Thơ là câu bắc bơ vơ
(Đọc tập thơ “Cho Người Tôi Thương Nhớ”
Có ông lão
lục tuần, một hôm bỗng “tổng kết” cái kiếp trần tục của mình bằng mấy câu như
thế này: “Khi ăn được, không cái ăn/ Khi học được, không cái học/ Chờ nhau thì
trăng đang tròn/ Gặp nhau thì trăng đã khuyết/ Ký cóp học vị học hàm/ Bằng chưa
trao, hưu đã quyết/ Bây giờ đang ngồi chờ chết/ Mới hay... chưa sống bao giờ”
rồi đặt tên bài thơ là “Bất cập”. Thật là một tấn bi kịch nghiệt ngã cho ông,
cho cả những thế hệ như ông. Bài thơ trào lộng thuộc vào hàng cao thủ, đau mà
vẫn cứ cười ha hả, bởi nó đúng đến nỗi… không “cãi” vào đâu được. Trước đó, vào
cái lúc bắt đầu “hưu” ấy, ông còn viết: “Ông lão lục tuần đi trong sương giá/
Sương giá không biết ông lão lục tuần...”. Ông coi cuộc đời này như sương giá,
hay lòng ông đã biến thành sương giá? Những người khác không nói làm gì, chỉ
xin những người vợ, người yêu, người bạn... đã từng làm cho ông ấm lòng chớ
giận. Ông không có ý trách móc gì cuộc đời này đâu.
Ông lão lục
tuần đó là thi sĩ Trần Ninh Hồ, người từng trải qua những “trận” tình yêu, tình
đời… ác liệt hơn mọi cuộc chiến tranh: “Ta là kẻ bị tình yêu truy nã/ Cuộc săn
lùng này không thể cải trang/ Tình yêu nhận ra ta từ trong tâm tưởng/ Dấu làm
sao vết tích những bàng hoàng.” (bài Nhận diện). Tập thơ tình: “Cho Người Tôi
Thương Nhớ” là ấn phẩm thứ mười hai trong đủ các thể loại truyện, thơ, kịch...
mà ông đã trình diễn chính thức trên văn đàn, chưa kể những sáng tác in rải rác
trong các tuyển tập, hoặc rơi rụng đâu đó trong lòng bè bạn, hay giữa chốn dân
gian mà chưa ai nhặt nhạnh, sưu tầm. Tập thơ khổ nhỏ, xinh xắn và dày dặn những
một trăm sáu mươi chín bài, chia làm ba phần có đề mục hẳn hoi. Phần một có
tên: “Hai mươi khúc đề từ”, phần hai có tên: “Thủa ấy”, phần ba là phần chủ yếu
với cái tên: “Bây giờ năm tháng vẫn qua”.
Nếu có thể
dùng mấy chữ để tóm tắt cả một tập thơ, như cái cách Khổng Tử xưa từng làm với
hơn ba trăm bài thơ của bộ Kinh Thi (*),
thì tôi cũng xin bắt chước tóm tắt tập thơ này của Trần Ninh Hồ trong ba chữ:
“Lòng Thời gian”. Trong tập thơ, hầu như bài nào cũng có những dấu ấn đậm đặc
của thời gian, không khó gì để nhận ra điều đó. Ngay bài đầu tiên (bài Hành
trình 1) đã là một triết lý về thời gian giữa nghệ thuật và sự tranh giành từng
khởi thủy trên Trái đất này:
“Hình như là
tiếng sáo
Sinh ra trước
mũi tên
Hình như là
ngọn giáo
Bài tiếp theo
(Hành trình 2),
thời gian là những kiếp cô đơn vằng vặc:
thời gian là những kiếp cô đơn vằng vặc:
“Thời gian
trôi kiếp lục bình
Từ hồng hoang
chẳng biết mình về đâu
Một hôm thấy
một cây cầu
Và ai với
bóng nông sâu một mình...”
Thời gian có
khi là cụ thể của bốn mùa, tứ thơ đầy tâm thế, quyết liệt và... hy vọng:
“Đông gió bấc
tuốt đi từng vòm lá
Mà mùa thu
gom nắng hong vàng
Đông còn ném
sang xuân những cuối cùng buốt giá
Em có là mùa
hạ đón ta sang?”
(Gửi mùa hạ)
Có khi thời
gian làm biến đổi cả sự vật để hóa thân thành hoài niệm. Những câu thơ da diết,
buồn và đẹp tuyệt trần:
“Thuở ấy tóc
ta như mun vậy
Và mắt em
thăm thẳm như trời
Bây giờ
mun... trắng như mây trắng
Bay mãi lên
trời. Thăm thẳm ơi”
(Nguồn gốc
loài mây trắng)
Có khi thời
gian chỉ là những mong manh sau, trước. Triết lý quá thành ra hơi… lý sự. Nhưng
lại là một nỗi niềm, hoặc ít ra cũng là một “kinh nghiệm” cần thiết... cho
những kiếp yêu đương:
“Nếu anh đến
trước nỗi nhớ
Cửa nhà chừng
phải gõ lâu
Nếu anh đến
trong nỗi nhớ
Cửa mở hết
mọi tầng lầu
Nếu anh đến
sau nỗi nhớ
Sẽ là khóa
lỏng, chìa rơi...”
(Có một lần
em nói)
Có khi thời
gian là một khoảnh khắc rợn người. Bài thơ chỉ bốn câu, đọc nhanh như gió
thoảng. Viết như thế này mà không bị khai trừ ra khỏi hội nhà văn... chính là
nhờ ở cái sự đọc nhanh ấy đấy. Đọc bài này phải “cẩn thận” với chữ “viết” ở câu
thứ hai. Hai câu sau cũng không “đùa” được. Đó phải chăng là những thế sự oan
uổng của một “thời” yêu ghét mù lòa, hay một thời tư tưởng a dua...?
“Chợt nhớ
một thời thơ
Chưa kịp viết
đã cũ
Chợt nhớ
những chồng vợ
Không một
ngày tình nhân”
Có (nàng)
thời gian dừng lại bởi đã hóa thành một ký ức không phai:
“Những con
tàu ngày một đúng giờ hơn
Đưa người đi,
đón người về, mãi mãi...
Riêng có một
con tàu chưa một lần trở lại
Là con tàu
ngày ấy tiễn em đi.”
(Có một con
tàu)
Có (nàng)
thời gian trôi đi như muốn bỏ rơi bén cái kiếp thi sĩ bạc bẽo:
“Thôi thì ta
đành về
Với câu thơ
tóc bạc
Như không làm
sao khác
Thời gian ơi,
thời gian...”
(Tiếng thời
gian)
Còn rất nhiều
nỗi lòng nữa của thời gian. Trần Ninh Hồ thi sĩ là người hiểu sâu sắc về cái
chiều thứ tư kì diệu ấy của vũ trụ: “Thời gian là cái thậm vô lý/ Vô lý, vô
nghĩa, lại vô hình/ Vô hình mà cứ như trói buộc/ Trói buộc nghìn năm ta với
mình...” (Cung quăng vần điệu). Ông muốn nguyền rủa những bất cập của thời
gian, nhưng đồng thời, ông cũng rất tỉnh táo và sòng phẳng với nó: “Bây giờ năm
tháng vẫn qua/ Xót thương lần lữa lại là xót thương/ Bây giờ lật khúc đoạn
trường/ Mới hay xưa cũng dặm đường đó thôi...” (Bây giờ năm tháng vẫn qua).
Vẫn cái lòng
thời gian thăm thẳm ấy, Trần Ninh Hồ cũng mượn biển để phổ thành thơ tình như
nhiều nhà thơ khác cùng thời với ông. Oái oăm thay cái đề mục biển với thuyền
ấy tuy dễ thành thơ đấy, song rất khó hóa thơ hay. Đơn giản bởi cuộc đời đã có
những câu thơ quá tuyệt vời về nó. Tập thơ có tới bảy bài viết về biển hoặc
liên quan đến biển, nhưng phải đến bài cuối cùng (bài thứ bảy), Trần Ninh Hồ
mới thành công. Bài thứ nhất (bài Hỏi) nghe lẩn thẩn, tắc tị và làm điệu như
thơ của học trò chép tặng nhau: “Em có tin là biển mặn không?/ Mà trong văn vắt
cũng như sông/ Mà vô tư gió, vô tư sóng/ Em có tin là biển mặn không?”. Bài thứ
hai (Ước) là một loại thơ tình phúng dụ, đọc lên nghe… mệt chết đi được, tuy
nhắc đến biển đấy, song chẳng liên quan gì đến biển: “Tàu tôi vượt trùng dương
đến đó phải buông neo/ Khi biển nông tàu tôi không vào được/ Em trong phố vẫn
xa vời con nước/ Ước khắc nào cũng có thủy triều lên”. Bài thứ ba (Biển và
trời) thì cố ra vẻ tình tứ, chữ nghĩa rất ghê mà vẫn… nhạt: “Tôi bảo em biển
xanh lẫn trời xanh/ Em nhìn tôi cái nhìn như muốn nói/ Biển rộng thế và trời
cao vời vợi/ Cao rộng rồi còn khoảng cách đâu anh”... Nhưng đến bài thứ bảy
(bài Gửi người trên biển) thì quả có cái gì đó khiến ta phải giật mình. Trần
Ninh Hồ đã rất thành công khi khai thác một khía cạnh bất ngờ của những cuộc
tiễn đưa. Không phải phân vân gì nữa, đây là một bài thơ tình hay viết về biển:
“Những con
tàu sẽ không dám nhổ neo
Nếu nó biết
sẽ nhòa vào thăm thẳm
Không phải ở
chân trời, mà nhoà phai đăm đắm
Trong mắt
người trên bến dõi trông theo!”
Những con tàu
không sợ bão tố phía chân trời, mà sợ sự lãng quên trong ánh mắt của người đưa
tiễn thì quả là ghê thật. Trong tập còn có một vệt thơ “chiều” rất lãng mạn,
vừa đúng tám bài hợp với bát quái. Mỗi bài tương ứng một quẻ, có thể dùng để
“bói” tâm trạng buồn nhớ, tiếc nuối... song vẫn chưa vợi đi chút nào cái món nợ
đa tình của thi sĩ lúc thân xác đã... xế chiều. Bắt đầu bằng bài: “Chiều sa”:
“Lặng bên em
cho đến phút chiều sa
Khóm hồng
chợt rực lên rồi thẫm lại
Lối em rẽ
sương chiều giăng mê mải
Tôi lại vườn.
Hoa cũng lẫn vào đêm”
Bài tiếp theo
(chiều nhớ) là một nỗi buồn thương, da diết và... cô độc:
“Chiều nay
nắng cũng lưng đồi
Cũng vàng mơ
tận cuối trời. Cũng tôi.
Người chiều
ấy đã muôn nơi
Chỉ còn tôi
với cuối trời. Vàng mơ...”
Đến bài chiều
thứ tám (bài Ảo ảnh) thì chiều hiện lên đẹp như ca dao. Tâm trạng của thi sĩ
như muốn níu lại điểm xuất phát của cái vòng Càn, Khôn muôn thủa:
“Ngoảnh vào
mới đó yêu thương
Ngoảnh ra tóc
đã mù sương mất rồi
Vàng phơi
nắng tận cuối trời
Nắng như bóng
áo của người tôi thương.”
Vệt thơ
“Chiều” này của Trần Ninh Hồ có thể làm “động lòng” bất kì ai có thói quen hoài
niệm. Nó làm tôi nhớ đến một câu hỏi đầy thảng thốt, kinh hoàng của thi sĩ Vũ
Hoàng Chương: “Ta đã làm chi đời ta?”. Câu hỏi đó chính là nhan đề một tập hồi
tưởng của vị thi sĩ tài hoa ấy. Cái nhan đề độc nhất vô nhị của thể loại hồi
tưởng tự cổ chí kim. Thi sĩ đích thực thì không thể giả dối đến nỗi phải né
tránh những quá khứ của mình.
Thơ Trần Ninh
Hồ dễ thuộc, dễ hiểu. Song để hiểu đến cái nhẽ tận cùng của tứ thơ thì thường
không phải chuyện đơn giản. Tập thơ có những bài thuộc vào hàng tuyệt bút, đầy
tư tưởng, thâm thúy mà nghe vẫn mượt mà như dân ca (ví dụ bài Thuyền và bến: “Ở
đây thuyền nhớ bến/ Bến có nhớ thuyền chăng?/ Làm sao thuyền biết được/ Khi bến
đã thành băng”; hay bài Dịu êm: “…Là khi khép một cánh chim/ Một trời nắng thắm
ngủ im lưng đồi…”; hoặc bài Bến bâng quơ: “Có hai người ở hai bờ/ Có con đò cũ
chẳng chờ sang sông/ Có cây gạo đỏ rực đồng/ Có ngày xuân đến mà đông không
tàn…”; rồi bài Nằm kề huyền thoại cũ: “…Sau lưng đường đỏ bụi/ Trước mặt núi mù
xanh/ Nằm kề huyền thoại cũ/ Mới hay/ mình/ độc hành”…). Có những bài đọc lên
thương đến lặng người (bài Mùa xuân này ta vẫn tìm em; bài Bây giờ năm tháng
vẫn qua…). Có bài rủ rỉ như kể chuyện bằng văn xuôi. Nhưng cái hồn vía thơ òa
ra ở câu kết thì thật là ấn tượng. Viết như thế này mà không sợ vợ giận thì
hoặc là người vợ quá vĩ đại, hoặc là thi sĩ đã quyết vì thơ mà… thí thân:
“Người con
gái ta yêu sẽ là người có
giọng hát hay
nhất
Như giọng mẹ
hát ru từ thuở ấu thời
Nhưng mẹ đã
ra đi. Còn em thì chưa tới
Nên suốt đời
ta hóa trẻ mồ côi.”
(Mồ côi)
Cũng một thứ
thơ văn xuôi ấy, ông còn đem cả tình yêu ra “đùa” với cái nghề làm… chính trị:
“Người ta bảo
khi rắp tâm chiếm hữu một
thứ gì con
người rất hay nhân
danh và nói
dối
Tôi đã bật
cười buồn trước cái điều
triết lý rất
đáng buồn kia
Khi ngẫm lại
những ngày thật lòng yêu
em và cưới em
làm vợ
Cuộc “chiếm
hữu” này chẳng biết
nhân danh
ai!”
(Nhân danh)
Một nhà thơ
Ru - ma - ni đã từng viết, như một cách “định nghĩa” cho cái kiếp thi sĩ: “Đã
nhiễm vào đầu những kiến thức sâu xa/ Đã cháy thành tro một niềm khát sống/ Đã
chết lặng người trước một tia mắt phượng/ Và với Anh, cái chết hóa chuyện
thường…” Trần Ninh Hồ thi sĩ quả đúng với “định nghĩa” ấy. Ngoài tình yêu với
cuộc sống, với cái đẹp, ông còn là một người uyên bác và sâu xa. Ở ngoài đời,
cái lối ông thường thốt lên khi bất chợt nghe ai đó đọc một câu thơ hay thì
không lẫn vào đâu được. Nó chân thật và cảm động tận đáy lòng thi sĩ, nó chứng
tỏ một trình độ kiến giải thi ca vô cùng thâm hậu nơi ông. Có cảm giác rằng ông
chỉ chấp nhận để thi ca nói lên những gì tinh túy nhất, phổ quát và chắt lọc
nhất của cuộc đời, và chính ông cũng từng đạt đến điều đó. Ông như một nhà tư
tưởng về thơ. Ông muốn thơ phải “đối thoại” tới tận cùng thủy tổ của mọi loại
đối tượng, cái thiện cũng như cái ác, cái tử tế cũng như sự đểu giả, tình yêu
cũng như nỗi chán chường… Có phải vì thế mà thơ ông, nhất là trong tập này, những
bài hay nhất thường là những bài thơ ngắn? Dù ông có phản đối thì tôi cũng cứ
xin mạn phép mà công nhận rằng thơ ông càng ngắn càng hay.
Tôi sở dĩ nói
tới điều đó bởi trong tập có một vệt thơ viết về một thời chinh chiến, viết
trong thời chinh chiến mà ông từng trải qua. Phần lớn đều là những bài thơ dài,
và phần lớn đều ở mức... đạt yêu cầu (!). Trong đó có những bài chắc được rút ra
từ những tờ báo tường đại đội, hoặc tiểu đoàn, trung đoàn... gì đó, tương đối
thích hợp với… công tác tuyên truyền.
Dù sao thì
cái thời chinh chiến ấy cũng qua rồi. Ông lão lục tuần ấy đã không còn lạ gì
bụng dạ của nhân tình thế thái. Nhưng “lòng thời gian” của ông thì từ lúc nào,
đã luyện thành trong trẻo, sâu xa, đã bỏ lại hết sau lưng những đắng cay một
thủa rồi, chỉ duy có tình yêu là không bỏ được mà thôi: “Dấu làm sao vết tích
những bàng hoàng”... Bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn thích được nghe ông rung đùi
tự ngâm một bài tứ tuyệt hay không kém Đường thi: “Người suông tớp rượu nhạt/
Ngắm bình rạn hoa ôi/ Gặp Kinh Kha bạn cũ/ Khoe cặp vé... khứ hồi”.
(*) Chú thích:
Khổng Tử tóm tắt tuyển bộ Kinh Thi trong ba chữ: “ 思 無 邪 “ (tư vô tà - nghĩa là tâm tư, ý nghĩ trong
sáng, không hề gian tà, vẩn đục).
Tháng 6/2006
Phạm Lưu Vũ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét