Thứ Ba, 31 tháng 12, 2024

Sài Gòn, phong vị báo xuân xưa

Sài Gòn, phong vị báo xuân xưa

Lời ngỏ
Những bài viết được trích sử dụng trong cuốn sách đã đăng báo trên dưới 50 năm trước, chúng tôi chưa tìm được tác giả hay đại diện giữ bản quyền để xin phép. Do đó, rất mong nhận được thông tin từ tác giả hay đại diện giữ bản quyền bài viết được trích sử dụng để chúng tôi gởi thư cám ơn, sách biếu và nhuận bút.
Cứ đến gần Tết, độc giả Sài Thành lại trông đợi những sạp báo dọc đường phố trưng ra những tờ giai phẩm Xuân, như những bông hoa mới nở đầy màu sắc, thay cho mấy tờ nhật báo không bìa hằng ngày đầy các cột chữ đen li ti. Có thể nói các tờ báo Xuân mang tín hiệu Tết đậm đà không thua hình ảnh đống dưa cao ngất ở cửa Bắc chợ Bến Thành hay mớ lạp xưởng treo kín mít ở chợ La Cai trên đường Nguyễn Tri Phương. Trên tờ báo đặc biệt này, giống như khi thời tiết chuyển mùa, mọi thứ ồn ào, tranh cãi, lộn xộn của đời thường được tạm gác qua một bên, nhường chỗ cho những cảm xúc sâu lắng, chiêm nghiệm, nhìn lại năm qua và hy vọng cho năm tới.
Trong thời gian biên soạn cuốn sách này, có lúc tôi tưởng mình đang trở lại một sáng tháng Chạp năm mười hai tuổi, khi tôi đi dọc con đường Võ Di Nguy (Phan Đình Phùng bây giờ) để đến một sạp báo quen, mua cho ba tôi mấy tờ giai phẩm Xuân Điện Tín, Đại Dân Tộc. Tay tôi cầm chắc tờ tiền giấy, một mặt in hình con nai và mặt kia là hình dinh Độc Lập, trong bụng hy vọng tìm được cả tờ Thiếu Nhi số Tết có tranh bìa vẽ đám con nít cưỡi trâu như đã được xem quảng cáo trong số báo trước.
Trên đường về, tôi gí mũi vào mấy tờ báo khổ lớn bìa màu, hít sâu mùi mực in trên giấy láng, thấy dễ chịu không khác chi mùi chiếc bánh Madeleines nhúng nước trà của Marcel Proust, thứ mùi có thể giúp “... gợi nhớ lại tất cả những chi tiết tỉ mỉ, những hình xưa bóng chết, những chơn trời năm cũ, những gương mặt thân yêu, cho đến những tiếng động không đâu, tiếng một chiếc muỗng khua ly, tiếng một con ve sầu ngoài vườn, tất cả đều hiện hồn về” như Bình Nguyên Lộc đã viết trong một bài báo đăng trên tờ Buổi Sáng năm 1964.
Những tờ báo Xuân gọi tôi về mấy ngày Tết cũ, với buổi Tất niên thi cạp dưa hấu ở trường Võ Tánh hồi học tiểu học, những buổi sáng tháng Chạp giúp ba nhổ lông vịt để nấu nồi thịt vịt hầm, lần đi xem đại nhạc hội có nghệ sĩ Ngọc Phu giả tiếng chó sủa, gà gáy, ngựa hí... và mấy ngày Tết vùi đầu vào trang Mai Bê Bi dành cho thiếu nhi trên báo Chính Luận.
Thường ngày, hai tờ tuần san Thiếu Nhi và Tuổi Hoa cũng đủ thỏa mãn thú vui đọc báo và thích tranh đẹp của tôi. Nhưng trong đợt nghỉ Tết, những tờ báo Xuân người lớn mới cuốn tôi vào thế giới mỹ thuật đa dạng hơn với bao nhiêu bìa báo đẹp, những bức tranh minh họa hàm súc và biếm họa sinh động. Sau khi đọc hết những giai thoại Tết xưa, chuyện ăn Tết trong tù, chuyện ma thiêng nước độc, tôi mê mẩn ngắm lại những bức tranh làm nên sự hấp dẫn của một tờ báo Xuân. Sau Tết, tôi đem cất riêng những tờ báo đó, thỉnh thoảng lấy ra xem tranh và đọc cho đến khi nát.
Tình cờ mười năm trước, tôi tìm lại được tờ báo Xuân Chính Luận Tết Kỷ Dậu có bìa in hình cô Kim Loan. Lật vội, tôi tìm bài Mùa xuân mười tám đã in sâu trong trí nhớ, là nhật ký song đôi của hai mẹ con với phần nhật ký người mẹ khá xúc động bên cạnh phần nhật ký vui nhộn của cô con gái hippy với cách nghĩ cởi mở so với thời đó. Bài viết này có hai bức tranh minh họa đen trắng được in không sắc nét lắm, mà sao thuở nhỏ tôi thấy đẹp và gợi cảm quá chừng. Được nhìn lại những bức tranh và bài viết cũ từng yêu thích, thấy vui như tái ngộ người bạn thân thiết đã lâu không gặp.
Vài năm gần đây, ở Hà Nội và Sài Gòn thỉnh thoảng có tổ chức triển lãm báo Xuân trước 1954, nhưng khách đến xem chỉ được ngắm cái bìa báo thấp thoáng trong lớp nylon, các trang bên trong thì mặc sức mà tưởng tượng vì đã được phong kín.
Giới chơi sách báo xưa ở Sài Gòn từ lâu chỉ chuộng mua giai phẩm Xuân trước năm 1954. Trước hết là do vật phẩm (đáng sưu tầm) càng xưa càng có giá, vì dễ hư hao mất mát qua thời gian nên dần trở nên hiếm. Sau nữa, báo Xuân thời trước 1954 đa số dùng tranh vẽ, tác giả có thể là họa sĩ có tiếng và hình tượng thiếu nữ được vẽ khá gợi cảm. Nội dung báo Xuân tiền chiến có không khí Tết hơn, chú trọng văn chương hơn. Do hút hàng, báo Xuân trước 1954 đã hiếm càng hiếm, thỉnh thoảng muốn tham khảo hay đọc chơi cho biết thì không biết tìm đâu ra.
Ở Sài Gòn có một vị linh mục lưu trữ được khá nhiều báo Xuân trước năm 1954 ở hai miền Nam – Bắc và báo miền Nam sau 1954. Trước đây, bộ sưu tập quý giá này được lưu giữ tại thư viện giáo xứ nơi ông làm việc. Nhờ đó, chúng tôi được xem và chụp lại vài trang báo làm tư liệu. Hiện nay bộ báo này đã được chuyển giao cho cơ sở tôn giáo khác.
Mười năm trước, giới sưu tầm sách báo chưa đông như bây giờ. Những người chơi sách báo xưa rất “kén cá, chọn canh”, coi trọng sự toàn vẹn của tờ báo, cuốn sách. Bìa các tờ báo Xuân đáng sưu tầm không những không rách, không nát mà phải còn “men”, tức là lớp láng trên bìa in couché không bị nứt và rớt ra. Dần dần, người chơi đông hơn, báo cũ nát cũng được miễn còn đủ trang. Rồi rách dọc rách ngang cũng chấp nhận. Thậm chí mất bìa cũng mua. Báo Xuân trước 1954 cạn dần, ai có trong nhà cũng không chịu “nhả” ra. Báo Xuân xuất bản sau 1954 cũng trở thành hàng hiếm từ lâu. Trong giới sưu tầm sách báo quý ở Sài Gòn có vài người lưu giữ những tờ báo Xuân đẹp. Thỉnh thoảng, họ chia sẻ hình ảnh bìa những tờ báo trên diễn đàn của cộng đồng thích sách xưa hay trên mạng xã hội, nhưng nhìn chung họ khá kín tiếng và chỉ trao đổi, mua bán trong giới.
Chủ một tiệm bán sách cũ kể rằng cách nay gần chục năm, có một người sưu tầm sách báo trẻ từ Hà Nội mang theo vài chục triệu đồng và mua hết số giai phẩm Xuân miền Nam trước 1975 mà cửa hàng ấy có. Bây giờ, không dễ mua được dù chỉ dăm tờ, trừ khi có người trong giới sưu tầm cần tiền hay không chơi nữa bán ra. Lùng sục ở các cửa hàng sách báo cũ may ra kiếm được vài tờ cũ nát, nhưng phải lui tới vài lần, làm thân với người bán sách loại có máu mặt thì may ra họ nhớ đến mình khi có hàng.
Ở đường Trần Nhân Tôn, có một tiệm sách cũ đem photo mấy tờ báo Xuân xưa, nhìn rất lem nhem, bán ra 100 ngàn đồng một tờ cũng có người mua. Đúng là “hết nạc vạc đến xương”.
Cách nay không lâu, nhờ may mắn, tôi mua được một xấp báo Xuân mà phần lớn từng thuộc tủ sách của một giáo sư đại học ở Sài Gòn trước 1975 đã ra nước ngoài. Hai phần ba số đó còn nguyên bìa. Số ít mất bìa rơi vào giai phẩm Xuân của báo Sài Gòn Mới và báo Tiếng Chuông, vốn nổi tiếng về bìa in màu có hình thiếu nữ đẹp. Hơn phân nửa số đó có vết xé ngang tờ báo, đã được người bán dán lại. Bộ báo phải được mua toàn bộ, không được lựa từng tờ, giá không rẻ. Không dám kén chọn, tôi lấy hết. Đó là quyết định đúng, vì không bao giờ có dịp mua được một lần 70 tờ báo Xuân mà xưa nhất là từ năm 1935.
Lần khác, tôi mua được từ Cần Thơ gần 30 tờ báo Xuân khoảng từ 1954 cho đến 1958. Trong số đó có những tờ báo lạ, có thể chỉ phát hành trong một thời gian ngắn rồi đình bản nhưng kịp ra giai phẩm Xuân. Thật may mắn vì đó là những tờ báo hiếm có.
Không chỉ vì khan hiếm mà các giai phẩm Xuân xưa có sức hút như vậy. Dạng báo này được mê chuộng vì thường có nhiều bài viết hay, bìa báo và tranh ảnh minh họa được chăm chút kỹ lưỡng, lưu giữ khá nhiều phong vị Tết ngày xưa và hơi thở cuộc sống một thời, cùng những bài viết của nhiều nhà văn, nhà báo và họa sĩ đã khuất bóng từ lâu.
Sau này theo nghề báo, tôi hiểu sâu hơn về việc “bếp núc” của một tòa soạn khi làm báo Xuân. Sẽ có những buổi họp, bàn bạc vài tháng trước Tết với người chủ biên, để làm sao tập hợp được những cây bút già dặn và cứng cỏi, cho họ phô diễn phong độ viết lách và sự lịch duyệt của mình qua mỗi câu chuyện viết ra. Sẽ có những trải nghiệm được đúc kết, những hoài niệm được xới tung, những tâm tình được thủ thỉ và những ước vọng về tương lai, những khó khăn phía trước cùng nhau chia sẻ. Cũng từ những buổi họp đó, phải làm sao có được một bìa báo Tết lộng lẫy hay trang nhã nhất từ những họa sĩ hay nhà nhiếp ảnh tên tuổi, làm sao có những bức minh họa hay, đẹp và vui nhất cho những bài báo đặc sắc trong ấn phẩm này. Có khi chưa đến Giáng sinh, cảm giác một cái Tết đã đầy ắp trong lòng người làm báo Xuân.
Cho đến nay, tạp chí Nam Phong Tết Mậu Ngọ 1918 xuất hiện tại Hà Nội vẫn được xem là tờ báo Xuân đầu tiên, khởi đầu cho một dạng báo chí đặc thù ở Việt Nam. Nhân 100 năm kỷ niệm dấu mốc này, chúng tôi muốn góp thêm chút tư liệu về diện mạo báo Xuân Sài Gòn trước năm 1975, như một lát cắt nhỏ cho việc tìm hiểu nền báo chí của miền Nam xưa, cái nôi của báo chí cả nước.
Với tư liệu hạn chế, cái nhìn cá nhân chủ quan, cũng như chưa có sự đánh giá một cách toàn diện, hệ thống, chắc chắn cuốn sách này còn nhiều thiếu sót. Một số bài viết, minh họa và biếm họa được trích dẫn ở đây không có tên tác giả, hoặc họa sĩ có ký tên nhưng người biên soạn không xác định được. Rất mong nhận được thông tin từ quý độc giả khắp nơi để bổ sung hoặc chỉnh lý.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cám ơn sự giúp đỡ của linh mục Nguyễn Hữu Triết, ông Vũ Hà Tuệ, ông Trần Thành Trung, ông Lê Hoan Hưng, ông Trần Hữu Nghiêm, ông Nguyễn Xuân Đang trong việc bổ sung tư liệu và góp ý cho cuốn sách này.
Phạm Công Luận
PHONG VỊ BÁO XUÂN XƯA
Báo Xuân của các nhật báo Sài Gòn trước 1975, với cái tên trang nhã và trân trọng là Giai phẩm Xuân, thường có khổ lớn, có tờ lên tới 30cm x 42cm. Giai phẩm Xuân của các tạp chí, thường trung thành với kích cỡ tờ tạp chí thường kỳ, chỉ thể hiện sắc xuân ở bìa đẹp và thường là tăng tranh, bên trong có nhiều tranh minh họa và có thể thêm phụ bản màu.
Đây là loại ấn phẩm đặc biệt của tòa soạn, một tờ báo thu hút rất nhiều tinh lực của người tổ chức bài vở, trình bày và của các cây bút trong và ngoài tòa soạn.
Có ý kiến cho rằng tờ báo Xuân là món quà mà chủ báo mang đến cho anh em ký giả, nhân viên trong tòa soạn có việc làm để thu lợi nhuận hưởng Tết. Có thể đúng là như vậy, nhưng rõ ràng báo Xuân là một dịp làm ăn không nhỏ đối với một tòa soạn báo. Thời xưa, độc giả không phải ai cũng thường xuyên bỏ tiền mua báo ngày. Nhiều người đọc báo ở sở làm, mượn báo hàng xóm đọc nhờ hay ra sạp đọc ké không tốn tiền, ngại quá thì trả ít tiền lẻ cho chủ sạp. Tuy nhiên, nhiều người nhất thiết phải mua tờ báo Xuân để nhâm nhi ngày Tết, làm quà tặng, vừa có thể lấy lịch hay tranh phụ bản tặng kèm để trang trí nhà cửa, ép dưới tấm kính bàn salon cho đẹp. Báo Xuân làm tốt thì bán được nhiều, thu được nhiều tiền quảng cáo sản phẩm trên báo. Đó là lý do giới chủ báo chịu chi nhiều tiền cho giấy má, công in, nhuận bút cao để có thể xuất bản ra một loại ấn phẩm đẹp, in trên giấy tốt, có nhiều cây bút sừng sỏ cộng tác và có bức tranh bìa, minh họa thật thu hút. Làm ra một tờ báo Xuân đẹp lộng lẫy từ bìa vào trong, có nội dung đặc sắc cũng là niềm hãnh diện của một tòa báo, thể hiện đẳng cấp trong làng báo. Những giá trị này vẫn còn cho tới ngày nay.
Báo Xuân Hà Nội ở Sài Gòn
Theo Vũ Xuân Tự trong cuốn Túi bạc Sài Gòn xuất bản năm 1941, khi báo Phụ Nữ Tân Văn, tờ báo chiến tướng của Sài Gòn đang thịnh hành thì “chỉ có dân Bắc ham đọc báo chí trong Nam thôi. Trái lại, người Nam ít đọc văn Bắc lắm” . Nhưng khi các báo Phụ Nữ Tân Văn, Thần Chung, Đuốc Nhà Nam đình bản thì văn chương Bắc Hà cũng đổi mới, tiến bộ, tìm lối vào Nam. Ông viết “đứng đầu hàng ngũ đi cám dỗ độc giả Nam Kỳ, ta nên dành công cho tuần báo Phong Hóa. Tờ tuần báo này khi tái bản (1932) đã sửa đổi tôn chỉ, văn thể hợp với trình độ dân trí nên được hoan nghênh. Thì báo nào mới ra tài liệu chẳng dồi dào, bao nhiêu cái hay họ trưng ra hết. Khởi thủy, những bức vẽ khôi hài đã mua được những cái để ý của người Nam thường hay đọc báo. Rồi kẻ mua, người đi mượn, và có những anh đứng xem ghé mấy bức tranh riễu Lý Toét, liền bị bùa mê dần dần. Trước còn mua báo xem mấy bức vẽ, sau đọc các bài vở, gặp những tiếng Bắc bèn dò hỏi, sinh ra ham thích là mắc nghiện ngay” . Ông cho biết sau đó là báo Loa, cũng trào phúng, châm biếm nhưng có mồi câu độc giả Nam Kỳ là hai bức phụ bản. Ở Sài Gòn, công in đắt đỏ nên tính riêng hai bức tranh là giá năm xu rồi, rẻ lắm cho nên có người Nam chỉ thích hai bức tranh lồng kính chơi mà mua cả báo Loa.
Giai phẩm Xuân Ngày Nay, Phong Hóa – những tờ báo có sức hút đối với độc giả Nam Kỳ.
Các tờ báo miền Bắc thời ấy vào Nam Kỳ bằng nhiều cách khác nhau. Đến gần cuối thập niên 1930, các tờ nổi tiếng nhất ngoài ấy như Phong Hóa, Ngày Nay, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tri Tân... theo con đường phát hành xuyên Việt vào tới Sài Gòn, trong đó có vai trò nổi bật của nhà sách Nguyễn Khánh Đàm gần chợ Bến Thành, là đại lý phân phối sách báo của Nhà xuất bản Tân Dân ở Hà Nội. Hơn một tháng trước Tết, những giai phẩm Xuân của các tờ báo này góp phần làm phong phú thêm thị trường báo Xuân ở Sài Gòn, không chỉ nhờ những bức vẽ trào phúng hay phụ bản đẹp như Vũ Xuân Tự cho biết, mà còn từ những bìa báo đẹp mang phong cách cổ điển của xứ Bắc và nội dung giàu chất văn chương ý nhị được độc giả Nam Kỳ thích thú đón nhận. Giở ra tờ báo Xuân từ Hà Nội, người đọc Nam Kỳ được xem tranh của các họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Lemur… qua những bìa báo và minh họa, được đọc những truyện ngắn, kịch, thơ của các cây bút được ưa chuộng trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn và các cây bút tài danh xứ Bắc khác như Tản Đà, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Thanh Châu... Dù sao, một món ăn tinh thần mang tính “hương xa” có giá trị vẫn dễ thu hút người Sài Gòn vốn cởi mở, luôn thích tiếp nhận cái mới. Đã vậy, xem báo Xuân xứ Bắc, có thể xem được những “giá trị” khác, như qua các trang quảng cáo có thể hình dung sản vật và cách tiêu dùng của ngoài ấy, hay những bài viết về Tết Sài Gòn với góc nhìn lạ của người xứ có mùa xuân lạnh mát viết về mùa xuân rực nắng của miền Nam.
Những nhân vật nổi danh trong tranh biếm họa của báo Phong Hóa như Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh... sớm thu hút người đọc Nam Kỳ nên sau này, báo chí Sài Gòn đã tái hiện các nhân vật này trong một khoảng thời gian nữa, cho đến thập niên 1950 mới ngưng dần.
Trong những ngày cuối năm, tôi lật xem tờ giai phẩm Xuân Ngày Nay xuất bản năm 1940 tại Hà Nội và thấy lại cảm giác bồi hồi. Đó là một tờ báo Xuân đẹp, tao nhã với tranh bìa dễ thương vẽ ba cô gái bận áo dài tha thướt của họa sĩ nổi tiếng Tô Ngọc Vân. Kỹ thuật in lúc đó cộng với màu thời gian phủ lên bìa báo khiến bức tranh xuống sắc, màu in trầm xuống, nhìn như một bức tranh lụa cũ. Nội dung bài vở bên trong khá phong phú, toàn là của “chiến tướng” làng văn miền Bắc thời đó vì Ngày Nay là tờ báo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn nổi đình đám ở Hà Nội. Cảm động nhất là bài Đĩa mứt ngũ vị , thực chất là “Đĩa mứt ngũ vị văn chương” do Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thạch Lam viết. Đây là món quà văn chương ngày Tết với những tản văn, câu chuyện ngày Tết được viết khá súc tích, đặc biệt có những bức minh họa do các tác giả vẽ dù họ không phải là họa sĩ. Nhà văn Hoàng Đạo vẽ hoa thủy tiên, Khái Hưng vẽ một người đi dưới mưa, che lá trên đầu và có hai khuôn mặt thiếu nữ trên cao dõi theo. Thạch Lam vẽ quả đựng mứt.
Tranh Tô Ngọc Vân trên giai phẩm Xuân Ngày Nay 1940.
Truyện Hoa Thủy Tiên của Hoàng Đạo viết về một anh ở nhà quê rất thích chơi hoa thủy tiên. Ngày Tết anh thường ra Hà Nội mua hoa thủy tiên đem về nhà bày kín giường ngủ. Do nghiện hút và lười biếng, cảnh nhà anh sa sút dần và tác giả không có dịp gặp nữa. Một dịp Tết, tác giả về quê thì biết anh đã bán nhà, ở trong một cái chòi, thân thể tiều tụy vì nghiện nặng. Khi đến thăm, thấy ngày Tết anh chỉ có một bát gạo ăn. Nhưng khi nhìn lên bàn thờ cũ vẫn có một củ thủy tiên nở đầy cái chậu sành nhỏ. Anh ta thấy khách nhìn hoa, cũng ngước mắt âu yếm nhìn hoa thủy tiên, rồi tươi cười khoe: “Bây giờ tôi gọt khéo hơn trước nhiều anh ạ. Năm nào hoa cũng nở đúng ngày mồng Một!”. Tác giả man mác nghĩ thầm: “Tình yêu hoa hay là lòng thương tiếc một quãng đời thiếu niên đầm ấm!”.
Thế giới báo Xuân Sài Gòn
Phụ Nữ Tân Văn Tết 1930 là một trong những tờ báo Xuân phát hành sớm nhất ở miền Nam mà chúng tôi xem được đầy đủ. Trang đầu tờ báo ghi rõ “Số báo mùa xuân 1930”. Tên tờ báo đặt trên nền mai vàng ẩn hiện và bài thơ bốn câu man mác buồn: “Nghe nói xuân vừa đến/tìm xuân chẳng thấy xuân/Đầu nhành mai chiếng (?) trổ/ xuân đã vẹn mười phân”. Bài vở bên trong đã có màu sắc báo Xuân như bài Nam Âm thi thoại của Chương Dân (Phan Khôi) viết về thơ xuân của Tú Xương, truyện vui xuân mới, trang nhi đồng...
Năm 1931, Phụ Nữ Tân Văn không ra báo Xuân. Đến số báo Xuân 1932, bằng kỹ thuật in màu đơn giản, tờ báo danh tiếng này đã trình bày một bìa báo có màu đỏ rực rỡ làm nền cho hình vẽ bình hoa đặt cạnh tờ báo Xuân. Nội dung bài vở bên trong đã rõ phong cách báo Tết như có tới hai trang ảnh quê hương đất nước từ Nam ra Bắc, có những bài mang tính “nhìn lại” như bài điểm qua thơ xuân các nhà thơ từ Tây, Tàu, Nhật đến ta, hay bài viết về phụ nữ Việt bước vào năm 1932 và nhìn lại năm cũ. Bên cạnh đó có bài về nhân vật lớn như Alexandre de Rhodes, về một nhân tài đất Việt sống ở hải ngoại như Nguyễn Chấn Nam, một nhà ảo thuật. Tờ báo này dùng minh họa khá nhiều, có trang tới ba, bốn tranh.
Đọc lại bốn tờ báo Xuân Phụ Nữ Tân Văn năm 1930, 1932, 1933 và 1934, ta thấy có điều đáng lưu ý là không tờ báo Xuân nào nhắc đến năm âm lịch của Tết đó, không chỉ trên bìa báo, mà toàn bộ bài vở bên trong. Chi tiết tuy nhỏ nhưng thể hiện chủ trương canh tân mà báo nhắm tới.
Bài vở trên giai phẩm Xuân thường không nặng về chuyện thời sự, chiến cuộc mà thiên về văn hóa văn nghệ, chuyện kể, giai thoại, ôn cố tri tân, mang tính văn chương nhiều hơn nên thường dễ đọc. Số trang báo dày mỏng khác nhau, có số lên tới cả trăm trang khổ to, bài vở rất phong phú. Ví dụ như giai phẩm Xuân báo Sóng Thần số Xuân năm 1973 có tới 90 trang.
Ngày xuân, tạm quên những chuyện đời thường, tình yêu quê hương trỗi dậy nên nhiều tờ báo Xuân thích đưa hình ảnh về quê hương đất nước, cảnh kiến trúc cổ như tháp Rùa, chùa chiền lăng tẩm ngoài Huế, bài du khảo. Tuy nhiên, kỹ thuật in còn lạc hậu đã phản tác dụng, các trang in ảnh khá lem nhem. Báo Thần Chung Xuân Canh Dần 1950 đưa tới ba trang ảnh phong cảnh Việt trong trang ruột như cầu Cái Khế, Phụng Hiệp, Đêm trăng… do nhà chế bản nổi tiếng Cliché Dầu thực hiện nhưng cảnh vật đều không rõ. Đưa ảnh quê hương trang ruột là thất bại của hầu hết các báo Xuân từ Nam chí Bắc lúc đó. Tuy nhiên, có thể độc giả thời ấy chấp nhận, thỏa chút ước mơ đi đây đi đó hay biết thêm phong cảnh quê hương. Đến những năm thập niên 1960, kỹ thuật in tốt hơn, sắc nét hơn nên coi như vấn đề này được giải quyết. Đến cuối thập niên này, hình ảnh quê hương ít thấy dần trên trang ruột. Phụ bản chủ yếu là hình ảnh các ngôi sao cải lương hay ca nhạc, và minh tinh màn bạc.
Nhìn sâu vào nội dung các giai phẩm Xuân ở miền Nam từ khoảng giữa thế kỷ XX đến sau này, thường thấy bài bản tổ chức nội dung có na ná nhau, với các mục như: Thơ ông Táo, xuân con gì kể chuyện con đó, trang thiếu nhi, tử vi cả năm... Phần văn nghệ, nhất thiết phải có kể chuyện ăn Tết khắp nơi. Bài Tết đặc sắc trên báo Xuân thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, thường là chuyện “Tết khổ sở” trong đó kể những trải nghiệm ăn Tết trong tù: hết ăn Tết trong khám Chí Hòa, ở Côn Đảo lại ăn Tết ở khám lớn Sài Gòn, ở Hỏa Lò Hà Nội. Ăn Tết trong tù chưa đủ, đến chuyện ăn Tết với người Thượng trên cao nguyên, ăn Tết kháng chiến trong rừng U Minh… Kiểu bài thứ hai là bài “xông đất”. Hết xông đất các tòa soạn báo, rồi lại xông đất các nghệ sĩ với những dự định diễn xuất trong và sau Tết. Có báo như Đời Mới thì quan tâm đến người nghèo, đi hỏi chuyện người nghèo ăn Tết, hỏi từ viên công chức ở Bàn Cờ đến anh thợ hớt tóc ở Phú Nhuận. Đặc biệt, các báo Xuân miền Nam rất chuộng đăng bài giai thoại về nhà văn nhà thơ nổi tiếng, nhất là về nhà thơ Tản Đà. Đại thi sĩ này rất được yêu quý nên chỉ trong thời gian ngắn ông vào Gia Định viết cho báo Thần Chung và Đông Pháp Thời Báo cũng đủ nảy sinh những chuyện thú vị về ông đăng dài dài trên một số tờ báo Xuân sau này. Bên cạnh đó còn có các giai thoại về các nhà thơ, nhà văn khác như Phan Khôi, Nguyễn Bính, Hồng Tiêu, Bùi Thế Mỹ, Lê Văn Trương...
Báo Xuân thường có những bài tổng kết có giá trị, như Nhìn về văn chương Việt Nam trong năm 1969 – Nguyễn Nhật Duật (Khởi Hành 1970), Làng báo Sài Gòn 21 năm về trước – Trần Tấn Quốc (Báo Hương Xuân năm Đinh Dậu 1957)... Hoặc có những bài báo chỉ đọc tựa là thấy hấp dẫn như: bài Toàn quyền Decoux vác bạc Mỹ của quân đội Pháp đã vứt bỏ xuống sông Kỳ Kùng (Lạng Sơn) hồi Tết 1885 của A Mi báo Việt Thanh số Xuân 1952; bài Ngày xuân nghe chim hót hay là đi xem những cô Thanh Nga tập sự của Sơn Nam (Tin Sớm – Xuân Bính Ngọ 1966); bài Một đêm 30 Tết rùng rợn, chuyện có thật xảy ra năm 1928 của Nhã Hiền (Thời Cuộc – Canh Dần 1950); bài Người Việt miền Nam có lắm tật xấu đáng yêu của Sơn Nam (Thời Nay – Kỷ Dậu 1969).
Đặc biệt, có những tờ báo làm khá bài bản một tờ báo Xuân tập trung chuyên đề riêng. Ví dụ: giai phẩm Xuân báo Sóng Thần số Xuân 1973 làm chuyên đề “Chung sống”, trong đó, hầu hết các bài vở xoay quanh câu chuyện những đối tượng khác nhau, đối lập nhau, đặt vấn đề liệu họ có thể chung sống yên bình, hài hòa với nhau không. Đề tài cho chủ đề này khá đa dạng, như Nghệ sĩ và chung sống, Thế giới sắp chung sống và hòa bình, Cuộc trao đổi sinh hoạt nghệ thuật cải lương Bắc Nam hồi tiền chiến ,... và những bài báo về triển vọng kinh tế và viện trợ cả hai miền sau khi chiến tranh chấm dứt, chuyện sống chung của hai mẹ con, hai thế hệ cách xa với hai cách nghĩ khác nhau. Giai phẩm Đuốc Nhà Nam số Xuân 1971 chuyên đề đặc biệt “Tiền” được coi là “công trình sưu khảo” có các bài viết khá hấp dẫn từ các ký ức thời xa xưa về đồng tiền Đông Dương, chuyện đồng tiền những năm Đại khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đến giá trị đồng bạc đương thời. Chuyên đề về kinh tế Hoa Kỳ trên giai phẩm Thần Chung của báo Đại Dân Tộc năm 1975 chiếm 70% số trang báo. Trên giai phẩm Thời Nay Xuân Bính Ngọ năm 1966, phụ trang đặc biệt 100 năm báo chí Việt Nam có nhiều bài hay như Lịch trình tiến hóa, Tiếng Việt qua 100 năm báo chí, 50 năm làng báo đất Thần kinh, Dở chồng báo cũ, Gia Định báo, Bút chiến, hí họa . Các chuyên đề trên báo Xuân là nguồn tư liệu tham khảo rất đáng quý cho người viết thế hệ sau.
Bên cạnh đó, có hai mảng nội dung mang tính văn nghệ của báo Xuân xưa có sức thu hút độc giả. Đó là hồi ức Tết xưa và thơ.
Người đọc xem báo Xuân vẫn thường đọc được những hồi ức rất hay của một số tác giả viết về những cái Tết ngày xưa. Người viết có thể là một nhà báo, nhà văn, nghệ sĩ, một người hoạt động chính trường, một họa sĩ. Ở những số báo thường ngày, họ bình luận chuyện thời sự, vẽ tranh minh họa, viết biên khảo hay truyện ngắn, tiểu thuyết... nhưng khi tham gia viết báo Xuân, họ kể về chính mình, một kỷ niệm đã trải qua ở một khoảng đời, một tuổi thơ xa lắc lơ, một cái Tết đáng nhớ... Hầu hết những bài này được viết bằng giọng văn rất chân thành, đầy cảm xúc nên càng đọc càng thấm. Nhà văn Mai Thảo, trong Khởi Hành số Xuân Canh Tuất 1970 viết tùy bút Thăm nhà một buổi thể hiện tâm trạng u hoài sau mười sáu năm gia đình ông di cư vào Nam. Trong mười sáu năm, có những người già đã ra đi và những em bé trong dòng họ được khai sinh. Khi về Phú Nhuận thăm cha mẹ ở một căn chung cư, ông thấy ở đó có một bầu không khí lặng lẽ, tịch mịch như trong một tản văn của Alphonse Daudet viết về cõi của người già. Khi soi vào tấm gương mà gia đình mang từ miền Bắc vào ông đã từng soi những ngày thơ, ông thấy bên kia gương “sự truyền tiếp vô hình mà rực rỡ... tự động, hiển hiện trên từng xó góc một” . Nhà văn – họa sĩ Tạ Tỵ cũng trong tờ báo này, có bài hồi ức Quê ngoại viết rất chi tiết, giọng văn chân thật. Ông kể về một dịp Tết ngày còn bé, được mẹ đưa về thăm quê ngoại ở một vùng biển nghèo gần Yên Tử. Chuyện vất vả tàu xe ngày Tết thuở xưa đi từ Hà Nội qua mấy chặng tàu lửa, tàu thủy, đi bộ dưới mưa rét mới đến quê, và những ngày xuân ở quê nghèo vùng biển Bắc bộ, những đối đãi của người thân trong gia đình ngày Tết sao mà xúc động và buồn cho những con người và một quê hương nghèo khó. Hoặc bài viết Cái Tết cuối cùng trên đất Pháp của nghệ sĩ Kim Cương trong giai phẩm Xuân Con Gà Sống Tết Kỷ Dậu 1969. Bà kể chuyện trong thời gian sống bên Paris, một đêm Giao thừa nghỉ diễn, bà cùng em gái là Kim Quang nắm tay nhau dạo chơi trong ánh đèn rực rỡ của kinh đô ánh sáng mà cảm thấy nhớ nhà da diết. Cả hai hướng về quê nhà, không chỉ nhớ má và em, nồi thịt kho dưa giá mà còn nhớ quê hương, sân khấu, khán giả. Khi hai chị em vào quán cà phê gọi hai tách trà nóng uống cho ấm bụng, lấy ra mấy thứ mứt mang theo để nhấm nháp thì cảnh quê hương trên máy truyền hình được bật lên với cảnh bom rơi đạn nổ khiến cả hai vội vã ra về, lòng đau xót. Về tới nhà, nằm nghe khúc dân ca lại trào nước mắt và bà thấy một niềm thương dâng trào như men say, như sóng ngầm, xao động từ trong sâu kín của tâm hồn và sau đó đánh điện xin má cho trở về ngay và lòng nguyện gắn bó không bao giờ rời bỏ quê hương.
Mảng thơ trên báo Xuân, có bài nằm trong trang mục hẳn hoi, có bài được đệm vào chỗ trống của trang. Đọc báo Xuân xưa, thường nhặt được những bài thơ hay, nhiều câu thơ hàm súc, cảm động. Thơ của các tác giả như Vũ Anh Khanh, Tạ Ký, Viễn Châu, Lê Minh Ngọc, Thanh Nam, Đinh Hùng, Kiên Giang, Hoàng Hương Trang... luôn buồn, cái buồn man mác trước một mùa xuân đẹp khi con người còn nặng nỗi hoài hương, thương xót cho quê nhà đang cảnh chiến tranh hay nhớ về cảnh sum họp đã không còn. Xin trích dẫn vài khổ thơ hay:
Lòng riêng nào những xuân hay Tết
Dứt áo ra đi một chuyến này
Những chuyện tâm tình không tỏ được
Hoa đào trước cửa lả lơi bay...
Bỗng nhiên trời đất đem xuân lại,
Mùa mới dâng hương ngập luống cày
Chim hót bình minh, hoa đón gió
Và người sực tỉnh một cơn say.
(Xuân về thương nhớ với ai đây – Tạ Ký. Đời Mới Xuân 1955)
Tôi vẫn lái cuộc đời tôi trên những con đường quen thuộc
không mây
Dù mùa lá rụng hay dù tiếng kèn nửa đêm có căng buồm thổi
đến Honolulu nhiều gió
Xa rồi Việt Nam Đà Lạt và cà phê Tùng cuối năm
Anh gục đầu trong hầm cà phê Figaro Nữu Ước
Chuyến ô-tô-buýt của đời tôi vẫn chạy hoài
Trên những con đường Mỹ châu trống rỗng.
(New York, tháng 11, 1965 – Phạm Công Thiện. Văn Xuân 1966)
Các cây bút nổi tiếng thường viết cho báo Xuân miền Nam trước đây có Vương Hồng Sển, Tùng Lâm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Vũ Hạnh, Bà Tùng Long, Việt Tha, Tô Nguyệt Đình, Song Thao, Ngọa Long... Các báo Tự Do, Sáng Dội Miền Nam, Tiền Tuyến… có nhiều bài vở của các cây bút gốc Bắc. Một số cây bút thường thấy xuất hiện trên báo Xuân thập niên 1970 như Trường Kỳ chuyên viết về nhạc trẻ và đời sống giới trẻ, Trần Trọng Thức viết về kinh tế và bình luận thời cuộc. Danh sách còn rất dài, ở đây chỉ xin nêu vài cái tên nổi bật còn nhớ.
Các nhà văn, nhà thơ từ ngoài Bắc, Trung vào Nam tham gia viết báo trong một thời gian ngắn hoặc định cư ở đây đã góp phần làm phong phú văn chương trên báo chí miền Nam. Thời gian từ khoảng thập niên 1920 cho đến 1945, đó là Tản Đà, Đào Trinh Nhất, Phan Khôi, Tùng Lâm Lê Cương Phụng, Bùi Thế Mỹ, Hồng Tiêu, Nguyễn Bính... Họ không chỉ để lại tác phẩm mà còn những giai thoại về mình, nhất là Tản Đà, Nguyễn Bính, Phan Khôi. Sau đó là lớp nhà văn nhà thơ từ miền Bắc vào Nam sinh sống từ năm 1954 khá đông, mang sinh lực bổ sung vào làng văn chương báo chí miền Nam. Họ làm những tờ báo và tạp chí mang sắc thái riêng của đất Hà Nội hào hoa trước kia như Văn Hóa Ngày Nay, Sáng Tạo, Tự Do... viết những bài văn, thơ sâu sắc, nặng suy tưởng, hoặc có hơi hướng hiện đại như Nhất Linh, Vũ Bằng, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Nhật Tiến, Tạ Tỵ...
Có những nhân vật của báo chí Sài Gòn nay đã bị quên lãng, dù họ có một thời viết báo sôi nổi như Phan Thứ Khanh, Bùi Thế Mỹ, Ngọa Long Nguyễn Kim Lượng... Riêng về Phan Thứ Khanh, báo Tin Điển Xuân Ất Mùi 1955 có bài viết Những mặt tài tình trong làng báo cũ của Ngô Thị Đào Hồng rất tôn kính khi nhắc đến ông, một người có khí tiết, thanh bạch, con của tiến sĩ Phan Quang trong “Ngũ phụng tề phi” đất Quảng Nam. Phan Thứ Khanh có tài làm thơ và dịch thơ. Khi Đào Trinh Nhất làm tờ báo Mai có nhờ ông làm bài ca trù đặt ngoài bìa số Xuân. Năm sau, ra báo Xuân, Đào Trinh Nhất lại dùng in trên bìa lần nữa, được ấn loát rất đẹp. Lần nào ông Nhất cũng trả nhuận bút hậu hĩnh đến nỗi được coi là kỷ lục thời đó. Tác giả bài viết còn cho biết thi thoại và thi phẩm của Phan Thứ Khanh rất nhiều, có thể sưu tầm đủ ra một cuốn sách.
Qua các trang báo Xuân, phát hiện ra vài điều thú vị: Soạn giả Viễn Châu từng làm thơ, viết truyện. Họa sĩ Duy Liêm, chuyên vẽ mẫu sơn mài, bìa nhạc và tranh lập thể cũng có vẽ biếm họa, khá sinh động và có ý. Họa sĩ Lê Trung, chuyên vẽ bìa báo và minh họa có viết văn, kể chuyện khá hay về Châu Đốc quê ông. Nhà báo Lê Phương Chi, chuyên phỏng vấn nghệ sĩ cũng là người lấy số tử vi các nghệ sĩ để đăng trên báo.
Báo Xuân ngày xưa đạt một vị trí trong lòng người đọc, được đón mua, nên giới nghệ sĩ cũng bắt chước làm… báo Xuân, được thuật lại trên báo Xuân Thời Nay năm Kỷ Dậu 1969. Nghệ sĩ viết báo Xuân kể về chuyện đời, chuyện nghề của họ trên đường nghệ thuật. Độc giả rất thích thú khi đọc những tờ báo Xuân độc đáo này, vì qua đó có thể hiểu thêm tâm tình của những nghệ sĩ mà họ hâm mộ. Năm 1955 và 1956 có hai số báo Xuân do nghệ sĩ Tường Vi chủ biên, có phần lý lịch về các đào kép và soạn giả cải lương. Năm 1961, một ký giả tên là Thanh Khiêm nhảy vào làm tờ báo Xuân Cải Lương. Qua năm sau 1962, nghệ sĩ Thành Được làm tờ Xuân Cải Lương thứ hai, được cho là “rất đáng khen về mặt kỹ thuật”.
Báo Xuân Sài Gòn xưa, trên suốt chặng đường 45 năm từ 1930 đến 1975, tải được phần nào những điểm nổi bật của đời sống xã hội của thành phố nhiều biến động này, qua những bài báo, truyện ngắn, bài thơ, tranh ảnh chọn lọc, chân tình, sắc bén, đầy cảm xúc với bao nhiêu suy gẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời trong đó và chứa nhiều tư liệu quý. Còn là người Việt, ít nhiều chúng ta còn có cảm xúc trước mùa xuân, trước cái Tết và hoài vọng những chân trời cũ đã trôi xa. Mỗi dịp đọc báo Xuân xưa, những điều đó lại sống dậy.
Nhà văn Đỗ Phương Khanh giới thiệu báo Thiếu Nhi Xuân 1972 trước chợ Bến Thành. Tư liệu gia đình nhà văn Đỗ Phương Khanh.
Diện mạo báo Xuân
Bìa loại ấn phẩm này hầu hết là bức tranh vẽ thật đẹp, hoặc ảnh chân dung các nữ tài tử, diễn viên. Tranh vẽ luôn thể hiện những gì tượng trưng cho Tết như nhành mai vàng, bộ lư đồng và mâm ngũ quả, ngôi chùa cổ với người đi hái lộc, con vật tượng trưng cho năm Âm lịch đang tới. Nhiều bức tranh gợi lại không khí êm đềm của cuộc sống ngày xưa như thiếu nữ mặc áo dài bên hoa xuân, thôn nữ bên hàng dừa, gia đình tưng bừng bên nhau ngày Tết với mai vàng, đào thắm, thủy tiên xinh, bao lì xì. Dù tranh hay ảnh, nhân vật trung tâm hầu hết là các thiếu nữ, nhân vật gắn liền với mùa xuân, duyên dáng trong tà áo dài. Hiếm có bìa báo gắn với chuyện thời sự đang diễn ra, trừ vài bìa báo những năm đầu thập niên 1970 liên tục đưa hình ảnh chim bồ câu, tượng trưng cho sự khát khao hòa bình. Dù sao, báo Xuân là dịp tạm quên những trăn trở, nhọc nhằn của cuộc sống trần trụi mà tờ báo phản ánh cả năm qua.
Dù không xem được nhiều báo Xuân phát hành ở miền Nam trong khoảng thời gian 1930 – 1940 nhưng qua các số Phụ Nữ Tân Văn Xuân đầu thập niên 1930 đến khi đình bản năm 1935, cùng vài tờ khác như Công Luận, Nam Kỳ Tuần Báo, Kiến Thiết… chúng tôi xin nêu vài nhận xét về việc trình bày bìa báo Xuân thời ấy.
Qua báo Phụ Nữ Tân Văn, có thể thấy báo chí miền Nam lúc ấy đã mời các họa sĩ miền Bắc tham gia vào phần mỹ thuật. Họa sĩ Trần Quang Trân, Lê Yên của trường Mỹ thuật Đông Dương phụ trách “hội họa” (hiểu là phần thiết kế mỹ thuật) của báo.
Trong năm 1933, báo Phụ Nữ Tân Văn mặc dù mới ra được ba số báo Xuân đã mở một cuộc thi vẽ bìa báo Xuân năm 1934. Đến số báo 229 (ra ngày 21.12.1933), báo đăng danh sách dự thi và thông báo là đến ngày 25 tháng 12 chấm xong sẽ trưng bày các mẫu tranh dự thi tại nhà in Jh Nguyễn Văn Viết. Danh sách dự thi gồm 42 người, cho thấy có đủ thí sinh các nơi gửi tranh về, xa nhất có tới 2 người tận Cao Bằng, 7 người ở Hà Nội, vài người ở Hà Đông, Phúc Yên. Trong Nam đông hơn, tập trung nhiều nhất ở Gia Định 7 người, Sài Gòn 3 người và từ các nơi khác như Chợ Lớn, Tây Ninh, Sa Đéc, Tân An, Cần Thơ… Cuối cùng, tòa soạn chấm bức tranh của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, tự Lemur, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương, được giải nhất. Giải nhì trao cho ông Nguyễn Duy Tân, trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một. Bìa báo Xuân năm đó rất thơ mộng, với ba cô gái bận áo dài ngồi trên thuyền ngang qua bóng của một cây mai trắng cổ thụ đang nở đầy hoa. Dù trong điều kiện in ấn đơn giản của thời đó, dưới tay họa sĩ có tiếng từng sáng tạo ra chiếc áo dài, bức tranh hiện lên cảnh chơi xuân êm đềm bằng tông màu nhẹ nhàng, hài hòa như trong một giấc mơ xuân êm ả. Có thể nói đây là một bìa báo đẹp trong làng báo Xuân Việt trăm năm qua.
Báo Công Luận năm Bính Tý 1936 thể hiện trên bìa hình ảnh người phụ nữ miền Nam bới đầu trong trang phục áo dài ôm sát thân hình. Bìa báo thể hiện một bài “đinh” đứng tên bổn báo có tít là Y phục của phụ nữ có cần cải cách không? và khẳng định là có. Thời điểm đó, áo dài Lemur chỉ mới phổ biến không lâu từ Bắc vô Nam, chứng tỏ tư duy làm báo nhanh nhạy và quan điểm cổ vũ sự tân tiến của tòa báo.
Đến thập niên 1940, có lẽ ảnh hưởng chiến tranh, báo Xuân xuất hiện với bìa báo đơn giản, không được chăm chút. Bìa báo Nam Kỳ Tuần Báo năm 1944, Kiến Thiết năm 1947 vẽ đơn giản, màu sắc đơn giản. Đến cuối thập niên này, có hiện tượng báo Xuân đua nhau xuất bản, không chỉ từ các tòa soạn báo mà từ các nhà xuất bản như Nam Cường, Tân Việt... và từ các tổ chức tôn giáo.
Qua giai đoạn đầu những năm 1950, bìa báo Xuân ở Sài Gòn đã cố gắng cuốn hút độc giả với nhiều màu sắc rực rỡ. Có nhiều bìa báo như một bức tranh xinh tươi như báo Tiếng Dội, Thần Chung, Dân Quí cùng ra Tết Tân Mão 1951. Báo Dân Quí Xuân Tân Mão 1950 mời được họa sĩ học trường Mỹ thuật Đông Dương là Mai Trung Thứ vẽ bìa cho mình dù ông ở Paris. Từ năm 1954, ở Sài Gòn, sau những năm chiến tranh là khoảng thời gian kiến thiết miền Nam. Kinh tế khởi sắc hơn, làm ăn thông thoáng hơn, giáo dục phát triển và sách báo phát hành nở rộ với nhiều nhà xuất bản và tòa báo mới thành lập. Báo Xuân giai đoạn này xuất hiện những tờ có manchette lạ, sau này không còn thấy nữa, như các tờ Dân Quí, Việt Thanh, Xuân Việt Nam, Thanh Bình… bên cạnh các báo quen thuộc như Tiếng Chuông, Thần Chung, Mới, Tiếng Dội. Lúc đó, bìa báo hầu hết sử dụng tranh vẽ, nhiều bìa rất đẹp, trang nhã như bìa báo Tự Do (họa sĩ Phạm Tăng vẽ), bìa báo Tin Điển (họa sĩ Tú Duyên vẽ), Tiếng Chuông… Đặc biệt, các báo có tranh của họa sĩ Lê Trung bán rất chạy.
Thời kỳ này, một số báo như Quê Hương, Việt Thanh, Ánh Sáng, Dân Tộc Hòa Bình, Đời Mới... dùng ảnh thiếu nữ làm bìa, tuy nhiên do hạn chế về kỹ thuật in tráng phim màu, hầu hết các bìa báo là ảnh đen trắng được tô màu, số ít dùng ảnh đen trắng nhưng đặt trong khung tranh màu sắc sặc sỡ in typo, như bìa báo Hương Xuân số Xuân Đinh Dậu năm 1957, in chân dung của nghệ sĩ Kim Cương. Lúc này, kỹ thuật tô màu lên ảnh đen trắng bằng màu dầu được ưa chuộng từ sáng chế của ông Nguyễn Hữu Quý ở tiệm ảnh Văn Hoa Photo.
Nửa đầu thập niên 1960 là thời kỳ phong phú nhất về cách thể hiện bìa báo Xuân. Các báo thương mại như Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới, Phụ Nữ Ngày Mai, Phụ Nữ Diễn Đàn tiếp tục khai thác mạnh mẽ tranh bìa của họa sĩ Lê Trung rồi Lê Minh. Báo Tự Do in tranh bìa của họa sĩ Phạm Tăng, Nguyễn Gia Trí, có cả kiểu tranh trổ giấy lạ mắt. Tạp chí Ánh Đèn Dầu dùng tranh lập thể của họa sĩ Tạ Tỵ làm tranh bìa. Các họa sĩ vẽ tranh bìa đắt giá của thời kỳ này là Lê Trung, Lê Minh, Duy Liêm, Thái Văn Ngôn. Ảnh nữ nghệ sĩ lúc này đã in màu đẹp hơn, đưa nhiều chân dung các nghệ sĩ có tiếng như Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Thanh Nga. Tiệm ảnh Bình Minh ở đường Bùi Thị Xuân (của đạo diễn Lê Dân) và tiệm ảnh Viễn Kính của ông Đinh Tiến Mậu ở đường Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu nay) cung cấp nhiều chân dung đẹp để làm bìa báo.
Từ năm 1965 đến 1975, nhìn chung mỹ thuật trên bìa báo Xuân không còn đặc sắc như trước, dù vẫn thấy thấp thoáng những bìa báo đẹp. Điều đó phản ánh sự thiếu ổn định của nền kinh tế, chiến cuộc leo thang nên nhiều người tài ở mọi lãnh vực phải ra chiến trường, sự thiếu hụt giấy in ảnh hưởng đến hình thức báo chí Sài Gòn. Giai đoạn từ 1970 đến 1975 xuất hiện nhiều tờ báo in ấn lem nhem, giấy mỏng manh, thiết kế bìa sơ sài, minh họa ít, nét vẽ rất nghiệp dư và thậm chí không có minh họa, tranh biếm thì dùng của tạp chí nước ngoài cho đỡ chi phí. Hình ảnh trên bìa giai đoạn này dùng nhiều ảnh nghệ sĩ, ngoài Thẩm Thúy Hằng có thêm các nghệ sĩ như Minh Hiếu, Diễm Thúy, Mộng Tuyền, Phương Hoài Tâm, Kim Loan… Một số bìa báo Xuân cố gắng duy trì tính mỹ thuật cao, trở lại dùng tranh vẽ làm bìa như báo Sóng Thần, Sống. Một số báo khác dàn dựng ảnh chụp hình tượng chim bồ câu các kiểu, thể hiện khát vọng hòa bình giữa giai đoạn khói lửa chiến tranh ngất trời.
Tuy nhiên, năm năm đầu thập niên 1970 lại đánh dấu sự phát triển về hình thức, bao gồm kỹ thuật trình bày, bìa báo, minh họa của các tạp chí, tuần báo dành cho thiếu nhi, học sinh như Tuổi Hoa, Thiếu Nhi, Tuổi Ngọc, Ngàn Thông… với những họa sĩ có tài được hỗ trợ bởi kỹ thuật in ấn đã rất phát triển. Nổi bật trong đó có họa sĩ ViVi, một họa sĩ tốt nghiệp trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn có kỹ thuật hình họa rất vững, tạo hình đẹp, sinh động và sáng tạo, rất gần gũi với thị hiếu thẩm mỹ giới học trò đô thị miền Nam. Ông vẽ bìa báo, minh họa, tranh vui… trên các tuần báo Tuổi Hoa, Thiếu Nhi, Ngàn Thông. Trên báo Tuổi Ngọc, họa sĩ đồng thời là nhà văn Đinh Tiến Luyện vẽ nhiều tranh bìa, minh họa đẹp và dễ thương, gây cảm xúc, đặc biệt đáng nhớ là hình tượng thiếu nữ với đôi mắt nai to tròn. Cho đến giờ, tranh vẽ của hai họa sĩ này vẫn được nhắc nhở, lưu truyền trên các trang báo điện tử và mạng xã hội.
Đầu thập niên 1930, tranh minh họa xuất hiện lai rai trên tờ báo Xuân có mặt rất sớm ở miền Nam là báo Phụ Nữ Tân Văn 1930. Tranh minh họa thường khổ rất nhỏ, có khi không ăn nhập đến nội dung như hình một con thuyền, một bình hoa, con chim én, chỉ để lấp khoảng trống còn dư dưới một cột báo. Đến số Xuân 1932, chỉ có một hoặc hai bài nổi bật trong tờ báo có thêm tranh minh họa khổ lớn, vẽ kỹ, sát nội dung bài, nhưng cách thể hiện bố cục chặt chẽ giống một bức tranh hơn là minh họa. Đến số Xuân 1934, có sự tham gia vẽ bìa và minh họa của họa sĩ Lemur Cát Tường, với những bức tranh sinh động và mềm mại hơn.
Đến đầu thập niên 1950, trên các tờ báo Xuân ở Sài Gòn thể loại này bắt đầu được chú ý hơn, xuất hiện nhiều hơn. Một số họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương như Mạnh Quỳnh, Hoàng Tích Chù, Tú Duyên lúc đó có vẽ minh họa cho báo Sài Gòn Mới số Xuân 1952, báo Mới số Xuân Quý Tỵ 1953... Khách quan mà nói, số tranh này không bắt mắt lắm, ít chi tiết và nét vẽ còn sơ sài dù tác giả là họa sĩ nổi tiếng (có thể do quan niệm của họ về vai trò của tranh minh họa). Tuy nhiên, từ lúc đó đã xuất hiện những họa sĩ mới tuy chưa được biết tiếng nhưng vẽ rất đẹp, rất mới. Trong số đó, có nhiều họa sĩ xuất thân từ trường Trang trí Gia Định, có vài người tuy không học trường lớp nhưng có năng khiếu tham gia.
Từ giữa thập niên 1950 và suốt thập niên 1960, có thể nói là thời kỳ dài có nhiều giai phẩm Xuân mang hình thức đẹp nhất vì từ bìa đến ruột, vai trò của tranh vẽ được đẩy mạnh hết mức do lúc đó kỹ thuật in ảnh chụp chưa đạt tới mức rõ đẹp. Điều này thể hiện sự quan tâm của giới chủ báo đến tính mỹ thuật của tờ báo như một cách thu hút độc giả quan trọng. Sự chuyển hướng trong tổ chức thực hiện báo Xuân lúc đó, như mở rộng khổ báo, tăng số trang lên để tăng hàm lượng nội dung bài vở nhằm thu hút độc giả mua báo đã dẫn đến sự lên ngôi của tranh minh họa. Vì nội dung báo Xuân là món quà văn nghệ tâm tình, nhìn lại đời, nhìn lại mình, do đó, truyện ngắn được dùng nhiều, hồi ký hay chuyện kể luôn có. Những bài viết dạng này khá dài, đọc mệt mắt lại khó theo dõi nên cần có tranh minh họa. Tranh minh họa thu hút độc giả khi mới thoáng nhìn trang báo, sau đó giúp độc giả cảm nhận sâu hơn nội dung bài viết. Có tờ báo dày đặc tranh ảnh minh họa như Sài Gòn Mới Xuân 1955 có tới 21 tranh, 15 ảnh chưa kể vài tranh biếm họa.
Giữa thập niên 1950, minh họa trên báo Xuân khá phong phú, nhiều bức mang tính mỹ thuật cao. Có thể xu hướng minh họa được chăm chút kỹ trên các báo Pháp, Mỹ du nhập vào Sài Gòn đã tác động lên giới họa sĩ. Điểm qua tên tuổi một số họa sĩ minh họa gắn với từng tờ báo phát hành hàng ngày và dịp ra báo Tết: báo Ánh Sáng năm Canh Dần 1950 có các họa sĩ Bình Thành và Mai Hoàng Minh; báo Tiếng Chuông 1951 có các họa sĩ Thế Chương, Hưng Hội, Nguyễn Văn Mười, Bình Thành. Ngoài ra, có họa sĩ Phan Khánh vẽ cho tờ Buổi Sáng; họa sĩ Diệp Đình ảnh hưởng báo Pháp vẽ rất Tây, sẵn sàng chạy sô, ai kêu gì vẽ nấy. Họa sĩ Lê Phan rất xông xáo ở lĩnh vực này, vẽ nhiều tranh minh họa đẹp, sinh động. Trên báo Điện Báo Xuân Canh Dần 1950, ông vừa vẽ biếm vừa minh họa hơn chục bức. Họa sĩ Hiếu Đệ là tay minh họa có tầm cỡ, vẽ đẹp, sinh động và ý tứ sâu sắc. Thỉnh thoảng có tranh minh họa của họa sĩ Mai Hoàng Minh trên báo Lửa Sống Xuân Canh Dần. Họa sĩ Lê Trung, họa sĩ chuyên vẽ bìa cũng tham gia minh họa nhưng không nhiều, thỉnh thoảng tham gia một bức đơn lập được đóng khung trang trọng. Đến cuối thập niên này, nhiều bức minh họa trên báo Tự Do của người miền Bắc di cư vào mang tính mỹ thuật cao, trong đó có tranh của họa sĩ Ngọc Dũng và những bức không ký tên, có thể của họa sĩ Phạm Tăng. Tranh minh họa của Ngân Hà, một họa sĩ gốc Bắc cũng thường xuất hiện có nét duyên dáng riêng.
Đến đầu thập niên 1960, các tòa báo có trong tay nhiều họa sĩ vẽ đẹp, hợp thị hiếu độc giả nên cho phép kích thước tranh minh họa lớn dần để thu hút người xem. Có bức kéo dài từ đầu đến cuối trang giấy, chiếm cả một phần ba chiều đứng của trang báo khổ lớn, chừa phần còn lại cho bài. Minh họa thường được bố trí trên trang báo gồm tranh vẽ quanh tít bài và ô tranh minh họa theo nội dung bài. Đội ngũ họa sĩ vẽ minh họa tăng dần theo sự phát triển của báo chí về số lượng và sự quan tâm của giới chủ báo, đội ngũ càng đông thì cách thể hiện phong phú và đa dạng hơn, tỉa tót kỹ càng hơn trước. Có nhiều họa sĩ ăn lương cao chỉ chuyên vẽ minh họa. Thời gian này, người đọc chú ý đến những bức minh họa mang sắc thái lạ xuất hiện trên tạp chí Sáng Dội Miền Nam của Tạ Tỵ, người từng học trường Mỹ thuật Đông Dương và là họa sĩ tiên phong theo trường phái lập thể ở Việt Nam. Minh họa của ông đường nét đơn giản nhưng tính biểu hiện cao, hiện đại và sang trọng, phù hợp với thị hiếu của người có học. Tranh đẹp, lại được in màu càng đẹp.
Một họa sĩ minh họa khác được chú ý nhiều, đó là Lê Minh. Ông tốt nghiệp trường Mỹ nghệ Thực hành Gia Định, chuyên minh họa và vẽ bìa báo từ trước và sau năm 1960. Ông vẽ rất sung sức, hình tượng nhân vật luôn là những cô gái đẹp mắt to, vóc dáng cân đối, những thanh niên đẹp trai với mái tóc bồng. Nhân vật của Lê Minh tả hao hao giống nhân vật của họa sĩ Lê Trung nhưng “bốc” hơn, được tả chi tiết từ mái tóc đến bàn tay, nếp gấp tà áo đến đôi bông tai. Lúc đó, giấy in báo dồi dào và có chất lượng tốt nên tranh ông vẽ được in ấn sắc sảo, đến giờ còn thấy đẹp. Do cách vẽ tả thực của Lê Minh bắt mắt, phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của giới bình dân nên các báo mang tính thương mại như Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới, Phụ Nữ Diễn Đàn, Phụ Nữ Ngày Mai rất chuộng và tranh của ông góp phần giúp các loại báo này bán chạy. Trên một tờ báo Xuân của Phụ Nữ Diễn Đàn, Lê Minh vẽ tới 22 bức minh họa. Có bức tràn cả trang báo.
Năm 1969, sau khi chiến cuộc lắng dịu, có sự hồi sức mạnh mẽ trên báo Xuân Sài Gòn với nhiều bài có nội dung hay, minh họa đẹp. Đặc biệt năm này, báo Xuân có nhiều minh họa mang tính mỹ thuật cao là giai phẩm Xuân Chính Luận. Rất tiếc là các bức minh họa trên báo này không ký tên tác giả.
Từ 1970 đến 1975, kinh tế ngày càng khó khăn, giá giấy tăng, chiến cuộc căng thẳng, công nhân nhà in, họa sĩ thiếu hụt nên hình thức báo Xuân khổ lớn của các nhật báo giai đoạn này xuống thấy rõ. Tranh minh họa ít hẳn đi. Điển hình như giai phẩm Xuân Công Luận năm Canh Tuất 1970 in trên giấy xấu và mỏng, minh họa sơ sài. Báo Ngôn Luận Xuân Tân Hợi 1971 có vài minh họa bé xíu. Báo Hòa Bình in lem nhem, minh họa nhỏ như hộp diêm. Đến báo Điện Tín Xuân Nhâm Dần 1974 thì không có bức minh họa nào cả, toàn chữ là chữ.
Tuy nhiên, trên các tạp chí khổ nhỏ như Văn, Nghệ Thuật, Thời Nay... phần mỹ thuật vẫn được chăm chút. Đặc biệt, các số báo Xuân có bìa và minh họa đẹp, nhờ sự cộng tác của các họa sĩ có tiếng đương thời như Duy Thanh, Ngọc Dũng, Nguyễn Trung, Đinh Cường... Phải chăng vì các tạp chí này đã tạo được cho họ những sân chơi văn nghệ nhẹ nhàng giữa thời buổi kinh tế khó khăn và chiến tranh song hành? Cũng thời gian này, nhờ có họa sĩ ViVi trên báo Tuổi Hoa và Thiếu Nhi, họa sĩ Đinh Tiến Luyện trên báo Tuổi Ngọc mà các báo dành cho tuổi nhỏ này vẫn đẹp nhờ in nhiều tranh minh họa, tạo dấu ấn đậm đà trong lòng độc giả học sinh.
Lần giở trên hai trăm tờ báo Xuân trải dài suốt hơn ba mươi năm trước 1975, chúng tôi thấy có hiện tượng nhiều bức tranh không ghi tên tác giả nhưng lại có tên... cơ sở làm bản kẽm như Cliché Dầu hay Cliché Trung. Điều đó cho thấy kỹ thuật in ấn, làm bản kẽm tranh ảnh để in trên báo rất được coi trọng.
Tranh ảnh, minh họa trên báo Xuân xưa có thể xem là loại mỹ thuật bình dân dành cho đại chúng, giúp phổ cập và nâng cấp cảm thụ mỹ thuật. Ở thể loại tranh này, người đọc thấy được tay nghề vẽ minh họa của các họa sĩ thời đó, những ảnh hưởng của họ từ tài liệu nước ngoài và ảnh hưởng lẫn nhau. Minh họa làm thăng hoa nội dung bài vở, giúp độc giả đương thời và cả người đọc hôm nay hình dung rõ hơn cuộc sống muôn màu của người thế hệ trước.
Biếm họa trên các giai phẩm Xuân ở Sài Gòn đã có từ đầu thập niên 1930. Đến những thập niên sau đó xuất hiện nhiều hơn trên các ấn phẩm Xuân so với trên báo ngày. Loại tranh này có vài đặc điểm riêng.
Giống như nội dung báo Xuân dồi dào tính văn nghệ, đọc để thư giãn, hồi tưởng, biếm họa ở đây tập trung nhiều vào mục đích giải trí, cung cấp cho độc giả những giây phút thư giãn trong ngày xuân khi xem tờ báo đặc biệt mỗi năm ra một lần. Các biếm họa liên quan đến thời sự xã hội, chuyện chính trị, đả kích cũng có trên báo Xuân nhưng không nhiều vì đã thường có trên báo ngày. Tranh biếm họa còn dùng để lấp chỗ còn dư cuối trang khi bài đã hết.
Biếm họa rải rác từ đầu đến cuối số báo Xuân. Một số tờ dành cả trang hoặc có khi hai trang, vẽ một chùm tranh với rất nhiều nhân vật, chuyện trò với nhau, bàn đủ mọi vấn đề đang diễn ra hay vừa xuất hiện trong năm qua, từ chuyện kiếm sống, quan hệ xã hội đến chuyện chính sách nhà nước.
Từ thuở ban đầu của báo Xuân miền Nam, trên báo Phụ Nữ Tân Văn Tết 1930 đã có vài bức biếm họa của họa sĩ Trần Quang Trân và Nguyễn Thành Vinh, được chú thích bằng… thơ, trích từ bài Chúc Tết của Tú Xương chế giễu thói học đòi của thị dân miền Bắc thời đó, thể hiện bằng hình vẽ sơ sài. Số 1932 không có bức biếm họa nào. Đến số Tết 1933, bất ngờ xuất hiện chỉ một bức biếm khá sắc sảo vẽ hai nhân vật đang nổi đình nổi đám là Tản Đà và Phạm Quỳnh, một ông đang ngất ngưởng say bên đống vỏ chai rượu, một ông bận áo dài khăn đóng đập vỡ chai rượu, dưới hai câu thơ: “Trăm năm trong cõi người ta/ Ông Quỳnh ông Hiếu khéo là cợt nhau” . Người vẽ là Tứ Ly, có thể là nhà văn Hoàng Đạo (sau này có tranh minh họa trên báo Ngày Nay).
Đến số báo 1934, cải tiến hình thức rõ rệt, có sự tham gia về mỹ thuật của họa sĩ Lemur Cát Tường, vẽ từ bìa báo đến minh họa, biếm họa. Những bức biếm họa của ông khá sinh động, nội dung nhẹ nhàng gần gũi.
Báo Công Luận Tết Bính Tý 1936 có nhiều bức biếm họa vẽ khá chi tiết về các cuộc đối thoại của vợ chồng thuộc giới thượng lưu trong xã hội với trang phục lịch sự, lời nói của người có học, nhà cửa tươm tất. Qua đó, cùng với bài vở trong tờ báo, có thể thấy đối tượng báo hướng tới là tầng lớp trên của xã hội đang hướng tới cuộc sống tân tiến. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Nam Kỳ cũng được thể hiện trên báo Xuân qua tranh biếm thời kỳ này.
Từ cuối thập niên 1940 trở về sau, khoảng thập niên 1950, tranh biếm trên báo Xuân xuất hiện nhiều hơn trước đó, do vài họa sĩ xuất thân từ trường Mỹ thuật Đông Dương và Mỹ nghệ Thực hành Gia Định vẽ. Thời gian này, tranh tập trung cười cợt, chế giễu những tính cách lôi thôi, sĩ diện hão, thói hư tật xấu của con người hay cách sống phi đạo đức trong hôn nhân, trong đối nhân xử thế, trong quan hệ giữa con người với nhau.
Đầu thập niên 1950, vẫn còn dư âm của thời làm giai phẩm Xuân hồi trước 1945, với sự xuất hiện của hai nhân vật Xã Xệ và Lý Toét – “siêu sao” của biếm họa Việt Nam thời Pháp thuộc trên báo Phong Hóa và Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Xuất hiện trên báo Điện Báo Xuân Canh Dần 1950 hay báo Tiếng Chuông Xuân Tân Mão 1951 vẫn là Lý Toét cao gầy, tóc búi, đầu đội khăn, mặt mày khắc khổ, gò má cao, râu mép tua tủa và Xã Xệ mập lùn, mặt tròn quay, tóc có mỗi một cọng xoắn lò xo... Lý Toét lúc được gọi là cụ Lý, lúc dùng lại tên Lý Toét. Tuy nhiên, sức hút của hai hình tượng này không mạnh nữa, có lẽ không hợp với xã hội miền Nam nên đến khoảng cuối thập niên 1950 thì mất hẳn.
Đến giữa thập niên 1960, ý tưởng châm biếm trên biếm họa mạnh mẽ hơn, phê phán quyết liệt thái độ coi trọng đồng tiền, đạo đức suy đồi và đặc biệt phê phán giới thương gia đầu cơ tích trữ cùng người có chức quyền ăn hối lộ, tham nhũng. Tuy nhiên, dù mang tính phê phán nhưng tranh biếm báo Xuân thể hiện ý tưởng không quá gay gắt và chua cay, giễu cợt nhẹ nhàng chứ không mạnh mẽ và trực diện như biếm họa trên báo ngày. Hình ảnh người nghèo xuất hiện thường xuyên vì họ là nạn nhân của mọi bất công hay là đối tượng chịu nhiều khó khăn trong một xã hội đang bước đầu phát triển dù đang có chiến tranh. Các họa sĩ, phía sau là tòa báo, đứng hẳn về phía người dân bình thường, độc giả thường xuyên của họ. Giai đoạn nửa đầu thập niên 1970, những biến động xã hội như đồng tiền mất giá, đàn áp biểu tình, chiến tranh lan rộng được phản ánh rõ trên biếm họa.
Điểm qua một số tranh biếm trên báo Xuân, chúng ta có thể thấy ý hướng và công phu thể hiện của các họa sĩ:
Bộ tranh Văn nghệ sĩ của Hoàng Lập Ngôn trên báo Ánh Sáng Xuân Tân Mão 1951 cho thấy một góc nhìn duyên dáng của làng báo Sài Gòn thời bấy giờ. Hai mươi chân dung nghệ sĩ nổi tiếng của Hà Nội được phác họa khá dí dỏm và cường điệu đúng tinh thần của chân dung biếm, có thêm lời bình của họa sĩ người Hà Nội vốn là bạn bè thân thiết hay có mối quan hệ quen biết với các nhân vật, giúp người đọc Sài Gòn có cái nhìn bao quát về giới nghệ sĩ miền Bắc cùng thời.
Bộ tranh khá hài hước nhưng chừng mực Tết các giới của họa sĩ Hiếu Đệ trên giai phẩm Tiếng Chuông Tết Ất Mùi 1955 phản ánh một cách nhẹ nhàng những mặt trái của xã hội, cảnh ăn Tết của giới cần lao cũng như tính xấu của một “bộ phận” viên chức chính quyền (hối lộ và hối lộ vặt...). Hơn nửa thế kỷ trôi qua, những tranh này vẫn giữ nguyên tính thời sự.
Các biếm họa trên số Tết 1957 Đinh Dậu, 1960 Canh Tý, 1964 Giáp Thìn thể hiện góc nhìn khá hài hước về lãnh vực giáo dục. Lúc nào cũng vậy, vai trò người thầy và mục đích giáo dục có lẽ là mối quan tâm thường xuyên của người dân.
Tranh Tết 1961 Tân Sửu lần nữa nhắc lại thói “làm chơi ăn thiệt” của viên chức Việt, có lẽ đây là yếu tố chính ảnh hưởng tới sự phát triển của người Việt và làm bận lòng khá nhiều cây cọ biếm. Tranh Tết 1962 Nhâm Dần nói về những chuyện thường ngày của phụ nữ và tật xấu phổ biến đến tận ngày nay của đàn ông Việt: “Nhậu!”.
Tranh biếm trên báo Xuân cho đến giai đoạn này thường xoay quanh những chuyện hài hước ngày Tết, ít nhiều cho người đọc cảm nhận được không khí Tết tiêu biểu của dân Sài Gòn – Gia Định từ thương gia cho tới người lao động chạy ăn từng bữa một.
Tranh biếm đầu thập niên 1970 đến Tết 1975 mang đến cho người đọc một cảm giác bất an. Hình ảnh vòng rào thép gai trên đường phố và người thành thị lẫn nông thôn oằn lưng với lạm phát phi mã có giá trị hơn ngàn lời nói về một cái Tết đầy âu lo, dằn vặt. Lúc đó, biếm họa chính trị xuất hiện nhiều hơn trên báo Xuân với hai “đại gia” làng biếm họa Sài Gòn là họa sĩ Chóe (Nguyễn Hải Chí) và họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Trên báo Đại Dân Tộc 1973, họa sĩ Chóe vừa vẽ biếm họa, vừa vẽ minh họa và làm cả thơ lục bát. Họa sĩ Chóe khi vẽ minh họa ký tên thật là Nguyễn Hải Chí, không là thế mạnh nên không sắc sảo như lúc là Chóe. Trên báo này còn có chùm tranh Gia đình ông Ký Râu của họa sĩ Đan Chi. Ký Râu – nhân vật xuất hiện thường xuyên – là một người đàn ông gầy, có ria mép, xoay quanh ông là các nhân vật trong gia đình với đủ chuyện hỉ nộ ái ố.
Biếm họa xã hội của hai kiện tướng trong làng tranh biếm trước 1975: Họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) và họa sĩ Chóe (Nguyễn Hải Chí) trên báo Xuân Điện Tín 1973 (trên) và giai phẩm Thần Chung báo Đại Dân Tộc 1975 (dưới).
Ngoài hai họa sĩ tiêu biểu trên, xin nhắc tên vài họa sĩ: Hiếu Đệ, Lê Phan, Hưng Hội, Phan Phan vẽ cả minh họa lẫn biếm họa. Bên cạnh đó, có các họa sĩ khác như họa sĩ Hĩm, năm 1954 từ Bắc vào Nam với những bức tranh hí họa độc đáo có một không hai trên các báo Chính Luận, Độc Lập, Tiếng Vang; họa sĩ Văn Hiếu vẽ trên tờ Ngôn Luận với hai nhân vật bé Ngôn, bé Luận; họa sĩ Ngân Hà vẽ biếm nhẹ nhàng và có duyên; họa sĩ Phan Phan vẽ truyện tranh và biếm họa. Họa sĩ Ngọc Dũng vẽ trên báo Chính Luận rất đẹp, ký tên Tuýt. Có những bút danh chúng tôi không có điều kiện tìm hiểu về tác giả như Tám Bờm (Gia đình Năm Trật Búa), Cả Tếu, Hòa Thanh, Đức Khánh, v.v...
Một bài viết trên báo Tia Sáng có nêu: “Biếm họa không thể thay đổi được thế giới, nhưng biếm họa có thể mang đến cho chúng ta tiếng cười trí tuệ, tiếng cười mà con người cần có để tự hoàn thiện chính mình” . Hơn thế nữa, khi sống trong một xã hội đầy biến động, những bức tranh biếm họa ít nhiều mang đến nhận thức cho người xem về hiện tình cuộc sống, về những điều cần hoàn thiện ở mỗi người, về nguyên do những khó khăn mình đang gánh chịu, và cả những thói xấu mình đang có... Có khi, nó chỉ mang mỗi tiếng cười vui vẻ, để tiễn đưa năm cũ bộn bề lo toan và bước vào năm mới đầy hy vọng.
Giở chồng báo Xuân xưa, có thể thấy cách trình bày bìa báo, vẽ minh họa và biếm họa, thiết kế trang, kỹ thuật chế bản, in ấn của báo chí Sài Gòn cách nay trên dưới nửa thế kỷ khác xa bây giờ. Dù vậy, chúng ta thích thú nhận thấy rằng bằng những phương tiện đơn giản hơn và tốn nhiều công sức hơn hiện nay, các ấn phẩm này vẫn chuyển tải rất tốt hình ảnh và cảm xúc của một thời đại. Đó là quan niệm về vẻ đẹp phụ nữ, ý thức và khát vọng của người làm báo về hiện tình đất nước, cách châm biếm những thói hư tật xấu của xã hội hay giễu cợt chính mình, sự cảm thông đối với gánh nặng cuộc sống của những người nghèo khó...
VÀI HỌA SĨ TRONG LÀNG BÁO XUÂN SÀI GÒN
Họa sĩ Lê Minh (hàng đứng, thứ hai từ trái qua) cộng tác vẽ minh họa cho báo Dân Ta. Người ngồi thắt cà-vạt là nhà thơ Nguyễn Vỹ, chủ nhiệm báo. (Tư liệu: Lê Minh)
Trong ký ức của nhiều người sống ở miền Nam trước 1975, ấn tượng từ những bức tranh do họa sĩ Lê Trung vẽ in trên báo Xuân không bao giờ phai mờ. Không ít người mua cho được tờ báo Xuân chỉ vì có tranh hay phụ bản do ông vẽ và mua về chỉ để ngắm tranh. Hết Tết, có thể lấy ruột tờ báo đem gói đồ, quấn thuốc hút nhưng tờ tranh bìa thì phải giữ lại, đem dán lên vách gỗ để ngắm chơi.
Họa sĩ Lê Trung sinh năm 1919 tại Châu Đốc, là cựu học sinh trường Mỹ nghệ Gia Định và Mỹ thuật Đông Dương. Ông vẽ chân dung, phong cảnh, tĩnh vật bằng phấn màu và màu nước. Ông đã tổ chức triển lãm tranh ở đô thành Sài Gòn, từng trưng bày nhiều bức tranh phong cảnh khá đẹp và không có mấy tranh chân dung. Nhưng khi nhận vẽ bìa báo Xuân, ông làm theo yêu cầu từ chủ báo, là vẽ thiếu nữ đẹp. Nhờ sự lan truyền rộng rãi của tờ báo, nhiều người chỉ nhớ tranh của ông qua những bìa báo này.
Họa sĩ Phan Phan thuật lại: Cuối thập niên 1950, ông từ Bến Tre về Sài Gòn học và nhờ một người bạn dẫn đến thăm nhà họa sĩ Lê Trung dưới chân cầu Kiệu đường Hai Bà Trưng, trong một con hẻm. Mục đích của Phan Phan là được gặp thần tượng, người vẽ tranh thiếu nữ trên bìa báo Xuân mà từ những ngày còn trẻ ở thị xã Bến Tre, ông đã mê mẩn ngắm nhìn, cất giữ và cuối cùng đi đến quyết định theo nghề họa sĩ.
Trong cuộc gặp này, Phan Phan hỏi họa sĩ Lê Trung một câu: “Hình ảnh cô gái đẹp anh vẽ trên mấy tờ bìa báo Xuân, luôn là một thiếu nữ với đôi mắt to ướt át, mày cong, ngực nở eo nhỏ và mái tóc dài đen nhánh, có phải là hình ảnh người vợ của anh như nhiều người đồn?” .
Họa sĩ Lê Trung cười bảo: “Người ta còn bảo là tôi vẽ người yêu nữa. Thực ra, đó không phải là hình ảnh của vợ tôi, hay của người yêu nào cả. Làm gì có người đẹp được như vậy? Đó chỉ là một phụ nữ do tôi… tưởng tượng ra, tổng hợp lại những nét đẹp nhất mà tôi nghĩ phụ nữ cần có” .
Họa sĩ Lê Trung đang vẽ chân dung. Dưới nét cọ tài hoa của ông, thiếu nữ nào cũng đẹp lên rực rỡ. (Theo Nghệ thuật Việt Nam hiện đại – Nguyễn Văn Phương)
Họa sĩ Lê Minh tên thật là Lê Ngọc Minh, sinh năm 1937, tốt nghiệp trường Mỹ nghệ Thực hành Gia Định năm 1957. Ông bắt đầu vẽ bìa sách, đầu tiên là bìa cuốn Tiếng suối Sao Len , truyện đường rừng của Nguyễn Ngọc Mẫn, một cây viết đường rừng đầu thập niên 1960. Sau đó, ông vẽ tranh minh họa cho loạt truyện Hoa Lư động chúa đăng trên nhật báo Dân Ta của Nguyễn Vỹ. Đây là dạng truyện feuilleton, mỗi ngày ra một kỳ kèm minh họa. Sau đó ông vẽ truyện tranh, lấy cốt truyện là những truyện xưa như Người con gái Nam Xương trong Truyền kỳ mạn lụ c hay Hòn Vọng Phu … và cả truyện tranh nhiều kỳ (mỗi kỳ vẽ 5 cột báo) dựa trên cốt truyện của Bồ Tùng Linh.
Thuở ban đầu, ông vẽ truyện tranh khá cực nhọc, vẽ bằng mực tàu và bút sắt lá tre. Bản kẽm lúc đó còn làm trên gỗ, khắc từng chi tiết, rất kỳ công. Sau, theo kỹ thuật in typo, một miếng kẽm để trên máy in nhỏ 65 x 50cm, máy pedal. Hồi đó in bìa báo bốn màu bằng bản kẽm typo, in các màu vàng – đỏ – xanh – đen. Cliché Dầu phải làm bốn bản kẽm cho từng màu. Kỹ thuật này khiến cho họa sĩ và nhà in luôn vất vả. Bản kẽm già quá, hay non quá đều không chuẩn. Họa sĩ khi vẽ phải canh màu, phải biết kỹ thuật in để hình dung bức tranh mình gồm bốn màu in chồng lên nhau thế nào mà vẽ cho ra từng màu thuần chất, không dùng màu ửng ửng khó tách màu.
Họa sĩ Lê Minh về vẽ cho báo Sài Gòn Mới từ khoảng năm 1958, một năm sau khi ra trường. Ông làm họa sĩ thường trực, vẽ theo yêu cầu của thư ký tòa soạn. Lương hàng tháng là 4 ngàn đồng, trong khi lương sĩ quan quân đội cấp bậc thiếu úy chưa tới 3 ngàn. Bà Bút Trà có các người con làm báo Phụ Nữ Diễn Đàn, Phụ Nữ Ngày Mai đều nhờ ông vẽ minh họa, biếm họa, vẽ truyện tranh. Việc nhiều, giấy vẽ Calson của Pháp ông mua một lần cả cuộn chứ không mua lẻ, mang về nhà cho vợ lọc ra thành từng tờ. Thu nhập của ông lên tới 6 ngàn đồng một tháng, chưa kể tiền “súp” được quản lý trả khi làm thêm những công việc ngoài hợp đồng. Với số lương đó, ông sống thoải mái, sau vài năm đã có thể mua được xe hơi.
Tại báo Sài Gòn Mới, ngoài Lê Minh là họa sĩ thường trực lúc đó còn có họa sĩ Hoàng Lương vẽ cộng tác, thường đến giao tranh rồi đi. Ông này vẽ truyện tranh Bàn tay máu của nhà văn ăn khách Phi Long. Trong những công việc của Lê Minh, việc quan trọng không thể thiếu là mỗi ngày vẽ một bức hí họa ở trang nhất. Có lần, ông vẽ trong đêm, mệt quá ngủ gục, tay quơ khiến lọ mực Tàu đổ lên tranh. Đến sáng, không có tranh đưa đi làm kẽm, thư ký tòa soạn là ông Chi Lăng phải soạn ngay một tin kiểu “xe cán chó” để trám vào ngay. Rất may, tiệm Cliché Dầu biết kẽm cần gấp của Sài Gòn Mới nên lập tức làm ngay mới kịp để in báo ra buổi trưa.
Lê Minh cộng tác với Sài Gòn Mới cho đến khi báo bị đóng cửa năm 1963, sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ và tờ báo bị cho là thân với nhà Ngô. Anh em trong tòa báo tan tác, đi sang các báo Ngôn Luận, Độc Lập. Sau đó là giai đoạn vẽ bìa sách, mà đáng nhớ nhất là vẽ bìa truyện chưởng Kim Dung.
Họa sĩ Phan Phan tốt nghiệp trường Mỹ nghệ Thực hành Gia Định năm 1959, đã sớm cộng tác vẽ truyện tranh cho một số báo khi còn đang đi học. Ông tên thật là Phan Đắt Trưởng, sinh năm 1933 tại Bến Tre. Đầu thập niên 1960, ông chuyển sang làm họa sĩ thiết kế sân khấu, trở nên sáng giá và theo nghề cho đến nay, khi đã 84 tuổi, từng đoạt nhiều giải thưởng và được phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.
Bộ truyện tranh đầu tiên nhận nhuận bút khi đang là học sinh Mỹ nghệ Thực hành Gia Định vượt ngoài ước mơ của ông. Lúc đó, tiền tòa báo trả cho họa sĩ một ô tranh 8cm vuông là 45 đồng. Một đợt tranh vẽ trong một tuần phải xong 100 ô tranh, lãnh 4.500 đồng. Cơm tháng 450 đồng, chỉ bằng một phần mười tiền nhuận bút. Lúc đó, còn đi học, ông rất sung sướng vì tự làm ra tiền bằng chính năng khiếu và sở thích của mình. Ông biết gia đình không muốn ông theo nghề vẽ, nhưng nhờ ý kiến người cậu: “Cho nó học một năm biết Sài Gòn với người ta, xong bắt về cũng không muộn!” mà ông có mặt ở đây. Thành công ban đầu khiến ông quyết ở lại, đến kỳ nghỉ hè cũng không về nhà, nhận vẽ truyện tranh cho các báo.
Vẽ tranh cộng tác với báo là để có tiền trang trải chuyện học, nên ông và nhiều họa sĩ khác lúc đó không coi trọng và cũng không có ý thức về tác quyền nên chẳng ký tên vào tranh. Bút danh Phan Phan, tòa báo cũng đặt cho ông một cách tình cờ. Số là sau khi được nhận tranh, ông mừng rỡ quay lưng ra về thì bị gọi giật lại, đòi cho biết tên để ghi tác giả. Ông trả lời “Khoan, khoan!”, định về nhà nghĩ cho mình một bút danh. Nào ngờ, nhân viên tòa báo nghe ba chớp ba nháng, viết tên ông là “Phan Phan”. Từ đó chết tên luôn!
Sau này, do cơ duyên, họa sĩ Phan Phan chuyển sang thiết kế sân khấu từ rất sớm nên không tiếp tục theo nghề vẽ tranh hí họa. Nhưng nhờ vào làng tranh biếm, ông gặp được người ngưỡng mộ bấy lâu là họa sĩ Lê Trung.
Hưng Hội là họa sĩ lớp trước, xuất thân từ trường Mỹ nghệ Thực hành Gia Định, đã vẽ cho Nam Kỳ Tuần Báo từ trước năm 1945. Hưng Hội là bút danh, không ai biết tên thật của ông là gì và đến giờ không để lại tấm ảnh nào.
Hai họa sĩ Lê Minh và Phan Phan, đều trên tám mươi tuổi, khi nói về họa sĩ Hưng Hội đều thừa nhận ông vẽ minh họa và hí họa rất đẹp, đường nét diễn tả gọn, sắc sảo và sinh động. Trong hai năm sống gần rạp Văn Hoa Đa Kao, họa sĩ Phan Phan thường cùng họa sĩ Hưng Hội uống cà phê ở góc đường Trần Quang Khải – Hai Bà Trưng. Ông còn lưu chút ký ức về họa sĩ này.
Khoảng cuối thập niên 1950, Hưng Hội sống trong căn nhà ở Khánh Hội cùng vợ con. Tính cách ông hiền hòa, bề ngoài bình dị, ăn mặc khá lèng xèng, thường đi xe đạp. Ông có nét bút sắc sảo, hình họa vững nên được mời vẽ trên nhiều báo như Tin Điển, Thần Chung, Sài Gòn Mới... Ông vừa vẽ biếm họa, minh họa, truyện tranh, ăn tiền từng sản phẩm chứ không ăn lương họa sĩ thường trực. Giống như các họa sĩ khác, Hưng Hội vẽ bằng bút sắt, thứ nét mịn chấm trong lọ mực của Pháp, rồi đưa tòa báo để duyệt xong chuyển làm bản kẽm. Từ những bức tranh vẽ còn sơ sài trên Nam Kỳ Tuần Báo, đến thập niên 1950 trở đi Hưng Hội đã có những bức minh họa và biếm họa rất đẹp trên nhiều báo, rất được anh em trong giới khen ngợi.
Sau năm 1975, bạn bè làm báo không thấy họa sĩ Hưng Hội đâu nữa.
Ông tên thật là Võ Hùng Kiệt, sinh năm 1945 tại Vĩnh Long. Từ nhỏ ông đã có năng khiếu về hội họa, bắt đầu đăng truyện tranh đầu tiên trên báo Tuổi Xanh năm 13 tuổi (1958), do sự khuyến khích của chủ bút, ông Bùi Văn Bảo. Năm 1964, ông đậu vào trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn và cũng bắt đầu vẽ cho nguyệt san Tuổi Hoa với bút hiệu ViVi, ghép từ hai chữ đầu Việt Nam và Vĩnh Long. Ông tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật năm 1968, gia nhập quân ngũ nhưng vẫn tiếp tục vẽ bìa báo, minh họa, biếm họa, truyện tranh cho nhiều sách, báo và minh họa sách giáo khoa cho một số nhà xuất bản. Đến năm 1971, ông bắt đầu cộng tác với tuần báo Thiếu Nhi và tạo nên dấu ấn đậm nét.
Họa sĩ ViVi vẽ chủ yếu bằng chất liệu màu nước và sơn dầu. Nhiều họa phẩm của ông trên các bìa sách, báo, tem thư được ngưỡng mộ và nhắc nhở cho đến tận hôm nay vì kỹ thuật tả thực xuất sắc, sinh động và có cảm xúc. Rất nhiều độc giả báo chí thời trước 1975 thích tranh của ông, có người gần như là “tín đồ”, khi tranh được thể hiện ở những ấn phẩm hay, lành mạnh dành cho thiếu nhi mà họ đã từng mê say đọc hồi còn đi học. Ông còn vẽ tem cho bưu điện khi đang học năm thứ nhất trường Cao đẳng Mỹ thuật cho đến năm 1975, nhận được khoảng 40 giải thưởng về bưu hoa.
Thời gian cộng tác với tuần báo Thiếu Nhi là lúc tay cọ của ông đang độ chín, tranh của ông ngày càng mượt mà, giàu cảm xúc. Họa sĩ ViVi cho biết trước kia, tranh minh họa hay biếm họa được họa sĩ vẽ nét đen trên giấy, tòa báo hay nhà xuất bản gửi nhờ nhà làm bản kẽm (như Công ty Cliché Dầu) chụp ra phim, cho khắc trên một miếng kim loại chì pha nhôm, gắn trên một miếng gỗ rồi xếp vào trang chữ (chữ cũng bằng chì), kỹ thuật này gọi là in typo. Khi vẽ tranh bìa tuần báo Thiếu Nhi các số Xuân, chủ nhiệm Nguyễn Hùng Trương, vợ chồng nhà văn Nhật Tiến – Đỗ Phương Khanh (chủ biên và trị sự) cùng anh em biên tập bàn bạc với ông rất kỹ về chủ đề.
Bức tranh bìa báo Xuân 1972 với cảnh gia đình đón xuân đầm ấm, sum họp với ông bà cha mẹ con cháu, câu đối đỏ, cây nêu, bánh chưng xanh, hoa đào... được thể hiện đẹp và tự nhiên là một bìa báo được độc giả nhớ lâu. Khi ông nhận thực hiện bìa báo Xuân Thiếu Nhi Tết Quý Sửu 1973, cũng đang lúc Tổng nha Bưu chính Sài Gòn gửi lời mời cho các họa sĩ trong và ngoài nước gửi mẫu tranh dự thi đề tài Con Trâu. Để có hình ảnh thực tế, ông ra ngoại thành Hóc Môn và Thủ Đức, vừa chụp hình vừa ký họa trâu cộ, trâu nái và trâu nghé ở các góc cạnh tư thế cho sinh động và chính xác để vừa vẽ tem vừa vẽ bìa báo.
Họa sĩ ViVi cũng là người vẽ những tranh bìa rất đẹp, nên thơ cho Tủ sách Tuổi Hoa do ông Nguyễn Trường Sơn làm chủ biên. Trên báo Thiếu Nhi, ngoài việc vẽ bìa và minh họa, họa sĩ ViVi thỉnh thoảng có vẽ biếm họa, rất sinh động, tự nhiên, tiếc là ông không đi theo con đường này. Ông cho biết thời gian đó, mỗi ngày ông phải vẽ một băng truyện vui Gia đình Nàng Hương trên nhật báo Dân Chủ, truyện tranh trên nhật báo Độc Lập, minh họa sách giáo khoa, còn lo vẽ bìa cùng minh họa cho hai tờ báo Tuổi Hoa và Thiếu Nhi nên ít thời giờ để vẽ tranh biếm họa.
Hiện nay ông sống tại Hoa Kỳ và vẫn tiếp tục sáng tác tranh và điêu khắc.
Trước 1975, tuần báo Tuổi Ngọc rất được học sinh, sinh viên miền Nam yêu thích. Bên cạnh nhiều sáng tác văn, thơ hay, giàu cảm xúc, các chuyên mục hấp dẫn, tờ báo còn thu hút độc giả trẻ nhờ có bìa và tranh minh họa rất đẹp.
Thư ký tòa soạn báo Tuổi Ngọc, nhà văn đồng thời là họa sĩ Đinh Tiến Luyện là người để lại dấu ấn sâu đậm nhất ở Tuổi Ngọc. Ông nhớ lại: “Làm báo tay viết thì nhiều nhưng tay vẽ thì không sẵn, nên cũng như làm “đầu bếp”, tôi phải biết xào nấu sao cho thường xuyên có món bày bàn, ngon hay dở cũng phải chủ động cho đúng kỳ hạn. Chỉ mê vẽ thôi, là một tay ngang không có bài bản, nhưng có cơ hội, “không có ai trồng khoai đất này” nên vẽ bìa là tôi và minh họa trang trong cũng là tôi. Viết về tuổi học trò mới lớn nên nét vẽ của tôi cũng chở theo hồn ấy. Nếu có gì gọi là riêng biệt thì đó là vì làm báo Tuổi Ngọc” .
Ông được chủ nhiệm báo Tuổi Ngọc giới thiệu vui là họa sĩ của “Trường phái mắt to”. Thực sự là tranh bìa và minh họa của ông thường vẽ các cô gái với đôi mắt nai to tròn đã tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả. Ngoài minh họa và làm bìa cho báo Tuổi Ngọc, ông còn vẽ cho sách của Nhà xuất bản Tuổi Ngọc.
Về kỹ thuật in ấn liên quan đến kỹ thuật vẽ tranh minh họa trang trong và vẽ bìa báo thời đó, họa sĩ Đinh Tiến Luyện kể rằng: “Khi có computer thì ngành in ấn thay đổi rất mạnh. Làm báo nhưng đồng thời cũng làm nhà in nên tôi rất rõ chuyện này. Một phần quan trọng của nhà in là công việc xếp chữ. Nếu có được kho chữ cả ngàn fonts và fontsize hầu như vô tận từ chiếc computer như ngày nay thì nhà in, riêng khu vực xếp chữ cũng phải có tòa nhà hàng trăm tầng. Kỹ thuật in ấn thời thủ công, bên cạnh nhà in còn có nhà đúc chữ và nhà làm cliché (bản kẽm). Hình vẽ được chụp phim và làm thành bản khắc trên kẽm để sau đó chèn vào trang xếp những con chữ li ti bằng chì. Nhiều công và tốn phí như vậy nên minh họa trên báo cũng hạn chế, có một bản kẽm xài đi xài lại cả chục lần. Riêng bìa màu thì phức tạp hơn. Nếu không in offset thì có khi người thiết kế bìa phải tự tách màu ra từng bản và chọn màu (typo thường không quá 3 màu). Những chữ trên bìa nếu muốn đặc biệt theo ý mình thường phải kẻ riêng bằng tay (thường không bén nét). Tôi hay sưu tập những sách báo cũ nước ngoài để tìm kiểu chữ lạ. Có khi mua một cuốn báo dày cộm chỉ để lấy hàng chữ đem về cắt ra dán vào bìa làm tựa cho một cuốn sách. Người thiết kế bìa báo hay bìa sách không hoàn toàn chủ động cho đến khi ấn phẩm được in ra, có khi còn đợi… hên xui của kỹ thuật nhà in (vì thế cũng có đôi kỳ làm bìa báo tôi đã tự mình làm lấy những công đoạn chuyên môn của nhà in). Tôi rất ham làm ra các ấn phẩm nên khi có chiếc computer đầu tiên là tôi cài photoshop và say mê với nó. Ngày nay với một thiết kế ấn phẩm nó có thể chui từ máy nhà mình, phóng thẳng tới nhà in và chạy ra một ấn phẩm hoàn toàn theo ý muốn, phong phú cả màu sắc lẫn chữ nghĩa. Tất cả dễ dàng hơn rất nhiều so với thời kỳ làm báo theo lối thủ công. Tranh dùng để làm bìa báo hay bìa sách thường là những hình vẽ nhỏ hoặc đôi khi lấy ra từ một bức tranh, tự chụp qua máy riêng. Có khi những bìa báo Xuân này là từ những bức sơn dầu trên vải, có tấm khổ khá lớn, được đem thẳng tới nhà in để trực tiếp qua máy tách phim bốn màu của kỹ thuật ấn loát”.

MỘT SỐ BÀI BÁO ĐẶC SẮC TRÊN CÁC GIAI PHẨM XUÂN XƯA
Ông Phan Khôi còn hay mất?
Ông Phan Khôi, một nhà văn hơn là một nhà thơ. Ông viết lối văn lý luận hay lắm, mà hay nhứt là những khi ông “lập dị” – ngược dòng. Đến ngày nay hễ ai có tánh hay cãi “bướng” người ta cho là “lý luận Phan Khôi”.
Mà quả thế, văn ông cũng như người ông, ít cười, ít nói không thích đùa giỡn hay gắt gao, tóm tắt là hơi khó chịu.
Vừa rồi, một người bạn tới cho tôi hay ông Phan Khôi đã mất! Nếu tin này mà không sai sự thật, thì làng văn làng báo nước ta mất đi một người đàn anh hiếm có.
Tôi làm chung với ông Khôi và Hồng Tiêu
Khoảng năm 1941 – 42 tôi có làm chung với ông trong một thời gian ngắn.
Tôi lúc ấy viết còn kém, mỗi tuần chỉ viết một bài, và giữ mục văn uyển, còn ông viết mỗi tuần hai bài, một bài dạy làm thơ và một bài luận thuyết.
Ông Phan Khôi có một điều khác người ta là định tiền mỗi bài mình viết, hễ giao bài là lấy tiền, có nhiều khi lấy tiền trước mới viết sau.
Tiếng là anh em chung với nhau trong một tòa soạn, thật ra tôi coi ông như một người anh cả, mà tự xem mình như một người em út.
Báo Đông Thinh ra đời
Lúc ấy tôi mới 16 tuổi, còn ông đã ngoại ngũ tuần.
Cuộc cộng tác giữa tôi và ông Phan Khôi tại tờ tạp chí Đông Thinh do ông Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy làm chủ nhiệm, sự ấn loát và trình bày ông Hồng Tiêu giao trọn quyền cho tôi, còn ty quản lý do thầy Lâu, người em vợ lớn của ông, trông coi quán xuyến.
Tờ Đông Thinh lúc ấy in tại nhà in Xưa Nay, do cô Triệu Âu làm chủ (con gái ông Nguyễn Háo Vĩnh).
Khôi – Phụng bất trùng phùng
Thuở ông ở Saigon, người bạn được ông Phan cho là tri âm tri kỷ là ông cử Tùng Lâm Lê Cương Phụng, hễ tới là được ông mời hút. Nhưng ông Tùng Lâm cũng lạ, không mấy khi nhận lời, đôi khi nể lắm, chỉ hút vài điếu mà thôi.
Mặc dầu anh em quen biết đã lâu, từ Hanoi đến Saigon, tánh ông Tùng Lâm dường như không thích gần ông Phan.
Lúc làm tờ Đông Thinh chung với tôi, ban đêm thì ông Phan ngụ tại nhà ông Bùi Thế Mỹ, còn ban ngày ông thường đóng “trụ sở” ở tiệm Khoan Ký đường Kitchener, vì tiệm này tới nhà ông Bùi Thế Mỹ gần hơn hết.
Tòa soạn báo Đông Thinh
Ông viết bài xong cũng ở tiệm. Xong xả cho đứa “làm thuốc” đưa lại tòa soạn chớ ít khi ông đích thân đến.
Tòa soạn báo Đông Thinh lúc đó, kêu là tòa soạn cho oai, để có địa chỉ độc giả gởi thơ mua báo hoặc gửi bài, thật ra thì mướn phía trước hàng ba tiệm thuốc Đồ Nam ở đường Đại tá Grimaud [1] vừa đặt một cái bàn con và hai cái ghế.
Ông Khôi đang rặn
Nhiều kỳ, Chúa nhựt báo ra, mà thứ năm ông Phan Khôi vẫn chưa có bài nào hết. Ông Hồng Tiêu đến nhà in rủ tôi cùng đi với ổng lại tiệm Khoan Ký lấy bài về cho thợ sắp.
Tại tiệm, ông Phan Khôi có một chỗ nằm nhứt định, lên thang gác, khi khỏi chỗ bán thuốc là đến “trụ sở” của ông.
Chúng tôi bước vào, thấy bộ đồ tây treo trên móc, bàn đã lên đèn, anh làm thuốc nằm chèo queo một bên đang hí hoáy làm thuốc, ông Phan đang lum khum “rặn” bài.
Thấy chúng tôi đến, ông ngồi dậy, lột cặp mắt kiếng ra nói: Tưởng lát nữa xong, “mỏa” cho người cầm lại nhà in, gặp “toa” đến may quá! À, có cầm tiền lại cho “mỏa” mượn với không?
Ông Hồng Tiêu chỉ cười mà không đáp, rồi móc túi lấy ra 60 đồng đập ra giữa bàn một cái bép. Ba người trông nhau cùng cười.
“Cổ động viên ở Nam Vang hôm qua gởi “măng đa” [2] về được bao nhiêu “mỏa” đem theo đấy”.
Tôi từ chối nhập làng bẹp
Bấy giờ Hồng Tiêu bảo tôi cũng cởi áo quần tây và giày rồi lên nằm chơi. Tôi nghe lời, song khi ông bảo kéo vài điếu chơi, thì tôi nhứt định từ chối.
Ổng nói: “Toa dại lắm, “vô sở bất chí”, ở đời không có cái gì là không biết, không có cái gì không làm”.
Ông Phan Khôi nghe nói, đang viết bèn ngồi ngay dậy, lấy cặp kiếng ra ngăn lại: “Toa không nên rủ cái anh ấy hút. Bọn mình đây đã già rồi thôi thì tới đâu thì tới, chẳng những không chịu bỏ, mà quyết không bỏ, còn mấy anh thanh niên đang đứng ngoài vòng, tụi mình đừng nên kéo họ vào…”.
Ông Khôi tuyên bố
Rồi ông tiếp: “Từ trước đến giờ, đối với vấn đề thuốc phiện, “mỏa” khác hơn “toa”, đã không nghiện thì chớ, đã nghiện rồi thì nhứt định không bỏ, dẫu nghèo đến chết cũng vậy, còn “toa” nay hút, mai bỏ, mốt hút, kia bỏ, rốt cuộc chỉ thêm hại mình và tốn tiền, chứ không ích gì.
Mà thật có như vậy, ông Phan Khôi có viết trong một số Xuân Dân Báo, dám tuyên bố: “Tôi nhứt quyết không bỏ thuốc phiện”, và ông cũng có nói với tôi, từ khi tập hút chút cho đến ngày nay đã già, ông chưa hề uống thuốc “cai nha phiến” một lần nào.
Bỏ đi hút lại
Còn ông Hồng Tiêu trái ngược lại: hễ có tiền và gặp anh em bạn là ông rủ hút, thích là chơi, còn ngày mai ra sao? Ông không cần nghĩ tới.
Hễ một khi hết tiền, thì ông ra cụ Mộng Võ (một ông lang từng xuất dương du học bên Nhựt về, có viết trong Đông Thinh về kỹ nghệ làm giấy ở Nhựt Bổn, một bạn chí thân của Hồng Tiêu và lúc tờ Đông Thinh sắp chào đời, cụ có xuất vốn cho ít nhiều), bổ một thang thuốc Bắc về ngâm, mua năm cắc bạc thuốc phiện (giá hồi năm 1942) táo lại ngâm chung trong ít ngày đem ra uống là bỏ được. Anh em rất phục ông Hồng Tiêu là chỗ đó: hễ có tiền là hút cả ngày, có bao nhiêu hút bấy nhiêu, nhưng khi hết tiền là thôi cái một, có quạu quọ vài ngày rồi lại vui vẻ như thường, nhưng hễ có chuyện chi buồn là ông đi hút lại ngay.
Một con vịt quay
Bấy giờ gần 12 giờ trưa, ông Phan Khôi vừa hút vừa viết đã xong hai bài. Ông Hồng Tiêu đứng dậy kêu tôi mặc đồ đi về. Ông cầm lấy 60 đồng bạc khi nãy đưa cho ông Phan Khôi hầu hết, nói: “Ông cầm 50 này, rồi mai mốt có tôi sẽ đưa ông thêm”. Còn 10 đồng, ông cho anh làm thuốc 2 đồng, trả tiền thuốc 6 đồng. Vỏn vẹn còn 2 đồng, ông rủ tôi ra Chợ Cũ mua một con vịt quay gói xách mang về. Trả tiền 2 cái giấy xe điển hạng nhứt Cuniac – Petrus Ký 0đ30, hồi ấy ông Hồng Tiêu còn ở tại Chợ Quán sau nhà S.A.M.I.P.I.C – thế là số tiền trong mấy tuần lễ, cổ động viên đi thâu ở Nam Vang, chỉ nội buổi sáng tiêu ra mây khói, vợ con không hưởng một đồng xu, ngoài con vịt quay mới xách về.
Tấm lòng hào hiệp
Ông Hồng Tiêu đối với anh em bạn rất hào phóng, coi đồng tiền không ra cái quái gì. Rượu cũng như thuốc phiện, những người nào ông đã gọi là bạn chí thân, thì ông đối đãi “hết mình”.
Tôi còn nhớ trong cuốn Hồng Tiêu thi tập của ông, trong một bài ngẫu hứng có câu:
Nhà cửa bốn mùa như cái chợ,
Tháng ngày không chật với em anh.
Lời nói của ông thật đúng như việc làm của ông.
Có tài không biết xài
Nói ngay ra, ông Hồng Tiêu là một tay làm báo kỳ cựu trong Nam. Ông có tài ba về nghề nghiệp và hào hiệp đối với anh em, nhưng cái tài của ông là một thứ tài để cho người khác dùng thì được, mà ông tự dùng, tự lợi dụng cái tài của ông thì hỏng.
Hồng Tiêu văn sĩ
Ông xuất sắc nhứt là lối viết chuyện hằng ngày, tức tranh xã hội cho báo Saigon của ông Bút Trà là anh ruột của ông.
Ông mà chửi lộn thì không ai bì kịp, lý luận hay mà hỗn ẩu cũng dữ.
Có đôi khi ông công kích ai, người ấy phải nhảy nhổm dậy, chịu không thấu.
Tạp chí Đông Thinh, chỉ ra không đầy một năm thì tự đình bản vì tài chánh, song trong khoảng đó, ông có ra một số Xuân, mà số Xuân ấy lại bảnh hơn cả các báo “trường thọ” ở Saigon, là ngoài cái bìa của họa sĩ Nam Xuân Hải, còn có một tấm phụ bản, chạy ly-tô 3 màu in tại nhà in Ng.V.I. (tấm phụ bản ấy vẽ một cô gái chèo thuyền trên sông Hương), ruột in tại nhà in Nguyễn Đức nhưng hai bên có chuyện bất bình nên số Xuân Đông Thinh, in trễ ra gần Tết, bán không được phải lỗ nhiều. Chính số Xuân ấy tôi có viết đến mấy bài, nhưng vì thấy ông H.T. lỗ tội nghiệp, tôi cũng từ chối không lãnh tiền nhuận bút.
Đông Thinh đình bản
Báo Đông Thinh tự đình bản, ông Phan Khôi bây giờ chỉ sống vào tờ Dân Báo còn ông Hồng Tiêu, mỗi ngày chỉ viết một bài Tranh xã hội cho báo Saigon, với số lương hồi ấy 120 đồng một tháng, với một gia đình 8 người và một người ở nữa, thật sống một cuộc đời sống hết sức chật vật.
Vẫn cứ phong lưu
Thế mà khi nào cao hứng là ông kéo khách về một nhà, bắt vợ con phải kiếm cơm rượu đãi đằng tử tế.
Đũa gãy, chén sứt, giường chỏng xiêu vẹo, đặt ngồi ngoài vườn, dưới bóng cây, rượu đế rót vào chén nước trà, thế mà anh em quen viết ai nấy vẫn ưa ông Hồng Tiêu lắm. Ông thường tự phụ, khoe với anh em: “Anh Bút Trà hơn tôi được cái giàu tiền và giàu con, thì tôi cũng hơn anh Bút Trà được cái giàu bạn và giàu rượu” rồi ông ngụm một ngụm rượu đế, nhai một miếng thịt vịt, cười bể nhà bể cửa, coi vẻ tự đắc và sung sướng lắm.
Bấy giờ ông Phan Khôi đã dời… trụ sở về đóng tại nhà ông Hồng Tiêu, nào rương, nào bao, nào bàn đèn, ống vố chở về đầy nhà.
Vợ lại sợ chồng à!
Lúc ấy ông Hồng Tiêu đã bỏ bút, xoay sang nghiện rượu, mà lại rước về một ông “thỉ tổ” làng hút để ở trong nhà, vợ ông – cô Bạch Vân bất bình lắm, song không dám nói ra, vì vợ ông sợ ông còn hơn chuột lắt sợ mèo, đời nào dám hó hé. Hơn nữa tính ông Phan Khôi lại hết sức kỳ khôi, khó từng chút, từ cái ăn, cái ngủ, tới cái đóm hút thuốc, cái tăm xỉa răng.
Con ở mất hồn
Có một hôm, tôi cũng có mặt đến giờ ăn cơm, con ở dưới nhà bưng lên một mâm cơm, nhưng không cho ông hay trước, nên bàn đèn ông chưa thu xếp kịp (nhà ông Hồng Tiêu chật lắm, chỗ ông P.K. hút kiêm cả bàn ăn) ông nổi đóa quát tháo ầm lên, rồi xách ống vố rượt theo người ở xuống đến nhà bếp. Mà tánh ông đã nổi nóng lên thì đố ai cản được. Từ bữa đó, con ở không dám bén mảng lên nhà trên. Và khi gặp ông, nó không dám ngó ngay mặt nữa.
Sau đây, tôi sẽ kể một chuyện tranh luận giữa Phan Khôi và Hồng Tiêu suýt hai người gây ra ẩu đả!
Nói chuyện văn chương
Cũng tại tiệm Công-Yên [3] Khoan Ký ở đường Kitchener [4] , hai người nằm hút.
Bên một đống sách và nhựt trình Việt lẫn Hoa trong đó có bộ sách Vương Dương Minh, ba chúng tôi cùng xem và nói chuyện. Ông Phan Khôi đang xem tờ báo Saigon nơi mục Tranh xã hội, bỗng vụt ngồi dậy chỉ cho ông Hồng Tiêu xem mấy cái lỗi về chánh tả, rồi nói:
“Anh em các ông viết quốc ngữ theo giọng Quảng Ngãi, c. t không chịu khó phân biệt, có g hay không g cũng không cần.
Bây giờ các ông nên tập theo lối này thì có lẽ viết trúng:
Mát mẻ đọc mát tờ, thì phía sau chữ mát phải viết chữ t.
Dao mác đọc mác cờ, thì phía sau chữ mác phải viết chữ c…”
Suýt có ẩu đả
Động tới lòng tự ái, ông Hồng Tiêu nổi nóng cự lại:
“Tôi hỏi ông, ông đọc bài Tranh xã hội của tôi có hiểu hết ý nghĩa không? Ông là người Việt, chớ đâu phải thứ người gì mà tiếng Việt không hiểu?”
Nghe nói mình là thứ người gì… Ông Phan Khôi đổ mồ hôi ra trán, nói lớn:
“Anh là một người viết quốc ngữ trật nhứt nước Nam!”
“Anh là một người tánh khí kỳ khôi nhứt nước Nam!”
Thế là cả tiệm hút từ dưới đất lên trên lầu, người ta đổ xô lại can, người lớn có, kẻ nhỏ có, Hoa đông mà Việt cũng lắm.
Dĩ hòa vi quí…!
Các ông đều tự biết các ông có điều quấy, đây là chỗ công cộng, ai có quyền cho các ông tới đây đánh lộn.
Trời quang mây tạnh
Sau khi cả hai đều nguôi cơn giận, ông Hồng Tiêu ôn tồn nói:
“Chữ là cái dấu hiệu, miễn sao đọc lên hiểu được thì thôi, t hay c không quan hệ, có g hay không g cũng không cần. Tôi hỏi ông bây giờ căn cứ vào đâu mà biết trúng hay trật? Muốn nói trúng trật là khi nào Việt Nam có một Viện hàn lâm làm ra một quyển thống nhứt, gồm danh nhân cả Bắc, Trung, Nam. Hiện thời mạnh xứ nào xứ ấy nói tiếng của họ là trúng. Ông đừng khen tiếng Bắc là trúng. Ở Quảng Ngãi tôi nói con trâu mà ở Bắc nói con châu, như vậy tiếng Bắc có trúng hay không?
“Nói bướng như ông thì không khi nào xong việc gì hết – lời ông Phan Khôi cãi lại – trúng hay trật là nói theo nghĩa tương đối, xem một bài Tranh xã hội của ông, về chánh tả trật bấy xà ngầu hết ráo.
Tôi hỏi lại ông, ví dụ ông có một đứa con trai tên là Nguyễn Văn Lan đi học xa mà ông gởi cho nó một cái măng-đa đề là Nguyễn Văn Lang (phía sau thêm chữ g) hỏi nó có nhận được số tiền ấy không? Lẽ tự nhiên là không khi nào nhà giây thép cho nhận, đó là chưa nói đến những việc quan hệ hơn nữa, như giấy khai sinh, giấy căn cước,v.v… chẳng hạn”.
Hồng Hồng Bút Bút
Ông Hồng Tiêu thích cãi lộn, thét rồi hầu khắp làng báo không có mấy người ông chừa, nhứt là người đối lập với ông càng tài cao càng học rộng, càng nổi tiếng bao nhiêu ông lại càng ưa khai chiến bấy nhiêu.
Độ nọ, một nhân vật (xin giấu tên) làm báo giỏi nhứt trong Nam có lẽ khắp cả Trung, Nam, Bắc, bị ông Hồng Tiêu mần sát ván, nhân vật ấy cùng với các “đồng chí” trong “đảng” tức ứa gan, không biết làm cách nào trả đũa lại cho nguôi cơn giận.
Một hôm gặp Lê Trọng Đình. Đình nói: “Hồng Tiêu chỉ có tôi là trị lại, nếu các ông bằng lòng, để tôi làm một bài hát thì anh em họ tiêu “dên”.
Mọi người đều tán thành.
Lê Trọng Đình về tiệm thuốc phiện đường A. Courbet [5] nằm hai ba ngày, vò đầu, vò óc làm được một bài ca trù, thể theo điệu Hồng Hồng, Tuyết Tuyết.
Tôi còn nhớ được mấy câu như thế này:
Hồng Hồng, Bút Bút.
Mới ngày nào còn nằm hút ở Lơ-pheo (Lefèbvre).
Mười lăm năm vừa thoát khỏi cơn eo.
Ngoảnh mặt lại đã lên lèo phách lối.
Công kích ông… đầu nhức nhối.
Tuy lâu ngày song bài bát này có lẽ ở Saigon nhiều người “còn nhớ”. Đại khái những tranh luận trong làng báo Sài Thành trước kia là vậy khác hẳn những vụ công kích nhắm vào đời tư, cá nhơn của đối phương.
Nhơn vui năm mới tôi xin nhắc lại làm chuyện mua vui, giải muộn, chớ không ngụ so sánh chê bai ai hết. Và quyền phẩm bình xin tuyệt đối nhường lại bạn đọc.
Chú thích:
[1] Ðường Ðại tá Grimaud: Phạm Ngũ Lão ngày nay.
[2] Măng đa: (tiếng Pháp mandat) thư chuyển tiền.
[3] Tiệm Công-yên: tiệm thuốc phiện.
[4] Ðường Kitchener: Nguyễn Thái Học ngày nay.
[5] Ðường A. Courbet: Nguyễn An Ninh ngày nay.
Một chuyện hồi ký 30 năm
(giai phẩm xuân sài gòn mới tết quý tỵ 1953)
Năm ấy vào năm 1920 – 21, ông Phan Khôi còn phụ bút ở báo Nam Phong. Tình cờ tôi gặp ông ở nhà ông Sở Cuồng (Lê Dư) vào chiều 30 Tết. Ăn uống xong, ông Tú Khôi đâm ra cao hứng rủ tôi cùng một bạn nữa đi hát cô đầu.
Trước khi đi, chúng tôi đều tỏ ý ngờ vực ông Khôi, vì sợ ông cao hứng giây lát. Rủ đi, rồi đến đó ông cụt hứng bất ngờ, thì xấu hổ cho cả bọn. Ông Khôi nhìn thấy vẻ mặt hai chúng tôi dụ dự, ông bèn nói một giọng quả quyết:
- “Mình “tây” lắm; mình đã mời anh em thì mình bao tất cả chi phí, ai để phiền đến anh em. Huống chi số tiền này, mình định để về ăn Tết nhà; nhưng có điều không tiện về, nên đành ăn Tết Hanoi.”.
Nghe lời quả quyết, hai chúng tôi mới dám đi. Vì chúng tôi đã rõ tánh tình ông Khôi không mấy khi hào hiệp.
Trời mưa phùn, ba chúng tôi đều lên 3 xe kéo. Xe ông Khôi đi trước. Qua ngõ Khâm Thiên, ông bảo xe ngừng lại. Ông móc bóp trả tiền xe, hai chúng tôi còn đứng sau. Thì ông bươn bả đi trước, đi ngay vào nhà cô Đốc Sao.
Hai chúng tôi đều giựt mình! Nói với nhau:
- Ông Tú Khôi bướng quá! Ở phố Khâm Thiên thiếu chi nhà cô đầu lại không vào, nhè nhà thượng đẳng này mà vào!
Trời mưa mặc dầu, hai chúng tôi vẫn ngần ngừ đứng ngoài hàng ba, không dám vào. Nhưng liền đó, thấy ông trở ra gọi chúng tôi:
- Kìa, sao không vào, còn đứng đó làm gì?
Thì theo câu nói đó, hai cô đầu nhỏ tuổi, mặc áo màu tiến ra ngoài cửa.
- Mời hai quan vào chứ. Giời gió rét lắm cơ.
Bất đắc dĩ, chúng tôi phải vào. Nhưng tôi nghĩ, sự thế đã bức bách thế này, mình không vào, chúng cũng ra lôi vào không thể từ chối được.
Hai cô đầu nhường hai chúng tôi đi trước. Vào nhà trong, ông Khôi giới thiệu hai chúng tôi với bà chủ (cô Đốc Sao).
Mới tối 30 Tết, bà chủ đã đóng bộ y phục rất huy hoàng. Áo gấm hoa thêu chữ Thọ vàng, bạc, chít khăn nhung, choàng khăn sạc len, đi giày cườm thêu, qua lại tiếp khách với mùi nước hoa thơm ngát. Trong nhà chưng diện ra vẻ Tết nhà quan. Một cành mai trắng cao hơn thước, cắm vào chiếc bình lớn, đặt ngay trên bàn. Nhiều bình nhỏ hơn thì cắm cành trúc đào, tử vi, để rải rác mấy chiếc ghế bên vách tường. Bàn chính giữa, đặt chậu thủy tiên hoa ướm nở, mùi hương thơm phức. Ngoài ra, những bức tranh thêu, những bức trấn gấm, trông sáng rực cả nhà.
Ông Tú Khôi, ngồi vếch mày chễm chệ trên ván giữa. Chống nạnh vào chiếc gối năm nếp thêu hoa. Hai chúng tôi ngồi hai chiếc ghế cẩm thạch bên ngoài, nhưng hôm ấy có trải nệm nhung màu hồng xem có vẻ Tết. Các cô đầu tiếp khách lăng xăng, cô bưng tách trà, cô đem thuốc.
Bỗng thấy đèn điện bật lên thêm nhiều ngọn, xanh đỏ sáng lòa. Rồi một tên bồi từ nhà sau cắp theo hai chai rượu champagne đi ra, một tay bưng cái khay trên có bốn cốc.
Hai chúng tôi, đều đánh trống ngực phập phồng… Mỗi người đều lo… Chủ nhà chơi kiểu này đây, chết cho ông Khôi rồi! Không biết trong hầu bao ông được bao nhiêu, mà thấy ông ngồi điềm tĩnh thế.
Chúng tôi nhìn vào ông Khôi, có ý nháy nhó ông. Hãy từ chối cuộc champagne, bảo mang ra thứ rượu khác. Nhưng nhìn ông, mà ông chẳng hề ngó lại. Thì vừa bà chủ (cô Đốc Sao) đi ra.
Cười một chuỗi cười ra rả và nói:
- Tối nay, ba quan đến mở chầu hát giao thừa, chắc là nhà này năm tới được nhiều may mắn lắm.
Bà chủ nói vừa dứt lời thì nghe một tiếng “bốp”, nút chai champagne văng ngược lên trần nhà. Bà chủ vỗ tay, các cô đào đều vỗ theo. Tên bồi rót bốn ly rượu, bốn cô chia nhau bưng. Bà chủ giành bưng ly rượu đi đến trao trước ông Tú Khôi và chúc:
- Xin cám ơn quan mở hàng chầu hát giao thừa hôm nay. Thật một chầu hát hiếm có lắm. Vì tối hôm nay, nào có quan nào được rỗi mà đi hát chơi.
Ông Khôi cười vẻ tự nhiên rồi nói:
- Người ta không đi hát, chúng tôi đi hát, thế mới là tình chứ. Tình mà cũng oai nữa.
- Cám ơn quan.
Rồi đó, hai cô đào bưng hai ly rượu đến mời hai chúng tôi. Bà chủ cũng nói một câu xã giao, chứ thực ra bà để ý vào ông “quan” ngồi chính ván giữa. Hai chúng tôi ngồi kề tai nhau nói nhỏ:
- Cuộc hát này ít ra cũng phải mất trăm bạc. Vì lâu nay tiếng nhà hát Đốc Sao đắt gấp đôi nhà khác, chẳng hay trong túi lão Phan Khôi có đủ số ấy không? Nếu thiếu thì chúng mình phải hỏi lão để bù thêm, đừng để lòi đuôi ra mà xấu.
Toan đi xích đến ngồi gần bên ông Khôi để hỏi nhỏ vấn đề “quan trọng” ấy thì ông đã tay cầm roi chầu, đánh ngay mấy tiếng “gọi cô đầu”. Kế đó thì đầu hát gõ phách, anh kép vặn đàn, cô Tâm nhịp một khổ phách “giáo đầu” rồi hát lên bài hát nói, đến “Tỳ bà”, qua “Sa mạc”.
Ông Khôi ngồi ngúc ngắc, vừa đánh tom, chát vừa cười. Hai chúng tôi vẫn phập phồng, không biết gì là hứng thú. Vì đứa nào trong túi cũng không đầy 30 bạc, nếu ông Khôi cũng bấy nhiêu đó thì nguy!
Theo lệ hát thì có mâm á phiện, khi ba chúng tôi quây quần trước mâm á phiện, nhờ “ả” tiên nâu mà gần được nhau. Bạn tôi hỏi ông Khôi. Ông trợn mắt lên… “Các anh đừng lo, mình còn dư sức mà.” Chừng nghe câu nói ấy, hai chúng tôi mới hả dạ, nghe hát hay, uống rượu và hút ngon lành, trọn đêm 30 Tết.
Sáng ngày ông Khôi lên mặt quan sang đặt trên khay 100 bạc và thưởng cho các cô mỗi cô 5 đồng.
Ra về chúng tôi khúc khích cười với nhau. Ông bạn kia nói:
- Năm tới đây, chắc chúng tôi “hên” lắm. Bao giờ mà được ông Tú Khôi cao hứng lại phát tâm hào hiệp như buổi hôm qua!
Mà thật. Ông Phan Khôi đêm ấy cao hứng thật. Ông ít có làm thơ; thế mà đêm ấy ông nảy ra được một bài thi Đường-luật, tôi còn nhớ hai câu:
“Hồn qui lâm hạ tâm nan ổn
“Thân tại hoa gian mộng bất kinh”.
Quê cũ về thêm lòng rạo rực,
Dưới hoa mình được giấc êm đềm.
Một tờ báo Xuân một kỷ niệm
Hồi ký của nhà báo Nguyễn Bảo Hóa tức Tô Nguyệt Đình
(Giai phẩm Xuân Việt Thanh năm Giáp Ngọ 1954)
Mỗi dạo gần Tết, một hai bạn làng văn hỏi: “Năm nay anh có ra báo Xuân?” Báo Xuân! Hai tiếng ấy đập mạnh vào tai, gợi lại cả một kỷ niệm mà tôi cảm thấy thấm thía nhứt.
Trong ngày Tết, những tờ báo Xuân chen nhau khoe sắc ở phố phường. Nhìn nó, tôi nhớ đến tờ báo Xuân của tôi. Nó cũng “đứng” ở góc đường này, đầu phố nọ và theo những chiếc xe hơi chu du khắp tỉnh thành.
Tôi đoán chừng, nó đã nằm trên bàn tay nõn nà của một cô gái, bàn tay nhăn nheo của một cụ già, hoặc dưới cặp mắt sáng quắc của anh công nhân yêu đời.
Một tờ báo Xuân tung ra khắp phố phường, thiên hạ đọc nói với sự vui buồn tùy theo giọng cảm xúc (!)
Đôi người coi nó như món quà ngang với cái bánh món mứt, cục kẹo đường. Mấy ai hiểu sự khó khăn khổ cực của bàn tay làm ra nó.
Từ là một cái “bóng” ấp ủ trong đầu con người văn nghệ, đến khi biến thành tờ báo Xuân thực sự, nó đã sống qua bao nhiêu trở lực?
Từ tháng Mười âm lịch, tôi gởi thơ kêu gọi một số văn nghệ sĩ quen biết hợp sức làm một tờ báo Xuân “cho ra hồn”.
Giữa thời kỳ khủng hoảng văn nghệ, muốn làm một tờ báo Xuân theo cái nghĩa lành mạnh của văn nghệ kể cũng khó.
Mình tự nghĩ: “Có khó mới có thú”. Thế là tôi chạy rong kiếm anh em văn nghệ sĩ để nhắc bài, phác họa hình thức và nội dung tập báo Xuân. Phần đông góp ý kiến và khuyến khích: “Tôi mong tập báo Xuân của anh sẽ được độc giả hoan nghinh cũng như những báo Xuân danh tiếng nhứt thời tiền chiến”.
Tôi thấy vui nhộn. Tự lạc quan: “Lần này, tờ báo Xuân của mình chào đời sẽ đánh dấu một cái gì?”. Tôi muốn nói một công trình văn chương nghệ thuật đấy.
Bài vở lần lượt góp về, tôi tìm các bạn họa sĩ Nguyễn Văn Mười, Thế Chưởng và Tú Duyên giúp sức tô điểm cho từ cái hình, cái tựa đúng với cặp mắt “thẩm mỹ” của mọi người.
Mỗi bài của văn nghệ sĩ trao đến, mỗi bức tranh của họa sĩ vừa ráo mực đưa ra, tôi tâng tiu như trứng mỏng.
Qua tháng Mười Một, tôi đi tìm nhà in để giao cái bìa và cái “ruột”. Tôi chọn những nhà in danh tiếng nhứt như I.D.E.O và “Sông Gianh” giao công việc.
Thú thật, khi bắt tay vào việc, tôi sống thuần bằng tình cảm, mà không nghĩ gì đến điều kiện vật chất. Con người cầm cái bút “mộng” nhiều hơn “thực”. Có khi hoàn toàn mộng chứ không thực chút nào.
Phải đặt cọc trước hai phần ba giá tiền, nhà in mới ra được.
Lời người quản lý khi tôi trao cái “đờ vi” [6] mười hai ngàn đồng, tiền in, tiền sắp chữ 8.000 tờ báo Xuân 24 trang, khuôn khổ 0,50 x 0,37.
Tiền giấy: mười bốn ngàn đồng, cộng là hai mươi sáu ngàn. Cái bìa in sáu màu trên giấy láng phải trả hai mươi lăm ngàn nữa, vị chi năm mươi mốt ngàn đồng.
Chưa kể tiền bài, tiền vẽ làm bản kẽm, đã tốn ngần ấy tiền.
Dành dụm, vay mượn của bạn bè thân thích vỏn vẹn có hai chục ngàn, đào đâu ba chục ngàn nữa để chi phí cho tờ báo Xuân? Trong lúc nôn nả để làm, tôi không nghĩ phải có nhiều tiền tờ báo Xuân mới thành hình.
Tiền bạc cũng có thể là trở lực để phát triển văn học nghệ thuật.
Sự lạc quan buổi đầu mất mát đi nhiều.
Tôi bắt đầu nghi ngờ do dự…
Thiếu tiền, tờ báo Xuân thiếu điều kiện chào đời.
Những lời phê bình ngây ngô văng vẳng qua tai “Năm nay cũng còn báo Xuân “nhảy dù” ra nhiều”.
Người ta mang danh những tờ báo Xuân ra bất thường là “Xuân nhảy dù”! Người ta coi nó là “đứa con hoang” của vườn văn nghệ? Người ta có óc ngoan cố, nông nổi. Người ta không hề biết trong những tờ báo Xuân ấy đã ép những mảnh lòng, chứa đựng rất nhiều mồ hôi, sức lực của văn nghệ sĩ.
Nhìn lại những tập bản thảo đã bày sẵn trên bàn. Mỗi tập bản thảo, một thứ giấy, một tuồng chữ, một ý nghĩ điển hình cho các trạng thái tâm lý, xã hội Việt Nam.
Ngần ấy “hình ảnh” làm cho tôi xúc động, ngùi ngùi. Làm sao cho các đứa con tinh thần của một số văn nghệ sĩ được chào đời vào ngày đầu xuân nắng ấm này?
Câu hỏi cứ vẩn vơ trong óc tôi mãi. Tôi nghiệm thấy cái triết lý sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền đối với cuộc đời tình cảm của con nhà văn nghệ không có nghĩa gì hết, nhưng đối với thực tế nó có giá trị mạnh.
Trong giờ phút bâng khuâng này, tôi phải để tình cảm xuống để đưa tay tiếp nó.
Một cặp rằng [7] phát báo đề nghị với tôi: “Tôi bằng lòng ký giao kèo cho anh mượn ba chục ngàn đồng với điều kiện: độc quyền phát hành hoa hồng bốn chục phần trăm tính vào tiền bán báo. Anh phải cam đoan khi bán báo lỗ sẽ làm giấy nợ kỳ hẹn trả góp hàng tháng, v.v…”
Với tờ giao kèo này, quyền lợi của tôi mất rất nhiều. Hoa hồng báo Xuân thường lệ hai mươi lăm phần trăm, thế mà tôi phải trả thêm mười lăm phần trăm nữa. Với lại “đứa con tinh thần” của tôi phải giao đứt cho người khác sai khiến. Nghĩ mà tủi lòng!
Nhưng tiền bạc là nhu cầu cấp bách cho tờ báo Xuân, thiếu thốn nó mọi công việc dở dang, tờ báo sẽ không bao giờ thấy ánh sáng nữa.
Cuối cùng tôi phải ký tên vào giao kèo, nhận tiền của người cặp rằng phát báo (nhà văn nghệ đã gián tiếp đầu hàng nhà tư bản trước hoàng kim!)
Có tiền rồi, mạch sống của tờ báo Xuân chuyển động. Nhưng trên thực tế, không phải tờ báo Xuân đã vượt qua mọi nỗi khó khăn.
Còn trình bài vở cho ty kiểm duyệt, còn mọi công việc ấn loát, sắp chữ đóng thành tập, cắt bìa. Mỗi công việc đòi hỏi rất nhiều lao lực.
Nhiều đêm, dưới ánh đèn dầu, một đám ấn công áo thun, quần đùi, đứng thẳng người bên những ô chữ có từng hộc vuông vức như những ô cờ, hoặc hộp thuốc chích to lớn.
Họ cặm cụi làm việc, thỉnh thoảng có tiếng vỗ bành bạch của bát chữ sắp rồi quăng ra sửa lỗi.
Lâu lâu có tiếng một người thợ lẩm bẩm đọc: “Xuân này là ba xuân, dân ta ăn Tết dưới cánh phi cơ, trong tiếng bom đạn gào thét…”
Hoặc “Trước thềm năm mới ai ai cũng hy vọng được sống trong hòa bình, no cơm, áo ấm, gia đình đoàn tụ, tổ quốc vinh quang,v.v…”
Đâu đấy, tiếng máy ì ầm nghe như sóng vỗ bờ xa. Những bàn tay đầy dầu mỡ của anh thợ máy nhẹ nâng những trang báo Xuân chạy rồi, lên tận đôi mắt gần như mờ đi vì thức đêm nhiều, để săn sóc những trang báo từ máy in nhả ra.
Tất cả bao nhiêu người và tôi phải thức hằng bao nhiêu đêm để lo cho một tờ báo?
Nhiều trang báo đã lên khuôn, vội phải phá “mi” để làm lại vì bài vở phải sửa đổi. Lúc đó chỉ nhờ bàn tay vén khéo của người thợ: Đục bỏ chỗ này đem bài kia dời qua, trám cái hình vô đây, để khi in ra không còn thấy dấu vết phá phách đổi dời.
Trong một góc nhà in đầy bụi bậm, đầy mùi mực in, mùi chì nấu, có những thân hình cúi rạp bên ô chữ, có những cái lưng còng xuống trên bàn giấy để xem từng chữ, từng con số chằng chịt, ngổn ngang như bãi cát, hết đêm này qua đêm nọ.
Bài vở vơi dần, bàn tay của người thợ cũng nhẹ dần nhưng cả thân thể nặng nhọc mệt đừ, tay chưn rã rời như người đau mới mạnh.
Tờ lịch trên tường nhà in lép dần. Hôm ấy mùng Mười tháng Chạp.
Mọi người thợ phải đem hết sức, sắp những trang báo cuối cùng.
Họ chạy đua với thời gian, mà tôi cũng chạy đua với kim đồng hồ. Nào chờ những trang báo xem xét rồi, nào đến nhà in thúc hối cái bìa. Ruột gần xong mà vỏ chưa xong là chí nguy.
Những trang báo bắt đầu xếp lại từng tập, chờ giờ ra sạp báo, ra mắt bạn bốn phương.
Tờ báo Xuân của tôi hoàn thành.
Chiều Mười sáu tháng Chạp, nó rời nhà in để “đi’ khắp phố phường.
Tôi thấy nhẹ nhõm cả người như người khách phiêu lưu giũ áo phong sương khi về đến quê nhà nhìn đám con thơ ấu sởn sơ, chạy nhảy tung tăng dưới ánh nắng hồng.
Nhưng cũng trong giờ phút đó, túi tôi nhẹ tợ cánh mai vàng.
Bao nhiêu tiền bạc đã trút vào tờ báo Xuân.
Tiền không còn để xài, Tết này tôi ăn Tết ở đâu?
Chiều Hăm bảy, tôi đến nhà anh cặp rằng phát báo hỏi mượn hai trăm. Anh ta vắng mặt. Hai ngày sau cũng vắng luôn.
Chiều Ba mươi, trời nhá nhem, tay dắt chiếc xe đạp cũ mèm có cột gói đồ, tôi lang thang trên đường Tân Thuận đi tìm nhà một người bạn.
Rằm tháng Giêng tôi mới đến nhà anh cặp rằng để tính sổ báo Xuân. Báo ế trả về từng đống cao như… núi.
Tính sổ: bán 4.500 tờ x 8 đ = 36.000 đ. Hoa hồng 40% = 14.400 đ – còn lại 21.600 đ. Tiền mượn trước: 30.000 đ. Tôi thiếu lại người cặp rằng 8.400 đ
Số tiền này tôi phải biên giấy nợ. Sau mỗi khi bán một tác phẩm thì bị trừ tiền thiếu một phần, phần ấy tôi đã hy sinh cho tờ báo Xuân.
Kỷ niệm này tôi nhớ mãi. Mỗi độ Tết về, tôi thấy những tờ báo Xuân chen chúc ở các nẻo đường, tôi trân trọng đón nó trên đôi bàn tay (dầu nó dở hay hay) vì tôi nghĩ khi nó thành hình là có bao nhiêu người đổ mồ hôi nước mắt và đổ nợ!
Và trớ trêu tôi hỏi:
“Làm tờ báo Xuân này, là tiền của anh hay vay mượn của ai?”
Câu chuyện thi sĩ Tản Đà và cô Lucie Băng-đô
Lão Tùng
(Giai phẩm Xuân Thần Chung Tết Giáp Ngọ 1954)
Nhớ độ ấy vào đêm trừ tịch (30 Tết) năm Đinh Mão (1925) thi sĩ Tản Đà vừa thôi tờ Annam Tạp Chí vào Nam, được ông Diệp Văn Kỳ mời vào trợ bút tờ Đông Pháp Thời Báo.
Chiều hôm ấy thi sĩ đã mang chai rượu cô-nhát vào Gia Định kiếm tôi. Người quen tính phong lưu lãng mạn bao giờ cũng vẫn tính lãng mạn. Vừa bước vào cửa, thi sĩ đã cười ròn rã và nói:
– Chúng mình đều bọn tha hương, lữ khách, đêm nay tôi và bác, chúng mình phải cùng nhau “trường dạ ẩm” (uống rượu suốt đêm) mới được.
Tôi đang sửa soạn mở cuộc đánh “chén” thì cô Lucie Băng-đô từ ngoài xăm xăm vào.
Lucie Băng-đô, có lẽ ở Sài Thành không mấy người không quen mặt biết danh. Hai mươi năm trước, Lucie một cành hoa biết nói mà hạng vương tôn công tử đều mến yêu và nàng cũng ham sống trong cảnh trận cười suốt đêm, cuộc say đầy tháng.
Nhưng, Lucie có một tánh rất đặc biệt là ưa gần gũi các văn nhân thi sĩ để nghe những câu chuyện lý thú về văn chương. Đọc thi, văn Tản Đà lâu nay, Lucie thường hâm mộ nhà thi sĩ lãng mạn, tài hoa. Tình cờ gặp được Tản Đà hôm nay sau mấy lời của tôi giới thiệu. Lucie hiện trên nét mặt một vẻ sung sướng, tươi cười nàng nói:
_ Chiều hôm nay, cháu định mang xe rước bác và anh Bùi Thế Mỹ đi Thủ Đức “nhậu nhẹt” chơi. Một sự ngẫu nhiên, lại được gặp Tản Đà tiên sanh, thật đời em lấy làm hân hạnh vô cùng. Sẵn đây, em xin mời tiên sanh đi chơi luôn.
Nhân nghe tôi giới thiệu tánh tình Lucie hào hiệp, ưa thích văn thi, nên Tản Đà vui lòng nhận lời.
Thế là ba chúng tôi cùng ra xe một lượt. Bước lên xe, không một ai không để mắt nhìn trân và có lẽ họ đều nín cười hai hạng người gặp nhau như hai thái cực! Một đàng thì một thiếu nữ trẻ trung phấn son diễm lệ. Tay xách bóp đầm, cổ choàng khăn sạc, đi giày cao gót. Còn một đàng thì khăn đen, áo dài lượt bượt, chân đi giày hàm ếch, người đều lão mạn gần 50 xuân thu!
Nhưng cả hai bên đều tự nhiên như quên hẳn cả hình thức. Tản Đà bấy giờ chưa có hơi men, nên vẫn còn giữ lễ độ. Ngồi trên xe, hình như nhà thi sĩ đã ngấm ngầm cao hứng và thỉnh thoảng đưa mắt liếc trộm giai nhân. Đầu gục gặc như đã trong lòng những câu tình tứ.
Xe chậm chậm quay ra Sài Gòn, rước thêm một nhà văn thanh niên lãng mạn Bùi Thế Mỹ. Có Bùi Thế Mỹ, chúng tôi có phần đỡ ngượng khi đi qua các nơi đông người.
Lucie lại đỗ xe trước chợ Sài Gòn. Nàng thân hành vào chợ, mua thêm nào gà quay, xúc xích, đồ hộp và bom, lê, táo, nho. Nàng không quên mua thêm hai chai cô-nhát, hai chai sâm-banh và một chai Rôm.
Dọc đường, Lucie nói một câu lý thú và chan chứa bao nhiêu cảm tình:
– Thưa các tiên sanh, em tổ chức du xuân trước thiên hạ, vì hôm nay, Thủ Đức không như các đêm thường. Trong lúc cả muôn ngàn người đang bận rộn lo gà vịt, nhang đèn cúng quảy, có ai rảnh đi Thủ Đức ăn nem? Ấy là Thủ Đức riêng để dành cho chúng mình hôm nay chiếm độc quyền du thưởng, thanh nhã vô cùng. Bởi nghĩ thế, nên em lựa ngày hôm nay để biệt đãi quý ngài văn nhơn thi sĩ.
Quả như lời nói của Lucie tiên đoán. Khi xe đậu trước nhà hàng Thủ Đức, đèn vẫn sáng mà khách vắng hoe! Nếu không có bốn chúng tôi đêm ấy, thì nhà hàng Thủ Đức cơ hồ như một cảnh chùa hoang vắng.
Nem là thực phẩm đầu tiên. Chúng tôi mỗi người đều an vị thì nem bóc ra, rượu khui ra, máy hát từ từ vặn lên, những bản cô đầu xen lẫn bản vọng cổ.
Lucie bảo vặn những đĩa hát ấy có ý nghĩa dung hòa Nam Bắc một nhà. Thi sĩ Tản Đà giờ phút này, con ma men hơi thấm, nên thi sĩ cất giọng lên ngâm những bài “hát xẩm” mà thi sĩ cho là giai tác:
“Nước trong xanh, lơ lửng cái con cá vàng
Cây ngô cành bích, cái con phượng hoàng nó đậu cao
Tiếc thân em, như cánh hoa đào
Ham cái đồng bạc trắng, em tựa vào cái ông Tây đen”
Cử tọa đều vỗ tay. Thi sĩ càng thêm cao hứng gật đầu không ngớt.
Giữa lúc mọi người đang ngà ngà, Lucie giới thiệu đi chơi thêm cảnh Gò Xoài nữa. Nàng nói: Gò Xoài cách Thủ Đức không xa mấy, nhưng thường ngày có vẻ thanh tịnh hơn, nhứt là suối Gò Xoài trong và đẹp lắm.
Mọi người đều hoan nghinh. Chúng tôi cũng hôm nay mới được biết Gò Xoài lần thứ nhứt.
Lên Gò Xoài, giờ ấy mới lối 12 giờ đêm. Ở đây, Lucie lại tổ chức tiệc cháo gà đổi món.
Chúng tôi dạo quanh trên nguồn suối Gò Xoài, trở về nhà hàng Gò Xoài, lại say một tiệc nữa, mãi đến ba giờ sáng mới ra về. Trước khi từ biệt Gò Xoài, Thủ Đức, Lucie xin thi sĩ Tản Đà một bài thi để kỷ niệm cuộc thi trừ tịch đêm nay. Thi sĩ hứa sẽ biếu bài thi ấy một hôm sau, nhưng đêm nay thi sĩ xin vịnh hai câu “tục Kiều” để kỷ niệm.
Tản Đà vừa bước lên xe vừa ngâm:
“Chén vui nhớ buổi hôm nay,
Càng yêu vì nết, càng say vì tình”
Thi sĩ vừa cười vừa yêu cầu Lucie tục một câu khác.
Khen cho Lucie lanh thật, nàng tục một câu khác liền:
“Chén vui nhớ buổi hôm nay,
Biết rằng mai có như rày cho chăng?”
Phải chăng câu “sấm ngữ” đó mà thành sự thật. Thì từ đó về sau, Tản Đà trở về Bắc, Lucie cũng trụy lạc lần.
Từ trụy lạc đến tàn tạ, tuyết sương ngày một hao mòn mình ve. Mãi đến mười năm sau, thi sĩ Tản Đà qua đời, Lucie ở trong Nam phiêu lưu, vất vả, đến nỗi vương tôn, quý khách phải tránh xa.
Tôi tình cờ được gặp nàng nằm queo trong một tiệm công-yên, mặt võ, mình gầy, không còn nhìn ra Lucie hai mươi năm trước được nữa.
Hồi tưởng cuộc đời của nàng trong một thời oanh liệt mà ngày nay... thảm thay! Nhưng, mỗi năm đến chiều hôm 30 Tết, tôi không khỏi động lòng nhớ đến người ấy năm xưa!
Hoa Xuân
Lữ Thứ
(Báo Ánh Sáng Xuân Ất Mùi 1955)
Tôi gặp cô một buổi chiều xuân
Một buổi chiều nồng thắm ái ân.
Thế Lữ
Chiều hôm ấy, anh Hoàn Bích và tôi đi thăm mộ ông Phạm Hồng Thái ở Hoàng Hoa Cương về. Mưa phùn lấm tấm. Xuống ô tô buýt, chúng tôi còn phải đi chân một quãng đường mới đến khách sạn Lan Đình, nơi chúng tôi trọ. Loanh quanh thế nào, chúng tôi lạc lối. Mưa vẫn cứ rơi. Chúng tôi rủ nhau vào hiên của những hiệu buôn bên đường để chờ mưa tạnh.
Đang buồn vì ngày xuân mà hai chúng tôi còn lang bạt xứ người và ngậm ngùi vì cái cảm giác vừa qua: tiếc thương người anh hùng họ Phạm của nước Việt phải bỏ mình ở đất khách, thì có người thiếu nữ từ ngoài phố tất tả chạy vào đứng cạnh chúng tôi cũng để tránh mưa làm cho chúng tôi chú ý.
Thiếu nữ trẻ đẹp, vẻ ngây thơ. Nàng mặc chiếc áo tím màu hoa cà, ngoài khoác chiếc áo tơi nylon màu xanh lá cây.
Anh Hoàn Bích vốn tính vui vẻ, thích làm quen, ưa gợi chuyện trên bước đường phiêu lưu, vồ lấy cơ hội. Anh hỏi thăm thiếu nữ bằng tiếng Quảng Đông mà anh vừa học được từ lúc bước chân lên đất Tàu:
- Thưa cô, không biết từ đây về khách sạn Lan Đình cạnh Ái Quần lữ điếm phải đi lối nào cô nhỉ?
Người thiếu nữ đáp lại, cũng bằng tiếng Tàu:
– Thưa... đi lối này, lối này... Vừa nói, thiếu nữ mỉm cười đưa tay chỉ cho bạn tôi hướng của lối đi.
Bạn tôi mừng rỡ vì thấy thiếu nữ không lãnh đạm, nên hỏi dồn:
– Có xa không hở cô?
Giọng nói không Tàu chút nào và phải tìm nhớ từng tiếng một để chắp thành câu làm cho thiếu nữ tươi cười hỏi, và lần này hỏi bằng tiếng Việt, giọng Bắc:
– Hai ông là người Sài Gòn?
Bạn tôi ngớ ngẩn, trố đôi mắt tròn xoe, liếc nhìn tôi, rồi lại nhìn thiếu nữ, ấp úng đáp bằng tiếng Việt, giọng Sài Gòn:
– Dạ phải, chúng tôi là người Sài Gòn!
Rồi bạn tôi hỏi luôn:
– Cô không phải người Tàu sao? Trời ơi! Vậy mà chúng tôi cứ tưởng cô là người Tàu. Thế cô là người Bắc?
– Vâng, tôi là người Bắc…
...
Thế rồi câu hỏi qua, câu đáp lại, cái cảnh xứ lạ gặp người cùng nước khiến cho ba người chúng tôi trở nên thân mật ngay từ buổi chiều ấy đến ngày bạn tôi và tôi lìa đất Quảng Châu, mang theo trong cuộn phim của chiếc máy ảnh, hình ảnh của người thiếu nữ Việt Nam trôi dạt ở đất Tàu, và trong lòng, mẩu chuyện tâm tình của nàng kể:
“Nàng tên M..., họ H... quê ở Nam Định. Năm 1945 khi quân đội Tàu của tướng Lư Hán đến giải giới quân Nhật ở Bắc Việt, nàng bị một quan Tàu cưỡng bách bắt về làm vợ. Dưới cái áp lực của kẻ mạnh thời bấy giờ, nàng buộc lòng đánh liều theo số mệnh. Đến năm 1946, quan Tàu ấy về nước, mang nàng theo. Chừng đến quê hương chồng, nàng mới hay chồng nàng đã có vợ, có con. Thế là sau những ngày cơ cực sống trong cảnh đọa đày của người vợ lẽ, nàng quả quyết khăn gói ra đi. Từ Thượng Hải, xuống Hương Cảng, nàng lần dò về đến Quảng Châu. Hết tiền lộ phí và lúc bấy giờ ở Việt Nam đánh nhau ráo riết, nàng thấy chưa tiện hồi hương nên đành lưu lại đấy, tìm được việc làm “nữ chiêu đãi” ở hiệu giải khát Diamond to nhất của Quảng Đông để chờ cơ hội…”.
...
Nhưng nay đã tám chín năm qua rồi. Cuộc đời nàng ra sao? Đã về nước hay còn lận đận viễn phương?
Và nhân dịp xuân về, để kỷ niệm buổi chiều xuân gặp gỡ ấy, chúng tôi xin mạn phép phô bày ảnh nàng lên mặt báo để gửi một ít nhớ nhung của người giang hồ được về nước cho người giang hồ biết đâu còn lang bạt ở trời xa?”
Đêm 30 Tết thi-sĩ biến thành “du côn” vào bót ăn Tết
Bang Gia
(Giai phẩm Xuân Đời Mới Tết Ất Mùi 1955)
Hồi ấy cách đây 25 năm, ông Tản Đà viết “Đông Pháp Thời Báo” của ông Diệp Văn Kỳ ở Sài Gòn. Làm xong số Tết, báo phát hành rồi, ông Diệp phát cho Tòa soạn mỗi người một tháng lương tiêu Tết. Tản Đà cũng được hưởng ưu đãi ấy. Vậy mà có một hai hôm, ông đã cạn túi, không còn xu nhỏ. Tết đến sau lưng rồi. Nghĩa là đã đến cuối tháng Chạp. Tính sao bây giờ? Huống chi cái đức “nhậu nhẹt” của Tản Đà lại không thể bỏ được, nhứt là trong ba ngày Tết. Khổ một nỗi ba ngày nghỉ biết ai bán rượu thiếu cho ông men? Cái đó mới nguy!
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười.
Sợ Tết này, trời đỏ gay, đất lăn quay thì có, chớ nhà thơ chỉ còn nước nằm co mà mặt mày xanh lét.
Ông Diệp Văn Kỳ cảm thấy sự lúng túng của người cộng sự, bèn hỏi ra manh mối: Hết tiền rồi sao? Thì đấy thêm 5 đồng nữa để xài Tết. Cái tính rộng rãi của ông Diệp Văn Kỳ đã kéo được thi sĩ ra khỏi cái cảnh “cá cả nép vây, rồng thiêng cuốn khúc”.
Cất tờ giấy 5 đồng vào bóp rồi, Tản Đà ra tuốt bến xe “lô” mướn cái xe “Đờ-la-hay” [8] mui sập để thưởng thức mùi phú quý một phen.
Lần thứ nhứt, ông ngồi một mình trên xe hơi, vẻ bệ vệ như một ông chủ đồn điền. Ông cho xe chạy ra nhà bưu điện mua cái măng-đa giây thép 3 đồng, gởi cho ông Ngô Tất Tố ở Hà Nội, gọi là có chút quà Tết tặng bạn hàn vi. Còn 2 đồng, ông tính trả tiền xe hơi 1 đồng, còn lại 1 đồng ăn Tết cũng đủ.
Nhưng:
Rượu ngon phải có bạn hiền.
Tản Đà cho lịnh sốp-phơ [9] mở máy chạy vào Bà Chiểu là nơi ông Tùng Lâm đang ở hồi đó. Đón bạn Lưu Linh ra Sài Gòn vì ông Tùng Lâm là bạn hiền để hưởng thú rượu ngon và để cùng nhau nô đùa với Lý Thái Bạch trong ngày đầu năm mới.
Trên chiếc xe hơi từ Bà Chiểu ra Sài Gòn hai nhà thơ danh tiếng ngất ngưởng, hiên ngang coi trời đất là nhỏ.
Về đến nhà, Tản Đà trả tiền xe hết đúng 1 đồng. Đi mua chai rượu trắng hết hai cắc. Còn dư 8 cắc ông giao cho ông Tùng Lâm đi “rước” một con gà và một hũ Mai Quế Lộ cho có vẻ ăn Tết như ai và để cho hết trơn số tiền.
Ông Tùng Lâm lãnh “sứ mạng” đi mua đồ Tết. Tản Đà ở nhà rửa ly, khui chai rượu trắng ra chờ bạn. Tiếng pháo chiều 30 đã bắt đầu nổ, vang tai nhức óc. Những tiếng pháo loan báo cho biết rằng chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa thì muôn vàn sầu não lo buồn của một năm cũ sẽ lui vào cái hố đen của dĩ vãng, để cho chúa Xuân vui tưng bừng xuất hiện.
Tản Đà ngồi xếp chân trên bộ ván, lắc lư đầu, ngâm vội mấy câu thơ Đường để chờ bạn hiền đem “đồ nhắm rượu” về, mà lạ không? Càng mong càng vắng tăm hơi. Ông Tùng Lâm ra đi đã lâu mà chưa thấy về. Ông đâu có phải là con nít mà lạc đường. Nhìn lên đồng hồ treo trên tường thì đã quá 9 giờ tối. Tiếng pháo nổ càng làm cho đồ đệ Lưu Linh ruột gan như bào như đốt. Tản Đà muốn qua thì giờ, phải rót rượu ra nhấp giọng đỡ một vài ly.
Những ly rượu suông mà không có đồ nhắm càng suông tính suông tình hơn vì thiếu người đối ẩm. Tuy vậy từ ly nọ đến ly kia cũng đủ cho nhà thơ phải say lúy túy. Ông lăn ra ngủ một giấc sau khi đã cạn gần hết chai rượu.
Ông có dè đâu bạn hiền của ông lúc ấy cũng uống rượu nhưng uống trong bót cảnh sát.
Ông Tùng Lâm ra tiệm mua xong hũ Mai Quế Lộ và con gà đem về, nửa đường thì gặp đám “bầu cua cá cọp” đang đánh lộn. “Chủ sòng” và “con bạc” tố nhau sao đó mà phải dùng đến võ lực đối phó nhau. Nhà thơ Tùng Lâm vốn ưa tĩnh, bây giờ lại có máu động, nên thấy cảnh ẩu đả cũng vui mắt đứng lại coi. Tiết xuân kích thích lòng người, cũng có lẽ.
Trong lúc Tùng Lâm chăm chú xem trận giặc như khán giả say võ sĩ trên võ đài, thì biện và lính ập tới: “A lê! Về bót”. Họ thộp đầu, nắm cổ 4, 5 “trự”. Rủi thay trong số lại có cả nhà thơ Tùng Lâm.
– Tôi đâu có đánh lộn, thầy. Tôi đi mua rượu và gà về nhà ăn Tết.
Anh lính nhìn bộ quần áo lem luốc của ông Tùng Lâm (bộ quần áo ngủ, vì ông đã cởi áo dài đen bỏ ở nhà). Anh đề quyết ông là tay du thủ du thực, rồi hỏi:
– Chú mầy không đánh lộn à? Thế giấy thuế thân đâu? Đưa coi!
Cái mới nguy nữa. Hỏi giấy thuế thân của Tùng Lâm, cũng như hỏi thuế thân của Thứ Khanh, chẳng khác nào như hỏi ngôi sao trên trời. Cả hai thi sĩ đều không đóng thuế.
– Không có giấy thân! Đồ du côn! Đồ anh chị!
Còn lý luận nào hùng biện bằng nữa.
Thế là nhà nho chỉ biết ngâm thơ vịnh phú, bỗng thành du côn, anh chị, được về bót giam tạm, chờ “hạ hồi phân giải”.
Tiếng pháo chào xuân nổ vang lừng bốn góc thành phố.
Ông Tùng Lâm ngồi trong phòng giam ở bót cảnh sát thấy bụng đói như cào. Ông bèn xé thịt gà ra ăn. Thịt gà ngon quá, lại sẵn hũ rượu Mai Quế Lộ nữa, sao ta chẳng uống vài hớp để mừng xuân. Ông bèn đập miệng hũ, không có ly thì cứ nguyên hũ mà dốc cả vào miệng.
Chẳng mấy lúc mà con gà chỉ còn là đống xương và hũ rượu chỉ còn có vỏ. Xong rồi ông Tùng Lâm nằm lăn ra ngủ, quên cả tiếng pháo giao thừa nổ đì đạch bên ngoài.
Sáng hôm sau, người biện tới mở cửa “tha Tào”. Nhưng ông Tùng Lâm còn nằm chòng queo vì bữa tiệc Tất niên đêm trước. Biện phải đánh thức ông dậy. Ông ra về... xông đất năm mới cho ông bạn đồng tâm: thi sĩ Tản Đà còn nằm chòng queo ngủ. Ông phải lay bạn thức dậy.
Bốn mắt nhìn nhau, mừng mừng tủi tủi. Tản Đà xem lại chai rượu trắng của mình không còn đến một ly để chúc Tết cho bạn. Ông Tùng Lâm cũng không còn đến cái xương gà nữa, song ông có món quà lì xì năm mới.
Đây có 4 câu thơ làm trong bót, đọc bác nghe:
Cao hứng vì yêu bác Tản Đà
Một chai Quế Lộ, một con gà
Suốt đêm trừ tịch nằm trong bót
Nhớ lại buồn cười lúc tỉnh ra.
Chú thích:
[6] Ðờ vi: (tiếng Pháp devis) bản dự toán.
[7] Cặp rằng: ông chủ, người quản lý.
[8] Xe Ðờ-la-hay: xe hiệu De La Haye.
[9] Sốp-phơ: (tiếng Pháp chauffeur) người lái xe.
Tâm sự một nhà văn ký giả
Sơn Nam
(Giai phẩm Xuân Bách Khoa Tết Ất Tỵ 1965)
Sở trường của tôi là viết truyện ngắn từ bảy tám năm qua, tôi hi vọng dùng công việc sáng tác truyện ngắn là một cái nghề để kiếm cơm; như vậy, tôi vui sướng và được những tự do hơn các bạn làm tư chức, giáo viên. Tôi viết sẵn từng loạt truyện ngắn (viết theo đề tài do tôi chọn lựa) đem đến các tòa soạn báo hằng ngày để “bán bài”, nghĩa là đăng báo bài nào thì lãnh tiền bài nấy, không đăng thì mất luôn bản thảo. Người bán bài phải có nhiệm vụ tới lui thường xuyên các tòa soạn để ngoại giao, dò xem tình hình để tiên đoán truyện ngắn của mình chừng bao lâu nữa sẽ đăng. Khổ cực quá! Nói chung, hễ viết mười truyện, được đăng ba truyện còn bảy truyện kia thì để đó chờ xem.
Mấy anh bạn phụ trách trang trong thường tỏ bày thiện cảm, an ủi tôi bằng một câu đại khái:
– Bài của anh thì hay nhưng ngặt vì đăng không hợp. Nên chọn lựa cốt truyện, viết hấp dẫn hơn.
– Hấp dẫn là làm sao?
– Là ly kỳ, gay cấn.
– Ly kỳ gay cấn nghĩa là sao?
– Là… độc giả ngửi được.
– Độc giả thích ngửi mùi gì?
Mấy anh bạn phụ trách trang trong lại trợn mắt:
– Bộ anh muốn ăn cắp bí mật nhà nghề sao chớ. Trong làng báo, ai đánh hơi giỏi hơn, đoán trúng nhu cầu của độc giả là người có cơ làm giàu. Phải cung cấp nhu cầu hiện tại và chuẩn bị trong tương lai, tạo thành một thứ thời trang; người sành điệu phải cầm trong tay tờ báo đó, chớ không phải tờ báo khác. Sống như tiệm phở, tiệm uốn tóc, tiệm may áo. Tuy hai tiệm giống nhau nhưng khách hàng thích ra nơi nào hợp thời trang nhứt.
Tôi lại hỏi:
- Theo ý các anh, hiện giờ và trong vài tháng tới, độc giả thích những truyện ngắn thuộc về loại gì?
- Nếu biết trước, tôi sẽ trở thành triệu phú. Chẳng có ai biết trước cả. Đó là việc cầu may. Mỗi ông chủ báo đều hưng thịnh hoặc suy vong tùy theo số… tử vi của họ.
Kể từ đó, qua những chập chững trên đường sanh kế, tôi bắt đầu tìm tòi suy nghĩ, thấy rằng báo chí ở Sài Gòn cũng giống như báo chí Âu Mỹ.
Hồi thời báo Đuốc Nhà Nam, Nông Cổ Mín Đàm, bài báo được viết kỹ lưỡng như bài khảo cứu, in thành sách ngày nay. Độc giả thời xưa rất ít, gồm giới thượng lưu hoặc trung lưu.
Ngày nay khác xa.
Nhựt báo là món ăn tinh thần của toàn dân, mọi giới, mọi ngành như lời nêu trên báo. Trong thời đại dân chủ, máy in, kỹ nghệ giấy, phương tiện giao thông phát triển, tờ báo đã tới tay giới bình dân, từ thành thị tới thôn quê. Giới bình dân tiêu thụ báo rất mạnh. Hễ bám được giới bình dân, chủ báo mỗi ngày mỗi thâu tiền lời.
- Giới bình dân gồm những ai?
Xin trả lời: Gồm nhiều từng lớp mà hơn phân nửa số người bình dân là đàn bà, con gái. Thời xưa, báo chí luôn cả văn nghệ đều sản xuất nhắm vào cảm quan của bọn đàn ông. Bây giờ, báo chí, văn nghệ đã biết nhắm vào đối tượng đàn bà, con gái và bọn trẻ vị thành niên.
Đó là một sự tiến bộ, tại sao có người lại bi quan thế? Bi quan vì ưu thời mẫn thế hay vì ganh tị với ông chủ báo bất tài nhưng giàu quá mau hơn mình?
Ngày nay, chẳng riêng gì bên Âu Mỹ, chúng ta sống trong thời đại phổ biến mà báo chí, phim ảnh, máy thâu thanh đóng vai trò quan trọng. Đọc báo, xem xi-nê, nghe radio chẳng còn là ưu quyền của một số người thành thị như hồi ba chục năm về trước. Các phương tiện nói trên có tác dụng mạnh, lẽ dĩ nhiên chủ báo, chủ hãng phim và ban giám đốc đài phát thanh đều muốn thu hút khán giả, độc giả, càng nhiều càng tốt. Sự hiểu biết của quần chúng ngày càng rộng (tuy không sâu), trình độ thưởng thức nghệ thuật ngày càng đồng đều nhau (tuy không cao).
Đàn bà, con gái đã ra đường, tham gia sinh hoạt kinh tế, xã hội. Họ đòi được giải phóng khỏi sự áp bức của bọn đàn ông nhưng lần hồi họ thất vọng âm thầm vì đi làm ngày hai buổi với đồng lương hơi thấp thật là cực nhọc hơn nấu bếp giữ con. Họ muốn giải trí, muốn tìm một chân trời hạnh phúc mơ hồ, nửa hư nửa thực! Hoàng hậu Saroya, công chúa Magaret, cô đào Thanh Nga, Tây Thi, Hoa Mộc Lan… đã trở thành những người bạn quen thuộc. Trong khi đó, đa số bọn đàn ông cảm thấy thất bại trước trào lưu xuống đường của phái yếu! Họ dùng uy quyền, tiền bạc để nhử phái yếu, nhưng hỡi ôi, rốt cuộc họ bị phái yếu làm khổ, thợ câu đã trở thành con cá và con cá lại hiên ngang lôi kéo ông thợ câu xuống nước.
Đối với cuộc sống, bọn đàn ông tỏ ra thái độ hùng hổ, dùng lý luận để phân tách, cãi vã. Phái yếu thì giữ thái độ dường như hợp lý hơn: xây dựng hạnh phúc, hưởng hạnh phúc… Viễn ảnh một cuộc chiến tranh nguyên tử, sự phi lý, sự cô độc… đã chứng minh rằng bọn đàn ông dường như thất bại. Nhiều người đàn ông đã ngoan ngoãn ôm ấp cái nhân sinh quan của đàn bà để mà sống. Bởi vậy nhiều bài báo, nhiều tiểu thuyết nhằm vào nữ độc giả nhưng rất ăn khách đối với nam độc giả.
Sự phát triển của khoa học và võ khí nguyên tử đã khôi phục ngành tiểu thuyết dự tưởng, tiểu thuyết rùng rợn toát mồ hôi lạnh. Trong nhựt báo ở nước ta, hai loại tiểu thuyết này vẫn có mặt, mang màu sắc Á Đông, đó là loại kiếm hiệp đánh chưởng và chuyện ma quỷ. Kiếm hiệp đánh chưởng đưa độc giả vào khung cảnh trung cổ, những nhân vật trung cổ dùng khí giới tự động, điện tử của tương lai.
Một điều đáng chú ý là muốn gây cảm giác rùng rợn, những văn sĩ Tây phương dùng phương pháp phân tích tâm hồn con người: Nào vô thức, tiềm thức, bản năng; đối với độc giả bình dân ở xứ ta phương pháp phân tách ấy không có hiệu quả. Họ thích đọc những chuyện luân hồi quả báo, oan gia nghiệp chướng, dính dấp tới số mạng, tiền định hoặc những cổ tục.
Trong thời đại giao thông dễ dàng nhanh chóng (nào xe hơi, máy bay, máy radio) đã xảy ra hiện tượng con người cô độc, ít tha thiết đến vấn đề chánh trị vì chánh trị được xem như một ngành chuyên môn với kỹ thuật riêng. Mỗi người sống theo kiểu đóng khung trong phạm vi nghề nghiệp của mình. Cô gái gánh hồ, khiêng gạch thì cần biết đến anh cặp rằng, người phát tiền hoặc làm thầu khoán, ai làm bộ trưởng bộ Kiến thiết, chủ trương của bộ Kiến thiết như thế nào, cô gái chẳng cần biết. Đừng nói chuyện xa vời, cứ nhìn vào làng văn nghệ, mà xem mỗi ngành đều biến hóa, người viết văn chưa thông cảm hoặc chưa hiểu sơ qua sanh kế, hoặc thắc mắc về đường lối của người phổ nhạc, người họa sĩ.
Thôi thì cơm ai nấy ăn, nhà ai nấy ở. Ngày Chúa nhật, ta đi thăm viếng quanh quẩn đôi ba người bạn thân. Trưa hoặc chiều, ta về nhà mà ăn cơm, nghỉ dưỡng sức, trong khung cảnh gia đình, với sách, nhựt báo, tuần báo, máy thu thanh. Ta vui sống trong đời tư với cái bàn, cái ghế, chiếc xe gắn máy. Nếu cần tìm hiểu những ngành khác, ta cứ tìm những loại sách bách khoa phổ thông. Nếu muốn thông cảm với dân tộc, với nhân loại, ta nghe tin tức, nghe nhạc ngoại quốc hoặc tranh ảnh…
Đời ta lên voi hay xuống chó là do số tử vi. Nhiều khi bạn bè ta thất nghiệp nhưng ta có thể kiếm tiền khá nhiều, hoặc ngược lại.
Có người đọc báo hằng ngày để tìm hiểu sinh hoạt văn nghệ căn cứ vào truyện ngắn, tiểu thuyết đăng từng kỳ để kết luận:
– Văn nghệ Việt Nam đang xuống dốc!
Những bạn ấy muốn hoài niệm thời kỳ báo Phong Hóa, Ngày Nay chăng? Không thể được.
Muốn hiểu văn nghệ đã lên hay xuống dốc, ta nên tìm sách hoặc tạp chí. Tôi tưởng rằng bên Pháp, bên Mỹ, tình hình nhựt báo cũng giống như ở nước ta. Điều khổ tâm nhất là thỉnh thoảng lại nghe vài bạn phàn nàn:
– Bà X, cô Y, viết tiểu thuyết, truyện ngắn thuộc hàng hạ cấp, dành cho con Sen. Thế mà dám xưng là nữ sĩ. Bên Pháp, báo chí… tiến bộ lắm.
Sự thật như thế nào? Nữ sĩ nói trên đã làm cái công việc phóng tác, chọn những chuyện trong các tuần san Pháp, thêm thắt vài chi tiết, sửa đổi phần kết luận cho có hậu hơn.
Tại sao một “bà đầm” cầm báo Marie-Claire, nằm trước biệt thự lại có vẻ sang trọng? Con Sen, cô gái gánh nước ở xứ ta đã đọc một chuyện ngắn phóng tác của báo Marie-Claire, chuyện phóng tác lại lành mạnh hơn nguyên bản.
Báo hàng ngày là một ngành kinh doanh, cần bỏ ra vốn to, cần thâu lợi (ở đây tôi không đề cập đến trường hợp những người làm báo vì mục đích chánh trị, cần ra báo cho có mặt trong giai đoạn nào đó).
Nếu làm báo hàng ngày theo đường lối khô khan mà bán chạy thì các ông chủ báo đã làm rồi. Nhiều người chủ trương làm báo đứng đắn khô khan, bỏ những mục nhảm nhí, phục vụ văn nghệ thuần túy… Nhưng báo sống được chẳng bao lâu! Chủ báo ấy đâm thất vọng, xoay qua làm báo… Thương mãi đi từ thái cực này đến thái cực khác: cũng diễm huyền, cũng ướt át, cũng kiếm hiệp, tử vi. Rốt cuộc, báo lỗ vốn nặng.
Độc giả báo hàng ngày đâu phải là hạng người dễ câu; “ướt át, đánh chưởng” ngay đến cả tử vi là những nghệ thuật riêng đâu phải viết bừa bãi ra là thiên hạ chọn đọc.
Báo hàng ngày ở xứ ta khó vượt qua báo chí Âu Mỹ về hình thức cũng như về nội dung. Cách thức trình bày kỹ thuật ấn loát của ta đều mô phỏng. Các ký giả Việt Nam đã nghiên cứu, theo dõi báo chí Tây Phương, rút những kinh nghiệm để kịp thời cải tiến. Nhưng số độc giả ở xứ ta, tiền bạc của chủ báo đều có giới hạn. Tâm lý của độc giả ở xứ ta vẫn theo đuôi độc giả Âu Mỹ. Dễ hiểu quá: Chúng ta bước vào cuộc sống trưởng giả sau người Âu Mỹ. Chúng ta chưa có vô tuyến truyền hình. Rồi đây, báo hằng ngày ở nước ta sẽ đến giai đoạn có thêm mục mốt quần áo, thêm nhiều trương đăng quảng cáo.
Tóm lại, tình trạng chưa đến nỗi bi quan. Đó là kết luận tạm thời do tôi nêu ra. Lẽ dĩ nhiên, tôi đã chủ quan. Tôi mang ơn báo hàng ngày. Nó giúp cho tôi vài công ăn việc làm. Và bạn trẻ nào yêu văn nghệ (mà chưa có huê lợi nào khác) thì hãy theo “sách lược” bán văn nuôi miệng như sau:
– Mỗi tờ nhựt báo đều có công thức riêng. Nhập gia tùy tục đừng tự ái lặt vặt. Hãy xem mình như người kép hát, ai biểu ca bản nào thì ca bản nấy.
– Đừng mong chiếm đoạt những mục dễ ăn. Đã có những người khác chiếm trước rồi. Viết tiểu thuyết đăng báo đâu phải chuyện dễ. Viết thì ai cũng viết được, nhưng độc giả chịu theo dõi hay không? Những mục “Hộp thơ”, “Giải đáp tâm sự” đã lọt vào những cây bút thân cận của chủ báo, hoặc chủ bút.
– Mỗi chuyện phải có cốt chuyện đầu đuôi mạch lạc, tránh lối phân tích hiện sinh. Những chuyện gọi là “cao” nên đăng ở tạp chí hoặc in thành sách cho xong.
– Nên gia nhập vào một “ê-kíp” để dễ bề làm ăn. Anh em đi đâu cũng kéo mình theo. Nếu mình thất nghiệp, những bạn thân ấy sẽ nhớ tới.
– Viết bài ít tốn thời giờ hơn là… chờ lãnh tiền. Phải theo dõi tình hình lương phạn, ngày giờ trả tiền, cách thức mượn tiền.
Nhưng điều quan trọng nhứt vẫn là dành riêng thời giờ để sáng tác – những sáng tác mà mình đắc ý nhứt. Nhiều bạn trẻ viết truyện ngắn, làm thơ rất khá nhưng sau khi viết báo hằng ngày thì lần hồi quên chuyện sáng tác. Thế là hỏng! Phải chủ động, lúc vùi đầu vào sanh kế. Nếu nổi danh thì đừng chủ quan cho rằng: “Tờ báo ấy bán mỗi ngày 30 ngàn số, tức là ta đây có 30 ngàn người ái mộ”. Lúc nào làm ra tiền, nên ăn xài lai rai, đừng trụy lạc làm bạn với nàng tiên nâu mà nguy hại về sau. Nếu thất nghiệp, nên kiên nhẫn chạy chọt, chờ đôi ba tháng là sẽ gặp cơ hội. “Trong trần ai, ai dễ biết ai? Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế thế thời phải thế!”. Báo hằng ngày đã tạo ra nhiều nhà văn, đồng thời cũng giết chết sự nghiệp tinh thần của nhiều kẻ có khiếu viết văn. Sau năm bảy năm viết báo, ta còn lại bài nào hay? Thảm hại cho những ai chỉ còn hai bàn tay trắng, ương ương gàn gàn, văn sĩ không ra văn sĩ, ký giả không ra ký giả với một bầy con đông, một bà vợ bé và một thú tiêu khiển đi mây về khói.
Người đẹp xứ Đồng Nai qua các thời đại
Tô Mỹ Hạnh
(Giai phẩm Xuân Tin Sớm Tết Bính Ngọ 1966)
Các sáng tác phẩm miền Nam thời cụ Đồ Chiểu không nói rõ mỹ nhơn đất Đồng Nai ra sao cả, thành thử ta cũng khó lòng mà hình dung ra họ.
Chỉ biết là họ đeo nữ trang quá nhiều, đeo đầy cổ, đầy ngực, đầy cườm tay, đầy cả cườm chơn nữa, qua mấy bài ca dao dưới đây mà có người còn nhớ.
Văn thơ truyền khẩu thiệt là hữu ích về phương diện khảo cứu đời sống của nhân dân thời trước.
Và đây, một thiếu nữ mười ba tuổi, con nhà giàu, người có thật, có tên có họ hẳn hòi, bà mẹ cũng được người làm ca dao biết rõ, tóm lại đây là một bài ca dao có tánh cách địa phương triệt để, nói đến một gia đình trong một xóm nhỏ ở miền Nam.
Đây là một cô gái đẹp miền Nam, lối năm 1880:
Có người lịch sự trong trời đất/ Tuổi mới mười ba/ Cha mẹ đặt là/ Họ Dương tên Thích/ Ta xem hình tích,/ Diện mạo tợ tiên/ Cái miệng có duyên/ Má núm đồng tiền,/ Dợn xây bốn cái/ Trăm người đều ái/ Muôn kẻ ước ao/ Lịch sự làm sao/ Duyên này cha chả!/ Cha mẹ đành gả/ Mấy trăm mấy ngàn/ Gả cho những chàng/ Hạp dươn cầm sắt,/ Để coi duyên nợ/ Cô ấy về ai,/ Con trai ngày ngày/ Luôn luôn ao ước/ Đứa nào có phước/ Được chữ Ngưu Lang/ Sức đáng vợ quan/ Cùng là công nữ/ Cha mẹ gìn giữ/ Cửa đóng then gài/ Trâm giắt lược cài/ Quần hồng áo tím/ Nhiễu điều may yếm/ Thợ bắt bông thêu/ Bông vàng bông đỏ/ Năm đôi vòng nhỏ/ Thợ chạm Tứ linh/ Cà rá trong mình/ Biết bao nhiêu bộ!/ Hoa tai kiềng cổ/ Dưới chân đi giày/ Bắt bông lưỡng diện/ Cô cười mỉm miệng/ Cũng đáng một trăm/ Khá khen thím Năm/ Khéo sanh con nhỏ/ Má hồng ửng đỏ/ Hình tích vuông tròn/ Dáng bộ quá ngon/ Ai ai cũng muốn.
Và đây, một cô gái đẹp khác nữa, cũng cứ qua ca dao. Cô này có lẽ là một gái giang hồ, chớ không phải gái nhà lành như cô trước, thứ gái giang hồ làm thiếp cho một công tử nào và cứ đòi hỏi này nọ mãi, và còn cuốn gói bỏ rơi cậu công tử là khác:
Anh thương em/ Mua cho em/ Cái quần nhiễu đỏ/ Cái áo màu nu/ Một đầu tóc mượn/ Một lượng kiềng vàng/ Hột xoàn cà rá/ Nón lá lông chiên/ Một trăm chuỗi huyền/ Một thiên chuỗi hổ/ Một bộ rổ may/ Một đôi giày nhung/ Thêu bươm bướm bạc/ Bây giờ thất lạc/ Em đành bỏ anh.
Đó là những hạng gái có tiền, tiểu tư sản hay kỹ nữ thì không rõ lắm.
Còn nông dân mà đẹp thì giản dị hơn. Đây là một ông chồng khuyên vợ:
Bậu có thương qua thì:/ Khăn bà ba đừng đội/ Phường hát bội đừng mê/ Bài cắc tê đừng mắc/ Bài tứ sắc đừng ham.
Ngày nay, ta biết áo bà ba mà không hề thấy khăn bà ba.
Bà ba là tên xưa của dân Mã Lai, họ dệt một thứ khăn màu sặc sỡ mà nông dân ta cho là đĩ thỏa, cấm phụ nữ đội, nhưng phụ nữ bình dân lại rất mê loại khăn ấy. Âu cũng là một cách làm dáng y như ngày nay phụ nữ bình dân mặc áo bà ba ny lon rằn ri xanh đỏ vậy.
Và đây y phục của một cô gái bình dân đẹp:
Áo vá vai, vợ ai chẳng biết,
Áo vá quàng, chí quyết vợ anh.
Đây là một bài hát ghẹo, trai gái ghẹo nhau trong đám đông.
Áo vá quàng, theo cái nghĩa nguyên thủy của nó là áo vá sơ sịa.
Nhưng phụ nữ bình dân miền Nam vào cuối thế kỷ trước lại lăng xê ra cái mốt áo vá quàng. Áo mới may xong, họ cắt bỏ thân trên thay vào đó bằng một thân khác, may bằng vải khác loại, khác màu.
Và âu cũng là một lối làm dáng của người nghèo, họ chỉ được phép mặc đen hay mặc những màu u tối buồn bực. Áo vá quàng của họ cũng chỉ hai màu u tối mà thôi. Nhưng hai màu, vẫn linh hoạt hơn là một màu.
Áo vá rất công phu, chớ không còn sơ sịa, và đó cũng là một công trình mỹ thuật của phụ nữ bình dân miền Nam vào cuối thế kỷ trước.
Về sắc đẹp của phụ nữ quý phái miền Nam vào cuối thế kỷ trước, ta có tài liệu chính xác, mà là tài liệu quốc tế nữa, chớ không riêng gì ở Việt Nam đâu.
Cô Ba đẹp tuyệt trần, đẹp theo thuở ấy, cố nhiên, và chơn dung của cô được in hình lên con tem gởi thơ đầu tiên ở xứ nầy.
Quốc tế là ở chỗ đó, vì hiện nay các tay sưu tầm tem trên thế giới đều có tem cô Ba, mà hay còn chưa có người được thấy lần nào.
Cô Ba lại còn nổi danh thế giới vì một việc khác nữa. Một hãng xà bông ở Mạt xây (Pháp) đã xin phép dùng hình và tên của cô Ba để làm nhãn hiện cho một loại xà bông thơm, xà bông nầy không phải chỉ bán riêng qua Đông Dương mà còn bán ở khắp các thuộc địa khác của Pháp trên thế giới.
Ai không có diễm phúc thấy con tem cô Ba xin xem hình trong bài thì rõ. Đó là hình bìa của một ấn bản truyện Kiều ở Saigon vào đầu thế kỷ.
Ông họa sĩ vẽ cô Kiều ở cái hình bìa ấy rất là ngây ngô, nhưng đúng y sự thật: đó là hình ảnh rất trung thành của một thiếu phụ miền Nam cách đây bảy tám mươi năm.
Cô Ba cũng giống y hệt như thế.
Lẽ cố nhiên là chơn dung của cô Ba, trong con cò gởi thơ, chỉ chụp bản thân mà thôi, tuy nhiên cô Ba ở đó và ở đây đều trình bày chiều nghiêng của mặt, cho ta thấy rõ cái búi tóc của cô, búi theo thời bấy giờ, gọi là lối búi “ba vòng một ngọn có thả bánh lái”.
Từ nãy giờ ta thấy quan niệm về sắc đẹp phụ nữ của miền Nam thời trước chỉ quanh quẩn ở y phục nữ trang và mái tóc. Qua ca dao và hình ảnh thì như vậy. Còn qua miệng người?
Chúng tôi còn nhớ ông nội chúng tôi, năm nay đã gần chín mươi rồi mà hôm nào vui miệng ông kể rằng thuở ông đi coi mắt bà nội chúng tôi, ông rất vừa ý cái lối đánh đồng xa dịu nhỉu của bà.
Vậy đánh đồng xa (tức để cho hai cánh tay đánh đồng đưa tự nhiên lúc đi) là một yếu tố đẹp.
Đó là trong thế hệ của ông nội chúng tôi.
Đến thế hệ của thân phụ chúng tôi thì cái đẹp đòi hỏi thêm một yếu tố nữa. Hôm nào vui miệng, thân phụ tôi ca một bài Hành vân có lẽ đã có sẵn hồi đầu thế kỷ. Thân phụ tôi lớn lên thì bài Hành vân này đã bắt đầu “xưa” rồi.
Là cô đội cái khăn bông hường
Xúc động cái lòng tôi thương
Yếu tố mới ấy là cái khăn đội đầu, nhưng đó là khăn của đầu thế kỷ, khăn vuông xếp lại thành ba góc, bằng lụa Cachemire, màu hường lợt.
Vài mươi năm sau đó, đối với người đẹp của xứ Đồng Nai cái khăn vẫn là yếu tố đẹp, nhưng nó được hiện đại hóa khác đi.
Thân phụ chúng tôi có kể một tai nạn suýt chết người xảy ra trong làng người, thuở người còn trẻ thơ.
Số là trong làng có một cậu công tử ăn chơi “vàng trời”. Cậu công tử có một chiếc xe Ford, kiểu thời đó, nghĩa là bánh xe không có đĩa như bây giờ mà có căm.
Một hôm cậu công tử rước một kỹ nữ danh tiếng ở Sài Gòn về làng quê nghỉ mát. Người kỹ nữ ấy đội khăn “sạt” (écharpe) vì khăn bông hường đã hết mốt rồi. Khăn sạt bằng vải voan, đội đầu rồi quấn cổ, rồi để thòng xuống dưới gót.
Ô tô thuở ấy toàn mui trần. Người kỹ nữ ấy về tới làng, dựa sông Đồng Nai, gió nhiều quá thổi cái đuôi của khăn sạt của cô bay ra ngoài. Đuôi khăn càn trên mặt đường rồi kẹt vào căm xe. Xe chạy, cuốn đuôi khăn lại và thắt cổ người kỹ nữ ấy. Nhưng người công tử hay kịp, kêu thắng xe lại gấp, nên người ấy thoát chết.
Câu chuyện người kỹ nữ không ăn nhằm gì với bài này, nhưng nó chứng tỏ được người đẹp thuở thân phụ tôi lên bảy, làm đỏm bằng khăn sạt.
Tới đây ta vẫn chưa biết mặt mũi người đẹp Đồng Nai ra sao.
Sách vở miền Bắc xưa, còn nói đến “gương mặt trái xoan”, “đôi mắt bồ câu”, “hàm răng hột na”, “cái mũi dọc dừa”. Ở đây thì ta mù tịt.
Tuy nhiên, đọc kỹ mấy câu ca dao trên kia, ta được biết rằng người đẹp Đồng Nai gò má phải núm (lúm) đồng tiền.
Cái cô bé mười ba, họ Dương tên Thích hơn người đẹp thường vì người đẹp thường má chỉ núm có hai đồng tiền còn cô thì má “dợn xây” đến bốn cái.
Từ năm 1920 mãi tới năm 1935, phụ nữ miền Nam được điển hình bằng người có ảnh chụp trong bài này.
Họ bớt đeo nữ trang đầy mình, nhưng áo vẫn rộng thùng thình như xưa.
Ấy, trước đó, cái đẹp là ở cả cái góc gương mặt, ở cả cái bề dài của tóc, và ở cả nữ trang, còn vóc dáng, y phục không đáng kể.
Năm 1935, kiểu áo Cát Tường do báo Phong Hóa ở Hà Nội lăng xê được miền Nam hoan nghinh ngay. Tuy nhiên, họ chỉ hoan nghinh lối chít eo mà thôi, nhứt là ráp, chớ những chi tiết rườm rà khác không được ai theo.
Rất lạ là áo tay ráp đẹp hơn áo tay thường, nhưng phụ nữ ngày nay lại bỏ hẳn tay ráp.
Từ ấy những nay, áo có thay đổi nhưng chỉ thay đổi ở chi tiết vụn vặt, khi dài khi ngắn, khi bâu cao khi bâu thấp, khi hở cổ khi cổ kín, nhưng đường nét lớn vẫn là theo lối Cát Tường, nghĩa là ôm sát thân thể.
Có thể bảo rằng áo phụ nữ ta từ 1935 tới 1956 là áo Cát Tường. Họa sĩ Cát Tường đã làm chúa được 30 năm rồi.
Ta có thể nhờ khoa nhơn chủng mà vẽ ra chơn dung tổng quát của người đẹp Đồng Nai thuở ấy để biết họ ra sao, mà có thể cả đến bây giờ họ cũng mang dấu vết cũ.
Thường thì những người tiên phong đi khai hoang đất mới, như người Huê Kỳ chẳng hạn, đều là những người nghèo khổ, và rất xấu xí. Cuộc khai hoang khó nhọc và nguy hiểm càng làm cho họ thô hơn. Con cháu họ cũng thế, tuy rất vạm vỡ, nở nang, nhưng không nhã lịch (không élégant). Phải qua ít lắm là hai mươi thế hệ người, thời gian mới mài dũa thân thể họ cho hết thô.
Người Huê Kỳ thô hơn người Âu châu, thì ta cũng kém élégant hơn người miền Bắc. Ta sẽ nhã lịch y như họ, hơn họ nữa, nhưng chưa đến lúc.
Ngày nay thì khuynh hướng thống nhứt và đại đồng đã lấn mạnh địa phương tính. Về trang phục, người Nam, người Trung, người Bắc ở các thành phố giống hệt nhau. Đó là sự tan rã của sắc thái địa phương. Sắc thái quốc gia cũng đang lâm nguy. Hiện nay trong một trăm cô gái tiểu tư sản ở thành phố, có đến 80 cô mặc đầm.
Độ mười năm nữa, ta không còn nói đến người Đồng Nai được nữa rồi. Chỉ sẽ có người Việt Nam mà thôi.
* Ghi chú của báo Tin Sớm: Cô Tô Mỹ Hạnh là giáo sư Cử nhơn Văn khoa (Văn minh Việt Nam), chuyên nghiên cứu phong tục các dân tộc Ðông Nam Á.
Con chó xù Pékinois và nhà văn Lê Văn Trương
Hồi ký trào lộng của Trần Đồng Vọng
(Giai phẩm Xuân Tự Do Tết Kỷ Dậu 1969)
Tôi còn nhớ Tết Nguyên Đán năm ấy, một mùa Xuân đã xa xôi lắm, một mùa hoa gấm thanh bình của kinh thành Thăng Long khi xưa… có hàng liễu rủ bên hồ Hoàn Kiếm, có tháp Rùa soi bóng nước xanh lơ, có sương mù bao phủ như mảnh gương nhòa trên nền trời Hà Nội, có những bóng dáng nữ thần tha thướt, in dấu hài trên vỉa hè phố Hàng Ngang, Hàng Đào của đất thần kinh 36 phố phường, có bánh cốm Nguyên Ninh, bưởi Phủ Đoan và cam Bố Hạ, có đàn cò trắng bay phân vân về phương trời xa tít, có hàng cau gầy chi chít của hương đồng gió nội, có bài hát ru em của Nguyễn Bính, có áng thơ tình ướt át của Jean-Leiba. Chính là giai đoạn nền phong kiến cực thịnh của nhà nước bảo hộ Pháp đè nặng lên dải đất chữ “S” của chúng ta, của quê hương Việt Nam yêu dấu…
Tết năm ấy nhà văn Lê Văn Trương nghèo lắm!
Nghèo đến độ không có lấy một manh áo mới đón Xuân, nhà văn vẫn phải mặc lỳ chiếc áo tự thu tàn năm trước! Nhưng anh vẫn hách lắm, vẫn nổi tiếng trong văn giới là người xoay tiền tài ba nhất.
Anh vẫn xứng danh là Mạnh Thường Quân văn nghệ, đã từng tận tình giúp đỡ anh em những khi cơn đen vận túng, bị bà cả “Đọi” đến thăm nhà, đến nước phải treo niêu!
Năm nào cũng vậy, cứ đến dịp Tết là nhà văn Lê Văn Trương hết nhẵn tiền, mà bệnh hết tiền thì rất ư là hay lây, lây sang cả mọi anh em khác, chả cứ riêng gì một anh Lê Văn Trương!
Nhưng có cái khổ là: căn bệnh nan y tái phát cứ nhè lúc anh nhà văn họ Lê nhẵn “trơ thần cụ” thì các anh em lại vác mặt đến thăm anh Lê Văn Trương để xin hành khất!
Đã thành cái lệ truyền kiếp, anh Trương sẵn sàng cưu mang giới văn nghệ đói rách, chẳng bao giờ từ chối một ai, khi đã tìm đến vấn an anh, nhất là vấn an giữa ngày mồng Một Tết.
Xuân năm ấy giữa đêm Giao thừa tối đen như mực, tại số nhà… đường Gustave Dumoutier, tức là phố Chùa Vua Hà Nội cũ, trong một căn nhà trệt, không khí thật là ấm cúng vì trên cái sập gỗ, kê sát ngay tấm vách, ngăn phía sau căn nhà, một mâm đèn thuốc phiện, quây quần xung quanh đủ mặt giới văn nghệ sĩ của đất ngàn năm văn vật: Đoàn Phú Tứ có, Trần Huyền Trân có, lại có cả nhà tiểu thuyết kiếm hiệp: “Bát Quái Đạo, Bát Quái Giáo Chúa, Chu Diệt Chùa Thiếu Lâm, Thiếu Lâm Trường Hận” là anh Thanh Đình nữa…
Trong cái ấm cúng giả tạo của khay đèn ấy, nó vẫn pha thêm một cái gì lành lạnh nhàn nhạt, tố giác bộ mặt thật của không gian. Người ta nhìn thấy trên bàn thờ của chủ gia nguội tanh hương khói, bàn thờ ông vải mốc meo, nhện chăng từ trên trần nhà xuống. Nhìn chú nhện vàng đưa võng mà cảm hoài hoang mang đến cái nghèo vạn cố của kiếp nhà văn!
Nhìn lên bàn thờ tối Ba mươi trông càng thảm thiết, gần đến lúc cúng Giao thừa mà không có một mâm ngũ quả, không một tấm bánh chưng xanh, không một cân mứt, gọi là tượng trưng cho ngày Tết của chủ gia.
Đã thế càng về khuya, nhà văn Lê Văn Trương lại càng được nhiều anh em khất sĩ đến xông nhà và chúc tụng, chẳng khác gì người anh hùng Lương Sơn Bạc Tống Giang nổi tiếng là hay chiêu hiền đãi sĩ.
Dưới ánh đèn dầu lạc lù mù leo lét, nét mặt nhà văn Lê Văn Trương xám ngắt, anh ngước cặp mắt lơ đãng nhìn lên trần nhà… nhìn về phía bàn thờ, bỗng nhíu đôi lông mày lại như đang thắc mắc tìm một lối thoát giữa ngõ bí vì hết xìn… Cùng một kiểu nhìn ấy, cùng một nụ cười tủm của nhà văn họ Lê, người ta đọc được hai ý nghĩ của tác giả;
1) Năm hết Tết đến mà trong nhà không có lấy một đồng, anh cảm thương cho thân thế mình là nhà văn nổi tiếng, khi bút hoa lên có cả hàng triệu quả tim vàng rụng xuống, ba đời mê văn Lê Văn Trương.
2) Các anh em trong văn giới vẫn ca tụng anh là một quản lý văn nghệ, hôm nay đến hành khất rất đông mà chính anh lại còn đét gấp mấy, thật là đúng cảnh chó cắn áo rách, anh còn biết tính sao đây!
Bỗng dưng anh liếc mắt sáng như dao nhìn vội về phía Thanh Đình vì người thứ hai vừa tiêm xong điếu thuốc thứ 38, quay dọc tẩu mời anh. – Chú Thanh Đình, ờ, chú mày phi kiếm giỏi lắm, vậy Tết năm nay tao rách, anh em cũng rách hết, vậy chú mày có thể dùng thế võ: “di sơn đảo hải” hay “vũ đả ba tiêu” gì gì đó… đóng vai anh chàng hiệp sĩ phi thân vào Tổng Nha Ngân Khố mượn ít bạc ra phân phát cho anh em không? Anh em chỉ còn trông vào một chú mày lúc này, với tài phi kiếm thần sầu quỷ khốc của Liên Hoa Ảnh trong phái Thiếu Lâm. Nói đến đây anh Lê Văn Trương cười gần như chua chát, nhìn nhà tiểu thuyết kiếm hiệp Thanh Đình thao láo… rồi đột nhiên anh khe khẽ ngâm thơ phi lộ của Thanh Đình trong tác phẩm: “Thiếu Lâm Trường Hận”.
Ai oán tiếng thư cưu
Mang máu rửa hận cừu
Tàn phá! Ôi tàn phá!
Thiếu Lâm gió đìu hiu…
Đến đây mọi người vỗ tay hoan hô, giới hút sĩ, khất sĩ nhìn về phía Thanh Đình như chờ đợi một vị cứu tinh hộ mạng.
Như một con gà mái gầy nằm trong ổ rơm đang đau đẻ, tiểu thuyết gia kiếm hiệp của chúng ta thò dài cổ qua chiếc áo pardessus cũ rách, lú đầu lên lắc lắc, cặp mắt trim tríp xuống, tỏ dấu hiệu vô hi-vọng, cất tiếng khàn khàn đáp:
- Chẳng mấy khi anh Trương trông cậy vào tay kẻ hèn, nhưng khốn nỗi đến ngày hôm nay rồi thì đệ cũng xin chịu thúc thủ, vì sáng mai nầy đã là ngày mồng Một Tết rồi, dù có tài phi thiềm tẩu bách, dùng đến thế võ nào đi chăng nữa cũng chẳng có ma nào hưởng ứng, người ta kiêng rất kỹ nói chuyện tiền bạc khi vừa bước chân sang năm mới!
Mọi người cười rộ! Chỉ vào tiểu thuyết gia kiếm hiệp Thanh Đình châm chọc: “Thế chú mày phun kiếm ra giết chết bỏ mẹ chúng nó đi nghe!”
Chợt, bỗng nhiên nhà văn Lê Văn Trương vỗ đùi đen-đét, cập mắt sáng long lanh, nước da tái mét bỗng dưng đanh lại, anh buột miệng đắc ý nói to:
– Diệu kế! Diệu kế! Thực là diệu kế! Con chó xù Pékinois của tao đâu rồi? Đi tìm con chó xù lại đây cho tao! Hoan-hô chó xù! Diệu kế, diệu kế!
– Muôn năm chó xù!
– Vạn tuế chó xù! Vạn tuế chó! Chó! Chó!
Mọi người tưởng anh vừa lên cơn điên, nhìn chầm chập vào anh như nửa tò mò, nửa sợ-sệt!
Chợt anh giơ tay phân bua:
- Tao không điên đâu, chúng bây ơi! Tao nghĩ được cách có xìn rồi, lại nhân nghĩa nữa! Vậy đúng 12 giờ sáng mai, tao mời chúng mày lại tập trung tại nhà cô đào X… Ngã Tư Sở, tao khao một chầu hát đầu năm và luôn tiện chia tiền cho tụi bây xài Tết. Kế hoạch của tao vẫn là con chó, phải vẫn là con chó Pékinois của thằng docteur Tuân vừa cho tao, chúng mày biết chưa!...
Mọi người nhìn anh rất ngạc-nhiên, vẫn mù tịt chẳng biết kế hoạch con chó xù là thế nào tại sao anh Trương lại vạn tuế cả chó, lại muôn năm đến cả chú cẩu nữa?
Đến đây câu chuyện đã hơi dài; khi tôi kể cho các bạn nghe mẩu chuyện vui mùa Xuân, vậy xin tóm tắt đoạn kết:
Thế là buổi sáng tinh mơ ngày hôm sau, ngày mồng Một Tết nhà văn của chúng ta thi hành mưu kế đã định.
Anh đã lục tìm trong đầu óc sẵn một danh sách, có tên chừng hai mươi ông bạn thân, yêu văn nghệ mê tiểu thuyết gia Lê Văn Trương.
Anh khởi hành từ mờ sáng, đến xông nhà từng người một, giắt theo chú xù Pékinois tay phải bấm chuông, tay trái dìu chó vào tìm gia chủ để chúc Tết và trang trọng biếu con chó quý để chúc thọ năm mới.
Anh xếp đặt những câu mở màn để rào đón và xoay tiền khéo:
- Thưa anh chị! Tết này đến sớm quá! Kẻ hèn bận viết quên cả việc mua sắm, nhớ đến anh chị và các cháu là những người thân mến nhất, tôi phải lật đật đến thăm ngay, vậy tôi có con chó khôn, gia tài quý giá nhất, thành tâm mang nó lại kính biếu anh chị và mừng tuổi đón Xuân. Vừa nói nhà văn vừa cột chú chó xù vào chân bàn, cạnh ngay chú mèo mun của gia chủ.
Gia chủ vội vàng đón nhận và cảm ơn rối rít, ca ngợi hết mình ông khách quý trong làng văn nghệ!
Để rào đón thêm và đưa vào mê hồn trận, luôn miệng vờ than túng, Tết đến không có dư tiền đi hát ả đào, đi giải trí tổ tôm mừng năm mới, buồn quá! Vừa nói anh vừa chỉ vào quà biếu là con chó xù, ca ngợi nó khôn nó đẹp! Thế là động lòng trắc ẩn, hòn đất ném đi, hòn chì ném lại, gia chủ nhìn món quà biếu xem cũng đáng giá, vội vàng lục ví, lấy tiền phong bao lì xì chừng một “sín” cho nhà văn đi giải trí lành mạnh mừng Xuân.
Sau khi chủ khách đã trao đổi mọi chuyện vui năm mới, anh giả vờ là còn bận đi thăm các bạn khác, xin cáo từ ra về.
Con chó cột chân bàn, thấy chủ tự nhiên phú lỉnh một mình, vội nhảy tưng tưng lên cắn rầm rĩ, định tháo xích chạy theo chủ, rồi, bỗng thình lình chú mèo ở đâu chạy lại, hai bên chó mèo xô xát gây chiến tranh. Chờ đợi đúng lúc, phải can thiệp, nhà văn của chúng ta chạy lại xua chú mèo ra, cởi xích bồng luôn chú xù lên tay, tỏ dấu hiệu âu yếm, ghé miệng hôn nhẹ lên lưng nó và từ tốn, trang nghiêm phân vua với chủ nhà:
- Thôi, anh chị giàu có, chẳng thiếu gì giống vật quý giá, chó xù nhớ chủ, thấy tôi về nó nhớ nó khóc, tội nghiệp quá nếu tôi bỏ nó lại một mình… Vậy xin đỡ anh chị, tôi lãnh về nuôi giùm nó, xin cảm ơn anh chị tôi về…
Vừa nói nhà văn của chúng ta vừa giắt theo chó bước luôn ra cổng. Rồi bổn cũ soạn lại. Cứ thế nhà văn Lê Văn Trương lần lượt đi thăm và biếu chú xù từng ông bạn vàng một.
Đến đúng ngọ 12 giờ sáng, tiền phong bao lì xì đã đầy túi, con chó xù Pékinois vẫn lẽo đẽo theo chủ, cố kết với nhà văn nghèo như bóng với hình trở lại nhà cũ. Con chó là món quà quý đã 20 lần biếu xén, rốt cục châu lại về hợp phố!
Quả thực là mưu thâm Gia Cát!
Chuông nhà thờ vừa điểm 12 tiếng ngân nga! Giờ hẹn của nhà văn mời các bạn đến ăn khao một chầu hát ả đào tại Ngã Tư Sở mừng Xuân mới và chia tiền cho đám khất sĩ xài Tết đã đúng hẹn!
Mưu kế con chó xù Pékinois của nhà văn Lê Văn Trương đã thành công mỹ mãn. Tết năm ấy anh em đã được đón nhận một ngày Xuân vui vẻ!
Vạn tuế chó! Muôn năm chó!
Chó xù Pékinois đã đem lại cho các nhà văn Việt Nam một mùa Xuân vui tươi…
Nam Thành, Sài Đô ngày đầu Xuân
Mùa xuân mười tám
Hà Mai Lan
(Giai phẩm Xuân Chính Luận Tết Kỷ Dậu 1969)
Nhật ký của mẹ
Le 28 Janvier 1943
Hôm nay là ngày 23 tháng Chạp rồi. Sáng sớm, tôi với mẹ tôi và chú Hai gọi xe kéo đi chợ Đồng Xuân. Trời lạnh quá... Mẹ tôi co ro trong chiếc áo bông cộc. Nhưng chiếc áo không đủ ấm. Tôi thấy mẹ tôi run lên từng hồi, và hơi thở thì khói trắng bay ngào ngạt. Chú Hai đỡ tôi và mẹ tôi lên xe đi trước, chú đạp cái xe đạp cọc cạch đi sau. Tôi bảo mẹ tôi đợi trời sáng hãy đi, nhưng mẹ tôi không nghe, còn mắng tôi:
– Đi chợ mà như cô thì rồi còn mua được cái gì tươi tốt nữa?!
Tôi yên lặng. Mẹ tôi thường có lý trong vấn đề mua bán…
Từ Ô Yên Phụ này tới chợ Đồng Xuân, tuy chẳng lấy gì làm xa cho lắm, nhưng trời lạnh và mưa phùn thì rơi tơi tả làm cho mẹ tôi và tôi ngồi trên chiếc xe cao su dù đã bỏ mui che cánh gà, nhưng cũng vẫn thấy lạnh và đường thì dài làm sao…
Xe tới Hàng Than thì trời mưa lớn hơn. Cái lạnh lại càng thấm thía hơn. Lúc ở nhà đi đồng hồ chỉ 6 giờ. Bây giờ chắc hơn sáu giờ… Sáu rưỡi không chừng, mà trời vẫn còn tối lắm. Đèn đường vẫn còn bật sáng. Ánh đèn vàng ủng soi trên những vũng nước lép nhép. Đường vắng lắm… Khi xe chở mẹ con tôi tới Hàng Than thì mới thấy tàu điện Cống Vọng Yên Phụ ở mạn Hàng Cót tiến lên.
Hai mẹ con tới chợ tuy sớm, nhưng cũng đã có nhiều người tới rồi. Các bà mẹ An-nam thường giống nhau. Tất cả đều lo lắng cho những ngày giỗ Tết. Mẹ tôi cười, nhìn tôi như thầm bảo:
– Con thấy không? Mẹ nói có sai đâu! Không đi sớm thì cứ là mua tôm thối cá ươn!
Ba cỗ mũ áo cúng ông Công ông Táo mẹ tôi đã mua từ chiều hôm qua ở phố Hàng Mã. Hôm nay mẹ tôi mua cá chép về cúng rồi thả… Sau lưng nhà tôi là Hồ Tây rộng bát ngát, việc thả cá này mỗi năm xảy đến một lần vào ngày cúng ông Công ông Táo. Năm nay cũng thế… Mẹ tôi nhất định phải chọn cho “ngài” con ngựa thật đẹp, thật khỏe…
Hai mẹ con dẫn nhau tới dãy hàng cá… Những con cá chép râu vênh được rộng trong những chiếc nồi hông lớn. Râu cá vểnh lên như thách thức người mua…
Hai mẹ con và chú Hai về tới nhà thì đã hơn chín giờ. Nhân dịp này chú có công việc để làm… Chú Hai là chú họ xa, từ dưới quê ngoại lên ở với gia đình tôi. Chú có một mình, không vợ không con nên ở đâu cũng tiện. Chú Hai gói bánh chưng rất khéo, nên năm nào chú cũng gói… Hăm ba tháng Chạp chú bắt đầu sửa soạn, chẻ lạt và mua dần dần các vật dụng cần thiết. Có cái xe đạp cũ, chú đi đủng đỉnh cả ngày, xem gạo nếp tốt, đậu xanh tốt, rồi thì thịt lợn ngon. Chú tỉ mỉ lựa chọn cả từ cái ống giang chẻ lạt. Dĩ nhiên là lá dong gói bánh đối với chú thì khỏi chê ở chỗ nào. Chú gói bánh không cần khuôn mà cái nào cái nấy vuông vức ngay ngắn như viên đá hoa vậy…
Le 29 Janvier 1943
Hôm nay mới có 24 ta. Mấy đứa em tôi 28 mới được nghỉ. Năm nay chắc cũng như mọi năm, nghỉ mười ngày. Mồng 8 Tết thì đi học, tụi bạn tôi sướng thật. Chả bù cho tôi phải bỏ học sớm. Con Phượng, con Tâm, con Hoàng… chúng nó được tiếp tục học còn tôi thì ở nhà coi sóc gia đình. Nghĩ cho cùng tất cả vì hoàn cảnh cả. Mình là chị cả phải lo cho các em. Chẳng lẽ tôi để mẹ tôi lo cho tất cả thì càng khổ cho bà. Từ ngày Thầy tôi mất đi, cảnh gia đình trở nên túng thiếu. Các em tôi còn được ăn học cũng là nhờ công mẹ tôi tảo tần sớm hôm. Tôi phải ở nhà trông nom mọi việc.
Tôi để dành được hơn hai mươi đồng. Tôi quyết định hôm nay sẽ chẻ cái ống giang ra, lấy tiền. Thằng Cơ, con Qui, thằng Chính, tôi sẽ mua cho chúng nó mỗi đứa một món quà Tết. Tôi nhớ hôm qua lúc về qua Hàng Giấy thấy hiệu giày Phương Toàn bày mấy đôi trông lịch sự lắm. Thằng Cơ và thằng Chính chắc đi vừa như in. Con Qui thì phải mua cho nó cái gì khác mới được. Cái áo len chẳng hạn. Tôi đã đi hỏi giá ở Hàng Đào, 6 đồng rưỡi…
Mãi viết lăng nhăng, có một việc đáng ghi thì suýt nữa lại quên. Tôi gặp cậu Phong lúc đứng ngắm giày cho Cơ với Chính. Cậu Phong chào tôi trước và hỏi tôi đi đâu. Tôi nói tôi đi xem giày cho thằng Chính và thằng Cơ, thì cậu bảo:
– Cô cứ mãi lo cho các em, không lo cho mình hay sao?
Rồi cậu ngừng một lát, mới nói tiếp:
– Sang năm cô 18 rồi, chắc tôi được uống rượu đấy nhỉ?
Tôi thẹn đỏ cả mặt, tôi không ngờ cậu Phong nhớ tuổi của tôi như thế!
Tôi thẹn thùng đứng yên lặng trước cửa hiệu giày. Chiếc khăn tay của tôi rơi xuống đất lúc nào không hay. Tôi thấy cậu Phong cúi xuống gần tôi nhặt chiếc khăn lên, tần ngần. Tôi lại thấy cậu để chiếc khăn sát vào ngực, rồi đưa lên mũi hít mạnh. May quá, lúc đó mới sáng, và ngoài đường phố thì mưa nên ít người qua lại. Tôi thẹn quá bỏ cậu Phong mà đi nhanh về phía Hàng Đậu, là chỗ mẹ tôi và chú Hai chờ…
Le 30 Janvier 1943
Không hiểu sao từ lúc gặp cậu Phong ở Hàng Giầy về nhà tới giờ, tôi nghĩ tới cậu nhiều quá. Trước đây cậu Phong ở ngay bên cạnh nhà mà có bao giờ tôi nghĩ đến cậu như bây giờ đâu?
Chú Hai đã tìm được cây tre dài và thẳng. Chú hì hục làm cả ngày, và tối nay thì cây nêu đã gần xong. Chỉ còn thiếu khánh gỗ, mõ gỗ và những thứ cờ quạt thôi. Nhưng chú bảo năm nay chú không treo những thứ đó nữa. Chú nhớ ngày hội “cát tó” [10] vừa rồi, người ta dựng cái cột mỡ cao ngất, và trên đó có treo đủ thứ quà đẹp như ô, cặp. Năm nay chú nhất định đẽo cái tàu bay với lại cái ô tô bằng gỗ treo cho nó lạ mắt... Cả nhà không ai nói đi nói lại gì cả. Chú Hai muốn làm thế nào cho đẹp thì làm.
Chiều nay, mãi tới sẩm tối, tôi mới đưa thằng Cơ, thằng Chính và con Qui đi sắm mấy thứ đã dự tính. Chúng nó thích lắm. Tết này chúng nó không còn sợ thua kém mấy đứa hàng xóm nữa. Giày của thằng Cơ và thằng Chính đóng bằng da bốt tin, áo len của con Qui thì là len bông Pát tơ thứ hảo hạng. Tôi đã phải trả kém ba hào đầy 19 đồng tất cả... còn lại có hơn hai đồng bạc, tôi không biết sẽ mua sắm gì cho mình đây. À mà quên… Còn mẹ tôi nữa chứ. Phải đấy, bà thường buốt đầu vì chiếc khăn len quá cũ mất hết cả tuyết không đủ giữ hơi nóng. Tôi phải mua biếu mẹ tôi một cái khăn len mới. Rốt cuộc, tôi mua một cái khăn “san” màu nâu. Màu này thì mẹ tôi dùng được, chứ các màu xanh đỏ tím vàng kia thì chỉ dành cho mấy cô tân thời Hà Nội mà thôi…
Thế là hơn hai mươi đồng bạc để dành tôi đã tiêu hết, mà còn phải bù thêm nữa, mới đủ. Nhưng thôi, bọn thằng Chính, thằng Cơ, con Qui chúng còn bé, phải có quà cho nó vào lúc Tết nhất. Còn mình thì dù sao cũng lớn, mình cũng lại chẳng hay đi đâu cần gì đến mua sắm nhiều.
Le 1 Février 1943
Chỉ còn 3 hôm nữa là Tết rồi. Hôm nay mẹ tôi không cho mở cửa lớn như mọi khi nữa. Bộ cửa lùa giữ nguyên với cây đà ngang bằng lim luồn cứng trong những con bọ bằng sắt. Chỉ có cánh cửa ra vào thì mở để thỉnh thoảng bán một phong pháo, một chai rượu hay ít vòng nhang mà thôi. Tết nhất có khác, rượu Văn Điển, Vạn Vân, phông ten bán chạy lắm. Chú Hai cứ phải đáp xe xuống ty mua về luôn luôn. Pháo Mãn địa hồng của Tàu với pháo Tường Ký của ta cũng đắt hàng lắm…
Hồi còn sống thầy tôi, năm nào thầy tôi cũng đốt một tràng pháo cối từ 5 đến 10 thước. Nhưng từ ngày thầy tôi mất đi tới nay mẹ tôi không cho đốt pháo nữa. Thằng Chính thằng Cơ mỗi đứa được phát cho một phong pháo tép đốt đì đẹt cái một cho đỡ tủi mà thôi. Mẹ tôi bảo: “Thầy con mất đi, vui vẻ gì mà pháo với phiếc!”
Le 3 Février 1943
Hôm nay Hăm chín Tết rồi. Bánh chưng chú Hai đã gói xong. Tôi cũng gói nhưng không khéo bằng chú. Cũng như mọi năm, năm nay tôi gói hai chục cái bánh mụi cho tụi trẻ con. Tụi thằng Cơ, Chính, với con Qui không có bánh mụi cho chúng nó thì chúng nó khóc inh lên cho mà xem. Chúng nó đã nghỉ học, mà chẳng giúp đỡ được gì cả. Chỉ chạy nhảy cả ngày, nếu ở nhà thì chúng mang giày với áo mới ra ngắm nghía. Mẹ tôi chưa biết tôi mua biếu cái khăn san. Tôi phải đợi đúng sáng mồng Một Tết mừng tuổi mẹ, tôi mới đưa ra. Chắc mẹ tôi ngạc nhiên và thích lắm đây…
Tôi đã nhờ ông Ký Hân làm ở kho bạc đổi cho ít tiền. Đưa cho ông ấy đồng bạc nhờ đổi lấy toàn xu đồng, nhưng rốt cuộc chỉ đổi được có 5 hào tiền xu đồng, còn thì toàn đồng xanh phoong cả. Nhà không lấy gì làm dư giả, mình cũng phải tùng tiệm mới được, mừng tuổi cho lũ trẻ nhiều quá chỉ tổ làm cho chúng hư. Ăn quà lắm thì chỉ tổ làm đau bụng, ích gì.
Lúc này đã 1 giờ đêm… Nồi bánh chưng ở ngoài sân đang ầm ỉ sôi. Tôi vừa thử nhưng chưa chín. Còn phải đốt hai cây nhang nữa là ít mới chín. Cả nhà đã ngủ hết. Mẹ tôi dạo này không được khỏe lắm, vẫn phải uống thuốc ông lang ở trên Nghi Tàm. Nhà có ít sâm Cao Ly của thầy tôi mua dùng còn dư, bảo mẹ tôi uống nhưng mẹ tôi cứ chần chừ ý muốn để dành. Sang năm tôi cố đan lát thêm mua cho mẹ tôi cái gì đáng giá hơn một chút mới được.
Có nhiều nhà lúc này đã đốt pháo. Thiên hạ kể ra cũng thừa tiền thật. Tiếng pháo cối nổ tràng dài vừa rồi chắc là của ông Chánh Hiền bên Nghi Tàm. Ông Hiền mới ra làm Chánh Hội ăn khao cả vùng biết tiếng. Hôm Hăm ba tháng Chạp gặp ông khệ nệ đi một xe tay pháo từ Hàng Buồm qua chợ Đồng Xuân. Nói cho cùng ra có tiền mà không tiêu pha thì cũng buồn. Hồi thầy tôi còn sống, thầy tôi cũng tiêu pha có kém gì ai đâu. Thế mới biết có thầy tôi như là có một cây trụ cột vững chắc để con cái bấu víu… Thầy ơi! Xin thầy phù hộ cho mẹ con, cho các em con… cho con…
Nhật ký của con gái
Ngày 1-2-69
Thời gian qua mau thiệt! Mới Noel hôm nào, rồi thì tết Tây, thế mà hôm nay đã rằm tháng Chạp âm lịch, chỉ còn hai tuần nữa là Tết. Chẳng hiểu năm nay Tết có làm sao không? Năm ngoái nghĩ lại thật chán. Bao nhiêu dự tính đều bương hết. Uýnh nhau làm gì mà uýnh nhau hoài, uýnh nhau mãi thế này!
Con Liên vừa tới bảo với mình là có lẽ Hăm bốn hay Hăm lăm Tết tụi con Denise và thằng Ringo mở bum [11] chung với nhau. Chẳng hiểu tụi chúng nó tổ chức có khá không, mình nghi quá… Con Denise thì được lắm, nhưng cái thằng Ringo đó thì thật khó mà tin… Con Liên nói tụi Denise-Ringo tính mở thiệt láng cho bọn Johnny Club và Django Club biết tay. Chưa biết thế nào, nhưng lẽ dĩ nhiên là mình cứ nhận lời. Lần này nếu có đi, thì chỉ có mình con Liên, hoặc quá lắm thì thêm con Huệ nữa thôi. Hôm Noel rủ mấy con Khanh, Lan và Thu đi nữa, rút cục mấy cái bum bị xì ra chẳng ra cái đíu gì, mình ê cả mặt… Bạn gái với nhau, mà chúng nó lại còn xì nẹc cả với mình nữa, có chán không… Mấy con bà chời đó chơi hổng có được!
À, mà còn vấn đề quần áo nữa… Cái mini trắng mới may thì nhất định phải để dành hôm mồng Một mới mặc… Còn bộ đồ pát màu hường thì hôm Noel đã mặc rồi, chẳng lẽ lại mặc lại hay sao? Cái mini màu xanh với đăng ten trắng thì hôm Tết Tây mặc mất rồi… Chẳng lẽ lại giở bộ Jean đen với áo Montagut đỏ?
Không được mặc thế quê lắm! Tụi con Denise ăn mặc gồ lắm, mình không cẩn thận thì bị chúng nó cho tụt ngay. Vấn đề này mình phải bàn lại với con Liên và con Huệ mới được…
Ngày 6-2-69
Saigon đã nháo lên về Tết. Các tiệm may đông, nhưng chỉ toàn khách tới lấy hàng. Không đâu còn nhận may nữa. May quá, vào Passage Eden mua được một bộ “đồ bộ” may sẵn… Chỉ sửa lại một tí là vừa như in. Nhưng tụi ba tàu chém mạnh quá… chu choa, ba ngàn rưỡi… Thế là con bé có bao nhiêu dốc ra cho bằng hết! Nhưng kể ra thì cũng đáng lắm… bộ đồ màu vàng nhạt, nút bạc có hình hoa mai. Bộ nút đó cũng đáng tiền lắm… xem nào, hàng trước ngực sáu nút, cầu vai hai nút, cổ tay hai nút, đai lưng hai nút… Cổ chân bốn nút nữa. Tất cả 16 nút. Bộ nút đã ngót ngàn bạc rồi còn gì… Thôi đắt thì đắt, lâu lâu mới có Tết một lần, không mặc cũng uổng.
Nói cho đúng ra thì mình phải tính cái vụ đi bum Tết này sớm hơn một tý nữa mới phải… Nhưng đào đâu ra “tại”. Không có “tại” (tiền) là đố có làm được việc gì… Mà, bà già mình cù lần ghê! Nhà có mỗi mình là gái, lại con út nữa, thế mà hễ hỏi tiền mua giày dép là y như là bà ấy nhăn. Chẳng bù cho con Liên, muốn gì được nấy…
Lúc ở Passage Eden thì gặp thằng Thành vixi. Hôm nay nó chải đầu đàng hoàng trông đỡ vixi nhiều. Nó nói tụi nó với con Ngàn “Cô giáo” mượn được nhà của một cha Thiếu tá dù, và đúng 15 giờ ngày 21 Tết sẽ mở bum. Mình hỏi địa chỉ nó bảo mai nó sẽ đem lên cho mình… Thằng Thành vixi đó khôn hết mình, chứ không như cái bộ mã vixi của nó đâu. Mở ở nhà Thiếu tá dù, sức mấy các anh cắc ké, dám tới làm ẩu… cũng lại khỏi sợ bọn cớm đến giải tán nữa… Tết đi bum mà bị bắt nhốt rồi nộp phạt thì quê ơi là quê!
Cho tới giờ này vẫn chưa nhận được “các” của con Denise! Nếu trùng với bum của thằng Thành vixi thì cũng hơi mệt đó. Nhưng dù sao thì mình cũng cứ nhận đi cả hai nơi, bum nọ xì thì có bum kia xơ cua chứ! Bên nào cũng quen cả, không đi chúng nó giận cũng phiền…
Gần Tết rồi chắc cảnh sát cũng nương tay không bắt đâu. Thì đêm Noel đó, bum mở ngay bên cạnh bót cảnh sát gần đình Phú Nhuận mà có ai làm sao đâu? Chỉ có một cha ra chửi thề tục tĩu thôi, rồi đâu cũng lại êm đó luôn mà… Trước đó, thì cái bum Hoàng Hoa Thám cảnh sát cũng chỉ tới bao vây rồi cảnh cáo, xong ai về nhà nấy. Bọn trai trẻ họp nhau nhảy nhót đàn địch, chẳng hơn là hội thảo hay biểu tình chống cái này cái nọ hay sao???
Ngày 9-2-69
Hôm nay bà cụ bắt dậy sớm sửa soạn cúng ông Công ông Táo lên chầu giời. Được ngày Chủ nhật đẹp trời như hôm nay mà bà cụ bắt thế thiệt là ức. Nhưng dù sao thì mình cũng phải chiều, vì mai con Denise mời mình đi bum của nó. Chơi jusqu' à l’aube [12] nhé! Mình phải nịnh bà cụ một tí, để bà cụ ngơ cho mình đi chơi chứ.
Trưa hôm nay ông cụ đi lên ông nội mình về có vẻ cáu lắm. Mình có bức ảnh “Tứ quái Beatles” treo ở phòng ngoài, ông cụ giật xuống vứt vào trong nhà rồi bảo:
- Ảnh ông bà cha mẹ thì không treo, lại rước cái thằng mũi lõ đầu bù ấy để mà nhát ai ở cái nhà này?
Mình không dám cãi, nhưng thực tình thì mình “nực” lắm! Ông già mình thật “quê” quá cỡ! Động mở radô lên là nghe hát bội, còn bà già thì cải lương oăng oẳng cả ngày… Cái thứ hát hỏng đó mà cũng có người nghe được thì lạ thật.
Con Liên thậm thụt ngoài cửa không dám vô, mình cũng sợ cốc dám ra với nó. “Tác giăng” đang nổi giận, đừng có xía vào mà phiền…
Buổi chiều lên Bô na, gặp lão Khánh cận. Lão gặp mình thì xưng hô anh em ngon như không. Chẳng bù cho lúc dạy học, mỗi lần gọi mình lên trả bài là lão làm ra vẻ đạo mạo… Lão mời mình vô Brodard uống nước… Mình làm cho một cái kem chantilly với trái cây và một cái café ligéois… Lão trả tiền xong liền méo mặt!
Nhưng lão vẫn không nản chí, lão bảo mình:
- Thủy đã mua sắm gì chưa? Chúng mình vào Tax xem có cái hay hay không?
Mình gật đầu nhận lời. Nhưng nghĩ thương hại cho cái túi tiền của lão, mình chỉ mua có một hộp dầu thơm trong có hai ve, một ve ESSENCE và một ve EAU DE COLOGNE… Kể ra thì cũng rẻ, CHRISTIAN DIOR mà chỉ có ngàn hai bạc… Chắc là đồ PX, tụi Mỹ ăn cắp ra bán rẻ chứ gì!
Lão mời mình đi phòng trà đêm nay, nhưng mình từ chối vì còn bận về nhà có giỗ. Lão năn nỉ mình tối mai đi với lão… Mình cười nhận lời. Nhưng sức mấy mà mình đi với lão tối mai… Đi với lão già khằn đó thì hai cái bum của thằng Thành vixi và của con Denise để cho ai?
Ngày 10-2-69
Tối nay đi bum, về tới nhà đúng 12 giờ thiếu năm. Bữa nay nhảy đã đời. Ban nhạc LES CÉLIBATS không ngờ chơi được như thế. Nhất là bản SAN FRANCISCO tụi nó chơi không thua đĩa mấy… Tụi con Denise bảo mình ở lại chơi Jusqu’ à l’aube, nhưng mình thấy trong tụi dé dé (yé yé) có mấy thằng bốc hốt dữ lắm nên nhất định về… Mình bảo con Denise phải coi chừng tụi nó, chúng nó dám chơi trò “liên hiệp quốc” lắm đó, thì con Denise nói sức mấy mà nó sợ, vì nó vẫn uống LYNDIOL đều cả mấy tháng nay rồi.
Mình mệt quá, không thể viết thêm được nữa… Phải ngủ thôi.
Ngày 14-2-69
Hôm nay đã Hăm tám Tết rồi. Bắt đầu từ hôm đi bum mình cúp cua riết cho tới giờ. Tết nhất đến nơi rồi, học hành gì được nữa? Chẳng hiểu năm nay chúng nó có tổ chức Tất niên tất niếc gì không… Mà đi dự chúng nó thì cũng chán bỏ bà. Vài chai nước ngọt, vài cái bánh và những màn văn nghệ rẻ tiền… Rồi thì vài câu chúc tụng, mấy lão giáo sư kiểu Khánh cận nhân dịp lại tán tỉnh rủ đi phòng trà hay đi xa lộ hóng mát chứ đíu gì!
Con Liên bảo rằng trường sẽ cho thi Lục cá nguyệt vào ngày 3-3-69. Hôm đó ăn Tết no nê rồi… Nhưng cứ cung cách này thì chắc có thi mình cũng chẳng làm được bài… Song lo gì, ta quay phim… Ta cứ bổn cũ soạn lại biên công thức vào đùi rồi mặc mini che đi, lúc nào sểnh mắt thì ta vén jupe lên cóp, rồi lại kéo xuống… Sức mấy mà mấy lão đó biết được… Có khi mình vén lên lão còn khoái trí ấy chứ lị.
Ngày 15-2-69
Chiều nay theo bà già đi chợ Saigon mua thêm ít mứt và hạt dưa. Năm nào cũng thừa ê hề, mà năm nào bà già cũng mua thêm vào giờ chót. Chợ Tết đông quá, người nghẹt như nêm cối. Hai cây cầu sắt mới bắc cũng chi chít những người.
Mình gặp chú Đắc. Chú dạo này mập hơn trước. Gặp mình chú vẫn giữ vẻ bình thản... Chú vẫn tươi cười, nhưng nếu có khác thì khác ở bộ râu đen ngòm của chú đã cạo đi rồi… Mình hỏi bộ râu chú vứt đâu rồi, thì chú bảo hôm 1-11 nghe ông tổng thống nhà ta tuyên bố hách quá, chú phục lăn cho nên cạo hết bộ râu!
Gặp mình chú bảo:
– Chóng quá! Sang năm Thủy đã 18 rồi! Bao giờ cho chú ăn cỗ đó?
Chú cứ nói mãi cái giọng đó, chán bỏ bà… chú tưởng mình gọi chú là “chú” tức là mình công nhận chú là UNCLE của mình hay sao. Chú không hiểu “chú” đây là cách xưng hô ngụy trang của bọn con gái mình! Càng nghĩ, mình càng thấy chú Đắc thật cù lần… Hay là chú biết, biết nhưng không thèm nói. Chú không muốn biến thành “chú Đạt” như trong “Sống” của Chu Tử nên cố tránh mình à?
Thành thực mà nói mình thích chú Đắc ghê. Chú ấy nghiêm nghị, chững chạc. Chẳng bù cho mấy thằng ranh con cà chớn, thấy gái là bốc hốt như điên. Nhất là mấy thằng bạn con Liên mang danh sinh viên mà mất dạy bỏ mẹ. Chúng nó lừa con nhà người ta uống rượu và nhăm nhe dẫn vào hotel!
Tối nay về nhà, bà già bắt cả nhà rửa nhà! Hai ông anh mình đi lính được nghỉ phép về cũng phải quét nhà, xách nước như điên. Bà già bảo mai 30 có cả triệu công việc phải làm. Nên rửa nhà trước là ổn nhất. Thành thử mình mất đi chơi với tụi con Liên. Chúng nó chửi mình bằng thích cho mà xem.
À, mà mình quên mất một việc, mai phải thanh toán cho xong, nếu không thì Tết này hỏng to: phải mua cây son Elizabeth Arden. Sắp hết mà mình quên không mua. Mình idiot thật!
Mai mình cũng phải sang bảo con Liên là mùng Hai mình mới sang nó được. Có bum biếc thì nó cứ giữ hết các cho mình, rồi thì sẽ xét sau…
Chú thích:
[10] Ngày hội cát tó: (Quatorze Juillet) ngày quốc khánh Pháp 14/7.
[11] Bum: nhảy đầm, khiêu vũ.
[12] Jusqu’à l’aube: (tiếng Pháp) cho tới sáng.
Năm mươi năm đồng bạc của đời tôi
Ký ức của Ngọa Long
(Giai phẩm Xuân Đuốc Nhà Nam Tết Tân Hợi 1971)
Nói đến đồng bạc Việt Nam, mà đúng hơn là hồi nó còn được gọi là đồng bạc Đông Dương, tôi không thể nhớ là tôi được biết nó vào lúc nào, có thể là sau khi tôi ra đời lâu lắm…
Vì kể từ khi tôi lên bảy lên tám, nghĩa là bắt đầu ngày tôi có được chút trí khôn và trí nhớ, tức vào cuối Đệ nhứt Thế chiến (1914-18) thì đồng bạc đối với tôi hãy còn là một vật vô cùng quí báu, xa lạ mà tôi chưa hề “có quyền” biết tới.
Ngày tôi bắt đầu cặp sách đến trường thì xứ sở hãy còn xài đồng điếu, đây là loại đồng điếu bằng thau, có hình tròn bằng đồng bạc bây giờ (1970) và chính giữa có khoét lỗ vuông.
Tôi không được biết nhà cầm quyền Pháp cho ra loại đồng điếu thau nầy vào lúc nào - năm nào - nhưng được biết là Tây cho ra loại đồng điếu nầy để thay vào cho loại đồng điếu của Việt Nam (của Nam triều thì đúng hơn) vì loại đồng điếu Việt Nam, cũng kêu là “đồng hoẻn” đã bắt đầu hết xài.
Đồng hoẻn của ta hồi ấy đúc bằng một loại chì non, dường như chính nó được gọi là “tiền Gia Long”, nó có công dụng mua chác vừa để đo lường. Ví dụ, người ta dùng nó để mua 50 tiền muối, tức 50 đồng điếu muối, thì cứ lấy 50 đồng tiền đem cân với muối mà bán ra, theo thời giá.
Do đó mà “đồng hoẻn” cũng được coi như một loại “trái cân” và hạng người tham lam, gian manh, lại thường đem mài đồng hoẻn cho mỏng bớt đi để… lường cân trao đấu.
Tuy nhiên, cũng không phải vì vậy mà Tây cho ra loại đồng điếu bằng thau nhằm mục đích tránh sự gian lận ấy. Sở dĩ có thay đổi tiền tệ là do liên quan chánh trị, vì là bắt đầu nhà cầm quyền Pháp bắt buộc dân ta phải xài đồng tiền của họ.
Tại sao gọi “đồng bạc con cò”:
Tôi cũng không rành lắm về việc người Pháp cho ra đồng bạc Đông Dương, cũng kêu là đồng bạc “đầu hình” hay đồng bạc “con cò” từ năm nào. Chỉ được biết đồng bạc ấy khá to lớn và cân nặng 27 gơ-ram bạc, với một mặt chữ có chữ và số và mặt hình có hình bà Marianne, do đó người ta gọi là đồng bạc “đầu hình”.
Cũng gọi là đồng bạc “con cò” vì hình Marianne đó cũng được in vào tem thơ và tờ giấy con niêm mà người miền Nam quen gọi con tem là “con cò” và khi thấy đồng bạc có hình Marianne y như hình con cò (tem thơ) nên người ta cũng gọi nó là đồng bạc “con cò”.
Đồng bạc 27 gơ-ram cũng là đồng bạc để “dằn kho” vì ít lưu dụng, để nặng nề bất tiện, nên thay vào đó có đồng bạc giấy, tức giấy bạc một đồng, cũng có hình bà Marianne nên vẫn được gọi là đồng bạc “con cò” luôn.
Bằng cớ là từ đó có cái câu ca dao:
Cưới em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền sính lại đèo buồng cau.
Cũng được đổi lại theo thời, qua những câu hát, câu hò đại khái:
Cưới em bằng bạc con cò
Đâu phải hẹn hò nói chuyện đẩy đưa.
Hoặc giả:
Lễ cheo bằng bạc con cò
Cưới em cho được về lo gia đình.
Cái giá trị của đồng bạc “con cò” bắt đầu đi vào trong dân gian, kể từ ngày ấy mà… tôi cũng không còn nhớ là ngày nào. Tôi cũng chưa hân hạnh được thấy mặt, chớ đừng nói là có dịp “bỏ túi” nó cho đến ngày hoàn toàn khôn lớn.
Nhưng trên đây là một luận cứ, ngoài ra về sau nầy tôi còn có dịp được xem một đồng bạc loại 27 gơ-ram có hình con cò, nguyên một con cò với cổ rất dài tượng trưng của những xứ giàu về nông nghiệp.
Đồng bạc con cò nầy tôi được ngó thấy trong bộ sưu tầm của một nhà hiếu cổ và tôi chỉ được cho xem sơ qua chớ không có thì giờ nghiên cứu, về xuất xứ và nó được phát hành lúc nào.
Rất có thể đây là đồng bạc đầu tiên được phát hành ở Đông Dương và chỉ với số rất ít, sau đó thì loại đồng bạc đầu hình Marianne ra đời, loại con cò được thâu hồi.
Tuy nhiên, đây cũng là luận cứ, nếu không nói là một bằng cớ về lai lịch của đồng bạc ĐD. Được gọi là đồng bạc con cò.
Từ đồng Điếu đến đồng Xu:
Ngày còn cặp sách đến trường, tôi còn xài đồng điếu (thứ bằng thau) nó được trị giá 1 phần 5 của đồng xu. Một đồng xu là 1 phần 100 của đồng bạc “con cò” có bốn chữ nho đề rõ ràng là “Nhứt phân chi bách”.
Đồng xu được đúc bằng đồng vỏ cua, loại đồng đỏ có pha, cũng không biết ra đời năm nào, nhưng trước đó là loại đồng xu, không có lỗ, người ta cũng quen gọi là “đồng bảng”; kế đó mới tới loại đồng xu có lỗ tròn, thứ nặng, được gọi là đồng xu dầy và sau đó đồng xu mới được hạn chế, nhẹ bớt lại và gọi là xu nhỏ.
Đồng xu nhỏ mà tôi bắt đầu được biết thấy có ghi năm phát hành: 1908 rồi 1909. Không thấy có đồng xu phát hành năm 1910, chẳng hiểu tại sao. Tiếp theo đó, mỗi năm đều có phát hành đồng xu mới, 1911, 1912, 1913 đến 1914 thì bặt vì… Đệ nhứt Thế chiến nổ bùng. Nhưng từ năm 1916 thì đồng xu mới đã thấy có phát hành lai rai cho đến 1920.
Giá trị của đồng xu:
Nếu đồng bạc lúc bấy giờ đã có một giá trị quá lớn, thì đồng xu cũng có giá trị của nó. Với một đồng xu người ta có thể đi được một “ga” xe lửa từ hai đến ba cây số ngàn. Với một đồng xu, người ta ăn được một chén cơm, mua được một cái hộp quẹt (loại sản xuất ở Bến Thủy, Hanoi) hoặc hai điếu thuốc Tây.
Với hai đồng xu, ăn được một chén cơm lớn hay một cái bánh bao (thứ “tài báo”), với ba đồng xu ăn được một tô mì (thứ một vắt) sánh với bây giờ (1970) là tô mì giá 40 đồng.
Hồi đó cũng có danh từ thông thường gọi hai xu là một tiền, ba xu là tiền rưỡi (cũng gọi là tiền rưỡi xu), bốn xu là hai tiền, 5 xu là hai tiền rưỡi, 6 xu là ba tiền, đến năm tiền là một “cắc”.
Một cắc thì có đồng một cắc bằng bạc và nhỏ bằng đồng điếu, và vẫn có hình bà Marianne. Đồng một cắc là 1 phần 10 của đồng một đồng tức đồng bạc “con cò”. Ngoài ra còn có đồng hai cắc cũng kêu là đồng một quan. Trước 1918 chưa có phát hành loại đồng năm cắc mà chỉ có các thứ đồng vừa kể trên.
Về các loại bạc giấy
Riêng về bạc giấy hay giấy bạc thì lúc bấy giờ, trên hết là giấy một trăm cũng kêu là “giấy bộ lư” vì có in hình bộ lư, tờ giấy khá to lớn, gần như cái bằng cấp, in màu sépia có pha đỏ nhiều.
Kế đó là tờ giấy hai chục, chưa có giấy 50 và giấy 10 đồng và dưới đó là giấy năm đồng.
Điều nên ghi chú thêm là tờ giấy hai chục lúc bây giờ có hình con rồng, màu xanh, nên cũng được gọi là giấy “con rồng”, sánh với tờ giấy bạc năm đồng cùng màu xanh và có hình con công, nên cũng được gọi là giấy “con công”.
Trong dân gian lúc bấy giờ, giới tiêu thụ mạnh là giới ăn chơi, cờ bạc thì thường các tay nào bảnh lắm là xài giấy “con công” là hào hoa, vung vít, công tử bột lắm rồi.
Hạng xài giấy “bộ lư” ít lắm, chỉ trừ một vài cậu công tử Bạc Liêu, còn giấy “con rồng” cũng vắng mặt ở lưu hành. Vì tờ giấy “con rồng” (20 đồng) thuở ấy có một khuôn khổ rất vừa với hộp bánh Biscuit, một loại hộp bánh bằng thiếc có nắp đậy rất kín đáo.
Hầu hết các tay nhà giàu trong xứ và hạng người dư ăn dư để thì nhà nào cũng có một vài hộp Biscuit đựng… giấy “con rồng” nầy. Đó là số tiền để dành, thay vì đem gởi ngân hàng và hồi đó việc gởi tiền ngân hàng còn phiền phức, đòi hỏi nhiều thủ tục khó khăn.
Nên phần đông người có dư tiền đều cất vào hộp Biscuit, có nhà kỹ hơn, lại đem bỏ nó vào trong khạp rồi đem chôn, cho chắc ý nữa.
Một hộp Biscuit mà đựng đầy nhóc giấy “con rồng” có thể là…, một, hai ngàn đồng, mà giá một hai ngàn đồng thời bấy giờ là cả một gia tài, sự nghiệp và đây là bằng cớ chứng minh cho cái giá trị của tờ giấy bạc, để có thể đưa tới kết luận là tờ giấy bạc “con rồng” trước 1935 vẫn được thiết tha, yêu quý hơn tờ giấy có hình ông… Trần Hưng Đạo 1970, thời gian chỉ cách nhau có độ 35 năm, nhưng giá trị của đồng bạc đã sai biệt gần một trời một vực.
Suốt quãng đời học trò của tôi, tôi chỉ được xài đồng xu và cắc bạc, chớ không bao giờ đã hân hạnh làm chủ được “con cò”, vì đồng bạc bây giờ còn giá trị ở trên cao lắm, con nít chưa ai rớ tới.
Đồng bạc thuở ấy là cả một ngày lương của hàng Đốc phủ sứ, vì người thợ chuyên môn hồi nầy chỉ lãnh được 7 hoặc 8 cắc một ngày là trên thiên hạ rồi.
Trái phiếu 50 đồng:
Cái thời vàng son của tờ giấy một trăm kêu là “giấy xăng” bộ lư và đồng bạc con cò ấy kéo dài, nếu không muốn nói là ngự trị trên toàn cõi Đông Dương cho đến ngày con đường xe lửa “Xuyên Việt” thành hình.
Hồi ấy, để thực hiện cái công trình vĩ đại nầy, tức con thiết lộ nối liền Hanoi với Saigon, nhà cầm quyền Pháp phải đi vay tiền của dân chúng bằng cách bán “Trái phiếu” cũng gọi là Quốc trái.
Dân chúng đã sẵn sàng đóng góp vào công cuộc xây dựng con đường Hỏa xa khổng lồ nầy bằng cách mua Trái phiếu – tức cho Nhà nước vay tiền – với giá mỗi Trái phiếu là: 50 đồng. Nghĩa là..., vẫn chưa quá nửa cái giá của một tô phở năm 1970.
Cho mãi đến năm 1925, hàng vương tôn công tử ở xứ này, may mặc một bộ “tuýt-xo-ăng-lê” thứ “tuýt xo” hảo hạng mà ngày nay không còn, với giá tiền hàng cả tiền công chỉ độ 2 đồng rưỡi bạc, nhưng… đừng ai tưởng rằng, giá sanh hoạt hồi ấy quá rẻ rề mà sự thật trái lại, đó là chứng minh cho giá trị của đồng bạc “con cò”, vì ngày nay người ta có thể bỏ ra 25 ngàn đồng vẫn không sắm nổi bộ “com lê” “tuýt xo” đó.
Chắc có người sẽ phải lấy làm khó chịu khi thấy tôi đem so sánh cái giá hai đồng rưỡi bạc “con cò” với cái giá 25 ngàn đồng bạc 1970 mà cho là quá đáng, nhưng đó là một sự thật không cãi chối.
Vả lại, đồng bạc “con cò” đã phải trải qua 2 cuộc Thế chiến và một kỳ kinh tế khủng hoảng khắp toàn cầu kéo dài từ 1930 đến 1939. Nhưng “nó” vẫn giữ vững được cái giá trị của nó, lại là điều đáng nói và… tại sao?
Kể ra thì trong quãng những thời gian khó khăn nầy nhà cầm quyền Pháp cũng có lạm phát và một lần phá giá đồng bạc Đông Dương.
Lạm phát bằng cách nào?
Đến đồng “năm cắc” và đồng “nửa xu”
Vào khoảng năm 1930 bắt đầu ngó thấy cái màng màng của một tình hình kinh tế khủng hoảng.
Nhưng lạm phát ở đây để giữ vững giá trị đồng bạc và đồng thời cũng là để cầm giá sinh hoạt ở một mức thấp, thay vì để cho nó gia tăng.
Cho nên, đáng lẽ cho in thêm giấy bạc các loại: 100 đồng, 20 đồng, 5 đồng, và 1 đồng thì lúc bây giờ nhà cầm quyền Pháp lại cho ra loại năm cắc, tức lạm phát “nửa đồng” thôi.
Tuy nhiên, cho ra loại đồng năm cắc, theo các nhà chuyên môn thì đó cũng là một cách phá giá đồng bạc hết 50 phần 100, song le, tình trạng phá giá này ít ai để ý, bởi vì vật giá lúc đó cũng theo cái giá của đồng năm cắc mà hạ xuống, sự mắc mỏ không ngó thấy, với đồng năm cắc người ta vẫn mua sắm phủ phê, trong lúc giá trị của đồng bạc đứng vững và đồng lương của các giới không thay đổi.
Ngoài ra, để quyết lôi kéo vật giá xuống thấp, nhà cầm quyền Pháp lúc này còn có cho ra thêm hai loại tiền tệ, đó là loại đồng năm xu và đồng nửa xu (1/2 cent) thay vì phải “lạm phát” thêm đồng một cắc và đồng một xu.
Ngoài đồng năm cắc và đồng nửa xu, nhà cầm quyền Pháp còn có cho ra thêm, vô số, các loại giấy bạc, thứ giấy năm cắc, hai cắc và một cắc và cũng là hình thức lạm phát nhưng lạm phát ở hạ tầng cơ sở, trái lại, giá trị của đồng bạc, đối nội và đối ngoại vẫn giữ vững.
Rốt cuộc rồi, các nhà kinh tế lý tài có xoay xở cách nào, đến năm 1934 sang năm 1935 là thời kỳ kinh tế khủng hoảng trầm trọng đến “hết thuốc chữa” nên rồi đồng bạc cũng phải chịu phép… rửa tội, để phá giá. Từ một đồng bạc 27 gơ-ram đổi ra đồng bạc mới nhỏ hơn và nhẹ hơn, chỉ còn đúng 20 gơ-ram, đó là giá trị quốc tế của nó.
Thế là đồng bạc bị phá giá, nhưng phá giá cái kiểu này thì chỉ có hạng tư bản, lý tài, kinh doanh, đại thương gia và đại địa chủ kêu là thiệt hại mà thôi.
Chớ đối với đại đa số dân chúng hầu hết là dân làm mướn ăn lương và dân nghèo thì đồng bạc 27 gơ-ram hay đồng bạc 20 gơ-ram đối với họ cũng chỉ là đồng bạc ăn 10 cắc và 100 xu, như không có thay đổi gì hết.
Trái lại, hạng tư bản, đại thương gia, đồng bạc của họ có dùng mua bán ra các nước ngoài, nay bị phá giá họ sẽ bị thiệt thòi nên Saigon mới xảy ra cuộc biểu tình phản đối.
Đây là cuộc biểu tình có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử Đông Dương vì là một cuộc biểu tình do… phe tư bản tổ chức, đa số là người Pháp trại chủ các đồn điền.
Mỉa mai nhứt là người cầm đầu cuộc biểu tình phản đối nầy lại là ông Gannay, Giám đốc Đông Dương ngân hàng (Banque de l’indochine) và để làm coi cho được, họ có kéo theo một thiểu số đại địa chủ và thương gia Việt Nam.
Tôi còn nhớ, một sáng sớm, đoàn biểu tình nầy ồ ạt xuất phát từ Phòng Thương mãi (Chambre de Commerce) và bây giờ là trụ sở Thượng Viện kéo qua trước Đông Dương ngân hàng đến đầu đường Charner (bây giờ là Nguyễn Huệ) để kéo trở lên Dinh Xã Tây (Tòa Đô Chánh) diễn thuyết, đưa kiến nghị.
Tôi không còn nhớ hết các khẩu hiệu và biểu ngữ của phe Tư bản Pháp đưa ra để “hoan nghinh đả đảo” trong dịp này. Tôi chỉ nhớ được có mỗi cái biểu ngữ của “phe ta” (dân tư bản bổn xứ) với một cái “băng-đơ-rôn” dài, hai đầu có vẽ hình hai đồng bạc, một bên là đồng 27 gơ-ram và một bên là đồng 20 gơ-ram, ở giữa có hàng chữ:
“Anh đi đàng anh, tôi đàng tôi”.
Thấy cái biểu ngữ này, hồi đó có mấy thằng nhà báo An-nam kêu ngạo, cho rằng họ biểu tình đồng bạc bị phá giá mà mình tưởng đâu là đám ma của… Thế Lữ chớ!
Nhưng rồi cuộc biểu tình cũng không làm cho nhà cầm quyền Pháp phải biết ngán, nên sau đó, trong một phiên nhóm của Hội đồng Quản hạt, Thống đốc Cognacq đã đứng ra bênh vực cho bộ Thuộc địa, nói lên câu lịch sử nầy:
“Les chiens aboient, la caravane passe”. Nghĩa là “mặc chó sủa đoàn lữ hành cứ đi”, thế là đồng bạc Đông Dương vẫn bị phá giá tuốt.
Đến giấy 50 và đồng 500 ra đời
Sau khi “đồng bạc mới” (20 gơ-ram) ra đời, dĩ nhiên nhà cầm quyền có nhơn dịp nầy cho in lại giấy một đồng mới, một cách lạm phát, tức in nhiều hơn số “bạc đồng” dằn kho: nhưng cũng không trang trải nổi tình thế, nên sau đó mới có thêm loại giấy bạc mười đồng ra đời.
Cho đến năm 1939 bắt đầu Đức quốc xã tấn công vào nước Pháp và mở màn Đệ nhị Thế chiến, thì mới có thêm hai loại giấy bạc nữa, đó là loại giấy năm trăm đồng và giấy 50 đồng. Tôi không nhớ rõ hai loại giấy này phát hành vào năm nào, một phần vì…, sau đó lâu lắm, tôi mới hân hạnh biết mặt loại giấy bạc nầy.
Rồi tới cuộc “bạo hành” ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhựt Bổn lật đổ chánh quyền Pháp ở Đông Dương, bây giờ họ lại tung ra - để khỏi phải dùng đến danh tự “lạm phát” nữa – hằng hà sa số tờ giấy 500, cũng kêu là loại giấy 500 đồng Nhựt Bổn.
Tiền tệ của Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng đã đi vào thời kỳ hỗn loạn, cho đến khi Nhựt đầu hàng, Việt Minh lên cướp Chánh quyền rồi… Tây trở lại. Đất nước qua bao nhiêu lần thay đổi chủ, nhưng cũng còn có được một điều may mắn là đồng bạc vẫn chưa đến đỗi mất giá căn bản của nó.
Nghĩa là trải qua thời kỳ Quốc trưởng Bảo Đại cho đến 1953 bị Ngô Đình truất phế và thành lập Đệ nhứt Cộng hòa, “đồng bạc Đông Dương” bây giờ là đồng bạc Việt Nam, vẫn còn ăn… được 10 tô hủ tiếu, hút được một gói thuốc “bao xanh” hay uống được một chai “la ve” và cái giá trị của đồng bạc nầy giữ vững đến năm 1963.
Như trên đã kể, đó là đồng bạc mà tôi được biết qua… bán thế kỷ, nghĩa là trong suốt một quãng đời dài ngót 50 năm từ đầu Đệ nhứt Thế chiến (1914) đến cuối Đệ nhứt Cộng hòa (1963). Tuy trải qua bao nhiêu lần đổi chủ thay triều, kinh tế khó khăn và mặc dầu nó đã mất giá trị gần 300 phần 100 (sánh với 3 xu một tô mì 1914 và 10 đồng bạc một chai la ve 1963) nhưng…
Đồng bạc đối với tôi vẫn được coi là “huyết mạch”, là một vật gì rất mắc mỏ khó kiếm chớ… nó không đến quá rẻ như ngày nay, phải có tới 90 đồng bạc ấy mới ăn được một tô phở, cái thứ tô phở mà ông Tổng Ngọc đã bảo… nhìn vào nó để sẽ biết được tình trạng kinh tế hiện ra làm sao.
Nhớ lại Tết “kinh tế” năm xưa (trích)
Tế Xuyên
(Giai phẩm Xuân Đuốc Nhà Nam Tết Tân Hợi 1971)
Năm ấy là năm 1932, suốt cả năm tôi đã từng thấy cả dãy phố đường Hàm Nghi (hồi ấy gọi là Boulevard de la Somme) – đường Tự Do (Catinat) [13] – đường Tạ Thu Thâu (Sabourain) hầu hết bỏ trống khóa cửa, chỉ vài căn có người mướn. Chợ Bến Thành buôn bán ế ẩm. Một con vịt quay treo tòn ten ở quán thịt bán có 6 xu một con nhỏ, 8 xu con lớn. Thỉnh thoảng cao hứng bà xã của tôi xách một con về cho gia đình ăn một bữa, khỏi phải nấu nướng, làm món ăn mất công. Gạo thì bốn cắc một giạ mà lại là thứ gạo nấu cơm mềm dẻo, thơm phức ngày nay nhớ lại mà thèm...
Những kẻ thất nghiệp dám mướn phố lầu mà ở. Những căn phố ở khu trung tâm, gần chợ Saigon. Chúng tôi đã có một “phép mầu nhiệm” để ở khỏi tốn tiền: chỉ xoay đủ tiền trả tiền phố tháng đầu rồi từ tháng sau không trả tiếp nữa, ở lì luôn cả năm. Khi người thâu tiền phố đến đưa biên lai thâu tiền thì chỉ cười trừ. Tiền đâu mà trả, người thâu tiền cũng thông cảm vì hoàn cảnh của thầy ta chắc cũng không hơn gì mình.
Có khi ngượng quá thì lánh mặt, cho vợ con “đại diện” mà trả lời rằng: “Tháng này túng quá, thôi để tháng sau trả luôn thể”. Tháng sau? Rồi tháng sau nữa… kéo dài cả mười tháng, mười hai tháng như vậy. Thầy thâu tiền thét rồi thối chí, sau hai ba lần sẽ không đến nữa, báo cáo cho chủ đối phó.
Đối phó cách gì? Nhiều lắm là đưa ra tòa xin trục xuất thôi vì người mướn phố không có một món đồ gì đáng giá để tịch thâu. Kẻ nghèo chỉ có vỏn vẹn một cái ghế bố để ngủ và một cái rương hay cái va li cũ kỹ đựng ba bộ quần áo rẻ tiền.
Cái lối mướn phố “luân chuyển” đã thành “lối ở” của dân nghèo: ở căn này một thời gian rồi lại ở đến căn kia, trả tiền phố có một tháng mà ở đến một năm hay tám tháng, ít lắm cũng sáu tháng.
Đi ngoài đường thấy vắng vẻ buồn hiu. Những căn phố đóng cửa im lìm. Những căn phố chết… Saigon là một thành phố chết, hay đang hấp hối. Nạn thất nghiệp tràn lan, kiếm được một việc làm là cả một cái may mắn như trúng “số đuôi”. Công chức, tư chức có “sở mần” rồi thì cố mà giữ lấy, cố chiều chuộng ông “sếp” để khỏi bể nồi gạo.
Lao động lại càng cực khổ hơn vì phải đổ mồ hôi đổi lấy chén cơm manh áo và ít người có lấy một cái gì gọi là “nhà” để ở. Phần nhiều họ “đóng đô” ở ngay hàng ba những căn phố trống. Với tất cả “nồi niêu xoong chảo”, cả “thê tử đùm đề”. Họ sống cố thổ tại đó, vì có ai mướn căn phố ấy đâu. Đêm đến họ bẻ khóa cửa, di cư bớt bầy con vào ngủ trong nhà; sáng đến lại móc khóa vào cửa để khóa hờ, khóa tượng trưng cho người quản lý dãy phố khỏi rầy la.

Một ông “bác sĩ kinh tế” ra đời
Trước cơn bịnh kinh tế trầm trọng như đã phác họa trong vài nét đan thanh trên kia, một nhà thầu khoán ở miền Trung đã từng đậu “agent technique” ở trường Công chánh Hanoi, nhảy lên sân khấu với một cái áo trắng dài và cái mũ trắng của bác sĩ. Ông tự xưng là “bác sĩ kinh tế” lên sân khấu một nhà hát ở Phan Thiết, diễn thuyết về nạn kinh tế khủng hoảng và tuyên bố đem tài “kinh bang tế thế” giải quyết nạn đồ thán cho đồng bào.
Nhơn vật ấy là ông Trần Quang An.
Ông còn chạy vào Saigon để kê toa, toan chữa bịnh kinh tế “lủng lẳng” cho toàn dân.
Toa thuốc của ông giản dị lắm: tìm biết đúng nhu cầu hàng tháng của mỗi gia đình (bao nhiêu gạo, bao nhiêu than, bao nhiêu mắm muối tương cà) rồi mua tích trữ trong kho, để phân phối cho từng nhà.
Tóm lại là mua tận gốc, bán tận ngọn, mua gộp lại để có thể trả giá rẻ. Một hình thức “hợp tác xã” nhưng “bác sĩ kinh tế’ gọi là “Entrepots Warrant”.
Ông dùng Saigon làm vật thí điểm. Ông in ra cả mấy vạn tập “câu hỏi” về nhu cầu bếp núc của mỗi gia đình, phát cho từng nhà xin trả lời để ông ước lượng số hàng phải mua trữ trong những “Entrepots Warrant” của ông.
Ông thuê một dãy 24 căn phố trệt ở đường Trịnh Minh Thế (Jean Eudel) [14] , Khánh Hội để làm kho chứa hàng.
Nhưng ông thất bại lớn. Vì người Việt Nam thế hệ trước quen sống với nếp sống cổ truyền “tém vén tương cà” – đâu có hiểu lợi ích của một biện pháp kinh tế xa lạ mà họ còn nghi ngờ là một thủ đoạn gì đây? Toa thuốc kinh tế của “bác sĩ” Trần Quang An chưa kịp cứu dân độ thế đã bị xếp xó, 24 căn nhà phố của ông thuê bị bỏ trống cả năm rồi trả lại cho chủ phố…
Về quê ăn Tết con Trâu (trích)
Phóng sự vui như Tết của Trường Bình
(Giai phẩm Xuân báo Điện Tín Tết Quý Sửu 1973)
Tết nhứt mà ở Sài Gòn thì quả thật là không có Tết gì cả. Gần mấy mươi năm biến loạn, chỉ có đồng ruộng, thôn quê mới giữ được cái hương vị đằm thắm của ngày thiêng liêng dân tộc.
Đặc biệt năm nay, trong những ngày cuối tháng Chạp, dân chúng cứ ngẩng lên… trời, trông coi Hòa Bình tới chưa mà sao người ta cứ hẹn như hẹn nợ. Ăn Tết ở miệt vườn, ăn miếng mứt, uống chút rượu, mặc bộ bà ba mới cũng thấy có ý nghĩa.
Ê, khăn đóng tao mới rớt mà sao rã rồi ta?
Tết nhứt ở dưới ruộng, nhà nào cũng mua rượu đế năm ba lít để dành… đãi khách. Trong nhà ba ngày đầu năm mà không có rượu chẳng khác nào “Autobus sans manivelle”. Nhất là chừng năm năm sau này, nghĩa là bắt đầu từ tết Mậu Thân đến giờ, uống rượu đến gần như là cái… đạo. Từ 12 tuổi cho tới già, ai cũng uống được hết.
Người ta uống rượu để quên nhiều thứ lắm như quên thời cuộc rối rắm, quên thằng con đi lính đầu năm bị cấm trại 100 phần trăm em ơi không được về, và đôi khi vào quán, uống để quên… không trả tiền.
Nói vậy, chớ còn bây giờ về ruộng uống rượu đầu năm, mới thấy người ta tổ chức ngon lành lắm.
Có nhiều cách uống rượu… đế. Tất cả các cách đó đều được đặt chung trong bộ luật… nhậu sau đây:
Người cầm nhạo rót ra, được gọi là… ca nhạo.
Theo phép, ca nhạo phải làm trước một ly mới được xây tua. Quyền của ca nhạo là chỉ đâu là ở đó phải có bổn phận uống. Người nào không uống, khai bệnh, như đau bụng nhức đầu, bác sĩ cấm này nọ, gọi là đắp mô, một danh từ hết sức thời sự (?)… nông thôn. Vậy thì uống rượu tới chỗ đắp mô, cản trở lưu thông. Ông ca nhạo phải phá mô, nghĩa là phải uống giùm.
Những người ngồi trong bàn, phải kiểm soát lẫn nhau, nhất là phải coi chừng không cho người bên cạnh… lặn. Luật nhậu gọi là Liên gia kiểm soát. Ai ngồi uống rượu mà người bên cạnh bỏ đi mất thì phải phạt một ly.
Đó là cách thứ nhất, nhưng sôi nổi hơn hết là cách thứ hai. Ban đầu còn chén tạc chén thù, nhậu tới lúc khuya… nhang (kiểu gà cá độ) người ra bày ra trò quay đầu gà.
Con gà xé phay đã được thanh toán từ đầu chỉ duy có cái đầu là chưa ai rớ tới, vì không ai dám lãnh, bởi lẽ, nhất phao câu nhì đầu cánh, ai mà rớ tới thứ đó phải chịu trước một ly.
Chú Năm Đồ khăn be áo dài đi chúc tết thầy Cai, chú được anh em nể mặt là cao thủ… rượu đế từ lâu, do đó sau tuần trà nước, ông Hội đồng Che bắt đầu bày ly nhạo ra bàn tròn. Sắp nhỏ được huy động tối đa để chạy mời hàng xóm. Xóm thầy Cai này có Hội đồng Che là chơi ngọt với anh em nhứt. Cho nên không đầy nửa tiếng, là hàng xóm láng giềng lục tục kéo tới vui vẻ.
Đặc biệt bữa nay cuối năm không ai dám làm… ca nhạo. Do đó, người này “lỳ một lam” thì người bên cạnh “làm một ly”. Chai rượu thứ nhứt cạn. Chai rượu thứ hai đem lên. Hội đồng Che uống rượu đế đựng trong bình rượu chát loại năm lít của Bồ Đào Nha.
Tới chai thứ ba thì mọi người bắt đầu nói chuyện nghe có mùi… hèm. Chú Năm Đồ, khều nhẹ Hội đồng Che:
– Ê, Hội đồng, chú mày cho tao cởi áo dài nghe.
– Thì cởi đi anh Năm.
Chín Hảo đóng đáy bàn vô:
– Nè, thôi không xây tua nữa, tôi đề nghị quay đầu gà.
Cả bàn giơ tay:
– Rồi làm liền đi.
Cái đầu gà, được gắp bỏ vào trong cái dĩa có chén đậy lại. Mấy anh em căn dặn:
Nè nghe chú Năm, mỗi người lắc một cái rồi có quyền xây cái dĩa đi. Chừng nào không ai rờ mó nữa.
Màn quay đầu gà bắt đầu. Ai nấy coi bộ cũng sứa hết rồi.
– Ê, xong chưa, giở nghe ta.
– Rồi, giở đi.
– Chú Năm.
Nhiều tiếng cười khoái trá nổi lên. Năm Đồ làm một ly nghe cái trót rồi úp đầu gà lại. Lại lắc lắc, xoay xoay, mở ra lần nữa…
– Ê, cũng chú Năm bây ơi…
Chú Năm bồi thêm phát nữa.
– Chú Năm nữa ta ơi, chú Năm hên quá.
Năm Đồ làm một ly còn càu nhàu:
– Hên con mẹ họ. Con gà này nó chết rồi mà còn hại tao.
Tới lúc tiệc tàn, chú Năm Đồ vắt áo lên vai về. Bận này chú băng bờ ruộng. Ruộng khô nhiều lỗ chân trâu, thằng Bé đi cặp chú một khúc đường. Thằng Bé hồi này cũng đã quá. Hai người ôm nhau đi khập khiễng nói chuyện lè nhè, bỗng thình lình, chú Năm lọt bàn chân vô lỗ chân trâu chúi nhủi, áo dài khăn đóng văng tung ra. Thằng Bé lạng quạng đỡ chú lên. Chú Năm lè nhè:
– Khoan mày Bé, để tao lấy khăn đóng lên cái đã.
Miệng nói hai tay chú đưa ra bợ cái khăn đóng tròn tròn trước mặt. Nhưng lạ quá, chú vừa giơ lên định đội thì khăn đóng rớt lịch bịch xuống đất.
Chú càu nhàu một mình:
– Ê, khăn đóng tao mới rớt mà sao rã hết vậy ta.
Thằng Bé quờ quạng thấy ướt ướt, nó giơ lên mũi ngửi:
– Đâu phải khăn đóng chú Năm, bãi cứt trâu mà.
Năm Đồ cười, miệng méo xệch:
– Vậy mà tao cứ tưởng khăn đóng. Chắc tao đã quá.
Đầu năm điếm con gặp điếm ông nội
Cái thú giải trí miệt vườn ba ngày Tết là đánh bài. Bài bạc mau ăn thua nhứt là… bài cào.
Cắt tê sáu lá cầm chừng
Bài cào ba lá, tuột chừng không hay.
Ông Chín Cổ như thói quen, năm nào, bữa Hai Mươi Chín dẫn tới mồng Bốn, nhà cũng chứa bài cào. Đánh ở nhà ông toàn tay có máu mặt, như xã trưởng Lân, trung đội trưởng Thọ, thầy Bảy Quỳnh, chú Hai Nghĩa lái lúa, Ba Bạch sở đáy v.v…
Nói nào cho ngay, Tết nhứt làng xã cũng dễ dãi. Ở Cuộc Cảnh sát Quốc gia cũng lờ đi cho mọi người sát phạt nhau buổi đầu năm. Ông Chín Cổ chơi rất ngọt, rất sòng phẳng. Mấy năm rồi có khi ăn khi thua. Năm nay trên miệt Gia Định, Xã Lân có đưa thêm mấy tay mới đến chơi. Như vậy có ăn thua lớn rồi.
Sòng bài là chiếc đệm phơi lúa trải ở góc nhà. Ông Chín Cổ đã lớn tuổi lại có tật nhai trầu bỏm bẻm. Ông bận bộ bà ba mới may bằng sa tin.
Mới vô tụ đầu, ông làm cái. Tiền đặt ra như nước, chỗ nào cũng giấy năm trăm một ngàn xấp lớp. Chia bài xong, ông Chín liếc sơ qua tay em rồi mới cầm lên mạy. Bên ngoài mọi người nín thở hồi hộp theo dõi. Tay em chỗ này bảy nút chỗ kia tám nút, toàn là lớn không.
Ông Chín nặn từng lá, rồi bỗng ông lắc đầu thở ra:
– Thôi chết mẹ rồi.
Vừa kêu trời, ông Chín Cổ vừa quay mình ra phía sau để phẹt bãi cổ trầu vào góc nhà. Như một cái máy, các tay em lùa thêm tiền vào thật nhanh. Lúc ông Chín Cổ phun cổ trầu xong, quay lại, thả bài ra: hai thằng tây một tấm đệm, bù trất. Nhiều người thấy ông bị mấy tay em của Xã Lân vô tiền ăn thêm, không ai dám nói gì cả. Ông Chín hình như cũng biết như vậy, nhưng vẫn làm thinh.
Tụ đó, ông chung gần ba chục ngàn. Ông vẫn tỉnh bơ.
Cây bài lại xoay qua cho người khác làm cái luân phiên. Chừng mười phút sau, lại tới vòng ông Chín Cổ làm cái nữa.
Như bận trước, lúc chia bài xong, ông lại liếc tay em, rồi cầm lên mạy. Ông ăn thua đủ mà.
Bài tay em đã bỏ ra, sáu bảy nút có đủ. Lần này ông Chín coi bài rất chậm rất kỹ. Thôi rồi, ông lại thở ra.
- Chết cha tôi rồi. Cái gì mà xấu quá.
Ông nắm cứng ba lá bài như bận trước, rồi quay ra phía sau phẹt cổ trầu. Cả đám tay em Xã Lân lại lùa tiền vào thêm như chớp. Có người rút kinh nghiệm bận rồi, lần này dám nhét vào năm bảy ngàn phía dưới. Hồi ông Chín mới chia bài tổng cộng tay em chơi chừng bốn mươi ngàn. Nhưng bây giờ họ lùa thêm vào, tròm trèm có bảy tám mươi ngàn.
Ông Chín quay lại.
Cả sòng bài chờ.
Ông Chín nhìn qua tay em, xong ông thả bài ra.
Chín nút.
Ông Chín vùa hết tiền.
Xong ông đứng lên, ngó mọi người chung quanh, ông chia cho mỗi người đàn bà đứng coi mấy đồng. Ông lại ghế giữa, ngồi uống nước.
Đám tay em Xã Lân đau như hoạn, mời vồn vã.
– Đánh nữa chớ ông Chín.
Ông Chín Cổ cười khà khà:
– Thôi, hồi nãy tôi biết tôi bị mấy ông vô tiền, tôi đâu có nói. Bây giờ tôi cũng biết mấy ông vô tiền, tôi cũng đâu có nói. Điệu chơi mình phải như vậy. Thôi, sắp nhỏ có đứa nào đó, coi sửa soạn rồi cúng rước ông bà đi bây.
Chú thích:
[13] Ðường Tự Do (Catinat): Ðồng Khởi ngày nay.
[14] Ðường Trịnh Minh Thế (Jean Eudel): Nguyễn Tất Thành ngày nay.
BIẾM HỌA - MINH HỌA - BÌA GIAI PHẨM XUÂN XƯA
chân dung một số văn nghệ sĩ do họa sĩ hoàng lập ngôn vẽ theo lối tướng họa
Chân dung một số văn nghệ sĩ do họa sĩ Hoàng Lập Ngôn vẽ theo lối tướng họa
Lời của họa sĩ Hoàng Lập Ngôn:
Thưa các bạn,
Đây chỉ là một số nhỏ, 20 đầu mà tôi nhắm mắt rút trong tập “Đầu văn nghệ” vẽ từ thu 1948. Trên vài trang báo này, tôi rất tiếc không trình bày được hầu hết những vẻ mặt trìu mến của các Bạn Văn Nghệ thân yêu.
Cùng với các bạn đã họp mặt tại đây! Tôi đã yêu và tìm hiểu các bạn. Nếu “hình dung cổ quái” thì cũng vì “dị nhân dị tướng”. Nhìn các bạn bằng mắt, bằng tim, bằng óc, tôi cố tả tướng bạn, tình bạn. Và cho đến ngày nay, tôi tưởng chỉ nhìn được bạn đến thế này.
Thưa các bạn độc giả, muốn hiểu lối “tướng tính họa” này xin các bạn cũng nhìn như tôi. Nghĩa là bằng cách cả mắt, tai, tim, óc. Chúng ta cùng cố gắng mà hiểu.
(Báo Ánh Sáng Xuân Tân Mão 1951)
Chùm tranh “Tết các giới” của họa sĩ Hiếu Đệ
(Báo Tiếng Chuông Xuân Ất Mùi 1955)
“Hạm quan” ăn Tết.
Tết dưới gầm cầu.
Tết của những kẻ ở bên vệ đường.
Ông chủ mời cô thư ký ở lại cùng ăn Tết
Hạm “tiền chỗ” Sài Gòn – Chợ Lớn ăn Tết.
Tết của đệ tử Lưu Linh.
Tết của đệ tử Lưu Linh.
Tết của ăn cướp.
Tết vui vẻ của gia đình xích lô đạp .
Bàn “bầu cua cá cọp” mới của trẻ con ngày Tết.
Câu chuyện hàng tuần của người công chức gương mẫu
“Lời mạ kền: Có nhiều bạn bạo mồm bạo miệng cứ đổ diệt cho V.N.T.P cái tội ưa nói xấu các bà các cô. Tuy biết rằng những lời buộc tội đó không được “đứng đắn” lắm, nhưng được cái anh em trong tòa soạn ai cũng có thừa chất nịnh đầm cả nên đỡ lo; vả lại nói xấu các bà các cô như thế rồi còn ăn ở với ai? Vì vậy chúng tôi vội vàng thảo luận để… giải oan bằng được.
Bảo rằng các bà các cô nói xấu đàn ông thì còn dễ nghe chứ nói rằng đàn ông nói xấu đàn ông thì quả là… không êm tai tí nào… Đàn ông kể ra cũng lắm tài. Chi bằng chúng tôi cứ khen đại lẫn nhau, khen tưới hạt sen, khen vô tội vạ… Những cái tài đó như thế nào, chúng tôi đã nhờ họa sĩ Đức Khánh trình bày dưới đây.
Gà-răn-ti sẽ làm quý bà quý cô thoải mái.”

(Báo Văn Nghệ Tiền Phong số Xuân Tân Sửu 1961)
Bức tranh Tứ quý của dân nhậu
(Báo Sài Gòn Mới Xuân Nhâm Dần 1962. Tranh: Hòa Thanh)
Chùm tranh vui của Cả Tếu

(Báo Tia Sáng Xuân Ất Tỵ 1965)
Má cháu dặn khi nào ai lì xì thì nhớ cám ơn. Vậy bác có muốn cháu cám ơn không?
Coi vậy chứ một năm nó chỉ đớp bạc có một lần thôi, còn bọn gian thương thì đớp cả năm.
- Táo miền Trung sao về trễ vậy?
- Tâu Ngọc Hoàng, dân chúng đang lo cứu trợ bão lụt nên họ bỏ quên Táo.
Năm mới chúc ông bà gặp nhiều may mắn!
Năm mới chúc hai cụ đầu năm sinh con trai cuối năm sinh con gái!
- Sấp nhỏ đâu cả rồi?
- Chúng xuống đường đi sắm Tết rồi!
Không hiểu chủ nhà này trúng số áp phe gì mà ăn Tết lớn quá, cứ trông đống rác này thì biết ngay!
Nghe nói, đầu năm đến cuối năm ai cầm đồ nhiều nhất thì được tặng một quyển lịch có phải không cô?
Ta là phi hành gia không gian hay đang xuống chó?
Năm rồng phụ nữ múa như rồng.
Tết năm Rồng
Tết năm Rắn.
Vợ: Tết năm ngoái sao thiên hạ đến thăm mình đông thế còn năm nay sao không có ma nào?
Chồng: Tại họ biết mình xuống chưn rồi!
Đừng có lo, mai mốt còn tăng lương nữa mà mình!
Chào các bạn và xin hẹn tái ngộ 12 năm sau!
Chùm tranh của họa sĩ Văn Hiếu
(Báo Tiền Phong Xuân Nhâm Tý 1972)
Du Xuân
Tranh: ViVi. Lời: Nhật Tiến
(Báo Thiếu Nhi Xuân Quý Sửu 1973)
- Chị Hai ơi, tháng này em được bằng khen Danh dự nè!
- Chà, em học giỏi được thầy khen đó.
- Không phải đâu chị Hai ơi. Thầy giáo nói với em rằng sáng nào chị cũng đưa em đến trường như mấy bữa nay thì tháng nào thầy giáo cũng cho em giấy khen!
Tranh: Hưng Hội.
Báo Sài Gòn Mới Xuân Đinh Dậu 1957.
Cô giáo:
- Trong thân thể có bộ phận gì hở trò Tý?
Tý 6 tuổi:
- Dạ, có xương, thịt, mỡ, gầu, tái nạm và gân, với sụn ạ.
- Trời, thế ra trò nói chuyện phở tái?
- Vâng, vì ba em làm hàng phở ạ.
Tranh: Hưng Hội.
Báo Sài Gòn Mới Xuân Đinh Dậu 1957.
- A lô! Mình có thu xếp công việc rồi ra gấp với em nghen mình, nay là 28 Tết rồi. Em ra đây một thân cô độc lẻ loi buồn chết được... Vâng! Hả?... Sao? Mồng Một Tết cũngkhông ra được nữa à?... Trời ơi!Thế thì em chết mất!
Tranh: Hưng Hội.
Báo Sài Gòn Mới Xuân Nhâm Dần 1962.
- Đối với chúng mình đàn ông chỉ nói có một tiếng mà đủ cả chủ từ, động từ và túc từ...
- Tiếng gì vậy chị?
- Yêu!
- Ạ! Thì chúng mình đối với họ cũng thế. Tết nhứt đến nơi, mình sẽ nói với họ: Tiền!
Tranh: Hưng Hội.
Báo Sài Gòn Mới Xuân Nhâm Dần 1962.
- Anh đi hướng này với em mà!
- Không được. Hôm nay cuối tháng. Số tử vi dặn tuổi anh không nên đi qua hướng tiệm vàng Chợ Cũ.
- Sao lại ăn trộm con chó Nhựt Bổn của người ta?
- Thưa sếp, thật oan ức cho con vô cùng! Con đi, con thấy một sợi dây cột chó của ai tốt quá bỏ rơi ngoài đường, con mới hay cái đầu dây kia cột vào cổ một con chó. Oan ức quá sếp, con có trộm chó bao giờ.
Thầy bói: Số cô bị sao Liên Đới chiếu mạng cho nên lấy quan thì quan cách, lấy Khách thì Khách về Tàu, lấy nhà giàu thì nhà giàu sạt nghiệp.
Tranh: Hưng Hội.
Báo Sài Gòn Xuân Giáp Thìn 1964.
Cô thơ ký: Dạ, đánh cái thơ này rồi đem cho ông ký tên?
Ông chủ: Không, thơ... tôi viết cho cô đấy chớ!
Báo Tin Điển Xuân Ất Mùi 1955.
Chồng: Giờ này là mấy giờ rồi mà em còn ngồi lì đó! Không lo chợ búa còn cúng Ông Bà, rồi Giao thừa!
Vợ: Anh chỉ nhớ Giao thừa mà quên giao... tiền thì em đi chợ bằng gì đây!?
Báo Xuân Mai Xuân Ất Mùi 1955.
Giai phẩm Thần Chung báo Đại Dân Tộc Xuân 1975
Tranh minh họa đoản thiên tiểu thuyết Cái thù của tự do.
Báo Phụ Nữ Tân Văn Xuân 1932.
Minh họa truyện ngắn Tết nhà cụ Huyện - Leifa.
Báo Sài Gòn Mới Xuân Canh Dần 1950.
Minh họa trang nhi đồng.
Tranh: Lê Phan. Báo Sài Gòn Mới Xuân Canh Dần 1950.
Minh họa truyện ngắn Một thiên dật sử - L.T
Tranh: Lê Phan. Báo Sài Gòn Mới Xuân Canh Dần 1950.
Tranh: Lê Trung.
Báo Sài Gòn Mới Xuân Canh Dần 1950.
Minh họa truyện ngắn Tà áo thiên thanh - Sơn Phong.
Tranh: Lê Trung.
Báo Ánh Sáng Xuân Quý Tỵ 1953.
Minh họa truyện ngắn Một ván cờ chiều Ba mươi Tết - Nguyễn Duy Hiển.
Tranh: Hiếu Đệ. Báo Quê Hương Xuân Giáp Ngọ 1954.
Minh họa bài Ý nghĩa mảnh hoa tiên - Phan Phong Linh.
Tranh: Hiếu Đệ. Báo Nói Thật Xuân Giáp Ngọ 1954.
Minh họa phóng sự Nguyện vọng nhân dân - Anh Hợp.
Báo Thân Dân Xuân Giáp Ngọ 1954.
Minh họa phóng sự Cái Tết đau thương của kinh thành Huế - Nguyễn Huyền Linh.
Báo Nói Thật Xuân Giáp Ngọ 1954.
Minh họa truyện ngắn Thằng rể biệt tài số dách - không ghi tác giả.
Báo Tin Điển Xuân Ất Mùi 1955.
Minh họa bài Thuốc trường xuân - Lê Văn Ngôn.
Minh họa: Mạnh Quỳnh. Báo Mới Xuân Quý Tỵ 1953.
Minh họa báo Sài Gòn Mới Xuân Ất Mùi 1955.
Tiếng-Chuông-1955E
Minh họa phóng sự Xuân Sài Gòn 1955 - Ra Đa.
Báo Tiếng Chuông Xuân Ất Mùi 1955.
Minh họa theo tựa truyện ngắn trên báo Phụ Nữ Diễn Đàn Xuân Giáp Thìn 1964.
Tranh: Lê Minh.
Ca khúc Tiếng sáo thiên thai - Phạm Duy.
Minh họa: Hoàng Tích Chù. Báo Mới Xuân Quý Tỵ 1953

Ca khúc Xuân nguyện của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Giai phẩm Điện Tín Xuân Quý Sửu 1973.
Bài thơ Đường luật nổi tiếng Xuân Đại ẩn am - Đông Hồ.
Báo Tự Do Xuân Mậu Tuất 1958.
Không quá khứ, không vị lai
Thời gian xuân giữ thắm tươi hoài
Từ lâu xanh vẫn vươn càng liễu
Và mãi vàng luôn đượm cánh mai
Cuộc thế mi thường cơn mộng lớn
Nguồn xuân bất tận suối thơ dài
Làm chi năm một lần khai bút
Bút đã khai từ thiên địa khai.
Một trang báo đẹp và lạ trình bày bài thơ chữ Hán Xuân Cảm của nhà thơ Vũ Hoàng Chương, có bản dịch của tác giả, do chính tác giả viết chữ thư pháp Hán và Việt.
Báo Sống Chung Xuân Quý Sửu 1973.
Truyện ngắn Bên hè nhà băng - Quốc Ấn.
Minh họa: Hiếu Đệ.
Báo Tiếng Chuông Xuân Ất Mùi 1955.
Hài kịch Chè! Ô cay - Sư Tàng.
Báo Tiếng Chuông Xuân Bính Thân 1956.
Bài phiếm Tôi bị bắt buộc bỏ hút nhưng mà... - Ba Búa.
Báo Tiếng Chuông Xuân Bính Thân 1956.
Phóng sự vui Sài Gòn xuân 56 - Du Lam Khách.
Báo Tiếng Chuông Xuân Bính Thân 1956.
Bài Năm chó nói chuyện mèo - Nguyễn Quang Lục.
Báo Tự Do Xuân Mậu Tuất 1958.
Bài Những vấn đề của chúng ta - Phạm Việt Tuyền.
Báo Tự Do Xuân Kỷ Hợi 1959.
Vở kịch ghen Tất niên - Dạ Vũ.
Minh họa: Lê Minh. Báo Phụ Nữ Ngày Mai Xuân Canh Tý 1960.
Kịch vui Đêm giao thừa nhảy Tuýt - Chị Ba Sún Răng.
Minh họa: Lê Minh. Báo Phụ Nữ Diễn Đàn Xuân Giáp Thìn 1964.
Phunudiendan64A
Truyện ngắn Đời người ngược xuôi được mấy - Bà Tùng Long
Minh họa: Lê Minh. Báo Phụ Nữ Diễn Đàn Xuân Giáp Thìn 1964.
Truyện ngắn Một đóa hoa xuân đôi cánh bướm - Thúy Liễu.
Minh họa: Lê Minh. Báo Phụ Nữ Diễn Đàn Xuân Giáp Thìn 1964.
Truyện ngắn Một đóa hoa xuân đôi cánh bướm - Thúy Liễu.
Minh họa: Lê Minh. Báo Phụ Nữ Diễn Đàn Xuân Giáp Thìn 1964.
Đoản thiên Tâm tình xuân về - Hoàng Ngọc Liên.
Báo Văn Nghệ Tiền Phong Xuân Tân Sửu 1961.
Hồi ký Người ta đồn rằng - Triều Đẩu.
Báo Văn Nghệ Tiền Phong Xuân Tân Sửu 1961.
Truyện ngắn Mùa xuân trở về - Tuấn Huy.
Báo Văn Nghệ Tiền Phong Xuân Tân Sửu 1961.
Bài Xuân tin tưởng - Thư Tòa soạn.
Minh họa: Phan Khánh.
Báo Phụ Nữ Diễn Đàn Xuân Quý Mão 1963.
Tùy bút Thư nhà - Võ Phiến. Báo Tự Do Xuân Tân Sửu 1961.
Bài Múa sư tử - Đinh Hùng. Tập san Ánh Đèn Dầu Xuân Tân Sửu 1961.
Bài Hà! Dô lá! Chiết con tàu dồi! - không ghi tác giả.
Báo Sài Gòn Mới Xuân Tân Sửu 1961.
Bài Con trâu trong thơ văn bình dân - Bạch phu nhân.
Báo Sài Gòn Mới Xuân Tân Sửu 1961.
Bài Lá thư đầu xuân - S.D.M.N.
Minh họa: Tạ Tỵ.
Báo Sáng Dội Miền Nam Xuân Nhâm Dần 1962.
Bài Truyện kỳ lạ về ba nhạc sư đời xưa - Nguyễn Tri Khương và phóng sự ảnh Trung tâm thủ đô những ngày gần Tết - Minh Huy.
Báo Sáng Dội Miền Nam Xuân Nhâm Dần 1962.
Hai minh họa theo bài.
Tranh: Hưng Hội.
Báo Phụ Nữ Diễn Đàn Xuân Giáp Thìn 1964.
Truyện ngắn Chờ một bàn tay - Hoài Thanh.
Báo Tiếng Chuông Xuân Quý Mão 1963.
Minh họa: Từ Huy. Báo Phụ Nữ Diễn Đàn Xuân Quý Mão 1963.
Báo Tiếng Chuông Xuân Quý Mão 1963.
Bài Xem bói xem số ngày Xuân - Mỹ Tín.
Báo Chính Luận Xuân Kỷ Dậu 1969.
Tranh Nhớ về quê Tổ.
Báo Tự Do Xuân Canh Tý 1969.
Truyện ngắn Ăn Tết hòa bình - Tùng Long.
Minh họa: Tạ Kim. Báo Tự Do Xuân Kỷ Dậu 1969.
Bài Ngày xuân nói chuyện vợ chồng - Cô Hậm Hực.
Báo Chính Luận Xuân Kỷ Dậu 1969.
Truyện ngắn Chiếc lá mùa xuân - Thanh Thương Hoàng.
Báo Chính Luận Xuân Kỷ Dậu 1969.
Truyện ngắn Cuốn sách hình du lịch - Bình Nguyên Lộc.
Minh họa: Tạ Kim. Báo Tự Do Xuân Kỷ Dậu 1969.
Bài Gà trống lý tưởng của các mái 69 - Phượng Thúy.
Báo Chính Luận Xuân Kỷ Dậu 1969.
Vở kịch Đón Xuân - Hoàng Liên.
Báo Chính Luận Xuân Kỷ Dậu 1969
Kịch thơ Diễm Ảnh - Quách Thoại.
Minh họa: Ngọc Dũng. Báo Văn Nghệ Mới Xuân Kỷ Dậu 1969.
Minh họa bài Số ông Táo... lé: Cơ trời bị tiết lộ - Tú Khờ.
Báo Tin Sớm Xuân Giáp Thân 1964.
Bài Sớ táo quân.
Minh họa: Diệp Đình.
Báo Hòa Bình Xuân Nhâm Tý 1972.
Bài thơ trong vườn mộng mùa xuân - Huy Tưởng.
Tranh phụ bản của Ngọc Điệp. Báo Tuổi Ngọc Xuân Nhâm Tý 1972.
Truyện ngắn Mùa tiếp mùa - Mường Mán.
Minh họa: Hoàng Đặng.
Báo Tuổi Ngọc Xuân Quý Sửu 1973.
Truyện ngắn Đêm giao thừa của Tiểu Phụng - Ngọc Minh.
Minh họa: Lê Vĩnh Ngọc. Báo Tuổi Ngọc Xuân Quý Sửu 1973.
Trang thơ Kim Tuấn - Vũ Hoàng.
Báo Tuổi Ngọc Xuân Quý Sửu 1973.
Kịch Mùa nhớ nhung còn xanh - Từ Kế Tường.
Báo Tuổi Ngọc Xuân Quý Sửu 1973.
Bài Dấu vết một mùa xuân - Mặc Linh Giang.
Minh họa: Đinh Tiến Luyện. Báo Tuổi Ngọc Xuân Quý Sửu 1973.
Minh họa truyện ngắn Và vĩnh viễn phai xuân - Nguyễn Thị Ngọc Minh.
Báo Tuổi Ngọc Xuân Ất Mão 1975.
Minh họa truyện ngắn Con búp bê mắt nâu tóc huyền - Đinh Tiến Luyện.
Báo Tuổi Ngọc Xuân Ất Mão 1975.
Minh họa truyện ngắn Cuối năm ở Tuy Phong - Nguyễn Thanh Trịnh.
Báo Tuổi Ngọc Xuân Ất Mão 1975.
Bài Làm gì giữa dòng cuộc đời - Trần Minh Thông.
Minh họa: ViVi. Báo Thiếu Nhi Xuân Quý Sửu 1973.
Truyện ngắn Chuyến về cuối năm - Phan Khương Thái.
Minh họa: ViVi. Báo Thiếu Nhi Xuân Quý Sửu 1973.
Phạm Công Luận
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đọc lại "Xem đêm" của Phùng Cung

Đọc lại "Xem đêm" của Phùng Cung Nghệ thuật thi ca của Phùng Cung, trong Xem đêm thật tài tình. Có thể nhận định một cách ngắn g...