Huế với hồn thu tiền chiến
Kể từ khi Huyền Trân Công Chúa vì nước
ngàn dặm ra đi, hai châu Ô, Lý như những báu vật được vua Chiêm dâng lên, Huế
đã về với chúng ta. Rồi Huế trở thành thủ phủ của các Chúa Nguyễn, trở thành
kinh đô Phú Xuân thời Tây Sơn và tiếp theo là kinh đô dưới thời các Vua nhà
Nguyễn. Trong một thời gian dài Huế là trung tâm chính trị, văn hóa xã hội của
cả nước. Nhưng cái giá trị vĩnh cửu hơn của Huế là Huế đã xây dựng được một
tính cách văn hóa Huế. Đó là sự tổng hòa giữa thiên nhiên, lịch sử và học thuật.
Và cũng chính từ đó thu hút mọi người đến với Huế.
Thời tiết của Huế có bốn mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu,
Đông - Mùa nào hương vị nấy.
Hôm nay, ngày mai và ngày mai nữa đã và sẽ có bao
nhiêu nhà thơ đi về trên nẻo đường thu của Huế?
Riêng những nhà thơ Tiền chiến đã khắc họa được một
cách đầy ấn tượng về những ngày thu của miền đất sông Hương, núi Ngự mà từ lâu
mỗi lần đọc ta lại bắt gặp biết bao tình cảm lãng mạn, chân thành, thương mến,
hoài cảm.
Nói đến thơ viết về mùa thu không mấy ai không biết bài “Tiếng Thu” của Lưu Trọng Lư. Tác giả đã khắc họa một bức tranh đầy nghệ thuật nhưng lại chứa đựng nỗi niềm của con người thời đại: “Con nai vàng ngơ ngác - Đạp trên lá vàng khô”.
Nói đến thơ viết về mùa thu không mấy ai không biết bài “Tiếng Thu” của Lưu Trọng Lư. Tác giả đã khắc họa một bức tranh đầy nghệ thuật nhưng lại chứa đựng nỗi niềm của con người thời đại: “Con nai vàng ngơ ngác - Đạp trên lá vàng khô”.
Nỗi niềm ấy là nỗi niềm quạnh quẽ, hoang vắng, ngập ngừng
bước chân đi tới. Một lần nữa ta nghe tiếng lòng giữa mùa thu lạnh:
“Lòng anh như nước hồ thu lạnh.
Quạnh quẽ đêm soi bóng nguyệt tà.
Ngày tháng anh mong chầm chậm lại.
Hững hờ em mặc tháng ngày qua.”
Vỹ Dạ là một làng xinh đẹp của Huế mà có người
ví như viên ngọc bích trên chiếc nhẫn sông Hương. Bích Khê đã say đắm trước
vùng đất xanh biếc tre trúc ấy:
“Vỹ Dạ thôn, Vỹ Dạ thôn.
Biếc che cần trúc không buồn mà say”
(Vỹ Dạ - BK)
Đối với núi non, sông nước, thôn, làng là thế.
Còn với mùa thu Bích Khê đã miêu tả như sau trong bài thơ “Tỳ Bà”
“Nàng ơi! tay đêm đương giăng mềm.
Trăng đan qua cành muôn tơ êm.
Mây nhung pha màu thu trên trời.
Sương lam phơi màu thu muôn nơi….”
Vượt lên cả phong cảnh hiện thực để bắt gặp một
hồn thu lãng đãng của kẻ lãng du:
“Thu ôm muôn hồn hơi phiêu diêu
Sao tôi không màng: kêu em yêu.”
Và cuối cùng tác giả nhận ra:
“Ô hay buồn vương cây ngô đồng.
Vàng rơi! vàng rơi! Thu mênh mông”.
Một mùa thu khác của Huế đã được Quách Tấn ghi lại,
đó là mùa thu Huế sau ngày khói lửa của cuộc thế chiến thứ hai:
“Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng
Sầu vương lau lách lạnh thành hoang
… Gầy guộc gió sương tùng Thế miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Hương giang”
(Viếng thành Huế sau ngày khói lửa - Q.T)
“Rặng liễu đìu hiu đứng đợi tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt là vàng.”
(Đây mùa thu tới - X.D)
Mùa thu của Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu đều là những
mùa thu lạnh- lạnh không gian, lạnh thời gian và lạnh cả nỗi niềm. Cái lạnh
riêng và cái lạnh chung tất cả đều mang một chút hận, một chút xa vắng:
“Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”
(Nguyệt Cầm - XD)
Và để rồi khắc họa nhân vật thu:
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
(Đây mùa thu tới - X.D)
Còn Nguyễn Bính thì sao? Con người phiêu bạt
giang hồ ấy khi đến Huế dừng chân ở xóm Ngự Viên cạnh đường Gia Hội. Ở đây ngày
xưa và vườn Thượng Uyển, nơi muôn loài kỳ hoa dị thảo khoe hương sắc, chẳng
khác gì chốn tiên bồng, tiên cảnh mà nay thì khó tìm dấu vết, Với một tâm trạng
hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
Nguyễn Bính thương tiếc những bóng dáng của nàng Tôn nữ, dấu ngựa bạch của chàng Trạng Nguyên và của bao nhiêu điều khác nữa. Nay chỉ còn một mùa thu buồn giữa xóm vắng:
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
Nguyễn Bính thương tiếc những bóng dáng của nàng Tôn nữ, dấu ngựa bạch của chàng Trạng Nguyên và của bao nhiêu điều khác nữa. Nay chỉ còn một mùa thu buồn giữa xóm vắng:
“Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hài…”
(Xóm Ngự Viên – NB)
Trong bài thơ “Giời mưa ở Huế” Nguyễn Bính cũng
cho ta biết mùa thua ngày xưa của Huế trời mưa nhiều lắm, mưa dai dẳng, mưa kéo
dài không như bây giờ thời tiết đã thay đổi một cách quá quắt:
“Giời mưa ở Huế sao buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
…. Thu về lại giở gió heo may.”
Đối với Thanh Tịnh mùa thu gợi lại buổi học đầu
tiên của thời thơ ấu, còn Nguyễn Bính đến với buổi sáng Thu tựu trường như để
thể chiêm ngưỡng một vẻ đẹp thời hoa niên của các cô nữ sinh Đồng Khánh nết na,
kiều diễm.
“Những nàng thiếu nữ sông Hương
Da thơm là phấn, môi hường là son
… Gió thu cứ mãi trêu ngươi
Đôi thân áo mỏng tơi bời bay lên
Dịu dàng đôi ngón tay tiên
Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường.”
(Tựu trường - NB)
Ngắm nhìn một cách cụ thể như thế, nhưng trong
lòng vẫn cứ thấy có một khoảng cách, gập ghềnh, chơi vơi, mênh mông…
“Chừ đây bên nớ, bên tê
Sương thu xuống gió thu về bềnh bông”
(Lửa đò - NB)
Để rồi cuối cùng:
“Người về để lạnh phòng không
Thu rơi từng cánh cho lòng nhớ thương”
Văn Cao đã viết: “Huế là một nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 40.
Thơ và nhạc là điều tôi tìm nguồn từ ấy, có lẽ lịch sử và cảnh vật của cố đô có
những điều gây cảm xúc cho sáng tạo…”
Qua bút tích chúng ta thấy Văn Cao đã có thời gian gắn bó với
Huế, để rồi từ đó chúng ta có “Thiên thai, Suối mơ, Huế xưa, Một đêm đàn lạnh
trên sông Huế” và biết bao hình ảnh và ý tưởng của Huế bàng bạc trong các
tác phẩm khác của Văn Cao.
Riêng “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” mùa
thu đã hiện ra rất đặc biệt vừa hiện thực, vừa siêu thực. Những câu hỏi đặt ra
đã đánh động vào tâm thức của người đọc trước những biến thiên của lịch sử và
văn hóa mà Huế là chứng nhân.
“Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Tri âm nghe thử dây đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru”
Tử Kỳ mãi còn đi tìm Bá Nha, trên con đường tìm
kiếm ấy. tháng ngày đầy cả thương tích, đầy cả nhớ nhung:
“Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh”
(Một đêm đàn lạnh trên sông Huế - VC)
Có một điều rất lạ trong bài thơ Màu thời gian, Đoàn Phú Tứ không sử dụng
một chữ Huế nào cả mà ta vẫn thấy được cái “Màu thời gian tím ngát” ấy
là cái màu mùa thu của Huế, của các cô gái sông Hương. Và cái ‘Hương thời gian
không nồng - Hương thời gian thanh thanh” ấy là hương mùa thu của Huế.
Nhìn chung những bài thơ viết về mùa thu ở Huế của các nhà thơ Tiền chiến đều đượm nỗi buồn - Cái buồn của một thời lịch sử, của một giai đoạn đất nước nói chung, của Huế nói riêng, cái buồn của cả một thế hệ thi ca đáng trân trọng chứ không phải đáng giận bởi vì giữa cái buồn ấy lại ẩn chứa một khát vọng vượt ra, vươn lên một ngày xuân nắng ấm và sáng lạng - Nói như Yến lan:
Nhìn chung những bài thơ viết về mùa thu ở Huế của các nhà thơ Tiền chiến đều đượm nỗi buồn - Cái buồn của một thời lịch sử, của một giai đoạn đất nước nói chung, của Huế nói riêng, cái buồn của cả một thế hệ thi ca đáng trân trọng chứ không phải đáng giận bởi vì giữa cái buồn ấy lại ẩn chứa một khát vọng vượt ra, vươn lên một ngày xuân nắng ấm và sáng lạng - Nói như Yến lan:
“Không lẽ mùa thu lạnh
Mà vắng vẻ trước sau”
(Chim bạch câu - YL)
Và Chế Lan Viên:
“Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
….Chao ôi! mong nhớ! ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn”.
(Xuân - CLV)
Nhà thơ Bùi Giáng khi đến Huế đã để lại hai câu thơ:
“Dạ thưa! xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”
Vâng! núi Ngự còn đó! Sông Hương còn đây!
Riêng tôi, ngoài sông Hương núi Ngự ra sẽ còn mãi những bức tranh Thu của các thi sĩ tiền chiến khắc họa giữa bầu trời thi ca của Huế, Làm chứng nhân cho hồn người - hồn nước của một thời.
Riêng tôi, ngoài sông Hương núi Ngự ra sẽ còn mãi những bức tranh Thu của các thi sĩ tiền chiến khắc họa giữa bầu trời thi ca của Huế, Làm chứng nhân cho hồn người - hồn nước của một thời.
TIẾN THẢO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét