Hương đồng gió nội
Từ lâu lắm rồi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã từng bước
mang lại những lợi ích, tiện nghi trong công việc và trong đời sống, hầu như
trong lĩnh vực nào, máy móc cũng thay thế sức người để nhắm đến năng suất và hiệu
quả cao hơn. Ngay trong sản xuất nông nghiệp, từ ngàn đời quen thuộc với hình ảnh
con trâu cái cày, với người nông dân chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng
cho trời, thì việc cơ giới hóa đã được áp dụng rộng khắp ở tất cả mọi công đoạn
với đủ chủng loại máy cày, máy bơm nước, máy gặt, máy xay… Giữa bộn bề
khói bụi, có ai lắng hồn nhớ lại một thuở thanh bình ngày xưa, nghĩ về cảnh “hôm
qua tát nước đầu đình…”, “trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy
con trâu đi bừa…”, “trời mưa trời gió, đem đó ra đơm, chạy về ăn cơm, chạy ra
mất đó…”? Có ai nghe những điệu hò cấy lúa, hò đạp nước, hò giã gạo…
trên làn sóng điện hay tại những buổi trình diễn công cộng mà nhớ lại hay tưởng
tượng được khung cảnh và hoàn cảnh thực sự của những câu hò điệu hát này? Tìm
đâu những hình ảnh sinh hoạt đó, và những công cụ gắn liền với đời sống một xã
hội nông nghiệp? Hãy thử đến với Nhà Trưng Bày Nông Cụ của Xã Thủy Thanh, huyện
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, tại khu vực Cầu Ngói Thanh Toàn.
Chiếm một diện tích khiêm tốn ở phía trái nhìn từ cửa vào,
góc ngư cụ trưng bày những đồ dùng đánh bắt tôm cá ở sông, hồ, ao, hói…, mọi
người có thể nhìn thấy chiếc ghe đánh cá, và hàng chục thứ khác
như lưới, sáo, nơm, chẹp sưa, chẹp dày, đơm tôm, đơm cá, nò, sẩy, chuôm, lờ,
đó…, mỗi thứ có công dụng riêng, dùng trong những tình huống khác nhau, không
phải là ngư dân khó mà phân biệt được.
Về nông cụ thì phong phú hơn, dạo quanh đây một vòng là có thể
hình dung ra quy trình lao động của người nông dân để làm ra hạt gạo. Trước
tiên là cày, bừa, trục, khi bắt đầu làm đất. Lại có cả hình ảnh con
trâu với người nông dân tay cầm roi, người khoác chiếc
áo tơi (áo khoác đan bằng cói hay lá kè, có thể vừa che mưa vừa chống lạnh).
Sau khi cấy lúa còn phải đưa nước vào ruộng, với xe
đạp nước, các loại gàu dai, gàu sòng, gàu vảy, lúc lúa chín thì
có liềm, hái... để thu hoạch. Hạt lúa đem về được đựng trong thúng,
mủng, khối lượng lớn thì phải có ví, bồ mới chứa đủ.
Hạt lúa phải được tách cái vỏ cứng bên ngoài (vỏ trấu) ruột của nó mới là hạt
gạo, công việc này cần đến cái cối xay lúa. Trước khi xay, lúa phải
được phơi khô và quạt sạch và phải xay làm sao để cho sạch lúa và gạo không bị
nát. Tài tình cách nào thì gạo xay ra vẫn còn lẫn lộn vỏ trấu và lúa còn sót lại,
bấy giờ là việc của xe quạt lúa và của các thứ lỉnh kỉnh khác
là nia, sàng, giần. Cái nia bằng tre, hình tròn, mặt phẳng, đường
kính khoảng 1m. Bỏ từng nhúm gạo mới xay vào nia, hất tung mớ gạo lên rồi
hứng lại. Động tác này gọi là sảy, gạo được hứng lại trên nia, còn vỏ
trấu nhẹ bay ra và rơi xuống đất. Loại được vỏ trấu, nhưng lúa vẫn còn lẫn
trong gạo, tiếp theo là công đoạn sàng gạo. Cái sàng tương
tự như cái nia nhưng nhỏ hơn và có lỗ thưa để lọt hạt gạo. Xoay tròn cái sàng
thật nhịp nhàng, kết hợp với sảy và lắc thì lúa sẽ túm lại ở giữa còn gạo lọt
xuống nia. (Thành ngữ lọt sàng xuống nia, thường dùng theo
nghĩa bóng, xuất phát từ đây). Đã có gạo rồi nhưng vẫn chưa xong, muốn gạo sạch,
trắng, còn phải giã, đó là nhiệm vụ của cái cối và cái
chày. Gạo đã giã xong vẫn còn lẫn với cám, ít vỏ trấu còn sót và ít gạo vỡ
hay là tấm. Vậy thì hãy kiên nhẫn làm thêm một động tác nữa để loại trừ các thứ
này. Đó là công đoạn sử dụng cái giần, dụng cụ giống như cái
sàng nói ở trên với các lỗ nhỏ hơn, tấm cám mới lọt xuống được còn hạt gạo
thì giữ lại.
Ngoài những nông cụ trên ở đây còn có nồi các cỡ (nồi bảy,
nồi năm, nồi ba), chén, tô, bát, mâm, thau, lu, vại, om ….
Như vậy, từ khi cày bừa đất để gieo hạt lúa, rồi gặt, xay,
giã, bao nhiêu công đoạn là bấy nhiêu công cụ, hầu như tất cả đều được sưu tầm
và trưng bày ở đây, giới thiệu với khách đến xem những hình ảnh tưởng chỉ còn
trong ký ức.
Tất cả những nông cụ, ngư cụ trưng bày ở đây trông thật lạ lẫm
với nhiều người. Họ nhìn thấy từng vật dụng, đọc bảng chỉ dẫn để biết tên nhưng
không phải ai cũng hiểu được công dụng của từng thứ, nói chi đến cách
thao tác. May thay, có một người túc trực sẵn nơi đây và sẵn sàng giới thiệu
cho khách từng nông cụ, tên gọi, cách sử dụng, nếu cần thì biểu diễn làm mẫu.
Đó là Mệ Ngảnh, năm nay đã 76 tuổi, tình nguyện làm việc này không lương, đổi lại
Mệ được dành cho một góc nhỏ để cái tủ bày bán hàng lưu niệm, là những vật phẩm
bằng tre, mẫu vật thu nhỏ các nông cụ trong phòng. Đây là những sản phẩm do
chính chồng Mệ làm ra bằng đôi tay khéo léo của mình, rất được du khách ưa
thích, làm không kịp bán.
Đi một vòng quanh phòng để giới thiệu từng loại nông cụ, Mệ
Ngảnh dừng lại trước các dụng cụ tát nước, gàu dai gàu sòng các cỡ, và cái xe đạp
nuớc. Mệ trèo lên xe vừa làm động tác mô tả việc đạp nuớc vừa nói. Trai gái ra
đồng làm việc, nắng nôi cực nhọc cũng biết hò đối đáp nhau cho đỡ mệt, rứa rồi
cũng nên tình nên nghĩa cả đó. Rồi Mệ cất tiếng hò:
- Hỡi anh đạp nước một mình
Cho em đạp với chung tình với anh.
Anh còn đạp nước nữa thôi
Cho em đạp với kết đôi nghĩa tình.
- Ơi em ơi, anh ngồi đạp nước ngó qua
Thấy em tát nước một mình anh cũng xót xa trong lòng.
- Ơi anh ơi hai đứa mình vô can vô cớ
Khi không mà gặp nhau trữa (giữa) đồng.
Vương lấy chữ tình đêm nhớ ngày thương.
- Ơi em ơi hai đứa mình không phải bà con thân thích
Không phải máu huyết mẹ sinh
Khi không mà gặp nhau trữa đồng
Mà thương đoạn nhớ đành
Đó là ông trời côi (trên) đã định
Ở góc bên phải của Nhà Trưng Bày chẳng có nông ngư cụ nào hết
mà là các vật dụng sinh hoạt, một cái quạt mo đặt trên một cái chõng (giường
nhỏ), hai chiếc gối, bên cạnh có treo một cái nôi, tất cả đều bằng tre. Tưởng
chừng như không có gì để nói ở đây, nhưng thật bất ngờ, Mệ vẫn dừng lại và kể:
Mới đầu vợ chồng thương yêu nhau lắm. Thằng chồng nói, kê đầu trên gối tre
không êm, em kê trên tay anh nì. Rứa mà tới khi con đầu lòng mới mấy tháng hắn
đã nghe ai đó dỗ ngon dỗ ngọt mà bỏ lơ con vợ. Làm thân đàn bà khổ lắm, con vợ
biết làm chi mô, cứ than thân trách phận như ri nì:
Ơi anh ơi, hai đứa mình đoạn tình bối rối
Anh không nhớ khi dang tay thế gối cho em kê.
Rượu nồng ai phục anh đã say mê
Anh quên tình chồng nghĩa vợ để mấy lời thề cho em mang.
Ơi anh ơi con chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Anh xa em rồi tội lắm anh ơi..
Chả thà anh không thương em thì thôi
Đã thương em rồi có một đứa con trẻ anh lại bỏ em khúc nôi nửa
chừng.
Ơi anh ơi em xa anh chưa đầy tháng
Mà nước mắt lai láng hết hai mươi tám đêm ngày.
Răng chừ nước ráo lòng may
Nước sông Hương hết chảy duyên nợ này em mới hết thương anh!
Cũng may là thằng chồng còn biết nghĩ, nghe con vợ nói rứa hắn
cũng động lòng mà quay trở lại
:
Thôi thì thôi em ơi
Răng chừ đá dựng bể tư,
Núi kia thành bình địa
Khi nớ anh mới dứt từ nghĩa em!
Hỏi Mệ Ngảnh mệ sáng tác những bài này thế nào, mệ nói thiệt
tình mệ có biết chi mô, mệ chỉ học bình dân học vụ, cả đời làm nông làm ruộng,
nhưng bày đặt hát hò đối đáp như ri thì quen lắm rồi. Tất cả là hò giã gạo cả
đó, bắt đầu môt người xướng “ khoan ơi khoan mời bạn hò là hò ờ ơ ớ khoan … “,
hò một câu thì mấy người khác đệm vô “ hờ ơ hớ ơ …” (gọi là “xô”) rồi cứ thế
cho đến hết bài. Cái nhà trưng bày ni, kêu là nhà truyền thống cũng được, xã
làm năm 2006, đến năm 2008 thì tu bổ thêm thắt vô nhân kỳ lễ hội chi đó trên Huế.
Khách về chơi đông lắm, Tây Ta đều có, thấy vui mệ mới đặt bài hò như ri:
Cầu Ngói Thanh Toàn có hàng cây xanh
Cây cao gió mát nở nhiều cành
Lại thêm điện đài xung quanh
Hỡi bà con ơi nhìn xem nhà truyền thống xã Tân Thanh
Hai nghìn lẻ tám rạng danh tuyệt vời.
Rứa mà họ vỗ tay ầm ầm. Họ thích thì mệ cũng vui.
Rời Nhà Trưng Bày qua cầu bước ra sân trước, khách đến chỗ
khu chợ buổi chiều vắng khách, hàng quán đã dẹp gần hết. Gần bờ sông có quán giải
khát khuất sau mấy hàng chậu cây cảnh, chỗ ngồi hướng ra sông Như Ý, chiều gió
lộng mát rượi. O chủ quán từ trong bước ra vồn vã. Phải là khách phương xa đến
thì tui tặng cho mấy câu hò:
Quê tôi có chiếc cầu xinh
Chiếc cầu rất đẹp uốn mình bắc ngang.
Tên gọi Cầu Ngói Thanh Toàn
Về cầu gió mát ngắm bảo tàng cây xanh.
Em về Cầu Ngói quê anh
Nếu em không biết để anh đưa về.
Lạ chưa, sao cái xã ở vùng quê lại có nhiều “nghệ sĩ nhân
dân” thế này? Chuyện vãn làm quen, lại càng ngạc nhiên khi nghe O Kình (tên O
chủ quán) nói: Tui còn đặt bài hò kể hết chuyện Lưu BìnhDương Lễ nữa đó. Chừ
không hò nhưng tui đọc cho mà nghe.
Dương Lễ:
Châu Long em
ơi tới đây anh hỏi
Có bạn hiền tên gọi Lưu Bình
Công danh vì ngộ chịu cảnh lênh đênh
Nay chừ em cầm đàn ra đi nuôi bạn
Thay thế mặt mình có đặng không?
Châu Long:
Vâng lệnh phu
lang trướng hạ
Thiếp thay chồng nuôi bạn thiếp sợ bỏ quá phòng không
Nuôi Lưu Bình hết khúc giang đông
Em sợ lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy lỗi đạo với chồng chàng ơi.
Dương Lễ:
Hỡi em ơi
Ơn hiền thê ngàn năm ghi tạc
Nghĩa hữu bằng bát ngát năm canh.
Thiếp cứ nuôi Lưu Bình kiếm đặng công danh
Dẫu lửa gần rơm lâu ngày có cháy cũng đành nàng ơi.
Châu Long:
Nghe lời chàng
phân qua mấy lời thật là đáo để
Dặm quan hà đâu kể bao nài
Sợ lòng quân tử tài cao
Em dời chưn qua khỏi cửa má hồng đào lạt phai.
Em đừng
đem lòng nghi ngại
Chữ chung tình kết ngãi phu thê
Em cứ nuôi Lưu Bình cho bảng yết danh đề
Ai có tấm lòng điêu chạ có nhật nguyệt đôi vành chứng minh.
Châu Long:
Nghe lời chàng
thề cùng nhật nguyệt
Chữ chung tình da diết keo sơn
Chàng đừng nghe tiếng quyển giọng đờn
Cứ y lời ấy thiếp nguyện xách nón mang vàng ra đi.
Dương Lễ:
Nhớ tới
Châu Long lệ tuôn đôi mắt
Nhớ tới bạn Lưu Bình ruột thắt tày da
Thiếp mà giữ trọn đào ba
Chàng nay đâu dám đắm nguyệt say hoa lỗi nguyền…
Đọc đến ngang đây nhìn ra trước sân thấy mấy cô gái Tây đạp
xe đi tới, O Kình vội vàng: Thôi để bữa khác, rồi chạy ra chào mời khách.
Thật đáng trân trọng sáng kiến của ai đó đã sưu tầm những
nông cụ phản ảnh nền văn minh nông nghiệp một thời và đem trưng bày ở đây như
là những di sản văn hóa cần được bảo tồn, lại càng có ý nghĩa hơn khi chúng được
đặt trong khu vực Cầu Ngói Thanh Toàn, đã được công nhận là một di tích lịch sử.
Mong sao việc làm này được tiếp tục, biến Nhà Trưng Bày thành một nhà bảo tàng,
phong phú hơn, đầy đủ hơn, kèm theo vật trưng bày là những bảng chỉ dẫn chi tiết,
giải thích hướng dẫn công dụng. Và ngoài nghề nông còn những ngành nghề cổ
truyền khác nữa, tưởng cũng nên lưu giữ lại. Nếu không thì tất cả sẽ chìm vào
quên lãng, một mất mát to lớn cho thế hệ trẻ muốn tìm về cội nguồn.
Và cũng thật đáng quý những người như Mệ Ngảnh, O Kình, rất
thoải mái tự nhiên gìn giữ phát huy những câu hò điệu hát đặc trưng của quê
hương, cũng là một thứ di sản văn hóa có giá trị.
Việc làm đầy ý nghĩa này, những con người bình dị này đã góp
phần làm cho hương đồng gió nội không bị bay đi ít
nhiều!.
THÂN TRỌNG SƠN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét