Mới đây tại Hà Nội đã ra mắt bộ sách “Tổng tập nghìn năm
văn hiến Thăng Long”. Các phóng viên đưa tin về buổi lễ ra mắt bộ sách này
(Thể thao & Văn hóa, 28/5/2009) đã trích lời ông Vũ Khiêu, chủ tịch hội đồng
biên soạn bộ sách, nói rằng: chất lượng và hiệu quả của bộ sách sẽ do độc giả
sau này đánh giá! Tức là ý ông muốn nói: quyền đánh giá công trình này chỉ thuộc
về tương lai!
Vậy thì người của ngày hôm nay có lẽ sẽ không được phép đánh
giá công trình này? − Đây là điều cần hỏi lại những người đã tham gia biên soạn.
Riêng người đang viết những dòng này thì nghĩ rằng: mỗi bộ sách, mỗi công trình
biên khảo xưa nay nói chung, những điểm khả thủ (hoặc bất cập) của nó có thể chỉ
bộc lộ thật rõ sau một thời gian không ngắn; song nếu nghĩ rằng ở thời điểm vừa
xuất xưởng, người ta chỉ có thể được nói đến nó bằng những lời ngợi ca, − thì
đó chỉ là tâm lý của những người quen làm thứ hàng lễ lạt, không phải sự suy
nghĩ thực tế.
Mặc dù chưa được cầm tận tay các cuốn sách của công trình
này, người ta vẫn có thể cảm nhận phần nào tính chất không thiết thực của những
người biên soạn. Quả vậy, một bộ sách tổng cộng 12.000 trang khổ 20,5 x 31 cm,
chia làm 4 quyển, nặng 25 kg, giá bán 4 triệu đồng, mà lại tham vọng “có mặt ở mỗi
cơ quan, mỗi gia đình, mỗi nhà quản lý, mỗi nhà khoa học”, − như lời chủ
tịch hội đồng biên soạn trong lễ ra mắt bộ sách − thì thật là một ao ước viễn
tưởng, nhất là khi ta đem đặt nó bên cạnh các thống kê về sự thụ hưởng sách báo
tính theo đầu người của dân số Việt Nam hiện tại.
Nhìn qua ảnh chụp và xem thông tin lại cũng đã thấy từng cuốn
của bộ sách này quá dày và nặng, khá đặc trưng cho phong cách hãnh tiến của lối
làm sách lễ lạt hiện nay: mỗi cuốn sách đã quá khổ (khổ 20,5x31cm đối với sách
là khổ lớn rồi!), lại quá nặng (khoảng trên 6 kg) và quá dày (khoảng 6.000
trang), chỉ gây ấn tượng “hàng khủng” khi đem trưng bày, triển lãm, nhưng sẽ rất
khó sử dụng, vì rất mau hư hỏng, rất sớm bị tuột chỉ, đứt gáy, v.v... Sự đọc
(trừ việc đọc “báo chữ to” ra!) vốn là việc của từng người, cho nên dễ hiểu là
vì sao nền xuất bản ở các nước tiên tiến thường hướng đến việc làm ra những cuốn
sách khổ nhỏ hoặc vừa, giấy nhẹ bìa mềm, có thể cầm đọc khi ngồi khi nằm tùy
thích, lại thuận tiện cho người ta đem theo khi đi máy bay, khi gửi theo tàu biển
tàu hỏa đi khắp thế giới, bởi nghĩ rằng sách luôn gắn với các sinh hoạt con người.
Trong khi đó, một bộ phận trong nghề làm sách ở ta đang đua theo kỷ lục khổ lớn
dày trang; đã có những cuốn sách đạt đến khổ 40x60cm, nay lại thấy những cuốn
sách dày đến 6.000 trang; − các kỷ lục này chỉ đặc trưng cho những cuốn sách
mà, sau khi làm ra, sẽ được đặt cố định ở một vị trí đẹp trong những nội thất
sang trọng quyền quý, chứ rất ít khi được mở ra xem đến, càng khó được đem theo
mỗi cuộc đi để có thể thao thức với mỗi con người!
Song những điều nói trên chưa phải là điều chủ yếu muốn nói
trong bài này. Điều chủ yếu tôi muốn trao đổi với những người biên soạn bộ sách
nói trên và giới biên khảo nói chung là nhận định sau đây.
Theo nhận biết sơ bộ thì đây là một công trình biên khảo mang
tính chất bách khoa thư, vậy mà ban biên soạn lại đặt cho nó cái tên gọi
là “Tổng tập”, − đó phải chăng là công trình biên khảo này đã bị gọi
sai tên?
Trước hết, tính chất bách khoa thư của công trình này là rất
rõ. Hôm nay ta hãy căn cứ vào những lời miêu tả công trình này của chính ông Vũ
Khiêu, chủ tịch hội đồng biên soạn, trong lễ ra mắt bộ sách. Ông nói rằng bộ
sách này “đã phần nào phác họa được một bức tranh toàn cảnh về văn hiến Thăng Long
và trở thành bộ sách để giúp độc giả tra cứu và thu nhận những kiến thức
tối thiểu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thủ đô ngày xưa và hôm
nay”. Ở một chỗ khác, có lẽ vẫn là lời ông Vũ Khiêu (qua tường thuật của
phóng viên Thể thao & Văn hóa), bộ sách này đã được ví với “một bảo
tàng, một thư viện thu nhỏ về Hà Nội. Nó cung cấp cho độc giả tất cả những
gì muốn biết về Kinh Kỳ - Kẻ Chợ. Với khối lượng kiến thức khổng lồ ấy, bộ sách
được chia làm 28 phần, phản ảnh về Thăng Long - Hà Nội trên nhiều bình diện: Địa
lý, địa chất, lịch sử, kinh tế, văn hóa, danh lam thắng cảnh, đặc biệt là các
loại hình nghệ thuật như: văn học, kiến trúc, hội họa... trải qua hàng nghìn
năm phát triển, rồi toàn cảnh về các vương triều: Lý, Trần, Lê...”
Những lời miêu tả của chính người đóng vai trò chủ chốt trong
ban biên soạn bộ “Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long” như trên,
thiết nghĩ, đã đủ cho thấy đây chính là một công trình bách khoa thư về
văn hóa Thăng Long-Hà Nội, hoặc một công trình địa chí văn hóa Thăng Long-Hà Nội.
Vậy thì, thưa trên 1200 soạn giả của bộ sách vừa ra mắt, tại
sao quý vị không gọi tên nó là “Bách khoa thư văn hóa Thăng Long-Hà Nội” hay “Địa
chí văn hóa Thăng Long-Hà Nội”?
Quý vị hẳn biết, loại sách có nội dung tổng hợp như thế, ở
Đông Á trung đại xếp vào loại sách gọi là “loại thư”, tương đương với khái niệm
“bách khoa thư” của Tây Âu; chỗ khác nhau chỉ là bách khoa thư của Tây Âu sắp xếp
các nội dung theo trật tự bảng chữ cái, còn những bộ sách tương tự ở Đông Á thì
phân chia và sắp xếp nội dung theo từng môn loại. Bộ sách về văn hiến Thăng
Long vừa công bố, trên nét lớn được chia thành 28 phần, tức là 28 môn loại; −
điều này cho thấy nó được làm theo kiểu “loại thư”, tức là sách tập hợp tri thức
bách khoa về một vùng đất Thăng Long-Hà Nội. Sự thực hiển nhiên là thế.
Vậy thì vì sao lại đặt cho nó cái tên (mà theo tôi là hoàn
toàn sai lệch) là “Tổng tập” ? Chẳng lẽ chỉ cần biết “tập” là gom lại,
“tổng” là tất cả mọi thứ, rồi quyết định đặt ra tên ấy, bất chấp việc tìm hiểu
truyền thống và tập quán trứ thuật của các thế hệ xưa nay?
Theo tôi hiểu, từ “tập” có mặt trong nhiều tên sách của các
tác gia Việt Nam từ thời trung đại, là có nguồn từ quan niệm Cổ Trung Hoa
về các loại hình sách: “kinh, sử, tử, tập”, v.v… “Tập” có khi dùng để gọi tên
các cuốn sách đơn, nhưng ở thời trung đại thì thường được dùng để gọi các sưu tập
thi văn hay trứ thuật của cả một đời người (ví dụ “Giới Hiên thi tập” là
sưu tập cả một đời thơ Nguyễn Trung Ngạn, “Nhị Khê tập” là tên sưu tập
thơ văn cả đời Nguyễn Phi Khanh, v.v…); mỗi thi tập, văn tập, vì vậy, bao giờ
cũng gắn với đơn vị tác gia. “Tập” cũng được dùng để gọi những sưu tập mang
tính chất liên tác giả, hoặc tập hợp những nhóm tác phẩm theo dấu hiệu cùng thể
tài, đề tài, v.v…, ví dụ “Việt âm thi tập” (1433) là tuyển thơ của
các thi gia Việt Nam do Phan Phu Tiên biên soạn, “Quần hiền phú tập” (1457)
là tuyển các tác phẩm thể phú của tác gia Việt Nam do Hoàng Tụy Phu biên soạn,
v.v…
Chính kiểu tập hợp và cách gọi tên các sưu tập tác phẩm ở thời
trung đại đã gợi ý cho cách làm và cách gọi tên các bộ tuyển mang tính tổng kết
thơ văn ở thời hiện đại. Từ giữa thế kỷ 20 đến hiện nay, trong thực tế xuất bản
ở miền Bắc Việt Nam, đối với từng tác gia, hai thể tài sách thường được dùng là
“tuyển tập” và “toàn tập”; đối với các công trình tập hợp tác phẩm của nhiều
tác giả, ta đã thấy xuất hiện các tên gọi “tuyển tập” và “hợp tuyển”, ví dụ “Tuyển
thơ Việt Nam 1945-1960” do Xuân Diệu chủ trì, hoặc bộ “Hợp tuyển thơ
văn Việt Nam” gồm nhiều tập, được thực hiện ở miền Bắc từ giữa những năm
1950 đến giữa những năm 1970.
Tên gọi “tổng tập” chỉ xuất hiện vào khoảng năm 1977-79, khi
hình thành dự án “Tổng tập văn học Việt Nam” do Nxb. Khoa học
xã hội chủ trì, gồm 36 tập, tập 1 khởi từ bài “Nam quốc sơn hà…”, tập 36 là thơ
văn Hồ Chí Minh.
Theo tôi nhớ, từ “tổng tập” đưa ra hồi đó đã gây nhiều phản ứng
khác nhau, có phía đồng tình, lại có phía phản đối. Người ta cảm thấy chữ “tổng”
này như là đặc hiệu của thời bao cấp (các cửa hàng tạp hóa được gọi là “bách
hóa tổng hợp”, trường dạy các môn khoa học cơ bản được gọi là “đại học tổng hợp”,
v.v…, như là một cách phiên chuyển những “UNIVERMAG”, “UNIVERSITET” của Nga
Xô-viết!). Song, từ “tổng” ấy dù sao cũng chấp nhận được, vì nó diễn đạt ý niệm
“nhiều”, lại đi với “tập” vốn vẫn diễn đạt ý niệm tác gia. Chính ý niệm tác gia
như cái đơn vị chủ thể trong tổng tập ấy đã là cơ sở để, từ sau 1986, bộ “Tổng
tập” này được nới rộng ra, ví dụ làm thêm tập 29B để đưa vào đó các
tác phẩm của Vũ Trọng Phụng; nhiều tác gia và mảng tác phẩm khác cũng được đưa
thêm vào theo cách như vậy. Khi mà cái tên “tổng tập” có vẻ đã mặc nhiên đứng
được, từ những năm 1990 trở đi, lại thấy thêm đôi ba bộ sách được đặt tên tương
tự, ví dụ “Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam”, “Tổng tập văn học Phật
giáo Việt Nam”,
“Tổng tập văn học dân gian người Việt” − ở đây đơn vị có thể không chỉ là tác gia, mà là tác phẩm. Cũng cho là được đi! Song phải ghi nhận chiều hướng chung là cái tên gọi “tổng tập” đang bị lạm dụng.
“Tổng tập văn học dân gian người Việt” − ở đây đơn vị có thể không chỉ là tác gia, mà là tác phẩm. Cũng cho là được đi! Song phải ghi nhận chiều hướng chung là cái tên gọi “tổng tập” đang bị lạm dụng.
Trở lại bộ sách về văn hiến Thăng Long được biên soạn theo kiểu
sách tri thức bách khoa lại được đặt tên là “Tổng tập”: đơn vị của nó có phải
là tác gia hay không? Hẳn là không!
Tất nhiên sẽ có lối đáp “đánh bùn sang ao” bằng cách nói rằng
sách nào chẳng có tác giả (tác giả = soạn giả)!
Song điều cần trả lời nghiêm túc là: bộ sách này được dựng
trên cơ sở đơn vị nào? − tác gia hay tri thức?
Căn cứ vào những dấu hiệu khái quát đã biết, có thể khẳng định
rằng bộ sách này không phải là một sự tập hợp các tác phẩm của những tác gia nhất
định (ví dụ cùng có “quê” là Hà Nội, đều viết về Hà Nội, …) mà là sự tập hợp
các loại tri thức (lịch sử, địa lý, địa chất, kinh tế, văn hóa, v.v…) về vùng
Thăng Long-Hà Nội từ xa xưa đến hiện tại. Tóm lại, từ “tập” ở đây không trỏ đơn
vị tác gia (hay tác phẩm) như một vài bộ “tổng tập” ta đã biết. Vậy chữ “tập”
này trỏ cái gì? − Thiết nghĩ, chỉ các vị trong hội đồng biên soạn ra bộ ấn phẩm
quá đồ sộ này mới có câu trả lời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét