Không chỉ tại Việt Nam, âm nhạc Trịnh Công Sơn đã mở đường chinh phục
khán giả ở các quốc gia khác trên thế giới. Đây có lẽ là hiện tượng hiếm hoi của
nhạc ca khúc Việt Nam từ trước tới nay.
Ngay từ năm 1972, Trịnh Công Sơn đã được giải Đĩa Vàng của Nhật Bản
với bài Ngủ đi con, trong Ca khúc Da vàng, qua giọng hát Khánh Ly, phát hành
trên 2 triệu đĩa.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thời ở Đà Lạt
1. Trưa ngày 1/4 năm 2001, hàng chục cú điện thoại của bạn bè ở Sài
Gòn, Huế tới tấp phôn cho tôi báo tin dữ: “Trịnh Công Sơn... mất rồi !”. Ôi, nhạc
sĩ tài hoa của đất nước, người con thân yêu của Huế đã về cùng cát bụi! Mồng một
tháng Tư là ngày nói dối, hay là tạo hoá đùa trêu?...
Suốt đêm mùng một và ngày mùnmùng hai tháng Tư, hầu như cả
thành phố Huế mở nhạc Trịnh. Mới hôm nào đây anh Sơn ra Huế, nâng cùng bạn bè
chén rượu. Tôi ôm eo anh nâng lên xem anh độ bao nhiêu ký. “Ôi, sao anh nhẹ như
xốp thế này”. Anh xốp vì uống nhiều rượu và hút thuốc lá quá nhiều. Anh bị bệnh
tiểu đường và nhiều thứ bệnh nan y khác hành hạ bao nhiêu năm nay.
2. Trịnh Công Sơn là một tài năng âm nhạc độc đáo. Bảy năm Trịnh
Công Sơn về “với cát bụi”, đã có hàng chục sách viết về anh, cuốn mới nhất là tập
tùy bút “Cây đàn lia của Hoàng tử bé” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Âm nhạc Trịnh ngày càng lay động chiều sâu tâm thức người
nghe... Sống trong đời sống. Cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi. Để gió cuốn đi...
Không chỉ ở Việt Nam, âm nhạc Trịnh Công Sơn đã mở đường chinh phục
khán giả ở các quốc gia khác trên thế giới. Đây có lẽ là một hiện tượng hiếm
hoi của nhạc ca khúc Việt Nam từ trước tới nay.
Ngay từ năm 1972, Trịnh Công Sơn đã được giải Đĩa Vàng của
Nhật Bản với bài Ngủ đi con, trong Ca khúc Da vàng, qua giọng hát
Khánh Ly, phát hành trên 2 triệu đĩa. Trịnh Công Sơn có tên trong từ điển Bách
khoa Pháp “Encyclopédie de tous les pays du monde”.
Hiện nay nhạc Trịnh đã có mặt tại nhiều nước châu Á, châu Âu, châu
Mỹ... Có một chàng trai người Đức mang họ Trịnh luôn cùng bạn bè hát nhạc Trịnh
Công Sơn, có một cô gái Nhật Bản năm nào cũng sang Việt Nam để viếng mộ Trịnh,
có nhà nghiên cứu phương Tây John C. Schafer cũng viết cả cuốn sách Hiện
tượng Trịnh Công Sơn...
Đặc biệt, ngày 3/2/2004, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York đã
công bố “Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA). Sáu tên tuổi âm nhạc nổi
tiếng thế giới được giải thưởng lần này là Bob Dylan, Conuntry Joe McDonald,
Hary Belafonte, Joan Baez, nhóm Peter, Paul & Mary và Trịnh Công Sơn.
WPMA tôn vinh những người đã đem âm nhạc của mình cống hiến cho cuộc
đấu tranh vì hòa bình và nhân đạo trên thế giới. Đây là sự kiện âm nhạc quốc tế
lớn nhất Việt Nam từ trước tới nay!
Kể từ ca khúc đầu tiên Ướt mi công bố năm 1959, trải 40
năm sáng tác, Trịnh Công Sơn đã để lại di sản trên 600 ca khúc lay động lòng
người. Người ta chia ca khúc Trịnh thành “ba dòng”: trữ tình, phản chiến và giải
thoát bản ngã!
Lý thuyết là thế, nhưng tôi nghĩ dưới góc nhìn “hòa bình và nhân đạo”
thì hầu như ca khúc nào của Trịnh cũng là vút lên từ tận cùng sâu thẳm của tình
yêu cuộc sống và nỗi đau phận người.
Nhưng phải nói dòng ca khúc phản chiến, ca khúc vì hòa bình của Trịnh
Công Sơn đã góp phần vào cuộc chiến đấu vì hòa bình của nhân dân ta. Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho rằng: “...Từ năm 1966, trong vòng 10 năm, Trịnh Công Sơn là nhạc
sĩ phản chiến duy nhất ở “miền Nam” (trước giải phóng). Nhạc sĩ yêu nước thì có
nhiều người, nhưng nhạc sĩ phản chiến duy nhất chỉ có một“.
Những bài hát trong các tập Ca khúc Da Vàng và Kinh
Việt Nam, không mô tả chiến tranh, mà vạch ra những vết sẹo chiến tranh: Mẹ
cầu cho em. Tuổi xanh đừng biến mất...
Tiếng hát Trịnh Công Sơn là tiếng hát đòi được sống, đòi được làm
người, đòi được hưởng hạnh phúc trên đất nước thanh bình: Yêu quê hương nước
mắt lưng tròng. Người con gái ngồi mơ thanh bình... Người con gái chợt ôm tim
mình. Trên da thơm vết máu loang dần... Những ca khúc Chỉ có em, Chưa
mất niềm tin, Người con gái Việt Nam da vàng, Kinh Việt nam, Đại bác ru đêm,
Gia tài của Mẹ... luôn xoáy vào lòng vết thương nhân loại, cất lên như tiếng
kinh cầu nguyện cho số phận con người, nên có sức cuốn hút và lay động rất lớn:
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe
(Đại bác ru đêm)
Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe
(Đại bác ru đêm)
Không chỉ “phản chiến”, âm nhạc Trịnh Công Sơn ở Sài Gòn trước ngày
30/4/1975 còn công khai rất nhiều bài hát về nỗi khát khao thống nhất đất nước: Huế
- Sài Gòn - Hà Nội quê hương ơi sao vẫn còn xa...Việt Nam ơi còn bao lâu. Những
con người ngồi nhớ thương nhau... Ngày mai đây những con đường Nam-Bắc nở
hoa... Ngày vui lớn sẽ qua trăm cầu... Mẹ dâng miếng cau mẹ dâng ngọn trầu... (Huế
- Sài Gòn - Hà Nội). Trịnh Công Sơn đã cùng bè bạn hát va vang ở Sài Gòn ca
khúc Nối vòng tay lớnloan tin thống nhất đất nước đến mỗi gia đình!
Mỗi ngày tôi chợt ngồi thiệt yên
Chợt nghĩ quê hương, nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì đất nước cần một trái tim...
Chợt nghĩ quê hương, nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì đất nước cần một trái tim...
Nhiều năm sau chiến tranh, Trịnh Công Sơn vẫn ám ảnh về nỗi đau chiến
tranh và khát vọng hòa bình. Ca khúc Huyền thoại mẹ là một trong những
bài hát hay nhất về cuộc chiến đấu, hy sinh của nhân dân ta vì hòa bình và thống
nhất đất nước.
Anh Trịnh Công Sơn kể với chúng tôi trong một cuộc rượu ở Huế rằng:
“Dạo ra Quảng Bình, được nhìn bức ảnh mẹ Suốt tóc bay ngang trời chống thuyền
qua sông giữa bom đạn, rồi kết hợp với những thực tế cùng những câu chuyện nghe
được, tôi nghĩ đến mẹ của mình, viết thành bài hát...”.
Sau giải phóng 1975, sinh viên học sinh miền Nam phải đi đào mương,
làm thủy lợi khắc phục vết thương chiến tranh, có người cho rằng “Nhà nước cộng
sản đày đọa học sinh”.
Nhưng Trịnh Công Sơn đã làm ca khúc để động viên họ: Em ở nông
trường, em ra biên giới/ Có những bước chân đi không về... Có tình yêu lớn
bao trùm mọi thành kiến mới thấu hiểu được lòng người.
Trịnh Công Sơn viết về mùa thu Hà Nội hay da diết Hà Nội mùa
thu/ Cây cơm nguội vàng/ Cây bàng lá đằm kề bên nhau/ phố xưa nhà cổ/ mái ngói
thâm rêu... có thể coi là một trong những bài hát hay nhất về Hà Nội; anh
viết nhạc cho thiếu nhi Em sẽ là mùa Xuân của mẹ... cũng được trẻ em
cả nước hát mấy chục năm nay
3. Ở một khía cạnh khác, có thể nói ca từ của Trịnh Công Sơn là những
áng thơ hay. Đó là nhận xét của rất nhiều người. Nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc
Hiến gọi ca từ của bài hát Đêm thấy ta là thác đổ của Trịnh Công
Sơn là là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20. Ca từ cũng
là một phần làm nên sức sống dài lâu của âm nhạc Trịnh.
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi...
...Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi...
Để một mai tôi về làm cát bụi...
...Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi...
Bởi thế mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, khi làm tập sách: “Trịnh Công
Sơn - Một cõi đi về” đã chọn in riêng trên 60 ca từ của Trịnh, in thành những
bài thơ. Cách làm đó làm cho độc giả dễ nhận ra chất thơ bi tráng và sâu thẳm
trong ca từ của Trịnh. Nhiều lời ca từ cũng chính là những câu thơ hiện đại, ám
ảnh:
Nghe bao nỗi đau trên hai bàn tay
(Tôi đang lắng nghe)
Dưới vành nôi mọc từng nấm mộ
(Có một dòng sông đã qua đời)
Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không
Để gió cuốn đi...
(Để gió cuốn đi)
(Có một dòng sông đã qua đời)
Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không
Để gió cuốn đi...
(Để gió cuốn đi)
Trịnh Công Sơn có hàng ngàn câu thơ viết ra từ cõi tâm linh, từ sự
chiêm cảm của kiếp người. Ca khúc Trịnh là thế giới hiện sinh, cũng chính là tư
tưởng Phật Giáo hiện hữu trong máu của anh.
Huế là đất Phật. Trịnh bảo: “Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên
tình cảm thời thơ ấu của tôi”. Trịnh lại bảo: “Bậc thượng thừa của hiện sinh
chính là ông Phật”.
Những chữ như “hư vô”, “hư không”, “cõi đi về”, “Đóa hoa vô thường”,
ở trọ, cát bụi v.v... là ngôn ngữ Phật thường xuyên xuất hiện trong ca từ Trịnh: Con
chim ở đậu cành tre/ Con cá ở trọ trong khe nước nguồn/ Tôi nay ở trọ trần
gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời... Những lời ca đó mang màu sắc
triết học nhân sinh thăm thẳm.
4. Năm 1976, tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội rồi về Huế gia nhập đội quân
văn nghệ của tỉnh Bình Trị Thiên. Mặc dù đã hát nhạc Trịnh Công Sơn từ những
năm ở rừng miền Đông Nam Bộ, nhưng những ngày tháng ấy tôi mới được làm quen với
anh.
Đại hội Văn nghệ Bình Trị Thiên lần thứ nhất, Trịnh Công Sơn ngồi
bên bàn trước hội trường để thu tem phiếu lương thực và ghi tên đại biểu. Đó là
công việc hành chính ở cơ quan hội.
Anh tươi cười bắt tay từng người, đeo kính cận dày cộp ngồi đếm đi
đếm lại từng ô tem phiếu, vì thời bao cấp ấy, thiếu tem phiếu thì không thể nào
bù được, không thể báo cơm ở khách sạn cho đại biểu được!
Rồi anh cùng cơ quan lên Bình Điền, Cồn Tiên (Quảng Trị) cuốc đất
trồng sắn, khoai. Đất đồi thì cứng, thân anh thì mảnh mai, gầy yếu, cuốc được một
ngày bàn tay anh phồng rộp cả. (Bởi thế mà sau này có cây bút hải ngoại lu loa
rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường, lúc đó là Phó chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh đã đày đọa
Trịnh Công Sơn đi cuốc đất tăng gia chảy máu cả bàn tay!).
Trong lúc cả nước đói, ai cũng phải tăng gia lương thực, riêng gì
anh Sơn. Nhưng tôi thấy anh đi làm rất vui vẻ, vừa làm vừa hát. Anh còn đi tham
gia lao động tại công trường Nam Thạch Hãn... Không việc gì anh không làm.
Nhưng thời gian đó, dường như anh viết nhạc ít đi. Đó là sự thực.
Từng có lúc người ta cho rằng, nhạc Trịnh Công Sơn là “nhạc vàng”.
Một số người cực đoan còn cấm hát rất nhiều bài hát phản chiến của Trịnh vì họ
cho rằng Trịnh chống chiến tranh chung chung, không phân biết địch - ta, không
phân biệt chính nghĩa và phi nghĩa.
Thời kỳ đó, ở Huế người ta tổ chức một số cuộc họp để thảo luận về
âm nhạc Trịnh Công Sơn với cách mạng. Những người bạn của Trịnh như Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân đã tìm mọi cách nói cho các quan chức văn hóa biết
rằng, Trịnh Công Sơn là một người yêu nước, trước và sau năm 1975 đã viết nhiều
ca khúc cách mạng. Nhưng một số người vẫn chưa tin.
Ngay cả bài hát nổi tiếng Nhớ mùa thu Hà Nội viết năm
1984, cũng bị cho là “có vấn đề”, nên bị đình chỉ đến hơn 2 năm. Tất cả chỉ vì
câu hỏi lặp đi lặp lại: “Từng con đường nhỏ trả lời cho tôi”. Người ta suy diễn:
câu hỏi đó là câu hỏi gì, ai sẽ trả lời, đó là “biểu hiện hai mặt”.
Những người đó không hề biết hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng đa
nghĩa, câu hỏi ở trong trái tim mỗi người. Vì viết “nhạc vàng”, nhạc không phân
biệt “địch-ta”, nên mãi đến đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Trịnh Công Sơn mới
được “kết nạp” vào Hội nhạc sĩ Việt Nam!
Nhưng họp thì họp, nói thì cứ nói, cấm cứ cấm, mọi người vẫn hát, vẫn
nghe Trịnh Công Sơn! Có lẽ vì sự đối xử đó mà năm 1979, Trịnh Công Sơn đã chuyển
vào sống ở Sài Gòn và ngay lập tức được bầu vào Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn
học nghệ thuật thành phố, ủy viên điều hành Hội nhạc sĩ Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau này tôi thường lui tới căn hộ chung cư của Hoàng Phủ Ngọc Tường
ở đường Nguyễn Trường Tộ, bên bờ An Cựu, gần nhà thờ Phú Cam. Đây chính là căn
nhà Trịnh Công Sơn đã ở trong một thời gian dài.
Khi chuyển vào Sài Gòn, anh Sơn đã sang tên ngôi nhà cho vợ chồng
Tường - Dạ. Đứng bên ban công dưới hàng long não, nhìn ra bờ sông, nhìn qua
Thánh đường Phú Cam trong chiều sương tím Huế, nghe âm hưởng của cây lá, của
gió, của sông, của bước chân con gái đi bộ qua đường... Hoặc đi bộ dọc sông An
Cựu, qua cầu Bến Ngự lên chùa Phổ Quang, nơi Trịnh Công Sơn gửi pháp danh của
mình, nghe dế kêu trong cỏ, gió rì rào trong lá, tôi nhận ra đây chính là giai
điệu Trịnh Công Sơn!
Trịnh Công Sơn đã viết hàng trăm ca khúc ở căn phòng này. Lần ra Huế
dự “Đêm nhạc Trịnh Công Sơn quyên góp tiền giúp trẻ em nghèo học giỏi”, anh Sơn
nâng cùng anh em chén rượu Chuồn, tâm sự: “Trong lời bài hát của mình không có
một từ nào về các địa danh của Huế, nhưng toàn bộ âm nhạc của mình chính là Huế
đấy, Huế của kiếp người...”.
Vâng, trên 600 ca khúc của Trịnh Công Sơn để lại là một phần của Di
sản văn hóa Huế, sẽ còn tồn tại lâu với thời gian...
Âm nhạc Trịnh Công Sơn là âm nhạc vì con người nên ở lại mãi với hồn
người, không biên giới, “cao hơn mọi thành kiến trên đời” (chữ của Anh Ngọc).
Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới của Liên Hiệp Quốc là sự tôn
vinh ở tầm cỡ thế giới về Di sản âm nhạc của Trịnh. Đây cũng là sự tôn vinh một
nhân cách sống và bản lĩnh sáng tạo của một tài năng âm nhạc khác thường.
Trong dịp nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết một bản kiến nghị gửi Hội đồng Giải thưởng, đề nghị
tặng cho Trịnh Công Sơn một giải thưởng cao của Văn nghệ nước nhà. Đó là một đề
nghị chính đáng, vì Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ lớn, suốt đời vì quê hương,
con người mà viết...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét