy không đem lại cảm nhận về nỗi mất mát một cách nặng nề, mà trái lại khiến tâm trí người đọc hình dung đầy đủ trọn vẹn nhất về hình ảnh người bà kính yêu của nhà thơ. Người đời thường gọi đó là sự hy sinh vô bờ bến, là tấm lòng vị tha của con người đã thấu triệt triết lý Từ Bi Hỉ Xả!.
4.1.2012
Trần Hà Nam





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét