Thơ - thi pháp và chân dung
Huỳnh Như Phương
Nhà văn
Đặng Tiến định cư và lập nghiệp ở châu Âu từ giữa những năm 1960, nhưng vẫn có
mặt trong đời sống văn học miền Nam với những bài phê bình thơ cổ điển và hiện
đại thường xuất hiện trên các tạp chí thời đó. Năm 1972, tập tiểu luận đầu tay
của ông nhan đề Vũ trụ thơ được xuất bản ở Sài Gòn. Hơn một phần ba
thế kỷ sau đó ông không hề in sách, dù sự theo dõi và quan tâm không lúc nào
ngưng nghỉ của ông đối với văn học dân tộc luôn được ghi dấu trong những bài
viết tài hoa trên các phương tiện truyền thông, gần gũi với chúng ta là các
báo Văn nghệ, Thanh niên, Đất Quảng, Sông Trà…
Trong
chuyến về thăm quê nhà vào dịp Tết Kỷ Sửu, ông mang theo tập bản thảo Thơ
- thi pháp và chân dung mà nhà xuất bản Phụ Nữ vừa cho ra mắt
bạn đọc.
Lớp độc
giả lâu năm của Đặng Tiến gặp lại ở đây những cảm nhận và phân tích mà
ông thể hiện từ thời trẻ tuổi về Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Đinh
Hùng, Hoàng Trúc Ly… Cùng với điều đó, người ta cũng có thể ngạc nhiên
nhận thấy sự suy ngẫm từ rất sớm, và càng ngày càng sâu sắc, của tác giả về lý
thuyết thơ, khi ông tìm hiểu và vận dụng quan niệm của những nhà thi pháp học
hàng đầu như Roman Jakobson, Claude Lévi-Strauss, Nguyễn Tài Cẩn vào công việc
phê bình văn học.
Với
một người say mê và có chí hướng, làm việc ở một trung tâm khoa học có điều
kiện thuận lợi về tài liệu và thông tin như Paris, thì khả năng giới thiệu các
quan niệm và phương pháp phê bình không phải là điều lạ. Nhưng phải nói là đặc
biệt, từ ngàn trùng xa cách với đời sống văn nghệ đang biến đổi từng ngày của
đất nước, Đặng Tiến tạo dựng cho mình một thế giới văn chương Việt Nam thu nhỏ
đủ để ông có thể sống, suy tư và cảm xúc như từ trong nguồn của nó.
Coi
trọng chức năng thi ca của ngôn ngữ, nhưng Đặng Tiến thực ra không phải là nhà
phê bình hình thức luận. Cứ xem những gì ông viết về thơ Thế Lữ, Xuân Diệu,
Quang Dũng, Văn Cao, Lê Đạt, Bùi Giáng, thì thấy ông còn tiếp cận những chân
dung sáng tạo đó từ góc độ biểu cảm cá nhân và góc độ quy chiếu về chân dung xã
hội. Một thái độ cân bằng như vậy về khoa học cũng đi liền với một thái độ công
bằng đối với những giá trị, đồng thời là công bằng với chính thị hiếu và sự cảm
thụ đa dạng của bạn đọc. Điều đó cắt nghĩa cách viết uyển chuyển trong những đề
tài có thể là khó viết đối với một người ở xa xôi cách trở - cả về không gian
lẫn về tâm thức - như thơ kháng chiến chống Pháp, thơ Chính Hữu, Vũ Cao, Phạm
Tiến Duật. Nhưng dù phải hòa giải với truyền thống phê bình đã kiến tạo nên tầm
đón nhận quen thuộc của bạn đọc, Đặng Tiến vẫn giữ cho ngòi bút mình ưu thế của
những phân tích nghệ thuật, những khám phá và liên tưởng về chiều sâu của biểu
tượng văn hóa.
Có lẽ
không phải ngẫu nhiên khi Đặng Tiến để hai bài viết về ca dao và dân ca quan họ
ở cuối tập sách, như một lời chia tay. Hãy chia sẻ với tâm tình của người viết
những dòng này ở bên bờ sông Loiret: “Thế hệ chúng ta còn may mắn tiếp xúc với
dĩ vãng của dân tộc qua những văn bản ca dao, những làn điệu ghi âm hay vài ba
buổi trình diễn. Nhưng không khí dân gian thì đã xa xăm. Điệu hò mái đẩy não
nùng tiếng sương, lời chào giã bạn nửa đêm về sáng và tiếng hò lơ trong rừng
tràm rừng đước, chúng ta còn được nghe những điệu hát đã tách rời ra khỏi không
gian…Chúng ta là những đêm rằm đã mất ánh trăng” (tr. 455).
Và có
ẩn ý gì không khi Đặng Tiến kết những trang sách tái ngộ quê hương ở hai câu ca
dao: Ra về răng được mà về/ Bức thư ai gửi lời thề ai trao…? Ai đó sẽ
giải mã giùm chúng ta: đây là nói với ánh trăng trên dòng sông Loiret hay với
đêm rằm hò hẹn nơi quê cũ?
(*)
Tiểu luận phê bình của Đặng Tiến, NXB Phụ Nữ, 2009.
Huỳnh
Như Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét