Bài viết
“Văn học nhìn từ lý thuyết trung tâm - ngoại vi” (Văn nghệ, s. 28, ra ngày
13/7/2013), của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, theo tôi, có những kiến giải
thiên lệch về chính cặp phạm trù được đưa ra lý giải. Bởi vậy tôi thấy cần thảo
luận thêm.
Trước hết,
theo tôi, Nguyễn Văn Dân, trong bài báo dẫn trên, đã lầm lẫn khi đánh đồng cặp
phạm trù “văn học - cận văn học” với cặp “trung tâm - ngoại vi”. (Ở các bài viết
riêng, tôi dùng từ “ngoại biên” thay vì “ngoại vi”, nhưng để trao đổi với anh Dân,
ở bài này tôi cũng dùng từ “ngoại vi”, nội hàm khái niệm là một, tuy chữ Việt
dùng hơi khác nhau).
Đúng là ở từng thời đại và từng cộng đồng văn học cụ thể,
luôn có những thể tài được xem là chính yếu, lại có những thể tài chỉ được xem
là phụ, ít ý nghĩa. Chẳng hạn ở văn học trung đại Việt Nam, hệ thể tài
văn-thơ-phú-lục bằng chữ Hán, được xem là chính yếu, trong khi nhiều loại thơ
văn khác, kể cả truyện thơ, ca khúc, v.v… bị xem như những thể tài phụ, ít quan
trọng. Bước sang thời cận đại và hiện đại, hệ thể tài thơ-tiểu thuyết-kịch
nói-phê bình bằng chữ Quốc ngữ, theo mô hình các nền văn học Âu Mỹ đương thời,
trở thành hệ thể tài chủ đạo; đồng thời, những thể tài phi hư cấu như nhật ký,
thư từ, hoặc các thể tài hư cấu như truyện võ hiệp, sách trinh thám, v.v… thường
được coi là “cận văn học” (para-litterature) tuy chúng luôn luôn có xu hướng
đòi trở thành các thể tài chủ đạo. Đây là những vấn đề về sự phát triển loại
hình loại thể văn học, ở đó yêu cầu da dạng hóa, dân chủ hóa, đòi bình đẳng giữa
các thể tài cũng luôn luôn là những nhu cầu thường trực.
Tuy vậy,
“văn học - cận văn học” không phải là nội hàm chính của vấn đề “trung tâm - ngoại
vi”.
Trong một
bài viết gần đây hơn, “Quan hệ trung tâm - ngoại vi nhìn từ góc độ văn hóa” (Nghiên
cứu văn học, số 9/2013), Nguyễn Văn Dân dường như từ bỏ cặp khái niệm “văn học - cận văn học” để nêu vấn đề “trung tâm - ngoại vi” từ phương diện tương quan
giữa các nền văn hóa, nhưng anh quá chú tâm vào vấn đề địa văn hóa, dường như lảng
tránh vấn đề “trung tâm - ngoại vi” ở bên trong địa hạt văn học.
Xin lưu ý
là, ở thời trung đại, cận đại, người ta cũng đã có ý thức so sánh các nền văn
hóa, gán cho văn hóa này là cao, là tinh tế, là ưu nhã, văn hóa kia là đơn sơ,
thậm chí là man mọi, thô lỗ, v.v… Ở những thời đại ấy, những kẻ đi xâm lược
mang rất nặng tâm thế thực dân, tư tưởng về sự ưu đẳng của dân tộc này so với
dân tộc khác còn được ngang nhiên truyền bá, quan niệm xã hội và con người thì
công nhiên mang tính đẳng cấp, v. v., song, trên thực tế, trong quan niệm văn học
hầu như chưa nảy sinh cặp khái niệm trung tâm - ngoại vi.
Những nhà làm từ điển có thể cho ta biết rằng, từ
“marginalia” được tác gia Anh Samuel Taylor Coleridge (1772-1834) sử dụng lần đầu
vào năm 1832 với hàm nghĩa “bên lề”, cụ thể là để chỉ những dòng ghi bên lề bản
thảo của các tác giả, hoặc những ghi chú bên lề trang sách của nhà chú giải, và
được dùng như như một thể tài trong loạt bài báo của Edgar Alan Poe (1809-1849)
nhan đề “Marginalia” đăng tải những năm 1844 – 1849. [1] Tức là đến
những năm gần cuối thế kỷ XIX, “marginalia” vẫn chưa nảy nở thành “marginalism”
(ngoại biên, ngoại vi). Thuật ngữ và khái niệm “marginalism” (ngoại biên, ngoại
vi), có thể nói, chỉ nảy sinh trong thời đại chủ nghĩa hậu cấu trúc và hậu hiện
đại, trong cảm quan phức tạp về thế giới của các giới trí thức sáng tác và trứ
thuật (Ở đây không đề cập đến “marginalism” như một thuật ngữ chỉ một khuynh hướng
trong kinh tế học, nảy sinh ở châu Âu từ những năm 1870).
Theo tôi hiểu, “trung tâm - ngoại vi” trong văn học nghệ thuật
chủ yếu được người ta xem xét ở định hướng giá trị, và kèm theo đó, ở quy chế
xã hội (social status) của các hiện tượng văn học nghệ thuật.
Hãy nhìn vào ví dụ xưa nhất người ta tìm được: hiện tượng ngoại
vi vào loại triệt để nhất trong đời sống văn hóa châu Âu là phái Cynisme, bắt đầu
từ Antisthène (khoảng 450-360 tr. CN); chỉ cần biết cái nghĩa dịch ra tiếng ta
tên phái đó - “Vô Liêm Sĩ” - là có thể hình dung cái ý thức đối lập quyết liệt
của phái ấy đối với các truyền thống triết học và đạo đức đương thời, và/hoặc
ngược lại, sự miệt thị triệt để của quan niệm truyền thống đối với phái ấy.
Tất nhiên, trong những giới hạn nhất định của các nền văn học
dân tộc ở những thời đoạn nhất định, “trung tâm - ngoại vi” cũng có những diện
mạo cụ thể.
Để dễ hình dung hơn, xin hãy trở lại với đời sống văn học Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa những năm 1945-1976, hay hẹp hơn, đời sống văn học miền Bắc
những năm 1955-75. Được tập trung nghiên cứu và đề cao ở văn học Việt Nam trước
1945 là gì? Chính là những gì được gọi chung là “văn học cách mạng”. Biết bao
nhiêu nhà nghiên cứu, nhà giáo ở những trung tâm lớn như Viện văn học, như hai
khoa Văn hai trường đại học Tổng hợp và Sư phạm Hà Nội… đã tập trung đọc, tìm
tòi, nghiên cứu, phân tích, thảo luận về các tác giả tác phẩm thuộc mảng này. Hầu
hết các nhà xuất bản chuyên về văn học như Nxb. Văn học, Nxb. Văn hóa, Nxb.
Khoa học xã hội, v.v… đã giành các công trình xuất bản lớn, tuyển tập lớn, đổ dồn
vào khu vực được gọi là “văn học cách mạng 1930-1945”. Mà mảng văn học ấy, ngay
đương thời, ngay khi ra đời, chúng là gì? Chính là các hiện tượng “ngoại vi”!
Chính thế, ở văn học công khai trước 1945 hầu như không có sự
hiện diện của các tác phẩm của mảng văn học ấy, trừ một vài thời điểm đặc biệt,
coi như ngoại lệ (ví dụ việc xuất bản năm 1938 cuốn Ngục Kon Tum của
Lê Văn Hiến, hay một số tờ báo cộng sản được ra công khai, thời kỳ 1936-1939).
Trong sự quản lý của chính quyền trước 1945, chỉ có sự tồn tại của “văn học hợp
pháp”, và tất nhiên đó là “văn học công khai”, chứ không hề có khái niệm “văn học
cách mạng”. Trong cái không khí mà hai từ “cách mạng” không đến nỗi quá mắc mỏ,
người ta đã dùng nó để mệnh danh một vài hiện tượng nổi lên đương thời, chẳng hạn
Hoài Thanh vào năm 1941 đã gọi phong trào thơ mới khởi từ 1932 là “một cuộc
cách mệnh về thi ca” (Thi nhân Việt Nam 1932-1941, Huế, 1942). Nếu biết trước rằng
chữ “cách mạng” sau đấy dăm năm sẽ có hàm nghĩa khác và trở nên cao giá ra sao,
hẳn Hoài Thanh đã không dám viết như thế!
Đến những năm sau tháng 8/1945, nhất là từ 1955, những gì được
quy vào “văn học cách mạng” thời trước đó đều được nhất loạt đề cao. Người ta
đi tìm ở các lưu trữ cá nhân, sổ tay cá nhân, lục ra từ các đống giấy cũ, từ
trí nhớ những tác giả hoặc những công chúng nào đó, v.v… để khôi phục những văn
những thơ những kịch rồi đưa nó vào các loại sơ tuyển, hợp tuyển, tinh tuyển…
Đó là hoạt động lập quy chế (xã hội) mới cho một mảng văn thơ mà trước đấy chỉ
là những hiện tượng ngoại vi. Rõ ràng, toàn bộ những gì được ngành nghiên cứu
hàn lâm những năm 1960-70 ở miền Bắc xếp vào “văn học cách mạng”, đều là văn
chương ngoại vi trong thời của nó, tức là thời 1930-45, khi mà nó hầu như không
có mặt trong các xuất bản phẩm hợp pháp, công khai.
Bên cạnh loại “di sản ngoại vi” được đẩy vào trung tâm về giá
trị ấy, trong đời sống văn nghệ miền Bắc những năm 1955-75 còn có hiện tượng
“ngoại vi hóa” bất đắc dĩ của một số tác giả nhất định, do số phận run rủi.
Thứ nhất, những nhà văn từng sống và viết ở “vùng tề” (tức nội
thành Hà Nội) trước 1954 mà không được xác nhận là đã từng có liên lạc với
kháng chiến; trong số này có những Hồ Dzếnh, Ngân Giang, Ngọc Giao, Hoàng Công
Khanh, v.v… Số này rất khó được đăng tác phẩm trên các báo, tạp chí “chính quy”
như Văn nghệ, Văn học, Tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, có người chỉ
còn viết cho mình, không để (vì không thể) đăng tải, có người tìm cách “lách”
trong những đề tài hiếm người viết mà lại được khuyến khích (viết về công nhân,
về người tốt việc tốt, v.v…).
Thứ hai, những nạn nhân các vụ án chính trị như Nhân Văn –
Giai Phẩm, “nghị quyết IX”, … Số này thường bị treo bút có thời hạn (3 năm)
nhưng trên thực tế bị kéo dài (thành 30 năm). Họ đành viết mà không hy vọng được
công bố.
Ta hãy nhớ, chẳng hạn, tập thơ Về Kinh Bắc của Hoàng
Cầm được viết xong từ năm 1960, tuy được nhiều người trong công chúng và giới
văn chương biết đến (theo cách truyền tay chép tay), nhưng mãi đến 1991 mới được
tháo ra một số đoạn, lắp vào với những bài khác để được in trong tập Mưa
Thuận Thành, rồi phải 4 năm nữa toàn văn Về Kinh Bắc mới xuất hiện lần
đầu dưới dạng sách in. Hoặc trường hợp tập thơ Mùa sạch (in 1998), tiểu
thuyết Những ngã tư những cột đèn (in 2010) của Trần Dần đều nằm
trong những bản thảo “nằm” im lặng trong bóng tối suốt hàng chục năm của tác giả.
Bên trên tôi nói tính chất ngoại vi được bộc lộ ở định hướng
giá trị và quy chế xã hội của hiện tượng. Ở hai loại tác giả “ngoại vi” kể trên
trong đời sống miền Bắc những năm 1955-75, tình trạng bị đẩy ra ngoại vi là “mặc
định” về tác giả trước khi là do định hướng giá trị của tác phẩm. Ví dụ Về
Kinh Bắc, tuy hướng tìm tòi có khác phần lớn các nhà thơ được hưởng quyền đăng
báo in sách đương thời, vốn đang chìm ngập trong các đề tài vào nông dân hợp
tác xã, công nhân xây nhà máy, rồi nhớ quê Nam, rồi căm thù Mỹ-Diệm, v.v., song
tập thơ Hoàng Cầm, trên hướng tìm về các giá trị nhân bản cũng như thẩm mỹ, dù
sao cũng đã không đi quá xa; tức là nếu “giá như” tác phẩm không gắn với tác giả
có cái tiểu sử tai ách nhường kia thì chắc đã sớm được in (!?). Nhưng rồi chuyện
“ai là tác giả” đã quyết định tất cả! Đến khi được in, sau nửa thế kỷ, mọi thứ
đã “nguội”, chất ngoại vi “cựa quậy”, “giẫy giụa” chỉ còn bảng lảng.
Tuy vậy, về lý thuyết, chất “ngoại vi” triệt để bao giờ cũng
khó chấp nhận, xét từ các chuẩn mực thông thường, bình thường. Thì chính cái di
sản “văn học cách mạng” kể trên đã chẳng là một minh chứng đủ rõ rồi sao? Văn
chương ấy kêu gọi lật đổ chế độ quân chủ thực dân nên nhà cầm quyền thực dân
quân chủ đương thời đã không cấp giấy phép cho ra đời những văn thơ đó, và hoạt
động chính trị của những tác giả những văn thơ đó thì bị ngăn chặn, bằng nhà
tù, bằng bạo lực. Những văn thơ đó đã sống bằng ấn loát và phát hành bất hợp
pháp, bằng in li-tô, in đá, bằng chuyền tay viết tay…
Ngày nay nhìn lại, có thể thấy rõ ràng là nhà cầm quyền đương
thời (thực dân ngoại quốc hay quân chủ bản địa) đã thiếu khoan dung trong tiếp
cận mảng văn chương kể trên và các tác giả của nó. Rất thiếu! Bởi “giá như” họ
đủ khoan dung trước những phản ứng cực đoan của dân bản xứ đương thời, có lẽ
chúng ta đã có một hiện tại khác!
Quả thật, đối với những hiện tượng văn hóa, văn học “ngoại
vi”, thì đòi hỏi về khoan dung phải rất lớn, rất cao.
Chữ “tolérance” mà dịch ra tiếng Việt là “khoan dung” thì quả
cũng có chỗ bất nhẫn, là vì nó không xóa hết được cái vẻ hạ cố, ban phát ân huệ
của kẻ thực thi cái hành động thể hiện cái thái độ được gọi
là tolérance. Còn nhớ có hồi UNESCO lấy một năm nào đó làm “năm tolérance”, ở
ta mấy học giả ngồi luận về tolérance với nhau trên tivi mà hình như không có
gì lọt được vào tai công chúng cả! Trước đây độ dăm năm, tôi với Vương Trí Nhàn
từng bảo nhau nên dịch chữ này là “chấp nhận”, “chịu đựng”.
Vâng, chính thế! Không chỉ là tha thứ hay dung thứ, thái độ
khoan dung (đành dùng chữ này vậy) phải là thái độ chấp nhận, chịu đựng trước mọi
cái khác lạ, dị biệt của kẻ khác.
Mà những tố chất “triệt để ngoại vi” thì quả thật, bao giờ
cũng quá đáng quá thể, rất khó chấp nhận đối với mọi chuẩn mực thông thường!
Các xã hội châu Âu phát triển sớm, người châu Âu có kinh nghiệm
hơn ta về những vấn đề gai góc loại này.
Chẳng hạn, di sản văn học của De Sade (1740-1814) đến đầu thế
kỷ XX được nghiền ngẫm lại, được biện hộ: vấn đề không chỉ là nhu cầu tự do vô
hạn về tình dục, bạo dâm hay khổ dâm, không chỉ là thái độ dám sống vô luân,
phi đạo đức, mà vấn đề là khát vọng thử nghiệm, thử thách óc hiếu kỳ và sự nhận
thức, bằng bất cứ giá nào và trong bất kỳ lĩnh vực nào, kể cả những lĩnh vực bị
coi là cấm đoán, – ấy là điều Thomas Mann nhận ra, qua lời một nhân vật tiểu
thuyết của ông.
Tính ngoài lề, tự do phóng túng của nghệ sĩ là điều được ghi
nhận ở khắp thế giới qua mọi thời đại, đã đậm lên rất rõ nét ở thời đại chúng
ta, kể từ giữa thế kỷ XX. Nếu những vẻ “dị biệt”, “khác đời”, “lạ kiểu” chỉ phần
nào cho thấy các thói tật đời thường thì trong thực chất của các sáng tạo, giới
văn nghệ sĩ tự trong thâm tâm bao giờ cũng đánh giá cao tính chất “nổi loạn”,
chống lại những khuôn sáo tư duy, những quan niệm thông tục đã được thừa nhận.
Mà đã qua rồi cái thời (hiện đại) ở đó “cái biểu đạt” dường như tương thông ổn
thỏa với “cái được biểu đạt”! Đến thời được gọi là hậu hiện đại này, chính ngôn
ngữ đã bị hoài nghi: người ta ngờ rằng nó đã bị quy định sẵn những chữ những
câu chỉ thể hiện cái ý thức thống trị, nó buộc ta phải tư duy chỉ bằng những
khái niệm đã bị biên tập, bị điều chỉnh cho hợp với ý thức hệ! Con đường chống
lại ý thức “chuyên quyền” chỉ còn là ở lĩnh vực vô thức! - Đó là quan niệm của
một nhóm nhà phê bình Pháp, trước hết là Julia Kristéva.
Một tác gia Pháp khác, Michel Foucault (1926-84), đem gắn vấn
đề “ý thức thẩm mỹ phá hoại” của nghệ sĩ ngoại vi, với vấn đề về tính ngông cuồng
của con người. Vấn đề là dường như trong bản chất, con người vốn có tính ngông
cuồng, điên khùng, mà ở văn học nghệ thuật lại dường như bộc lộ rõ nhất những
“cái khác lạ” vốn là sản phẩm tinh thần của những người vừa điên khùng lại vừa
tinh anh kia! Thế nhưng, theo Foucault, chính thái độ đối với tính ngông cuồng
này lại là cái có thể dùng để kiểm nghiệm ý nghĩa của tồn tại nhân loại, kiểm
nghiệm trình độ của văn minh, kiểm nghiệm khả năng tự nhận thức – tức là khả
năng hiểu biết, khả năng nhận biết vị trí của mình trong văn hóa, khả năng làm
chủ những cấu trúc ngôn ngữ đang thống trị, và tương ứng với nó, khả năng chiếm
giữ quyền lực. Nói cách khác, theo Foucault, thái độ cư xử của con người đối với
kẻ “điên điên khùng khùng” lại là thước đo tính nhân bản và sự trưởng thành của
chính con người.
Tác phẩm văn học, dù có chất “ngoại vi” ở mức triệt để, thì
dù sao, nó cũng chỉ là một sản phẩm ngôn từ, dệt bằng câu chữ và tồn tại qua
câu chữ. Đó không phải bom A hay bom H hay vũ khí hóa học! Kinh nghiệm nhân loại
cho thấy, những sáng tạo có ý nghĩa có giá trị thì may ra sẽ có thể còn lại,
ngoài ra, mọi sản phẩm ít ý nghĩa hoặc chỉ có ý nghĩa nhất thời đều sẽ mau
chóng bị lãng quên. Nghĩa là không cần dùng tới sức cưỡng chế hành chính đối với
các sản phẩm văn hóa; tự nó xuất hiện, gây hoặc thậm chí không gây tác động gì
tới công chúng, rồi sẽ nhanh chóng biến đi trong dòng thời gian. Vấn đề chỉ là
người ta lo ngại quá mức về tác động của nó, – chính lo ngại này sẽ dẫn tới những
can thiệp nóng vội, mà can thiệp thì lại như đổ thêm dầu vào lửa! Ở phương diện
này, hiểu biết về tinh thần khoan dung sẽ là chìa khóa cho những ứng xử biết điều
hơn, phải chăng hơn.
Trong bài viết của mình trên báo Văn Nghệ, Nguyễn Văn
Dân có vài ba chỗ nhắc đến “khoan dung”, nhưng trong ứng xử cụ thể, có thể thấy
là ông còn khá hẹp hòi. Về lý thuyết, ông vẫn khăng khăng: “Cách nói ngoại vi
hóa thì không phải là diễn ngôn phù hợp với xu thế khoan dung trong toàn cầu
hóa văn hóa ngày nay”! Ô hay sao thế? Khoan dung là chấp nhận; thế thì vì sao
trước những nỗ lực tạo ra bản sắc, tạo ra những nét riêng biệt (nỗ lực ngoại vi
hóa chung quy là thế!), người ta lại không nên gọi tên nó ra, chỉ vì làm thế sẽ
động chạm đến cái đức khoan dung? Hóa ra là để giữ lấy vẻ ngoài khoan dung thì
ta lại đừng nên khoan dung thật sự? Cái lý của Nguyễn Văn Dân nó cong hay nó thẳng
đây?
Tôi nghĩ,
khoan dung cần trở thành chính sách ứng xử đối với mọi hiện tượng con người,
trước hết là những hiện tượng văn hóa văn nghệ.
Còn nhớ, trên tờ Thể thao văn hóa quốc tế (tiền
thân của Thể thao&Văn hóa hiện nay) tôi đã được đọc loạt bài về
các hiện tượng văn nghệ ở Mỹ như phong trào nhạc Jazz, hoặc Rock and Roll, cho
biết những phong trào này ban đầu thường có chút màu sắc chính trị, liên quan đến
những bi phẫn về thân phận người da đen chẳng hạn. Nếu bị cấm đoán hay đàn áp,
chắc chắn sẽ nảy nở thành các phong trào chống đối. Thế nhưng nhà cầm quyền đã
không làm như vậy; thành thử đó chung quy trước sau chỉ là những phong trào nghệ
thuật; chút màu sắc chính trị thời đầu chỉ còn như âm hưởng xã hội kèm theo rất
nhiều đặc điểm và thành tựu khác của những dòng nhạc này.
Đây, tôi nghĩ, là cả một bài học.
Mọi hiện tượng
văn hóa nghệ thuật, nếu có ý nghĩa, thì khởi đầu thường phải được kích thích từ
những nỗi niềm thật, bi phẫn thật, bức xúc thật. Mọi giả tạo đều rất chóng nhạt
phai, tàn lụi. Vấn đề là tầm nhìn xa của người quản lý. Cấm đoán khi hiện tượng
mới manh nha thì dễ thôi, nhưng cũng nên coi đấy như là cách đổ thêm dầu…
Có lẽ nào không còn cách khác?
Vả chăng, thử ngẫm xem, trong hiện tượng rắc rối mới nhen
nhóm kia biết đâu không có dù chỉ một phần ngàn của lẽ phải, của đạo lý, vốn là
lý do để người ta sống chết vì nó?
Chú thích:
[1] Xem mục từ “Marginalia” trong: J.A. Cuddon,
Literary Terms and Literary Theory, Fourth Edition, Penguin books, London,
1999, p. 491 (chữ Anh). Cũng xem mục từ Maргинальность /Ngoại biên/ trong sách:
Литературная Энциклопедия терминов и понятий/Bách khoa thư văn học. Các thuật
ngữ và khái niệm/, soạn giả chủ biên: A. N. Nikoljukin, Moskva: NPK “Intelvak”,
2001, cột 504 (chữ Nga).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét