Bài thơ “Hoàng hoa” cũng như khá nhiều bài thơ khác của Bích
Khê, từ khi xuất hiện cho đến tận gần đây, chắc chắn vẫn gây nên những cách đọc
cách hiểu khác nhau. Thậm chí có người không chỉ cho là khó hiểu mà còn cho là
vô nghĩa. Đương thời, tức là vài ba năm sau khi tập thơ “Tinh huyết” được xuất
bản, trong một bài hài đàm trên tờ “Dân Báo” ở Sài Gòn năm 1941, chính Phan
Khôi (ký bút danh Thông Reo) đã dẫn một đoạn thơ ở bài “Hoàng hoa” rồi chất vấn:
“Lam nhung” là gì? “Xanh nhung” là gì? “Chim yên” là gì? “Xương cây” là gì? –
Và tự trả lời để nêu nhận xét: Chẳng có nghĩa gì cả! [1]
Chính bài hài đàm này đã bị những địch thủ đương thời của thơ
mới trong báo “Tiếng Dân” ở Huế được dịp hả hê reo lên: ông Phan Khôi, người cổ
vũ thơ mới, đã quay lưng với phong trào này rồi! [2] Sự việc vỡ ra
theo cách ấy đã khiến Phan Khôi phải viết liền hai bài báo [3] để cải
chính rằng trước sau ông vẫn cổ vũ thơ mới, còn những nhận xét về câu chữ rút từ
tập thơ kể trên chỉ là để nói cần viết văn cho có nghĩa mà thôi.
Cố nhiên, ngay cái lý của Phan Khôi khi đó, thật ra, vẫn chưa
phải là “cùng kỳ lý” mà chỉ bộc lộ giới hạn quan niệm của chính người khởi xướng
thơ mới, theo đó, dù sao các câu thơ mới cũng phải quy được về một ngữ pháp có
thể hiểu được! Phan Khôi chỉ có thể quan niệm thơ mới ở dạng những sáng tác dù
lãng mạn vẫn cần phải duy lý, trước nhất là duy lý về cú pháp, về ngữ nghĩa,
như thơ Thế Lữ, Xuân Diệu; ông không chấp nhận các sáng tác với những chất liệu
siêu thực tại, nhất là được diễn tả trong những cú pháp và ngữ nghĩa phi lý như
thơ Bích Khê, Hàn Mặc Tử.
Trở lại bài thơ “Hoàng hoa”.
Văn bản bài này trong tập “Tinh huyết” (in xong
ngày 30/12/1939 tại nhà in Thụy Ký, Hà Nội) có sự khác biệt so với
văn bản bài này đăng tuần báo “Tiểu thuyết thứ Năm” (số 30, ra ngày 11/5/1939).
Trong tập “Tinh huyết” bài này chỉ gồm 18 dòng thơ, tách làm
3 khổ, mỗi khổ 6 dòng thơ.
Trên “Tiểu thuyết thứ Năm”, bài này gồm 24 dòng thơ, tách
thành 6 khổ, mỗi khổ 4 dòng thơ. Một số câu ở bản này đã không còn ở tập “Tinh
huyết”:
− Hai dòng đầu:
Chiều đi trên đồi êm như tơ,
Chiều đi trong người êm như mơ,
− Toàn bộ khổ thơ thứ 5:
Bên kia, Hàm Dương; đây, Tiêu Tương,
Tơ lòng nâng cao lên mành Dương!
Nay hoàng hôn rồi mai hôn hoàng,
Ngoài ra, ở
bản đăng báo kể trên, có khá nhiều từ viết chữ hoa: (chim, non) Yên, Hoàng hoa,
Oanh, Quyên, Đào, Phù dung, Hàm Dương, Tiêu Tương, (mành) Dương...
Các từ trong
mỗi dòng thơ đôi khi có khác biệt:
Lam nhung ô! màu ngưng lưng trời,
(“Tiểu thuyết thứ Năm”)
Lam
nhung ô! Màu lưng chừng trời,
(“Tinh huyết”)
đáng chú ý nhất là hai dòng thơ cuối bài:
− Ai xây bờ oan trên xương người?!
− Ai xây mồ hoa chôn xuân tươi?!
(“Tiểu thuyết thứ Năm”)
− Ai xây bờ xanh trên xương người?!
− Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!
(“Tinh huyết”)
Ở bản đăng báo, ngoài bài thơ của Bích Khê còn có lời dẫn nhập,
− cũng có thể gọi là lời bình, − của chủ bút “Tiểu thuyết thứ Năm” Lê Tràng Kiều.
Và ở cuối bài thơ, phía trên dòng ghi tên tác giả là Bích Khê Lê Mộng Thu, còn
có dòng đề tặng: “Kính tặng Đ. Thị Điểm”.
Có lẽ, mấy lời đề tặng này đã làm rõ ra rất nhiều về cảm hứng
sáng tác của tác giả. Chính mấy chữ đề tặng này đã khiến chủ bút Lê Tràng Kiều
có thể cất lời mời công chúng bằng giọng chắc chắn: “…các bạn hãy theo
khúc HOÀNG HOA, đưa tâm hồn đến với những người chinh phụ đang trông chồng nơi
“ngàn khơi” kia!”
Quả vậy. Khi đề tặng Đoàn Thị Điểm (1705-1748), điều rõ ràng
là nhà thơ Bích Khê nhớ tới bản dịch “Chinh Phụ Ngâm” mà ở thời gian ấy hầu như
chỉ hoàn toàn gắn với tên bà. Thời gian ấy cả văn giới lẫn công chúng Việt Nam
đều chưa hề biết đến việc tác phẩm chữ Hán của Đặng Trần Côn (17xx – 17xx) được
nhiều người dịch, chưa hề biết đến việc bản dịch thịnh hành phổ biến nhất − và
có lẽ hay nhất – lại có nhiều khả năng gắn với tên tuổi Phan Huy Ích
(1751-1822) hơn là với tên tuổi bà Điểm. [4]
Nhắc đến Đoàn Thị Điểm ở đây chắc chắn là nhắc đến bản nôm
“Chinh Phụ Ngâm”. Vậy là những tên đất như Yên, Hàm Dương, Tiêu Tương,
Dương..., những tên chim tên hoa như Oanh, Quyên, Uyên, Đào, Phù dung, Hoàng
hoa… − đều là “trích xuất” từ “Chinh Phụ Ngâm”. Ngay cái từ gọi “Chàng” cũng vậy.
Ở đây chỉ không xuất hiện từ tự xưng “thiếp” trong khúc ngâm chinh phụ kia, vì
đã được thay bằng “ta”; và như để tương thích với thời đại, ngay “chàng” cũng
được đặt vào một chuyển hóa với “tình lang”.
Đặt trong sự tương ứng rõ rệt với thế giới của “Chinh Phụ
Ngâm”, sẽ chẳng khó khăn gì để thấy rõ toàn bài “Hoàng hoa” như là một khúc trữ
tình của người chinh phụ đang ngóng chồng vào một buổi chiều thu. Nỗ lực nhiều
nhất của nhà thơ ở đây, có lẽ không phải là tạo những hàm nghĩa tiềm ẩn hay tân
kỳ, mà chính là tạo ra một nhạc điệu. Một nhạc điệu, như Lê Tràng Kiều ghi nhận,
là “rất êm rất nhẹ”, do “ghép toàn bởi những tiếng bình thanh” (tức là dùng
toàn thanh bằng). [5]
Đương nhiên ai đọc “Hoàng hoa” cũng không thể xem thường cái
ý được gói vào hai dòng thơ cuối bài, dù là
− Ai xây bờ oan trên xương người?!
− Ai xây mồ hoa chôn xuân tươi?!
(“Tiểu thuyết thứ Năm”)
Hay là:
− Ai xây bờ xanh trên xương người?!
− Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!
(“Tinh huyết”)
Câu hỏi về kẻ gây ra cái “bờ oan” (hay “bờ xanh”) xây trên
xương máu những chinh phu nơi tiền phương, câu hỏi về kẻ gây ra cái “mồ hoa”
chôn mất “xuân tươi” (hay “đời tươi”) những phụ nữ mỏi mòn nơi hậu phương, −
chính là sự tiếp nối và gia tăng tiếng nói phản chiến, của nhà thơ Bích Khê trước
những tâm sự đã mã hóa vào thi ca của các bậc tiền bối, − Đặng Trần Côn, Đoàn
Thị Điểm, − nhân danh quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc thông thường của con
người.
Bài “Hoàng hoa” được công bố năm 1939, năm mà những tin tức về
cuộc thế chiến thứ hai đang khởi lên từ châu Âu đang gia tăng độ ám ảnh lên dư
luận tại Việt Nam. Tức là, ở một phía nào đấy, bài thơ này động đến một
trong những lo âu vẫn chưa thôi đeo bám trong hồn dân Việt, tính đến thời gian ấy.
Và thời gian đã cho thấy ám ảnh kia là thực, như chúng ta đã biết.
Chú thích:
[1] Thông Reo: Chuyện hàng ngày: Một tai nạn của
văn học// Dân Báo, Sài Gòn, s. 605 (25 Juin 1941), tr. 1, 4.
[2] Mính Viên: Việt ngâm thi thoại: Lời nói đầu//
Tiếng Dân, Huế, s. 1594 (9 Juillet 1941); Chuông Mai: Chuyện đời: Phải
chăng đã đến ngày mạt vận của thơ mới?// Tiếng Dân, Huế, s. 1595 (12
Juillet 1941); Mính Viên: Cùng ông Thông Reo và ông Phan Khôi trong “Dân Báo” về
chuyện thơ mới// Tiếng Dân, Huế, s. s. 1602 (6 Août 1941).
[3] Phan Khôi: Báo “Tiếng Dân” nói sai, tôi không
hề công kích thơ mới// Dân báo, Sài Gòn, s. 627 (23 Juillet 1941), tr. 1, 3;
Phan Khôi: Sau khi đính chánh báo “Tiếng Dân”: Ý kiến tôi đối với thơ mới//
Dân báo, Sài Gòn, s. 628 (24 Juillet 1941), tr. 1, 2.
[4] Nhận định bản Nôm “Chinh Phụ Ngâm” hiện hành
là dịch phẩm của Phan Huy Ích − là nhận định của Hoàng Xuân Hãn (Chinh Phụ Ngâm
Bị Khảo, Paris, 1953), nhận định này được củng cố thêm bởi Lại Ngọc Cang (Chinh
Phụ Ngâm, Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu, Nxb. Văn học, H.,
1964).
PHỤ LỤC:
Toàn bài
HOÀNG HOA trên “Tiểu thuyết thứ Năm”:
Chiều đi trên đồi êm như tơ,
Chiều đi trong người êm như mơ…
Lam nhung ô! màu ngưng lưng trời,
Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi…
Vàng phai nằm im ôm non gầy;
Chim Yên eo mình nương xương cây.
Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa;
Đông nam mây đùn nơi thành xa…
Oanh già theo Quyên: quên tin chàng!
Đào theo Phù Dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi,
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi.
Theo chàng ta làm con chim Uyên…
Làm mây theo chàng bên nhung yên…
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng
− Hồn ta? Hay là hồn tình lang?
Bên kia, Hàm Dương; đây, Tiêu Tương;
Tơ lòng nâng cao lên mành Dương!
Nay hoàng hôn rồi, mai hôn hoàng:
Trông gương buồn dơ cho dong nhan!
Non Yên tên bay ngang muôn đầu…
Thâm khuê oan gì giam xuân sầu?
− Ai xây bờ oan trên xương người?!
− Ai xây bờ oan trên xương người?!
Ai xây mồ hoa chôn xuân tươi?!.
(Kính
tặng Đ. Thị Điểm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét