Thứ Hai, 30 tháng 12, 2024

Sài Gòn, chuyện đời của phố tập 1

Sài Gòn, chuyện đời của phố tập 1

Sài Gòn có nói gì đâu
Đôi khi tôi vẫn tự hỏi, mối tơ duyên giữa tôi và Sài Gòn bắt đầu từ khi nào? Từ cái Tết đầu tiên tôi theo ba mẹ vô Sài Gòn ăn Tết với gia đình bên nội, hay từ thuở ba tôi còn là một thiếu niên thường xuyên trốn học đi xem phim ở rạp Văn Cầm, Phú Nhuận. Hay xa xăm hơn nữa, từ năm 1941, khi chàng trai trẻ - là ông nội tôi - lặn lội từ Quảng Bình vô Sài Gòn làm cậu chạy việc cho các bà phước ở dòng tu kín sau Nhà Bưu điện Thành phố, ít lâu sau lại trở thành anh bồi của một gia đình người Pháp trên đường Catinat với mức lương 40 đồng bạc Đông Dương?
Dù thế nào, tôi với Sài Gòn hẳn đã có duyên, trước khi tôi về làm dâu một gia đình miền Nam lâu đời.
Nhưng có một điều lạ lùng, đó là càng ngày tôi lại càng cảm thấy mình không phải là “người Sài Gòn”.
Đó là một cảm giác hơi khó lý giải, bởi đối với tôi, khái niệm “người Sài Gòn” không hề được đóng trong một cái khung nhỏ hẹp nào. Không cần bạn phải sinh ra ở Sài Gòn, chỉ cần bạn cảm thấy mình là người Sài Gòn thì bạn chính là người Sài Gòn. Thế thôi!
Vậy thì tại sao sau nhiều năm sống trong lòng thành phố mà tôi vẫn chưa cảm thấy Sài Gòn thuộc về mình, và ngược lại?
Đó là vì càng tiếp xúc với những thế hệ tiếp nối từng sinh ra, lớn lên và thậm chí chưa bao giờ bứt mình khỏi mảnh đất này trong suốt vài thế hệ thì tôi lại càng nhận ra rằng cái chất Sài Gòn của người Sài Gòn không dễ nắm bắt như những từ ngữ mà tôi thỉnh thoảng vẫn đọc đâu đó.
Có lẽ chính vì vậy mà nhiều năm qua tôi vẫn luôn tự hỏi: cuối cùng thì linh hồn Sài Gòn nằm ở đâu? Vẻ đẹp của vùng đất này? Cái tinh thần cốt lõi của người Sài Gòn nằm ở đâu? Ở lối sống đô thị phóng khoáng của những năm trước 1975 hay vẻ lịch lãm duyên dáng vẫn còn đọng lại trong những hồi tưởng về thời thuộc địa? Hay chính là lối sống vội vã náo nhiệt và luôn biến đổi của thời hiện tại?
Những câu hỏi đó, có thể nói là tôi đã tự trả lời được khi đọc xong bản thảo của tập sách này. Không hẳn là một tập tản văn hay sách ảnh, càng không mang tính nghiên cứu, nhưng Sài Gòn - Chuyện đời của phố lại chứa đựng rất nhiều hình ảnh, cảm xúc, đồng thời đầy ắp những tư liệu mới lạ.
Bất kể sự e dè lẽ ra phải có khi nhận xét về tác phẩm của “người nhà”, tôi phải thừa nhận đây là một cuốn sách về Sài Gòn có giá trị và đáng đọc.
Tác giả không phải là nhà văn mà là một nhà báo. Vì vậy độc giả sẽ gặp phải đôi chút bất lợi, nhưng bù lại, được tận hưởng khá nhiều phần thưởng từ điều đó.
Bạn sẽ không tìm thấy những câu viết ngọt ngào về một “Sài Gòn chợt mưa chợt nắng” hay “những con đường có lá me bay”. Không có những quán cà phê sang trọng và lãng mạn. Những cảm xúc không được bày ra trên câu chữ mà chỉ lẩn khuất đâu đó giữa những câu chuyện kể.
Đúng vậy, cuốn sách này đầy ắp những câu chuyện kể.
Với sự tò mò cố hữu và kinh nghiệm 30 năm làm báo, tác giả đã ghi lại được nhiều câu chuyện thú vị nhằm trả lời cho những câu hỏi mà chính bản thân anh, cũng như không ít người sinh sống ở Sài Gòn nhiều năm từng thắc mắc: người được đặt tên cho Ngã ba Ông Tạ là ai? Họa sĩ ký tên Duy Liêm trên những bìa nhạc tờ được yêu thích trước đây đã sống và làm việc như thế nào? Lịch sử một gia tộc đã và đang sống ở Sài Gòn suốt nhiều đời nay?... Câu trả lời được ghi lại qua những cuộc gặp gỡ và trao đổi với các nhân chứng cụ thể chứ không chỉ nhờ tra cứu sách báo. Chính điều đó tạo nên giá trị về mặt tư liệu cho cuốn sách.
Và có thể, bạn sẽ nhận ra rằng người Sài Gòn không chỉ là những người đã ra đi, hay trở về, mà còn là những người ở lại và chưa bao giờ rời xa.
Người Sài Gòn, không chỉ là giới thượng lưu thường xuất hiện quanh những đoạn đường sang trọng khu quận Nhứt, mà còn là phần đông bình dân sống trong những con hẻm nhỏ ở Đa Kao, Thị Nghè, Phú Nhuận hay Chợ Lớn...
Người Sài Gòn, không chỉ là các nghệ sĩ nổi danh thong dong tụ tập trong quán cà phê thời thượng, bàn chuyện thi văn nhạc họa, hay những cô gái xinh đẹp dạo phố trong tà áo lụa, mà còn là những con người không xuất hiện trước đám đông, chỉ lặng lẽ âm thầm dâng tặng đời mình cho thành phố này qua mấy thế kỷ thăng trầm.
Người Sài Gòn không cống hiến tài năng hay công sức của mình cho thành phố như một lý tưởng. Họ cống hiến một cách tình cờ vì đã làm việc tất phải làm đến nơi đến chốn.
Người Sài Gòn, họ không màng thổ lộ cho ai hay mình yêu sâu đậm ra sao và nhớ da diết thành phố của mình như thế nào.
Người Sài Gòn, không để ý đến việc bạn viết “Sài Gòn” hay “Saigon”, cũng không quan tâm bạn nói giọng miền nào, miễn hiểu nhau là được.
Người Sài Gòn không nhất thiết bắt bạn phải gọi đường phố theo tên mới hay cũ, miễn sao tìm thấy nhà là được.
Bởi với họ, chẳng có gì phải cực đoan.
Với những người Sài Gòn mà tôi biết, nếu có điều gì cực đoan thì đó chính là nghĩa khí. Đất Sài Gòn ưa chuộng những con người đàng hoàng và có nghĩa khí. Có nghĩa khí là sống làm sao để những người mà mình xem trọng không coi thường mình. Có nghĩa khí là dám nói dám làm. Dám làm dám chịu.
Càng hiểu sâu về một Sài Gòn không nằm trên bề mặt của những bảng tên đường hay nhà hàng quán xá thì tôi càng thấy Sài Gòn giống một kim tự tháp, nếu đứng từ xa bạn chỉ nhìn thấy cái chóp nhọn, phần cao nhất nhưng có diện tích nhỏ nhất. Chỉ khi đến thật gần, thậm chí bước vào bên trong, bạn mới nhận ra phần chân đế của nó rộng lớn chừng nào. Nếu chúng ta nhìn Sài Gòn và chỉ thấy đỉnh cao lấp lánh ở ngay trước mắt, nghĩa là ta còn chưa đến đủ gần.
Giống như phần chìm của một tảng băng, chính cuộc sống lặng lẽ trong dân gian lại chứa đựng cái chất Sài Gòn đậm đặc nhất. Bắt nguồn từ tấm linh hồn của đất Gia Định thuở xa xưa, nó vẫn đang âm thầm chảy như một mạch nguồn mạnh mẽ của đời sống Sài Gòn hôm nay, dù không dễ vẽ nên hình hài và cũng không mấy ai nhận thấy.
Chắc chắn có một chút dáng dấp của “chất Sài Gòn” ấy trong cuốn sách này. Sự phong phú của các chi tiết cũng như giọng kể có chút lan man đời thường đôi khi khiến ta lạc lối. Không trau chuốt về câu chữ, nhưng bù lại, chất liệu thực tế ngồn ngộn bên cạnh những tấm ảnh hay tranh minh họa cũ, mới được sưu tập công phu, khiến cho việc đọc sách giống như bạn đang ngồi trong quán cà phê đầu hẻm, vừa nhìn cuộc đời trôi qua vừa nghe một người già kể những câu chuyện xưa nay, dắt dây nhau theo một cách khó ngờ. Trong đó, có người lạ và có cả người quen, có chuyện hấp dẫn, có chuyện lê thê. Nhưng chắc là không hề nhàm chán.
Ít nhất, nếu bạn cũng giống tôi.
Tôi không phải là người Sài Gòn. Dù giữa tôi và Sài Gòn có một mối tơ duyên.
Tôi không hiểu hết Sài Gòn. Dù tôi đã sống với Sài Gòn rất nhiều năm tháng. Chính vì lẽ đó mà tôi luôn muốn lắng nghe, lắng nghe, những câu chuyện đời thường của phố. Kể cả khi tôi biết rằng, thực ra thì Sài Gòn có nói gì đâu, chỉ có tôi - một người từ nơi khác đến - mới thường gán cho Sài Gòn những cái nhãn “thế này” hay “thế nọ”.
Sài Gòn có nói gì đâu.
Vài thế kỷ đã trôi qua trên mảnh đất này, và Sài Gòn chỉ âm thầm sống.
Đặng Nguyễn Đông Vy
Lời Ngỏ
Khi sắp hoàn tất cuốn sách này, tôi đọc được một tập sách nhỏ nhan đề Những xóm bình dân trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn xuất bản đúng 60 năm trước. Tác giả cho biết Sài Gòn lúc đó chỉ có khoảng 1,6 triệu người, trong đó xấp xỉ 1 triệu dân lao động sống dưới mức nghèo khổ. Phần lớn dân nghèo sống chen chúc trong các xóm bình dân như khu Bàn Cờ, xóm Cầu Muối, xóm Vĩnh Hội, xóm Lách, xóm Sở chữa lửa, xóm Chợ Đũi và xóm Đình Phú Thạnh… Họ sống rất gần trung tâm thành phố hoa lệ nhưng vẫn ở trong căn nhà lá hay vách ván, không có nhà vệ sinh riêng, hẻm ngõ thì bùn lầy nước đọng, điện câu nhờ, nước câu nhờ hay xài nước giếng.
Tác giả tập sách xưa đã đặt câu hỏi cho 55 gia đình: Nếu hòa bình trở lại trên đất nước, họ sẽ ở lại đất Sài Gòn hay quay về quê hương?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có 10 gia đình được khảo sát tỏ ý muốn ở lại, trong khi 31 gia đình mong mỏi trở về nguyên quán. Số còn lại đang lưỡng lự chuyện ở hay về.
Xóm nhỏ nơi tôi sống thuộc vùng Phú Nhuận, nằm trong khoảng đường từ Đình Phú Nhuận đi tới chợ Lò Đúc mà cuốn sách có nhắc. Ba tôi, khắc khoải giữa cuộc sống đô thị tất bật, đã luôn mơ đến ngày về quê cũ, nơi từng được gọi là Nông Nại Đại phố trên sông Đồng Nai. Những tâm sự của ông bên chén rượu Ngũ Gia Bì với mấy ông bạn gốc Bắc, gốc Quảng Ngãi trong xóm đều giống nhau, mơ ước về cuộc sống êm đềm bên con sông quê hương mình.
Nửa thế kỷ đã trôi qua, chúng tôi lớn lên, chứng kiến cuộc sống dần thay đổi. Nhà cửa ai nấy đã khang trang hơn, điện nước đầy đủ, trẻ nhỏ được đi học đàng hoàng. Suốt thời gian dài đăng đẵng đó, không có mấy người trở về quê cũ trừ khi hoàn cảnh bức bách lắm.
Sài Gòn đã tìm cách giữ họ lại, những cư dân cũ. Hay họ đã tìm cách làm cho cuộc sống quanh họ tốt dần lên. Qua bao biến động, có lúc đến nỗi phải bỏ nước ra đi, nhiều người dân Sài Gòn có gốc gác tứ xứ khi từ nước ngoài quay về Tổ quốc vẫn nghĩ mình là dân Sài Gòn, chứ ít khi nhắc đến gốc gác xa nữa. Dù không là nguyên quán, Sài Gòn đã chính là quê hương của họ để quay về.
Tôi tin hầu hết con cháu của 45 gia đình trong cuộc khảo sát khi xưa, đã từng lưỡng lự muốn ở lại hay rời Sài Gòn về quê, nếu sau 1975 không ra nước ngoài sinh sống thì có lẽ vẫn đang sống trên mảnh đất đô thị này. Bởi vì không dễ gì bỏ Sài Gòn ra đi nếu anh đã từng sống ở đây.
Ở Sài Gòn lâu năm, dễ thấy khi người ta vỗ ngực xưng tên, có thể tự hào mình là “dân Cầu Muối”, “dân khu Mả Lạng”, “dân hẻm Cây Điệp”, “dân chơi Cầu Ba Cẳng” hay “dân Xóm Mới”, “dân Thủ Thiêm”… Không mấy ai xưng mình là “dân Sài Gòn” như một niềm tự hào, như một thứ giá trị. Người lục tỉnh khi nói về Sài Gòn, cũng chỉ gọi là “thành phố”: đi thành phố, về thành phố… Và ai đó lìa bỏ quê nhà để lên Sài Gòn sống, khi quay về cố hương có thể bị, hay được gọi là dân “Sè ghềnh” rồi. Thực ra, cũng không có gì là quan trọng!
Nên có chút bất ngờ khi giá trị “người Sài Gòn” bây giờ càng lúc càng được bàn luận và đề cao nhiều như vậy, chẳng khác gì các niềm tự hào khác, như người Hà Nội, người Cố đô…
Sài Gòn, bây giờ là Thành phố Hồ Chí Minh, lâu nay và sau này vẫn sẽ là một nơi tụ hội để sinh sống, làm việc, vui chơi, tìm kiếm cơ hội thành công và trốn lánh những hệ lụy nặng nề của cuộc sống từ những nơi khác, để có thể làm lại cuộc đời. Có những giá trị cũ của Sài Gòn đã mai một, nhưng những giá trị mới vẫn đang hình thành và lớn dần. Cũng có những thứ kệch cỡm lố lăng cũ mất đi, thay vào đó là những thứ tương tự về tính chất, chỉ khác cách biểu hiện. Nhưng rất nhiều điều căn bản đã được giữ lại, ai cũng biết nên chẳng cần kể ra…
Khi xem những tấm ảnh cũ ghi lại hình ảnh người dân đi lại trên đường phố Sài Gòn năm 1961, năm tôi sinh ra ở Phú Nhuận, tôi thấy lòng nao nao. Năm đó, má tôi rời bỏ căn nhà êm ấm của tuổi thơ được dựng lên từ nhiều đời của dòng họ Nguyễn ở vùng Khánh Hội, quận 4 để về Phú Nhuận sinh sống. Ba tôi xa quê Cù lao Phố, hòa nhập từ lâu vào cuộc sống Sài Gòn trong công việc thư ký Hiệu buôn Kim Phát ở chợ Bến Thành. Lúc đó, ông ngoại tôi, thư ký của văn phòng Sở Hỏa xa Đông Dương trên Đại lộ De la Somme (đường Hàm Nghi bây giờ) vừa mất không lâu.
Trong mấy tấm ảnh đó, người Sài Gòn hiện ra thanh lịch nhiều và lam lũ cũng lắm. Số đông trên đường phố vẫn là người làm công ăn lương, buôn thúng bán bưng, phu khuân vác, đạp xích lô và đánh giày. Tất cả phảng phất hình ảnh những người thân của tôi đang kiếm sống mỗi ngày.
Người thanh kẻ lịch được chụp ảnh trên đường phố trung tâm, đại diện cho một tầng lớp nhỏ trung lưu trở lên. Họ góp phần giữ tính cách của người Sài Gòn trong kinh doanh buôn bán và gìn giữ nếp sống lịch lãm nhưng không quá xa hoa, biết hưởng thụ nhưng có óc thực tế, vừa phải. Nhưng giới cần lao, đông đảo hơn mới chính là những người giữ lại các giá trị quan trọng như “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả”, “trọng nghĩa khinh tài”, ghét thói “coi đồng tiền to như bánh xe bò” hay “làm ăn chụp giựt không có trước sau”… Họ lặng lẽ sống trong các xóm nhỏ, ban ngày ra đường kiếm sống, tối nằm nghe cải lương hay tin chiến sự. Họ sống giản đơn, sẵn sàng giúp nhau, đùm bọc nhau khi người cùng xóm gặp chuyện bất trắc. Họ là lực lượng chính khi muốn thay đổi cuộc sống bất công… Họ vô danh, nhưng sẵn sàng thể hiện sự chính trực của mình khi có chuyện trên đường, thể hiện quan điểm của mình trong một tiệm nước hay tiệm hớt tóc…
Vì những điều được trải nghiệm trong suốt mấy chục năm sống trên mảnh đất chôn nhau này, tôi luôn thấy tò mò về Sài Gòn, thành phố gắn bó cả đời mình. Những vẻ đẹp của một bức tranh từng mê mải ngắm nhìn, giai điệu âm thanh từng nghe thấy, một ngôi nhà đẹp vẫn thường qua lại, một địa danh hay tên người gợi nhiều điều gần gũi, thúc giục tôi tìm hiểu như một hành trình tìm lại những cảm xúc hồi mới lớn, và thành những câu chuyện kể.
Những người già trên bảy mươi hay tám mươi tuổi, đang sống ở Sài Gòn hay đã xa xứ từ lâu, kể cho tôi nghe những câu chuyện xưa lắc mà với họ như vừa mới đây. Chỉ là những câu chuyện cũ, không hề thể hiện chút gì tự hào quá mức, nhưng trong đó có hào khí, tích tụ từ cuộc sống dám làm dám chịu, lạc quan yêu đời, biết làm ăn giỏi giang và từng vượt qua thất bại để tồn tại.
Tất cả những điều đó làm nên cuốn sách này, kết nối qua những bài viết từ những góc nhìn riêng hạn hẹp, với mong muốn nhỏ là cùng với bạn đọc lưu giữ thêm một chút ký ức về Sài Gòn, thành phố thân thương này, những ký ức mà khi viết ra được, chỉ mong sẽ không bị chìm lấp như bao vẻ đẹp đã mai một dần ở thành phố này.
Phạm Công Luận
Phú Nhuận, 2013
Trong quá trình thực hiện cuốn sách nhỏ này, chúng tôi đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ về tư liệu, hình ảnh từ nhiều nguồn trong nước và hải ngoại. Xin trân trọng cảm ơn các quý vị, thân hữu đã dành thời gian để tiếp chuyện, trả lời thư, đọc và góp ý bản thảo:
Nhà nghiên cứu Lý Lược Tam , tức Lý Tân Thới (Chợ Mới, An Giang)
Nhà nhiếp ảnh Đinh Tiến Mậu (Quận 3, TP.HCM)
Họa sĩ Nguyễn Văn Tuyền (Thủ Dầu Một, Bình Dương)
Họa sĩ Phạm Cung (Phú Nhuận, TP.HCM)
Ông Trần Duy Sĩ (Hoa Kỳ) và gia đình họa sĩ Duy Liêm.
Họa sĩ Phi Mai (Hoa Kỳ)
Gia đình họ Nguyễn ở Ngã tư Bình Hòa (Bình Thạnh, TP.HCM): Bà Nguyễn Thị Gấm , ông Nguyễn Văn Luận , em Nguyễn Ánh Ngọc . Đặc biệt cảm ơn ông Nguyễn Hữu Danh (Hoa Kỳ).
Gia đình cụ Nguyễn Khánh Đàm , đặc biệt là anh Nguyễn Lương Dân (Hà Nội)
Anh Phan Anh Tấn (Hội An, Quảng Nam)
Tác giả
Nét thanh lịch của thiếu nữ Việt trong mẫu quảng cáo nữ trang của cửa hàng Harmacie Centrale số 153 đường Catinat (nay là Đồng Khởi), đăng trên tập san Xuân Việt Nam - Quý Tỵ - do Thư xã Đẹp Sài Gòn và Nùng Sơn thư xã Hà Nội xuất bản năm 1953.
Ban Hợp Ca Thăng Long
Bức ảnh này được ông Đinh Tiến Mậu chụp tại studio Viễn Kính. Bối cảnh chỉ là hai giàn đèn, một bục gỗ đặt nằm ngang. Cách bố trí kẻ đứng người ngồi bên hai chiếc đèn cao thấp tạo nên nhịp điệu cho bức ảnh. Ba nghệ sĩ, là ba anh em ruột, đều có vóc dáng cao ráo khá lý tưởng. Thái Thanh bận áo vạt dài chứ chưa cao lên gần đầu gối như thập niên 1970. Hoài Trung, Hoài Bắc gây ấn tượng với phong thái gentlemen trong những bộ vest được may rất khéo, đồng hồ dây da, giày cột dây mũi nhọn, tay áo cài khuy manchette, tóc chải ngược (kiểu tóc Tango thịnh hành trước đây chăng?) lộ vầng trán cao, sáng đẹp.
Khi nhìn bức ảnh này, tai tôi như vẳng tiếng ngựa hí trong bản Ngựa phi đường xa, tiếng ngân dài bất tuyệt trong bản Ô mê ly của Hoài Trung Phạm Đình Viêm. Giọng ca Thái Thanh, với tiếng ca trong vắt cao vút trữ tình là giọng ca duy nhất xứng đáng với từ pa, không thể tranh cãi được. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương tức Hoài Bắc, với chất giọng "trầm ấm và dội sâu", "hơi nhừa nhựa như phảng phất men rượu và khói thuốc" [1] , tuy chỉ viết hơn 50 ca khúc nhưng tài năng có thể sánh ngang với những nhạc sĩ nổi tiếng nhất với nhiều bài tuyệt hay như Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau, Đêm cuối cùng, Ly rượu mừng... và Trường ca bất hủ Hội trùng dương. Thành lập từ thời kháng chiến chống Pháp, sau đó vào Sài Gòn, ban Thăng Long đã "tạo một luồng sinh khí mới cực kỳ phong phú và tràn ngập tinh thần sáng tạo" [2] . Đến đầu thập niên 1960, ban Thăng Long cùng với ban kịch Dân Nam là hai nhóm biểu diễn nghệ thuật nổi như cồn và thu hút dân Sài Gòn nhiều nhất.
Sài Gòn tự hào từng có ban hợp ca sáng chói từ những người gốc Bắc xa quê hương, góp phần quan trọng tạo nên diện mạo một âm nhạc của Sài Gòn. Và tôi tin họ đã luôn yêu quý Sài Gòn trong suốt cuộc đời họ.
Một Cuộc Thi Hoa Hậu
Năm 1960, báo Phụ Nữ Ngày Mai ở Sài Gòn có tổ chức cuộc thi Hoa hậu bằng hình ảnh. Báo này do ông Nguyễn Đức Khiết làm chủ nhiệm, đứng ra tổ chức nhằm mục đích tuyển lựa hình ảnh một thiếu nữ Việt duyên dáng và ăn ảnh nhất. Người dự thi phải gửi về tòa báo hai ảnh bán thân 6x9 phía sau ghi rõ họ tên, biệt hiệu và tuổi, kèm theo phiếu dự thi. Ảnh dự thi được đăng báo, độc giả gửi phiếu bầu chọn về.
Tối ngày 1 tháng 9 năm 1960, vương miện đã được trao cho các thí sinh đoạt giải tại Câu lạc bộ Báo chí Sài Gòn. Người được giải cao nhất là cô Nguyễn Thị Kim Sang, 17 tuổi, nữ sinh lớp đệ Tam (lớp 10 ngày nay) trường Huỳnh Khương Ninh, Đa Kao. Cô được tặng một huy chương vàng trị giá 12.000 đồng. Cô Mộng Yến, 19 tuổi, nữ sinh lớp đệ Nhị trường Nguyễn Văn Khuê trúng giải nhì với huy chương vàng trị giá 5.000 đồng. Cô Mai Xuân Phượng, nữ giáo viên ở Phan Thiết, 19 tuổi, giải ba huy chương vàng trị giá 3.000 đồng.
Theo bài báo tường thuật cuộc thi này, Hoa hậu Kim Sang phát biểu khiêm tốn "Em rất hân hạnh và sung sướng nhận Giải thưởng Hoa hậu Phụ nữ Ngày Mai. Em biết đây là một sự may mắn cho riêng em vì còn nhiều chị em khác vì lý do nào đó không gửi ảnh dự thi".
Nhìn lại bức ảnh thiếu nữ Sài Gòn xưa hơn 50 năm trước vẫn thấy nét đẹp hiện đại bên cạnh vẻ thùy mị. Mũi cao, lông mày đã tỉa gọn, áo dài cổ cao. Các cô đạt giải đều có học, tự tin, tượng trưng cho lớp phụ nữ Sài Gòn mới của nửa sau thế kỷ 20.
Giai Nhân Một Thuở
Có lần đến Thượng Hải, sau mấy ngày rảo quanh khu Phố Đông và các trung tâm thương mại, tôi rút ra kết luận rằng số phụ nữ xinh đẹp ở đây chiếm tỉ lệ cao so với các thành phố mà tôi từng ghé qua ở Trung Quốc. Với mày cong, mắt hơi xếch, da trắng hồng, họ như từ tranh Tố nữ Tàu xa xưa bước ra. Chân họ cao và bắp chuối thon thả, khác với đôi chân có bắp chuối tròn lẳn mà tôi thấy khá nhiều ở các cô gái bên Nhật. Đó phải chăng là nét đẹp phổ biến của con gái Thượng Hải? Anh phiên dịch bảo “Là dân Thượng Hải, nghĩa là có thể mang gốc gác ở đâu đó trên khắp Trung Hoa. Anh đừng mơ tìm thấy nhiều gái đẹp ở Tô Châu hay Hàng Châu như trong câu “Trên có thiên đàng, dưới có Tô - Hàng”. Thượng Hải đã thu hút những người xinh đẹp nhất về đây cả rồi”.
Quả đúng như vậy, các cuộc di dân trên khắp thế giới đã phá vỡ tính nhất quán về phong tục, cách sống trong cư dân từng khu vực. Những đô thị phồn thịnh thường thu hút người tài giỏi, sáng láng, trẻ trung và xinh đẹp từ mọi miền. Bởi thế khi bàn về nét đẹp của các giai nhân trên đất Sài Gòn, một đô thị với tuổi đời chỉ hơn 300 năm, thì đừng so sánh nét đẹp người Sài Gòn với người vùng khác mà phải hiểu đó là giá trị tổng hợp từ nhiều vùng miền tạo nên.
Thanh niên Sài Gòn thường xuýt xoa khi ngắm nét đẹp quý phái của các bạn gái xứ Huế có họ Công Tằng, Công Huyền dù khi đến nhà họ chơi, nghe cô nói chuyện với ba mẹ thì hoàn toàn không hiểu nổi một câu. Con gái Bắc sống dọc đường Lê Thánh Tôn, Quận Nhứt, khu Ông Tạ hay xứ Bùi Chu Phát Diệm dọc đường Lê Văn Sĩ duyên dáng kiểu con gái Bắc và tất nhiên không phải cô nào cũng như trong thơ của Nguyễn Tất Nhiên “nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền…”. Người đẹp khu dệt vải ngã tư Bảy Hiền, quận Tân Bình thì giọng vẫn đặc sệt Quảng Nam, gò má hơi cao, mặt hơi vuông làm ngẩn ngơ học trò nam Trung học Nguyễn Thượng Hiền gần đó.
Tuy là nơi quần tụ, nhưng những đặc điểm phóng khoáng của vùng đất mới cũng hình thành những nét chung của người đẹp trên đất Sài Gòn. Khác với nét đài các của thiếu nữ Hà Nội hay vẻ thùy mị thướt tha của con gái Huế, những thiếu nữ Sài Gòn luôn gây ấn tượng bởi sự trẻ trung và tự tin.
Nhiều người cho rằng dù có mặc áo dài thướt tha, họ vẫn đi đứng uyển chuyển, chân bước dài, hai tay vung vừa phải. Họ đi nhanh nhưng dáng vẫn mềm mại, nữ tính. Nét riêng đó có thể hình thành từ cuộc sống nhộn nhịp của Sài Gòn từ khi chuyển mình thành Hòn ngọc Viễn Đông cuối thế kỷ 19.
Cũng có thể do thời tiết Sài Gòn không có mùa lạnh để mà co ro, lặng lẽ hay trầm ngâm trên đường đi. Cuộc sống xô bồ nơi thị thành khiến họ thoải mái và tự nhiên.
Tuy vậy, đừng đánh giá sai lầm về họ nếu chỉ nhìn bề ngoài. Những thiếu nữ Sài Gòn xưa có thể ngồi ăn hàng ngoài đường rất hồn nhiên nhưng cử chỉ không hề suồng sã. Họ cũng có thể ăn mặc thoáng mát với quần short, áo không tay hay jupe ngắn nhưng không có nghĩa là chơi bời buông thả. Họ có thể không ngại chạy thử một loại xe mới, đánh tennis, bơi thuyền, thậm chí tham gia một trận đá bóng nhưng không hề tỏ mình là “có cá tính”. Họ dễ bắt chuyện nhưng không dễ làm thân, rất cởi mở vui vẻ khi làm quen nhưng không dễ “cưa đổ” như nhiều chàng tưởng bở.
Giới trẻ học đường cách nay bốn mươi năm bảo nhau “con gái Bắc xinh học Trưng Vương, con gái Nam đẹp học Gia Long (nay là Nguyễn Thị Minh Khai)”. Các cô học trường Tây như Regina Pacis, Regina Mundi, Marie Curie đa số nhà khá giả, nhiều cô là con cái địa chủ Tây Nam bộ, nói tiếng Pháp như gió, dạn dĩ và ăn mặc rất chic, nhảy đầm một cây. Giới trẻ Sài Gòn ngắm nhau khi bát phố ngoài đường Lê Lợi, Tự Do mỗi chiều cuối tuần, nhưng dễ nhất vẫn là ở những buổi giao lưu văn nghệ các trường vào dịp giáp Tết.
Lúc đó, mỗi trường đều làm nội san Xuân in bằng máy quay Ronéo, xong đóng tập đem bán gây quỹ tặng các bạn nghèo. Những nữ sinh xinh xắn và có tài ăn nói được chọn để lập nhóm đi bán nội san ở các trường khác. Khoảnh khắc đó thật vui khi đang giữa mùa mát trời ở Sài Gòn, các cô gái xinh bất ngờ vào lớp khiến bầy trai trẻ ngồi chộn rộn. Nhan sắc Sài Gòn được nhận diện ngay từ thời đi học và sau nhiều năm, rất nhiều người còn nhớ những lúc như vậy.
Người đẹp vì lụa. Sài Gòn cũng có lụa Hà Đông để làm dịu cái nắng nhiệt đới như Nguyên Sa nói (không hiểu thứ lụa này từ đâu ra khi đất nước đang chia cắt?). Tuy nhiên, vẻ đẹp của Sài Gòn trước hết từ tà áo dài. Áo dài những năm 50, 60 không hề bị nhẹ thể như bây giờ. Các ca sĩ thời thượng nhất vẫn thích trình diễn trong bộ áo dài. Áo dài đi làm, đi dạo phố Bonard (Lê Lợi) hay Catinat (Đồng Khởi). Áo dài đi mua hàng siêu thị Nguyễn Du giữa những năm 1960.
Màu sắc nào dường như cũng có pha thêm màu trắng cho dịu đi. Trang điểm vừa phải vì ai trang điểm đậm sẽ bị quy là giao du với lính Mỹ hay bán ở Snackbar (nơi ăn chơi). Mắt kẻ viền ở mí trên, đánh bóng với màu xanh, nâu hay tím nhạt.
Và lúc này có thêm một sự cách tân nữa khi các cô mặc áo dài với quần tây may ống thẳng, rồi lại với quần xéo bằng hàng mềm, rất tốn vải vì xếp xéo để cắt. Diện và tha thướt hơn thì may bằng hàng mouseline mỏng, có lót bằng vải đen hay trắng. Mãi sau 1975, mốt áo dài bận với loại vải này vẫn được chuộng, có điều nó quá mỏng khiến bọn nam sinh cấp 3 chúng tôi phải sững sờ khi nhìn thấy các cô giáo mặc lên lớp (!).
Khoảng giữa những năm 1960, các mốt thời trang khác như jupe hay mini jupe và các thứ váy đầm cập nhật nhanh chóng. Nhiều người nước ngoài đã ngỡ ngàng khi thấy thời trang Sài Gòn theo sau phương Tây chỉ một vài tháng. Và với mode, con gái Sài Gòn chấp nhận cái mới nhanh chóng rồi sau đó tự gạn lọc và tìm cách tạo nét riêng chứ không thích mặc giống nhau hay na ná nhau. Đối với họ, trời đất đủ rộng để không cần bó hẹp vào sở thích của tập thể.
Hình ảnh người đẹp Sài Gòn còn gắn với hình ảnh chiếc xe. Có thể những năm 1950, nhóm xe Mobylette hay các loại xe của Đức như Goebel, Puch hay Sachs chưa làm được chuyện này vì dáng cứng, hợp với đàn ông. Đến giai đoạn sau, chiếc Vespa của Ý dù do đàn ông cầm lái vẫn tạo nên vẻ đẹp của… các cô khi họ được các đấng hào hoa chở trên yên sau (như trong phim Kỳ nghỉ hè ở Roma do Gregory Peck và Audrey Hepburn đóng). Chiếc Vespa của Ý màu xám và của Pháp hiệu A.C.M.A màu vàng gọn nhẹ, kiểu dáng thanh tú và có bánh xe sơ cua để vi vu từ Sài Gòn ra tắm biển Vũng Tàu mà chẳng cần đi ô tô. Lúc đó, các cô ngồi sau xe luôn ngồi một bên, hai tay ôm eo người chở. Dáng ngồi chéo đầy nữ tính vừa nhu mì vừa thể hiện nét đẹp hình thể rất rõ. Sau này, khi Honda Nhật nhập vào miền Nam, các cô bận áo dài đi làm cưỡi honda dame dành cho phụ nữ, đôi chân khép phía trước dễ dàng và tà áo được vắt lên phía trước để không nhăn. Trời nắng nên luôn đeo kính mát, găng tay trông rất sang, và nhiều cô cài băng đô khiến khuôn mặt sáng lên, tóc gọn đi.
Nhưng được ca ngợi vẫn là dáng các cô đi Vélo Solex. Nguyên Sa viết:
“Sài Gòn phóng solex rất nhanh.
Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants.
Có nghe hơi thở cài vương miện.
Lên tóc đen mềm nhung rất nhung...”
Hình ảnh đó lay động trái tim nhiều chàng trai Sài Gòn thời ấy, và vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức họ cho đến ngày nay.
Nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh với vẻ đẹp trong trẻo và quyến rũ. Bà nằm trong số diễn viên ít ỏi có vai diễn trong phim truyền hình Mỹ và điện ảnh Hollywood. Trong đó, nổi bật là vai diễn trong phim The Joy Luck Club (Phúc Lạc Hội) của Wayne Wang (1993).
Ca sĩ Minh Hiếu có nét đẹp phảng phất diễn viên điện ảnh Mỹ Liz Taylor. Theo ông Đinh Tiến Mậu, cô Minh Hiếu có nét đẹp nổi trội nhất trong số nữ nghệ sĩ ông đã chụp chân dung.
Nghệ sĩ Thanh Nga
Ca sĩ, diễn viên điện ảnh Thanh Lan
“Minh tinh điện ảnh” Thẩm Thúy Hằng
Sách Đẹp
Cách nay mấy năm, qua trang web bán sách xưa ở Pháp, tôi mua được cuốn Tân bản L’Art à Hué in năm 1930. Sách được đóng bìa cứng, gáy đóng bằng da trừu mịn màng theo kiểu xưa, giấy in trắng ngà, dày, cứng cáp và in ấn hình ảnh sắc sảo. Điều khiến tôi vui là phía trong bìa sau còn dán tờ hóa đơn màu hồng của Nhà Morin Frères d’ Annam rất nổi tiếng (kinh doanh chính là khách sạn ở Huế và Đà Nẵng đầu thế kỷ 20). Hóa đơn ghi rõ sách được mua tại Huế vào 20 tháng 1 năm 1942 theo chi phiếu số 153 với giá 5,5 đồng bạc Đông Dương. Bên cạnh hóa đơn có dán nhãn tên nhà đóng sách Nguyen – Van – Chau, địa chỉ là 159 phố Douaumont Saigon (nay là đường Cô Giang, quận 1) cùng một địa chỉ khác ở Phnôm Pênh. Quyển sách được xuất bản ở Huế, trôi dạt sang Pháp và cuối cùng đã trở về chính quán của mình, sau nửa thế kỷ tha hương có lẽ.
Được xuất bản chính thức 2 lần, năm 1919 và năm 1930 (gọi là Tân bản – Nouvelle Edition), cuốn Nghệ thuật Huế là một trong những đặc san chuyên khảo nằm trong bộ Tập san Đô thành Hiếu cổ (Bulletin Des Amis Du Vieux Huế) [3] . Quyển sách này đến nay vẫn được giới chơi sách săn lùng cùng với quyển Musée Khai Dinh (Bảo tàng Khải Định) là một sách chuyên khảo khác cùng nơi xuất bản. Trong quyển Thú chơi sách, Vương Hồng Sển kể lại một câu chuyện mà ông cảm thấy đau lòng. Ông có đủ các quyển Đặc san của bộ báo là hai quyển nói trên, cùng quyển thứ ba là Khảo về nha phiến (L’ Opium). Do rất thích ba cuốn này nên ông đóng bìa đỏ có mạ vàng cẩn thận. Đến năm loạn lạc 1945, khi ông chạy vào làng Hòa Tú ở Sóc Trăng, lính Tây bắn phá khiến cả nhà lại chạy vào rừng.
Đến khi quay trở về, tủ sách của ông bị lục phá tơi bời, sách bị nông dân xé lấy giấy để hút thuốc. Ông khổ tâm nhất là khi thấy mấy thanh niên tá điền mang theo túi da còn rành rành tựa ba cuốn sách mà ông cưng nhất nói trên.
Dù sao, khác với bộ Kỹ thuật của người Annam của Henri Oger in trên giấy dó vô cùng hiếm hoi, bộ Nghệ thuật Huế không đến nỗi hiếm. Nó có mặt trong một số tủ sách nổi tiếng ở Huế, Sài Gòn. Ấn bản đầu tiên năm 1919 khó tìm trong nước nhưng vẫn có thể tìm ở các nhà buôn sách hiếm nổi tiếng trên thế giới, nhất là ở Pháp.
Đọc bản dịch sang tiếng Việt của quyển Nghệ thuật Huế (Nhà xuất bản Thuận Hóa), chúng ta bắt gặp bài thơ của V. Muraire khá cảm xúc, có những câu:
"Giữa các màu xanh cổ, cẩn xà cừ ngà voi
Một ông quan thất vận đọc lại pho sách cũ
Ông ngâm nga thời qua, thời oanh liệt ngày trước"
Bài thơ mở đầu thật cuốn hút, báo trước nội dung hấp dẫn của quyển sách. Quả thật, nó có nhiều bài viết hay về nghệ thuật Huế và tranh vẽ có ích cho ai nghiên cứu hay muốn tìm hiểu về nghệ thuật Huế trong kiến trúc và mỹ thuật đầu thế kỷ 20. Hầu hết bài viết đều của Linh mục Léopold Cadière và có duy nhất một bài do người khác tên là Edmond Gras viết.
Bản in 1930 của tôi có 222 phụ bản bên cạnh 167 trang viết (bản 1919 chỉ có 157 trang viết). Đầu trang sách là lời đề tặng của tác giả gửi tới ba nhân vật: cựu Toàn Quyền Đông Dương Albert Sarraut, lúc đó đang là Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa, Vua Khải Định và M.J.E. Charles, cựu Công Sứ ở Trung Kỳ.
Về nội dung, mở đầu là bài Mỹ thuật ở Huế nêu cái nhìn tổng quan của L.M Cadière. Sau đó là bài về “Thành phố, nhà cửa, bàn ghế, hàng thêu…” của E. Gras. Tiếp theo có các bài của ông Cadière bao gồm “Các mô típ trang trí có tính hình học”, “Mẫu chữ Hán”, “Tĩnh vật", “Hoa và lá, cành và quả”, “Động vật”, “Điêu khắc” và “Phong cảnh” . Các hình vẽ được thể hiện tỉ mỉ, màu sắc từng bức tranh rất đẹp, từ hơn chín mươi năm qua vẫn đủ hấp dẫn người xem, tạo được ấn tượng mạnh mẽ về sự tinh tế của nghệ thuật chạm khắc, hội họa thời nhà Nguyễn qua bàn tay nghệ nhân xứ Huế và cả nước tập trung về kinh đô đầu thế kỷ 20.
Theo nhà văn Sơn Nam, cuốn L'art à Hué là tư liệu chuẩn mực về kiểu thức, thiết kế họa tiết trang trí cho các chùa chiền lăng tẩm của cả Sài Gòn và đất Nam bộ thời bấy giờ.
Chú thích:
[1] Theo Hồ Trường An.
[2] Theo Hồ Trường An.
[3] Tập san Đô thành Hiếu cổ do một số quan cai trị người Pháp, các giáo sĩ và các giáo sư, cả Pháp lẫn Việt viết. Chủ đề các bài trong Tập xoay quanh Cố đô Huế xưa cũng như Triều đình nhà Nguyễn. Tập san ra được đúng 31 năm, từ 1914 tới 1944 và trở thành tài liệu nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới. Nhà xuất bản Thuận Hóa những năm gần đây đã dịch sang tiếng Việt một số tập.
Đóng Sách Đẹp, Nghề Mai Một
Thời Trung Cổ ở phương Tây, sách đã bắt đầu được đóng một cách tỉ mỉ, tính mỹ thuật cao nếu qua tay một nghệ nhân giỏi. Các nhà sưu tầm sau này săn lùng chúng trong các cửa hàng sách hiếm, các phiên đấu giá và họ xem chúng là bảo vật. Họ sưu tầm những bìa sách đóng cho các vua chúa hay những người chơi sách nổi tiếng của một giai đoạn lịch sử, sưu tầm sách trang trí đẹp, những sách có chữ ký, những cuốn sách đóng bằng da dê thuộc (maroquin) hay da cừu thuộc (vélin), bìa bằng gỗ hay da in hình nổi, bìa sơn hay khảm, bìa làm theo những hình thức đặc biệt, sách đựng trong hộp hình trái tim… Có người tiêu phí những món tiền khổng lồ để mạ vàng và trang trí bìa sách bằng da dê.
Ở Việt Nam chắc chắn chưa có một ngành đóng sách đạt tới mức tinh tế và cao cấp như vậy. Người Pháp sống ở Việt Nam trước 1954 có nhu cầu bọc sách bằng bìa da chắc cũng chấp nhận trình độ đóng sách đủ để bảo quản cuốn sách chắc chắn trong khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, hơn là đòi hỏi mức độ mỹ thuật điêu luyện như ở chính quốc của họ. Giới đóng sách mua da nhập từ nước ngoài, mua da thuộc của người Hoa trong Chợ Lớn để phục vụ cho khách đóng sách đa số là dân Tây và những người Việt có học, hoặc đang làm việc cho Pháp.
Tôi tìm thấy vài dòng quảng cáo trên trang 6 tờ báo Nông Cổ Mín Ðàm năm 1915: “Nhà Đóng sách J. VIẾT-LỘC & CIE ở đường d”Ormay, số 61, Saigon. Lê văn Ngàn kế vị. Kính cùng chư quý vị đặng rõ, kể từ ngày 15 tháng sáu langsa, chúng tôi mới làm hùn thêm đặng lo tấn tới và mở mang cuộc đóng sách và cuộc buôn bán thuở nay của mấy thầy Viết-Lộc và Công-ty.
Vậy xin trong lục châu (lục tỉnh?) cùng châu thành Saigon Chợ lớn tưởng tình anh em chúng tôi trước sau cũng vậy mà giúp sức cho người nam ta cho tấn tới theo đường thương mãi.”
Người Pháp mở đầu việc mua vải thổ cẩm trên Đà Lạt, Ban Mê Thuột về bọc sách. Vải thổ cẩm có sợi chỉ nổi, nhiều màu, tạo sắc thái lạ tuy không bền bằng da. Những thợ đóng sách lớn tuổi ở Sài Gòn nhận xét người Pháp thích đóng sách bìa da, mạ chữ vàng, làm gân kỹ lưỡng. Những người Mỹ ở Việt Nam trong suốt thời gian trước 1975 không chú trọng việc này.
Đâu còn mấy dấu vết của nghề đóng sách xa xưa ở Sài Gòn!
Nhà Nguyễn Văn Của, một nhà in nổi tiếng về in và đóng sách mỹ thuật của Sài Gòn xưa được nhắc nhiều, cũng không còn lại gì ngoài cái tên và chút vết tích bên ngoài trên tầng áp mái của tòa nhà này (mặt tiền nhìn ra đường Nguyễn Du ngó thẳng qua hông Bưu điện Thành phố) còn hàng chữ nổi “Nguyễn Văn Của” nay đã bị che khuất bởi các bảng hiệu. Nhà in này là phần nối theo cửa hông Nguyễn Du của bót Catinat cũ...
Trước 1975, Sài Gòn đã nhập bìa simili giả da nên hầu như không có mấy chỗ đóng bìa da như khoảng thời gian thập kỷ 40, 50 trở về trước. Nhưng trước đó, sách có bìa bọc gấm và da cừu đã quen thuộc với giới chơi sách rồi. Thời Pháp thuộc, nhà đóng sách Nguyễn Văn Châu ở đường Cô Giang quận 1 đóng nhiều loại này cho người Pháp và giới đọc sách Việt có tiền. Có quyển bọc toàn da, có quyển chỉ bọc gáy và bốn cạnh vuông bằng da, chừa lại bìa bằng carton. Sau nửa thế kỷ hoặc hơn, bìa nhiều quyển sách không hề suy suyển bởi thời gian, chữ mạ vàng phai không đáng kể, không bị xộc xệch do được may kỹ. Đóng bằng da đương nhiên là mắc tiền, chỉ dành cho sách quý.
Đầu năm nay, tôi gặp được bà Trần Thị Hai, còn gọi là Bà Hai Công Lý, năm nay đã 87 tuổi, một người mà giới xuất bản, chơi sách từ thời trước 1975 đều biết tiếng. Bà là em họ ông Nguyễn Văn Châu, chủ cơ sở đóng sách Nguyễn Văn Châu nói trên, gọi mẹ của ông bằng cô ruột. Bà và chồng làm việc cho ông Châu từ trước 1945. (Ông Văn Thơ, một chủ hiệu đóng sách có tiếng trước kia ở đường Phan Thanh Giản, nay là Điện Biên Phủ cũng từng làm việc cho ông Châu).
Ông Nguyễn Văn Châu được gọi là Paul Châu, dân Công giáo và Paul là tên Thánh. Thời gian làm việc với ông, bà Hai Công Lý nhớ là đã đóng rất nhiều sách cho các bác sĩ, y sĩ người Pháp, Tây đầm đủ cả từ Nhà thương Grall, nay là Bệnh viện Nhi đồng II… Họ chơi sách kỹ, thích làm gáy sách lưng cong bọc simili hay da bò, có nổi gân.
Sau 1954, công việc làm ăn của ông Châu khó khăn, ông về Giáo xứ Bùi Môn ở Hóc Môn sinh sống, tiếp tục làm nghề đóng sách độ nhật và mất tại đó trước 1975. Phần bà Hai cùng chồng mở cửa hiệu ở góc đường Lê Hồng Phong - Nguyễn Trãi và đóng sách, bế hộp cho các hiệu thuốc Nhành Mai - Võ Văn Vân.
Anh Võ Văn Rạng, thợ đóng sách ở quận 3 được giới chơi sách xưa Sài Gòn tín nhiệm.
Đầu thập niên 1960, gia đình bà Hai may mắn có cơ hội thay đổi cuộc sống từ nghề đóng sách. Ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách Khai Trí lớn nhất miền Nam chọn gia đình bà để giao việc đóng toàn bộ sách bìa cứng cho các cuốn sách và bộ báo có giá trị của Nhà sách Khai Trí, còn bìa mềm do một cơ sở khác đảm nhận. Các bộ Tự điển lớn, bìa cứng như tự điển Nguyễn Văn Khôn, báo bộ đóng tập… đều do gia đình bà Hai đóng.
Ông Nguyễn Hùng Trương có một nhà kho lớn chứa sách đặt trong con hẻm 193 đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) gần nhà sách Khai Trí trên đường Lê Lợi. Để thuận lợi công việc, ông tặng cho gia đình bà Hai một căn nhà dài 22 mét, bề ngang rộng 4 mét sát bên cái kho đó và giao chìa khóa kho để quản lý, tiện ra vào lấy sách đem đóng. Ông Nguyễn Hùng Trương đã không chọn nhầm người. Gia đình bà Hai luôn chu toàn công việc, rất kỹ lưỡng, chuyên cần, lại đúng hẹn nên rất được tin cậy. Ông bà yên tâm nuôi tám người con nhờ nghề này và từ đó, giới làm sách gọi bà là Bà Hai Công Lý.
Con trai bà Hai, anh Lê Hoàng Vân theo nghề của gia đình từ nhỏ cho đến gần đây mới thôi nghề. Một người bạn của anh là Võ Văn Rạng ở đường Lê Văn Sĩ, quận 3 từng đến học nghề của gia đình bà Hai nay trở thành người đóng sách bìa cứng được cộng đồng sachxua.net, nơi tập họp giới chơi sách có uy tín nhất Việt Nam tin cậy và giới thiệu cho nhau khi muốn đóng bìa để bảo quản sách quý.
Bác Thân, một độc giả mê sách ở Sài Gòn lại có cách riêng của mình để làm đẹp quyển sách, khi nghề đóng sách đẹp đã mai một dần. Trước 1975, có người nhập da cừu từ nước ngoài về để bán làm khăn lau xe hơi. Do xé ra từ mảng da lớn nên mỗi miếng da thường không có khổ ngay ngắn, mỗi cạnh vài tấc. Sau khi lau một thời gian, miếng da sờn lớp lông mịn nên người ta bỏ đi, có người nhặt nhạnh đem bày bán ở vỉa hè đường Pasteur, gần Quán nước mía Viễn Đông khu chùa Chà Và. Bác Thân mua về giao cho tiệm đóng sách. Tiệm chiều khách, nhận miếng da, cắt theo khổ sách và bọc sách rất đẹp. Họ nhận luôn cả những miếng gấm mà bác cắt ra từ quần áo cũ may bằng gấm Thượng Hải, Hồng Kông óng ả, để bọc bìa sách tạo vẻ đẹp rất phương Đông và cổ điển, hợp cho loại sách về văn hóa.
Nghề đóng sách ở Sài Gòn, theo Tự điển phân loại nghề nghiệp Việt Nam quyển 2 (Bộ Lao Động VNCH 1973) trang 183, là nghề có mã số 9-26, bao gồm đóng sách và tạp chí bằng tay hay bằng máy đóng sách. Họ lắp khuôn chữ hay hình vào cần in, nung nóng cần in, đặt giấy sáp hóa học lên vị trí ấn định, ép cần in lên giấy sáp hóa học (giấy sáp có màu sắc khác nhau như vàng, bạc…)
Nhà đóng sách Văn Thơ góc Điện Biên Phủ, gần Hai Bà Trưng là tiệm đóng sách mạ chữ vàng trên gáy và bìa sách rất đẹp. Bộ chữ dùng bằng đồng.
Theo ông chủ hiện nay, là con lớn cụ chủ cũ đã mất, trước đây bộ chữ đồng nhập ngoại rất sắc sảo và chịu nhiệt cao nên chữ in rất đẹp, hiện nay, bộ chữ bằng chì, kém chịu nhiệt nên chữ khó đẹp bằng trước kia. Sách vừa đóng xong thường được đặt một miếng giấy carton bên trong cuốn sách. Có lẽ để trong quá trình keo dán khô dần, sách không bị căng kéo từ phía gáy.
Kinh nghiệm của ông Vương Hồng Sển nêu trong cuốn Thú chơi sách là cần chọn màu sắc bìa phù hợp với nội dung quyển sách, nội dung buồn thì bìa nên trầm sâu, không thể lòe loẹt vui tươi. Ông Sển than là không phân biệt nổi các thứ da đóng sách, có lẽ do điều kiện xã hội lúc đó (và cả bây giờ) không có mấy ai có nhu cầu đóng sách đẹp nên nghề đóng sách không phát triển, nguyên liệu nhập không nhiều và đa dạng, làm sao mà có để so sánh, đánh giá.
Có một quan niệm phổ biến trong giới chơi sách ở Việt Nam. Đó là khi mua một quyển sách dù cũ hay mới, họ thích có một ấn bản càng nguyên vẹn càng tốt. Họ không thích sách đóng bìa vì cho rằng chỉ có sách bị hư gáy hay rách bìa mới phải đóng lại bìa.
Trong khi đó, với giới chơi sách phương Tây, theo Quyển sách, nghề xuất bản và nghề bán sách do Lê Thái Bằng dịch từ phần Le Livre tập 18 bộ Bách khoa toàn thư Pháp , Viện Đại học Huế xuất bản năm 1962 thì “chín phần mười trước khi được bày vào tủ của một người sưu tập sách khó tính, sách phải qua tay người thợ đóng bìa lại” .
Có lẽ nghệ thuật đóng sách thủ công nguyên thủy là một nghệ thuật hoàn toàn khác với kỹ thuật đóng sách ở ta lâu nay, vừa thô giản, vừa thiếu tinh tế nên làm cuốn sách không nâng cao giá trị mà có khi là ngược lại.
Nhà Sách Ở Đường Sabourain
Năm 1939, có một thanh niên Hà Nội cùng gia đình lên xe lửa xuyên Việt đi từ miền Bắc vào Nam để lập nghiệp. Đến Sài Gòn, anh tìm mua một căn phố ở đường Sabourain, nhìn ra cửa Tây chợ Bến Thành và mở một cửa hiệu bán sách đặt theo tên mình - Nhà sách Nguyễn Khánh Đàm.
Con đường này vốn tấp nập từ khi chợ Bến Thành được xây vào năm 1914. Tên đường đặt theo tên ông Gustave Sabourain, là chủ đồn điền cà phê cao su ở Nam Kỳ đầu thế kỷ 20 và là hội viên, thư ký của Hội Tam Điểm tại Sài Gòn. Từ thập niên 1920, đã có Nhà in Tín Đức thư xã ở số 37-38-39 trên đường này, xuất bản nhiều sách tiểu thuyết lịch sử của Phạm Minh Kiên, Tân Dân Tử… là những tác phẩm của thuở ban đầu trong văn học quốc ngữ Việt Nam, cũng như các truyện Tàu Thủy Hử, Tam quốc diễn nghĩa, Nhạc phi diễn nghĩa và các sách tiếng Pháp.
Tuy chỉ tồn tại trong vòng sáu năm, Nhà sách Nguyễn Khánh Đàm có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống văn hóa Sài Gòn thời đó. Năm 2010, tại Hà Nội có mở cuộc triển lãm Lịch sử báo chí Việt Nam lần thứ ba, và lần này, cái tên Nhà sách Nguyễn Khánh Đàm được nhắc lại nhiều lần trên các báo đài, với vị thế là Nhà tổ chức triển lãm Báo chí Việt Nam lần đầu tiên trên toàn cõi Việt Nam. Cuộc triển lãm năm 1943 tại Sài Gòn đã giúp người đọc trong nước và cả người Pháp tại thuộc địa biết đến nền báo chí tuy non trẻ của nước Việt. Dù chỉ mới bắt đầu từ năm 1865 với tờ Gia Định báo của Trương Vĩnh Ký nhưng đã nở rộ rất nhiều ấn phẩm từ Bắc chí Nam. Cuộc triển lãm này cũng là chặng dừng chân để tạm tổng kết một chặng đường phát triển của nền báo chí Việt.
Ông Nguyễn Khánh Đàm là em ruột nhà văn nổi tiếng Nguyễn Tuân. Theo anh Nguyễn Lương Dân, cháu đích tôn của ông Nguyễn Khánh Đàm đang sống ở Hà Nội, ông Đàm có tính cách khác với ông anh ruột. Trong khi ông Nguyễn Tuân quảng giao thì ông Đàm lại có tính trầm lặng, ít nói. Vốn là em rể ông Vũ Đình Long, chủ nhà xuất bản Tân Dân, ông Đàm vào Sài Gòn mở Nhà sách với mục đích tạo lập việc kinh doanh ở một thị trường vốn rất sôi động việc đọc, kinh doanh sách báo (tuy vậy đến giờ con cháu ông không rõ liệu công việc này có phải là bình phong để hoạt động cách mạng hay không?). Theo gia đình, ông Nguyễn Khánh Đàm là một nhân vật của ngành kinh doanh sách báo chứ không phải là nhà văn như một vài tờ báo đã đưa tin.
Nhìn vào số hình ảnh ít ỏi còn lại từ gia đình cung cấp, vốn đã hư hao rất nhiều, chúng ta vẫn thấy Nhà sách Nguyễn Khánh Đàm bảy mươi năm trước đã ra vẻ một nhà sách bề thế, hiện đại so với thời bấy giờ qua cách trưng bày. Phía dưới bảng hiệu được đắp nổi bằng thạch cao, bên góc trái ông cho đặt một kệ bày báo từ thấp lên cao. Bên trong nhà sách, ngoài các tủ kệ trưng bày sách phô gáy ra ngoài, có một số sách bày trang bìa trực diện để gây chú ý. Giữa nhà sách là một tủ kệ thấp có khung kính, đặt những ấn phẩm đặc biệt. Theo Hồi ký Nguyễn Bính, một vì sao sáng của nhà thơ Hoàng Tấn, đây chính là nơi mà nhà thơ Nguyễn Bính đã bày bán đấu giá tập thơ do chính ông viết tay Lỡ bước sang ngang . Trong Nhà sách còn có trưng bày quần áo, có vẻ là đồng phục của học sinh.
Rõ ràng, từ lúc đó, ông Khánh Đàm đã thể hiện cung cách làm ăn chuyên nghiệp khi trở thành Đại lý phân phối sách báo của Nhà xuất bản Tân Dân vốn đang thịnh với hàng loạt những tờ báo, tạp chí nổi tiếng như Tiểu thuyết Thứ bảy, Truyền Bá, Ích Hữu, Tao Đàn, Phổ thông Bán Nguyệt san … Ông lại biết tổ chức sự kiện tạo thanh thế và uy tín như tổ chức triển lãm báo chí, biết cách chọn địa điểm mở nhà sách, bày biện để thu hút người đọc xứ Nam kỳ. Nhà sách này đáp ứng đúng nhu cầu người đọc trong Nam đương thời, ưa chuộng báo chí và văn chương từ miền Bắc vốn đang phát triển mạnh với Nam Phong Tạp chí, Tri Tân, Tiểu thuyết Thứ bảy, Phong Hóa, Ngày Nay … cũng như nhiều cây bút mà xứ Nam kỳ rất kính nể như Tản Đà, Nguyễn Bính, Lê Văn Trương cho đến nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Ngoài ra, Nguyễn Khánh Đàm còn mở thêm hai quầy báo (kiosque) ở đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn ngày nay) để bán sách báo cho khách vãng lai nữa.
Các yếu tố này giúp việc bán sách báo thời gian đầu phát triển rất tốt. Trong bài Chuyện câu đối Tết giữa kinh thành Sài Gòn (trang 10, tạp chí Sáng Dội Miền Nam số Tết Nhâm Dần năm 1962), thi sĩ Đông Hồ đã thuật lại lời ông Nguyễn Khánh Đàm kể về chuyện phát hành sách báo bận rộn vào dịp Tết ở Sài Gòn năm 1940 như sau:
“Tôi phải cho dựng thêm hai cái lều bán sách lẻ ở bùng binh trước chợ Bến Thành mà không kịp cung cấp.
Cứ một bức điện gửi đi Hà Nội đòi thêm báo, thì đồng thời cũng có một bức điện đi Huế đòi gửi thêm sách, có khi sáng một bức, chiều một bức…”
Vị trí Nhà sách Nguyễn Khánh Đàm do chính tay ông ghi chú trên ảnh.
Cuộc triển lãm báo chí Việt Nam lần thứ nhất tổ chức ngay tại Nhà sách đã gây được tiếng vang nên có báo ở Hà Nội phải cử phóng viên vào theo dõi. Phải đợi đến 23 năm sau, mới có cuộc trưng bày báo chí lần thứ hai diễn ra vào năm 1966, cũng tại Sài Gòn.
Thời gian này, ông Nguyễn Khánh Đàm còn làm được một việc quan trọng cho ông anh của mình, nhà văn Nguyễn Tuân. Ông đã lên tiếng bảo vệ danh dự ông anh khi có kẻ mạo danh anh trai mình đi lừa gạt, mượn danh nhà văn để vay tiền rồi không trả. Thấy đây là vụ việc nghiêm trọng, ông Đàm đã đâm đơn kiện tên lừa đảo này và nay câu chuyện còn được nhiều báo nhắc tới.
Trong sáu năm làm ăn kinh doanh, ông Nguyễn Khánh Đàm được tiếng là thương người. Do Nhà sách lớn nên ông có từ 15 đến 20 nhân viên phục vụ tùy thời điểm. Chỉ huy đội ngũ này là bà Vũ Thị Vân, vợ ông Đàm, chuyên ngồi tại Nhà sách quản lý và lo thu chi để ông tập trung việc tổ chức nguồn sách và phân phối. Nếu có đám cưới mà cô dâu chú rể đều cùng là nhân viên của Nhà sách, hai ông bà sẽ tặng cho một căn nhà để sinh sống. Những năm xảy ra đói kém, ông bà tổ chức nấu cơm đem ra phố phát chẩn cho người nghèo đói.
Năm 1944, ông Nguyễn Khánh Đàm lên Đà Lạt mở thêm hiệu sách thứ hai. Giai đoạn này Đà Lạt đã phát triển cơ sở vật chất như một thành phố với các kiến trúc lớn như khách sạn Langbian Palace, ga Đà Lạt, dinh Toàn quyền... và các cơ sở văn hóa và giáo dục cũng bắt đầu phát triển, một số trường học thu hút học sinh đến từ khắp Việt Nam và cả Đông Dương. Năm 1938, khi nhà ga xe lửa hoàn thành, du khách tìm đến thành phố nghỉ dưỡng này ngày một đông và chỉ đến năm 1944, Đà Lạt gần như là thủ đô của Liên bang Đông Dương khi hầu hết các công sở quan trọng đều chuyển về đây (theo Wikipedia - Lịch sử Đà Lạt).
Theo các con ông Đàm đang sống ở Hà Nội, có thể do việc hoạt động bí mật, như truyền bá tư tưởng mới nên ông mới nhắm đến Đà Lạt, và không có ý định ở lâu vì ông chỉ thuê nhà mở Nhà sách, không mua hẳn như ở Sài Gòn.
Năm 1945, ông Nguyễn Khánh Đàm tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt. Nhà sách Nguyễn Khánh Đàm cũng ngưng hoạt động từ đó. Đến năm 1949, ông ra Thanh Hóa và công tác tại Lớp dự bị Văn khoa khu IV ở huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Theo bài viết “Lớp dự bị đại học văn khoa khu IV thời kháng chiến chống Pháp” của phó giáo sư Đặng Thị Hạnh thì lớp học khai giảng tháng 9 năm 1949, có Thư ký văn phòng là ông Nguyễn Khánh Đàm bên cạnh hai giáo sư là Đặng Thai Mai và Cao Xuân Huy.
Cùng khoảng thời gian này, ở Sài Gòn, theo Hồi ký Nguyễn Hiến Lê thì căn nhà số 12 đường Sabourain (nhiều bài viết cho là số 14 hay 16 đều không chính xác) đã trở thành trụ sở Nhà xuất bản Phạm Văn Tươi, một nhà xuất bản phát triển rất nhanh và biến thành nơi tụ tập của làng văn làng báo Sài Gòn thời đó.
Sau khi tham gia công tác cách mạng tại Thanh Hóa, ông Nguyễn Khánh Đàm lên chiến khu Việt Bắc và đến năm 1954 thì về tiếp quản Hà Nội rồi sống hẳn tại đó. Năm 1975, ông Nguyễn Khánh Đàm cũng có lúc vào sống ở Nha Trang rồi lại ra Hà Nội cho đến khi mất năm 1985, hưởng thọ 71 tuổi.
“Thơ Thới Nhìn Núi Nam…”
Từ thuở nhỏ, tôi đã thích lân la chơi với các ông già, nhất là những người từng trải qua một cuộc đời phong phú, nhiều mối quan hệ quen biết và chứng kiến nhiều thăng trầm của nhân gian. Tôi thấy được cá tính chung ở các vị trưởng lão là khoan hòa, thích kể chuyện, nhìn người và việc luôn sắc sảo và độ lượng. Trong số đó, có nhà văn Sơn Nam và ông Lý Lược Tam mà tôi gọi là Chú Tám.
Những năm 1990, thỉnh thoảng tôi đến thăm nhà văn Sơn Nam ở căn phòng bé xíu ông thuê trên đường Phan Văn Trị, Gò Vấp. Căn phòng hẹp, bề ngang khoảng hai mét, một bên để giường xếp, một bên để cái bàn, trên bàn là máy đánh chữ cổ lỗ sỉ mà ông vẫn dùng để gõ bài, ở giữa là lối đi len lách. Nhà văn lừng lẫy gắn với những tập sách in rất đẹp, những bộ phim được giải này, giải kia như Người tình, Mùa len trâu , sống giản dị đến mức vô cùng tận. Khi tôi đến, ông chậm rãi khoác vào người cái áo sơ mi, che cái áo thun ba lỗ cũ kỹ. Tôi ngồi xuống ghế, ông vào đề ngay: “Nè, sống ở Gò Vấp này được à nghen, quận này nằm sát Phú Nhuận, Bình Thạnh nhưng giá cả ngoài chợ cái gì cũng rẻ hơn. Cà phê rẻ, cơm bình dân cũng rẻ. Ở đây sống được”. “Chú vẫn ngồi ngoài quán cà phê Nhà Truyền thống?”. “Ngoài đó tiện lắm, ai đến đặt bài thì đến đó. Mấy cô làm ở đó tử tế, cho nghe nhờ điện thoại”. Chắc không chỉ vậy mà ông chọn quán cà phê Nhà Truyền thống quận Gò Vấp làm “văn phòng”. Tính phong lưu, ông chọn một quán cà phê nhiều cây kiểng, có cổ thụ. Giá cà phê tất nhiên là rẻ bèo. Mấy lần trước đến tìm ông, đều nghe ông tấm tắc khen cây mai chiếu thủy này đẹp, cây bông sứ Thái Lan kia có gốc rất ngầu. Ông nói về cây kiểng như một ông cụ thong dong, nhàn hạ chơi cây lâu năm.
Có tiếng nhạc trong cái máy cassette vẳng ra. Ông nói “Tui khoái nhạc này!” Lúc ấy, nhạc không lời của Kitaro mới phổ biến khiến tôi thầm nghĩ: “Lão nhà văn này cập nhật âm nhạc thế giới nhanh quá”. Tiếng nhạc réo rắt như tiếng gió thổi, thác đổ, suối chảy và tôi thấy ông lim dim đôi mắt sau cặp kính trắng, cái tai dày cui, hình dung có gì cổ quái, sần sùi dễ liên tưởng đến lối ví von “nhà văn Sơn Nam như một thầy Tư tế của đất nước Phù Nam xa xưa từ lịch sử bước ra…” của ai đó mà tôi không nhớ nguyên văn. Không chỉ thế, tôi còn cảm giác ông như vị Đạt Ma “cửu niên diện bích”, thấu hiểu lẽ đời qua bao nhiêu năm chiêm nghiệm, coi nhẹ hình hài tóc râu.
Cuốn Hương rừng Cà Mau xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn năm 1962, được xem là tác phẩm quan trọng giúp văn chương miền Nam lấy lại sinh lực sau một thời gian dài trầm lắng
Một người bạn của nhà văn Sơn Nam từng tả cho tôi nghe cảnh nhà văn ngồi viết bài phơi-ơ-tông (Feuilleton), tức bài đăng nhiều kỳ trên cái nhà sàn cất trong sân tòa soạn báo Tia Sáng. Ông thường ngồi xếp bằng như ông Phật, cởi áo sơ mi ra để lộ cái áo thun ba lỗ trên thân hình gầy còm và bắt đầu viết. Trong sổ tay mang theo, nhà văn chỉ ghi tựa bài và câu cuối của cái truyện viết dang dở, và dựa vào đó để viết tiếp kỳ sau ngon lành.
Theo người bạn đó, ông Sơn Nam chơi với tất cả mọi người, nhưng những năm trước 75, hồi còn ở đường Lý Thường Kiệt không mấy người được ông dẫn về nhà. Thời gian sau này, hầu như ngày nào cũng có người đến chở ông đi đây đi đó. Nhưng thật khó biết rõ bạn thân thật sự của ông Sơn Nam là ai. Tính tình ông hề hà, ăn mặc sao cũng được, ít bộc lộ suy nghĩ, chỉ giãi bày trên trang viết. Chuyện riêng tư càng không mấy khi tâm sự cho ai. Sau 1975, ông Sơn Nam viết nhiều hơn và trong lĩnh vực viết lách, ông rất kỹ lưỡng, tham khảo sách vở rất nhiều. Tủ sách của ông có nhiều sách tiếng Pháp, đa số là sách nghiên cứu về Đông Dương, vài cuốn truyện của Anatole France…
Nhà văn lui cui đến cái tủ nhỏ lôi ra một quyển sách có bìa cứng, bọc trong một bìa láng nữa. Dạng sách nghệ thuật này khổ to, đắt tiền, nhiều hình ảnh, rất được giới nghệ thuật và chơi sách ưa chuộng. Ông khoe sau chuyến đi chơi Thái Lan, mua được quyển này, giá tới hơn bốn trăm ngàn nhưng nó hay quá. Quyển sách có bài viết và rất nhiều hình ảnh về bàn tay của vũ công múa truyền thống Ấn Độ, Thái Lan… mà mỗi dáng bàn tay uốn éo thể hiện một tâm thế hay cảm xúc. Một quyển khác tôi thấy trên giường là tập sách ảnh dày và chắc cũng không rẻ về hình ảnh sông Mê Kông, từ thượng nguồn đổ ra Biển Đông với cảnh người dân sinh sống hai bên bờ.
Ông ở Gò Vấp một thời gian rồi cũng phải quay về mái nhà cũ cho bà vợ chăm sóc sau một cơn bạo bệnh. Khi đến thăm, ông than bị nhũn não. Nhưng khi tôi hỏi “chú còn nhớ con không”, ông kể chính xác… quê nội tôi ở đâu.
Tôi tặng ông mấy món quà mọn, trong đó có bốn cái chung uống trà ngư dân vớt ở biển Cà Mau được xác định là đồ sứ sản xuất thời Ung Chính nhà Thanh. Ông nhìn lòng chung có vẽ hình mấy cây hoa cúc bên hàng rào và lẩm bẩm đọc đoạn thơ của Đào Tiềm: “Thái cúc đông ly hạ. Du nhiên kiến nam sơn…” (Hái cúc dưới giậu đông, thơ thới nhìn núi nam) và xác định hình vẽ nhắc tới Ngũ liễu tiên sinh Đào Tiềm. Xong ông khoe “hồi trước tui cũng có chơi ít đồ cổ, thích lắm nhưng không có tiền. À, hồi trước ông Vương Hồng Sển có mua lại của tui, nhưng tui mua bao nhiêu ổng mua lại bấy nhiêu à nha, không cho tui lời đồng nào”. Rồi ông sung sướng nói: “Mấy cái chung này đẹp, chắc tui ngắm nghía mất khoảng một tuần hoặc hơn à nghen”. Ông khoe vừa mới tặng cho Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn ở khu Du lịch Văn Thánh bức chân dung của ông do cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẽ. Anh bạn đi cùng tôi buột miệng “Ui chà, bức đó mà chú bán là nhiều người muốn mua lắm, cả ngàn đô”. Ông bình thản: “Đó là kỷ niệm giữa Trịnh Công Sơn với tui, để đó hay hơn!”.
Nhớ một bữa giỗ năm nào, tôi rước ông về nhà chơi, ăn bữa cơm với ba má tôi. Má tôi lớn hơn ông một tuổi, còn ba tôi hơn ông chục tuổi. Trông những người già cùng ăn cơm, vui vẻ nhắc lại chuyện Sài Gòn xưa thật vui và cảm động. Sau bữa cơm, ba tôi khai trương ngay cái ống điếu ông tặng. Mùi thuốc Gò Vấp khét nồng. Thế là đề tài lại chuyển sang thuốc rê ở đâu là ngon.
Có lần ông nói với tôi: “Ở đâu không biết, ở Việt Nam mình, nhà văn cần có gốc gác nông thôn, vậy mới có thể hiểu đa số người dân mình sống như thế nào và mới thấy được những vấn đề ở ngay thành thị”.
Khi ông còn sống, mỗi lần đến thăm nhà ông về tôi luôn cảm thấy như mới chia tay một ông chú, ông bác rất thân thương của mình. Mối giao cảm đó như kết tinh từ những truyện ngắn, truyện dài và cả hồi ký của ông mà tôi say mê nhiều năm nay. Lúc nào cũng có cảm giác buồn man mác nhưng sâu thẳm trong từng trang viết của ông, như tâm trạng của một cậu bé trong buổi chiều ba mươi hay khi vừa hết Tết, phải cúng đưa ông bà.
Ông gầy nhom, đầu đội mũ bê rê, miệng lúc nào cũng tươi cười. Ấn tượng mạnh nhất trên gương mặt ông là đôi mắt đen sắc lẻm dưới đôi lông mày bạc rậm rì. Nếu ai chưa biết, dễ nghĩ ông là một thầy giáo về hưu vui tính hay một ông từ giữ chùa, miếu nào đó ở dưới quê.
Ai chở ông dạo phố thì ông đi, không thì đi bộ, xe ôm hay taxi. Xe máy thì chưa hề biết đi, xe đạp thì có tập nhưng bây giờ chắc cũng chưa đi được. Ông kể có lần đi thăm rẫy mía của ông bạn ở Cù lao Giêng, thấy sao nó mênh mông quá nên quyết chí tập xe để tham quan cho dễ dù tuổi đã tà tà năm mươi mấy. Trên con đường làng, ông gồng chân đạp, đạp miết thấy cũng ngon ăn nếu đi hoài đường thẳng tuột. Vậy mà có một thằng nhỏ chăn bò dắt nguyên đàn bò đi qua. Chuyện này vốn nằm trong dự kiến nên chấp nhận luôn, ông bóp thắng cho xe chạy chậm lại. Đàn bò qua rồi ông đạp rấn lên nguyên con bò lạc đàn chình ình hiện ra khiến ông không làm gì kịp. Ông đau, con bò cũng đau và giấc mơ tự lèo lái chiếc xe của ông cũng tạm dừng vô thời hạn.
Thỉnh thoảng tôi lại thấy ông ra chợ đồ cổ Lê Công Kiều mỗi khi từ An Giang về Sài Gòn chơi. Ngồi dừng chân uống nước bên cái quán vỉa hè tọa lạc sát nắp cống, ông kể chuyện hồi làm gốm đen ở lò Godevi tận An Giang. Về việc này, tôi có xem bài viết thuật lại của ông Huỳnh Ngọc Trảng trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật. Bây giờ, căn nhà của ông gần chợ Mỹ Luông vẫn còn dăm ba cái tượng của một thời làm nghệ nhân. Gốm của ông có nét đẹp riêng, khuôn mặt những bức tượng Lão Tử, Kim Cang, Di Lặc có thần có thái. Ông quý ai thì tặng người đó, riết rồi số tượng đó mai một dần.
Đến nhà ông ở Mỹ Luông, thấy sách và đồ gốm được trưng bày rất tưng bừng. Gốm đen bày chung với gốm Biên Hoà, Lái Thiêu, gốm Tàu và cả gốm Bát Tràng ngày nay. Có cả Ngoạn thạch do chính ông ra tới Khánh Hòa để tìm. Ông kể, ngoạn thạch thường có sau cơn lũ. Dân chơi đá lặn lội ra đó, mong tìm đá núi, đá suối do lũ kéo xuống và thường rủ ông đi. Ông tuổi già, sức yếu hơn nên thường đủng đỉnh đi sau chân họ nhưng có khi tìm được món đồ độc. Trên tường nhà ông có treo cái nón đan bằng tre của tổ tiên ông mang qua từ bên Tàu cách nay cả trăm năm trước.
Ngồi chơi với ông, nghe có tiếng lục lạc gõ lanh canh, thứ chuông đeo cổ con bò. Đó là thông báo xuống ăn cơm của bà Tám. Sống ở quê, ông ngao du như một tiên ông, có khi sắp đến giờ ngọ, ông mới dặn vợ là hôm nay ra ăn cơm ngoài Đình và cứ thế mà đi.
Ông kể có khi ông dừng trước cửa nhà một bà ở Cù lao Giêng và thấy cái bình Óc Eo đẹp quá mà sao bỏ dưới đất quá uổng. Ông cầm lên, đổ nước ra, phủi đất ngắm nghía lớp gốm mộc có từ hơn ngàn năm trước. Bà chủ nhà ra hỏi: “Ông làm gì vậy, cái đó tui để cho mèo uống nước đó!”. Ông năn nỉ xin hay mua lại nhưng bà lắc đầu. Ông xúi bà lấy cái chai nhựa cắt cái đáy cho mèo uống nước. Bà dứt khoát: “Không được, cái này nó nặng không đổ, cái chai nhựa nó nhẹ hều đổ nước hoài”. Ông đành tiu nghỉu, hai tay ôm cái chén đồ cổ bỏ xuống rất cẩn trọng rồi quay đi. Chuyện vậy mà nhớ hoài. Chiều tà, ông ra quán cà phê ngoài xóm và quan sát chợ quê. Cà phê ngàn đồng một ly, uống chung với đá bào. Vậy mà ngồi được vài tiếng đồng hồ. Mấy ông già Nam bộ ngồi chơi với nhau hay chửi thề. Ông bảo: “Ông chủ vựa cá ngoài chợ chửi thề nghe thần sầu, chửi rất bậy nhưng thật ra ổng rất đàng hoàng. Ổng không chửi thì làm sao điều khiển được mấy bà bán cá cùng mấy mụ mua cá. Mấy bả lộn xộn và dữ lắm, nhưng đàn ông không đánh được mấy bà, nên chỉ có chửi mới giữ được trật tự!”. Mấy ông già không ai nhậu nhẹt, ra quán cà phê chỉ uống cà phê hoặc trà đường, vậy mà vui. Đến khuya ở xóm ông, chẳng thấy nhà nào đóng cửa, khóa cửa. Khách đang ngồi chơi với ông tự dưng thấy có một thằng nhóc lạ hoắc ngồi thu lu cạnh mình: “Ủa, mầy ở đâu ra?”. “Dạ, con ở bên kia”. Nó chỉ đâu đó dãy nhà xa xa. Xóm này chả có gì chơi, con nít thấy người lạ là luông tuồng qua nhà người này chơi người kia chơi vậy đó, chẳng ai la rầy. Dưới nhà ông, chuột chạy rần rần, mèo nhảy ầm ầm, ông bảo: “Chuột nó chạy đi chơi thôi, không sao đâu, nó cũng no rồi, nhà gần chợ mà. Còn con mèo thì nó… đi tuần, nó ngó quanh nhà mình rồi đi qua nhà khác, chả làm bể món đồ nào…”
Đồ gốm không phải là thứ ông mê nhất nhưng cũng là một trong những đam mê. Đến nhà mấy anh bạn trẻ ở Phú Nhuận, Gò Vấp ông ngắm nghía đồ rồi ngồi chơi, uống trà tà tà bàn chuyện đồ cổ đến độ mấy bận người chở ông đến giục đi ông mới chịu dời gót. Ở đường Lê Công Kiều, đang uống nước trong quán, nhiều lần ông đột ngột đứng dậy rời bàn nước lúc còn đông đủ, ngao du ngó đồ cổ vỉa hè, từ mấy món nhà bé Châu, sang chỗ chị Nha, rồi qua bà Sáu. Có khi ông lựa một món đất nung, ngắm nghía rồi đánh giá: Cái này hay, đúng là đồ Óc Eo. Ông rành nhiều thứ, nhất là đồ Lái Thiêu vì là sản phẩm quê ông. Hôm nào chợ có đồ Tàu đẹp lại viết rậm chữ Hán, người mua đồ cổ mừng lắm nếu có mặt ông vì ông sẵn lòng đọc và giải nghĩa. Họ không lầm vì nhiều năm trước đó, ông giúp ông Sển đọc và dịch chữ Hán trên mấy món đồ cổ và ông Sển vẫn nhắc đến “chú nhỏ Lái Thiêu” trong sách của mình.
Có lẽ thời buổi này không còn mấy ai tiếp xúc nhiều với ông Vương Hồng Sển như ông Tám. Năm 1972, ông thường lui tới thăm và giúp ông Sển dịch tài liệu hay thơ văn bằng chữ Hán trên đồ sứ cổ. Tuy ham đồ cổ, ấn tượng đối với ông đậm nhất ở nhà ông Sển là cái hòn non bộ trước nhà. Lúc ngắm nhìn nó, ông luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thoát tục, cho dù con đường Nguyễn Thiện Thuật ngoài kia luôn rần rần xe cộ.
Qua năm 1973, khi có ông Sơn Nam đến chơi tại Vân Đường Phủ, ông Sển giới thiệu về sự thông thạo Hán văn của ông Tám cho ông Sơn Nam, kể từ đó hai người quen và gặp nhau luôn. Ông Sơn Nam nhiều lần nghe ông Tám kể về quê hương Lái Thiêu, Bình Dương và ông đưa nhiều chi tiết vào trong sách. Có lần ông Sơn Nam nhờ ông Tám đến Thư viện Quốc gia, gặp người thủ thư là chỗ quen biết. Người này cho mượn cuốn sách Trấn Tây Kỷ Lược của Doãn Uẩn mà ông Sơn Nam có đánh dấu sẵn một số trang. Ông Tám dịch giúp những trang đó và lưu bản dịch trong cuốn sách để khi nào cần ông Sơn Nam sẽ ghé lấy. Sau này, khi ông Sơn Nam ra cuốn Lịch sử Khẩn hoang miền Nam, thấy trong đó có những bài thơ do ông Tám dịch từ Trấn Tây Kỷ Lược . Tuy công xá không có và ông Tám không quan tâm, nhưng thỉnh thoảng nhà văn Sơn Nam lại tặng một món đồ cổ nho nhỏ, là thứ ông Tám thích, như cái chén men Celadon đồ Gò Sành nhỏ xíu có ba chân ở khu chén.
Một lần khác, ông Sơn Nam tặng ông một dĩa sứ Mai Hạc của Tàu với hai câu thơ chữ Hán sau:
Hàn mai xuân tín tảo
Tiên hạc táo chi đầu
Dịch nghĩa:
Hoa mai lạnh đưa tin sớm,
Hạc tiên réo đầu cành!
Cái dĩa này lạ, ông Tám thích vì nó có hai câu thơ chữ Hán, khác với đa số dĩa Mai Hạc thường viết mấy câu thơ bằng chữ Nôm.
Sau khi ông Sơn Nam mất, ông Tám đến thắp nhang cho người bạn già hơn ông năm tuổi và ngồi lại trên cái ghế mây ông Sơn Nam hay ngồi. Ra về, ông xin mang đi cái ghế mây cũ kỹ ọp ẹp này và nhờ tôi đặt thợ làm một tấm đồng có khắc vài chữ để gắn vào lưng ghế, ghi dấu kỷ niệm với ông bạn già cùng lứa.
Tôi quen ông Tám Lý Thân, cũng là nhà nghiên cứu Lý Lược Tam hay Lý Tân Thới hơn chục năm nay, từ lúc ra chơi ở đường Lê Công Kiều. Thật ra, khi ngắm nghía đồ cổ, ông giữ thái độ một nhà nghiên cứu, luôn muốn tìm hiểu đằng sau cổ vật ấy những chứng tích về lịch sử, văn hóa và kỹ thuật gốm hầu như nay đã thất truyền. Ông viết nhiều bài trên báo về văn hóa cổ, thú chơi cổ vật của Trung Quốc, Nhật Bản và đã ra vài quyển sách về văn hoá. Có những câu chuyện thú vị ông Tám biết rõ về cuộc sống Sài Gòn trước kia nhưng “làm biếng viết lại” như lời ông nói, đã cho phép tôi ghi chép lại và thấp thoáng ở một số bài viết trong cuốn sách này.
Trên tất cả, ông như một ông đồ già vui tính, thích ngao du với thái độ sống thật bình thản, nhẹ nhàng và khoan hòa. Dăm câu chuyện viết về ông, chưa đâu ra đâu nhưng khi hình dung ông với nụ cười hồn nhiên và rất thiền, hàm râu bạc bên mái tóc còn khá đen, có lẽ nhiều người biết ông sẽ cảm thấy thân thiết và gần gũi. Những người như ông, dường như mang đến chợ đồ cổ Lê Công Kiều một tinh thần trong trẻo và nỗi đam mê nghệ thuật sâu đậm mà ông là đại diện, vượt lên những thành kiến về khu chợ rất đặc biệt này. Và bạn có thể nhận ra điều đó, khi thấy ông ung dung đi trên hè phố, vai mang túi vải với nụ cười móm mém trên môi.
Tác Giả Bức Tranh Bình Ngô Đại Cáo
Khi đến thăm Dinh Độc Lập, người thích mỹ thuật dễ bị thu hút bởi một bức tranh rất lớn tại phòng Trình Quốc thư ở tầng hai. Cho dù chỉ có thể ngắm bức tranh từ xa, sau ba-ri-e che chắn, từng chi tiết của bức tranh hiện lên khá rõ. Đó là quang cảnh đất nước vừa lấy lại nền thái bình từ tay giặc Minh vào thế kỷ thứ 15. Bức tranh sơn mài trên nền nhũ vàng sang trọng, có phong cách thể hiện gần gũi với dạng tranh Byobu của Nhật Bản thời Shogun.
Có thể nói đây là bức tranh có kích thước lớn nhất của nghệ thuật sơn mài Việt Nam, dài 8,8m, cao 4,6m, ghép lại từ 40 bức sơn mài khổ 0,8mx1m. Chi tiết trong tranh dày đặc, có khoảng 15 cảnh sinh hoạt đồng hiện trên tranh. Từ một bức tranh chỉ dành riêng cho quốc khách thưởng lãm, bức Bình Ngô Đại Cáo nói trên đã đến được với công chúng khi họ vào thăm một nơi trước kia chỉ dành cho chính phủ và quốc khách chế độ cũ.
Bên cạnh những bức họa được trưng bày trong dinh như bức Sơn Hà Cẩm Tú của kiến trúc sư (KTS) Ngô Viết Thụ, bức Quốc Tổ Hùng Vương của họa sĩ Trọng Nội, bức Bình Ngô Đại Cáo có vị trí rất trang trọng trên bức tường chính phòng Trình quốc thư, toát lên từ nội dung niềm tự hào của một đất nước có nền văn hiến lâu đời và xây dựng được nền hòa bình trong độc lập cách nay 6 thế kỷ. Chất liệu sơn ta truyền thống sâu đằm nhưng sang trọng thể hiện quang cảnh rộng lớn, đồng hiện nhiều sinh hoạt của một dân tộc, một đất nước còn đang ngây ngất bởi hào khí chiến thắng. Trong đó, có sự uy nghi của triều đình nhà Lê, khí thế của đoàn quân chiến thắng kiêu hùng trên đường trẩy hội về kinh đô, vẻ tưng bừng của đồng ruộng núi sông, của người nông dân vừa thoát khỏi ách thống trị của giặc Minh. Đó là không khí rộn rã của quê hương bừng bừng sức sống và hy vọng, được thể hiện trong màu vàng nhũ rực rỡ như ánh nắng một ngày đầu xuân, báo hiệu bình minh của dân tộc thời xa xưa.
Bức Bình Ngô Đại Cáo tại phòng Trình quốc thư Dinh Độc Lập. Toàn bộ bàn ghế và các trụ đèn đứng trong phòng đều do HS Nguyễn Văn Minh thiết kế.
Việc thực hiện bức tranh này là một cơ duyên chỉ có một lần trong đời đối với họa sĩ Nguyễn Văn Minh, tác giả bức tranh. Năm 1966, khi đang làm Giám đốc Trung tâm Nghệ thuật và Mỹ nghệ Mê Linh với hơn trăm nhân viên, ông được họa sư Lê Văn Đệ tiến cử đảm nhận việc thực hiện bức tranh có kích thước hoành tráng trang trí tại Dinh Độc Lập vừa xây dựng xong. Ông chỉ có hai tháng vừa vẽ phác thảo vừa thực hiện. Đề tài đặt ra từ KTS Ngô Viết Thụ “Hình dung quang cảnh một buổi đại lễ tuyên cáo công trạng kháng Minh 10 năm của vua Lê Lợi. Trong đó mô tả các đặc tính đại lễ của Triều đình Việt Nam với những kiến trúc y quang, cờ xí của các triều thần, dân chúng sĩ phu, bô lão… và cảnh hùng vĩ của dãy Trường Sơn làm nền” . Sau khi thỏa thuận, họa sĩ Nguyễn Văn Minh ký hợp đồng thực hiện trang trí phòng số 4 tức là phòng Trình quốc thư với giá tổng cộng là 2.700.296 đồng. Riêng giá bức tranh có giá trị là 2.000.000 đồng (khoảng 25.000 USD, hối suất năm 1966, theo wikipedia tiếng Việt).
Từ đó, trong suốt thời gian ngắn ngủi hai tháng, họa sĩ Nguyễn Văn Minh cùng các phụ tá đã hoàn thành tốt đẹp công trình để đời này, bao gồm cả thiết kế bộ bàn ghế có tay vịn bằng gỗ phủ sơn mài trong phòng, tấm thảm len lớn 25 mét vuông, tấm thảm ở chân bàn danh dự và cả những chiếc đèn lớn đặt hai bên bức tranh và quanh phòng.
Năm 1994, họa sĩ Nguyễn Văn Minh về Việt Nam và đến thăm bức tranh Bình Ngô Đại Cáo mà ông thực hiện từ những năm tuổi trẻ. Họa sĩ Phi Mai, đệ tử duy nhất của họa sĩ Nguyễn Văn Minh cho biết lần đó, ông và chị mua vé vào cổng và lên tầng hai để xem lại bức tranh. Họa sĩ Nguyễn Văn Minh ngắm tranh thật kỹ và đánh giá là sau 27 năm, bức tranh đã bị xuống cấp nhiều chỗ. Chiếc bàn đặt phía trước và cặp đèn hai bên tranh vẫn còn. Bộ ghế sofa dọc hai bên căn phòng đã được thay vải bọc sau rất nhiều năm, tấm thảm trải dưới sàn cũng đã thay bằng tấm thảm khác.
Khi biết ông là tác giả bức tranh này, Ban Giám đốc Dinh Độc Lập đã mời ông, họa sĩ Phi Mai cùng KTS Ngô Viết Thụ ăn bữa cơm thân mật. Sau cuộc gặp gỡ đó, năm 2003, những người quản lý Dinh có nêu đề nghị mời họa sĩ Nguyễn Văn Minh phục chế toàn diện bức tranh này. Cân nhắc các chi phí, thời gian đi về giữa Mỹ và Việt Nam, ông yêu cầu một mức thù lao tương xứng. Nhưng việc này đã không được tiến hành.
Họa sĩ Nguyễn Văn Minh là một người Sài Gòn đích thực. Ông sinh năm 1934 tại làng Bình Hòa, một ngôi làng cổ của tỉnh Gia Định nay thuộc quận Bình Thạnh. Năm ông 12 tuổi, cha ông qua đời. Năm 16 tuổi, ông phải rời trường học để phụ giúp mẹ kiếm sống nuôi gia đình. Năm 1954, ông xin được học bổng vào Trung tâm Khuếch trương Tiểu công nghệ năm 1954 và tiếp tục học, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Gia Định vào năm 1958. Sau đó, ông liên tục nhận được các học bổng sang Nhật huấn luyện thêm về kỹ thuật tranh sơn mài tại National Industrial Arts and Research Institute ở cố đô Kyoto và Sendai. Đây là một cú hích về nghệ thuật khi ông được tiếp cận với nghệ thuật Nhật Bản, một đất nước giàu truyền thống mỹ thuật và có kỹ thuật sơn mài nổi tiếng trên thế giới.
Năm 1975, ông lìa quê hương cùng với gia đình có tám người con. Trong suốt 30 năm ở Mỹ, ông tiếp tục theo đuổi sự nghiệp hội họa và đạt được không ít thành tựu, có thể yên tâm lo cho cuộc sống gia đình hoàn toàn bằng tài năng và sức lực của mình.
Thập niên 1980, ông mở phòng triển lãm tại Georgetown, tham dự cũng như tổ chức rất nhiều cuộc triển lãm khắp nước Mỹ và Âu Châu.
Gặp lại bạn bè ở Sài Gòn năm 1999 tại nhà Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Trên chặng đường nghệ thuật, ông đoạt được nhiều giải thưởng như Huân chương Danh dự trao tặng bởi Vatican, Rome, Ý cho bức chân dung của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (1962), Huy chương Bạc nhận từ quốc tế Triển lãm Mỹ thuật, Rome, Ý (1963), Huân chương Danh dự trao tặng bởi Triển lãm Mỹ thuật quốc tế, Sài Gòn (1964), Huy chương vàng nhận từ Học viện Mỹ thuật, Khoa học và Văn chương, Paris, Pháp (1982) và nhận được lời chúc mừng từ thị trưởng Paris Jacques Chirac, sau này là Tổng thống Pháp, nhân dịp Triển lãm năm 1989 tại Pháp.
Tác phẩm Cây anh đào nở hoa của ông đã được mua bởi Oleg Cassini, nhà thiết kế của bà Jacqueline Kennedy. Ngoài ra, ông còn đoạt giải thưởng của Yves St. Laurent với thiết kế chai nước hoa Opium. Biên tập viên Dauphine Vaucluse, Toulon, Pháp đã đánh giá ông là “Ông hoàng sơn mài” nhân cuộc triển lãm ở viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Á Châu ở Toulon, Pháp năm 2001.
Cuộc đời của họa sĩ Nguyễn Văn Minh có chặng đường theo đuổi nghệ thuật khá dài. Đam mê sáng tạo mạnh mẽ và sức sáng tạo dồi dào, ông luôn trăn trở khi đứng giữa trách nhiệm một người cha lo cho đàn con trên xứ người với những đơn đặt hàng của khách yêu nghệ thuật và mong muốn sáng tác theo ý nguyện của mình. Điều hạnh phúc với ông là tác phẩm của ông luôn được đón nhận và hâm mộ, nhất là giới yêu nghệ thuật nước Pháp (ông có tới 14 lần triển lãm tại Pháp, hầu hết là triển lãm cá nhân).
Tranh sơn mài của Nguyễn Văn Minh thường sử dụng lá vàng và bạc làm nền, nội dung và họa tiết mang tâm hồn Việt, đậm đà chất phương Đông, nhất là những bức tranh cuối đời. Người xem có thể thấy rõ ảnh hưởng của nghệ thuật Nhật Bản trong nhiều tác phẩm của ông.
Trong triển lãm tại Tòa đại sứ Pháp ở Washington (2001) báo chí đánh giá “Khác với khuôn thước sơn mài cũ của ngành mỹ nghệ Việt Nam, hình thức, bố cục trong tranh của Nguyễn Văn Minh phóng khoáng, sáng tạo, mới mẻ, nên đạt trình độ một tác phẩm nghệ thuật chứ không nằm trong dụng công trang trí bình thường của loại sơn mài kỹ nghệ thường thấy trước đây. Tòa đại sứ Pháp trong phần giới thiệu cho hay tranh ông dù là phong cảnh, chân dung hay tĩnh vật đều tạo được sự hòa hợp giữa màu sắc và kỹ thuật trác tuyệt” (theo Phạm Điền - RFA).
Năm 2005, sau một thời gian dài chống chọi với bệnh ung thư, họa sĩ Nguyễn Văn Minh lìa trần trong sự tiếc thương của gia đình, bạn bè.
Chưa thể tổng kết được số tranh ông thực hiện suốt cuộc đời sáng tác của mình. Tuy nhiên, thành tựu hội họa trong suốt 30 năm ở hải ngoại của ông với nhiều thành tích vẫn không được biết nhiều trong nước. Điều đó dễ dẫn tới việc đánh giá di sản nghệ thuật của ông thiếu đầy đủ và toàn diện.
Đối với gia đình và bạn bè, ngoài tất cả những tác phẩm nghệ thuật để lại, ông là một người nhân hậu, khiêm nhường, thương yêu gia đình và gần gũi với mọi người. Trong lời lưu niệm đăng trên Guestbook báo Washington Post, sau lời Cáo phó thông báo tin Họa sĩ Nguyễn Văn Minh qua đời, một người bạn Mỹ viết:
“Khi ông đến thăm nhà, tôi đã chỉ cho ông thấy những tác phẩm của ông mà tôi có được trong 4 năm ở Sài Gòn, từ 1967-1971, gồm bàn cà phê và bức bình phong hai mặt tuyệt đẹp với những con vịt hoang trong nền vàng lá ở một bên, và một ông già kéo con bò của mình qua khu rừng bên kia. Cho đến giờ, tôi vẫn trân trọng những tác phẩm đó và tự hào với tất cả những người tới thăm nhà.
Nguyễn Văn Minh là một người chân thành, khiêm tốn và người đàn ông lịch thiệp với người khác, bên ông tôi luôn cảm thấy thoải mái. Ông có tất cả đức tính của một người đức độ của thế giới xa xưa đã qua. Ông giống như một giá trị tinh thần xưa cũ. Được bao quanh bởi các sản phẩm của nghệ thuật đầy cảm xúc của ông, tôi sẽ luôn trân trọng những kỷ niệm này” (Allan Wendt).
Những ngày còn nằm trên giường bệnh, ông còn kịp vẽ từng tấm trong số 160 tấm thiệp tặng cho khách đến dự đám cưới cô con gái thân yêu của mình. Có lẽ đó là những tác phẩm cuối cùng mà ông thương yêu dành cho con cái.
Nghệ thuật của ông như là mục đích tự thân, nhưng gia đình mới chính là động lực quan trọng để ông sáng tác mạnh mẽ cho đến khi nhắm mắt bên đàn con đã thành đạt nơi xứ người.
Bức tranh cuối cùng họa sĩ Nguyễn Văn Minh vẽ là bản phác thảo Foggy Mountains , chuẩn bị cho tấm bình phong lớn trị giá 70.000 USD dài gần 3 mét. Ông vẽ bức này vào mùa xuân năm 2004, chưa tới một năm trước khi mất. Tác phẩm sau đó đã được họa sĩ Phi Mai thay mặt thầy mình hoàn thiện.
Thăm Nhà Ông Tạ
Hồi còn nhỏ, mỗi khi má tôi muốn cho cả nhà ăn chả lụa, mà người Bắc gọi là giò lụa, tôi phải lấy chiếc xe cà tàng đạp lên chợ Ông Tạ để mua. Mỗi lần như vậy, thế nào tôi cũng la cà nhà bạn bè ở quanh khu ấy cho đã rồi mới về. Có lần, vào nhà đứa bạn trong hẻm Vinh Sơn gần đó, tôi được mời nếm thử thịt cầy, được xem là đặc sản ở đây. Ăn xong một miếng, tôi về không dám kể cho má nghe vì bà kiêng món này.
Hơn ba mươi năm trôi qua, khi có dịp tụ lại với nhóm bạn cũ, chúng tôi lại nhắc về ngã ba Ông Tạ. Mấy người bạn ở xứ người nhớ rõ nhất, từng chi tiết. Dường như đối với họ, sau bao nhiêu năm được đậy điệm trong một góc tâm hồn, những kỷ niệm cũ còn nguyên không chút sứt mẻ. Một trời kỷ niệm nơi Hẻm Khuông Việt, Ngõ Cổng Bom, đám tang tướng cướp Sơn Đảo đông nghịt người. Lại còn rủ nhau về ăn bún mọc Bà Hân, cháo huyết rạp Đại Lợi, chả lụa Tuyết Hương như hồi đi học… Những giấc mơ tưởng chừng đơn giản sao mà khó thế ở tuổi năm mươi hoa râm.
Người gốc Bắc vào Sài Gòn từ 1954 bảo nhau, ở Sài Gòn có hai khu người Bắc vào sống rất đông, là Xóm Mới ở Gò Vấp và khu ngã ba ông Tạ. Và họ đồng ý với nhau rằng cư dân ngã ba Ông Tạ sống thanh lịch hơn, biết ăn biết mặc và chăm chú chuyện học hành nên có nhiều người thành danh… Những năm mới ra trường và đi làm, lúc đất nước còn rất nghèo, gần Tết tôi lại chạy lên khu Ông Tạ, ngắm không khí nhộn nhịp nơi đây. Ban ngày có hàng đống lá dong được bày ra lề đường để bán cho nhà nào muốn gói bánh chưng. Buổi tối tháng Chạp, ngay góc ngã ba, hiệu nữ trang sáng trưng đèn chiếu xuống rực rỡ những vòng kiềng, dây chuyền óng ánh…
Ngã ba ông Tạ lúc đó như cố lưu giữ những ngày nhộn nhịp lúc thịnh vượng nhất những năm 1960. Trong mùi hương trầm, thoảng cả mùi thuốc thơm ấm nấu trong siêu từ nhà thuốc Ông Tạ bay ra… Tôi nhớ đứa bạn cũ cùng thích làm đồ thủ công trong căn nhà bên bờ rạch Nhiêu Lộc ngay cầu Ông Tạ, và một đôi mắt con gái dưới hàng mày rậm trong hẻm Vinh Sơn. Những ký ức đẹp, thơm ngát ấy còn dịu nhẹ trong lòng.
Nằm gần ngã ba Ông Tạ, lối vào hiệu thuốc nam Trần Thái Đường là một cái cổng nhỏ đường Phạm Văn Hai, quận Tân Bình với bảng hiệu phải đứng bên kia đường mới xem rõ. Khu Ông Tạ quanh đó đã thay đổi rất nhiều, các gia đình người Bắc vào đây từ 1954 đã dần ra nước ngoài sinh sống. Những hàng thịt cầy nổi tiếng ở đây không còn mấy. Tuy nhiên, khi bước vào khoảng sân trong của Trần Thái Đường, thời gian phong kín lại như cách nay mấy chục năm. Vẫn là mùi thuốc tỏa ra thơm ấm, ngôi chùa nhỏ Thánh Thọ kế bên nằm trong khuôn viên vẫn sáng nhang đèn. Từ hơn nửa thế kỷ trước đến nay, Phòng khám Trần Thái Đường vẫn khám chữa bệnh, bốc thuốc Đông y. Như còn thấy cảnh tấp nập người ra kẻ vào từ sáng sớm cho đến tối mịt như hồi thầy thuốc chủ trì là ông Trần Văn Bỉ còn sống. Nhiều khách đến khám bệnh từ miệt Cà Mau lên, từ ngoài Trung vào, ở lại để chữa dứt hẳn rồi mới trở về.
Không mấy người Sài Gòn, trừ dân địa phương, biết phòng thuốc này là nơi phát tích cái tên ngã ba Ông Tạ, rồi chợ Ông Tạ, cầu Ông Tạ.
Trước năm 1947, ngã ba này thuộc làng Tân Sơn Hòa, dân quanh vùng gọi là Ngã ba Tháp do ở đó có một tháp canh do người Pháp dựng lên để kiểm soát con đường từ miệt Tây Ninh, Củ Chi vào Sài Gòn. Lúc đó, chung quanh còn cây cối thưa thớt, ngã ba là bãi đất trống chỉ có mỗi cái chùa nhỏ tên Thánh Thọ.
Năm 1947, chàng trai Trần Văn Bỉ 29 tuổi đến vùng đất này và mua miếng đất gần hai ngàn mét vuông. Ngôi chùa nhỏ Thánh Thọ nằm trong cuộc đất, rất phù hợp với anh vì anh là người tu hành theo Cổ sơ môn, một nhánh của Đạo Phật nơi Linh sơn cổ tự trên núi Bà Đen, Tây Ninh. Cũng nhờ thời gian sống trên núi học được nghề xem mạch bốc thuốc chữa bệnh bằng thuốc nam nên sau khi xuống núi, anh tiếp tục sở nguyện là mở chùa, chữa bệnh và mơ xa hơn là lập trường dạy trẻ nghèo. Anh đọc được sách thuốc chữ Hán, biết kết hợp cách chữa bệnh của người Việt và Hoa, thuốc nam và thuốc bắc.
Tuy còn là một vùng hẻo lánh ngoại thành Sài Gòn, khu Tháp canh dần trở nên sầm uất. Năm 1954, nhiều người từ miền Bắc di cư vào Nam và lập nghiệp tại đây. Lúc đó, nhà thuốc Đông y Trần Thái Đường của ông Trần Văn Bỉ đã nổi tiếng.
Ngoài số đông bệnh nhân là dân quanh vùng, lớp lớp người từ miền Tây tìm đến chữa bệnh, nhiều nhất là phụ nữ và trẻ em - sở trường nghề thuốc của ông. Dân gian kháo nhau “con bị bệnh, bồng đến cho ông Tạ nắm tay một cái là hết bệnh” hay “Không con cứ đến chữa ở nhà thuốc ông Tạ là có”. Mỗi ngày, ông Bỉ cùng gần chục nhân viên khám bệnh bốc thuốc từ sáng đến tối hơn cả trăm người. Với người nghèo, ông không lấy tiền chữa trị và cho nằm lại miễn phí những người bệnh nặng. Nguồn thuốc ông có chủ yếu là Nam dược nên giá không cao, mua từ Tây Ninh, Cà Mau và một số vị mua từ Hương Cảng qua đường Chợ Lớn.
Tiếng lành đồn xa, biết ông tu hành lại thương người, thỉnh thoảng ngôi chùa Thánh Thọ trong khuôn viên Hiệu thuốc lại có một đứa bé sơ sinh của ai mang đến bỏ đó. Ông cho mang vào nhà chăm sóc rồi đưa đến cô nhi viện, gửi gắm thêm tiền bạc để phụ cơm nước. Nhiều người nghèo bệnh nặng mất đi không có quan tài để chôn, ông ký giao kèo với Trại hòm Tân Lợi cung cấp quan tài để người xấu số yên nơi ấm chỗ và chịu hết chi phí. Năm 1968 xảy ra trận đánh Mậu Thân, quân lính hai bên bị thương rất nhiều, ông cho đưa vào chăm sóc tận tình không hề phân biệt bên nào, miễn là giúp người bị thương qua cơn đau đớn.
Tiếng đồn ở khu ngã ba Tháp có ông Thượng tọa tướng mạo cao to chữa bệnh rất hay lan ra xa và được nhiều người mách nhau khi có ốm đau. Bảng hiệu trước cửa Hiệu thuốc ghi là Trần Thái Đường - Đông y sĩ Thủ Tọa (Thủ: ở đây là xem mạch bằng tay. Tọa: Thượng tọa). Dân gian, theo thói thường gọi tắt là khu ông Thủ Tọa, biến âm thành ông Thủ Tạ, và dần dần là ông Tạ. Tuy nhiên, cầu Ông Tạ hay chợ Ông Tạ chỉ vì ở gần đó nên hình thành tên như vậy, không liên quan trực tiếp đến ông.
Năm 1983 ông Tạ mất. Trước đó, tuy tuổi đã cao ông vẫn tiếp tục khám bệnh và tham gia Ban cố vấn Hội Đông dược và châm cứu của thành phố, nói chuyện về đông y tại trường Đại học Y dược. Từ 1975 đến khi ông mất là những năm tháng đầy khó khăn của đất nước, thiếu thốn đủ bề nhất là thuốc chữa bệnh. Phòng khám của ông với nguồn dược liệu từ cây thuốc trong nước là niềm hy vọng của nhiều bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo vì biết ông sẵn sàng giúp họ mà không lấy chi phí. Những vị đứng đầu ngành y tế như bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Bộ trưởng bộ Y Tế, lúc đó là Viện trưởng Viện Y học cổ truyền dân tộc Thành phố, bác sĩ Trương Thìn đang phụ trách Trung tâm cai nghiện Bình Triệu nghe tiếng ông Tạ từ lâu đã nhiều lần đến hỏi ý kiến ông về chữa bệnh và thuốc men.
Tôi tìm đến Trần Thái Đường khi thầy đông y Nguyễn Văn Huệ, chủ trì Phòng khám đang chữa bệnh cho một thanh niên người Mỹ. Khuôn viên Trần Thái Đường rộng rãi với phòng khám, khoảng sân và một ngôi chùa nhỏ. Tuy nhiên, đây là phần đất còn lại của mảnh đất cũ đã bị cắt đi phân nửa. Sau khi ông Tạ mất, một người phụ nữ vốn là người chịu ơn ông Tạ chiếm và đòi quyền lợi phần đó. Ngôi mộ của ông giờ nằm trên phần đất cắt cho người phụ nữ kia.
Ông Nguyễn Văn Huệ cho biết cha của ông là Nguyễn Văn Đông được ông Tạ là cậu ruột nuôi nấng và dạy nghề từ nhỏ. Ông Huệ lớn lên tiếp tục học nghề thuốc và xem ông Tạ như ông nội của mình dù là vai ông cậu.
Những năm sau 1975, ông Huệ đang tuổi thanh niên thường theo ông Tạ đến các cơ sở y tế để trao đổi nghề nghiệp, nên ông không chỉ học ông Tạ về chuyên môn mà còn là cách ứng xử khiêm tốn của người tu hành.
Đảm nhận việc duy trì phòng khám có truyền thống hơn 60 năm, và còn đảm nhận công việc của Chủ tịch Hội đông y quận Tân Bình, ông Huệ có niềm tự hào là duy trì được những gì ông Tạ truyền lại, chuyên tâm chữa bệnh như một việc giúp đời, không nặng về kinh doanh, không quảng cáo rùm beng và giữ được cơ ngơi rộng rãi còn lại của gia đình giữa lúc tấc đất tấc vàng ở một khu thị tứ trung tâm như vùng Ông Tạ.
Thỉnh thoảng ở phòng khám, ông vẫn nhận được những món quà nhỏ, như một bức tranh chân dung ông Tạ… quà từ những người được ông Tạ chữa hết bệnh, hay chữa không lấy tiền lúc nghèo khó xưa kia. Có lúc là lời cảm ơn từ những người lính biệt động thành đánh vào Sài Gòn năm 1968 mà ông Tạ đã cứu khi bị thương… Những điều đó như nhắc nhở ông Huệ tiếp tục giữ vững Trần Thái Đường như một địa chỉ chữa bệnh có ích cho đời, nhất là cho người nghèo, như con đường ông Tạ Trần Văn Bỉ đã vạch ra.
Thuốc được chế biến hằng ngày, như từ hơn sáu mươi năm trước...
Gặm Bánh Mì Ở Sài Gòn
Hồi nhỏ tôi có đọc một truyện ngắn có tên Những khúc bánh mì của anh Tấu. Trong đó, tác giả là một cậu học trò rất mê ăn bánh mì của người bán rong trước cổng trường tên là Tấu. Bánh được ủ trong một cái giỏ, luôn nóng, kẹp miếng chả bò thơm ngon ở giữa. Cậu bé ăn bánh mì anh Tấu hoài mà không biết ngán, nhất là những ngày trời lạnh có trong tay ổ bánh mì nóng. Cho đến khi anh Tấu bị ho lao, vừa bán vừa ho sù sụ giữa gió lạnh, học trò trường đó tẩy chay không ai dám mua bánh mì của anh nữa. Trừ cậu bé kia bất chấp căn bệnh của anh vẫn tiếp tục gặm bánh mì. Tôi còn nhớ câu anh Tấu hỏi cậu bé: “Bây giờ chắc cậu không dám ăn bánh mì của tôi nữa phải không?”. Cuối cùng anh Tấu cũng nghỉ bán vì bệnh nặng, để lại trong cậu bé niềm nuối tiếc.
Ai cũng có một người bán hàng lý tưởng của mình trước cổng trường. Tôi cũng có một anh Tấu hồi mới lớn trong những buổi sáng đi học thêm. Con hẻm trên đường Hai Bà Trưng, gần khách sạn Quê Hương trước kia, có hai ông cùng đi bán bánh mì với nhau. Thật ra, chỉ có một ông bán và ông kia làm gì không rõ, lúc nào cũng đứng cạnh bên. Ông bán bánh mì có đặc điểm là hút thuốc bằng lỗ mũi. Lúc nào cũng thấy ông nhét một điếu thuốc lá vào lỗ mũi bên phải và thở ra khói bằng mũi bên trái một cách kỳ cục. Vừa hút, tay ông vừa thoăn thoắt lấy bánh mì trong rổ ra, dùng dao xẻ một cái rãnh ở giữa, nhét miếng chả lụa vào. Đặc biệt, bánh mì của ông luôn giòn, xốp và thơm, chả lụa luôn được xắt to. Cả miếng dưa leo cũng to, miếng ớt đi theo cũng to. Chả thơm, dưa tươi, thêm tí muối tiêu nữa nên rất ngon, cắn một cái là ngập răng. Bánh của ông luôn luôn đắt, hết trước chín giờ sáng. Thỉnh thoảng ông dùng con dao cắt xoẹt một miếng chả, rất trìu mến đưa cho ông phụ bán đứng chầu rìa kia: “Này, ăn đi!”. Ông kia ngay lập tức bỏ vào mồm, nhai ngon lành. Lần đầu đến mua bánh mì, tôi trố mắt nhìn kiểu hút thuốc kỳ cục và miếng chả “tình thương mến thương” giữa hai ông. Riết rồi cũng quen. Và những người khách khác chẳng thấy ai thắc mắc gì. Sau đó vài năm, hai ông biến mất không để lại dấu vết. Con hẻm vẫn đông, có thêm mấy cái ghế cóc bán cà phê vỉa hè và khách đành đi ăn sáng ở chỗ khác.
Có một bài viết nói về chuyện người Nhật đến Việt Nam du lịch. Tổng kết về sở thích ăn uống của họ ở đây, tác giả cho biết món mà họ mê nhất không phải là món phở mà là… bánh mì kẹp thịt. Lý do là nó thơm ngon và có hương vị khác lạ so với bất kỳ loại thực phẩm nào tương tự trên thế giới. Hai nữa là tiện dụng. Và chắc là lý do thứ nhất quan trọng hơn. Bánh mì ở các nước có thể rất mềm, hoặc rất cứng, đen hoặc trắng, nóng hoặc nguội ngắt nhưng vừa giòn, xốp, có cái cạnh bánh giòn thơm, hơi cháy vàng thì lại là kiểu cách rất riêng của bánh mì Sài Gòn. Loại bánh mì giòn ấy vẫn ngon lành từ những năm bao cấp nghèo khổ, dù chỉ gặm bánh mì không. Là bánh mì lạt nhưng có vị hơi ngọt, lại hơi mặn. Trong suốt tuổi thơ của nhiều người Sài Gòn, tôi tin nó có vị trí đáng nể. Sáng không có nhiều tiền, mua ổ bánh mì luôn có giá rẻ rề. Lấy hộp sữa đặc Ông Thọ chế vào dĩa và bẻ từng miếng bánh để quết đưa vào mồm. Sữa ngọt,thơm và béo, bánh mì giòn, còn muốn gì nữa! Hôm nào không tất bật đến lớp, đi làm thì pha một ly sữa nóng, bỏ tí cà phê theo kiểu pha pạc-xỉu. Lại bẻ bánh mì chấm sữa. Món này hương vị khác món trước. Bánh mì chấm sữa nóng hương vị toả ra thơm, hơi chua nhẹ, dễ nuốt hơn và ăn xong cũng no nê.
Bánh mì đi với người nghèo, nhất là con nít nhà nghèo. Hôm nào không kịp ăn ở nhà thì mua bánh mì bì. Chẳng có gì bổ béo ở thứ bánh này nhưng ngon và có hương vị riêng. Bì (da) heo trộn thính thơm phức, ăn dai dai. Nước mắm pha loãng có thêm tỏi ớt chan vào thấm ổ bánh mì. Hôm nào có tiền thì cho phối hợp ba thứ: bánh mì, fromage đầu bò và chuối già. Ăn kiểu này thì cắn một miếng bánh, đớp một miếng chuối và nhai một miếng fromage. Ngon và béo ngậy. Kiểu ăn chuối kết hợp fromage với bánh mì đã có từ thời Nam kỳ còn là thuộc địa Tây. Tuy nhiên, bây giờ không mấy ai ăn kiểu này. Bánh mì bì thì vẫn còn bán trước mấy cổng trường tiểu học và thỉnh thoảng trên xe đẩy ngoài đường.
Cách nay vài năm, khi vào chơi một xóm làm đồ gốm ở Lái Thiêu - Bình Dương, lỡ bữa, tôi được anh bạn ở đó mua cho một ổ bánh mì giá chỉ ba ngàn đồng, ăn sao thấy ngon và nhớ tuổi thơ quá chừng.
Bánh mì chơi được với mọi người. Tiệm bánh Như Lan ở Hàm Nghi xuất thân từ bán bánh mì, giờ nổi tiếng với đủ món ăn chơi như đùi gà rán, bánh bao, xôi lá sen, xôi khúc, xúc xích… Dù vậy người ta vẫn quen gọi cái tiệm to đùng ấy là bánh mì Như Lan, kiểu như “ra bánh mì Như Lan mua cái bánh bao”.
Bất cứ tiệm ăn hay quán cà phê nào của Sài Gòn xưa nay đều có bánh mì trong thực đơn. Bánh mì ăn với trứng ốp la, ốp lết, bò kho... Cái dĩa sứ Minh Long trắng bong, trứng cũng trắng, lòng đỏ vàng. Ăn xong thấy khô khan cả họng, chiêu vội miếng cà phê đá. Tôi không cảm thấy ngon. Bánh mì với đặc tính xốp, thẩm thấu nước nên khi kẹp thịt, pa tê hay thậm chí kẹp miếng ốp la ở giữa chắc chắn ngon hơn so với ăn kiểu Tây, bánh ra bánh và thịt ra thịt.
Bánh mì kẹp thịt với giá hai chục ngàn đồng đó chính là loại bánh mì mà người Nhật ba lô, trong đó có dăm người bạn của tôi, cảm thấy mê mẩn khi ngồi gặm trong một quán bình dân nhưng sạch sẽ ở khu phố Tây Phạm Ngũ Lão giữa lúc cắm đầu vào những cuốn sách dày cộp như Lonely Planet.
Khi trào lưu thức ăn nhanh đến đất nước này, đã thấy có sẵn một người khổng lồ chễm chệ, từ hang cùng ngõ hẻm cho đến quán hàng sang trọng, có khả năng đáp ứng khẩu vị bao người với lắm thứ nhân bên trong như vậy. Ổ bánh mì vàng ruộm và thơm phức, dù đôi khi phải ngoảnh mặt làm ngơ trước bàn tay người bán hàng vừa nhét thịt vào ổ bánh vừa cầm tiền thối cho mình, thì vẫn dễ chịu làm sao khi đến lớp hay cơ quan, mở cặp ra đã thấy bát ngát một vùng khứu giác. Lúc đó, miếng ớt cũng thơm khi đi cùng patê hay thịt quay, thịt xá xíu và vài cọng ngò. Đến lúc này, vị giác đã bị bánh mì kẹp thịt đánh gục để bắt đầu một ngày làm việc hăng say cùng với ly cà phê đá tỏa hương.
Ẩm Thực Sài Gòn, Hành Trình Đa Sắc
Khi so sánh với vùng miền khác, người ta thường nói “Ẩm thực Sài gòn không có bản sắc riêng”. Người Sài Gòn bản tính vốn “sao cũng được”, dễ chấp nhận ý kiến khác biệt với mình nên không mấy khi tranh cãi với nhận xét này. Và cho dù mang tiếng “thiếu bản sắc”, ẩm thực Sài Gòn vẫn lừng lững phát triển, ngày càng đa dạng và hấp dẫn đến nổi nhiều người mê ẩm thực, từng cất công du lịch qua nhiều nước để thỏa mãn thú vui này phải kết luận “Ở Sài Gòn nếm cho hết các món ngon cũng đủ sướng miệng!”.
Hàng quán Sài Gòn vẫn cứ phát triển với cung cách phục vụ ngày càng chuyên nghiệp. Các tên tuổi ẩm thực ở vùng miền khác đã đến Sài Gòn mở quán kinh doanh như phở Lò Đúc, chả cá Lã Vọng, nem Ninh Hòa, gà Tam Kỳ rồi đến quán ăn Hàn, Thái, Ấn, Nhật, Ý… không kể xiết. Để giữ chất lượng và uy tín cho tên tuổi của mình, nhiều quán đặc sản sẵn sàng tận dụng những tiện ích của ngành hàng không nhằm duy trì nguồn nguyên liệu “chất” nhất và “nguyên gốc” nhất. Người sành ăn ở miệt quận 1, quận 3 hay Phú Nhuận, Bình Thạnh chưa chắc sành sỏi về những món ăn ở Chợ Lớn, mảnh đất phía Tây Nam. Chợ Lớn với nền ẩm thực Trung Hoa phong phú luôn là một điểm đến hấp dẫn. Món Chợ Lớn qua thời gian đã được cải biên cho hợp khẩu vị và phong thổ ẩm nóng của Sài Gòn, trở nên đỡ ngấy vì không nhiều dầu mỡ nước xốt như món ăn Hoa trên đất Trung Hoa. Vả lại, bản thân ẩm thực ở Chợ Lớn cũng quá phong phú với các trường phái của người Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hẹ. Có một ca khúc hài (nhái bài hát Bến Thượng Hải ) đã phác họa vẻ phong phú này:
Người Chợ Lớn, người bên Tàu, người Hồng Kông
hễ thấy nhau là mời bánh bao.
Tuy Phúc Kiến, tuy Hải Nàm, dù Triều Châu tới đâu cũng mời ăn mì
Mì xá xíu, mì vịt tiềm, mì bồ câu, cái tô sau là hoành thánh tôm
Kêu thêm dĩa hủ tíu xào, xào mực tôm, cá viên hẩu xực làm sao
Còn ngon nữa, thì tả pín lù
Người Phúc Kiến nổi danh là vịt nấu chao
Dê bát bửu thêm yến sào
Người già nua tới đâu cũng trẻ lại mau…
Đã vậy, thực đơn Tàu luôn được bổ sung các món từ Đài Loan, Singapore hay Hồng Kông, đều là những thiên đường ẩm thực. Từ những dịp gần Tết Nguyên đán hồi trước 1975, dân Sài Gòn đã thích vào Chợ Lớn mua sản vật lạ như trái hồng khô Hồng Kông, rượu Ngũ Gia Bì, lạp xưởng Đài Loan… nhập về từ các xứ đó.
Món ăn Sài Gòn thiếu bản sắc vì không ngại du nhập món ăn xứ khác để làm thành của mình. Món hủ tíu người Tiều (Triều Châu) vào Nam bộ cuối thế kỷ 19 và chỉ nấu bằng thịt heo, xương heo và sau này với cá, gà ăn cùng bánh tráng ướt thái sợi. Có người cho rằng đây là món điểm tâm đặc trưng của người Tiều Nam Bộ, không thấy có ở Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Thượng Hải… Rồi hủ tíu chia thành nhiều nhánh, đều nổi tiếng như Hủ Tíu Mỹ Tho, Hủ Tíu Nam Vang và không ai nấu với thịt bò. Bây giờ người Việt, người Hoa gốc Quảng Đông, Hải Nàm cũng nấu hủ tíu.
Khu Chợ Cũ Hàm Nghi có nhiều Tiệm nước (tên cũ của quán bán nước trà có ăn nhẹ) của người Quảng Đông từ đầu thế kỷ 20. Tiệm của người Hải Nàm gọi là Trà gia thường có chữ Viên, tỷ như Yến Phương Viên bán Hủ tíu cá. Người Hải Nàm (gốc đảo Hải Nam) thường đi tàu biển, làm bồi cho Tây nên khi mở tiệm nước thường có bán kèm bánh tây như patéchaud, soux cream…
Ở đường Tôn Thất Đạm, quận 1 giờ vẫn còn quán hủ tíu cá Nam Lợi, một quán của người Hoa tồn tại khoảng 60 năm nay. Quán bán hủ tíu cá, hủ tíu gà. Sợi hủ tíu có loại nhỏ và loại to bản, lớn hơn bánh phở và có cả mì sợi tươi. Cá lóc tươi bỏ xương, xắt lát mỏng. Gà thịt dai vừa phải, ngọt thịt. Tô hủ tíu rắc nhiều tiêu, nước lèo có vị ngọt dịu của cá gà, mùi thơm mực khô và xương hầm. Trên bàn, bày thêm bánh Patéchaud, ai thích thì ăn. Bánh ngon, mềm nhưng không dai, nhân đầy, thịt đậm đà. Việt kiều về đây chen chúc trong không gian chật hẹp cùng dân Sài Gòn, xì xụp ăn giữa tiếng hô ì xèo của chủ tiệm “Cá liệu!” (Thêm đồ ăn!), “Dùy phảnh!” (Hủ tíu cá!).
Về món ăn ai cũng biết - phở. Nhưng con đường nào để phở Bắc vào Nam còn rất lờ mờ. Ông Lý Lược Tam, gốc Triều Châu, từng sống ở Lái Thiêu trước 1945 kể trong một dịp hàn huyên, phở thoạt đầu là thức ăn của người bình dân, bán trên xe đẩy đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Trước 1945, người ta nấu phở khi có thịt trâu bò đưa về do chết vì bom đạn. Phở theo chân những người Bắc vào ký công tra làm phu cao su ở Lộc Ninh, nay thuộc Bình Phước. Đến năm 1945, do loạn lạc, số người này bỏ đồn điền chạy về vùng Lái Thiêu và được những đồng hương ở đó giúp vốn mở quán hay xe đẩy đi bán phở. Lúc đó người Bắc (dễ nhận ra do nhuộm răng đen) bị Tây lùng bắt nên một nhóm trốn về Sài Gòn đông đúc. Họ vào cái hẻm bên cạnh rạp hát Casino (góc Lê Lợi – Pasteur, nay không còn) bày bàn bán phở. Lúc đầu chỉ có món phở tái nêm nước mắm. Sau bán thịt tái không hết, họ luộc thịt làm thêm phở chín. Đầu những năm 1960, người Tàu Chợ Lớn chế ra tương đỏ, tương đen và phở tiếp nhận luôn yếu tố ngoại lai này. Sau đưa lát chanh tươi vắt vào nước lèo tạo vị ngọt thanh, thêm giá trụng, hành chần, rau ngò gai, quế… và bây giờ có cả rau ngò om, giá sống và hành Tây xắt mỏng. Phở Sài Gòn đi một hành trình dài để lột xác, ăn kèm nhiều thứ nhưng không đi quá xa kiểu nấu từ miền Bắc… giữ hương vị đậm đà, dù ít hay nhiều béo, có hay không rau.
Giới trẻ Sài Gòn thích món bò pía. Nó hấp dẫn vì có vị thơm mát của rau, củ sắn luộc chín và có rau xà lách gói trong bánh tráng mỏng. Bò pía chấm với tương ngon có trộn đậu phộng giã nhỏ, được cung cấp thêm vị mặn ngọt của con ruốc rang, vị béo của lạp xưởng ướp. Có người thắc mắc sao không có thịt bò mà gọi “bò pía”. Xuất phát từ tiếng Triều Châu, Pò nghĩa là bạc, mỏng. Pía là bánh. Bò pía hay Pò pía là cái bánh cuốn mỏng trong có thức ăn. Món này của người Triều Châu, có hai loại mặn và ngọt. Bánh ngọt có nhân kẹo bột, rắc mè, dừa… ít phổ biến hơn bánh mặn.
Bên cạnh đó còn có món gỏi đu đủ khô bò cay cay đậm đà từ Bắc vào Nam cũng xuất phát từ người Hoa sống ngoài đó. Danh xưng là gỏi khô bò nhưng miếng thịt lại là phổi, gan, lá lách bò vốn mềm mại, thẩm thấu tốt hương vị đậm đà của hắc xì dầu, gừng.
Khu Chợ Cũ Hàm Nghi hình thành một món ăn kỳ lạ và khoái khẩu với người Sài Gòn bình dân cách nay nửa thế kỷ. Đó là món xà bần, hay còn gọi là món lâm vố (rabiot). Lai lịch như sau, trong tiệm nước, ngoài đồng lương, người phục vụ hưởng được quyền lợi khác tùy theo công việc. Anh bồi bưng bê thức ăn hưởng tiền bo từ khách. Chú đầu bếp không tiếp xúc với khách thì hưởng… thức ăn dư. Mỗi ngày, họ đổ thức ăn dư vào xô và bán ra. Người mua cho tất cả vào nồi, bắc lên lò nấu thành một món xà bần sền sệt. Trong đó, có nhiều cục thịt bò còn nguyên, cá bống chiên, thịt quay… có khi là cục nấm đông cô thơm lừng. Do nấu đi nấu lại, thêm gia vị và muối, món này càng đậm đà, giữ được lâu. Giới phu phen và cả công chức thời đó thiếu chất thịt trong bữa ăn nên không ngại ăn đồ thừa, buổi trưa ra mua một tô ăn tại chỗ với bánh mì hay cơm giá 2 cắc, rẻ hơn giá tô hủ tíu, ai cũng ăn được và thường hết sớm. Sau 1975, món này hoàn toàn biến mất.
Người sống ở Sài Gòn có thể kể vanh vách những món ăn đặc trưng ở nhiều vùng đất khác nhưng nói về món đặc sản Sài Gòn thì dễ phân vân. Nhưng có hề chi, khi ra đường sẽ gặp bao món ăn thơm ngon. Nhớ chuyến du lịch Singapore thì ăn cháo ếch đường Lê Anh Xuân, thích cơm Hàn thì đến phố Thăng Long, cơm Nhật thì ra Lê Thánh Tôn, ăn dim sum thì vô Hà Tôn Quyền, cơm Thái thì ra Bùi Viện. Về món Việt, thích cơm Huế thì đến quán Ruốc, Ngự Bình, cơm Bắc thì vô khu sân bay, thích mì Quảng thì về Bảy Hiền, muốn Mì vịt tiềm thì ra chợ Lacaze – Nguyễn Tri Phương. Còn chè ngọt, cà ri, cháo lòng, bột chiên, cơm tấm bán theo quán riêng.
“Ẩm thực Sài Gòn thiếu bản sắc”, nhưng không thể chối cãi rằng món ngon ở khắp nơi thích tụ về Sài Gòn (cũng như người đẹp, ca sĩ hay nhân tài các ngành nghề thích tụ về) để tồn tại và phát triển trong một hành trình riêng của nó, để làm nên một khuôn mặt đa sắc cho đời sống ẩm thực Sài Gòn. Sự đa sắc đó có thể gọi là bản sắc ẩm thực kiểu Sài Gòn được chăng?
Nhớ Một Thời Hippy
Trong chồng báo cũ của gia đình, tôi tìm thấy tờ báo Xuân xưa, báo Xuân C.L năm Kỷ Dậu 1969 khổ lớn với bìa có khuôn mặt tươi cười của nghệ sĩ Kim Loan. Bài vở trong đó ít đặc sắc nhưng có một bài lý thú. Bài “Mùa xuân mười tám” của Hà Mai Lan trình bày dưới dạng hai bài nhật ký, nhật ký của Mẹ và nhật ký của con gái. Nhật ký của Mẹ kể về những ngày Tết 1943 ở Hà Nội. Trời rét Xuân đất Bắc, cô con gái theo mẹ lên xe kéo ra chợ Đồng Xuân ngày hăm ba tháng Chạp vào buổi sáng sớm, trong lòng vẫn lo chợ hết món ngon để mua cúng ông Công ông Táo. Về nhà, cả nhà xúm vào gói bánh chưng cùng với người bà con ở quê ra. Cô con gái cả ở nhà trông nom mọi việc, mua sắm cho em út. Phần nhật ký này trình bày một mùa xuân tuyệt đẹp trên đất Bắc rất gợi nhớ cho những người xa quê hương miền Bắc đã lâu.
Phần nhật ký cô con gái thì thể hiện nếp nghĩ hiện đại của một cô gái tân thời trong xã hội Sài Gòn giữa cơn lốc hưởng thụ thời chiến tranh tao loạn. Cô gái mong đợi đến ngày mở tiệc bum - ban khiêu vũ Tết với đám bạn bè và lo mua sắm quần áo. Đám bạn cô thì đi mượn nhà để mở tiệc khiêu vũ.
Cô phàn nàn là bị ông bố xé bức ảnh tứ quái Beatles treo ở phòng ngoài. Ông càu nhàu “Ảnh ông bà cha mẹ không treo, lại rước cái thằng mủi lõ đầu bù ấy…” và cô chê ông bố là “quê” quá cỡ… Cô ra phố Bô – na (tức là đường Lê Lợi) chơi và gặp ông thầy cũ, giờ đã chuyển xưng anh với cô. Cô gật đầu nhận lời vào thương xá Tax với ông và “thương hại cho túi tiền của lão vì mình chỉ mua có một hộp dầu thơm Essence và một ve Eau De Cologne”. Cuối cùng cô nhận lời tối mai đi phòng trà với thầy nhưng biết mình sẽ từ chối vì không thích đi với “lão già khằn đó”.
Người đọc dễ hình dung rằng lớp trẻ cách nay bốn mươi năm ở Sài Gòn ăn chơi quá, thực dụng không kém thời bây giờ. Hình ảnh cô bé trong bài có là tiêu biểu cho lớp trẻ Sài Gòn lúc đó hay không?
Từ năm 1969 đến đầu những năm 70, nhiều người thờ ơ với thời cuộc không biết vì sao ngoài đường phố Sài Gòn sao lắm hình ảnh hoa đến thế. Hoa được vẽ khắp nơi, trên áo, trên thân xe của giới trẻ như Suzuki, Vespa, xe hơi, dán cả trên mắt kính râm tròng lớn. Chỉ có một dạng hoa duy nhất với nhụy tròn, bao quanh là những cánh hoa nhiều màu sặc sỡ cũng tròn như được kẻ compas. Người ta gọi đó là hoa hippy.
Phong trào hippy của giới trẻ Mỹ, bắt nguồn từ thành phố San Francisco năm 1967, khi có gần cả trăm ngàn người tụ lại tại đại hội Montery Pop để tạo ra một ý tưởng chống đối văn hóa và chính trị đương thời, đã lan qua tận Châu Á. Bằng con đường y hệt của nhạc trẻ phương Tây, tức là đi theo sách báo và lính Mỹ, phong trào hippy lan đến Sài Gòn và các tỉnh miền nam như một thứ dịch. Hình ảnh bông hoa trên là hình tượng phổ biến của phong trào hippy, “Flower Power” (Sức mạnh của hoa) mang tư tưởng chống chiến tranh Việt Nam, chống bom hạt nhân của giới trẻ Mỹ. Nó cũng tượng trưng sức mạnh hòa bình khi thể hiện hình ảnh bông hoa gắn trên đầu mũi súng. Bên cạnh những triết lý đó, phong trào này cổ vũ “Make love not war”. Khẩu hiệu khiến giới trẻ theo phong trào sống khá thoải mái, bầy đàn và dễ dính tới nạn hút chích.
Qua tới Việt Nam, phong trào hippy phản chiến còn lại gì? Những năm đó, giới trẻ miền Nam đa phần lo lắng cho tương lai trên một đất nước đang có chiến tranh. Ngoài số thanh niên có lý tưởng hoạt động bí mật hay ra chiến khu, đa số lo học hành, tìm cách tránh bị bắt lính. Tuy nhiên, một bộ phận thanh niên khá giả, học trường tư thục, thích nhạc trẻ - như cô gái nói trên - đã tìm thấy ở phong trào hippy mới du nhập một triết lý sống khá hiện sinh, thoải mái, vui nhộn và nhiều cơ hội thể hiện cái tôi của mình. Vui nhất là được rủ nhau đi nhảy nhót và hát nhạc ngoại quốc. Nhiều thanh niên con nhà nghèo cũng đua đòi theo. Bắt chước một hiện tượng, dễ nhất là từ hình thức của nó. Hình ảnh của hoa hippy là một sự bắt đầu.
Nhạc nước ngoài lời Việt với hình ảnh ca sĩ cầm đàn guitar điện rất thịnh hành trong phong trào hippy đầu thập niên 1970.
Một bài báo thời ấy tường thuật về giới trẻ Sài Gòn, lược lại như sau, chiều thứ Bảy và Chủ Nhật thì phải ăn mặc thật gồ ghề để lên đường phố Sài Gòn trình diễn thời trang. Kiểu áo thịnh hành lúc đó là cổ áo giống như áo của ông râu kẽm (ám chỉ ông Kỳ), với cái cổ được đặt tên là A la Mao (áo kín cổ của Trung Hoa ngày nay). Ngoài ra có các kiểu như: Kangouru (có nẹp dài từ trên vai xuống cườm tay), Procol Harum (áo dài gần sát đầu gối, xẻ khá dài hai bên hông), Napoléon (cổ tay tua rua, trước ngực cũng tua rua).
Giày thì thịnh hành giày kiểu Torpedo, Bally như thế hệ cuối thập niên 40 và quần kiểu cigarette thẳng từ trên xuống dưới. Váy may như quần xà lỏn, quần patte áo pull hoặc nguyên bộ patte. Ngoài ra có kiểu giày Cléopatre dây nhợ quấn chằng chịt hay mốt mang dép cao su Nhật màu trắng, có cả mốt đi chân đất nhưng không thọ vì sợ uốn ván.
Trang phục phổ biến dễ nhận ra giới hippy nhất là quần jeans rách, gấu bung tua rua mặc với áo sô mỏng, mắt kính gọng tròn kiểu John Lennon, con trai và con gái đều để tóc dài, tới vai hoặc hơn. Anh nào có râu rậm thì râu quai nón, băng buộc đầu, đeo chuỗi hạt tình yêu. Con gái diện váy dài và đeo vài thứ lằng nhằng như dân digan. Sau đó ra đời kiểu cổ áo bà ba, nút áo được cài từ trên cổ xuống đến tận eo. Sau khi ca sĩ Mai Lệ Huyền bận mini jupe hát nhún nhảy trên truyền hình, đường phố Sài Gòn tràn ngập mini của các cô. Kế đến là kiểu áo dài vạt cực ngắn gọi là áo dài mini.
Trước đó, phong trào nhạc trẻ đã phát triển tại miền Nam vào đầu thập niên 1960, qua sách báo, dĩa nhạc du nhập từ Pháp và rất thu hút giới trẻ đô thị, đặc biệt là giới hippy. Từ đó xuất hiện những thần tượng ca nhạc trẻ như Sylvie Vartan, Francoise Hardy, Christophe… từ nước Pháp. Tiếp nối ngay sau đó là sự nổi lên của các ca sĩ Việt Nam hát nhạc nước ngoài như Elvis Phương, Paolo, Jo Marcel, Thanh Lan... cùng với các ban nhạc trẻ như Les Vampires, Enterprise, The Peanuts, CBC, The Uptight, The Hammers, The Dreammers hoặc Les Fanatiques...
Sau Đại hội nhạc trẻ Woodstock, đại hội của giới hippy, diễn ra trong 3 ngày tại New York năm 1969, vào tháng Tư, năm 1971 tại Sài Gòn đã diễn ra buổi đại hội nhạc trẻ ngoài trời đầu tiên ở Việt Nam tổ chức tại sân vận động Hoa Lư với gần 20 ngàn người và hơn 20 ban nhạc trẻ đến từ Hoa Kỳ, Phi Luật Tân, Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn, Mã Lai, Indonesia và nước chủ nhà.
Khi đã ăn mặc, giải trí khác lạ so với số đông, dân hippy đương nhiên cũng tạo dựng ngôn ngữ riêng và thích thú khi dùng chúng. Lúc đầu nó phổ biến trong giới ăn chơi, dần dà lan ra ngoài xã hội vì bắt chước lời nói thì không tốn kém gì. Họ nói ghế (con gái), ghế tơ (con gái nhỏ tuổi), ghế linh (con gái đẹp), ghế mục (con gái xấu), khứa lão (ông già lớn tuổi), khứa mục (đàn ông ngu đần không xài được), lặn đi khứa (bỏ đi tám, tức là cho qua đi), cảo dược (hút thuốc lá), ghế cảo dược (con gái hút thuốc), mông tại (cóc có tiền)… và nhiều từ không tiện kể ra đây.
Dân hippy Sài Gòn, như những thân gỗ đã bị bật gốc gia đình, vẫn trôi lững lờ trên dòng xã hội đầy sôi động. Đa số còn rất trẻ, chán chường và lo lắng, đua đòi và thích hưởng thụ. Họ không tin vào xã hội đương thời, chỉ tin vào tuổi trẻ của mình và cho rằng “Trên ba chục tuổi thì hết là kẻ đáng tin!”. Một số người buông thả, vướng vào chích hút và tàn đời. Nhưng rất may, hầu hết đã quay lại cuộc sống thực tế, không tiếp tục thể hiện mình là “bất cần đời” nữa và trở lại trường học sau một mùa hè rong chơi. Họ tu tỉnh, quên đi một thời “yêu cuồng, sống vội”. Lúc đó, trong mắt họ, hình ảnh gia đình và quê hương hiện rõ dần lên. Họ tỉnh lại.
Cách nay vài năm, tôi gặp lại chị Hồng Đào, cựu nữ sinh trung học tư thục Hoài An ở Phú Nhuận, một hippy choai choai của Sài Gòn năm 1970 và là bạn học của chị tôi. Lúc đó chị đi xe Suzuki xanh nước biển, jeans xanh bó sát với ống loe và gắn đầy hoa trên xe, túi xách và mắt kính. Ở tuổi gần sáu mươi, chị còn giữ được tính sôi nổi của một thời trẻ, thích nghe nhạc và từng cố gắng mua vé đi xem Bob Dylan hát ở RMIT gần đây. Chị bảo, đó là một thời kỷ niệm, ngốc ngếch và ham vui của tuổi trẻ. Chị đã vui, nhưng may là biết thoát ra một kiểu cách sống tuy rất hấp dẫn nhưng đầy bất trắc và cạm bẫy với người mới lớn. Dù sao, nó đã qua và chị mong con của chị có thể vượt qua được giống như vậy. Vì hiện tại, cuộc sống còn có gấp nhiều lần những cám dỗ đối với người trẻ…
Giai Phẩm Xuân Học Trò
Bốn mươi năm trước, bà chị của tôi đang học lớp Đệ Ngũ (lớp 8 hiện nay) trường Trung học Lê Bảo Tịnh mang về một cái thẻ nhỏ và bảo trống không: “Thích vô Thi văn đoàn thì dán cái hình, tìm một cái bút hiệu mà ghi vô!” . Rồi chị nói một cái tên nghe rất điệu, đại loại là Thi văn đoàn Mưa Thu hay Hoa Thiên Lý gì đó…
Tôi cũng tìm cho mình một bút hiệu, dán hình vào và gửi thẻ đi. Vài ngày sau nhận lại cái thẻ, có dán hình của tôi rất oách và dấu vuông xác nhận mình là thành viên của Thi văn đoàn này. Từ đó, không thấy ai nhắc đến nó nữa khiến tôi đợi miết và buồn mấy hôm vì mất cơ hội trở thành… văn sĩ.
Trước đó, tên các Thi văn đoàn đã khiến tôi sôi sục khi đọc các bài báo đăng trên các trang thiếu nhi hay trên báo dành cho học trò như Tuổi Ngọc, Thằng Bờm, Thiếu Nhi, Tuổi Hoa. Đó là nhóm Áo Trắng ở trường Gia Long, Hoa Phượng của trường Trưng Vương, nhóm Hoa Quê Hương… Thành viên các nhóm có nam nữ đủ cả, nhưng các cây bút nữ có nội lực dồi dào, đều tay, sâu lắng hơn. Thật là dễ hiểu vì lúc đó các chị đã chững chạc hơn so với các anh đồng tuổi còn ham chơi.
Các Thi văn đoàn là cái nôi cho một hoạt động ngoại khóa rất sôi nổi ở trường học lúc đó là làm bích báo (báo tường) và Nội san. Đến giờ chắc nhiều người ở các đô thị miền Nam còn nhớ những cuốn Nội san hầu hết in ronéo, nét vẽ và trình bày phần nhiều ngô nghê, vụng dại và thường có “Lời nói đầu” của một vị giáo sư với giọng văn nghiêm cẩn, đôi khi khô khốc và cũng lơ tơ mơ với nghiệp viết lách như học trò. Các cuốn Nội san đó, hình thành ý tưởng từ mùa Noel, bắt đầu nhận bài lai rai cho đến khi thi xong là một nhóm học trò bắt đầu lo vẽ minh họa, trình bày, quay ronéo, đóng tập.
Ông anh thứ năm của tôi, người vẽ một số tranh minh họa trong cuốn sách bạn cầm trên tay, lúc đó đang học trường Trung học Hoài An ở Phú Nhuận đã vẽ nhiều tranh trên giấy stencil để minh họa bài. Anh bảo các bài viết thường chán và sáo, tìm ý mãi không ra nên thường vẽ đại với hình thiếu nữ tóc dài mộng mơ đang nghiêng đầu, hay ôm cặp đi dưới hàng cây. Vậy là đủ, học trò ai cũng thích những hình ảnh như vậy, đọc bài thì ít nhưng mê tranh vẽ, để sau đó còn vẽ cóp lại trên vở lưu bút cuối năm.
Tuy vậy, làm nội san cuối năm là một hoạt động rất hấp dẫn, nên cho đến gần Tết Ất Mão năm 1975, nhà nước thời đó chính thức tổ chức một cuộc thi làm báo Xuân học đường hẳn hoi với nhiều giải thưởng. Ban giám khảo là các nhà văn nổi tiếng ai cũng biết như Minh Quân, Minh Đức Hoài Trinh, Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Tố Oanh, Lê Tất Điều, Nguyễn Mộng Giác… Các trường ở Sài Gòn gửi thẳng đến ban Giám khảo, các trường ở tỉnh lỵ, quận lỵ thì Ty giáo dục phải tuyển chọn trước khi gửi về. Lúc đó, báo Xuân học đường là cơ hội của các cây bút học đường do báo chí người lớn thu hẹp dần đất dành cho tuổi trẻ, nhiều tờ báo khác bị đóng cửa do tình hình khó khăn thời chiến nên học trò thích viết lách rất háo hức.
Ngay sau Tết năm đó, bà chị tôi đã mang về cuốn sổ có chép bài thơ sau đây:
Thôi thưa thầy con đi
Năm cuối cùng đã hết
Chưa sang một mùa thi
Ðã nghe đầy thương tiếc
Vở chưa phai mực thầy
Những lời phê nho nhỏ
Sáng lên màu tươi đỏ
Thâm trầm nỗi tin yêu
Trong màu xanh biển chiều
Của những dòng nước lặng
Thầy bảo đời rất đẹp
Nhưng cũng lắm gian nan
Bao ô đời còn khép
Chưa mở rộng thênh thang
Như những ô tập vở
Cần những kẻ khai hoang
Áo cơm là hơi thở
Mơ mộng là son vàng
Mai con đi thầy ở
Những lớp học lại đầy
Có những cánh chim non
Và những chồi non chớp
Con chưa là người lớn
Con muốn ở lại trường
Như ở lại quê hương
Đầy hoa thơm trái ngọt
Có con chim nào hót
Ngoài cửa sổ chiều nay
Hỏi rằng chim có hay
Phấn buồn trên bảng trống
Ta sắp vào cuộc sống
Chào bảy năm mây trôi
Không một ngày biển động
Mai giữa trời cao rộng
Phải tìm thấy bình minh
Phải lo cuộc mưu sinh
Không còn thầy chỉ lối
Bây giờ là Xuân cuối
Thôi thưa thầy con đi.
Bài Bây giờ là xuân cuối của nữ sinh Vũ Thị Gio Linh, lớp 12A4, nghe tên là biết tác giả người gốc Quảng Trị, được đánh giá cao trong đợt thi này. Chung cuộc, có trên 50 tờ dự thi, từ những tập in ronéo của các trường quận lỵ thiếu thốn mọi mặt đến các tập in off-sette rực rỡ bìa láng bốn năm màu. Trường Nữ trung học Gia Long với bài thơ trên đoạt giải nhất. Giải nhì cho trường Nữ trung học Bùi Thị Xuân ở Đà Lạt, giải ba cho trường Võ Trường Toản, giải khuyến khích cho trường Nữ Trung học Sương Nguyệt Anh, trường Trương Vĩnh Ký và Nữ trung học Lê Văn Duyệt. Các trường Nữ trung học chiếm 4 trên 6 giải thưởng.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác sau khi đọc các ấn phẩm trên đã cho rằng “chúng ta tìm thấy được nhiều điều đáng suy nghĩ” . Các Giai phẩm Xuân trường Gia Long và Bùi Thị Xuân có giá trị văn chương và trình bày. Xét riêng từng bài thì tác phẩm tương đối có giá trị của nữ cũng nhiều hơn, tình cảm trong thi ca phong phú hơn, đối thoại trong truyện ngắn linh hoạt hơn.
Bài thơ của Vũ Thị Gio Linh ở trên được chọn để đọc trong Lễ phát thưởng cho các Hiệu đoàn có báo Xuân xuất sắc.
Ngoài ra, còn có những bài hay khác như Gửi người em lớp 6 của Trần Bích Tiên, nữ sinh lớp 10C2 trường Bùi Thị Xuân, Đà Lạt. Báo Bách Khoa, tờ tạp chí rất có uy tín của miền Nam trước kia, thường đăng bài của các ông Trần Văn Khê, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Hiến Lê, Vũ Hạnh… đã không cưỡng lại ý định đăng lại bài này trên số 424.
Này em lớp sáu này em nhỏ
Gặp em rồi không quên em đâu
Chiều nay hai đứa về qua phố
Rất tự nhiên mà mình quen nhau
Em chạy tung tăng không mắc cỡ
Chị thì bước bước chậm theo sau
Tuổi mười hai chị xa xôi quá
Chị gọi em chờ, em chạy mau.
Này em lớp sáu này em nhỏ
Em hãy dừng chân một chút lâu
Chị vuốt tóc em rồi chị nhớ
Tóc em thơm ngát mùi hương cau.
Hương cau vườn chị xa như tuổi
Ba má chị nằm dưới mộ sâu
Vườn cũ nhà xưa tàn với lửa
Chị đi về hai buổi âm u.
Gặp em ngoài phố mình như bạn
Thơ mộng trong bàn tay nắm nhau
Chị ngắt cho em bông cúc nhỏ
Em cười cái miệng mới xinh sao.
Ngày xưa chị cũng như em chứ
Cũng rất ngây thơ rất ngọt ngào
Chị nhớ mỗi chiều tan học sớm
Bạn bè đuổi bướm thật xôn xao
Những con bướm lượn trên bờ cỏ
Chị cũng như em đuổi bắt mau
Bây giờ bướm biệt trên đường phố
Chị đuổi sương mù chơi chiêm bao.
Này em lớp sáu này em nhỏ
“Gặp em rồi muôn thuở không quên”
Trời ơi, câu đó ngày hôm trước
Ai rót vào hồn chị hỡi em?
Sách trên tay chị nghe chừng nặng
Sao cặp em đầy vẫn nhẹ tênh
Thôi nhé em về con phố dưới
Giữ hoài cho chị tuổi hoa niên.
(Trần Bích Tiên lớp 10C2)
Hay thơ của nam sinh Nguyễn Đăng Châu:
Anh nói bé nghe chuyện làng chuyện xóm
Chú Bảy anh Ba ngã xuống hôm nào
Đường quê mình đi dày công nuôi nấng
Bằng xác bà con sữa mặn má đào
Lơ lửng lá trời anh nói bé nghe
Mình lại xóm quê một bữa đầu hè
Yêu lắm bé thơ, chiều thương dấu cũ
Có mẹ ngồi chờ trên chiếc chõng tre
(Giai phẩm Đất Hồng, trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng)
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhận xét trên Bách Khoa số 425 rằng báo Xuân học đường ở thành thị rực rỡ sang trọng in offsette trên giấy trắng láng, bìa nhiều mầu, khổ lớn như các tập báo của các trường Sương Nguyệt Anh, Võ Trường Toản, Lê Quý Đôn, Hồng Bàng… Còn báo Xuân tỉnh lẻ hoặc tỉnh lỵ in ronéo trên giấy hẩm. Chiến tranh các vùng nông thôn khác nhau nên có sự cách biệt về đề tài hay hình thức giữa nội thành và ngoại ô, sắc thái “an toàn” của văn chương học đường ở Sài Gòn và sắc thái “hiện thực” của tập báo Xuân Đất Hồng của trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng và trong thơ của các cây bút học trò như Quảng Điền, Nguyễn Đại Bường, Lê Văn Quang, Nguyễn Đăng Châu, Nguyễn Hoàng Thư. Thân phận của các học sinh trong chiến tranh trôi dạt từ nơi này sang nơi khác nên có thể tìm được những tiếng “mô, tê, răng, chừ” trên báo Xuân của quận lỵ hẻo lánh cực nam, “Hổng thèm” ngúng nguẩy hay “à nheng” thân ái trên trang báo học sinh ở Huế hay Quảng Trị.
Nội san Xuân học đường trước 1975 là một hiện tượng văn hóa đơn lẻ, âm thầm ít ai quan tâm, nhưng đó chính là nơi ươm mầm văn chương, bày tỏ nỗi lòng vừa chớm, háo hức trước cuộc đời rộng mở nhưng cũng đầy lo lắng của giới trẻ học đường trong thời chiến tranh tao loạn và bất trắc. Đó là một sân chơi đàng hoàng. Ở đó, ngoài công sức của học trò, có các thầy cô mẫn cán bên các em có năng khiếu, khuyến khích và miệt mài cùng học trò trên một vùng đất hồn nhiên, trong trẻo mà ai cũng chỉ trải qua một lần.
Chút Kỷ Niệm Với Tuần Báo Thiếu Nhi
Năm 1972, Sài Gòn đang vui vẻ trẻ trung với hippy choai choai đầy đường phố. Nhạc Phạm Duy đang được hát khắp nơi và nhạc ngoại quốc lời Việt thịnh hành với những bài Đồng Xanh, Trong nắng trong gió, Những mùa nắng đẹp. Xã hội đầy lo lắng từ các bậc phụ huynh khi con cái bị ảnh hưởng văn hóa phương Tây, yêu cuồng sống vội.
Lúc ấy, tôi còn là đứa con nít đang học lớp Nhứt (bây giờ là lớp Năm) ở trường Võ Tánh, Phú Nhuận. Tuy còn nhỏ nhưng nhờ có sẵn tủ sách của Ba và ông anh học Văn khoa nên tôi đọc được nhiều. Đã vậy, các hiệu sách cho thuê mướn truyện đang phổ biến. Tôi ngốn từ sách của nhà xuất bản Phượng Giang với truyện của Thạch Lam, Khái Hưng, Nhà xuất bản Huyền Trân với tác giả Nhật Tiến… đến sách của Tủ sách Tuổi Hoa. Sách dịch có Con Nai Tơ của Rawlings, Phiêu lưu trên lưng ngỗng của Selma Lagerlof, cả lô truyện trinh thám Z.28 như Kashmir sông máu thuyền hoa, Bhutan đêm dài không sáng, Hồng Loan Hồng Ngọc… Tôi đọc mà nhớ nhớ quên quên, nhưng ham quá nên đích thị là con mọt sách.
Biết tôi ham đọc nên dù học không giỏi giang gì, tôi được cô giáo lớp Năm giao cho trọng trách là “quản thủ tủ sách” của lớp. Thời đó, mỗi lớp được một khoản tiền hằng tháng để mua sách báo thiếu nhi xếp loại là lành mạnh (không dùng ngôn ngữ lóng, thô tục hay có cảnh đấm đá) để học trò đọc bên cạnh ổ bánh mì to và ly sữa hằng ngày cho mỗi đứa (chương trình viện trợ từ nước ngoài). Sách thì có cô lo, còn báo, tôi được giao mua hằng tuần. Từ đó, tôi phát hiện tờ Tuần báo Thiếu Nhi. Trước đó, tôi toàn đọc ké sách người lớn nên một ấn phẩm được coi là báo dành cho thiếu nhi đẹp nhất nhì miền Nam khiến tôi mê tít. Tranh màu nước của họa sĩ Vi Vi trên trang bìa, do được in trên khổ lớn nên đẹp hơn mấy bức của ông vẽ in trên tạp chí Tuổi Hoa của Linh mục Chân Tín. Bài vở thì do nhà văn Nhật Tiến chăm sóc cùng vợ là nhà văn Đỗ Phương Khanh, vốn là cây bút của các tạp chí Tân Phong, Văn Hóa Ngày Nay từ cuối thập niên 1950 nên rất có nghề. Mỗi kỳ báo có bài viết của “ông Khai Trí” Nguyễn Hùng Trương, cũng là Chủ nhiệm báo, nhẹ nhàng và sâu sắc trong mong muốn định hướng lối sống lành mạnh cho giới trẻ. Truyện tranh thì có truyện Tintin của Hergé, Tí hon thần lực của Peyo. Bài của các nhà văn Thùy An, Minh Quân, Kim Hài, Vũ Hạnh, Phan Khương Thái viết hay, sâu và luôn có tính giáo dục. Nhà văn Nhật Tiến thì đăng phơi-ơ-tông dạng như Thuở mơ làm văn sĩ. Mỗi tuần, tôi mua báo trên đường đi học về và sáng hôm sau mang vào lớp cất vào tủ sách để các bạn xem vào mỗi cuối buổi.
Qua suốt năm đó và đến đầu hè sau năm lớp Đệ thất (lớp 6), dù nghỉ học nhưng tôi vẫn được đọc báo Thiếu Nhi vì ông anh bắt đầu lo tôi sẽ ham mấy truyện tranh gọi là nhảm nhí như Quỷ một giò, Chú Thoòng bán đầy vỉa hè. Với tiền anh cho, tôi tiếp tục mua báo Thiếu Nhi và đọc được thông báo là Tòa soạn sẽ mở một khóa học đặc biệt ở Trụ sở tòa báo số 159 Thiệu Trị (nay là đường Trần Hữu Trang), Phú Nhuận. Lớp mang tên “Căn bản gấp giấy Origami”. Cái tên Nhật Bản này không lạ vì trên báo Thiếu Nhi đã đăng lai rai dăm kiểu xếp giấy và gọi đích danh như vậy.
Ba má tôi, quá ngán thằng con lêu lổng suốt ngày ngoài đường trong ba tháng hè nên đồng ý ngay khi tôi mở miệng xin học. Tôi cùng ba thằng bạn trong xóm lần mò đến Tòa soạn mà lòng hồi hộp, hoặc có mình tôi cảm thấy vậy vì ba thằng kia chả quan tâm gì, đi theo tôi cho vui. Chúng tôi ghi danh và học luôn buổi đầu.
Lớp bắt đầu khi một ông nhỏ người đeo kính bước ra chào mừng đám học viên, đa số là người lớn ra dáng giáo viên. Ông giới thiệu là Nhật Tiến, thần tượng của tôi, người từng làm khổ tôi vì phải soạn bài “trần thuyết” (tập cho học sinh thuyết trình tác phẩm văn học) cuốn Thềm Hoang của ông trong năm lớp 6.
“Ông Khai Trí” Nguyễn Hùng Trương
Nhà văn Nhật Tiến
Sau đó, có một ông đầu hói, dáng bệ vệ trong bộ vest, da ngăm đen và có nụ cười như ông Địa bước ra. Đó chính là ông chủ nhà sách Khai Trí, tức Chủ nhiệm báo Nguyễn Hùng Trương. Một ông thứ ba là người Nhật từ Đại sứ quán Nhật Bản tại Sài Gòn.
Cả ba ông phát biểu ngắn gọn, ca ngợi môn nghệ thuật và cũng là thú vui gấp giấy này. Sau đó ông Nhật Tiến giới thiệu chương trình học trong suốt ba tuần, tuần vài buổi, giấy thì ban tổ chức lo. Ai gấp đầy đủ các mẫu hình và nộp cho thầy sẽ được cấp bằng tốt nghiệp.
Học được vài buổi thì ba thằng bạn của tôi, dù không có “mưa một ngày” nào nhưng lại bỏ tôi đi chơi đá dế tạt lon, dễ hiểu hơn là ngồi chọc ngoáy mấy tờ giấy.
Phần tôi tiếp tục ngồi học, tuần mấy lần đi ngang qua nghĩa địa Phong Thần (nay là chợ Trần Hữu Trang) là nơi yên nghỉ của bà ngoại tôi để đến Tòa soạn. Ở đó, tôi học từ các mẫu căn bản đến xếp được những con phức tạp như con cọp, con gà trống bằng hai mẩu giấy và xếp dần đến con cua, con rồng rất khó.
Thầy Nhật Tiến hiền hậu, kiên nhẫn và luôn hết lòng khi hướng dẫn học viên. Thỉnh thoảng cô Đỗ Phương Khanh cũng ra giúp thầy. Cô Phương Khanh có làn da trắng, dáng đầy đặn và sang trọng. Đám con thầy khá đông, con trai thì gầy, con gái trắng bóc và mũm mĩm. Con trai đầu của thầy, hình như tên Khiết, thỉnh thoảng ra ngồi cùng chúng tôi và xếp biểu diễn những con vật rất khó.
Ra vô tòa soạn, thỉnh thoảng tôi xem được những bức tranh bìa chuẩn bị cho số tới của họa sĩ Vi Vi, rất nổi tiếng ở miền Nam lúc đó. Có lần, tôi thấy anh bước ra, dáng cao ráo và hơi nghiêm nghị. Một anh học viên quay về lớp khoe là đã xin chữ ký của anh. Lúc khác thì thấy báo chở về tòa soạn bằng xe ba gác, xếp đều tăm tắp và mới tinh tươm. Không khí làm báo lúc đó đối với đứa con nít mười một tuổi như tôi thật lạ lẫm, hấp dẫn và gây ấn tượng đến nỗi lớn lên tôi lỡ bước theo nghề này luôn.
Kết thúc khóa học, chỉ còn mỗi mình tôi là đứa con nít duy nhất được cấp Chứng chỉ tốt nghiệp vì học đủ, nộp bài đủ. Vài học viên lớn tuổi được tặng quà vì xếp đẹp quá. Còn tôi thì thấy buồn vì hết được lui tới tòa soạn thân yêu này, và chưa có lần nào dám nói được một câu với chú Nhật Tiến hay anh Vi Vi.
Tám tháng sau thì đến 30 tháng 4 năm 1975 và tờ báo Thiếu Nhi ngưng hoạt động. Nhiều năm sau, tôi nghe nói gia đình nhà văn Nhật Tiến đã ra nước ngoài sống. Năm 1979, tôi được dự trại tổng kết hè dành cho những cá nhân ưu tú trong đợt hoạt động hè. Mỗi trại viên được một họa sĩ vẽ ký họa chân dung để triển lãm trong trại. Tôi được một họa sĩ tên Giang, tự là “Giang chảy” vẽ chân dung. Bên cạnh tôi, một đứa chưa chắc đẹp trai hơn tôi lại do chính họa sĩ Võ Hùng Kiệt tức Vi Vi vẽ. Tôi ghen tức biết chừng nào, nhất là khi nhìn lại bức chân dung một thanh niên mười tám tuổi quá đạo mạo do ông Giang Chảy thể hiện.
Cách nay vài năm, khi dọn nhà, tôi soạn lại sách vở giấy tờ và tìm được tấm chứng chỉ Tốt nghiệp rất đẹp này, dù giấy đã úa vàng qua hơn ba chục năm. Tờ chứng chỉ do họa sĩ Vi Vi trình bày, có chữ ký của ông Khai Trí và nhà văn Nhật Tiến, toàn những người tôi ngưỡng mộ.
Kể chuyện này cho chị Thư bán sách cũ trên đường Lê Văn Sỹ, chị bảo bà Đỗ Phương Khanh có về Việt Nam, tìm mua lại dăm tờ báo Thiếu Nhi ngày xưa. Tôi mang ra nhờ chị gửi tặng bà vài số. Tờ báo hay cái chứng chỉ cũ này đều gợi lên những ngày tươi đẹp và trong trẻo, mối duyên nhỏ giữa những người tâm huyết làm báo cho thế hệ tương lai và số đông độc giả, là tôi và bạn bè đồng lứa.
Phú Nhuận, Chốn Quê Nhà
Không có nhiều đất đai cho Phú Nhuận, một quận nhỏ xíu chỉ rộng hơn quận 4 - vốn là cái cù lao trên sông - một chút. Phú Nhuận là “thị trấn giữa đàng”, để mọi người băng ngang về Tân Bình, Gò Vấp, đi sân bay hoặc ra miệt quận 1, quận 3 để làm việc. Phú Nhuận xưa chỉ là một làng nhỏ có cha con ông Louis Vidal, là người Pháp nhưng lần lượt làm hương cả, nói tiếng Việt, ăn mắm, bận áo the đen, dùng cơm bằng đũa và được gọi tên Việt là hương cả Đành. Có bến Tắm Ngựa dưới chân cầu Kiệu mà nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ nhớ hoài khi lang thang khắp Nhật, Pháp.
Phú Nhuận xưa, ở đường Louis Berland (nay là Phan Đình Phùng) có tiệm hát ả đào, du nhập từ miền Bắc vào để ông Nguyễn Tuân khi vào Nam đến hát cho đỡ ghiền. Phú Nhuận là nơi đội bóng xưa nhất Việt Nam - Ngôi sao Gia Định đóng đô, đến những năm 1950 sân banh chỉ còn là bãi đất trống. Phú Nhuận chứng kiến những chuyến xe ngựa đầu thế kỷ XX, chở những ông Tây bà Đầm chạy dọc theo đường Hai Bà Trưng từ bến Bạch Đằng xuống Gò Vấp, mong tìm được chút hơi hướm khí hậu ôn đới vào buổi sáng sớm mù sương.
Những ngày tuổi thơ ở Phú Nhuận mới đây mà vèo qua bốn mươi năm. Nhớ trường Đình có cây đa to sát bên Đình làng Phú Nhuận nhìn ra đường sắt. Những đêm diễn hát bội ở Đình có nhóm Đồng ấu Minh Tơ toàn là các diễn viên nhỏ tuổi ca rất nghề. Tiếng chuông chùa Kỳ Quang, chùa Đại Giác và mùi nhang thơm luôn làm hồn trẻ nao nức những ngày giáp Tết. Xóm Mả Đỏ, xóm I Wai, xóm Mô, những cái tên bí ẩn nhưng hấp dẫn gắn liền những tệ nạn thời nào cũng có. Xóm nhà nghèo với ánh điện câu “Đêm khuya sâu, ngõ như không màu” , những cuộn ống nước nằm bên hè những nhà mới nhập cư đợi lúc câu nước nhờ. Nhà nào trong xóm cũng mơ một nền nhà bằng gạch bông hoặc cái mái bằng có mặt dựng thay cho mái tôn dốc xuống. Buổi trưa bầy trẻ nhỏ lang thang đi bắt chuồn chuồn, hái trái mồng tơi hay lượm trái điệp vàng, đi qua những xóm đìu hiu, hàng rào bông bụp, mái tôn nóng hực buông cái mành che nắng hướng tây. Những người vợ trẻ có chồng đi lính hát ru con sao mà não nuột trong cái trưa hè xóm nghèo với câu “Ví dầu…” . Tiếng máy may đạp xành xạch. Buổi tối, cha con lên giường nằm nghe cải lương, ở giữa nhà cái đèn tròn tỏa ánh sáng vàng ệch sao mà buồn giữa tiếng hát Út Bạch Lan hay Thành Được. Tiếng còi tàu từ cổng xe lửa số 9 kéo dài tô đậm thêm không khí bàng bạc và lo lắng của hậu phương thời chiến. Người Phú Nhuận lắng tiếng cánh quạt hay tiếng ì ì của động cơ máy bay trực thăng, chiến đấu cơ mà đoán chuyện chiến cuộc.
Xóm vui khi giáp Tết, nhà nào xênh xang thì mua được cái Tivi mới hiệu Denon hay National, coi như năm qua làm ăn thành công. Nghèo thì sắm cái radio chạy pin nghe cải lương hay không sắm gì hết. Dù sao, bầy con nít vẫn có áo mới. Con gái thích đồ bộ có in bông. Con trai may quần Tây, áo sơ mi kiểu người lớn, mặc qua Tết còn tiếp tục bận đi học đỡ tốn. Đi chơi Tết thì ít tốn tiền nhất là đợi hăm tám, hăm chín Tết ra đường Võ Di Nguy gần chợ Phú Nhuận xem hàng Tết bày đầy các Kiosk mới mọc. Về nhà thì vui như mở cờ khi thấy có mấy xâu lạp xưởng ba má mới mua, bánh phồng tôm Sa Giang, thấy cây đèn cầy bự chưng bàn thờ cũng đẹp mướt mát, đỏ tươi. Hôm nào đi gặp một kép hát, đào hát hay tài tử dạo chợ Tết là về khoe inh ỏi. Ông hề Thanh Hoài ở ngoài hay cười như trong kịch. Ông Xuân Phát, ba của Dustin Nguyễn bây giờ, với đôi mắt nhỏ giống hệt ông Ba Tàu thứ thiệt khi hát bài Tình chú Thoòng với câu “Ngộ có chết đi thì cũng theo trời theo Phoọt…”.
Phú Nhuận nhỏ nhưng nghệ sĩ không thiếu. Nhớ cái nhà rộng có sân vườn của nhạc sĩ Phạm Duy ở cư xá Chu Mạnh Trinh, đám con trai hay ra chơi bên cái hồ nước. Thỉnh thoảng lại có mở tiệc, bầy trẻ ngóng mỏ nhìn những ca sĩ đẹp rực rỡ dưới ánh đèn điện đến dự tiệc. Gần đó là nhà của ông văn sĩ người Bắc, thần tượng của học trò Sài Gòn vì là người viết truyện Chương còm, Dũng Đakao, Mơ thành người Quang Trung . Ca sĩ Phương Hồng Ngọc xinh như mộng vẫn theo mẹ ra khu chợ Ga đường Trương Tấn Bửu nối dài mua vải, mua xà bông thơm. Nhà nghệ sĩ Kim Cương ở Hoàng Diệu kín cổng cao tường, thỉnh thoảng lại có người tò mò ngóng ngó, ao ước nhìn thấy kỳ nữ nổi tiếng làm rơi nước mắt đêm qua với mấy vở Lá sầu riêng, Dưới hai màu áo . Thỉnh thoảng lại thấy ca sĩ Thanh Phong ban Tam ca Sao Băng mặc quần tây trắng đứng hút thuốc với dáng vẻ hào hoa dưới dãy phố lầu đối diện Nhà thờ Nam. Cách đó vài trăm mét trên đường Trương Tấn Bửu (nay là Trần Huy Liệu) là nhà của ca sĩ Kim Loan, cô ca sĩ xinh đẹp với giọng khàn hát tuyệt hay bài Đan áo mùa xuân của Phạm Thế Mỹ.
Quanh quẩn đâu đó ở Phú Nhuận những năm sau này, người Phú Nhuận quen với sự có mặt của những nghệ sĩ như họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Năm Châu, Dương Thiệu Tước. Những người chọn Phú Nhuận để sinh sống như một vùng đất nội thành tiện lợi đi lại nhưng êm đềm.
Dù phố phường chật chội mấy vẫn có những khoảnh khắc lắng dịu khi đi qua dăm ngôi nhà đường Nguyễn Trọng Tuyển, Đặng Văn Ngữ. Giữa lúc tấc đất tấc vàng, một miếng đất mặt đường rộng ba mươi mét bề ngang nằm “trơ gan tuế nguyệt” với hàng rào cũ kỹ, bên trong thấp thoáng sau mấy cây vú sữa tím là ngôi nhà nhỏ đặt vài chậu kiểng trước nhà như một thứ bình phong. Cái bàn thiên trước sân đặt mấy trái vú sữa chắc là cây nhà lá vườn, sân vẫn là sân đất, thấm nước khi mưa về và bốc lên mùi đất ẩm, mùi cỏ lá. Khách đi ngang qua chợt thèm có dịp thăm ngôi nhà vào một dịp giỗ Tết gì đó để biết đâu có thể tìm lại không khí của Sài Gòn cũ những năm sáu mươi ở Phú Nhuận, hay xa hơn là cảnh sống miệt vườn Mỹ Tho, Cao Lãnh. Bà cụ già ra thắp nhang bàn thiên vẫn giữ nét mộc mạc của người Nam bộ xưa, cái khăn rằn vắt vai. Mấy người con trai đi làm cơ quan nhà nước về nhà lo tưới cây, quét lá. Họ sống không ồn ào, ít tham vọng, rất lặng lẽ như rất nhiều người gốc gác từ lâu ở Sài Gòn, để mặc đất cũ đãi người mới đến.
Một thế hệ người cũ của một thời Phú Nhuận đang trôi dần về quá khứ. Ngôi nhà cô giáo lớp ba trường Võ Tánh của tôi nép mình dưới bóng cây vẫn là cái mái ngói dột nát. Hồi cuối những năm sáu mươi đến nhà cô cả đám học trò mê mẩn khi nhìn thấy những cái trứng chim cút kỳ lạ nhỏ xíu có đốm màu nâu, khác hẳn với trứng gà trứng vịt ở nhà. Một đứa chìa ra mấy đồng xu keng xin mua một trứng cút để mang về chơi nhưng cô chỉ mỉm cười. Phong trào chim cút làm giàu rồi cũng sập tiệm và cô vẫn sống một mình đến cuối đời. Ngồi trên bộ ván cũ mà giờ đây quá mỏng mảnh, khác với cái nhìn con nít hồi xưa, tôi nhìn dáng cô cóm róm pha trà nước mà thấy thời gian như bóng câu qua cửa. Xe lửa lại sầm sập đi qua. Tiếng còi tàu không thay đổi khi đi ngang qua Phú Nhuận, từ cổng số 6 Lê Văn Sĩ, số 7 Nguyễn Văn Trỗi, số 8 Nguyễn Trọng Tuyển và số 9 Hoàng Văn Thụ. Đó là chút thanh âm ngày cũ còn sót lại của quận Phú Nhuận, chốn quê nhà nhỏ của người sinh ra trên đất Sài Gòn rộng lớn này.
Thăm Nhà Ông Tạ
Hồi còn nhỏ, mỗi khi má tôi muốn cho cả nhà ăn chả lụa, mà người Bắc gọi là giò lụa, tôi phải lấy chiếc xe cà tàng đạp lên chợ Ông Tạ để mua. Mỗi lần như vậy, thế nào tôi cũng la cà nhà bạn bè ở quanh khu ấy cho đã rồi mới về. Có lần, vào nhà đứa bạn trong hẻm Vinh Sơn gần đó, tôi được mời nếm thử thịt cầy, được xem là đặc sản ở đây. Ăn xong một miếng, tôi về không dám kể cho má nghe vì bà kiêng món này.
Hơn ba mươi năm trôi qua, khi có dịp tụ lại với nhóm bạn cũ, chúng tôi lại nhắc về ngã ba Ông Tạ. Mấy người bạn ở xứ người nhớ rõ nhất, từng chi tiết. Dường như đối với họ, sau bao nhiêu năm được đậy điệm trong một góc tâm hồn, những kỷ niệm cũ còn nguyên không chút sứt mẻ. Một trời kỷ niệm nơi Hẻm Khuông Việt, Ngõ Cổng Bom, đám tang tướng cướp Sơn Đảo đông nghịt người. Lại còn rủ nhau về ăn bún mọc Bà Hân, cháo huyết rạp Đại Lợi, chả lụa Tuyết Hương như hồi đi học… Những giấc mơ tưởng chừng đơn giản sao mà khó thế ở tuổi năm mươi hoa râm.
Người gốc Bắc vào Sài Gòn từ 1954 bảo nhau, ở Sài Gòn có hai khu người Bắc vào sống rất đông, là Xóm Mới ở Gò Vấp và khu ngã ba ông Tạ. Và họ đồng ý với nhau rằng cư dân ngã ba Ông Tạ sống thanh lịch hơn, biết ăn biết mặc và chăm chú chuyện học hành nên có nhiều người thành danh… Những năm mới ra trường và đi làm, lúc đất nước còn rất nghèo, gần Tết tôi lại chạy lên khu Ông Tạ, ngắm không khí nhộn nhịp nơi đây. Ban ngày có hàng đống lá dong được bày ra lề đường để bán cho nhà nào muốn gói bánh chưng. Buổi tối tháng Chạp, ngay góc ngã ba, hiệu nữ trang sáng trưng đèn chiếu xuống rực rỡ những vòng kiềng, dây chuyền óng ánh…
Ngã ba ông Tạ lúc đó như cố lưu giữ những ngày nhộn nhịp lúc thịnh vượng nhất những năm 1960. Trong mùi hương trầm, thoảng cả mùi thuốc thơm ấm nấu trong siêu từ nhà thuốc Ông Tạ bay ra… Tôi nhớ đứa bạn cũ cùng thích làm đồ thủ công trong căn nhà bên bờ rạch Nhiêu Lộc ngay cầu Ông Tạ, và một đôi mắt con gái dưới hàng mày rậm trong hẻm Vinh Sơn. Những ký ức đẹp, thơm ngát ấy còn dịu nhẹ trong lòng.
Nằm gần ngã ba Ông Tạ, lối vào hiệu thuốc nam Trần Thái Đường là một cái cổng nhỏ đường Phạm Văn Hai, quận Tân Bình với bảng hiệu phải đứng bên kia đường mới xem rõ. Khu Ông Tạ quanh đó đã thay đổi rất nhiều, các gia đình người Bắc vào đây từ 1954 đã dần ra nước ngoài sinh sống. Những hàng thịt cầy nổi tiếng ở đây không còn mấy. Tuy nhiên, khi bước vào khoảng sân trong của Trần Thái Đường, thời gian phong kín lại như cách nay mấy chục năm. Vẫn là mùi thuốc tỏa ra thơm ấm, ngôi chùa nhỏ Thánh Thọ kế bên nằm trong khuôn viên vẫn sáng nhang đèn. Từ hơn nửa thế kỷ trước đến nay, Phòng khám Trần Thái Đường vẫn khám chữa bệnh, bốc thuốc Đông y. Như còn thấy cảnh tấp nập người ra kẻ vào từ sáng sớm cho đến tối mịt như hồi thầy thuốc chủ trì là ông Trần Văn Bỉ còn sống. Nhiều khách đến khám bệnh từ miệt Cà Mau lên, từ ngoài Trung vào, ở lại để chữa dứt hẳn rồi mới trở về.
Không mấy người Sài Gòn, trừ dân địa phương, biết phòng thuốc này là nơi phát tích cái tên ngã ba Ông Tạ, rồi chợ Ông Tạ, cầu Ông Tạ.
Trước năm 1947, ngã ba này thuộc làng Tân Sơn Hòa, dân quanh vùng gọi là Ngã ba Tháp do ở đó có một tháp canh do người Pháp dựng lên để kiểm soát con đường từ miệt Tây Ninh, Củ Chi vào Sài Gòn. Lúc đó, chung quanh còn cây cối thưa thớt, ngã ba là bãi đất trống chỉ có mỗi cái chùa nhỏ tên Thánh Thọ.
Năm 1947, chàng trai Trần Văn Bỉ 29 tuổi đến vùng đất này và mua miếng đất gần hai ngàn mét vuông. Ngôi chùa nhỏ Thánh Thọ nằm trong cuộc đất, rất phù hợp với anh vì anh là người tu hành theo Cổ sơ môn, một nhánh của Đạo Phật nơi Linh sơn cổ tự trên núi Bà Đen, Tây Ninh. Cũng nhờ thời gian sống trên núi học được nghề xem mạch bốc thuốc chữa bệnh bằng thuốc nam nên sau khi xuống núi, anh tiếp tục sở nguyện là mở chùa, chữa bệnh và mơ xa hơn là lập trường dạy trẻ nghèo. Anh đọc được sách thuốc chữ Hán, biết kết hợp cách chữa bệnh của người Việt và Hoa, thuốc nam và thuốc bắc.
Tuy còn là một vùng hẻo lánh ngoại thành Sài Gòn, khu Tháp canh dần trở nên sầm uất. Năm 1954, nhiều người từ miền Bắc di cư vào Nam và lập nghiệp tại đây. Lúc đó, nhà thuốc Đông y Trần Thái Đường của ông Trần Văn Bỉ đã nổi tiếng.
Ngoài số đông bệnh nhân là dân quanh vùng, lớp lớp người từ miền Tây tìm đến chữa bệnh, nhiều nhất là phụ nữ và trẻ em - sở trường nghề thuốc của ông. Dân gian kháo nhau “con bị bệnh, bồng đến cho ông Tạ nắm tay một cái là hết bệnh” hay “Không con cứ đến chữa ở nhà thuốc ông Tạ là có”. Mỗi ngày, ông Bỉ cùng gần chục nhân viên khám bệnh bốc thuốc từ sáng đến tối hơn cả trăm người. Với người nghèo, ông không lấy tiền chữa trị và cho nằm lại miễn phí những người bệnh nặng. Nguồn thuốc ông có chủ yếu là Nam dược nên giá không cao, mua từ Tây Ninh, Cà Mau và một số vị mua từ Hương Cảng qua đường Chợ Lớn.
Tiếng lành đồn xa, biết ông tu hành lại thương người, thỉnh thoảng ngôi chùa Thánh Thọ trong khuôn viên Hiệu thuốc lại có một đứa bé sơ sinh của ai mang đến bỏ đó. Ông cho mang vào nhà chăm sóc rồi đưa đến cô nhi viện, gửi gắm thêm tiền bạc để phụ cơm nước. Nhiều người nghèo bệnh nặng mất đi không có quan tài để chôn, ông ký giao kèo với Trại hòm Tân Lợi cung cấp quan tài để người xấu số yên nơi ấm chỗ và chịu hết chi phí. Năm 1968 xảy ra trận đánh Mậu Thân, quân lính hai bên bị thương rất nhiều, ông cho đưa vào chăm sóc tận tình không hề phân biệt bên nào, miễn là giúp người bị thương qua cơn đau đớn.
Tiếng đồn ở khu ngã ba Tháp có ông Thượng tọa tướng mạo cao to chữa bệnh rất hay lan ra xa và được nhiều người mách nhau khi có ốm đau. Bảng hiệu trước cửa Hiệu thuốc ghi là Trần Thái Đường - Đông y sĩ Thủ Tọa (Thủ: ở đây là xem mạch bằng tay. Tọa: Thượng tọa). Dân gian, theo thói thường gọi tắt là khu ông Thủ Tọa, biến âm thành ông Thủ Tạ, và dần dần là ông Tạ. Tuy nhiên, cầu Ông Tạ hay chợ Ông Tạ chỉ vì ở gần đó nên hình thành tên như vậy, không liên quan trực tiếp đến ông.
Năm 1983 ông Tạ mất. Trước đó, tuy tuổi đã cao ông vẫn tiếp tục khám bệnh và tham gia Ban cố vấn Hội Đông dược và châm cứu của thành phố, nói chuyện về đông y tại trường Đại học Y dược. Từ 1975 đến khi ông mất là những năm tháng đầy khó khăn của đất nước, thiếu thốn đủ bề nhất là thuốc chữa bệnh. Phòng khám của ông với nguồn dược liệu từ cây thuốc trong nước là niềm hy vọng của nhiều bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo vì biết ông sẵn sàng giúp họ mà không lấy chi phí. Những vị đứng đầu ngành y tế như bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Bộ trưởng bộ Y Tế, lúc đó là Viện trưởng Viện Y học cổ truyền dân tộc Thành phố, bác sĩ Trương Thìn đang phụ trách Trung tâm cai nghiện Bình Triệu nghe tiếng ông Tạ từ lâu đã nhiều lần đến hỏi ý kiến ông về chữa bệnh và thuốc men.
Tôi tìm đến Trần Thái Đường khi thầy đông y Nguyễn Văn Huệ, chủ trì Phòng khám đang chữa bệnh cho một thanh niên người Mỹ. Khuôn viên Trần Thái Đường rộng rãi với phòng khám, khoảng sân và một ngôi chùa nhỏ. Tuy nhiên, đây là phần đất còn lại của mảnh đất cũ đã bị cắt đi phân nửa. Sau khi ông Tạ mất, một người phụ nữ vốn là người chịu ơn ông Tạ chiếm và đòi quyền lợi phần đó. Ngôi mộ của ông giờ nằm trên phần đất cắt cho người phụ nữ kia.
Ông Nguyễn Văn Huệ cho biết cha của ông là Nguyễn Văn Đông được ông Tạ là cậu ruột nuôi nấng và dạy nghề từ nhỏ. Ông Huệ lớn lên tiếp tục học nghề thuốc và xem ông Tạ như ông nội của mình dù là vai ông cậu.
Những năm sau 1975, ông Huệ đang tuổi thanh niên thường theo ông Tạ đến các cơ sở y tế để trao đổi nghề nghiệp, nên ông không chỉ học ông Tạ về chuyên môn mà còn là cách ứng xử khiêm tốn của người tu hành.
Đảm nhận việc duy trì phòng khám có truyền thống hơn 60 năm, và còn đảm nhận công việc của Chủ tịch Hội đông y quận Tân Bình, ông Huệ có niềm tự hào là duy trì được những gì ông Tạ truyền lại, chuyên tâm chữa bệnh như một việc giúp đời, không nặng về kinh doanh, không quảng cáo rùm beng và giữ được cơ ngơi rộng rãi còn lại của gia đình giữa lúc tấc đất tấc vàng ở một khu thị tứ trung tâm như vùng Ông Tạ.
Thỉnh thoảng ở phòng khám, ông vẫn nhận được những món quà nhỏ, như một bức tranh chân dung ông Tạ… quà từ những người được ông Tạ chữa hết bệnh, hay chữa không lấy tiền lúc nghèo khó xưa kia. Có lúc là lời cảm ơn từ những người lính biệt động thành đánh vào Sài Gòn năm 1968 mà ông Tạ đã cứu khi bị thương… Những điều đó như nhắc nhở ông Huệ tiếp tục giữ vững Trần Thái Đường như một địa chỉ chữa bệnh có ích cho đời, nhất là cho người nghèo, như con đường ông Tạ Trần Văn Bỉ đã vạch ra.
Thuốc được chế biến hằng ngày, như từ hơn sáu mươi năm trước...
Gặm Bánh Mì Ở Sài Gòn
Hồi nhỏ tôi có đọc một truyện ngắn có tên Những khúc bánh mì của anh Tấu. Trong đó, tác giả là một cậu học trò rất mê ăn bánh mì của người bán rong trước cổng trường tên là Tấu. Bánh được ủ trong một cái giỏ, luôn nóng, kẹp miếng chả bò thơm ngon ở giữa. Cậu bé ăn bánh mì anh Tấu hoài mà không biết ngán, nhất là những ngày trời lạnh có trong tay ổ bánh mì nóng. Cho đến khi anh Tấu bị ho lao, vừa bán vừa ho sù sụ giữa gió lạnh, học trò trường đó tẩy chay không ai dám mua bánh mì của anh nữa. Trừ cậu bé kia bất chấp căn bệnh của anh vẫn tiếp tục gặm bánh mì. Tôi còn nhớ câu anh Tấu hỏi cậu bé: “Bây giờ chắc cậu không dám ăn bánh mì của tôi nữa phải không?”. Cuối cùng anh Tấu cũng nghỉ bán vì bệnh nặng, để lại trong cậu bé niềm nuối tiếc.
Ai cũng có một người bán hàng lý tưởng của mình trước cổng trường. Tôi cũng có một anh Tấu hồi mới lớn trong những buổi sáng đi học thêm. Con hẻm trên đường Hai Bà Trưng, gần khách sạn Quê Hương trước kia, có hai ông cùng đi bán bánh mì với nhau. Thật ra, chỉ có một ông bán và ông kia làm gì không rõ, lúc nào cũng đứng cạnh bên. Ông bán bánh mì có đặc điểm là hút thuốc bằng lỗ mũi. Lúc nào cũng thấy ông nhét một điếu thuốc lá vào lỗ mũi bên phải và thở ra khói bằng mũi bên trái một cách kỳ cục. Vừa hút, tay ông vừa thoăn thoắt lấy bánh mì trong rổ ra, dùng dao xẻ một cái rãnh ở giữa, nhét miếng chả lụa vào. Đặc biệt, bánh mì của ông luôn giòn, xốp và thơm, chả lụa luôn được xắt to. Cả miếng dưa leo cũng to, miếng ớt đi theo cũng to. Chả thơm, dưa tươi, thêm tí muối tiêu nữa nên rất ngon, cắn một cái là ngập răng. Bánh của ông luôn luôn đắt, hết trước chín giờ sáng. Thỉnh thoảng ông dùng con dao cắt xoẹt một miếng chả, rất trìu mến đưa cho ông phụ bán đứng chầu rìa kia: “Này, ăn đi!”. Ông kia ngay lập tức bỏ vào mồm, nhai ngon lành. Lần đầu đến mua bánh mì, tôi trố mắt nhìn kiểu hút thuốc kỳ cục và miếng chả “tình thương mến thương” giữa hai ông. Riết rồi cũng quen. Và những người khách khác chẳng thấy ai thắc mắc gì. Sau đó vài năm, hai ông biến mất không để lại dấu vết. Con hẻm vẫn đông, có thêm mấy cái ghế cóc bán cà phê vỉa hè và khách đành đi ăn sáng ở chỗ khác.
Có một bài viết nói về chuyện người Nhật đến Việt Nam du lịch. Tổng kết về sở thích ăn uống của họ ở đây, tác giả cho biết món mà họ mê nhất không phải là món phở mà là… bánh mì kẹp thịt. Lý do là nó thơm ngon và có hương vị khác lạ so với bất kỳ loại thực phẩm nào tương tự trên thế giới. Hai nữa là tiện dụng. Và chắc là lý do thứ nhất quan trọng hơn. Bánh mì ở các nước có thể rất mềm, hoặc rất cứng, đen hoặc trắng, nóng hoặc nguội ngắt nhưng vừa giòn, xốp, có cái cạnh bánh giòn thơm, hơi cháy vàng thì lại là kiểu cách rất riêng của bánh mì Sài Gòn. Loại bánh mì giòn ấy vẫn ngon lành từ những năm bao cấp nghèo khổ, dù chỉ gặm bánh mì không. Là bánh mì lạt nhưng có vị hơi ngọt, lại hơi mặn. Trong suốt tuổi thơ của nhiều người Sài Gòn, tôi tin nó có vị trí đáng nể. Sáng không có nhiều tiền, mua ổ bánh mì luôn có giá rẻ rề. Lấy hộp sữa đặc Ông Thọ chế vào dĩa và bẻ từng miếng bánh để quết đưa vào mồm. Sữa ngọt,thơm và béo, bánh mì giòn, còn muốn gì nữa! Hôm nào không tất bật đến lớp, đi làm thì pha một ly sữa nóng, bỏ tí cà phê theo kiểu pha pạc-xỉu. Lại bẻ bánh mì chấm sữa. Món này hương vị khác món trước. Bánh mì chấm sữa nóng hương vị toả ra thơm, hơi chua nhẹ, dễ nuốt hơn và ăn xong cũng no nê.
Bánh mì đi với người nghèo, nhất là con nít nhà nghèo. Hôm nào không kịp ăn ở nhà thì mua bánh mì bì. Chẳng có gì bổ béo ở thứ bánh này nhưng ngon và có hương vị riêng. Bì (da) heo trộn thính thơm phức, ăn dai dai. Nước mắm pha loãng có thêm tỏi ớt chan vào thấm ổ bánh mì. Hôm nào có tiền thì cho phối hợp ba thứ: bánh mì, fromage đầu bò và chuối già. Ăn kiểu này thì cắn một miếng bánh, đớp một miếng chuối và nhai một miếng fromage. Ngon và béo ngậy. Kiểu ăn chuối kết hợp fromage với bánh mì đã có từ thời Nam kỳ còn là thuộc địa Tây. Tuy nhiên, bây giờ không mấy ai ăn kiểu này. Bánh mì bì thì vẫn còn bán trước mấy cổng trường tiểu học và thỉnh thoảng trên xe đẩy ngoài đường.
Cách nay vài năm, khi vào chơi một xóm làm đồ gốm ở Lái Thiêu - Bình Dương, lỡ bữa, tôi được anh bạn ở đó mua cho một ổ bánh mì giá chỉ ba ngàn đồng, ăn sao thấy ngon và nhớ tuổi thơ quá chừng.
Bánh mì chơi được với mọi người. Tiệm bánh Như Lan ở Hàm Nghi xuất thân từ bán bánh mì, giờ nổi tiếng với đủ món ăn chơi như đùi gà rán, bánh bao, xôi lá sen, xôi khúc, xúc xích… Dù vậy người ta vẫn quen gọi cái tiệm to đùng ấy là bánh mì Như Lan, kiểu như “ra bánh mì Như Lan mua cái bánh bao”.
Bất cứ tiệm ăn hay quán cà phê nào của Sài Gòn xưa nay đều có bánh mì trong thực đơn. Bánh mì ăn với trứng ốp la, ốp lết, bò kho... Cái dĩa sứ Minh Long trắng bong, trứng cũng trắng, lòng đỏ vàng. Ăn xong thấy khô khan cả họng, chiêu vội miếng cà phê đá. Tôi không cảm thấy ngon. Bánh mì với đặc tính xốp, thẩm thấu nước nên khi kẹp thịt, pa tê hay thậm chí kẹp miếng ốp la ở giữa chắc chắn ngon hơn so với ăn kiểu Tây, bánh ra bánh và thịt ra thịt.
Bánh mì kẹp thịt với giá hai chục ngàn đồng đó chính là loại bánh mì mà người Nhật ba lô, trong đó có dăm người bạn của tôi, cảm thấy mê mẩn khi ngồi gặm trong một quán bình dân nhưng sạch sẽ ở khu phố Tây Phạm Ngũ Lão giữa lúc cắm đầu vào những cuốn sách dày cộp như Lonely Planet.
Khi trào lưu thức ăn nhanh đến đất nước này, đã thấy có sẵn một người khổng lồ chễm chệ, từ hang cùng ngõ hẻm cho đến quán hàng sang trọng, có khả năng đáp ứng khẩu vị bao người với lắm thứ nhân bên trong như vậy. Ổ bánh mì vàng ruộm và thơm phức, dù đôi khi phải ngoảnh mặt làm ngơ trước bàn tay người bán hàng vừa nhét thịt vào ổ bánh vừa cầm tiền thối cho mình, thì vẫn dễ chịu làm sao khi đến lớp hay cơ quan, mở cặp ra đã thấy bát ngát một vùng khứu giác. Lúc đó, miếng ớt cũng thơm khi đi cùng patê hay thịt quay, thịt xá xíu và vài cọng ngò. Đến lúc này, vị giác đã bị bánh mì kẹp thịt đánh gục để bắt đầu một ngày làm việc hăng say cùng với ly cà phê đá tỏa hương.
Ẩm Thực Sài Gòn, Hành Trình Đa Sắc
Khi so sánh với vùng miền khác, người ta thường nói “Ẩm thực Sài gòn không có bản sắc riêng”. Người Sài Gòn bản tính vốn “sao cũng được”, dễ chấp nhận ý kiến khác biệt với mình nên không mấy khi tranh cãi với nhận xét này. Và cho dù mang tiếng “thiếu bản sắc”, ẩm thực Sài Gòn vẫn lừng lững phát triển, ngày càng đa dạng và hấp dẫn đến nổi nhiều người mê ẩm thực, từng cất công du lịch qua nhiều nước để thỏa mãn thú vui này phải kết luận “Ở Sài Gòn nếm cho hết các món ngon cũng đủ sướng miệng!”.
Hàng quán Sài Gòn vẫn cứ phát triển với cung cách phục vụ ngày càng chuyên nghiệp. Các tên tuổi ẩm thực ở vùng miền khác đã đến Sài Gòn mở quán kinh doanh như phở Lò Đúc, chả cá Lã Vọng, nem Ninh Hòa, gà Tam Kỳ rồi đến quán ăn Hàn, Thái, Ấn, Nhật, Ý… không kể xiết. Để giữ chất lượng và uy tín cho tên tuổi của mình, nhiều quán đặc sản sẵn sàng tận dụng những tiện ích của ngành hàng không nhằm duy trì nguồn nguyên liệu “chất” nhất và “nguyên gốc” nhất. Người sành ăn ở miệt quận 1, quận 3 hay Phú Nhuận, Bình Thạnh chưa chắc sành sỏi về những món ăn ở Chợ Lớn, mảnh đất phía Tây Nam. Chợ Lớn với nền ẩm thực Trung Hoa phong phú luôn là một điểm đến hấp dẫn. Món Chợ Lớn qua thời gian đã được cải biên cho hợp khẩu vị và phong thổ ẩm nóng của Sài Gòn, trở nên đỡ ngấy vì không nhiều dầu mỡ nước xốt như món ăn Hoa trên đất Trung Hoa. Vả lại, bản thân ẩm thực ở Chợ Lớn cũng quá phong phú với các trường phái của người Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hẹ. Có một ca khúc hài (nhái bài hát Bến Thượng Hải ) đã phác họa vẻ phong phú này:
Người Chợ Lớn, người bên Tàu, người Hồng Kông
hễ thấy nhau là mời bánh bao.
Tuy Phúc Kiến, tuy Hải Nàm, dù Triều Châu tới đâu cũng mời ăn mì
Mì xá xíu, mì vịt tiềm, mì bồ câu, cái tô sau là hoành thánh tôm
Kêu thêm dĩa hủ tíu xào, xào mực tôm, cá viên hẩu xực làm sao
Còn ngon nữa, thì tả pín lù
Người Phúc Kiến nổi danh là vịt nấu chao
Dê bát bửu thêm yến sào
Người già nua tới đâu cũng trẻ lại mau…
Đã vậy, thực đơn Tàu luôn được bổ sung các món từ Đài Loan, Singapore hay Hồng Kông, đều là những thiên đường ẩm thực. Từ những dịp gần Tết Nguyên đán hồi trước 1975, dân Sài Gòn đã thích vào Chợ Lớn mua sản vật lạ như trái hồng khô Hồng Kông, rượu Ngũ Gia Bì, lạp xưởng Đài Loan… nhập về từ các xứ đó.
Món ăn Sài Gòn thiếu bản sắc vì không ngại du nhập món ăn xứ khác để làm thành của mình. Món hủ tíu người Tiều (Triều Châu) vào Nam bộ cuối thế kỷ 19 và chỉ nấu bằng thịt heo, xương heo và sau này với cá, gà ăn cùng bánh tráng ướt thái sợi. Có người cho rằng đây là món điểm tâm đặc trưng của người Tiều Nam Bộ, không thấy có ở Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Thượng Hải… Rồi hủ tíu chia thành nhiều nhánh, đều nổi tiếng như Hủ Tíu Mỹ Tho, Hủ Tíu Nam Vang và không ai nấu với thịt bò. Bây giờ người Việt, người Hoa gốc Quảng Đông, Hải Nàm cũng nấu hủ tíu.
Khu Chợ Cũ Hàm Nghi có nhiều Tiệm nước (tên cũ của quán bán nước trà có ăn nhẹ) của người Quảng Đông từ đầu thế kỷ 20. Tiệm của người Hải Nàm gọi là Trà gia thường có chữ Viên, tỷ như Yến Phương Viên bán Hủ tíu cá. Người Hải Nàm (gốc đảo Hải Nam) thường đi tàu biển, làm bồi cho Tây nên khi mở tiệm nước thường có bán kèm bánh tây như patéchaud, soux cream…
Ở đường Tôn Thất Đạm, quận 1 giờ vẫn còn quán hủ tíu cá Nam Lợi, một quán của người Hoa tồn tại khoảng 60 năm nay. Quán bán hủ tíu cá, hủ tíu gà. Sợi hủ tíu có loại nhỏ và loại to bản, lớn hơn bánh phở và có cả mì sợi tươi. Cá lóc tươi bỏ xương, xắt lát mỏng. Gà thịt dai vừa phải, ngọt thịt. Tô hủ tíu rắc nhiều tiêu, nước lèo có vị ngọt dịu của cá gà, mùi thơm mực khô và xương hầm. Trên bàn, bày thêm bánh Patéchaud, ai thích thì ăn. Bánh ngon, mềm nhưng không dai, nhân đầy, thịt đậm đà. Việt kiều về đây chen chúc trong không gian chật hẹp cùng dân Sài Gòn, xì xụp ăn giữa tiếng hô ì xèo của chủ tiệm “Cá liệu!” (Thêm đồ ăn!), “Dùy phảnh!” (Hủ tíu cá!).
Về món ăn ai cũng biết - phở. Nhưng con đường nào để phở Bắc vào Nam còn rất lờ mờ. Ông Lý Lược Tam, gốc Triều Châu, từng sống ở Lái Thiêu trước 1945 kể trong một dịp hàn huyên, phở thoạt đầu là thức ăn của người bình dân, bán trên xe đẩy đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Trước 1945, người ta nấu phở khi có thịt trâu bò đưa về do chết vì bom đạn. Phở theo chân những người Bắc vào ký công tra làm phu cao su ở Lộc Ninh, nay thuộc Bình Phước. Đến năm 1945, do loạn lạc, số người này bỏ đồn điền chạy về vùng Lái Thiêu và được những đồng hương ở đó giúp vốn mở quán hay xe đẩy đi bán phở. Lúc đó người Bắc (dễ nhận ra do nhuộm răng đen) bị Tây lùng bắt nên một nhóm trốn về Sài Gòn đông đúc. Họ vào cái hẻm bên cạnh rạp hát Casino (góc Lê Lợi – Pasteur, nay không còn) bày bàn bán phở. Lúc đầu chỉ có món phở tái nêm nước mắm. Sau bán thịt tái không hết, họ luộc thịt làm thêm phở chín. Đầu những năm 1960, người Tàu Chợ Lớn chế ra tương đỏ, tương đen và phở tiếp nhận luôn yếu tố ngoại lai này. Sau đưa lát chanh tươi vắt vào nước lèo tạo vị ngọt thanh, thêm giá trụng, hành chần, rau ngò gai, quế… và bây giờ có cả rau ngò om, giá sống và hành Tây xắt mỏng. Phở Sài Gòn đi một hành trình dài để lột xác, ăn kèm nhiều thứ nhưng không đi quá xa kiểu nấu từ miền Bắc… giữ hương vị đậm đà, dù ít hay nhiều béo, có hay không rau.
Giới trẻ Sài Gòn thích món bò pía. Nó hấp dẫn vì có vị thơm mát của rau, củ sắn luộc chín và có rau xà lách gói trong bánh tráng mỏng. Bò pía chấm với tương ngon có trộn đậu phộng giã nhỏ, được cung cấp thêm vị mặn ngọt của con ruốc rang, vị béo của lạp xưởng ướp. Có người thắc mắc sao không có thịt bò mà gọi “bò pía”. Xuất phát từ tiếng Triều Châu, Pò nghĩa là bạc, mỏng. Pía là bánh. Bò pía hay Pò pía là cái bánh cuốn mỏng trong có thức ăn. Món này của người Triều Châu, có hai loại mặn và ngọt. Bánh ngọt có nhân kẹo bột, rắc mè, dừa… ít phổ biến hơn bánh mặn.
Bên cạnh đó còn có món gỏi đu đủ khô bò cay cay đậm đà từ Bắc vào Nam cũng xuất phát từ người Hoa sống ngoài đó. Danh xưng là gỏi khô bò nhưng miếng thịt lại là phổi, gan, lá lách bò vốn mềm mại, thẩm thấu tốt hương vị đậm đà của hắc xì dầu, gừng.
Khu Chợ Cũ Hàm Nghi hình thành một món ăn kỳ lạ và khoái khẩu với người Sài Gòn bình dân cách nay nửa thế kỷ. Đó là món xà bần, hay còn gọi là món lâm vố (rabiot). Lai lịch như sau, trong tiệm nước, ngoài đồng lương, người phục vụ hưởng được quyền lợi khác tùy theo công việc. Anh bồi bưng bê thức ăn hưởng tiền bo từ khách. Chú đầu bếp không tiếp xúc với khách thì hưởng… thức ăn dư. Mỗi ngày, họ đổ thức ăn dư vào xô và bán ra. Người mua cho tất cả vào nồi, bắc lên lò nấu thành một món xà bần sền sệt. Trong đó, có nhiều cục thịt bò còn nguyên, cá bống chiên, thịt quay… có khi là cục nấm đông cô thơm lừng. Do nấu đi nấu lại, thêm gia vị và muối, món này càng đậm đà, giữ được lâu. Giới phu phen và cả công chức thời đó thiếu chất thịt trong bữa ăn nên không ngại ăn đồ thừa, buổi trưa ra mua một tô ăn tại chỗ với bánh mì hay cơm giá 2 cắc, rẻ hơn giá tô hủ tíu, ai cũng ăn được và thường hết sớm. Sau 1975, món này hoàn toàn biến mất.
Người sống ở Sài Gòn có thể kể vanh vách những món ăn đặc trưng ở nhiều vùng đất khác nhưng nói về món đặc sản Sài Gòn thì dễ phân vân. Nhưng có hề chi, khi ra đường sẽ gặp bao món ăn thơm ngon. Nhớ chuyến du lịch Singapore thì ăn cháo ếch đường Lê Anh Xuân, thích cơm Hàn thì đến phố Thăng Long, cơm Nhật thì ra Lê Thánh Tôn, ăn dim sum thì vô Hà Tôn Quyền, cơm Thái thì ra Bùi Viện. Về món Việt, thích cơm Huế thì đến quán Ruốc, Ngự Bình, cơm Bắc thì vô khu sân bay, thích mì Quảng thì về Bảy Hiền, muốn Mì vịt tiềm thì ra chợ Lacaze – Nguyễn Tri Phương. Còn chè ngọt, cà ri, cháo lòng, bột chiên, cơm tấm bán theo quán riêng.
“Ẩm thực Sài Gòn thiếu bản sắc”, nhưng không thể chối cãi rằng món ngon ở khắp nơi thích tụ về Sài Gòn (cũng như người đẹp, ca sĩ hay nhân tài các ngành nghề thích tụ về) để tồn tại và phát triển trong một hành trình riêng của nó, để làm nên một khuôn mặt đa sắc cho đời sống ẩm thực Sài Gòn. Sự đa sắc đó có thể gọi là bản sắc ẩm thực kiểu Sài Gòn được chăng?
Nhớ Một Thời Hippy
Trong chồng báo cũ của gia đình, tôi tìm thấy tờ báo Xuân xưa, báo Xuân C.L năm Kỷ Dậu 1969 khổ lớn với bìa có khuôn mặt tươi cười của nghệ sĩ Kim Loan. Bài vở trong đó ít đặc sắc nhưng có một bài lý thú. Bài “Mùa xuân mười tám” của Hà Mai Lan trình bày dưới dạng hai bài nhật ký, nhật ký của Mẹ và nhật ký của con gái. Nhật ký của Mẹ kể về những ngày Tết 1943 ở Hà Nội. Trời rét Xuân đất Bắc, cô con gái theo mẹ lên xe kéo ra chợ Đồng Xuân ngày hăm ba tháng Chạp vào buổi sáng sớm, trong lòng vẫn lo chợ hết món ngon để mua cúng ông Công ông Táo. Về nhà, cả nhà xúm vào gói bánh chưng cùng với người bà con ở quê ra. Cô con gái cả ở nhà trông nom mọi việc, mua sắm cho em út. Phần nhật ký này trình bày một mùa xuân tuyệt đẹp trên đất Bắc rất gợi nhớ cho những người xa quê hương miền Bắc đã lâu.
Phần nhật ký cô con gái thì thể hiện nếp nghĩ hiện đại của một cô gái tân thời trong xã hội Sài Gòn giữa cơn lốc hưởng thụ thời chiến tranh tao loạn. Cô gái mong đợi đến ngày mở tiệc bum - ban khiêu vũ Tết với đám bạn bè và lo mua sắm quần áo. Đám bạn cô thì đi mượn nhà để mở tiệc khiêu vũ.
Cô phàn nàn là bị ông bố xé bức ảnh tứ quái Beatles treo ở phòng ngoài. Ông càu nhàu “Ảnh ông bà cha mẹ không treo, lại rước cái thằng mủi lõ đầu bù ấy…” và cô chê ông bố là “quê” quá cỡ… Cô ra phố Bô – na (tức là đường Lê Lợi) chơi và gặp ông thầy cũ, giờ đã chuyển xưng anh với cô. Cô gật đầu nhận lời vào thương xá Tax với ông và “thương hại cho túi tiền của lão vì mình chỉ mua có một hộp dầu thơm Essence và một ve Eau De Cologne”. Cuối cùng cô nhận lời tối mai đi phòng trà với thầy nhưng biết mình sẽ từ chối vì không thích đi với “lão già khằn đó”.
Người đọc dễ hình dung rằng lớp trẻ cách nay bốn mươi năm ở Sài Gòn ăn chơi quá, thực dụng không kém thời bây giờ. Hình ảnh cô bé trong bài có là tiêu biểu cho lớp trẻ Sài Gòn lúc đó hay không?
Từ năm 1969 đến đầu những năm 70, nhiều người thờ ơ với thời cuộc không biết vì sao ngoài đường phố Sài Gòn sao lắm hình ảnh hoa đến thế. Hoa được vẽ khắp nơi, trên áo, trên thân xe của giới trẻ như Suzuki, Vespa, xe hơi, dán cả trên mắt kính râm tròng lớn. Chỉ có một dạng hoa duy nhất với nhụy tròn, bao quanh là những cánh hoa nhiều màu sặc sỡ cũng tròn như được kẻ compas. Người ta gọi đó là hoa hippy.
Phong trào hippy của giới trẻ Mỹ, bắt nguồn từ thành phố San Francisco năm 1967, khi có gần cả trăm ngàn người tụ lại tại đại hội Montery Pop để tạo ra một ý tưởng chống đối văn hóa và chính trị đương thời, đã lan qua tận Châu Á. Bằng con đường y hệt của nhạc trẻ phương Tây, tức là đi theo sách báo và lính Mỹ, phong trào hippy lan đến Sài Gòn và các tỉnh miền nam như một thứ dịch. Hình ảnh bông hoa trên là hình tượng phổ biến của phong trào hippy, “Flower Power” (Sức mạnh của hoa) mang tư tưởng chống chiến tranh Việt Nam, chống bom hạt nhân của giới trẻ Mỹ. Nó cũng tượng trưng sức mạnh hòa bình khi thể hiện hình ảnh bông hoa gắn trên đầu mũi súng. Bên cạnh những triết lý đó, phong trào này cổ vũ “Make love not war”. Khẩu hiệu khiến giới trẻ theo phong trào sống khá thoải mái, bầy đàn và dễ dính tới nạn hút chích.
Qua tới Việt Nam, phong trào hippy phản chiến còn lại gì? Những năm đó, giới trẻ miền Nam đa phần lo lắng cho tương lai trên một đất nước đang có chiến tranh. Ngoài số thanh niên có lý tưởng hoạt động bí mật hay ra chiến khu, đa số lo học hành, tìm cách tránh bị bắt lính. Tuy nhiên, một bộ phận thanh niên khá giả, học trường tư thục, thích nhạc trẻ - như cô gái nói trên - đã tìm thấy ở phong trào hippy mới du nhập một triết lý sống khá hiện sinh, thoải mái, vui nhộn và nhiều cơ hội thể hiện cái tôi của mình. Vui nhất là được rủ nhau đi nhảy nhót và hát nhạc ngoại quốc. Nhiều thanh niên con nhà nghèo cũng đua đòi theo. Bắt chước một hiện tượng, dễ nhất là từ hình thức của nó. Hình ảnh của hoa hippy là một sự bắt đầu.
Nhạc nước ngoài lời Việt với hình ảnh ca sĩ cầm đàn guitar điện rất thịnh hành trong phong trào hippy đầu thập niên 1970.
Một bài báo thời ấy tường thuật về giới trẻ Sài Gòn, lược lại như sau, chiều thứ Bảy và Chủ Nhật thì phải ăn mặc thật gồ ghề để lên đường phố Sài Gòn trình diễn thời trang. Kiểu áo thịnh hành lúc đó là cổ áo giống như áo của ông râu kẽm (ám chỉ ông Kỳ), với cái cổ được đặt tên là A la Mao (áo kín cổ của Trung Hoa ngày nay). Ngoài ra có các kiểu như: Kangouru (có nẹp dài từ trên vai xuống cườm tay), Procol Harum (áo dài gần sát đầu gối, xẻ khá dài hai bên hông), Napoléon (cổ tay tua rua, trước ngực cũng tua rua).
Giày thì thịnh hành giày kiểu Torpedo, Bally như thế hệ cuối thập niên 40 và quần kiểu cigarette thẳng từ trên xuống dưới. Váy may như quần xà lỏn, quần patte áo pull hoặc nguyên bộ patte. Ngoài ra có kiểu giày Cléopatre dây nhợ quấn chằng chịt hay mốt mang dép cao su Nhật màu trắng, có cả mốt đi chân đất nhưng không thọ vì sợ uốn ván.
Trang phục phổ biến dễ nhận ra giới hippy nhất là quần jeans rách, gấu bung tua rua mặc với áo sô mỏng, mắt kính gọng tròn kiểu John Lennon, con trai và con gái đều để tóc dài, tới vai hoặc hơn. Anh nào có râu rậm thì râu quai nón, băng buộc đầu, đeo chuỗi hạt tình yêu. Con gái diện váy dài và đeo vài thứ lằng nhằng như dân digan. Sau đó ra đời kiểu cổ áo bà ba, nút áo được cài từ trên cổ xuống đến tận eo. Sau khi ca sĩ Mai Lệ Huyền bận mini jupe hát nhún nhảy trên truyền hình, đường phố Sài Gòn tràn ngập mini của các cô. Kế đến là kiểu áo dài vạt cực ngắn gọi là áo dài mini.
Trước đó, phong trào nhạc trẻ đã phát triển tại miền Nam vào đầu thập niên 1960, qua sách báo, dĩa nhạc du nhập từ Pháp và rất thu hút giới trẻ đô thị, đặc biệt là giới hippy. Từ đó xuất hiện những thần tượng ca nhạc trẻ như Sylvie Vartan, Francoise Hardy, Christophe… từ nước Pháp. Tiếp nối ngay sau đó là sự nổi lên của các ca sĩ Việt Nam hát nhạc nước ngoài như Elvis Phương, Paolo, Jo Marcel, Thanh Lan... cùng với các ban nhạc trẻ như Les Vampires, Enterprise, The Peanuts, CBC, The Uptight, The Hammers, The Dreammers hoặc Les Fanatiques...
Sau Đại hội nhạc trẻ Woodstock, đại hội của giới hippy, diễn ra trong 3 ngày tại New York năm 1969, vào tháng Tư, năm 1971 tại Sài Gòn đã diễn ra buổi đại hội nhạc trẻ ngoài trời đầu tiên ở Việt Nam tổ chức tại sân vận động Hoa Lư với gần 20 ngàn người và hơn 20 ban nhạc trẻ đến từ Hoa Kỳ, Phi Luật Tân, Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn, Mã Lai, Indonesia và nước chủ nhà.
Khi đã ăn mặc, giải trí khác lạ so với số đông, dân hippy đương nhiên cũng tạo dựng ngôn ngữ riêng và thích thú khi dùng chúng. Lúc đầu nó phổ biến trong giới ăn chơi, dần dà lan ra ngoài xã hội vì bắt chước lời nói thì không tốn kém gì. Họ nói ghế (con gái), ghế tơ (con gái nhỏ tuổi), ghế linh (con gái đẹp), ghế mục (con gái xấu), khứa lão (ông già lớn tuổi), khứa mục (đàn ông ngu đần không xài được), lặn đi khứa (bỏ đi tám, tức là cho qua đi), cảo dược (hút thuốc lá), ghế cảo dược (con gái hút thuốc), mông tại (cóc có tiền)… và nhiều từ không tiện kể ra đây.
Dân hippy Sài Gòn, như những thân gỗ đã bị bật gốc gia đình, vẫn trôi lững lờ trên dòng xã hội đầy sôi động. Đa số còn rất trẻ, chán chường và lo lắng, đua đòi và thích hưởng thụ. Họ không tin vào xã hội đương thời, chỉ tin vào tuổi trẻ của mình và cho rằng “Trên ba chục tuổi thì hết là kẻ đáng tin!”. Một số người buông thả, vướng vào chích hút và tàn đời. Nhưng rất may, hầu hết đã quay lại cuộc sống thực tế, không tiếp tục thể hiện mình là “bất cần đời” nữa và trở lại trường học sau một mùa hè rong chơi. Họ tu tỉnh, quên đi một thời “yêu cuồng, sống vội”. Lúc đó, trong mắt họ, hình ảnh gia đình và quê hương hiện rõ dần lên. Họ tỉnh lại.
Cách nay vài năm, tôi gặp lại chị Hồng Đào, cựu nữ sinh trung học tư thục Hoài An ở Phú Nhuận, một hippy choai choai của Sài Gòn năm 1970 và là bạn học của chị tôi. Lúc đó chị đi xe Suzuki xanh nước biển, jeans xanh bó sát với ống loe và gắn đầy hoa trên xe, túi xách và mắt kính. Ở tuổi gần sáu mươi, chị còn giữ được tính sôi nổi của một thời trẻ, thích nghe nhạc và từng cố gắng mua vé đi xem Bob Dylan hát ở RMIT gần đây. Chị bảo, đó là một thời kỷ niệm, ngốc ngếch và ham vui của tuổi trẻ. Chị đã vui, nhưng may là biết thoát ra một kiểu cách sống tuy rất hấp dẫn nhưng đầy bất trắc và cạm bẫy với người mới lớn. Dù sao, nó đã qua và chị mong con của chị có thể vượt qua được giống như vậy. Vì hiện tại, cuộc sống còn có gấp nhiều lần những cám dỗ đối với người trẻ…
Giai Phẩm Xuân Học Trò
Bốn mươi năm trước, bà chị của tôi đang học lớp Đệ Ngũ (lớp 8 hiện nay) trường Trung học Lê Bảo Tịnh mang về một cái thẻ nhỏ và bảo trống không: “Thích vô Thi văn đoàn thì dán cái hình, tìm một cái bút hiệu mà ghi vô!” . Rồi chị nói một cái tên nghe rất điệu, đại loại là Thi văn đoàn Mưa Thu hay Hoa Thiên Lý gì đó…
Tôi cũng tìm cho mình một bút hiệu, dán hình vào và gửi thẻ đi. Vài ngày sau nhận lại cái thẻ, có dán hình của tôi rất oách và dấu vuông xác nhận mình là thành viên của Thi văn đoàn này. Từ đó, không thấy ai nhắc đến nó nữa khiến tôi đợi miết và buồn mấy hôm vì mất cơ hội trở thành… văn sĩ.
Trước đó, tên các Thi văn đoàn đã khiến tôi sôi sục khi đọc các bài báo đăng trên các trang thiếu nhi hay trên báo dành cho học trò như Tuổi Ngọc, Thằng Bờm, Thiếu Nhi, Tuổi Hoa. Đó là nhóm Áo Trắng ở trường Gia Long, Hoa Phượng của trường Trưng Vương, nhóm Hoa Quê Hương… Thành viên các nhóm có nam nữ đủ cả, nhưng các cây bút nữ có nội lực dồi dào, đều tay, sâu lắng hơn. Thật là dễ hiểu vì lúc đó các chị đã chững chạc hơn so với các anh đồng tuổi còn ham chơi.
Các Thi văn đoàn là cái nôi cho một hoạt động ngoại khóa rất sôi nổi ở trường học lúc đó là làm bích báo (báo tường) và Nội san. Đến giờ chắc nhiều người ở các đô thị miền Nam còn nhớ những cuốn Nội san hầu hết in ronéo, nét vẽ và trình bày phần nhiều ngô nghê, vụng dại và thường có “Lời nói đầu” của một vị giáo sư với giọng văn nghiêm cẩn, đôi khi khô khốc và cũng lơ tơ mơ với nghiệp viết lách như học trò. Các cuốn Nội san đó, hình thành ý tưởng từ mùa Noel, bắt đầu nhận bài lai rai cho đến khi thi xong là một nhóm học trò bắt đầu lo vẽ minh họa, trình bày, quay ronéo, đóng tập.
Ông anh thứ năm của tôi, người vẽ một số tranh minh họa trong cuốn sách bạn cầm trên tay, lúc đó đang học trường Trung học Hoài An ở Phú Nhuận đã vẽ nhiều tranh trên giấy stencil để minh họa bài. Anh bảo các bài viết thường chán và sáo, tìm ý mãi không ra nên thường vẽ đại với hình thiếu nữ tóc dài mộng mơ đang nghiêng đầu, hay ôm cặp đi dưới hàng cây. Vậy là đủ, học trò ai cũng thích những hình ảnh như vậy, đọc bài thì ít nhưng mê tranh vẽ, để sau đó còn vẽ cóp lại trên vở lưu bút cuối năm.
Tuy vậy, làm nội san cuối năm là một hoạt động rất hấp dẫn, nên cho đến gần Tết Ất Mão năm 1975, nhà nước thời đó chính thức tổ chức một cuộc thi làm báo Xuân học đường hẳn hoi với nhiều giải thưởng. Ban giám khảo là các nhà văn nổi tiếng ai cũng biết như Minh Quân, Minh Đức Hoài Trinh, Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Tố Oanh, Lê Tất Điều, Nguyễn Mộng Giác… Các trường ở Sài Gòn gửi thẳng đến ban Giám khảo, các trường ở tỉnh lỵ, quận lỵ thì Ty giáo dục phải tuyển chọn trước khi gửi về. Lúc đó, báo Xuân học đường là cơ hội của các cây bút học đường do báo chí người lớn thu hẹp dần đất dành cho tuổi trẻ, nhiều tờ báo khác bị đóng cửa do tình hình khó khăn thời chiến nên học trò thích viết lách rất háo hức.
Ngay sau Tết năm đó, bà chị tôi đã mang về cuốn sổ có chép bài thơ sau đây:
Thôi thưa thầy con đi
Năm cuối cùng đã hết
Chưa sang một mùa thi
Ðã nghe đầy thương tiếc
Vở chưa phai mực thầy
Những lời phê nho nhỏ
Sáng lên màu tươi đỏ
Thâm trầm nỗi tin yêu
Trong màu xanh biển chiều
Của những dòng nước lặng
Thầy bảo đời rất đẹp
Nhưng cũng lắm gian nan
Bao ô đời còn khép
Chưa mở rộng thênh thang
Như những ô tập vở
Cần những kẻ khai hoang
Áo cơm là hơi thở
Mơ mộng là son vàng
Mai con đi thầy ở
Những lớp học lại đầy
Có những cánh chim non
Và những chồi non chớp
Con chưa là người lớn
Con muốn ở lại trường
Như ở lại quê hương
Đầy hoa thơm trái ngọt
Có con chim nào hót
Ngoài cửa sổ chiều nay
Hỏi rằng chim có hay
Phấn buồn trên bảng trống
Ta sắp vào cuộc sống
Chào bảy năm mây trôi
Không một ngày biển động
Mai giữa trời cao rộng
Phải tìm thấy bình minh
Phải lo cuộc mưu sinh
Không còn thầy chỉ lối
Bây giờ là Xuân cuối
Thôi thưa thầy con đi.
Bài Bây giờ là xuân cuối của nữ sinh Vũ Thị Gio Linh, lớp 12A4, nghe tên là biết tác giả người gốc Quảng Trị, được đánh giá cao trong đợt thi này. Chung cuộc, có trên 50 tờ dự thi, từ những tập in ronéo của các trường quận lỵ thiếu thốn mọi mặt đến các tập in off-sette rực rỡ bìa láng bốn năm màu. Trường Nữ trung học Gia Long với bài thơ trên đoạt giải nhất. Giải nhì cho trường Nữ trung học Bùi Thị Xuân ở Đà Lạt, giải ba cho trường Võ Trường Toản, giải khuyến khích cho trường Nữ Trung học Sương Nguyệt Anh, trường Trương Vĩnh Ký và Nữ trung học Lê Văn Duyệt. Các trường Nữ trung học chiếm 4 trên 6 giải thưởng.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác sau khi đọc các ấn phẩm trên đã cho rằng “chúng ta tìm thấy được nhiều điều đáng suy nghĩ” . Các Giai phẩm Xuân trường Gia Long và Bùi Thị Xuân có giá trị văn chương và trình bày. Xét riêng từng bài thì tác phẩm tương đối có giá trị của nữ cũng nhiều hơn, tình cảm trong thi ca phong phú hơn, đối thoại trong truyện ngắn linh hoạt hơn.
Bài thơ của Vũ Thị Gio Linh ở trên được chọn để đọc trong Lễ phát thưởng cho các Hiệu đoàn có báo Xuân xuất sắc.
Ngoài ra, còn có những bài hay khác như Gửi người em lớp 6 của Trần Bích Tiên, nữ sinh lớp 10C2 trường Bùi Thị Xuân, Đà Lạt. Báo Bách Khoa, tờ tạp chí rất có uy tín của miền Nam trước kia, thường đăng bài của các ông Trần Văn Khê, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Hiến Lê, Vũ Hạnh… đã không cưỡng lại ý định đăng lại bài này trên số 424.
Này em lớp sáu này em nhỏ
Gặp em rồi không quên em đâu
Chiều nay hai đứa về qua phố
Rất tự nhiên mà mình quen nhau
Em chạy tung tăng không mắc cỡ
Chị thì bước bước chậm theo sau
Tuổi mười hai chị xa xôi quá
Chị gọi em chờ, em chạy mau.
Này em lớp sáu này em nhỏ
Em hãy dừng chân một chút lâu
Chị vuốt tóc em rồi chị nhớ
Tóc em thơm ngát mùi hương cau.
Hương cau vườn chị xa như tuổi
Ba má chị nằm dưới mộ sâu
Vườn cũ nhà xưa tàn với lửa
Chị đi về hai buổi âm u.
Gặp em ngoài phố mình như bạn
Thơ mộng trong bàn tay nắm nhau
Chị ngắt cho em bông cúc nhỏ
Em cười cái miệng mới xinh sao.
Ngày xưa chị cũng như em chứ
Cũng rất ngây thơ rất ngọt ngào
Chị nhớ mỗi chiều tan học sớm
Bạn bè đuổi bướm thật xôn xao
Những con bướm lượn trên bờ cỏ
Chị cũng như em đuổi bắt mau
Bây giờ bướm biệt trên đường phố
Chị đuổi sương mù chơi chiêm bao.
Này em lớp sáu này em nhỏ
“Gặp em rồi muôn thuở không quên”
Trời ơi, câu đó ngày hôm trước
Ai rót vào hồn chị hỡi em?
Sách trên tay chị nghe chừng nặng
Sao cặp em đầy vẫn nhẹ tênh
Thôi nhé em về con phố dưới
Giữ hoài cho chị tuổi hoa niên.
(Trần Bích Tiên lớp 10C2)
Hay thơ của nam sinh Nguyễn Đăng Châu:
Anh nói bé nghe chuyện làng chuyện xóm
Chú Bảy anh Ba ngã xuống hôm nào
Đường quê mình đi dày công nuôi nấng
Bằng xác bà con sữa mặn má đào
Lơ lửng lá trời anh nói bé nghe
Mình lại xóm quê một bữa đầu hè
Yêu lắm bé thơ, chiều thương dấu cũ
Có mẹ ngồi chờ trên chiếc chõng tre
(Giai phẩm Đất Hồng , trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng)
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhận xét trên Bách Khoa số 425 rằng báo Xuân học đường ở thành thị rực rỡ sang trọng in offsette trên giấy trắng láng, bìa nhiều mầu, khổ lớn như các tập báo của các trường Sương Nguyệt Anh, Võ Trường Toản, Lê Quý Đôn, Hồng Bàng… Còn báo Xuân tỉnh lẻ hoặc tỉnh lỵ in ronéo trên giấy hẩm. Chiến tranh các vùng nông thôn khác nhau nên có sự cách biệt về đề tài hay hình thức giữa nội thành và ngoại ô, sắc thái “an toàn” của văn chương học đường ở Sài Gòn và sắc thái “hiện thực” của tập báo Xuân Đất Hồng của trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng và trong thơ của các cây bút học trò như Quảng Điền, Nguyễn Đại Bường, Lê Văn Quang, Nguyễn Đăng Châu, Nguyễn Hoàng Thư. Thân phận của các học sinh trong chiến tranh trôi dạt từ nơi này sang nơi khác nên có thể tìm được những tiếng “mô, tê, răng, chừ” trên báo Xuân của quận lỵ hẻo lánh cực nam, “Hổng thèm” ngúng nguẩy hay “à nheng” thân ái trên trang báo học sinh ở Huế hay Quảng Trị.
Nội san Xuân học đường trước 1975 là một hiện tượng văn hóa đơn lẻ, âm thầm ít ai quan tâm, nhưng đó chính là nơi ươm mầm văn chương, bày tỏ nỗi lòng vừa chớm, háo hức trước cuộc đời rộng mở nhưng cũng đầy lo lắng của giới trẻ học đường trong thời chiến tranh tao loạn và bất trắc. Đó là một sân chơi đàng hoàng. Ở đó, ngoài công sức của học trò, có các thầy cô mẫn cán bên các em có năng khiếu, khuyến khích và miệt mài cùng học trò trên một vùng đất hồn nhiên, trong trẻo mà ai cũng chỉ trải qua một lần.
Chút Kỷ Niệm Với Tuần Báo Thiếu Nhi
Năm 1972, Sài Gòn đang vui vẻ trẻ trung với hippy choai choai đầy đường phố. Nhạc Phạm Duy đang được hát khắp nơi và nhạc ngoại quốc lời Việt thịnh hành với những bài Đồng Xanh, Trong nắng trong gió, Những mùa nắng đẹp. Xã hội đầy lo lắng từ các bậc phụ huynh khi con cái bị ảnh hưởng văn hóa phương Tây, yêu cuồng sống vội.
Lúc ấy, tôi còn là đứa con nít đang học lớp Nhứt (bây giờ là lớp Năm) ở trường Võ Tánh, Phú Nhuận. Tuy còn nhỏ nhưng nhờ có sẵn tủ sách của Ba và ông anh học Văn khoa nên tôi đọc được nhiều. Đã vậy, các hiệu sách cho thuê mướn truyện đang phổ biến. Tôi ngốn từ sách của nhà xuất bản Phượng Giang với truyện của Thạch Lam, Khái Hưng, Nhà xuất bản Huyền Trân với tác giả Nhật Tiến… đến sách của Tủ sách Tuổi Hoa. Sách dịch có Con Nai Tơ của Rawlings, Phiêu lưu trên lưng ngỗng của Selma Lagerlof, cả lô truyện trinh thám Z.28 như Kashmir sông máu thuyền hoa, Bhutan đêm dài không sáng, Hồng Loan Hồng Ngọc… Tôi đọc mà nhớ nhớ quên quên, nhưng ham quá nên đích thị là con mọt sách.
Biết tôi ham đọc nên dù học không giỏi giang gì, tôi được cô giáo lớp Năm giao cho trọng trách là “quản thủ tủ sách” của lớp. Thời đó, mỗi lớp được một khoản tiền hằng tháng để mua sách báo thiếu nhi xếp loại là lành mạnh (không dùng ngôn ngữ lóng, thô tục hay có cảnh đấm đá) để học trò đọc bên cạnh ổ bánh mì to và ly sữa hằng ngày cho mỗi đứa (chương trình viện trợ từ nước ngoài). Sách thì có cô lo, còn báo, tôi được giao mua hằng tuần. Từ đó, tôi phát hiện tờ Tuần báo Thiếu Nhi. Trước đó, tôi toàn đọc ké sách người lớn nên một ấn phẩm được coi là báo dành cho thiếu nhi đẹp nhất nhì miền Nam khiến tôi mê tít. Tranh màu nước của họa sĩ Vi Vi trên trang bìa, do được in trên khổ lớn nên đẹp hơn mấy bức của ông vẽ in trên tạp chí Tuổi Hoa của Linh mục Chân Tín. Bài vở thì do nhà văn Nhật Tiến chăm sóc cùng vợ là nhà văn Đỗ Phương Khanh, vốn là cây bút của các tạp chí Tân Phong, Văn Hóa Ngày Nay từ cuối thập niên 1950 nên rất có nghề. Mỗi kỳ báo có bài viết của “ông Khai Trí” Nguyễn Hùng Trương, cũng là Chủ nhiệm báo, nhẹ nhàng và sâu sắc trong mong muốn định hướng lối sống lành mạnh cho giới trẻ. Truyện tranh thì có truyện Tintin của Hergé, Tí hon thần lực của Peyo. Bài của các nhà văn Thùy An, Minh Quân, Kim Hài, Vũ Hạnh, Phan Khương Thái viết hay, sâu và luôn có tính giáo dục. Nhà văn Nhật Tiến thì đăng phơi-ơ-tông dạng như Thuở mơ làm văn sĩ. Mỗi tuần, tôi mua báo trên đường đi học về và sáng hôm sau mang vào lớp cất vào tủ sách để các bạn xem vào mỗi cuối buổi.
Qua suốt năm đó và đến đầu hè sau năm lớp Đệ thất (lớp 6), dù nghỉ học nhưng tôi vẫn được đọc báo Thiếu Nhi vì ông anh bắt đầu lo tôi sẽ ham mấy truyện tranh gọi là nhảm nhí như Quỷ một giò, Chú Thoòng bán đầy vỉa hè. Với tiền anh cho, tôi tiếp tục mua báo Thiếu Nhi và đọc được thông báo là Tòa soạn sẽ mở một khóa học đặc biệt ở Trụ sở tòa báo số 159 Thiệu Trị (nay là đường Trần Hữu Trang), Phú Nhuận. Lớp mang tên “Căn bản gấp giấy Origami”. Cái tên Nhật Bản này không lạ vì trên báo Thiếu Nhi đã đăng lai rai dăm kiểu xếp giấy và gọi đích danh như vậy.
Ba má tôi, quá ngán thằng con lêu lổng suốt ngày ngoài đường trong ba tháng hè nên đồng ý ngay khi tôi mở miệng xin học. Tôi cùng ba thằng bạn trong xóm lần mò đến Tòa soạn mà lòng hồi hộp, hoặc có mình tôi cảm thấy vậy vì ba thằng kia chả quan tâm gì, đi theo tôi cho vui. Chúng tôi ghi danh và học luôn buổi đầu.
Lớp bắt đầu khi một ông nhỏ người đeo kính bước ra chào mừng đám học viên, đa số là người lớn ra dáng giáo viên. Ông giới thiệu là Nhật Tiến, thần tượng của tôi, người từng làm khổ tôi vì phải soạn bài “trần thuyết” (tập cho học sinh thuyết trình tác phẩm văn học) cuốn Thềm Hoang của ông trong năm lớp 6.
“Ông Khai Trí” Nguyễn Hùng Trương
Nhà văn Nhật Tiến
Sau đó, có một ông đầu hói, dáng bệ vệ trong bộ vest, da ngăm đen và có nụ cười như ông Địa bước ra. Đó chính là ông chủ nhà sách Khai Trí, tức Chủ nhiệm báo Nguyễn Hùng Trương. Một ông thứ ba là người Nhật từ Đại sứ quán Nhật Bản tại Sài Gòn.
Cả ba ông phát biểu ngắn gọn, ca ngợi môn nghệ thuật và cũng là thú vui gấp giấy này. Sau đó ông Nhật Tiến giới thiệu chương trình học trong suốt ba tuần, tuần vài buổi, giấy thì ban tổ chức lo. Ai gấp đầy đủ các mẫu hình và nộp cho thầy sẽ được cấp bằng tốt nghiệp.
Học được vài buổi thì ba thằng bạn của tôi, dù không có “mưa một ngày” nào nhưng lại bỏ tôi đi chơi đá dế tạt lon, dễ hiểu hơn là ngồi chọc ngoáy mấy tờ giấy.
Phần tôi tiếp tục ngồi học, tuần mấy lần đi ngang qua nghĩa địa Phong Thần (nay là chợ Trần Hữu Trang) là nơi yên nghỉ của bà ngoại tôi để đến Tòa soạn. Ở đó, tôi học từ các mẫu căn bản đến xếp được những con phức tạp như con cọp, con gà trống bằng hai mẩu giấy và xếp dần đến con cua, con rồng rất khó.
Thầy Nhật Tiến hiền hậu, kiên nhẫn và luôn hết lòng khi hướng dẫn học viên. Thỉnh thoảng cô Đỗ Phương Khanh cũng ra giúp thầy. Cô Phương Khanh có làn da trắng, dáng đầy đặn và sang trọng. Đám con thầy khá đông, con trai thì gầy, con gái trắng bóc và mũm mĩm. Con trai đầu của thầy, hình như tên Khiết, thỉnh thoảng ra ngồi cùng chúng tôi và xếp biểu diễn những con vật rất khó.
Ra vô tòa soạn, thỉnh thoảng tôi xem được những bức tranh bìa chuẩn bị cho số tới của họa sĩ Vi Vi, rất nổi tiếng ở miền Nam lúc đó. Có lần, tôi thấy anh bước ra, dáng cao ráo và hơi nghiêm nghị. Một anh học viên quay về lớp khoe là đã xin chữ ký của anh. Lúc khác thì thấy báo chở về tòa soạn bằng xe ba gác, xếp đều tăm tắp và mới tinh tươm. Không khí làm báo lúc đó đối với đứa con nít mười một tuổi như tôi thật lạ lẫm, hấp dẫn và gây ấn tượng đến nỗi lớn lên tôi lỡ bước theo nghề này luôn.
Kết thúc khóa học, chỉ còn mỗi mình tôi là đứa con nít duy nhất được cấp Chứng chỉ tốt nghiệp vì học đủ, nộp bài đủ. Vài học viên lớn tuổi được tặng quà vì xếp đẹp quá. Còn tôi thì thấy buồn vì hết được lui tới tòa soạn thân yêu này, và chưa có lần nào dám nói được một câu với chú Nhật Tiến hay anh Vi Vi.
Tám tháng sau thì đến 30 tháng 4 năm 1975 và tờ báo Thiếu Nhi ngưng hoạt động. Nhiều năm sau, tôi nghe nói gia đình nhà văn Nhật Tiến đã ra nước ngoài sống. Năm 1979, tôi được dự trại tổng kết hè dành cho những cá nhân ưu tú trong đợt hoạt động hè. Mỗi trại viên được một họa sĩ vẽ ký họa chân dung để triển lãm trong trại. Tôi được một họa sĩ tên Giang, tự là “Giang chảy” vẽ chân dung. Bên cạnh tôi, một đứa chưa chắc đẹp trai hơn tôi lại do chính họa sĩ Võ Hùng Kiệt tức Vi Vi vẽ. Tôi ghen tức biết chừng nào, nhất là khi nhìn lại bức chân dung một thanh niên mười tám tuổi quá đạo mạo do ông Giang Chảy thể hiện.
Cách nay vài năm, khi dọn nhà, tôi soạn lại sách vở giấy tờ và tìm được tấm chứng chỉ Tốt nghiệp rất đẹp này, dù giấy đã úa vàng qua hơn ba chục năm. Tờ chứng chỉ do họa sĩ Vi Vi trình bày, có chữ ký của ông Khai Trí và nhà văn Nhật Tiến, toàn những người tôi ngưỡng mộ.
Kể chuyện này cho chị Thư bán sách cũ trên đường Lê Văn Sỹ, chị bảo bà Đỗ Phương Khanh có về Việt Nam, tìm mua lại dăm tờ báo Thiếu Nhi ngày xưa. Tôi mang ra nhờ chị gửi tặng bà vài số. Tờ báo hay cái chứng chỉ cũ này đều gợi lên những ngày tươi đẹp và trong trẻo, mối duyên nhỏ giữa những người tâm huyết làm báo cho thế hệ tương lai và số đông độc giả, là tôi và bạn bè đồng lứa.
Phú Nhuận, Chốn Quê Nhà
Không có nhiều đất đai cho Phú Nhuận, một quận nhỏ xíu chỉ rộng hơn quận 4 - vốn là cái cù lao trên sông - một chút. Phú Nhuận là “thị trấn giữa đàng”, để mọi người băng ngang về Tân Bình, Gò Vấp, đi sân bay hoặc ra miệt quận 1, quận 3 để làm việc. Phú Nhuận xưa chỉ là một làng nhỏ có cha con ông Louis Vidal, là người Pháp nhưng lần lượt làm hương cả, nói tiếng Việt, ăn mắm, bận áo the đen, dùng cơm bằng đũa và được gọi tên Việt là hương cả Đành. Có bến Tắm Ngựa dưới chân cầu Kiệu mà nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ nhớ hoài khi lang thang khắp Nhật, Pháp.
Phú Nhuận xưa, ở đường Louis Berland (nay là Phan Đình Phùng) có tiệm hát ả đào, du nhập từ miền Bắc vào để ông Nguyễn Tuân khi vào Nam đến hát cho đỡ ghiền. Phú Nhuận là nơi đội bóng xưa nhất Việt Nam - Ngôi sao Gia Định đóng đô, đến những năm 1950 sân banh chỉ còn là bãi đất trống. Phú Nhuận chứng kiến những chuyến xe ngựa đầu thế kỷ XX, chở những ông Tây bà Đầm chạy dọc theo đường Hai Bà Trưng từ bến Bạch Đằng xuống Gò Vấp, mong tìm được chút hơi hướm khí hậu ôn đới vào buổi sáng sớm mù sương.
Những ngày tuổi thơ ở Phú Nhuận mới đây mà vèo qua bốn mươi năm. Nhớ trường Đình có cây đa to sát bên Đình làng Phú Nhuận nhìn ra đường sắt. Những đêm diễn hát bội ở Đình có nhóm Đồng ấu Minh Tơ toàn là các diễn viên nhỏ tuổi ca rất nghề. Tiếng chuông chùa Kỳ Quang, chùa Đại Giác và mùi nhang thơm luôn làm hồn trẻ nao nức những ngày giáp Tết. Xóm Mả Đỏ, xóm I Wai, xóm Mô, những cái tên bí ẩn nhưng hấp dẫn gắn liền những tệ nạn thời nào cũng có. Xóm nhà nghèo với ánh điện câu “Đêm khuya sâu, ngõ như không màu” , những cuộn ống nước nằm bên hè những nhà mới nhập cư đợi lúc câu nước nhờ. Nhà nào trong xóm cũng mơ một nền nhà bằng gạch bông hoặc cái mái bằng có mặt dựng thay cho mái tôn dốc xuống. Buổi trưa bầy trẻ nhỏ lang thang đi bắt chuồn chuồn, hái trái mồng tơi hay lượm trái điệp vàng, đi qua những xóm đìu hiu, hàng rào bông bụp, mái tôn nóng hực buông cái mành che nắng hướng tây. Những người vợ trẻ có chồng đi lính hát ru con sao mà não nuột trong cái trưa hè xóm nghèo với câu “Ví dầu…” . Tiếng máy may đạp xành xạch. Buổi tối, cha con lên giường nằm nghe cải lương, ở giữa nhà cái đèn tròn tỏa ánh sáng vàng ệch sao mà buồn giữa tiếng hát Út Bạch Lan hay Thành Được. Tiếng còi tàu từ cổng xe lửa số 9 kéo dài tô đậm thêm không khí bàng bạc và lo lắng của hậu phương thời chiến. Người Phú Nhuận lắng tiếng cánh quạt hay tiếng ì ì của động cơ máy bay trực thăng, chiến đấu cơ mà đoán chuyện chiến cuộc.
Xóm vui khi giáp Tết, nhà nào xênh xang thì mua được cái Tivi mới hiệu Denon hay National, coi như năm qua làm ăn thành công. Nghèo thì sắm cái radio chạy pin nghe cải lương hay không sắm gì hết. Dù sao, bầy con nít vẫn có áo mới. Con gái thích đồ bộ có in bông. Con trai may quần Tây, áo sơ mi kiểu người lớn, mặc qua Tết còn tiếp tục bận đi học đỡ tốn. Đi chơi Tết thì ít tốn tiền nhất là đợi hăm tám, hăm chín Tết ra đường Võ Di Nguy gần chợ Phú Nhuận xem hàng Tết bày đầy các Kiosk mới mọc. Về nhà thì vui như mở cờ khi thấy có mấy xâu lạp xưởng ba má mới mua, bánh phồng tôm Sa Giang, thấy cây đèn cầy bự chưng bàn thờ cũng đẹp mướt mát, đỏ tươi. Hôm nào đi gặp một kép hát, đào hát hay tài tử dạo chợ Tết là về khoe inh ỏi. Ông hề Thanh Hoài ở ngoài hay cười như trong kịch. Ông Xuân Phát, ba của Dustin Nguyễn bây giờ, với đôi mắt nhỏ giống hệt ông Ba Tàu thứ thiệt khi hát bài Tình chú Thoòng với câu “Ngộ có chết đi thì cũng theo trời theo Phoọt…”.
Phú Nhuận nhỏ nhưng nghệ sĩ không thiếu. Nhớ cái nhà rộng có sân vườn của nhạc sĩ Phạm Duy ở cư xá Chu Mạnh Trinh, đám con trai hay ra chơi bên cái hồ nước. Thỉnh thoảng lại có mở tiệc, bầy trẻ ngóng mỏ nhìn những ca sĩ đẹp rực rỡ dưới ánh đèn điện đến dự tiệc. Gần đó là nhà của ông văn sĩ người Bắc, thần tượng của học trò Sài Gòn vì là người viết truyện Chương còm, Dũng Đakao, Mơ thành người Quang Trung . Ca sĩ Phương Hồng Ngọc xinh như mộng vẫn theo mẹ ra khu chợ Ga đường Trương Tấn Bửu nối dài mua vải, mua xà bông thơm. Nhà nghệ sĩ Kim Cương ở Hoàng Diệu kín cổng cao tường, thỉnh thoảng lại có người tò mò ngóng ngó, ao ước nhìn thấy kỳ nữ nổi tiếng làm rơi nước mắt đêm qua với mấy vở Lá sầu riêng, Dưới hai màu áo . Thỉnh thoảng lại thấy ca sĩ Thanh Phong ban Tam ca Sao Băng mặc quần tây trắng đứng hút thuốc với dáng vẻ hào hoa dưới dãy phố lầu đối diện Nhà thờ Nam. Cách đó vài trăm mét trên đường Trương Tấn Bửu (nay là Trần Huy Liệu) là nhà của ca sĩ Kim Loan, cô ca sĩ xinh đẹp với giọng khàn hát tuyệt hay bài Đan áo mùa xuân của Phạm Thế Mỹ.
Quanh quẩn đâu đó ở Phú Nhuận những năm sau này, người Phú Nhuận quen với sự có mặt của những nghệ sĩ như họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Năm Châu, Dương Thiệu Tước. Những người chọn Phú Nhuận để sinh sống như một vùng đất nội thành tiện lợi đi lại nhưng êm đềm.
Dù phố phường chật chội mấy vẫn có những khoảnh khắc lắng dịu khi đi qua dăm ngôi nhà đường Nguyễn Trọng Tuyển, Đặng Văn Ngữ. Giữa lúc tấc đất tấc vàng, một miếng đất mặt đường rộng ba mươi mét bề ngang nằm “trơ gan tuế nguyệt” với hàng rào cũ kỹ, bên trong thấp thoáng sau mấy cây vú sữa tím là ngôi nhà nhỏ đặt vài chậu kiểng trước nhà như một thứ bình phong. Cái bàn thiên trước sân đặt mấy trái vú sữa chắc là cây nhà lá vườn, sân vẫn là sân đất, thấm nước khi mưa về và bốc lên mùi đất ẩm, mùi cỏ lá. Khách đi ngang qua chợt thèm có dịp thăm ngôi nhà vào một dịp giỗ Tết gì đó để biết đâu có thể tìm lại không khí của Sài Gòn cũ những năm sáu mươi ở Phú Nhuận, hay xa hơn là cảnh sống miệt vườn Mỹ Tho, Cao Lãnh. Bà cụ già ra thắp nhang bàn thiên vẫn giữ nét mộc mạc của người Nam bộ xưa, cái khăn rằn vắt vai. Mấy người con trai đi làm cơ quan nhà nước về nhà lo tưới cây, quét lá. Họ sống không ồn ào, ít tham vọng, rất lặng lẽ như rất nhiều người gốc gác từ lâu ở Sài Gòn, để mặc đất cũ đãi người mới đến.
Một thế hệ người cũ của một thời Phú Nhuận đang trôi dần về quá khứ. Ngôi nhà cô giáo lớp ba trường Võ Tánh của tôi nép mình dưới bóng cây vẫn là cái mái ngói dột nát. Hồi cuối những năm sáu mươi đến nhà cô cả đám học trò mê mẩn khi nhìn thấy những cái trứng chim cút kỳ lạ nhỏ xíu có đốm màu nâu, khác hẳn với trứng gà trứng vịt ở nhà. Một đứa chìa ra mấy đồng xu keng xin mua một trứng cút để mang về chơi nhưng cô chỉ mỉm cười. Phong trào chim cút làm giàu rồi cũng sập tiệm và cô vẫn sống một mình đến cuối đời. Ngồi trên bộ ván cũ mà giờ đây quá mỏng mảnh, khác với cái nhìn con nít hồi xưa, tôi nhìn dáng cô cóm róm pha trà nước mà thấy thời gian như bóng câu qua cửa. Xe lửa lại sầm sập đi qua. Tiếng còi tàu không thay đổi khi đi ngang qua Phú Nhuận, từ cổng số 6 Lê Văn Sĩ, số 7 Nguyễn Văn Trỗi, số 8 Nguyễn Trọng Tuyển và số 9 Hoàng Văn Thụ. Đó là chút thanh âm ngày cũ còn sót lại của quận Phú Nhuận, chốn quê nhà nhỏ của người sinh ra trên đất Sài Gòn rộng lớn này.
Xóm Ngụ Cư
Xóm nhỏ nhưng đông đúc như mọi cái xóm ở Gia Định, miệt Phú Nhuận. Họ có đủ gốc gác khác nhau. Người nói giọng Nam đông nhất, sống truyền đời ở đất này cả dăm bảy thế hệ, thích lặng lẽ, ngại bon chen nhưng rất xởi lởi khi chuyện trò. Trong đó, có dăm gia đình từ đồng bằng sông Cửu Long chạy lên đây hồi chiến tranh. Họ làm lụng phu phen, chuộng nhậu ba xị đế hơn uống bia, tính thiệt thà và đàn ông thì nóng nảy, ăn nói thẳng tuột. Dăm nhà gốc ngoài Bắc, nền nếp và kín đáo. Hai nhà gốc Hoa và một nhà người Khơ-me.
Nhà tôi là một gia đình lâu đời ở đây. Má tôi kể, khi nhà ông A Xồi, gốc Quảng Đông dọn đến xóm này cách nay nửa thế kỷ, má và dì Út đang tuổi con nít chạy đến tò mò ngó vào và hoảng sợ chạy về nhà la lên “Ôi, cẳng củn, cẳng củn!” . Bà ngoại tôi hỏi ra mới biết là A Xồi có đưa bà mẹ của ông về ở chung. Đó là một phụ nữ Hoa đã già yếu, mí mắt dưới sụp xuống trơ lòng mắt trắng và ít lòng đen nên bà có cái nhìn cực kỳ mệt mỏi. Lúc nào cũng thấy bà ngồi trên ghế không đi đâu, có cơm bưng nước rót tận tay và trà Phổ Nhĩ uống trong cái bát sứ có nắp đậy. Đặc biệt, chân bà bỏ trong đôi hài vải bé xíu như của con nít. Mỗi ngày đôi hài được cởi ra để A Xồi rửa chân cho bà. Một lúc nào đó, dì và má tôi đã thấy được đôi chân bị bó lại, co rút và đầy những nếp gấp trông rất ghê sợ. Đó là tục bó chân của người Trung Hoa xa xưa mà bà là chứng tích sống. Từ đó, má và dì ít dám ngó vào căn nhà đó cho đến khi bà mất vài năm sau.
Ngày Tết là những ngày vui nhất, cho dù xóm vắng vẻ hơn. Một số gia đình thu xếp về quê. Trước đó, họ đến chúc Tết từng nhà trong xóm và nhờ ngó dùm cái nhà, hẹn sẽ cùng nhậu nhẹt sau Tết. A Xồi vốn bận bịu cả năm cho cái tiệm nước bán bánh bao, sủi cảo ở chợ La Kai thì gần Tết cũng bỏ chút thì giờ lo trang trí nhà cửa, thay liễn đối. Nhìn vào nhà ông đã thấy bàn thờ sáng choang thờ đủ các vị Thần mà ông gọi là Môn Thần, Thổ Thần, Táo Quân… với màu đỏ là chính. Bà vợ A Xồi nấu món bát trân bằng những với những cái tên kỳ lạ như tung cua , thiệt ra là nấm đông cô, phù chúc tức là tàu hũ ky, phát choi tức rong đen, xáng choi tức là rau xà lách. Ba tôi nói món nào cũng có nghĩa hết, tên của các thứ đó chính là phát tài, làm ăn tấn tới, có tiền…
Trong xóm ai cũng biết A Xồi nhất định không ăn thịt vịt dịp Tết. Ông bảo không ăn được vì xui lắm, làm ăn chậm chạp cả năm như vịt vậy.
Ngôi nhà còn lại của ông già người Tiều mà hàng xóm gọi là A Căng thì khác. Vốn làm rẫy cải hồi xưa, giờ đã già yếu, vợ mất từ lâu, A Căng sống một mình với cậu con trai độc thân. Khác với ngày thường thích ăn mặn, ăn cơm với món mặn như củ cải muối, măng khô, cá khô, mắm khô, ngày Tết cả nhà ông lại làm món thịt vịt, có đem qua mời hàng xóm vài miếng trừ nhà A Xồi. Đó là những miếng vịt ram mỡ để nguội, ăn béo và mặn. Riêng với A Xồi, ông sai con trai mang qua biếu Chỉn túi, một thứ bánh chiên tròn như bánh cam của người Việt, có nhân bắp rang, thơm và béo mà tôi đã có dịp ăn. Riêng chị Neáng người Khơ me cuối xóm thì không ăn Tết Việt. Chị bảo Tết của tụi tui tới tháng Tư lận, nhưng thế nào tui với đứa con gái cũng đi chùa mùng Một Tết cho dzui.
Một bữa sáng, người ta nghe ông A Căng khóc rống lên. Anh con trai thức dậy hốt hoảng chạy tới chạy lui xem chuyện gì xảy ra. Thì ra đêm qua nhà ông bị ăn trộm đột nhập. Thật ra, không phải trộm. Một người đi nhặt ve chai nào đó thấy trong sân nhà ông, trên cái đi văng ông hay nằm chơi có một cái gối mây mà đêm qua ông quên cầm vào nên lấy đi. Ông nói: “Có khi nào ngộ rời cái gối đâu. Nó là của vợ ngộ đan cho, bằng trúc hạng nhứt. Đêm qua ngộ cảm nên vào nhà nấu thuốc uống, xong mệt quá lăn ra ngủ. Bà vợ mất rồi, ngộ còn bao nhiêu đó mà tụi nó lấy mất!”. Ông vò đầu bứt tóc khổ sở. Cả xóm lắc đầu thương ông cụ xa quê hương, luyến tiếc hoài những phong vị xưa. Ông gọi cái gối là Trúc phu nhân, gối đầu riết, nó thành bóng lưỡng.
Người ta bắt đầu râm ran chuẩn bị đi dự đám cưới của con trai A Căng và con gái bà Neáng. Ai cũng thắc mắc, vậy làm đám cưới theo phong tục của người Hoa hay Khơ me há? Đám con nít vui lắm vì sắp được xem đám cưới và vỗ tay hát bài “Cô dâu chú rể đội rế trên đầu… ”. Bà Neáng bảo: “Con trai Tiều giỏi lắm, hồi tôi ở miệt Bạc Liêu người ta chỉ thích gả con gái cho trai Tiều, họ giỏi làm ăn lại cưng vợ…” . Còn ông già A Căng thì rất vui vì bề gì cũng sẽ có cháu nội để hủ hỉ. Từ hồi xưa tới giờ, con của cha Hoa, mẹ Khơ Me đẹp có tiếng đó. Chúng sẽ có da trắng của cha và mắt to hai mí, miệng nhỏ, hàm răng trắng tinh, vóc người tròn trịa của mẹ. Ông gần như quên chuyện buồn về cái gối âm ỉ trong lòng ông mấy tháng nay.
Đó là câu chuyện cũ. Những câu chuyện lặt vặt của cái xóm nhỏ thật kỳ lạ. Tôi sống ở đó, vui với từng ngày Lễ Tết. Ngày Đoan Ngọ tháng Năm bắt thằn lằn bỏ vào thau nước có đựng lá cây, rồi nháy mặt trời. Rồi Tết Trung thu đốt đèn cầy trong lon, ăn bánh dẻo. Tết Nguyên Đán vui đậm đà. Tôi cũng buồn theo từng đám đưa ông cụ bà cụ về với đất đai hay thành tro bụi trên chùa. Cái xóm ngụ cư thân thương với những người tứ xứ đổ về, dầu cách sống khác nhau mà sao thân tình và độ lượng đến vậy!
Đẹp Xưa
Chiều Hăm chín ở phố Lê Công Kiều, chúng tôi nhìn ra con đường nhựa giờ đã bắt đầu loang màu tím của hoàng hôn. Sài Gòn đã vắng đi rất nhiều sau mấy đợt người về quê ăn Tết. Một bác gầy gò, năm nào cũng viết thư pháp chữ Hán ở Miếu Thành Hoàng Bổn Cảnh khu Đồng Mả Lạn ngày 23 Tết, cất giọng đọc khẽ:
Đêm khuya nơi xóm Bạch Vân
Bốn người luộc bánh chưng xuân chuyện trò
Lửa bừng lách tách reo hò
Chú miêu nằm cạnh co ro sưởi mình
Một chàng mảnh khảnh thi nhân
Một người áo vải nông dân hiền từ
Một Tráng sĩ, một Thiền sư
Vây quanh bếp lửa hồng như ráng chiều
Thuốc lào nhả khói đăm chiêu
Rung đùi sư bác lẩy Kiều ngâm nga
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài"…
Đoạn thơ Phạm Thiên Thư sáng tác chỉ vài chục năm trước mà nghe như rất xa xưa. Câu chuyện quanh bộ bàn ghế Louis của gia chủ bày bán trong khu chợ “đồ cũ thì nhiều, đồ cổ thì ít” trở nên râm ran vì không khí hào sảng cổ xưa gợi lên từ thơ. Cũng có thể do hiệu ứng từ chiếc đèn măng-xông của Đức cũ kỹ, vài chậu Cây Mai sứt sẹo hay chồng chén Nhật hiệu Đại Nam giờ đã thành quê mùa nhưng vẫn kiêu hãnh trong tủ, với nước men trắng tinh phủ lên lớp sứ mỏng. Sài Gòn, vùng đất luôn bị xem là mới, ký ức ba trăm năm vẫn là thiếu thâm sâu, lịch sử luôn là ngắn ngủi. Thôi thì nhấm nháp chút trà lài, nhắc nhớ nhau những cái Tết mới nửa thế kỷ thôi mà đã “khác hoắc” bây giờ.
Ông Tám nhắc về ba cái đồ sứ thời ông Diệm. Chỗ góc Đồng Khởi - Đông Du bây giờ có một chỗ bán đồ ba-da nhưng to rộng như siêu thị mang tên Departo, có bán đồ sứ Nhật mang thương hiệu Noritake. Thời đó, đồ sứ mang thương hiệu này chưa đẹp sắc sảo như hàng Noritake bán cho lính Mỹ của PX sau này. Vậy mà ông thợ may đắt khách đất Sài Gòn chỉ biết đứng nhìn ngẩn ngơ dù thèm thuồng muốn chết. Đồ trà Nhật luôn gợi nhớ dĩ vãng tươi đẹp khi gia đình chưa tan tác, còn ăn Tết vui, sum họp đầu năm uống trà Tàu.
Nhớ năm 1942, nước Phù Tang tấn công nước Trung Hoa. Người Hoa yêu nước trong Chợ Lớn thể hiện hành động bằng cách tẩy chay hàng Nhật Bổn, chủ yếu là đồ sứ. Đó là thứ đồ sứ vốn được ưa chuộng vì mỏng nhẹ, men trắng tinh lại được vẽ bằng tay rất đẹp, khác với loại đồ sứ do Công ty Đại Nam nhập về sau Thế chiến, in họa tiết, rập hiệu bằng chữ Hán. Một người Hoa ở Lái Thiêu chộp ngay cơ hội, về Chợ Lớn thầu mua hết hàng Nhật đang ế trong các kho, mang về Lái Thiêu bán. Ở đó, người Hoa xa Sài Gòn thiếu thông tin, ít hiểu thời cuộc cùng với người Việt đổ xô đi mua. Năm đó, số hàng đẹp Nhật Bổn từ bộ đồ trà, bình đựng rượu Sa kê, chậu hoa nhỏ, dĩa bàn các hiệu danh tiếng như Imari, Satsuma vẽ tay màu sắc tuyệt đẹp tụ về đây rất nhiều, tha hồ mua về bày uống trà, chưng lan ăn Tết. Chiến cuộc lan xa, nhà ông dần dà không còn gì ngoài cái ấm sứt vòi vẽ tay công bút, hình cô Nghệ giả cầm dù, xa xa là Phú Sĩ sơn.
“Hồi xưa người ta không có mua mai về chưng Tết đâu à nghen!” - Chú Lý, nhân viên ngân hàng Việt Nam Thương Tín nhớ lại. Hồi còn trẻ trung phong độ, Tết chú nhắm la - de LaRue với củ kiệu, ăn dưa giá vợ làm. Chú mê Tết đến độ luôn đặt chương trình ăn Tết trước đó hai tháng. Phải có hồng khô chưng bàn thờ dù có người chê dở, nhạt thếch. Khi ngâm nước nóng cho mềm rồi nhấm nháp miếng hồng, chú lại nhớ ba chú hồi ở Mỹ Luông mới lên Sài Gòn, thích chưng hồng ngày Tết. Rồi phải có mấy chậu cây quan trọng là Vạn thọ và Mồng gà. Mồng gà sặc sỡ, Vạn thọ thơm. Ai có cây mai trồng trước sân thì vẫn chăm sóc cho nở bông, nhưng chẳng mấy ai cắt cành chưng trong nhà. Đến khi người Pháp quay trở lại miền Nam sau khi thua trận Điện Biên, Sài Gòn phát triển việc kinh doanh, chú mới thấy người ta bắt đầu chưng mai, với mong muốn may mắn cát tường. Mấy người lính sẵn có phương tiện xe cộ và quyền di chuyển, vào tận rừng sâu miệt Hớn Quản, Lộc Ninh, Chơn Thành chặt mai rừng về, cho người nhà đem ra chợ bán. Đến giờ, nhà nào cũng chưng mai cành, hoặc thuê hay đặt chăm sóc mai ở vườn rồi bưng cả chậu đặt trong nhà. Đó là điều “khác hoắc”.
Người thứ ba góp chuyện về mấy cây mai rừng. Hồi thập niên 60, về Dĩ An có nhiều vườn mai lắm. Lúc đó anh còn là chú bé mười tuổi, về nhà ông nội có khu vườn lớn trồng mai để bán cành. Trong không khí mùa xuân mát mẻ, nắng vàng và hương thơm hoa mai, hoa Vạn thọ nhè nhẹ trong gió, chú bé ra đứng ở vườn sau, ngắm nghía từng gốc mai xù xì. Ngẫu hứng, chú bé vạch quần tè xuống đất cho thật xa và thấy sướng đến ngất ngây vì làm chuyện “tầm thường” này giữa một cảnh thiên nhiên tuyệt vời như vậy. Có vậy thôi mà đến giờ vẫn còn nhớ cảm giác đó.
Câu chuyện của anh trung niên khiến mọi người cười rộ xong lại lặng im ngẫm nghĩ. Chú Lý mơ màng nhớ hồi còn trẻ, làm ngân hàng có tiền, diện đồ chẳng khác thầy Hai trong bài tập đọc của tụi nhỏ:
Đồng hồ đã điểm tám giờ
Thầy Hai sửa soạn mặc đồ đi chơi
Bộ y phục kẻng ôi thật kẻng
Quần bi-canh ống bén như dao
Vét-tông ôm sát thân cao
Chiếc cà vạt đỏ như chào gió xuân
Giày xám mới nện rung thềm gạch
Nón lát-sê như thách không gian
Điểm thêm cái kính gọng vàng
Thầy Hai đắc chí xênh xang phố phường
Thời đó chẳng khác nào bây giờ, có tiền, diện kẻng là thấy vui rồi, cơ hội kiếm một cô vợ ngon lành cũng nhiều. Lúc đó, vẫn nhớ câu “trai khôn kiếm vợ chợ đông”. Chú thích diện đồ lên rồi ra chợ Bến Thành xem mấy bà mấy cô đi mua sắm Tết. Nhiều cô diện áo dài, nhưng chú lại thích cô nào diện quần Mỹ A đen. Ôi cái quần vải Mỹ A miệt Tân Châu nước bóng nhè nhẹ, đen rức, càng bận lại càng mềm. Vải nặng nên đằm, cô nào có dáng đẹp, đùi đẹp thì ôi thôi, nó thể hiện ra hết dù nhẹ nhàng kín đáo. Ống quần mềm mại, làm nổi bật bàn chân trắng lấp ló trên đôi guốc sơn màu trắng quai nhựa trong.
Ông Tám cũng có thời vui đẹp của ông. Thời mà những người gốc Bắc bạn ông còn thưa thớt ở miền Nam. Vốn là chú nhỏ học nghề may, ông giao du với họ và học được nhiều điều thú vị. Ở quê nhà Lái Thiêu, ông lân la chơi với các chú thợ người Hà Đông về Bình Dương làm nghề sơn mài, quả tráp, làm gốm… Lên Sài Gòn, ông gặp lại họ sau 1946, khi Tây trở lại ruồng bố người gốc Bắc. Họ chạy về Sài Gòn nấu phở bán và làm giày ở miệt Khánh Hội, quận 4 hay Đa Kao và mở nhiều tiệm bán vải, vàng y, giày ở đường Lê Thánh Tôn. Ở đó, người ta gọi “anh em họ Cự” vì tiệm nào cũng có chữ Cự trên bảng hiệu như Cự Phách, Cự Thành, Cự Tiên… Họ cần mẫn làm từng cái quạt giấy màu tím và dùng kim châm từng lỗ để trang trí cho đẹp, dễ bán. Rảnh còn bày ra việc sơn guốc, làm việc không ngơi tay. Họ buôn bán nhiều nhất ở đường Sabourain và Espagne, mở cửa hàng thêu, đăng ten ở phố Catinat, d’Ormay, Bonard và xa tít trên đường Chasseloup – Laubat, trước nhà “sẹc” Tây. Khoảng gần chiến tranh thế giới thứ hai, ông còn là chú nhỏ học may, chủ sai mua vải tusso tơ tằm dệt ở Nam Định may cho khách, mua ở các hiệu đường Lagrandière gần chợ Mới Bến Thành. Sau có tusso Nhật có pha sợi nhân tạo bận không mát bằng. Có khi khách thích bận sơ mi bằng vải lụa Hà Đông mát, hơi vàng ngà mua ở dãy quán trên đường Espagne, Chợ Cũ và dãy hàng bên Chợ Mới.
Tiếng nhạc của xe bán dĩa DVD ca nhạc sầm sập đến con phố yên tĩnh. Có chút trăng xanh cuối tháng gần tàn ở phía tây, lấp ló trên khoảng trời hiếm hoi của thành phố. Lời ca từ những người nghệ sĩ sống tha hương vọng lên, nghe vui mà lại buồn “Ngày 22 dọn cửa quét nhà, trưa 23 nấu xôi chè đưa ông táo, sáng 24 chôm mấy cái nhánh mai, đợi 25 bày trái cây mâm quả, đến 26 lau chùi bộ lư đồng…”
Có những ký ức giờ như đã xa và nhóm khách chiều cuối năm thấy như mấy ngày xuân đã trôi qua rồi, kể từ khi họ ngồi ôn chuyện cũ trong một góc phố, và tưởng như mình đã trở thành cũ kỹ vì chỉ nhớ những ký ức về dăm thứ di sản vật chất, nay chỉ là những dư âm không mấy ai buồn nhớ...
Một Biểu Tượng Của Sài Gòn
Tấm sơn mài cũ ở nhà anh bạn, tôi đã thấy từ nhiều năm trước. Đó là một tấm tranh nhỏ hình chữ nhật đứng, trên nền sơn then đen bóng vẽ vài cây thốt nốt bên cạnh cái cổng tam quan của Lăng Đức thượng công, mà tên thường gọi là Lăng Ông. Ở dưới bức tranh, có chừa một khoảng nhỏ. Mỗi năm, anh bạn tôi lại mua một bloc lịch dán vào chỗ đó. Bloc lịch mới trên nền tranh cũ đã bay lớp bóng. Giữa ngôi nhà mới cất sáng đẹp của anh, bức tranh này lạc lõng lắm. Anh biết vậy nên treo nó trong phòng ăn, và mỗi khi có dịp uống trà cùng, chúng tôi lại nhắc nhớ nhau những hồi ức cũ. Cùng thế hệ lớn lên trên đất Gia Định, ngoại vi Sài Gòn, chúng tôi đầy ắp kỷ niệm với khu lăng mộ rộng lớn và có khuôn viên xanh mát này.
Khác với những lăng miếu lạnh lẽo, nghiêm trang thường thấy, Lăng Ông thật gần gũi, ấm áp, nhất là trong những dịp lễ hội. Ba tôi nói, lăng miếu chỗ khác tuy cũng thờ trung thần hay danh tướng nhưng không khí rất tĩnh lặng, uy nghiêm, còn người dân Sài Gòn xem lăng thờ Đức Thượng Công này như thờ một vị thần hay thờ ông Bụt trong chùa vậy, nên vừa xa lại vừa gần gũi.
Suốt những năm làm Tổng trấn Gia Định thành thế kỷ 19, Đức ông đã biến miền Nam thành một nơi làm ăn trù phú, cuộc sống bình yên. Sau khi mất, ông được người Việt và người Tàu vùng Chợ Lớn xem như là vị thần linh hiển phù hộ cuộc sống hằng ngày và việc làm ăn. Nên ngày Tết, ngày rằm tháng bảy, người ta lũ lượt kéo đến cúng bái.
Lũ trẻ chúng tôi nhờ vậy mà có nhiều kỷ niệm vui khi được xem lễ thượng nêu ngày Tết. Đêm giao thừa phải đi xích lô xuyên qua các dãy phố khu Bà Chiểu thơm mùi nhang và xuống xe từ xa mới mong chen chân vào đám đông hái lộc, cúng bái và xin xăm. Còn mùa nghỉ hè, khoảng sân quanh lăng là công viên, nơi dạo mát, ngắm những bức tranh đắp nổi bằng sứ. Chúng tôi nhận ra những mảnh sứ của đồ Nhật hiệu Đại Nam, sứ tàu hiệu Ngoạn Ngọc ở nhà cũng có, ghép thành bức tranh phượng, rồng, lân, bát bửu... Hai nấm mộ hình mai rùa của Đức ông Lê Văn Duyệt và phu nhân giản dị gần gũi chẳng khác chi nấm mộ cổ ở quê nhà. Khu lăng do người Việt xây dựng và trùng tu từ hơn 170 năm trước, không phải do thực dân Pháp dựng nên như các kiến trúc tiêu biểu khác của vùng đất này.
Bạn tôi tiếc nuối rằng, ngày xưa cái cổng tam quan Lăng Ông là biểu tượng của đất Sài Gòn - Gia Định. Hình ảnh đó đâu cũng thấy, trên gốm Biên Hòa, tranh sơn dầu của họa sĩ trường mỹ thuật Gia Định, trên thiệp xuân, vậy mà bây giờ hầu như chỉ là hình ảnh của một thời vang bóng. Anh nói, mỗi lần ngắm tấm tranh gắn bìa lịch mới, anh lại thấy như mình còn nhỏ, luôn được má ưu tiên cho bóc tờ lịch cuối cùng của năm trong đêm giao thừa, ngay sau buổi đi xin lộc Lăng Ông.
Phụ Lục
Từ quê hương Hải Dương, năm 1927, nhà báo Thiếu Sơn Lê Sĩ Quý vào Gia Định để làm công chức Sở Bưu điện. Sau đó, ông trở thành một nhà báo, nhà văn và hoạt động chính trị tại vùng đất này cho đến cuối đời. Nhà báo Thiếu Sơn viết bài Thành phố Sài Gòn dưới đây vào năm 1943, sau 16 năm sống trên mảnh đất đô thị mới mẻ này. Bảy mươi năm đã trôi qua, nhưng khi đọc lại bài viết này, chúng ta nhận ra rằng những điều căn bản về cuộc sống ở Sài Gòn vẫn chưa thay đổi. Tác giả xin mượn bài viết này làm Lời bạt cho cuốn sách Sài Gòn - Chuyện đời của phố.
Thành Phố Sài Gòn
Ở Thổ Nhĩ Kỳ có một chuyện cổ tích tóm tắt như sau:
Một ông giáo sư một ngày nọ cho ba người học trò đi chơi ở thành Badgad. Thành Badgad thuở xưa là ở trong số những thành phố lớn nhất hoàn cầu. Ít tháng sau ba đồ đệ về, ông thầy hỏi về cách sinh hoạt ở nơi đó thì mỗi cậu đều trả lời một cách khác nhau. Cậu thứ nhất trả lời:
- Thật là điên cuồng hết chỗ nói! Họ nhảy, họ chơi thâu đêm, suốt sáng.
Cậu thứ hai nói:
- Rõ buồn hiu! Cả từ con ruồi đậu trên nhà cũng ủ rũ.
Cậu thứ ba nói:
- Khoa học, văn học, mỹ thuật, triết học nhứt nhứt đều thành đạt vô cùng. Có lẽ ở thế gian này không đâu được siêng năng như ở đó.
Ông giáo kết luận:
- Cả ba trò đều có lý cả. Mỗi trò đều thấy những cái mình tìm kiếm theo ý thích của mình.
Tôi không dám so sánh Sài Gòn với Bagdad, nhưng Sài Gòn cũng có nhiều tình trạng ta không nên chỉ chú trọng ở cái hình thức mà chẳng tìm hiểu cái đời sống tinh thần thiệt của nó.
Ăn chơi đúng thực là Sài Gòn.
Kiểu cách lố lăng là Sài Gòn.
Ở Sài Gòn, người ta trác táng một cách điên cuồng, người ta sa ngã vào những vực sâu hang thẳm.
Nhưng ở Sài Gòn người ta cũng chịu cực vì miếng ăn, chịu khổ để nuôi sống gia đình thân tộc, người ta cũng siêng năng hoạt động để nâng cao địa vị và để tô điểm cuộc đời.
Đối với khách bàng quan thì Sài Gòn náo nhiệt lắm, lộn xộn lắm, bác tạp lắm.
Nhưng Sài Gòn vẫn có những nơi thanh tịnh, những đầu óc thanh cao và những tâm hồn đẹp đẽ.
Trong bài này, tôi không cần đưa các bạn tới những nhà lộng lẫy ở Sài Gòn, những tửu quán nguy nga ở Chợ Lớn. Tôi cũng không cần đưa các bạn đến các tiệm nước, tiệm buôn, tiệm nhảy, tiệm hút, những nơi mà các bạn có thể tự mình kiếm lấy một cách rất dễ dàng.
Tôi chỉ muốn các bạn theo tôi tới một gia đình nền nếp ở những căn phố nhỏ, hay ở những tòa nhà riêng.
Ở những nơi đó người già được tôn kính, trẻ nhỏ được yêu thương, chồng lo làm ăn, vợ lo cơm nước và gia đình, hết thảy đều sống một cách đầm ấm hòa vui, không nhiễm một chút gì gọi là bụi nhơ ở nơi đô hội.
Nhưng cao hơn một tầng nữa, lại có những nhà có thêm được một cái thơ viện, một bàn piano, một phòng khách thanh lịch.
Chồng là một nhà trí thức, vợ là một khách tài hoa. Có khi chồng đọc sách, vợ ngồi nghe. Có khi vợ ngồi đàn, chồng dự thính. Nhưng thỉnh thoảng vẫn có những chúng bạn đến chơi, rồi chủ, khách quây quần ở khay trà, dĩa bánh cùng nói những chuyện văn chương hay cùng nghe những bài đàn thanh nhã.
Nhiều lần tôi có dịp để chơn đến những cuộc hội hữu này, tôi cảm thấy những người gần tôi đều là những nhơn vật khả ái, và ngoài cái trí thức và cái thông minh của họ, họ còn có những thái độ mà ở các tỉnh nhỏ ít khi thấy biểu lộ ra, tôi muốn nói họ giản dị và khiêm nhường.
Những bác sĩ, kỹ sư, trạng sư, giáo sư, hoặc những viên quan cao cấp đều là những người được xã hội kính trọng đã đành.
Nhưng ở tỉnh nhỏ vì họ ít quá nên họ dầu không muốn mà họ vẫn cứ phải cách biệt đối với những người thấp hơn họ.
Ở Sài Gòn những bức tường ngăn cách hầu như không kiên cố là bao, vì ở đây thiên hạ đông đảo, cá nhân như cảm thấy bị hút ở trong một hoàn cảnh to lớn, như cảm thấy ở đời không phải “duy ngã độc tôn” và như muốn hòa đồng với xã hội.
Chính vì những liên lạc về xã giao như thế mà Sài Gòn có được một hoàn cảnh tinh thần tốt đẹp đủ đương đầu với cái hoàn cảnh vật chất xa hoa.
Chính có nhiều nhà được người ta gọi mình là trí thức mà vẫn tự mình cho mình còn thiếu kém.
Họ thấy rằng đời học vấn chưa ngừng được ở những mảnh bằng cao đẳng. Họ còn thấy rằng những kiến văn của mình không phải chỉ là những món đồ trang sức của trí khôn.
Nhân đó mà họ hùn hiệp nhau lại để lập ra những hội học, để mở ra những tờ báo, để in ra những cuốn sách, để tổ chức những cuộc nói chuyện, và hết thảy đều là để gây nên một cái không khí tinh thần có bổ ích.
Trong những công việc làm chung lẽ tất nhiên là vẫn có những sự hơn kém về trí thức, những sự chênh lệch về tài ba. Bởi thế nên lại càng nẩy ra những ganh đua chánh đáng, những nỗ lực của những kẻ biết tự lương tự tri.
Trong khi có những thanh niên phóng đãng đã tiêu phí đời mình một cách vô ý thức thì vẫn có vô số bạn trẻ khác lui tới thơ viện một cách siêng năng, ham đọc sách, ham viết văn, chịu để linh hồn vào những vấn đề có quan hệ đến văn học và văn hóa.
Nhơn những hoạt động đó mà nảy sinh ra một hạng công chúng có ý thức, có thị hiếu để công nhận những việc làm tốt đẹp, để thưởng thức những tài ba xuất sắc. Thành ra muốn xuất đầu lộ diện, kẻ thanh niên có tài ở khắp nơi đều phải tới Sài Gòn để dự thi trước những vị giám khảo vô danh, tiêu biểu cho một cái thông minh công cộng.
Cái thông minh công cộng đó kết tụ lại bằng những phần tử bác tạp vì Sài Gòn là nơi hội hiệp của khách tứ phương. Người mỗi xứ, mỗi nước, đều có những đặc tánh riêng, nhưng về phương diện tinh thần thì người xứ nào, nước nào cũng đều có một phần trí khôn cống hiến vào cho cái trí khôn của công chúng Sài thành.
Chúng ta đã thấy những tay ký giả Pháp cộng sự và những nhà viết báo người Nam. Chúng ta còn thấy trong làng văn khăn khít những anh em Trung-Nam-Bắc. Trước đây ở Sài Gòn người ta đã chờ từng kỳ tàu một để đọc những sách vở, báo chí từ Paris gửi qua.
Đó là đời sống tinh thần của kinh thành ánh sáng truyền tới cho hòn ngọc Viễn Đông. Nhưng hòn ngọc đó vẫn không tham lam mà giữ lấy một mình. Nó thâu vào rồi nó phát ra ở những báo chí, sách vở, mà khắp nơi người ta đều thiết tha trông đợi.
Nay sự giao thông với chánh quốc tạm dừng, song những phần tử trí thức vẫn luôn luôn hoạt động để giữ cho đời sống tinh thần của thành phố Sài Gòn được đẹp đẽ thanh quang giữa cảnh tối tăm gây nên bởi thời cuộc.
Mỗi lần có dịp đi chơi xa, tôi thường hăng hái lúc ra đi, nhưng lại lật đật mong trở về để hô hấp cái không khí tinh thần của nơi thủ phủ miền Nam đất Việt.
THIẾU SƠN
Nam Kỳ tuần báo , số 77, tháng 3/1944
(Theo Phóng sự Việt Nam 1932-1945, NXB Văn Học trang 1137)
Tư Liệu Tham Khảo
I. BÁO VÀ TẠP CHÍ
- Nguyệt san Quản trị Xí nghiệp bộ I Phạm Tieu II - số 4 (tháng 10 năm 1972).
- Tập san Xuân Việt Nam Quý Tỵ 1953 - Thư xã Đẹp Sài Gòn – Nùng Sơn Thư xã Hà Nội xuất bản.
- Tập san Sáng Dội Miền Nam, số 6 (36) tháng 6 năm 1962 và số 31 Tết Nhâm Dần 1962.
- Báo Xuân Chính Luận năm Kỷ Dậu 1969.
- Báo Nông Cổ Mín Đàm năm 1915.
- Tạp chí Bách Khoa, số 424. Năm 1975.
II. SÁCH
- Viet Nam, where East & West meet - Do Van Minh - Edizioni Quattro Venti, Rome.
- Khảo luận Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại - Huỳnh Hữu Ủy. Vietnamese American Art & Letters Associalion (VAALA), California 2008.
- Tự điển phân loại nghề nghiệp Việt Nam (Bộ Lao Động VNCH 1973).
- Quyển sách, nghề xuất bản và nghề bán sách - Lê Thái Bằng dịch từ phần Le Livre tập 18 bộ Bách khoa toàn thư Pháp. Viện Đại học Huế 1962.
- Những người bạn cố đô Huế. NXB Thuận Hoá, 2001.
- Nghệ thuật Huế. NXB Thuận Hóa.
- L’Art à Hué. Nouvelle Edition autoriseé par l’Association des Amis du Vieux Hué, 1930.
- Thú chơi sách - Vương Hồng Sển. NXB Tự Do, 1961.
- Gia Định xưa và nay - Huỳnh Minh xuất bản năm 1973….
- 300 năm Phú Nhuận - Trần Bạch Đằng chủ biên. Các tác giả Nguyễn Đình Đầu, Sơn Nam, Đỗ Chí Long, Khánh Giang. Ban sưu tầm lịch sử quận Phú Nhuận.
- Sài Gòn trong mắt tôi - Phụng Nghi. NXB Văn Nghệ - California, 1997.
- Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu - Trần Hữu Quang. NXB Tổng hợp TPHCM.
- Nam bộ đất và người tập IV - Nhiều tác giả. NXB Trẻ, 2006.
- Những người bạn cố đô Huế tập VII. NXB Thuận Hóa, 2002.
- Gốm sứ Sông Bé - Nguyễn An Dương chủ biên - Trường Ký - Lưu Ngọc Vang. NXB Tổng hợp Sông Bé, 1999.
- Chỉ nam về Viện Bảo tàng quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn - Thái Văn Kiểm và Trương Bá Phát. Tủ sách Khảo cứu, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên VNCH ấn hành, 1974.
- Những xóm bình dân trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Tủ sách Pháp luật
- Kinh tế - Xã hội học phổ thông. Quyển thứ ba. Nhâm Thìn 1953.
- Phóng sự Việt Nam 1932-1945, NXB Văn Học.
- Lăng Ông Bà Chiểu và lễ hội văn hóa dân gian - Sơn Nam. NXB Long An 1990.
- Nguyễn Bính, một vì sao sáng - Hoàng Tấn. NXB Đồng Nai & Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học Đồng Nai, 1999.
- Theo chân những tiếng hát - Hồ Trường An. Tổ hợp xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, 1998.
Phạm Công Luận
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đọc lại "Xem đêm" của Phùng Cung

Đọc lại "Xem đêm" của Phùng Cung Nghệ thuật thi ca của Phùng Cung, trong Xem đêm thật tài tình. Có thể nhận định một cách ngắn g...