Nằm trên địa bàn chiến lược ở khu vực bắc Tây Nguyên, Gia Lai
là vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, đa dạng về thành phần
cư dân và nền văn hóa cổ xưa mang bản sắc độc đáo của đồng bào các dân tộc thiểu
số. Dù trải qua biết bao biến đổi của lịch sử, trên mảnh đất Gia Lai vẫn duy
trì một nền văn hóa đa dạng mang đậm bản sắc văn hóa Tây Nguyên bản địa.
Lễ hội
Chiếm đại đa số dân cư lâu đời ở Gia Lai phải kể đến hai dân tộc Jrai và Bahnar. Theo những tài liệu dân tộc và khảo cổ học thì có thể giả định địa bàn cư trú gốc của người Jrai là cao nguyên Pleiku và lưu vực hai con sông Ayun và sông Ba. Người Jrai và Bahnar không chỉ là hai dân tộc đông nhất, có ý thức rõ về địa vực cư trú mà còn có những tác động nhất định đối với đời sống văn hóa của các dân tộc khác trong khu vực.
Lễ hội
Chiếm đại đa số dân cư lâu đời ở Gia Lai phải kể đến hai dân tộc Jrai và Bahnar. Theo những tài liệu dân tộc và khảo cổ học thì có thể giả định địa bàn cư trú gốc của người Jrai là cao nguyên Pleiku và lưu vực hai con sông Ayun và sông Ba. Người Jrai và Bahnar không chỉ là hai dân tộc đông nhất, có ý thức rõ về địa vực cư trú mà còn có những tác động nhất định đối với đời sống văn hóa của các dân tộc khác trong khu vực.
Hội làng Kbang. Ảnh: Trần Phong
Nhắc đến Gia Lai là nhắc đến văn hóa cồng chiêng, đến nghệ
thuật văn hóa nhà rông, đến điêu khắc tượng gỗ, đến nhà mồ và các lễ hội đâm
trâu, lễ hội bỏ mã và các điệu múa xoang của người Jrai, Bahnar trong tiếng nhạc
cồng chiêng trầm hùng, sôi động.
Cho đến nay, Gia Lai vẫn là nơi bảo lưu những yếu tố văn hóa cổ truyền độc đáo, thể hiện rõ nét nhất là trong những hoạt động nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, múa hát. Vùng đất này cũng đã là nơi lưu giữ kho tàng văn hóa dân gian với những truyền thuyết đã ăn sâu vào tiềm thức con người.
Tiếp nối văn hóa từ thời đại đồ đá, bề dày lịch sử - văn hóa Gia Lai đã được minh chứng bằng hàng loạt di tích, di vật là dấu ấn của nhiều thời đại như trống đồng An Thành, những di vật văn hóa Chăm Pa, di vật liên quan đến phong trào nông dân Tây Sơn trên vùng đất Tây Sơn thượng đạo và gần đây là hình ảnh, hiện vật về cuộc đấu tranh của nhân dân Gia Lai dưới sự lãnh đạo của Đảng chống đế quốc và thực dân.
Trong số những di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn, hiện nay Gia Lai đã có 12 di tích và cụm di tích đã được Bộ Văn Hóa - Thông Tin cấp bằng công nhận. Số lượng di tích tuy không nhiều nhưng phản ánh khá rõ nét tiến trình lịch sử cũng như cảnh quan thiên nhiên của địa phương, điển hình là những di tích về cách mạng kháng chiến như làng kháng chiến Stơr - quê hương anh hùng Núp, chiến thắng Đak Pơ, hoặc các di tích văn hóa khác như di tích Biển Hồ mà hiện nay đang được ngành du lịch khai thác, thu hút khá nhiều du khách đến tham quan, thưởng ngoạn.
Cho đến nay, Gia Lai vẫn là nơi bảo lưu những yếu tố văn hóa cổ truyền độc đáo, thể hiện rõ nét nhất là trong những hoạt động nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, múa hát. Vùng đất này cũng đã là nơi lưu giữ kho tàng văn hóa dân gian với những truyền thuyết đã ăn sâu vào tiềm thức con người.
Tiếp nối văn hóa từ thời đại đồ đá, bề dày lịch sử - văn hóa Gia Lai đã được minh chứng bằng hàng loạt di tích, di vật là dấu ấn của nhiều thời đại như trống đồng An Thành, những di vật văn hóa Chăm Pa, di vật liên quan đến phong trào nông dân Tây Sơn trên vùng đất Tây Sơn thượng đạo và gần đây là hình ảnh, hiện vật về cuộc đấu tranh của nhân dân Gia Lai dưới sự lãnh đạo của Đảng chống đế quốc và thực dân.
Trong số những di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn, hiện nay Gia Lai đã có 12 di tích và cụm di tích đã được Bộ Văn Hóa - Thông Tin cấp bằng công nhận. Số lượng di tích tuy không nhiều nhưng phản ánh khá rõ nét tiến trình lịch sử cũng như cảnh quan thiên nhiên của địa phương, điển hình là những di tích về cách mạng kháng chiến như làng kháng chiến Stơr - quê hương anh hùng Núp, chiến thắng Đak Pơ, hoặc các di tích văn hóa khác như di tích Biển Hồ mà hiện nay đang được ngành du lịch khai thác, thu hút khá nhiều du khách đến tham quan, thưởng ngoạn.
Lễ hội Đâm trâu (Bahnar). Ảnh: Trần Phong
Văn hóa các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên
Văn hóa các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên được hình thành chủ yếu trên nền kinh tế nông nghiệp nương rẫy, tự cấp tự túc phụ thuộc vào thiên nhiên. Về phương diện xã hội, nếp sống nương rẫy duy trì các quan hệ xã hội cộng đồng, cộng đồng gia tộc mẫu hệ. Rừng là môi trường sinh thái chủ yếu đối với người Tây Nguyên.
Người Jrai sinh sống chủ yếu ở Gia Lai và Kon Tum, có số dân tương đối đông, gồm 250.000 người (năm 1999). Jrai là một tộc người có quá trình phát triển lịch sử lâu dài. Vào giữa thế kỷ XV, xã hội người Jrai đã phát triển cao, thành một xã hội có mầm mống sơ khai của nhà nước. Tuy vậy, do sự biệt lập về địa lý, ít nhiều bị tách khỏi thế giới bên ngoài...xã hội người Jrai vẫn chững lại ở giai đoạn tiền nhà nước.
Văn hóa các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên được hình thành chủ yếu trên nền kinh tế nông nghiệp nương rẫy, tự cấp tự túc phụ thuộc vào thiên nhiên. Về phương diện xã hội, nếp sống nương rẫy duy trì các quan hệ xã hội cộng đồng, cộng đồng gia tộc mẫu hệ. Rừng là môi trường sinh thái chủ yếu đối với người Tây Nguyên.
Người Jrai sinh sống chủ yếu ở Gia Lai và Kon Tum, có số dân tương đối đông, gồm 250.000 người (năm 1999). Jrai là một tộc người có quá trình phát triển lịch sử lâu dài. Vào giữa thế kỷ XV, xã hội người Jrai đã phát triển cao, thành một xã hội có mầm mống sơ khai của nhà nước. Tuy vậy, do sự biệt lập về địa lý, ít nhiều bị tách khỏi thế giới bên ngoài...xã hội người Jrai vẫn chững lại ở giai đoạn tiền nhà nước.
Mừng lúa mới. Ảnh: Trần Phong
Người Jrai đã thể hiện tài hoa và khiếu thẩm mỹ của mình qua
nghệ thuật điêu khắc tượng gỗ, qua kiến trúc nhà cửa và qua trang phục.
Hầu như ở nhà mồ nào của người Jrai cũng có tượng ngồi ôm mặt khóc đặt quanh mả, tượng đàn ông hoặc tượng đàn bà đội mâm gỗ đựng thức ăn để dâng người chết, tượng đàn ông búi tóc đứng đánh trống, tượng phụ nữ giã gạo, tượng người đóng khố cưỡi voi... Điều đáng lưu ý là các tượng đó được chế tác bằng những công cụ sản xuất như rìu, rựa, dao (không phải những công cụ nghề nghiệp) và từ những nguyên liệu thông dụng vốn có ở địa phương.
Ngoài khu vực nhà mồ, ở cầu thang, xà nhà, sàn nhà của đồng bào đều có những hình điêu khắc có ý nghĩa tượng trưng, phản ánh một kiểu tư duy hồn nhiên của người xưa, phản ảnh ước mơ, nguyện vọng về sự phồn vinh, giàu có, ấm no.
Hầu như ở nhà mồ nào của người Jrai cũng có tượng ngồi ôm mặt khóc đặt quanh mả, tượng đàn ông hoặc tượng đàn bà đội mâm gỗ đựng thức ăn để dâng người chết, tượng đàn ông búi tóc đứng đánh trống, tượng phụ nữ giã gạo, tượng người đóng khố cưỡi voi... Điều đáng lưu ý là các tượng đó được chế tác bằng những công cụ sản xuất như rìu, rựa, dao (không phải những công cụ nghề nghiệp) và từ những nguyên liệu thông dụng vốn có ở địa phương.
Ngoài khu vực nhà mồ, ở cầu thang, xà nhà, sàn nhà của đồng bào đều có những hình điêu khắc có ý nghĩa tượng trưng, phản ánh một kiểu tư duy hồn nhiên của người xưa, phản ảnh ước mơ, nguyện vọng về sự phồn vinh, giàu có, ấm no.
Ảnh: Trần Phong
Nhà rông là biểu tượng văn hóa của tộc người Jrai cũng như của
một số tộc người khác ở Tây Nguyên... Nhà rông dân gian luôn gắn liền với cộng
đồng buôn làng. Trong quan niệm đồng bào từ xưa đến nay thì nhà rông là nơi cư
trú của thần linh, nơi diễn ra phần lớn các hoạt động liên quan đến thế giới
tâm linh của cộng đồng.
Ngôi nhà rông là nơi bàn bạc việc tổ chức sản xuất, săn bắn, chiến đấu, tổ chức các sinh hoạt nghi lễ và lễ hội, là nơi truyền dạy nghề cho lớp trẻ và là nơi trưng bày những hiện vật tiêu biểu cho truyền thống của cộng đồng làng trong săn bắn, sản xuất, lễ hội. Nhà rông thường được xây dựng ở trung tâm buôn làng, trước mặt có khu đất rộng để có thể tiến hành các lễ hội văn hóa dân gian như lễ đâm trâu, tụ tập bà con để tiến hành các sinh hoạt tập thể.
Qua những trang phục như quần áo khố hoa đã chứng tỏ năng khiếu thẩm mỹ, tài thêu dệt, cách sử dụng màu sắc của tộc người Jrai và đặc biệt là của phụ nữ. Hầu như tất cả phụ nữ Jrai đều biết dệt. Trước đây các em bé học dệt từ 13-14 tuổi. Những đường thêu kết thành tấm vuông đỏ trước ngực áo nam giới trông khỏe mạnh, thể hiện lòng dũng cảm. Việc sử dụng hạt Tơrơlết làm hạt cườm hình trụ màu ngà ở các tua khố, áo là một sáng tạo rất thú vị...
Trong đời sống văn hóa tinh thần của người Jrai thì chiêng rất phổ biến, sinh hoạt đánh chiêng rất điêu luyện và được hâm mộ, nhạc chiêng phát triển cao, có thể đánh được các làn điệu dân ca. Nhạc chiêng cồng còn được phát triển bằng cách tăng cường bộ đệm (chiêng núm) từ 3 đến 4 chiếc đánh cùng một lúc tạo nên một hợp âm quãng 8 song hành. Trống được phối hợp với chiêng để tăng thêm khả năng biểu hiện.
Các gia đình, các làng có một tập tục truyền thống là rất tôn trọng và tự hào về bộ chiêng của làng và của gia đình mình. Một bộ chiêng quý xưa được đổi bằng voi, bằng hàng chục con trâu bò. Một hình ảnh đẹp được nhắc lại rất nhiều lần trong các bản brikhan cổ là "nhà tràn đầy nồi đồng, chiêng núm, chiêng bằng, ché tuk, ché tang". Chiêng vừa là của cải vật chất vừa là văn hóa phẩm.
Sinh hoạt chiêng của người Jrai đã trở thành một sinh hoạt văn nghệ truyền thống có tính quần chúng rộng rãi, sâu sắc, có sức thu hút cổ vũ mạnh mẽ. Ngày nay, Gia Lai còn lưu giữ 5.117 bộ cồng chiêng, duy trì 300 đội văn nghệ quần chúng ở các làng, xã, huyện trong tỉnh.
Đàn goong được sử dụng rộng rãi, âm thanh hay, khả năng biểu đạt cao. Đàn Kni âm thanh nhỏ nhưng là thứ đàn đặc sắc.
Có thể nói Tây Nguyên là một vùng đất đa dân tộc, đa văn hóa với rất nhiều đặc trưng, nhiều sắc thái văn hóa độc đáo, huyền thoại mà rất nhiều người muốn khám phá, tìm hiểu về nó.
Ngôi nhà rông là nơi bàn bạc việc tổ chức sản xuất, săn bắn, chiến đấu, tổ chức các sinh hoạt nghi lễ và lễ hội, là nơi truyền dạy nghề cho lớp trẻ và là nơi trưng bày những hiện vật tiêu biểu cho truyền thống của cộng đồng làng trong săn bắn, sản xuất, lễ hội. Nhà rông thường được xây dựng ở trung tâm buôn làng, trước mặt có khu đất rộng để có thể tiến hành các lễ hội văn hóa dân gian như lễ đâm trâu, tụ tập bà con để tiến hành các sinh hoạt tập thể.
Qua những trang phục như quần áo khố hoa đã chứng tỏ năng khiếu thẩm mỹ, tài thêu dệt, cách sử dụng màu sắc của tộc người Jrai và đặc biệt là của phụ nữ. Hầu như tất cả phụ nữ Jrai đều biết dệt. Trước đây các em bé học dệt từ 13-14 tuổi. Những đường thêu kết thành tấm vuông đỏ trước ngực áo nam giới trông khỏe mạnh, thể hiện lòng dũng cảm. Việc sử dụng hạt Tơrơlết làm hạt cườm hình trụ màu ngà ở các tua khố, áo là một sáng tạo rất thú vị...
Trong đời sống văn hóa tinh thần của người Jrai thì chiêng rất phổ biến, sinh hoạt đánh chiêng rất điêu luyện và được hâm mộ, nhạc chiêng phát triển cao, có thể đánh được các làn điệu dân ca. Nhạc chiêng cồng còn được phát triển bằng cách tăng cường bộ đệm (chiêng núm) từ 3 đến 4 chiếc đánh cùng một lúc tạo nên một hợp âm quãng 8 song hành. Trống được phối hợp với chiêng để tăng thêm khả năng biểu hiện.
Các gia đình, các làng có một tập tục truyền thống là rất tôn trọng và tự hào về bộ chiêng của làng và của gia đình mình. Một bộ chiêng quý xưa được đổi bằng voi, bằng hàng chục con trâu bò. Một hình ảnh đẹp được nhắc lại rất nhiều lần trong các bản brikhan cổ là "nhà tràn đầy nồi đồng, chiêng núm, chiêng bằng, ché tuk, ché tang". Chiêng vừa là của cải vật chất vừa là văn hóa phẩm.
Sinh hoạt chiêng của người Jrai đã trở thành một sinh hoạt văn nghệ truyền thống có tính quần chúng rộng rãi, sâu sắc, có sức thu hút cổ vũ mạnh mẽ. Ngày nay, Gia Lai còn lưu giữ 5.117 bộ cồng chiêng, duy trì 300 đội văn nghệ quần chúng ở các làng, xã, huyện trong tỉnh.
Đàn goong được sử dụng rộng rãi, âm thanh hay, khả năng biểu đạt cao. Đàn Kni âm thanh nhỏ nhưng là thứ đàn đặc sắc.
Có thể nói Tây Nguyên là một vùng đất đa dân tộc, đa văn hóa với rất nhiều đặc trưng, nhiều sắc thái văn hóa độc đáo, huyền thoại mà rất nhiều người muốn khám phá, tìm hiểu về nó.
(Theo đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số)
Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Với người Tây Nguyên, cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng là tài sản vô giá. Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên không những là một giá trị nghệ thuật đã từ lâu được khẳng định trong đời sống xã hội mà còn là kết tinh của hồn thiêng sông núi qua bao thế hệ. Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như những giá trị về nghệ thuật đơn thuần mà nó còn là "tiếng nói" của con người, của thần linh theo quan niệm vạn vật hữu linh.
Với người Tây Nguyên, cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng là tài sản vô giá. Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên không những là một giá trị nghệ thuật đã từ lâu được khẳng định trong đời sống xã hội mà còn là kết tinh của hồn thiêng sông núi qua bao thế hệ. Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như những giá trị về nghệ thuật đơn thuần mà nó còn là "tiếng nói" của con người, của thần linh theo quan niệm vạn vật hữu linh.
Ảnh: Nguyễn Giác
Ở nhiều dân tộc thiểu số Tây Nguyên, trong các hoạt động mang
tính nghi lễ, tiếng chiêng thường đi kèm với lời cúng và múa chiêng để cầu gọi
các thế lực siêu nhiên. Ở tộc người Jrai, dàn chiêng arap có 13 chiếc thường
dùng vào tang ma, chiêng kơm và chiêng trum dùng trong lễ rước thần lửa. Đối với
các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, để biến những bộ cồng chiêng từ giá trị vật chất
đơn thuần trở thành vật thiêng, dân làng phải tiến hành nhiều nghi lễ mang đậm
dấu ấn tâm linh. Trong đó đáng kể là lễ đón "hồn chiêng"-lễ cuối cùng
trong hàng loại các nghi lễ được tiến hành nhằm đưa "xác chiêng" được
nhập hồn và trở thành chiêng thiêng. Việc sử dụng cồng chiêng như thế nào và
trong những lễ hội gì cũng đều được người dân tộc thiểu số Tây Nguyên tuân thủ
theo những qui định rất nghiêm ngặt.
Với các dân tộc bản địa Tây Nguyên, không gian văn hoá để lưu giữ và phát triển âm nhạc chiêng cồng là không gian thiêng. Về hình thức không gian này là không gian của của rừng núi hoang dã, của buôn làng đơn sơ bên những dòng suối, ngọn núi, rừng cây. Nhưng điều quan trọng bậc nhất là trong không gian ấy có các vị thần cùng chung sống, chỉ có không gian riêng mới có thể sinh ra tiếng chiêng thiêng. Bên cạnh đó, trong không gian ấy, con người với tư cách là một thực thể của vũ trụ chính là tầng dưới đang hướng về một cõi thiêng nằm ngoài vũ trụ, bởi thế trong các buôn làng truyền thống của Tây Nguyên, khi già làng và thầy cúng làm lễ cúng chiêng trước khi mang thứ nhạc cụ vào lễ hội, mọi người có mặt quanh đó đều phải im lặng và mắt hướng về phía ngọn lửa với lòng thành tuyệt đối. Đến lúc chiêng được mang vào hội, nghĩa là được sự đồng ý của thần linh, khi những âm thanh trầm bổng dồn dập cất lên thì mọi người đều phải vào vòng xoang với niềm hân hoan tưởng như bất tận. Có thể nói trong không gian thiêng ấy, thế giới thần linh luôn hiện hữu cùng với những hoạt động của con người.
Với các dân tộc bản địa Tây Nguyên, không gian văn hoá để lưu giữ và phát triển âm nhạc chiêng cồng là không gian thiêng. Về hình thức không gian này là không gian của của rừng núi hoang dã, của buôn làng đơn sơ bên những dòng suối, ngọn núi, rừng cây. Nhưng điều quan trọng bậc nhất là trong không gian ấy có các vị thần cùng chung sống, chỉ có không gian riêng mới có thể sinh ra tiếng chiêng thiêng. Bên cạnh đó, trong không gian ấy, con người với tư cách là một thực thể của vũ trụ chính là tầng dưới đang hướng về một cõi thiêng nằm ngoài vũ trụ, bởi thế trong các buôn làng truyền thống của Tây Nguyên, khi già làng và thầy cúng làm lễ cúng chiêng trước khi mang thứ nhạc cụ vào lễ hội, mọi người có mặt quanh đó đều phải im lặng và mắt hướng về phía ngọn lửa với lòng thành tuyệt đối. Đến lúc chiêng được mang vào hội, nghĩa là được sự đồng ý của thần linh, khi những âm thanh trầm bổng dồn dập cất lên thì mọi người đều phải vào vòng xoang với niềm hân hoan tưởng như bất tận. Có thể nói trong không gian thiêng ấy, thế giới thần linh luôn hiện hữu cùng với những hoạt động của con người.
Tháng 3 Tây Nguyên. Ảnh: Gia Lai
Đồng bào Tây Nguyên tin rằng tiếng chiêng chính là ngôn ngữ
con người dùng để giao tiếp với thần linh, với tổ tiên, với siêu nhiên và để
xua đuổi tà ma. Tiếng chiêng đánh dấu những chặng đường đời, gắn bó với vòng đời
của một con người, từ khi đứa trẻ mới sinh ra nó được cộng đồng thừa nhận bằng
lễ "thổi tai" với âm thanh của một chiếc chiêng cổ nhất của làng. Đứa
trẻ lớn lên đến tuổi trưởng thành, nam giới đánh cồng chiêng và nữ giới múa
theo trong các nghi lễ cộng đồng như lễ gieo hạt, lễ cầu an cho lúa, lễ cốm mới,
lễ gặt mùa, lễ đóng cửa kho lúa. Tiếng cồng chiêng ngày cưới, tiếng cồng chiêng
lên nhà mới vừa xua đi tà ma, vừa ngây ngất men rượu cần toả ra vẻ nồng say của
hạnh phúc và yên vui. Đến khi con người nằm xuống và trở về với đất, có tiếng cồng
chiêng buồn thảm đưa họ đến nhà mồ. Trong lễ bỏ mả vẫn tiếng cồng chiêng đưa dẫn
linh hồn trở về với cộng đồng tổ tiên. Cồng chiêng thúc giục trai đinh
trong chiến đấu, cồng chiêng hát ca trong lễ đâm trâu mừng thắng trận và cồng
chiêng trầm hùng hoà với giọng hát kể sử thi. Cồng chiêng có mặt
trong mọi nghi lễ quan trọng của con người và cộng đồng. Dòng cồng chiêng quyện
với dòng đời người chính là như vậy.
Nếu trong các buôn làng ngày xưa, cồng chiêng thường chỉ được sử dụng trong các ngày lễ lớn của gia đình, dòng tộc hoặc buôn làng thì nay không gian địa lý để cho chiêng cất lời đã trở nên phổ biến tại những đô thị với các lễ hội mà yếu tố hội hầu như chiếm phần lớn.
Cho đến ngày nay, dù trong bất cứ không gian nào thì cồng chiêng Tây Nguyên vẫn còn nguyên giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật đặc sắc, độc đáo và là một trong những di sản đã được UNESCO công nhận là "kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại". Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, tinh thần của nghệ thuật cồng chiêng nói riêng và văn hóa Tây Nguyên nói chung là trách nhiệm của những ai yêu mến nền văn hóa cổ sơ của dân tộc, từ đó khẳng định những giá trị đích thực về cuộc sống mà cha ông ta đã để lại cho con cháu đời sau.
Nếu trong các buôn làng ngày xưa, cồng chiêng thường chỉ được sử dụng trong các ngày lễ lớn của gia đình, dòng tộc hoặc buôn làng thì nay không gian địa lý để cho chiêng cất lời đã trở nên phổ biến tại những đô thị với các lễ hội mà yếu tố hội hầu như chiếm phần lớn.
Cho đến ngày nay, dù trong bất cứ không gian nào thì cồng chiêng Tây Nguyên vẫn còn nguyên giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật đặc sắc, độc đáo và là một trong những di sản đã được UNESCO công nhận là "kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại". Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, tinh thần của nghệ thuật cồng chiêng nói riêng và văn hóa Tây Nguyên nói chung là trách nhiệm của những ai yêu mến nền văn hóa cổ sơ của dân tộc, từ đó khẳng định những giá trị đích thực về cuộc sống mà cha ông ta đã để lại cho con cháu đời sau.
(Theo Tây Nguyên trên đường phát triển)
Phố núi Pleiku
Pleiku là thành phố của tỉnh Gia Lai, là trung tâm chính trị-kinh tế -văn hóa xã hội của tỉnh. Thành phố có diện tích tự nhiên trên 220 km2, dân số trên 200.000 người.
Ngược dòng lịch sử để tìm hiểu về Phố núi giữa Cao nguyên nơi có miệng núi lửa cách đây trên một triệu năm. Pleiku là tên của tỉnh từ thời Pháp thuộc. Pleiku là tên ghép của 2 chữ Plei có nghĩa là làng, Ku có nghĩa là cái đuôi. Trước khi thực dân Pháp đặt chân đến đây, trên địa bàn Pleiku có nhiều làng người Jrai ở gần nhau. Pleiku là một vùng đất cổ hiện nay còn lưu giữ nhiều dấu tích của người xưa như di chỉ Trà Dôm và Biển Hồ. Nhiều hiện vật gốm thu được có những mô típ, kiểu dáng gần gũi với các di tích "Tiền Sa Huỳnh" phân bố ở vùng ven biển trung bộ.
Khi xâm chiếm Pleiku, Pháp đặt doanh trại đầu tiên trên một vùng đất mà trước đó dân các làng mang tên Pleiku đã ở lâu đời. Vì thế mà tỉnh và tỉnh lỵ đều lấy tên là Pleiku. Năm 1933, Chính phủ Nam triều thành lập một bộ máy hành chính của Pháp lấy tên là Đạo Gia Lai (Đạo là tỉnh nhỏ), tỉnh Gia Lai có tên từ đấy.
Pleiku là thành phố của tỉnh Gia Lai, là trung tâm chính trị-kinh tế -văn hóa xã hội của tỉnh. Thành phố có diện tích tự nhiên trên 220 km2, dân số trên 200.000 người.
Ngược dòng lịch sử để tìm hiểu về Phố núi giữa Cao nguyên nơi có miệng núi lửa cách đây trên một triệu năm. Pleiku là tên của tỉnh từ thời Pháp thuộc. Pleiku là tên ghép của 2 chữ Plei có nghĩa là làng, Ku có nghĩa là cái đuôi. Trước khi thực dân Pháp đặt chân đến đây, trên địa bàn Pleiku có nhiều làng người Jrai ở gần nhau. Pleiku là một vùng đất cổ hiện nay còn lưu giữ nhiều dấu tích của người xưa như di chỉ Trà Dôm và Biển Hồ. Nhiều hiện vật gốm thu được có những mô típ, kiểu dáng gần gũi với các di tích "Tiền Sa Huỳnh" phân bố ở vùng ven biển trung bộ.
Khi xâm chiếm Pleiku, Pháp đặt doanh trại đầu tiên trên một vùng đất mà trước đó dân các làng mang tên Pleiku đã ở lâu đời. Vì thế mà tỉnh và tỉnh lỵ đều lấy tên là Pleiku. Năm 1933, Chính phủ Nam triều thành lập một bộ máy hành chính của Pháp lấy tên là Đạo Gia Lai (Đạo là tỉnh nhỏ), tỉnh Gia Lai có tên từ đấy.
Đêm Pleiku. Ảnh: Nguyễn Giác
Phố núi Pleiku ngày nay đã thay da đổi thịt không ngừng vươn
lên từng ngày trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đảm nhận vai trò là
trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa lớn nhất của tỉnh Gia Lai.
Nhân vật lịch sử tiêu biểu
Đinh Núp
Nhân vật lịch sử tiêu biểu
Đinh Núp
Đinh Núp (1914 -1999), sinh ngày 2 tháng 5 năm 1914 (Giáp Dần)
tại làng Stơr, xã Tơ Tung, huyện KBang, tỉnh Gia Lai, người dân tộc Bahnar, là
một nhân vật lịch sử Việt Nam.Từ khi đặt chân lên mảnh đất Tây Nguyên, thực dân Pháp vẫn sử dụng chính sách cai trị hà khắc, tàn độc áp đặt lên vùng đồng bào các dân tộc, từ lâu vốn đã rất nghèo khó. Với tinh thần căm thù giặc sâu sắc, năm 1935 Đinh Núp tham gia cách mạng, cũng trong năm đó, trong một lần quân Pháp về làng bắt phu, dân làng lánh hết vào rừng, một mình ông ở lại dùng nỏ bắn Pháp chảy máu để chứng minh với dân làng rằng Pháp cũng là người, có thể chống lại được. Ông đã từng trốn vào rừng dùng vũ khí tự tạo (nỏ) bắn chết một tên lính Pháp. Tại làng Stơr với cương vị là Thôn đội trưởng, ông đã phát động và lãnh đạo bà con dân làng đứng lên đánh Pháp, mô hình "làng kháng chiến" trên chiến trường Gia Lai ra đời từ đấy. Trong giai đoạn 1945 - 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng và tinh thần chiến đấu ngoan cường của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên hệ thống mô hình làng kháng chiến ngày càng lớn mạnh.
Lịch sử Đảng bộ Gia Lai đã ghi: "Trước cách mạng tháng 8-1945, ông đã chỉ huy thanh niên làng Stơr tổ chức dân làng chiến đấu chống Pháp xâm lược gìn giữ núi rừng, buôn làng..., bằng những vũ khí đơn sơ như: Chông tre, bẫy đá, cung tên... đã tiêu diệt hàng trăm tên địch, nêu tấm gương sáng chói cho các dân tộc Tây Nguyên noi theo, đứng lên chống giặc ngoại xâm gìn giữ quê hương, đất nước. Từ tháng 9-1950 đến tháng 2-1951 quân Pháp đã tổ chức 10 cuộc hành quân đánh lên làng STơr, có lần (12-1950) chúng đã sử dụng tới một lực lượng gồm 400 quân vây quét, suốt lúa, phá rẫy, đốt làng, quyết phá cho được dấu tích làng Stơr. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và thôn trưởng Núp, dân làng Stơr đã dựa vào núi rừng hiểm trở, tổ chức đánh bại nhiều cuộc càn quét của địch”.
Cuộc đời cách mạng của ông đã trở thành thiên anh hùng ca bất tử, ông là người Tây Nguyên đầu tiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, là người được bạn bè quốc tế mến phục.
Sau hiệp định Genève 1954, ông cùng đơn vị tập kết ra miền Bắc một thời gian rồi trở về tham gia đánh Mỹ ở Tây Nguyên.
Năm 1955, được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam.
Năm 1963, ông trở về Nam chiến đấu. Năm 1964, Đinh Núp thăm Cộng hòa Cu Ba theo lời mời của Chủ tịch Fidel Castro.
Các chức vụ đã đảm nhiệm:
- Chủ tịch Mặt trận tổ quốc tỉnh Gia Lai - Kontum (1976),
- Đại biểu Quốc hội khóa VI (1976 - 1981),
- Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa VI (1976 - 1981).
Làng Stơr và Anh hùng Núp đã thực sự trở thành biểu tượng của "Đất nước đứng lên" mà tiếng vang còn vọng đến tận Tây bán cầu. Ông là nhân vật chính, nguyên mẫu trong bộ tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc, tác phẩm này đã được dựng thành phim.
Ông mất ngày 10 tháng 7 năm 1999 (Kỷ Mão) tại Gia Lai; hưởng thọ 86 tuổi.
Danh hiệu Tôn vinh:
- Ngày 3 - 8 - 1955, ông được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Huy hiệu Hồ Chí Minh.
- Ông được tặng thưởng các huân chương Quân công hạng ba và huân chương chiến công hạng nhất.
Ngày 23-3-1993, làng Stơr đã được Bộ VH-TT cấp bằng Di tích lịch sử văn hóa: Làng Kháng chiến Stơr.
Khu Lưu niệm Anh hùng Núp tại làng Sơtơr, xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai, theo quyết định phê duyệt, tổng diện tích của khu lưu niệm là hơn 5 ha, gồm 26 hạng mục như: Nhà lưu niệm 2 tầng, khu nhà sàn, tượng, khu mộ tượng trưng, khu nhà thủy tạ và các hạng mục khác... Công trình khởi công vào cuối quý II - 2009 và hoàn thành vào năm 2011. Khu tưởng niệm Anh hùng Núp hoàn thành cùng với các công trình lịch sử văn hóa về thời Tây Sơn Thượng đạo và các danh lam thắng cảnh khác sẽ hình thành một tour du lịch khép kín từ Thành phố Pleiku đến các huyện Kbang, thị xã An Khê và huyện Kông Chro.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai 1945 - 2005
Bách khoa Toàn thư Việt Nam
Bách khoa Toàn thư Việt Nam
Nay Der
Nay Der (1895-1987), dân tộc Jrai, được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở vùng Ơi Nu, nay thuộc huyện Krông Pa.
Nay Der (1895-1987), dân tộc Jrai, được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở vùng Ơi Nu, nay thuộc huyện Krông Pa.
Cha mẹ mất sớm, tuổi thơ của ông trải qua không biết bao gian khó, nhưng với đức
tính thông minh, chăm chỉ, ông từng bước vượt qua ranh giới của buôn làng để
tìm đến với “con chữ”- khái niệm mà lâu nay người Jrai chưa hề có. Với niềm
khao khát được học, được biết chữ, ông đã vượt qua mọi gian khó và vươn lên
trong cuộc sống bấy giờ.
Đến đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, Nay Đer học xong chương trình sơ học yếu lược và trở thành người trí thức đầu tiên của đồng bào dân tộc Jrai. Ông là người thầy giáo, nhà trí thức cách mạng đầu tiên của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Gia Lai, người đã sáng lập ra bộ chữ viết Jrai, suốt đời đem hết tâm huyết phục vụ, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục của Gia Lai nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.
Ông đã được nhà nước phong tặng nhiều huân-huy chương và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Năm 1987 ông qua đời, để lại một tài sản vô cùng quý giá đối với dân tộc, với quê hương. Dẫu năm tháng đã qua đi nhưng bộ chữ viết Jrai vẫn trường tồn, tên của người thầy giáo Nay Đer vẫn luôn trong tâm thức của chúng ta trong mỗi người con Jrai.
Tháng 12 năm 2007, tỉnh Gia Lai thành lập Quỹ học bổng mang tên người con ưu tú của dân tộc Jrai:"Quỹ học bổng Nay Der", số tài khoản: 942.07.00.00001 tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Gia Lai với mục đích khuyến học, khuyến tài nhằm hỗ trợ cho những học sinh, sinh viên của tỉnh có thành tích xuất sắc trong học tập; học sinh, sinh viên nghèo vượt khó học giỏi. Tỉnh Gia Lai đã thành lập Ban Vận động Quỹ họcbổng Nay Der. Các nguồn huy động vào Quỹ gửi ở Ngân hàng, được bảo lưu số gốc; số tiền lãi hàng năm được sử dụng để hỗ trợ cho những học sinh, sinh viên của tỉnh Gia Lai có thành tích xuất sắc trong học tập; học sinh, sinh viên nghèo vượt khó học giỏi.
Vì sự nghiệp khuyến học khuyến tài của tỉnh Gia Lai, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã kêu gọi các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân, các nhà hảo tâm,những tấm lòng vàng, với lòng nhân ái, ủng hộ chủ trương này một cách thiết thực, bằng nhiều hình thức đóng góp, ủng hộ vào "Quỹ học bổng NayDer" để thực hiện mục tiêu của Quỹ.
Đến đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, Nay Đer học xong chương trình sơ học yếu lược và trở thành người trí thức đầu tiên của đồng bào dân tộc Jrai. Ông là người thầy giáo, nhà trí thức cách mạng đầu tiên của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Gia Lai, người đã sáng lập ra bộ chữ viết Jrai, suốt đời đem hết tâm huyết phục vụ, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục của Gia Lai nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.
Ông đã được nhà nước phong tặng nhiều huân-huy chương và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Năm 1987 ông qua đời, để lại một tài sản vô cùng quý giá đối với dân tộc, với quê hương. Dẫu năm tháng đã qua đi nhưng bộ chữ viết Jrai vẫn trường tồn, tên của người thầy giáo Nay Đer vẫn luôn trong tâm thức của chúng ta trong mỗi người con Jrai.
Tháng 12 năm 2007, tỉnh Gia Lai thành lập Quỹ học bổng mang tên người con ưu tú của dân tộc Jrai:"Quỹ học bổng Nay Der", số tài khoản: 942.07.00.00001 tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Gia Lai với mục đích khuyến học, khuyến tài nhằm hỗ trợ cho những học sinh, sinh viên của tỉnh có thành tích xuất sắc trong học tập; học sinh, sinh viên nghèo vượt khó học giỏi. Tỉnh Gia Lai đã thành lập Ban Vận động Quỹ họcbổng Nay Der. Các nguồn huy động vào Quỹ gửi ở Ngân hàng, được bảo lưu số gốc; số tiền lãi hàng năm được sử dụng để hỗ trợ cho những học sinh, sinh viên của tỉnh Gia Lai có thành tích xuất sắc trong học tập; học sinh, sinh viên nghèo vượt khó học giỏi.
Vì sự nghiệp khuyến học khuyến tài của tỉnh Gia Lai, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã kêu gọi các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân, các nhà hảo tâm,những tấm lòng vàng, với lòng nhân ái, ủng hộ chủ trương này một cách thiết thực, bằng nhiều hình thức đóng góp, ủng hộ vào "Quỹ học bổng NayDer" để thực hiện mục tiêu của Quỹ.
Nguồn: Thư Ngỏ ngày 26-12-2007 của Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai
Wừu
Bìa cuốn sách "Bok Wừu" do Sở VHTT Gia Lai - Kon Tum
xuất bản năm 1993, tranh vẽ của Trần Thọ và Xu Man.
Wừu, người dân tộc Bahnar, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành
chính, kiêm Xã đội trưởng làng Đe đoa, xã Nam Đak Đoa, huyện Pleikon, tỉnh Gia
Kon, nay là xã Đak Sơ Mei, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai.
Wừu là người con ưu tú, tiêu biểu của dân tộc Bahnar vùng Đak Đoa, người đảng viên kiên trung, bất khuất, mưu trí, dũng cảm, một tấm gương sáng về tinh thần kiên trì vận động quần chúng bám đất bám làng, phát triển du kích chiến tranh đánh địch, giữ vững phong trào trong những lúc khó khăn, ác liệt nhất. Ông đã bị giặc Pháp bị bắt ba lần, lần nào cũng dõng dạc: “Cán bộ hả? Có dân là cán bộ. Ai cũng là cán bộ cả. Tao không biết nói tên ai. Tao chỉ biết nói tên tao:Wừu!”. Hai lần đầu ông đều mưu trí trốn thoát, đến lần thứ ba (tháng 4 - 1952) rơi vào tay giặc, bị tra tấn dã man tại làng, người bê bết máu, 2 tay bị xích chặt, quá căm giận ông hét lớn trước bọn Tây: “Chúng mày muốn tìm Việt Minh à? Ai cũng là Việt Minh. Tất cả người Bahnar đều là Việt Minh”, sau đó giặc giải ông về Kon Tum tiếp tục tra tấn, rồi lại đưa về Đak Đoa bắt nhận mặt cán bộ do tên Thông phản bội khai báo. Ông và số cán bộ xã bị bắt nhất quyết không khai báo gì mà còn kêu gọi dân làng: Đừng sợ! Hãy căm thù và đoàn kết đấu tranh, diệt cho hết lũ "ayat" (bọn giặc cướp nước). Địch đã giết bok Bao dọc đường, bok Hơp, bok Bơu bị bắn ở đầu làng. Còn ông bị giặc đưa về làng bắt vợ con và dân làng chứng kiến cảnh tra tấn dã man.Chúng xẻo 2 tai, xẻo mũi và chặt 10 ngón tay, ông đã ngất xỉu giữa sân làng nhưng kiên gan không hề tỏ ra nao núng sợ chết.
Biết mình sẽ chết, ông lập mưu "dẫn địch vào căn cứ" để đánh Việt Minh ở Kon Kring. Địch lọt vào khu vực bố phòng ở phía tây Dốc Dồm, rơi xuống hầm chông. Căm tức lồng lộn, chúng đưa ông tới bờ suối Đak Pkei bắn chết và móc cả hai mắt.
Những tội ác tày trời của giặc và tinh thần kiên trung, bất khuất, hy sinh quả cảm của ông đã truyền đến các buôn làng, nung nấu thêm ý chí căm thù diệt địch của bộ đội và nhân dân trong vùng. Quyết trả thù cho ông, bộ đội C1 đã tổ chức chống càn, diệt toán lính đồn Đak Đoa và bắt sống tên đội Wit tại đồng ruộng làng Đe Gir.
Với tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của người con dân tộc Bahnar trung hậu, kiên cường, ngày 7 - 5 - 1956 ông được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên dương: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Wừu là người con ưu tú, tiêu biểu của dân tộc Bahnar vùng Đak Đoa, người đảng viên kiên trung, bất khuất, mưu trí, dũng cảm, một tấm gương sáng về tinh thần kiên trì vận động quần chúng bám đất bám làng, phát triển du kích chiến tranh đánh địch, giữ vững phong trào trong những lúc khó khăn, ác liệt nhất. Ông đã bị giặc Pháp bị bắt ba lần, lần nào cũng dõng dạc: “Cán bộ hả? Có dân là cán bộ. Ai cũng là cán bộ cả. Tao không biết nói tên ai. Tao chỉ biết nói tên tao:Wừu!”. Hai lần đầu ông đều mưu trí trốn thoát, đến lần thứ ba (tháng 4 - 1952) rơi vào tay giặc, bị tra tấn dã man tại làng, người bê bết máu, 2 tay bị xích chặt, quá căm giận ông hét lớn trước bọn Tây: “Chúng mày muốn tìm Việt Minh à? Ai cũng là Việt Minh. Tất cả người Bahnar đều là Việt Minh”, sau đó giặc giải ông về Kon Tum tiếp tục tra tấn, rồi lại đưa về Đak Đoa bắt nhận mặt cán bộ do tên Thông phản bội khai báo. Ông và số cán bộ xã bị bắt nhất quyết không khai báo gì mà còn kêu gọi dân làng: Đừng sợ! Hãy căm thù và đoàn kết đấu tranh, diệt cho hết lũ "ayat" (bọn giặc cướp nước). Địch đã giết bok Bao dọc đường, bok Hơp, bok Bơu bị bắn ở đầu làng. Còn ông bị giặc đưa về làng bắt vợ con và dân làng chứng kiến cảnh tra tấn dã man.Chúng xẻo 2 tai, xẻo mũi và chặt 10 ngón tay, ông đã ngất xỉu giữa sân làng nhưng kiên gan không hề tỏ ra nao núng sợ chết.
Biết mình sẽ chết, ông lập mưu "dẫn địch vào căn cứ" để đánh Việt Minh ở Kon Kring. Địch lọt vào khu vực bố phòng ở phía tây Dốc Dồm, rơi xuống hầm chông. Căm tức lồng lộn, chúng đưa ông tới bờ suối Đak Pkei bắn chết và móc cả hai mắt.
Những tội ác tày trời của giặc và tinh thần kiên trung, bất khuất, hy sinh quả cảm của ông đã truyền đến các buôn làng, nung nấu thêm ý chí căm thù diệt địch của bộ đội và nhân dân trong vùng. Quyết trả thù cho ông, bộ đội C1 đã tổ chức chống càn, diệt toán lính đồn Đak Đoa và bắt sống tên đội Wit tại đồng ruộng làng Đe Gir.
Với tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của người con dân tộc Bahnar trung hậu, kiên cường, ngày 7 - 5 - 1956 ông được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên dương: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai 1945 - 2005
Kpă KLơng hay Kpa Kơ lơng (1948-1975), sinh ngày 19 - 8 -
1948 tại làng Pia, khu 5 (nay là xã Piar, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai),người
dân tộc Jrai, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kpă Klơng tham gia du kích từ khi mới 13 tuổi, ông đặc biệt giỏi đánh địch bằng cách đặt mìn, cài chông, gài thò. Năm 1965, khi mới 17 tuổi ông nhập ngũ và làm trinh sát cho bộ đội khu 5 (Chư Prông). Ông nổi tiếng với biệt tài bắn "xuyên táo" diệt địch bằng súng trường, ông thường chọn những điểm cao, bình tĩnh chờ địch đến gần mới bắn và có thể nổ súng giết nhiều kẻ địch với ít viên đạn. Ông là đại diện tiêu biểu cho phong trào "Tuổi trẻ chí lớn" của thanh niên Gia Lai.
Theo Bách khoa Toàn thư Việt Nam, năm 13 tuổi, Kpă Klơng xin tham gia du kích nhưng không được vì tuổi còn nhỏ. Tức giận, ông chỉ dùng cung tên mà đã giết được 3 tên lính địch nên được nhận vào đội du kích. Xã đội trưởng Kpuih Blang đưa cho ông 3 viên đạn và một cây súng các-bin và yêu cầu phải lấy được 3 đầu giặc. Ông ra phục bắn 2 phát tiêu diệt 7 tên địch làm bị thương 1 tên, còn 1 viên đạn mang về trả cho xã đội trưởng. Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thử thách ông đã được tham gia vào đội du kích xã. Ông tham gia chiến đấu tất thảy 32 trận, diệt 124 địch (trong đó có 6 lính Mỹ), phá hủy 7 xe quân sự và là chiến sĩ trinh sát gan dạ, bắn giỏi đồng thời là một trong những người diệt nhiều địch nhất trên chiến trường Tây Nguyên.
Ngày 17 - 9 - 1967, Kpă Klơng được Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Tên ông đã được đặt cho một trường trung học cơ sở ở xã Chư Ngọc, huyện Krông Pa, Gia Lai và một đường phố, một vườn hoa ở Gia Lai. Ngoài ra, tên ông còn đặt cho một giải chạy việt dã định kỳ do tỉnh Gia Lai tổ chức.
Kpă Klơng tham gia du kích từ khi mới 13 tuổi, ông đặc biệt giỏi đánh địch bằng cách đặt mìn, cài chông, gài thò. Năm 1965, khi mới 17 tuổi ông nhập ngũ và làm trinh sát cho bộ đội khu 5 (Chư Prông). Ông nổi tiếng với biệt tài bắn "xuyên táo" diệt địch bằng súng trường, ông thường chọn những điểm cao, bình tĩnh chờ địch đến gần mới bắn và có thể nổ súng giết nhiều kẻ địch với ít viên đạn. Ông là đại diện tiêu biểu cho phong trào "Tuổi trẻ chí lớn" của thanh niên Gia Lai.
Theo Bách khoa Toàn thư Việt Nam, năm 13 tuổi, Kpă Klơng xin tham gia du kích nhưng không được vì tuổi còn nhỏ. Tức giận, ông chỉ dùng cung tên mà đã giết được 3 tên lính địch nên được nhận vào đội du kích. Xã đội trưởng Kpuih Blang đưa cho ông 3 viên đạn và một cây súng các-bin và yêu cầu phải lấy được 3 đầu giặc. Ông ra phục bắn 2 phát tiêu diệt 7 tên địch làm bị thương 1 tên, còn 1 viên đạn mang về trả cho xã đội trưởng. Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thử thách ông đã được tham gia vào đội du kích xã. Ông tham gia chiến đấu tất thảy 32 trận, diệt 124 địch (trong đó có 6 lính Mỹ), phá hủy 7 xe quân sự và là chiến sĩ trinh sát gan dạ, bắn giỏi đồng thời là một trong những người diệt nhiều địch nhất trên chiến trường Tây Nguyên.
Ngày 17 - 9 - 1967, Kpă Klơng được Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Tên ông đã được đặt cho một trường trung học cơ sở ở xã Chư Ngọc, huyện Krông Pa, Gia Lai và một đường phố, một vườn hoa ở Gia Lai. Ngoài ra, tên ông còn đặt cho một giải chạy việt dã định kỳ do tỉnh Gia Lai tổ chức.
Y Đôn
Y Đôn, dân tộc Bahnar, người làng Chai, xã Yang Bắc, khu 7, nay là xã Yang Bắc, huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai. Đại đội phó, Đại đội 70, Tiểu đoàn đặc công 408.
Y Đôn tham gia cách mạng từ năm 15 tuổi, nhập ngũ năm 1966, là một chiến sỹ đặc công rất gan dạ, có nhiều sáng kiến trong chiến đấu và đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Từ năm 1966 - 1969, ông đã tham gia đánh 37 trận, diệt 42 tên địch (trong đó có 20 lính Mỹ), phá hủy 7 xe quân sự, thu 5 súng các loại. Vào sáng ngày 6 - 11 - 1969, trong trận đánh của Tiểu đoàn đặc công 408 vào cụm căn cứ hỗn hợp Mỹ Thạch, sau khi dùng súng B40 tiêu diệt được một hoả điểm của địch thì Y Đôn bị trúng đạn và hy sinh. Ngày 6 - 11 - 1978, liệt sỹ Y Đôn được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày nay, trên quê hương ông, huyện Đăk Pơ, để tưởng nhớ người anh hùng, có một ngôi trường mang tên ông, Trường phổ thông trung học Y Đôn đã được thành lập theo Quyết định số 312/QĐ-UBND ngày 15 - 7 - 2009 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai.
Y Đôn, dân tộc Bahnar, người làng Chai, xã Yang Bắc, khu 7, nay là xã Yang Bắc, huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai. Đại đội phó, Đại đội 70, Tiểu đoàn đặc công 408.
Y Đôn tham gia cách mạng từ năm 15 tuổi, nhập ngũ năm 1966, là một chiến sỹ đặc công rất gan dạ, có nhiều sáng kiến trong chiến đấu và đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Từ năm 1966 - 1969, ông đã tham gia đánh 37 trận, diệt 42 tên địch (trong đó có 20 lính Mỹ), phá hủy 7 xe quân sự, thu 5 súng các loại. Vào sáng ngày 6 - 11 - 1969, trong trận đánh của Tiểu đoàn đặc công 408 vào cụm căn cứ hỗn hợp Mỹ Thạch, sau khi dùng súng B40 tiêu diệt được một hoả điểm của địch thì Y Đôn bị trúng đạn và hy sinh. Ngày 6 - 11 - 1978, liệt sỹ Y Đôn được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày nay, trên quê hương ông, huyện Đăk Pơ, để tưởng nhớ người anh hùng, có một ngôi trường mang tên ông, Trường phổ thông trung học Y Đôn đã được thành lập theo Quyết định số 312/QĐ-UBND ngày 15 - 7 - 2009 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai 1945 - 2005
Nhớ Anh hùng Ksor Ôi của dân tộc JRai Ksor Ôi (1948 - 2004), dân tộc Jrai, quê xã Krông Năng, huyện
Krông Pa, tỉnh Gia Lai, thượng úy, Phó trưởng công an huyện Krông Pa. Ngày
tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 22 - 8 - 1998.
Chiến tranh đi qua khá xa nhưng kí ức về những trận đánh anh hùng của một người
con JRai ở núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ vẫn sống mãi với thời gianvà lắng sâu
trong tâm trí của nhiều người. Đó là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Ksor
Ôi, còn có tên gọi khác là Ama Thế ở Krông Pa, GiaLai.
Anh hùng từ thuở còn thơ
Ksor Ôi là con trai duy nhất trong 3 người con của một gia đình nông dân nghèo ở buôn Ji, Krông Năng, Krông Pa, Gia Lai.
Thuở còn thơ, buôn Ji bị giặc Pháp xâm chiếm, cướp bóc, đàn áp, nhà nghèo và không có trường để học, Ksor Ôi không biết cái chữ nhưng có lòng căm thù giặc sâu sắc. Đến năm 17 tuổi, có cán bộ cách mạng đến bảo: "Ai muốn đi thoát ly để tham gia cách mạng?". Trước đông đảo mọi người, Ksor Ôi giơ tay xung phong: "Tôi xin đi!".
Năm 1963 đi thoát ly, đến năm 1965, Ksor Ôi được chuyển sang Công an vũ trang. Ngay những ngày đầu học tập, trang bị kiến thức cơ bản về nghiệp vụ Công an, người thanh niên Jrai này đã sớm bộc lộ những năng khiếu võ thuật sẵn có. Những cú đấm, đá rất "thần" và gãy gọn, dứt khoát, khiến đồng chí đồng đội kính phục.
Anh hùng Ksor Ôi (trái) cùng cán bộ Công an Gia Lai tại Hội nghị Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1995.
Trận đánh đầu tiên mà Ksor Ôi nhớ nhất là vào năm 1966, lúc ấy được giao nhiệm vụ Trung đội phó, Tổ trưởng Tổ Trinh sát phụ trách 4 đồng chí, chuyên trách tình báo, ác ôn. Khi ấy có một tên Trung đội trưởng tình báo địch khét tiếng ác. Đã nhiều lần cấp trên giao cho bên huyện và tỉnh đội có kế hoạch đấu tranh nhưng không đạt kết quả.
Hôm đó khoảng 23 giờ, biết tên ác ôn về ngủ với vợ ở nhà riêng, Ksor Ôi cùng 4 anh em trong đội tiến hành bám sát mục tiêu tấn công. 4 đồng chí được bố trí 4 cửa, Ksor Ôi leo lên sàn nhà vào cửa chính. Cánh cửa được đạp tung, tên ác ôn không kịp trở tay nên đã vụt chạy ra ngoài. 4 đồng chí mai phục ở dưới sàn nhà đã nổ súng đồng loạt và rút rất nhanh. Ta đã thu được 1 súng AR15, 1 súng ngắn cùng 6 quả lựu đạn.
Trận đánh kết thúc, Ksor Ôi gặp các anh em tập trung tại điểm hẹn là bờ suối Ea Mlăh mừng thắng lớn, nhưng cũng nhắc nhở mọi người phải rút kinh nghiệm: "Lần sau, chỉ huy chưa rút thì các đồng chí không được chạy trước!".
Năm 1969, Ksor Ôi được giao nhiệm vụ Trung đội trưởng, nhưng đối với Ksor Ôi, không phải chuyện giết được bao nhiêu kẻ địch mà quan trọng hơn là đối xử với người Việt ở bên kia chiến tuyến như thế nào. Một trận đánh khiến Ksor Ôi nhớ mãi đó là trận ở xã Ea Rmok vào khoảng năm 1972. Ksor Ôi cùng 2 đồng đội là Ksor Mal và Ksor Mriah không phải tốn 1 viên đạn nào nhưng 3 người đã bắt sống và cảm hóa 34 tên lính ngụy. Buổi sớm hôm đó, 34 lính ngụy đi càn qua địa bàn xã Ea Rmok. Thấy chúng rất đông nên Mal và Mriah nói nhỏ với Ksor Ôi: "Phải chạy thôi!".
Ksor Ôi tuyên bố: "Không được! Phải bắt sống chúng nó!". Mal và Mriah sửng sốt, không hiểu Ksor Ôi muốn nói gì. Nhưng rồi sau đó nghe Ksor Ôi rỉ tai với từng anh em một. Mal và Mriah ai cũng run run hồi hộp chờ lệnh. Khi đoàn lính giăng hàng rầm rập đi qua. Từ trong bụi rậm, Ksor Ôi bất ngờ phóng ra như tên bắn, siết chặt cổ tên lính đi giữa hàng có mang bộ đàm. Hai đồng đội Mal và Mriah lao ra chặn 2 đầu. Bọn lính nháo nhào chĩa súng vào người Ksor Ôi định bóp cò.
Ksor Ôi tuyên bố: "Nếu chúng bay giết tao thì tao chết cũng được, nhưng chúng bay thì không về được với vợ con đâu. Chúng bay bị bao vây cả rồi!". Cả lũ nhìn nhau, không ai nói gì. Ksor Ôi bảo tiếp: "Ai hàng thì tháo đạn ra khỏi súng lên núi xếp hàng". Ksor Ôi chỉ tay vào gốc cây:"Bỏ hết súng xuống đó". Lừ đừ từng tên một buông súng và đến vị trí đầu hàng. Ksor Ôi bắt bọn chúng xếp hàng ngay ngắn trên núi rồi tuyên bố:"Họp!". Bọn lính mặt mày tái mét, im răm rắp nghe Ksor Ôi nói: "Hôm nay tha cho tất cả, nếu mai mốt còn nghe Mỹ chống lại cách mạng nữa thì sẽ giết chết hết". Cả 34 tên lính lủi thủi, tay không trở về đồn. Nghe kể lại, chỉ huy của chúng bắt nhốt cả lũ vào buồng giam vì cái tội: "Đi họp Việt cộng"...
Ksor Ôi đã chỉ huy và tham gia khoảng hơn 100 trận lớn nhỏ, tiêu diệt gần 200 tên địch, bắt sống và cảm hóa nhiều đối tượng, thu về cho cách mạng 61 súng, hàng ngàn viên đạn và nhiều trang bị quân sự khác... Tên tuổi của Ksor Ôi đã làm cho kẻ thù khiếp sợ, được đồng chí đồng đội tin yêu,mến phục. Ksor Ôi được tuyên dương danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 3/8/1995.
Nặng tình với dân nghèo Đến năm 1975, đất nước đã hoàn toàn độc lập, Ksor Ôi trở về tiếp tục với nhiệm vụ mới là Phó trưởng Công an huyện Krông Pa, chỉ huy lực lượng An ninh nhân dân, làm tốt công tác bảo vệ an ninh cho nhân dân trong những ngày đầu giải phóng. Lúc này còn phải đối mặt nghiệt ngã với bọn phản động FULRO, nhưng với trí thông minh và lòng quả cảm, Ksor Ôi đã tiếp tục lãnh đạo lực lượng Công an ở huyện nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đến năm 1982, Ksor Ôi nghỉ hưu về lại buôn Ji bắt tay vào cuộc sống mới. Ksor Ôi bảo với bà con: "Khi xưa buôn mình nghèo vì không có đất để làm ăn, không biết khoa học kỹ thuật để canh tác, nay có cách mạng giúp rồi dân mình phải cố gắng làm ăn chứ". Anh vừa vận động vừa phải làm cho bà con thấy để họ làm theo. Mỗi năm gặt về cho gia đình cả chục tấn lúa, bà con nhìn lúa đầy bồ hỏi Ksor Ôi: "Ayong (anh) chỉ cho mình làm với!".Thế là một người, hai người rồi đến nhiều người… Ksor Ôi giải thích cho cả dân buôn Ji biết cách làm lúa nước và từ đó không phải đói nữa.
Ksor Ôi khuyên mọi người: "Phải kết hợp trồng trọt với chăn nuôi cho có cái ăn cái để". Bà con trong làng nhìn đàn bò, heo, gà hàng chục con của gia đình Ksor Ôi ai cũng thấy sướng cái bụng nên học cách làm theo. Ksor Ôi còn phải đến từng nhà vận động mọi người cho trẻ đến trường, nhờ vậy mà buôn Ji bây giờ đã xua tan cái đói, cái dốt…
Cuộc sống vẫn chưa yên vì bọn phản động vẫn luôn tìm cách chống phá cuộc sống yên lành của bà con. Chúng lén lút đến rỉ tai lừa phỉnh bà con theo cái gọi "Tin Lành Đê ga" để được chia đất nhiều hơn, không làm mà được hưởng sung sướng… Buôn Ji phần lớn dân không theo, nhưng cũng có ít người lười lao động lại ham tiền nên theo. Ksor Ôi biết chuyện nên đến tận nhà khuyên giải những người lầm lỗi nhận ra lẽ phải, không nghe theo sự lừa phỉnh của bọn phản động FULRO.
Năm 2004, tuổi cao sức yếu, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Ksor Ôi đã ra đi về với "thế giới người hiền". Dẫu không còn sống nữa nhưng sự cống hiến và tình cảm của anh hùng Ksor Ôi vẫn luôn in đậm trong trái tim đồng chí, đồng đội và người dân Tây Nguyên.
Anh hùng từ thuở còn thơ
Ksor Ôi là con trai duy nhất trong 3 người con của một gia đình nông dân nghèo ở buôn Ji, Krông Năng, Krông Pa, Gia Lai.
Thuở còn thơ, buôn Ji bị giặc Pháp xâm chiếm, cướp bóc, đàn áp, nhà nghèo và không có trường để học, Ksor Ôi không biết cái chữ nhưng có lòng căm thù giặc sâu sắc. Đến năm 17 tuổi, có cán bộ cách mạng đến bảo: "Ai muốn đi thoát ly để tham gia cách mạng?". Trước đông đảo mọi người, Ksor Ôi giơ tay xung phong: "Tôi xin đi!".
Năm 1963 đi thoát ly, đến năm 1965, Ksor Ôi được chuyển sang Công an vũ trang. Ngay những ngày đầu học tập, trang bị kiến thức cơ bản về nghiệp vụ Công an, người thanh niên Jrai này đã sớm bộc lộ những năng khiếu võ thuật sẵn có. Những cú đấm, đá rất "thần" và gãy gọn, dứt khoát, khiến đồng chí đồng đội kính phục.
Anh hùng Ksor Ôi (trái) cùng cán bộ Công an Gia Lai tại Hội nghị Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1995.
Trận đánh đầu tiên mà Ksor Ôi nhớ nhất là vào năm 1966, lúc ấy được giao nhiệm vụ Trung đội phó, Tổ trưởng Tổ Trinh sát phụ trách 4 đồng chí, chuyên trách tình báo, ác ôn. Khi ấy có một tên Trung đội trưởng tình báo địch khét tiếng ác. Đã nhiều lần cấp trên giao cho bên huyện và tỉnh đội có kế hoạch đấu tranh nhưng không đạt kết quả.
Hôm đó khoảng 23 giờ, biết tên ác ôn về ngủ với vợ ở nhà riêng, Ksor Ôi cùng 4 anh em trong đội tiến hành bám sát mục tiêu tấn công. 4 đồng chí được bố trí 4 cửa, Ksor Ôi leo lên sàn nhà vào cửa chính. Cánh cửa được đạp tung, tên ác ôn không kịp trở tay nên đã vụt chạy ra ngoài. 4 đồng chí mai phục ở dưới sàn nhà đã nổ súng đồng loạt và rút rất nhanh. Ta đã thu được 1 súng AR15, 1 súng ngắn cùng 6 quả lựu đạn.
Trận đánh kết thúc, Ksor Ôi gặp các anh em tập trung tại điểm hẹn là bờ suối Ea Mlăh mừng thắng lớn, nhưng cũng nhắc nhở mọi người phải rút kinh nghiệm: "Lần sau, chỉ huy chưa rút thì các đồng chí không được chạy trước!".
Năm 1969, Ksor Ôi được giao nhiệm vụ Trung đội trưởng, nhưng đối với Ksor Ôi, không phải chuyện giết được bao nhiêu kẻ địch mà quan trọng hơn là đối xử với người Việt ở bên kia chiến tuyến như thế nào. Một trận đánh khiến Ksor Ôi nhớ mãi đó là trận ở xã Ea Rmok vào khoảng năm 1972. Ksor Ôi cùng 2 đồng đội là Ksor Mal và Ksor Mriah không phải tốn 1 viên đạn nào nhưng 3 người đã bắt sống và cảm hóa 34 tên lính ngụy. Buổi sớm hôm đó, 34 lính ngụy đi càn qua địa bàn xã Ea Rmok. Thấy chúng rất đông nên Mal và Mriah nói nhỏ với Ksor Ôi: "Phải chạy thôi!".
Ksor Ôi tuyên bố: "Không được! Phải bắt sống chúng nó!". Mal và Mriah sửng sốt, không hiểu Ksor Ôi muốn nói gì. Nhưng rồi sau đó nghe Ksor Ôi rỉ tai với từng anh em một. Mal và Mriah ai cũng run run hồi hộp chờ lệnh. Khi đoàn lính giăng hàng rầm rập đi qua. Từ trong bụi rậm, Ksor Ôi bất ngờ phóng ra như tên bắn, siết chặt cổ tên lính đi giữa hàng có mang bộ đàm. Hai đồng đội Mal và Mriah lao ra chặn 2 đầu. Bọn lính nháo nhào chĩa súng vào người Ksor Ôi định bóp cò.
Ksor Ôi tuyên bố: "Nếu chúng bay giết tao thì tao chết cũng được, nhưng chúng bay thì không về được với vợ con đâu. Chúng bay bị bao vây cả rồi!". Cả lũ nhìn nhau, không ai nói gì. Ksor Ôi bảo tiếp: "Ai hàng thì tháo đạn ra khỏi súng lên núi xếp hàng". Ksor Ôi chỉ tay vào gốc cây:"Bỏ hết súng xuống đó". Lừ đừ từng tên một buông súng và đến vị trí đầu hàng. Ksor Ôi bắt bọn chúng xếp hàng ngay ngắn trên núi rồi tuyên bố:"Họp!". Bọn lính mặt mày tái mét, im răm rắp nghe Ksor Ôi nói: "Hôm nay tha cho tất cả, nếu mai mốt còn nghe Mỹ chống lại cách mạng nữa thì sẽ giết chết hết". Cả 34 tên lính lủi thủi, tay không trở về đồn. Nghe kể lại, chỉ huy của chúng bắt nhốt cả lũ vào buồng giam vì cái tội: "Đi họp Việt cộng"...
Ksor Ôi đã chỉ huy và tham gia khoảng hơn 100 trận lớn nhỏ, tiêu diệt gần 200 tên địch, bắt sống và cảm hóa nhiều đối tượng, thu về cho cách mạng 61 súng, hàng ngàn viên đạn và nhiều trang bị quân sự khác... Tên tuổi của Ksor Ôi đã làm cho kẻ thù khiếp sợ, được đồng chí đồng đội tin yêu,mến phục. Ksor Ôi được tuyên dương danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 3/8/1995.
Nặng tình với dân nghèo Đến năm 1975, đất nước đã hoàn toàn độc lập, Ksor Ôi trở về tiếp tục với nhiệm vụ mới là Phó trưởng Công an huyện Krông Pa, chỉ huy lực lượng An ninh nhân dân, làm tốt công tác bảo vệ an ninh cho nhân dân trong những ngày đầu giải phóng. Lúc này còn phải đối mặt nghiệt ngã với bọn phản động FULRO, nhưng với trí thông minh và lòng quả cảm, Ksor Ôi đã tiếp tục lãnh đạo lực lượng Công an ở huyện nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đến năm 1982, Ksor Ôi nghỉ hưu về lại buôn Ji bắt tay vào cuộc sống mới. Ksor Ôi bảo với bà con: "Khi xưa buôn mình nghèo vì không có đất để làm ăn, không biết khoa học kỹ thuật để canh tác, nay có cách mạng giúp rồi dân mình phải cố gắng làm ăn chứ". Anh vừa vận động vừa phải làm cho bà con thấy để họ làm theo. Mỗi năm gặt về cho gia đình cả chục tấn lúa, bà con nhìn lúa đầy bồ hỏi Ksor Ôi: "Ayong (anh) chỉ cho mình làm với!".Thế là một người, hai người rồi đến nhiều người… Ksor Ôi giải thích cho cả dân buôn Ji biết cách làm lúa nước và từ đó không phải đói nữa.
Ksor Ôi khuyên mọi người: "Phải kết hợp trồng trọt với chăn nuôi cho có cái ăn cái để". Bà con trong làng nhìn đàn bò, heo, gà hàng chục con của gia đình Ksor Ôi ai cũng thấy sướng cái bụng nên học cách làm theo. Ksor Ôi còn phải đến từng nhà vận động mọi người cho trẻ đến trường, nhờ vậy mà buôn Ji bây giờ đã xua tan cái đói, cái dốt…
Cuộc sống vẫn chưa yên vì bọn phản động vẫn luôn tìm cách chống phá cuộc sống yên lành của bà con. Chúng lén lút đến rỉ tai lừa phỉnh bà con theo cái gọi "Tin Lành Đê ga" để được chia đất nhiều hơn, không làm mà được hưởng sung sướng… Buôn Ji phần lớn dân không theo, nhưng cũng có ít người lười lao động lại ham tiền nên theo. Ksor Ôi biết chuyện nên đến tận nhà khuyên giải những người lầm lỗi nhận ra lẽ phải, không nghe theo sự lừa phỉnh của bọn phản động FULRO.
Năm 2004, tuổi cao sức yếu, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Ksor Ôi đã ra đi về với "thế giới người hiền". Dẫu không còn sống nữa nhưng sự cống hiến và tình cảm của anh hùng Ksor Ôi vẫn luôn in đậm trong trái tim đồng chí, đồng đội và người dân Tây Nguyên.
Nhân vật anh hùng tiêu biểu
Puih Thu
Puih Thu, dân tộc Jrai, Xã đội trưởng xã E14, khu 5, nay thuộc xã Ia Hlốp, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
Người du kích anh hùng của núi rừng Tây Nguyên
Ở Gia Lai, những người anh hùng trong thời chống Mỹ còn sống bây giờ chỉ còn vài người, trong đó có Kpuih Thu. Ông là người dân tộc Jrai, Xã đội trưởng du kích xã E14, nay là xã Ia Hlốp, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
Trong những năm tháng đánh giặc cứu nước, vào thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, đội du kích xã E14 do ông chỉ huy thường xuyên chặn đánh địch trên quốc lộ 14. Puih Thu là một du kích quả cảm và mưu trí, ông thường xuyên di chuyển trên những tuyến đường có địch. Trong tầm mắt kẻ thù, chúng chỉ thấy một người đàn ông Jrai đóng khố, cởi trần, chiếc gùi nhỏ trên lưng, tay cầm con dao nhỏ như một người đi rừng tìm rau, hái nấm. Chúng không thể biết là ở cổ chân ông còn có sợi dây thừng đang kéo lê một khẩu súng, đến những nơi có bụi cây rậm, Puih Thu giả ngồi nghỉ và chờ đến lúc thuận lợi bắn diệt các xe quân sự Mỹ. Ông đã thực hiện mưu kế này ở nhiều đoạn đường khác nhau. Chỉ trong ba tháng cuối năm 1966, Puih Thu đã bắn cháy trên 10 chiếc xe quân sự Mỹ. Không chỉ một mình đánh địch, ông còn hướng dẫn và chỉ huy du kích xã liên tục bám đường đánh địch không biết bao phen làm kẻ thù khiếp sợ.
Tên tuổi người Xã đội trưởng Kpuih Thu gắn với những trận đánh du kích ở Ia Hlốp, Ia Ko (Chư Sê) đã vang dội cả chiến trường Tây Nguyên. Ngày 5-5-1965, Kpuih Thu được Uỷ ban mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, người anh hùng đầu tiên của tỉnh Gia Lai trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau khi nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, Kpuih Thu càng thấy trọng trách của mình nặng nề hơn, ông đã không ngại gian nguy, thường xuyên bám địa bàn cơ sở, chỉ huy anh em du kích ở các làng, xã cách đánh hay để tiêu diệt địch. Nhờ vậy mà phong trào du kích ở Tây Nguyên ngày càng lớn mạnh và đã góp phần làm nên những chiến công hiển hách, đi đến trận đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Những dòng ký ức Nhớ chuyện thuở xưa, một hôm ở làng, Kpuih Thu nghe có người bảo: "Đất nước này là của dân tộc Việt Nam, Pháp xâm chiếm ta đánh Pháp, Mỹ xâm lăng ta đánh Mỹ!". Lúc ấy Kpuih Thu chưa hiểu nhiều đến chuyện lớn lao nhưng thấy quê hương mình không được bình yên bởi giặc Mỹ xâm chiếm, đàn áp, cướp bóc và giết chết cả người thân của mình nên Kpuih Thu kiên quyết:"Phải đánh!". Thế là Kpuih Thu xin được làm giao liên, rồi tham gia du kích ở E14 (xã Ia Hlốp, Chư Sê, Gia Lai bây giờ).
Vào du kích được một năm, Kpuih Thu được bầu làm Xã đội phó rồi sau đó được giao trọng trách Xã đội trưởng du kích xã Ia Hlốp. Kpuih Thu kể rằng, anh em du kích lúc ấy ở Tây Nguyên còn thiếu vũ khí nên ông đã hóa trang thành người dân nghèo đi bán chuối rồi lợi dụng lúc giặc sơ hở, Kpuih Thu lấy trộm súng và lựu đạn về phát cho anh em để đánh giặc.
Nhớ nhất là trận đánh năm 1963, Kpuih Thu chỉ huy anh em phục kích chặn đánh địch ở Chư Sê, quốc lộ 14, trên đường giặc đưa quân từ Đắk Lắk sang Gia Lai. Gần chục chiếc xe tải chở đầy quân với vũ khí hiện đại nhưng chúng bị anh em du kích xã chỉ một khẩu súng và nỏ mà tiêu diệt gần hết.
Rồi liên tiếp những năm 1963-1964, Kpuih Thu chỉ huy anh em du kích địa phương phục đánh các đồn, ấp, tiêu diệt nhiều lính địch, mở rộng vùng kháng chiến. Kpuih Thu thường khuyên nhủ anh em du kích rằng: "Chúng ta phải học cách đánh hay và lòng gan dạ của Bok Núp. Người Tây Nguyên không thiếu trí thông minh và lòng gan dạ, chúng ta phải đánh cho quân giặc kinh sợ và đừng bao giờ dám xâm lược đất nước Việt Nam nữa!". Trong dòng ký ức bao năm tháng, Kpuih Thu nhớ về một trận đánh khác làm cho địch kinh hoàng khiếp vía, ấy là năm 1964, khi cuộc họp của cán bộ xã đang diễn ra ở Ia Hlốp thì phát hiện có 2 máy bay trực thăng Mỹ ập đến. Kpuih Thu căn dặn anh em: "Kpuih Thu có súng bắn cho nó rơi xuống, còn anh em chuẩn bị nỏ tiêu diệt từng tên còn sống sót". Nói xong, Kpuih Thu nhảy nhanh như sóc lên cây gòn rồi áp súng vào thân cây ngắm thẳng về hướng chiếc trực thăng bay tới mà nhả đạn. Tiếng súng vừa dứt, một vệt sáng lóe lên, chiếc trực thăng lảo đảo và rơi trong mịt mù khói đen.Thất bại nhục nhã nên sau vài giờ đồng hồ, quân giặc cho gần chục xe tăng cùng lính đổ bộ xuống càn quét dân làng để trả thù. Kpuih Thu cho anh em du kích tạm rút lui về nơi trú ẩn, còn một mình Kpuih Thu ở lại đặt mìn, tiếp tục tiêu diệt thêm một xe tăng và 6 lính Mỹ.
Không nhớ hết các trận đánh du kích ở đây, nhưng bằng tinh thần mưu trí, dũng cảm, chỉ trong vòng từ 1961-1965, Kpuih Thu đã trực tiếp chỉ huy và cùng anh em du kích xã Ia Hlốp phục đánh địch hàng trăm trận, tiêu diệt nhiều lính Mỹ và quân chính quyền Sài Gòn, phá hủy nhiều phương tiện quân sự của giặc, khiến quân thù khiếp sợ.
Anh hùng giữa đời thường
Hòa bình lập lại, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Kpuih Thu trở về với cuộc sống đời thường, chăm lo làm ăn và xây dựng cuộc sống mới ở buôn làng. Ông đã trở thành hạt nhân tiêu biểu trong phong trào làm kinh tế giỏi, giúp đỡ người dân trong làng biết cách làm ăn, phát triển kinh tế gia đình. Năm nay đã bước sang cái tuổi "thất thập cổ lai hy" nhưng Kpuih Thu vẫn không một giờ ngơi nghỉ. Thường ngày, ông vẫn đôi chân trần thoăn thoắt, nhanh nhẹn với công việc nương rẫy. Người dân ở làng Te Yỗ, xã Ia Hlốp, luôn tâm đắc ngợi khen: "Kpuih Thu đánh giặc giỏi,làm kinh tế cũng giỏi". Sau hơn ba mươi ba năm nước nhà thống nhất, dù tuổi cao, sức yếu nhưng độ sắc sảo của người du kích Tây Nguyên vẫn không hề suy giảm, Kpuih Thu vẫn gắn mình vì sự bình yên cho buôn làng. Ông bảo: "Mình sống ở làng khó khổ mấy về vật chất cũng chịu được nhưng không chịu nổi cảnh dân mình bị bọn phản động FULRO lừa phỉnh". Trong những năm tháng ở Chư Sê, Gia Lai bọn phản động FULRO hoạt động mạnh, Kpuih Thu đã đi vận động nhân dân không nghe theo lời kẻ xấu. Để làm gương cho dân làng, Kpuih Thu cho hai người con trai học hành tử tế và tình nguyện về công tác ở Công an huyện Chư Sê, góp phần giữ gìn cuộc sống bình yên cho dân làng. Điều ấy, có phải chăng Kpuih Thu xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo trên quê hương Tây Nguyên, lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bom đạn của kẻ thù ngày đêm cày xới nên ông thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ nhục của người dân mất nước.
Ông khuyên con cái mình và những người thân: "Dù đổi thay sung sướng hay gian khổ cũng phải luôn giữ gìn cái gốc con người, cái gốc của người cán bộ là gần gũi với nhân dân và giúp đỡ mọi người trong những hoàn cảnh khó khăn". Và đó cũng là cái gốc của lòng nhân ái trong con người Anh hùng Kpuih Thu, trọn một đời vì cách mạng, vì nhân dân.
Puih Thu, dân tộc Jrai, Xã đội trưởng xã E14, khu 5, nay thuộc xã Ia Hlốp, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
Người du kích anh hùng của núi rừng Tây Nguyên
Ở Gia Lai, những người anh hùng trong thời chống Mỹ còn sống bây giờ chỉ còn vài người, trong đó có Kpuih Thu. Ông là người dân tộc Jrai, Xã đội trưởng du kích xã E14, nay là xã Ia Hlốp, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
Trong những năm tháng đánh giặc cứu nước, vào thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, đội du kích xã E14 do ông chỉ huy thường xuyên chặn đánh địch trên quốc lộ 14. Puih Thu là một du kích quả cảm và mưu trí, ông thường xuyên di chuyển trên những tuyến đường có địch. Trong tầm mắt kẻ thù, chúng chỉ thấy một người đàn ông Jrai đóng khố, cởi trần, chiếc gùi nhỏ trên lưng, tay cầm con dao nhỏ như một người đi rừng tìm rau, hái nấm. Chúng không thể biết là ở cổ chân ông còn có sợi dây thừng đang kéo lê một khẩu súng, đến những nơi có bụi cây rậm, Puih Thu giả ngồi nghỉ và chờ đến lúc thuận lợi bắn diệt các xe quân sự Mỹ. Ông đã thực hiện mưu kế này ở nhiều đoạn đường khác nhau. Chỉ trong ba tháng cuối năm 1966, Puih Thu đã bắn cháy trên 10 chiếc xe quân sự Mỹ. Không chỉ một mình đánh địch, ông còn hướng dẫn và chỉ huy du kích xã liên tục bám đường đánh địch không biết bao phen làm kẻ thù khiếp sợ.
Tên tuổi người Xã đội trưởng Kpuih Thu gắn với những trận đánh du kích ở Ia Hlốp, Ia Ko (Chư Sê) đã vang dội cả chiến trường Tây Nguyên. Ngày 5-5-1965, Kpuih Thu được Uỷ ban mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, người anh hùng đầu tiên của tỉnh Gia Lai trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau khi nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, Kpuih Thu càng thấy trọng trách của mình nặng nề hơn, ông đã không ngại gian nguy, thường xuyên bám địa bàn cơ sở, chỉ huy anh em du kích ở các làng, xã cách đánh hay để tiêu diệt địch. Nhờ vậy mà phong trào du kích ở Tây Nguyên ngày càng lớn mạnh và đã góp phần làm nên những chiến công hiển hách, đi đến trận đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Những dòng ký ức Nhớ chuyện thuở xưa, một hôm ở làng, Kpuih Thu nghe có người bảo: "Đất nước này là của dân tộc Việt Nam, Pháp xâm chiếm ta đánh Pháp, Mỹ xâm lăng ta đánh Mỹ!". Lúc ấy Kpuih Thu chưa hiểu nhiều đến chuyện lớn lao nhưng thấy quê hương mình không được bình yên bởi giặc Mỹ xâm chiếm, đàn áp, cướp bóc và giết chết cả người thân của mình nên Kpuih Thu kiên quyết:"Phải đánh!". Thế là Kpuih Thu xin được làm giao liên, rồi tham gia du kích ở E14 (xã Ia Hlốp, Chư Sê, Gia Lai bây giờ).
Vào du kích được một năm, Kpuih Thu được bầu làm Xã đội phó rồi sau đó được giao trọng trách Xã đội trưởng du kích xã Ia Hlốp. Kpuih Thu kể rằng, anh em du kích lúc ấy ở Tây Nguyên còn thiếu vũ khí nên ông đã hóa trang thành người dân nghèo đi bán chuối rồi lợi dụng lúc giặc sơ hở, Kpuih Thu lấy trộm súng và lựu đạn về phát cho anh em để đánh giặc.
Nhớ nhất là trận đánh năm 1963, Kpuih Thu chỉ huy anh em phục kích chặn đánh địch ở Chư Sê, quốc lộ 14, trên đường giặc đưa quân từ Đắk Lắk sang Gia Lai. Gần chục chiếc xe tải chở đầy quân với vũ khí hiện đại nhưng chúng bị anh em du kích xã chỉ một khẩu súng và nỏ mà tiêu diệt gần hết.
Rồi liên tiếp những năm 1963-1964, Kpuih Thu chỉ huy anh em du kích địa phương phục đánh các đồn, ấp, tiêu diệt nhiều lính địch, mở rộng vùng kháng chiến. Kpuih Thu thường khuyên nhủ anh em du kích rằng: "Chúng ta phải học cách đánh hay và lòng gan dạ của Bok Núp. Người Tây Nguyên không thiếu trí thông minh và lòng gan dạ, chúng ta phải đánh cho quân giặc kinh sợ và đừng bao giờ dám xâm lược đất nước Việt Nam nữa!". Trong dòng ký ức bao năm tháng, Kpuih Thu nhớ về một trận đánh khác làm cho địch kinh hoàng khiếp vía, ấy là năm 1964, khi cuộc họp của cán bộ xã đang diễn ra ở Ia Hlốp thì phát hiện có 2 máy bay trực thăng Mỹ ập đến. Kpuih Thu căn dặn anh em: "Kpuih Thu có súng bắn cho nó rơi xuống, còn anh em chuẩn bị nỏ tiêu diệt từng tên còn sống sót". Nói xong, Kpuih Thu nhảy nhanh như sóc lên cây gòn rồi áp súng vào thân cây ngắm thẳng về hướng chiếc trực thăng bay tới mà nhả đạn. Tiếng súng vừa dứt, một vệt sáng lóe lên, chiếc trực thăng lảo đảo và rơi trong mịt mù khói đen.Thất bại nhục nhã nên sau vài giờ đồng hồ, quân giặc cho gần chục xe tăng cùng lính đổ bộ xuống càn quét dân làng để trả thù. Kpuih Thu cho anh em du kích tạm rút lui về nơi trú ẩn, còn một mình Kpuih Thu ở lại đặt mìn, tiếp tục tiêu diệt thêm một xe tăng và 6 lính Mỹ.
Không nhớ hết các trận đánh du kích ở đây, nhưng bằng tinh thần mưu trí, dũng cảm, chỉ trong vòng từ 1961-1965, Kpuih Thu đã trực tiếp chỉ huy và cùng anh em du kích xã Ia Hlốp phục đánh địch hàng trăm trận, tiêu diệt nhiều lính Mỹ và quân chính quyền Sài Gòn, phá hủy nhiều phương tiện quân sự của giặc, khiến quân thù khiếp sợ.
Anh hùng giữa đời thường
Hòa bình lập lại, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Kpuih Thu trở về với cuộc sống đời thường, chăm lo làm ăn và xây dựng cuộc sống mới ở buôn làng. Ông đã trở thành hạt nhân tiêu biểu trong phong trào làm kinh tế giỏi, giúp đỡ người dân trong làng biết cách làm ăn, phát triển kinh tế gia đình. Năm nay đã bước sang cái tuổi "thất thập cổ lai hy" nhưng Kpuih Thu vẫn không một giờ ngơi nghỉ. Thường ngày, ông vẫn đôi chân trần thoăn thoắt, nhanh nhẹn với công việc nương rẫy. Người dân ở làng Te Yỗ, xã Ia Hlốp, luôn tâm đắc ngợi khen: "Kpuih Thu đánh giặc giỏi,làm kinh tế cũng giỏi". Sau hơn ba mươi ba năm nước nhà thống nhất, dù tuổi cao, sức yếu nhưng độ sắc sảo của người du kích Tây Nguyên vẫn không hề suy giảm, Kpuih Thu vẫn gắn mình vì sự bình yên cho buôn làng. Ông bảo: "Mình sống ở làng khó khổ mấy về vật chất cũng chịu được nhưng không chịu nổi cảnh dân mình bị bọn phản động FULRO lừa phỉnh". Trong những năm tháng ở Chư Sê, Gia Lai bọn phản động FULRO hoạt động mạnh, Kpuih Thu đã đi vận động nhân dân không nghe theo lời kẻ xấu. Để làm gương cho dân làng, Kpuih Thu cho hai người con trai học hành tử tế và tình nguyện về công tác ở Công an huyện Chư Sê, góp phần giữ gìn cuộc sống bình yên cho dân làng. Điều ấy, có phải chăng Kpuih Thu xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo trên quê hương Tây Nguyên, lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bom đạn của kẻ thù ngày đêm cày xới nên ông thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ nhục của người dân mất nước.
Ông khuyên con cái mình và những người thân: "Dù đổi thay sung sướng hay gian khổ cũng phải luôn giữ gìn cái gốc con người, cái gốc của người cán bộ là gần gũi với nhân dân và giúp đỡ mọi người trong những hoàn cảnh khó khăn". Và đó cũng là cái gốc của lòng nhân ái trong con người Anh hùng Kpuih Thu, trọn một đời vì cách mạng, vì nhân dân.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai 1945 - 2005
Puih San
Puih San (A Sanh), người dân tộc Jrai, quê làng Nú, xã B13, khu 4, nay là xã Ia
Krái, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai.
Puih San thoát ly gia đình đi hoạt động cách mạng từ tháng 2 - 1958. Năm 1963, khi Mặt trận B3 thành lập tuyến đường C07 Tây Bắc, Puih San được điều về công tác trên tuyến đường này. Nhiệm vụ của ông cùng với những người đồng đội (chủ yếu là anh em người Jrai được tuyển chọn tại địa phương, có sức khỏe và thông thạo địa bàn) là chèo đò chuyển hàng hóa, vũ khí, bộ đội từ Mặt trận B3 vượt sông Pô Cô vào Mặt trận B2 và chuyển thương binh từ mặt trận tiền phương về phía sau trong điều phải tuyệt đối giữ bí mật, làm việc hết sức mình để hàng hóa không bị ùn đọng trên bến. Việc chèo đò thường được thực hiện vào ban đêm, còn ban ngày phải giấu thuyền dưới nước cùng tham gia gùi hàng với bộ đội và dân công. Có mùa mưa, nước sông cuồn cuộn gầm gào, địch lại đánh phá liên tục, đêm đến chúng còn thả pháo sáng, tung biệt kích, thám báo vào lùng sục nhằm phát hiện lực lượng quân ta. Để tránh địch, có đêm những người lái đò trên khúc sông này phải di chuyển bến vượt tới 4, 5 lần. Khó khăn ác liệt nhưng những người lái đò vẫn tranh thủ từng giờ, từng phút, địch đánh chỗ này, ta rời bến qua chỗ khác, bằng mọi giá đưa hết bộ đội qua sông trong đêmtrước khi trời sáng. Năm 1968, Puih San được vinh dự được đi báo cáo điển hình tại Đại hội chiến sĩ thi đua của Mặt trận B3 và của miền. Tháng 3 - 1970,ông bị thương nên được đưa ra miền Bắc điều trị và học tập. Năm 1975, ông trở về quê hương (xã B13, nay là xã Ia Krái, huyện IaGrai).
Ngày 22 - 8 - 1998 ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Puih San (A Sanh) đã trở thành hình tượng âm nhạc trong bài hát Người lái đò trên sông Pô Cô của nhạc sĩ Cầm Phong .
Puih San thoát ly gia đình đi hoạt động cách mạng từ tháng 2 - 1958. Năm 1963, khi Mặt trận B3 thành lập tuyến đường C07 Tây Bắc, Puih San được điều về công tác trên tuyến đường này. Nhiệm vụ của ông cùng với những người đồng đội (chủ yếu là anh em người Jrai được tuyển chọn tại địa phương, có sức khỏe và thông thạo địa bàn) là chèo đò chuyển hàng hóa, vũ khí, bộ đội từ Mặt trận B3 vượt sông Pô Cô vào Mặt trận B2 và chuyển thương binh từ mặt trận tiền phương về phía sau trong điều phải tuyệt đối giữ bí mật, làm việc hết sức mình để hàng hóa không bị ùn đọng trên bến. Việc chèo đò thường được thực hiện vào ban đêm, còn ban ngày phải giấu thuyền dưới nước cùng tham gia gùi hàng với bộ đội và dân công. Có mùa mưa, nước sông cuồn cuộn gầm gào, địch lại đánh phá liên tục, đêm đến chúng còn thả pháo sáng, tung biệt kích, thám báo vào lùng sục nhằm phát hiện lực lượng quân ta. Để tránh địch, có đêm những người lái đò trên khúc sông này phải di chuyển bến vượt tới 4, 5 lần. Khó khăn ác liệt nhưng những người lái đò vẫn tranh thủ từng giờ, từng phút, địch đánh chỗ này, ta rời bến qua chỗ khác, bằng mọi giá đưa hết bộ đội qua sông trong đêmtrước khi trời sáng. Năm 1968, Puih San được vinh dự được đi báo cáo điển hình tại Đại hội chiến sĩ thi đua của Mặt trận B3 và của miền. Tháng 3 - 1970,ông bị thương nên được đưa ra miền Bắc điều trị và học tập. Năm 1975, ông trở về quê hương (xã B13, nay là xã Ia Krái, huyện IaGrai).
Ngày 22 - 8 - 1998 ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Puih San (A Sanh) đã trở thành hình tượng âm nhạc trong bài hát Người lái đò trên sông Pô Cô của nhạc sĩ Cầm Phong .
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai 1945 - 2005
Kpă Ó làm theo lời Bác
Kpă Ó (nữ), dân tộc Jrai, Trung đội trưởng du kích xã E5, khu 5, nay là xã Ia Phìn, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Ngày được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 6-11-1978.
Làng Bạc ngày xưa tiêu điều vì đạn bom cày xới thì nay đổi thay đến không ngờ bởi màu xanh của cà phê, lúa, mì... Chúng tôi trở lại thăm làng đúng vào dịp hoa dã quỳ nở. Cũng vào mùa hoa dã quỳ năm xưa, tại làng Bạc, một người con gái Jrai đã ghi tên mình vào lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, chị tên Kpă Ó.
Trở lại làng Bạc
Lần thứ hai trở lại làng Bạc (xã Ia Phìn, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai), chúng tôi vẫn thấy cảnh vật yên bình như cách đây mấy năm đã có dịp ghé thăm. Mây mù lãng đãng trôi trên nóc nhà rông, hơi núi se se lạnh và một chút sắc vàng của dã quỳ xen lẫn màu đất đỏ bazan đặc trưng bên chân núi Chư Prông làm cho con người ta thêm yêu quý khung cảnh thanh bình Tây Nguyên.
Gặp nhau trong căn nhà gỗ đơn sơ của Kpă Ó, tóc chị bạc nhiều hơn nhưng nét thông minh và cách nói chuyện dí dỏm vẫn thu hút người đối diện. Chị mường tượng lại: “Trong một trận càn, dân làng Bạc ra sức đấu tranh để giặc khỏi phá rẫy, giết heo, trâu nhưng không hiệu quả. Dân làng quyết định kháng cự bằng cung nỏ, lao mác có sẵn. Sau trận chiến giữ làng không cân sức, làng Bạc có 195 người bị thiệt mạng, trong đó có mẹ, em trai và anh rể của mình bị giết thảm thương. Mình thoát chết đợt đó là nhờ có hàng cây mít chở che khi quân địch điên rồ nổ súng đuổi theo, mình té ngã nên nấp vào gốc cây, còn mọi người thì bị bắn gục hết. Con nít chúng cũng giết, người lớn chúng cũng bắn bỏ. Nhớ lại cảnh đó, đau cái bụng lắm, Giàng ơi!”.
Sau lễ bỏ mả cho mẹ và các em, cô gái Jrai 16 tuổi Kpă Ó căm hận giặc Mỹ nên đã tình nguyện vào đội du kích xã Ia Phìn. Nhờ sự dìu dắt của các chú các anh và nhất là các chị trong đội du kích làng Bạc, Kpă Ó trưởng thành và tiến bộ nhiều lên. Chị đã biết vót chông, dụ địch sập bẫy, sử dụng súng, lựu đạn thành thạo. Cùng với các nữ du kích làng Bạc, Kpă Ó đã trực tiếp tham gia chiến đấu hàng chục trận chống càn, cùng chị em phá vỡ âm mưu lập ấp, xây đồn trên chính quê hương mình…
Kpă Ó nhớ lại một trận đánh: “Ồ, mình nhớ lời Bác kêu gọi đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào nên dù mình nhỏ nhất đội du kích, mình vẫn xung phong nhận nhiệm vụ quan trọng là đón đoàn xe tăng địch. Mình mừng lắm nên nghĩ kế gài đúng hướng địch sẽ đi qua. Hôm đó 4 chiếc càn thì 2 chiếc xe tăng bị mình dẫn dụ đã chạy vào bãi và trúng 4 quả mìn gài sẵn, nổ tung tan xác. Trận đó chúng thiệt mạng hàng chục tên, cuộc hành quân bị bẻ gãy…”. Và chính nhờ chiến công đầu tiên đánh xe tăng bằng mìn, mở màn cho những sáng tạo đánh giặc ly kỳ của người Jrai, Kpă Ó đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Mùa hoa qùy năm nay
Câu chuyện bỗng nhiên dừng lại, Kpă Ó cười bật thành tiếng, rồi vui vẻ kể:“Năm 1973 ra Bắc dự đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua, không còn Bác Hồ nên mình chẳng có cơ hội cầm tay và báo công với Bác. Nhưng lần ấy mình có… một chuyện tình với một người đấy, cũng là người đồng bào Jrai thôi.”
Tôi tò mò hỏi: “Ai vậy chị?”.
“Ông Rơ Mah Peng đấy, chúng mình quen nhau tại đại hội, ông ấy ba lần đạt danh hiệu là “Dũng sĩ diệt Mỹ”, còn được gặp Bác Hồ nữa chứ! Yêu nhau cách trở 3 năm vì ai cũng lo học thêm văn hóa, chính trị, lo chiến đấu…Mãi sau này mình mới có điều kiện đi “bắt” ổng về làm chồng. Chẳng tốn heo, tốn gà gì hết vì chúng mình đều là người làm cách mạng cả, tổ chức chấp thuận là mình “bắt” ngay. Nhưng sau ngày hoà bình thống nhất năm1975, chúng mình mới chính thức lấy nhau. Năm ấy hoa quỳ nở đẹp lắm!”.
Hiện giờ, gia đình Kpă Ó đang nhận khoán chăm sóc 3 ha cà phê của Công ty Cà phê tỉnh Gia Lai. Lương công nhân khoảng 1 triệu đồng/tháng, Kpă Ó dùng để nuôi đứa con gái bị nhiễm chất độc da cam và mấy con bò. Cũng như nhiều bà con làng Bạc và các vùng khác trong xã Ia Phìn, cách đây hơn 10 năm, dự án phát triển cây cà phê của Gia Lai đã thu hút nhiều người tình nguyện vào làm công nhân cho nông trường. Cuộc sống dân làng Bạc từng bước được cải thiện, đã khác xưa. Nhà Kpă Ó không còn thuộc diện nghèo đói nữa mà đã có gạo trữ trong bồ, có ngô treo đầy sàn bếp và đàn lợn ủn ỉn đầy dưới chân nhà sàn. Đêm đêm, ánh điện sáng choang nơi nhà rông văn hóa xã, Kpă Ó và lũ làng vui vầy bên ghè rượu, cười hát vang núi. Chị bảo: “Đồng bào mình ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành rồi, đúng với mong ước của Bác Hồ, chắc Bác cũng vui cái bụng nơi chín suối. Mình nhớ Bác dặn rằng: Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Hán, Gia Rai hay Ba Na, Ê Đê hay Mơ Nông… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt nên mình lúc nào cũng dặn lũ thanh niên đừng có nghe lời bọn Đề Ga lừa phỉnh. Và làng Bạc của mình chẳng ai nghe lời chúng, bọn thanh niên trai tráng tin cái lời mình hơn, chúng biết Tây Nguyên là đất mẹ, các dân tộc là anh em mà!”. Và dù đã gần bước sang tuổi 57, nữ anh hùng Kpă Ó vẫn hồn nhiên, dẻo dai như cây pơ mu của núi rừng. Kpă Ó rủ chúng tôi uống rượu ghè: “Đông thế này uống rượu vui phải biết”. Nhìn gương mặt hiền dịu nhưng sạm nắng vì cuộc sống bươn chải, nắm lấy đôi bàn tay chai sần vì phải lo gánh vác gia đình như mọi phụ nữ Jrai (mẫu hệ) khác…, tôi đã chúc cho Kpă Ó mãi mãi tràn đầy sức khỏe, để từng ngày ngắm những mùa hoa quỳ khoe sắc trên núi Chư Prông.
Kpă Ó (nữ), dân tộc Jrai, Trung đội trưởng du kích xã E5, khu 5, nay là xã Ia Phìn, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Ngày được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 6-11-1978.
Làng Bạc ngày xưa tiêu điều vì đạn bom cày xới thì nay đổi thay đến không ngờ bởi màu xanh của cà phê, lúa, mì... Chúng tôi trở lại thăm làng đúng vào dịp hoa dã quỳ nở. Cũng vào mùa hoa dã quỳ năm xưa, tại làng Bạc, một người con gái Jrai đã ghi tên mình vào lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, chị tên Kpă Ó.
Trở lại làng Bạc
Lần thứ hai trở lại làng Bạc (xã Ia Phìn, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai), chúng tôi vẫn thấy cảnh vật yên bình như cách đây mấy năm đã có dịp ghé thăm. Mây mù lãng đãng trôi trên nóc nhà rông, hơi núi se se lạnh và một chút sắc vàng của dã quỳ xen lẫn màu đất đỏ bazan đặc trưng bên chân núi Chư Prông làm cho con người ta thêm yêu quý khung cảnh thanh bình Tây Nguyên.
Gặp nhau trong căn nhà gỗ đơn sơ của Kpă Ó, tóc chị bạc nhiều hơn nhưng nét thông minh và cách nói chuyện dí dỏm vẫn thu hút người đối diện. Chị mường tượng lại: “Trong một trận càn, dân làng Bạc ra sức đấu tranh để giặc khỏi phá rẫy, giết heo, trâu nhưng không hiệu quả. Dân làng quyết định kháng cự bằng cung nỏ, lao mác có sẵn. Sau trận chiến giữ làng không cân sức, làng Bạc có 195 người bị thiệt mạng, trong đó có mẹ, em trai và anh rể của mình bị giết thảm thương. Mình thoát chết đợt đó là nhờ có hàng cây mít chở che khi quân địch điên rồ nổ súng đuổi theo, mình té ngã nên nấp vào gốc cây, còn mọi người thì bị bắn gục hết. Con nít chúng cũng giết, người lớn chúng cũng bắn bỏ. Nhớ lại cảnh đó, đau cái bụng lắm, Giàng ơi!”.
Sau lễ bỏ mả cho mẹ và các em, cô gái Jrai 16 tuổi Kpă Ó căm hận giặc Mỹ nên đã tình nguyện vào đội du kích xã Ia Phìn. Nhờ sự dìu dắt của các chú các anh và nhất là các chị trong đội du kích làng Bạc, Kpă Ó trưởng thành và tiến bộ nhiều lên. Chị đã biết vót chông, dụ địch sập bẫy, sử dụng súng, lựu đạn thành thạo. Cùng với các nữ du kích làng Bạc, Kpă Ó đã trực tiếp tham gia chiến đấu hàng chục trận chống càn, cùng chị em phá vỡ âm mưu lập ấp, xây đồn trên chính quê hương mình…
Kpă Ó nhớ lại một trận đánh: “Ồ, mình nhớ lời Bác kêu gọi đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào nên dù mình nhỏ nhất đội du kích, mình vẫn xung phong nhận nhiệm vụ quan trọng là đón đoàn xe tăng địch. Mình mừng lắm nên nghĩ kế gài đúng hướng địch sẽ đi qua. Hôm đó 4 chiếc càn thì 2 chiếc xe tăng bị mình dẫn dụ đã chạy vào bãi và trúng 4 quả mìn gài sẵn, nổ tung tan xác. Trận đó chúng thiệt mạng hàng chục tên, cuộc hành quân bị bẻ gãy…”. Và chính nhờ chiến công đầu tiên đánh xe tăng bằng mìn, mở màn cho những sáng tạo đánh giặc ly kỳ của người Jrai, Kpă Ó đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Mùa hoa qùy năm nay
Câu chuyện bỗng nhiên dừng lại, Kpă Ó cười bật thành tiếng, rồi vui vẻ kể:“Năm 1973 ra Bắc dự đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua, không còn Bác Hồ nên mình chẳng có cơ hội cầm tay và báo công với Bác. Nhưng lần ấy mình có… một chuyện tình với một người đấy, cũng là người đồng bào Jrai thôi.”
Tôi tò mò hỏi: “Ai vậy chị?”.
“Ông Rơ Mah Peng đấy, chúng mình quen nhau tại đại hội, ông ấy ba lần đạt danh hiệu là “Dũng sĩ diệt Mỹ”, còn được gặp Bác Hồ nữa chứ! Yêu nhau cách trở 3 năm vì ai cũng lo học thêm văn hóa, chính trị, lo chiến đấu…Mãi sau này mình mới có điều kiện đi “bắt” ổng về làm chồng. Chẳng tốn heo, tốn gà gì hết vì chúng mình đều là người làm cách mạng cả, tổ chức chấp thuận là mình “bắt” ngay. Nhưng sau ngày hoà bình thống nhất năm1975, chúng mình mới chính thức lấy nhau. Năm ấy hoa quỳ nở đẹp lắm!”.
Hiện giờ, gia đình Kpă Ó đang nhận khoán chăm sóc 3 ha cà phê của Công ty Cà phê tỉnh Gia Lai. Lương công nhân khoảng 1 triệu đồng/tháng, Kpă Ó dùng để nuôi đứa con gái bị nhiễm chất độc da cam và mấy con bò. Cũng như nhiều bà con làng Bạc và các vùng khác trong xã Ia Phìn, cách đây hơn 10 năm, dự án phát triển cây cà phê của Gia Lai đã thu hút nhiều người tình nguyện vào làm công nhân cho nông trường. Cuộc sống dân làng Bạc từng bước được cải thiện, đã khác xưa. Nhà Kpă Ó không còn thuộc diện nghèo đói nữa mà đã có gạo trữ trong bồ, có ngô treo đầy sàn bếp và đàn lợn ủn ỉn đầy dưới chân nhà sàn. Đêm đêm, ánh điện sáng choang nơi nhà rông văn hóa xã, Kpă Ó và lũ làng vui vầy bên ghè rượu, cười hát vang núi. Chị bảo: “Đồng bào mình ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành rồi, đúng với mong ước của Bác Hồ, chắc Bác cũng vui cái bụng nơi chín suối. Mình nhớ Bác dặn rằng: Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Hán, Gia Rai hay Ba Na, Ê Đê hay Mơ Nông… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt nên mình lúc nào cũng dặn lũ thanh niên đừng có nghe lời bọn Đề Ga lừa phỉnh. Và làng Bạc của mình chẳng ai nghe lời chúng, bọn thanh niên trai tráng tin cái lời mình hơn, chúng biết Tây Nguyên là đất mẹ, các dân tộc là anh em mà!”. Và dù đã gần bước sang tuổi 57, nữ anh hùng Kpă Ó vẫn hồn nhiên, dẻo dai như cây pơ mu của núi rừng. Kpă Ó rủ chúng tôi uống rượu ghè: “Đông thế này uống rượu vui phải biết”. Nhìn gương mặt hiền dịu nhưng sạm nắng vì cuộc sống bươn chải, nắm lấy đôi bàn tay chai sần vì phải lo gánh vác gia đình như mọi phụ nữ Jrai (mẫu hệ) khác…, tôi đã chúc cho Kpă Ó mãi mãi tràn đầy sức khỏe, để từng ngày ngắm những mùa hoa quỳ khoe sắc trên núi Chư Prông.
Bá Tuế - Hương Giang
(Báo SGGP- 1-5-2007)
(Báo SGGP- 1-5-2007)
Chuyện về người Anh hùng ở miền biên giới
Về miền biên giới Đức Cơ, Gia Lai hôm nay nghe kể chuyện Anh hùng Rơ Mah Klum [1] ai cũng thán phục. Người dân ở đây gọi ông là Anh hùng "chân đất" bởi luôn sống giản dị, gần gũi với bà con buôn làng, hết lòng giúp đỡ mọi người. Riêng cảm nhận của tôi, Rơ Mah Klum là người anh hùng đặc biệt xuất sắc và có lòng tốt cống hiến cho nhân dân, Tổ quốc…
Hôm về biên giới Đức Cơ gặp Anh hùng Rơ Mah Klum trong niềm cảm xúc của những lính vùng biên. Bây giờ tuổi cao, ông sống thật đơn giản trong căn nhà rộng chừng 50m2 nằm giữa khu làng Mới, ngôi làng thắm đượm tình quân dân của những người lính Công ty 74, Binh đoàn 15 xây dựng. Trong căn nhà nho nhỏ, với những vật dụng đơn sơ của một người Anh hùng thật mộc mạc, chân quê nhưng thắm đượm nghĩa tình ấy đã giúp chúng tôi nhớ lại kí ức một thời đã qua của một người Anh hùng.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Rơ Mah Klum hầu như đã in đậm dấu chân và kỷ niệm trên vùng đất Tây Nguyên. Tháng 3-1959, Rơ Mah Klum vượt rừng theo bộ đội đánh Mỹ. Từ người giao liên thuở ban đầu đi theo bộ đội đến khi trở thành chiến sĩ cách mạng đánh giặc giỏi, Rơ Mah Klum luôn trọn một tấm lòng là yêu thương đồng bào. "Mình đánh đuổi giặc Mỹ để cứu đồng bào thoát nạn bom đạn chiến tranh" - Rơ Mah Klum nói. Năm 1966, Rơ Mah Klum vinh dự được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam và trở thành người chiến sĩ cách mạng tiên phong trong mọi phong trào, nhiệm vụ được giao.
Khi đất nước hòa bình, Rơ Mah Klum lại suy tư một nỗi niềm phải làm sao để giúp mọi người thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Ông đau trước nỗi đau về đồng bào mình hàng ngày vẫn còn thiếu cái ăn, cái mặc. Chính vì lẽ ấy, năm 1993 về nghỉ hưu ở làng và Rơ Mah Klum quyết thực hiện tâm nguyện giúp dân phát triển sản xuất xóa đói giảm nghèo. "Mình là cán bộ, đảng viên trong thời bình phải làm sao giúp đỡ bà con dân làng có cái ăn, cái mặc, giúp trẻ em ở làng phải được đến trường…" - Rơ Mah Klum nghĩ vậy nên đã quyết tâm hành động. Được sự giúp đỡ của Công ty 74, Binh đoàn15, Rơ Mah Klum khởi xướng với chính quyền địa phương đồng ý di cư một số hộ dân ở vùng sâu, vùng xa ra vùng thuận lợi vừa có đất sản xuất, chỗ ở phù hợp giúp bà con ổn định cuộc sống.
Về miền biên giới Đức Cơ, Gia Lai hôm nay nghe kể chuyện Anh hùng Rơ Mah Klum [1] ai cũng thán phục. Người dân ở đây gọi ông là Anh hùng "chân đất" bởi luôn sống giản dị, gần gũi với bà con buôn làng, hết lòng giúp đỡ mọi người. Riêng cảm nhận của tôi, Rơ Mah Klum là người anh hùng đặc biệt xuất sắc và có lòng tốt cống hiến cho nhân dân, Tổ quốc…
Hôm về biên giới Đức Cơ gặp Anh hùng Rơ Mah Klum trong niềm cảm xúc của những lính vùng biên. Bây giờ tuổi cao, ông sống thật đơn giản trong căn nhà rộng chừng 50m2 nằm giữa khu làng Mới, ngôi làng thắm đượm tình quân dân của những người lính Công ty 74, Binh đoàn 15 xây dựng. Trong căn nhà nho nhỏ, với những vật dụng đơn sơ của một người Anh hùng thật mộc mạc, chân quê nhưng thắm đượm nghĩa tình ấy đã giúp chúng tôi nhớ lại kí ức một thời đã qua của một người Anh hùng.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Rơ Mah Klum hầu như đã in đậm dấu chân và kỷ niệm trên vùng đất Tây Nguyên. Tháng 3-1959, Rơ Mah Klum vượt rừng theo bộ đội đánh Mỹ. Từ người giao liên thuở ban đầu đi theo bộ đội đến khi trở thành chiến sĩ cách mạng đánh giặc giỏi, Rơ Mah Klum luôn trọn một tấm lòng là yêu thương đồng bào. "Mình đánh đuổi giặc Mỹ để cứu đồng bào thoát nạn bom đạn chiến tranh" - Rơ Mah Klum nói. Năm 1966, Rơ Mah Klum vinh dự được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam và trở thành người chiến sĩ cách mạng tiên phong trong mọi phong trào, nhiệm vụ được giao.
Khi đất nước hòa bình, Rơ Mah Klum lại suy tư một nỗi niềm phải làm sao để giúp mọi người thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Ông đau trước nỗi đau về đồng bào mình hàng ngày vẫn còn thiếu cái ăn, cái mặc. Chính vì lẽ ấy, năm 1993 về nghỉ hưu ở làng và Rơ Mah Klum quyết thực hiện tâm nguyện giúp dân phát triển sản xuất xóa đói giảm nghèo. "Mình là cán bộ, đảng viên trong thời bình phải làm sao giúp đỡ bà con dân làng có cái ăn, cái mặc, giúp trẻ em ở làng phải được đến trường…" - Rơ Mah Klum nghĩ vậy nên đã quyết tâm hành động. Được sự giúp đỡ của Công ty 74, Binh đoàn15, Rơ Mah Klum khởi xướng với chính quyền địa phương đồng ý di cư một số hộ dân ở vùng sâu, vùng xa ra vùng thuận lợi vừa có đất sản xuất, chỗ ở phù hợp giúp bà con ổn định cuộc sống.
Được sự tín nhiệm của chính quyền xã, ban đầu Rơ Mah Klum
chuyển gia đình mình đến nơi ở mới, sau đó đi đến từng nhà vận động bà con theo
mình. Làng Mới đồ sộ bây giờ khi ấy được bắt đầu vận động 3 đảng viên, 4 cựu
chiến binh và 12 thanh niên trẻ người Ja Rai ở 3 làng Ngo, Kla và Ghe tiên
phong đi đầu đến nơi ở mới. Khi ấy có người còn không chịu nổi "sóng
gió" buổi đầu bỏ làng Mới về với làng cũ. Rơ Mah Klum tất tả chạy ngược chạy
xuôi vận động, bỏ cả số tiền túi tích góp của gia đình để hỗtrợ cho những gia
đình khó khăn. Rơ Mah Klum cùng cán bộ chiến sĩ Công ty 74 chung sức bám dân
làng, cùng nhau vận động giúp đỡ bà con làm nhà, hỗ trợ gạo, cá khô, nước mắm,
xây dựng trường mầm non… để tạo thế yên dân.Sau việc đưa dân về vùng đất mới, ông bắt đầu vận động bà con đi làm cây lúa nước. Để làm gương cho bà con, gia đình ông đã tiên phong khai hoang 1 ha và tiến hành trồng cây lúa nước cho bà con làm theo. Mùa vụ đầu tiên thu về được 3 tấn thóc, Rơ Mah Klum mời bà con đến chia mỗi người một ít rồi chỉ cách làm cho bà con... Rồi cũng chính Rơ Mah Klum với cán bộ, chiến sĩ Công ty 74 vận động nhân dân biết cách trồng cây cao su với bộ đội, dần dần họ tiến đến việc nhận khoán vườn cây cao su để chăm sóc.
Từ chỗ đói đã dần được no, ấm và đổi đời từng ngày. Đến nay, đã có hàng trăm người dân của làng Mới vào làm công nhân cao su của Công ty 74 với thu nhập ổn định từ 2 đến 3,5 triệu đồng/người/tháng. Nhiều gia đình đã giàu lên, nhà nào cũng có ti vi, xe máy, sắm sửa nhiều vật dụng đắt giá trong gia đình. Làng Mới giàu lên và được công nhận là làng văn hóa cấp tỉnh.
Giúp được nhiều người dân sáng dạ, biết làm ăn, Rơ Mah Klum sướng cái bụng lắm nhưng ông vẫn chưa chịu yên. Ông nghĩ tương lai đất nước là phải giúp cho lớp trẻ hôm nay được học hành tử tế. Rơ Mah Klum hiến 2 mảnh đất của mình với tổng diện tích 3.750m2 để xây dựng trường học cho lũ trẻ đến lớp được thuận tiện hơn. Mỗi lúc đi làm, ông gặp những đứa trẻ mồ côi, cơ nhỡ thì đưa về nuôi, dạy dỗ cho thành người. 15 người con nuôi của Rơ Mah Klum bây giờ đều có cuộc sống ổn định.
Năm 2000 Rơ Mah Klum là người con Ja Rai đầu tiên của núi rừng Tây Nguyên vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Laođộng trong thời kỳ đổi mới. Cả làng Mới reo mừng vui cho Rơ Mah Klum. Ông được bà con tôn vinh như "Yàng" cứu đói cho buôn làng Tây Nguyên.
[1] RơMah Klum, dân tộc Jrai, quê xã Ia Dơk, huyện Đức cơ, tỉnh Gia Lai. Ngày được tuyên dương Anh hùng lao động: 26 - 8 - 2000 (chú thích của Website tỉnh
Gia Lai)
Ngọc Như


























Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét