Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017

Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử

Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử
Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý - Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- "Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"
Nguồn: Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 7: Văn học giai đoạn 1900-1945), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004.
Lời bình của Trần Hà Nam
Mùa xuân - qua nét phóng bút tài hoa của Hàn Mặc Tử, bỗng trở nên duyên dáng và có sức cuốn hút lạ thường. Xuân như thiếu nữ mơn mởn đào tơ, tràn căng sức sống, song xuân không hiện lên rõ nét mà cứ huyền ảo, như thực như hư. Không thể chỉ đọc từng câu từng chữ mà cảm được bài thơ. Cần cảm thụ quyện hòa từng luồng cảm giác.
Mở đầu bài thơ là một khung cảnh được từ từ hé mở. Không gian tươi mát, rõ ràng. Thi sĩ rắc màu lên từng cảnh sắc. Lấm tấm vàng của mái tranh, biếc xanh giàn thiên lý. Chợt nghe như sự sống bừng dậy, bỡn cợt, gợi tình. Câu thơ chuyển mạch rất nhanh với cách ngắt nhịp tài tình "bóng xuân sang". Cảnh mới thực bỗng thoắt trở nên mơ hồ. Bóng xuân lướt nhanh ẩn hiện làm ta ngỡ ngàng. Mùa xuân, qua con mắt thi nhân, phập phồng sức sống. Màu xanh tươi lan tỏa ngút mắt. Vút lên cao là tiếng hát tuổi xuân xanh. Màu sắc, âm thanh trộn đều tạo một không gian động, hồn nhiên thơ mộng. Tưởng chừng ta gặp hồn thơ Nguyễn Du qua vẻ đẹp: "Cỏ non xanh tận chân trời", song ta nhận ra Hàn Mặc Tử bởi những cảm giác quẩy mạnh trong từng câu thơ, ta cảm được cái rùng mình của mùa xuân qua làn "sóng cỏ". Thi sĩ lặng mình trước mùa xuân, chợt bâng khuâng nhủ lòng mình:

"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi"

Câu thơ lắng nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác cáI buồn cố hữu của những nhà thơ thời đó. Cái tiếc rẻ cho duyên con gái một đi không trở lại. Không giục gi•, hối hả gấp gáp như Xuân Diệu "Mau với chứ, vội vàng lên với chứ – Em, em ơi tình non sắp già rồi!" nhưng với hai câu thơ này Hàn Mặc Tử đã mang tới cho người đọc những đợt sóng ngầm tình cảm gấp gáp, hối hả mà duyên dáng lạ thường.
Những âm thanh trong bài thơ chuyển động, cọ xát nóng bỏng: "vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thĩ". Các cung bậc mùa xuân lên bổng, xuống trầm tinh nghịch, khát khao, dịu nhẹ. Những gam cảm giác Hàn Mặc Tử đưa vào thơ rất mới lạ mà lại gần gũi, quen thuộc. Thấp thoáng đâu đây khuôn "mặt chữ điền" như thơ Đường; mà lại có vẻ hồn nhiên, rụt rè của cô gái tơ mới lần đầu hò hẹn. Âm thanh, cảm giác được đẩy lên cao vút, nao nức, bâng khuâng.
Tận cùng của cảm giác là một nỗi nhớ nao lòng. Xuân chín căng, mời mọc làm ngƯời đi xa chạnh niềm tha hương. Hình ảnh trong nỗi nhớ sáng rực, thân thiết:
"Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang?"

Nỗi nhớ như mùa xuân, cũng chín đỏ. Như tình người, tình quê ấm áp, đậm đà. Câu hỏi tưởng bâng quơ, sực nhớ kia chính là nỗi niềm mến thương từ lâu ủ kín, chợt mùa xuân làm thức dậy trìu mến, thiết tha.
Bài thơ của Hàn Mặc Tử đầy nhựa sống như tâm hồn của nhà thơ luôn khát khao giao cảm với đời. Với mùa xuân, Hàn Mặc Tử yêu say đắm, điên cuồng: "Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống" - lời của thi nhân đã được đem vào trong bao áng thơ diễm tuyệt, kết tinh hương sắc làm nên một "mùa xuân chín".
Trần Hà Nam 
Lời bình của Mai Văn Hoan 
Khác với những bài thơ tả cảnh, kể về việc thông thường, "Mùa xuân chín" đến với người đọc chúng ta không giống với một cái gì đã hoàn thiện. Nhà thơ dường như tạo điều kiện cho người đọc thơ có mặt từ lúc hình tượng mới chỉ là mô hình, một phôi thai của ý đồ sáng tạo. Nét vẽ thứ nhất, cái đặt bút đầu tiên trên cái nền "khói mơ tan" và phơn phớt màu "nắng ửng" nghĩa là rất mơ hồ ấy là "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng". Đó là thứ gam màu đệm vẫn rất gần cái sắc màu hư ảo ở trên để trở thành một tổng thể nhạt nhòa chưa định hình rõ nét. Màu vàng ở đây là của rơm rạ, ruộng đồng, mà biết đâu không phải là mấy vùng trăng còn sót lại do bầu trời ngẩn ngơ cố tình lưu giữ? Cái thực và cái ảo cứ xen kẽ, xâm nhập, đan cài vào nhau mông lung, mơ màng để tự nó sẽ thức dậy theo con sóng thời gian chập chờn ở phía sau xô đẩy.
Sự đặc tả khối hình có ý nghĩa chiến lược ấy là khi nhà họa sĩ tài hoa và mơ mộng quyết định chấm vào đó một nét rờn xanh. Cái đốm xanh nõn nà mềm mượt vừa hiện ra đã cựa quậy; "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Đó là tín hiệu mùa xuân, cái chồi búp ngọt ngào lấp ló hiện ra trên cái tàn đông giá lạnh. Ỡm ờ và thú vị biết bao là cơn gió đầu mùa như đám trẻ con tinh nghịch. Chiếc áo mùa xuân đẹp thế đang muốn ẩn lánh đi vì nó quá rực rỡ, quá nổi bật, còn cô gái xuân lại dịu dàng e thẹn xiết bao! Song, càng e lệ giấu mình thì cơn gió thóc mách kia lại càng vô tâm biết mấy. Nó lang thang ở tít tận đâu đâu nay chững lại, dồn lại, túm tụm lại trước "tà áo biếc" để trêu chọc, phơi bày. Phải chăng cái "nắng ửng" trên kia đã dự báo cái phút ngỡ ngàng này, sẽ là cái màu thẹn, cái màu làm duyên trên đôi má tròn căng sức lực của nàng xuân đến tuổi dậy thì? Như vậy là cái cửa ngõ mùa xuân vốn đã khép kín trong mấy tháng lạnh lẽo, héo hon vì chờ đợi đã mở ra "Trên giàn thiên lý - bóng xuân sang". Trên bức tranh lụa, cái bút lông của nhà họa sĩ đã có đà. Nó đã có hồn. Nó đã bắt đầu cất cánh. Người xem tranh khi đã nhập cuộc rồi, đến đây không khỏi bồn chồn: cái gì sẽ xuất hiện tiếp theo?
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi

Màu xanh, bằng cái nét chấm phá ở trên tưởng chừng đã đủ. Nhưng mà không. Chưa ai bạo tay như Hàn Mặc Tử. Dường nếu phải phá vỡ tất cả, nếu cần - cả sự cân đối thăng bằng, độ đậm nhạt vì sự thôi thúc nội tâm, ông vẫn sẵn sàng. Vì vậy mà một mảng xanh khác lại đột ngột hiện ra bướng bỉnh. Và lần này không phải là một đốm, một nét mà lại là một mặt bằng mênh mông của cỏ. Ngồn ngộn một màu xanh thèm khát mà con người chỉ dám ước mơ đã tươi rói hiện ra, hào phóng, vô tư, vẫy gọi, chào mời. Xưa, Nguyễn Du đã từng viết: "Cỏ non xanh rợn chân trời". Thảm cỏ ấy của Tiên Điền nay được đẩy lên một tầng nữa, mới mẻ hơn và đặc biệt còn in đậm bàn tay chưa khô mực của người họa sĩ đang tròn trịa tuổi xuân đời. Rõ ràng là con "sóng cỏ" đã bay lượn hơn, sống động hơn. Nó đang vỗ bờ từng nhịp bồi hồi từ một nửa trái tim mênh mông đa tình, đa cảm.
Thế là tiếng hát của đất trời, thiên nhiên, cây cỏ cất lên cùng một lúc với tiếng hát con người "Bao cô thôn nữ hát trên đồi". Cái sức xuân đã như một dàn đồng ca nhiều bè quấn quyện. Nhìn vào đâu cũng thấy sắc xuân, hướng về phía nào cũng thấm đẫm hương xuân. Nó đậm đặc như có thể múc lên được từng mảng như múc ánh trăng đêm vậy. Cái thăm thẳm của bức tranh xuân và chân dung thôn nữ trên đây còn có cả độ cao và độ sâu không cùng của nó:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi…
Diễn tả sức bay của "Tiếng sáo Thiên Thai", trước Hàn Mặc Tử, Thế Lữ đã có những câu thơ xuất thần:
Khi cao vút tận mây mờ
Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh

Về bút pháp, Hàn Mặc Tử không có gì mới. Song, đóng góp của nhà thơ trẻ này là đem vào những chữ, những câu máu thịt của cuộc đời. Không khí huyền thoại trong thơ Thế Lữ đến đây đã nhường chỗ cho ánh mắt, nụ cười cô gái. Một cái gì đó trần tục hơn, do đó cũng da diết, tan nát cõi lòng hơn. Bởi mùa xuân hiện ra chỉ trong chớp mắt. Phải chớp mắt đời người. Nó rung động đến tận đáy sâu trái tim người đọc. Bởi, cả cái "hổn hển" kia, cả cái "thầm thì" kia phải chăng là hai cung bậc hết mình của những trái tim đang hát và chỉ hát có một lần? Cái "chín" của mùa xuân chính là ở chỗ này. Như một thứ quả ngọt trên cây, chín từ vỏ, chín từ từ, đến lúc này có thể bóc ra mà ăn được.

Dấu ấn của thơ Hàn Mặc Tử là một trái tim nồng nhiệt, cuồng si, khát khao yêu đương, khao khát sống, là một bút pháp tài hoa, táo bạo, bằng một vài nét vờn vẽ đơn sơ mà tái hiện cả một bầu trời. Sẽ là một thiếu sót nếu ta không nói thêm sự liên tưởng, sự mở rộng nhiều chiều của thời gian đồng hiện. Đang miêu tả bức tranh tươi như một nét cười, một nụ hôn đắm say thuần khiết, thì đột ngột cái man mác rình rập ở đâu đó hiện ra trong ý nghĩ đau đớn của nhà thơ:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi

Cái mầm ly biệt hiện ra như một tiền định. Có khác gì cơn ác mộng của Thúy Kiều sau lúc gặp Đạm Tiên cùng một lần hạnh phúc đắm say, dịu ngọt. Ta mới hiểu cái quy luật của lòng ham sống (chứ không phải là chủ nghĩa hưởng lạc!)
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
(Xuân Diệu)
Cái nỗi niềm đứt ruột này nói hộ một tình yêu, một thứ tình yêu đắm đuối không cùng với cuộc đời mà con người trước dòng chảy của thời gian đã không sao giữ lại nổi. Cái xốn xang, xao xuyến hướng về phía trước cùng một lúc với ngoái lại sau: "Chị ấy năm nay còn gánh thóc…". Rõ ràng con đường xuân đã và đang đi sẽ hướng tới cái cuối cùng, đến chỗ hư vô. Nó không khỏi để lại trong khoảng trống vắng của cõi lòng nhà thơ nhiều bùi ngùi, ngẩn ngơ, luyến tiếc. Thì ra cái đẹp của cuộc đời dù hào phóng, dư thừa đến đâu cũng hạn hẹp. Cho nên phải biết quý nó từng phút, từng giây. Bởi nếu trái tim ta không dành trọn cho nó, nó sẽ vô tình đi qua như một cơn gió nhẹ. Cái tâm huyết của nhà thơ vừa chín với tuổi xuân đã sớm về với khe nước Ngọc Tuyền (1) có phải là ở chỗ đó hay chăng?
(1) Thưa tôi không dám mê say
Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền
("Một miệng trăng" - Hàn Mặc Tử)
(Báo văn nghệ số 42, 43 ngày 28-10-1989)
Đọc lại Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử
Có rất nhiều bài thơ nói về mùa xuân nhưng không hiểu sao tôi cứ bị ám ảnh với “Mùa Xuân chín” của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Ngay cái tiêu đề “Mùa xuân chín” đã khác lạ rồi. Trong “Bức tranh quê” của Anh Thơ ta gặp “Chiều xuân”, “ Đêm xuân”. Ở Xuân Diệu ta gặp “Xuân không mùa” và Chế Lan Viên ta gặp “Xuân”… Tất cả những tiêu đề đó đều rất quen thuộc nên ít gây ấn tượng. Tiêu đề “Mùa xuân chín” buộc ta phải nghĩ ngợi để tìm một cách hiểu. “Mùa xuân” sao lại “chín”? phải chăng mùa xuân là trái trên cây, là quả ở trên cành. Trên cành có quả xanh, quả chín. Mùa xuân cũng thế: có mùa xuân đang xanh và có mùa xuân đã vào độ chín. Hàn Mặc Tử là người đầu tiên có cách nói về mùa xuân độc đáo, mới lạ như vậy. Nhưng đó mới chỉ là suy đoán. Đọc hết bài thơ ta mới hiểu ngầm ý của tác giả.
Muốn hiểu chủ đề của “Mùa xuân chín” tốt nhất là ta thử làm phép so sánh, đối chiếu hai khổ thơ quan trọng sau đây:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang

Trước mắt chúng ta hiện lên hai bức tranh, hai khung cảnh gần như hoàn toàn đối lập nhau, hai khung cảnh hình như hoàn toàn đối lập nhau. Một bên “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Còn bên kia “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Cái “xanh tươi” của cỏ, đối với cái “chang chang” của nắng. Một bên “Bao cô thôn nữ hát trên đồi. Còn bên kia “Chị ấy năm nay còn gánh thóc”. “Cô” và “chị”, “Bao cô” và “Chị ấy”, “ Hát trên đồi” và “gánh thóc” bên sông… Một còn xuân xanh, một đã qua thời tuổi trẻ. Một bên đông đảo vui vẻ, một bên lặng lẽ cô đơn. Một bên hát hòa một cách say sưa. Bao cô thôn nữ đang hát những bài hát về tình yêu. Khi thì tinh nghịch như tiếng sáo thiên thai “vắt vẻo”, khi thì “hổn hển” như tiếng thở gấp của lồng ngực đang phập phồng. Khi thì “Thầm thì” như lời tình tự. Các cô thôn nữ hát một cách hồn nhiên, vô tư. Ở đây có sự hoà hợp giữa ngày xuân và tuổi xuân. Mùa xuân ở trên là mùa xuân đang xanh còn dưới kia là mùa xuân đã chín. Chị ấy đang gánh trên vai gánh nặng của cuộc đời. Chị cần mẫn, chăm chỉ, siêng năng như “con cò lặn lội bờ sông” như bà Tú trong thơ Tú Xương “lặn lội thân cò khi quãng vắng” Hàn Mặc Tử có ý nhấn mạnh chữ “còn”. Trong khi bao cô thôn nữ chơi đùa hát hò vui vẻ thì chị ấy “còn” gánh thóc, chị gánh năm này qua năm khác giữa cái nắng “chang chang” như vậy. “Chị” có vẻ đẹp riêng của “Mùa xuân chín”. Thi sĩ hết sức cảm phục nhưng đồng thời cũng hết sức cảm thông với chị. Từ hình ảnh chị ấy đang gánh thóc “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” mà Hàn Mặc Tử ngậm ngùi cho bao cô thôn nữ ở trên kia:

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Đó là quy luật ít ai cưỡng được. Thi sĩ biết vậy mà cứ tiếc thầm cho họ. Và biết đâu cũng như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử cũng tiếc cho cả tuổi xuân của mình. Xuân Diệu thì bộc trực hơn: “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua. Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”. Hàn Mặc Tử cũng với ý ấy nhưng thể hiện kín đáo hơn. Nói cho cùng các thi sĩ đang nói hộ tâm trạng chung của mọi người. Vì ai mà chẳng muốn tuổi xuân của mình được dài thêm nếu “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” vì nói như Xuân Diệu: “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật. Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”… Trong khi tả cảnh mùa xuân vui tươi với các thi sĩ thường hay có những phút chạnh lòng như vậy. Ngày xưa Nguyễn Du vẽ cảnh mùa xuân thật sinh động với “Cỏ non xanh rợn chân trời” với “Dập dìu tài tử giai nhân”… Nhưng cũng chính Nguyễn Du đặt câu hỏi trước ngôi mộ của nàng Đạm Tiên (qua lời nàng Kiều):
Rằng sao trong tiết thanh xuân 

Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Cũng như vậy. Hồ Xuân Hương tả cảnh chơi đu trong ngày xuân với “Bốn mảnh quần hồng bay phất phới” với “Đôi hàng chân ngọc duỗi song song” và nữ sĩ hạ hai câu thật bất ngờ:
Chơi xuân ai biết xuân đang tá
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

Đó chính là sự gặp nhau của những tâm hồn lớn. Những thi sĩ vốn mang nặng “nỗi đau nhân tình”. Cái điều họ “Sực nhớ”, sực nghĩ, cái điều họ băn khoăn… tuy nó khác nhau nhưng đều quy tụ trong tình yêu thương đối với con người - đặc biệt là số phận của người phụ nữ.

                                           Mai Văn Hoan 
Nguồn: http://vnthuquan.net/
Theo http://www.thivien.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...