Thứ Tư, 1 tháng 3, 2017

Lỗi bệnh trong thơ đường luật

Lỗi bệnh trong thơ đường luật 
12 LỖI
Thơ Đường luật
1. Lạc vận
2. Lạc đề
3. Thất niêm, thất luật
4. Thất đối
5. Khổ độc
6. Điệp thanh
7. Điệp điệu
8. Điệp âm
9. Trùng vận
10. Trùng từ/điệp từ
11. Trùng ý /Hiệp Chưởng
12. Phạm đề/Mạ đề

1.LẠC VẬN/CƯỠNG VẬN
Vần là yếu tố quan trọng để tạo nhạc cho thơ. Do đó cần phải tránh gieo vần cưỡng ép hay lạc vận. Nếu không dùng vần chính thì nên lựa vần thông càng gần nhau càng tốt.
Ví dụ bài thơ lạc vận:
Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chum trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng đã vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào
(Nguyễn Khuyến)
Than thời loạn
Lửa hồng từ dậy mái thành đô
Đòi chốn lầm than chyện được thua
Xanh biếc thú quê người ẩn dật
Bạc đen đường thế khách bôn xu
Suy tường mỗi mỗi đau lòng trí
Tính quẩn trần trần nát dạ ngu
Muốn đến Vỵ Xuyên tìm hỏi Lữ
Rằng Thương xưa cũng thế này ư
(Khuyết danh)
Thơ cưỡng vận:
Không chồng mà chửa
Cả nể cho nên hoá dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,(1)
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.(2)
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?(3)
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.(4)
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Những kẻ không mà có mới ngoan (5)
(Hồ Xuân Hương)

(1)-(2) ở đây, dùng lối chơi chữ Hán. Chữ Thiên là trời nhô đầu lên thì thành chữ Phu là chồng; chữ Liễu là rõ hoặc hết, đồng âm với cây liễu chỉ người con gái, nếu thêm một nét ngang thì thành chữ Tử là con. Hai câu này ý nói: Gái chưa chồng mà sao đã có con trong bụng?
(3)-(4) Tình và nghĩa gắn liền đặc tính truyền thống của Hồ Xuân Hương nhấn mạnh cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn ông nào đó thường vô tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ.
(5) Tác giả đứng về phía người con gái mà dùng ý một câu ca dao: “Không chồng mà chửa mới ngoan; Có chồng mà chửa thế gian sự thường”!
Đêm buồn
Trời không chớp bể với mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức
Bên chùa thằng trọc đã hồi chuông
(Trần Tế Xương)
2.LẠC ĐỀ
Khi NỘI DUNG của THỰC+LUẬN không khớp với Ý NGHĨA của NHAN ĐỀ thì phạm lỗi Lạc đề.
3.1.THẤT NIÊM
Muốn xét một bài thơ có thất niêm hay không thì nhìn chữ thứ 2:
- Chữ thứ 2 câu 2 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 3
- Chữ thứ 2 câu 4 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 5
- Chữ thứ 2 câu 6 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 7
- Chữ thứ 2 câu 8 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 1
Ví dụ bài thơ thất niêm:
Dĩ hoà vi quý
Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu
Làm chi cho có sự đôi co
Ðấy cậy đấy khôn, đây chẳng nhịn
Ðây rằng đây phải, đấy không thua
Duật nọ hãy còn đua với bạng
Lươn kia hầu dễ kém chi cò
Chữ rằng: Nhân dĩ hòa vi quý
Vô sự thì hơn, kẻo phải lo
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Hà tiện
Giàu thì ba bữa khó thì hai
Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy
Nón đổi lá ngoài quần đổi ống
Dép thay da mặt túi thay quai
Dặn vợ có cà đừng gắp mắm
Bảo con bớt gạo bỏ thêm khoai
Thế gian mặc kẻ cười hà tiện
Ta chẳng phiền ai chẳng luỵ ai
(Nguyễn Minh Triết)
3.2.THẤT LUẬT
Để biết một bài thơ có thất luật hay không thì nhìn vào các chữ thứ 2, 4, 6.
Trong mỗi cặp câu thì các chữ thứ 2, 4, 6 của câu trên phải khác nhóm thanh (bằng hay trắc) với chữ thứ 2, 4, 6 của câu dưới.
Trong cùng một câu thì chữ thứ 2 phải khác nhóm thanh với chữ thứ 4 và cùng nhóm thanh với chữ thứ 6. 
Ví dụ bài thơ thất luật:
Tự trào
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc
Bút thánh câu thần sớm vãi vung
Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh
Khuyên khuyên điểm điểm có hay không
Bởi ông hay quá ông không đổ
Không đổ ông càng tốt bộ ngông 
(Tản Đà)
Đèo Ba Dội
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
(Hồ Xuân Hương)
4.THẤT ĐỐI
Đối chiếm địa vị quan trọng trong thơ Đường luật. Bỏ đối đi thì không còn được gọi là thơ Đường luật nữa. 
Ví dụ bài thơ thất đối:
Nghe hát
Phách ngọt đàn say nệm gối êm
Tiếng ca buồn nổi giữa trời đêm
Canh khuya đưa khách lời reo ngọc
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm
Ai lạ nghìn thu xa tám cõi
Sao vàng như động phía châu liêm
Nao nao khói biếc hài thương nữ
Trở gối hoa lê rụng trắng thềm
(Vũ Hoàng Chương)
Nghẹn bước
Nắng rụng gầy sương đường lỡ thì
Thương người khăn gói nghẹn chân đi
Quán nghiêng nửa mái chờ giông tố
Ngõ hẹp mây đùn sập nét mi
Quỷ dựng đàng sau muôn lớp ải
Lòng nghe nai gặm cỏ biên thuỳ
Xoa tay nhớ lại mùa xuân trước
Phấn bướm còn vương nhịp trúc ty
(Vũ Hân)
5.KHỔ ĐỘC
Lỗi khổ độc rất phổ biến trong các người làm thơ Đường luật mà không rành luật thơ, ngay cả đối với một số nhà thơ nổi tiếng cũng có khi mắc phải. 
Ví dụ:
Một mảnh tình riêng TA với ta
BHTQ
Hát bội
Đứa mắc ghẻ ruồi, đứa lác voi
Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi
Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc
Kẻ nịnh râu hoe mấy sợi còi
Trên trính có nhà còn lợp lọng
Dưới chân không ngựa lại giơ roi
Hèn chi chúng nói bội là bạc
Bôi mặt đánh nhau, cú lại thoi
(Phan Văn Trị)
6.ĐIỆP THANH
Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 tiếng bằng và 3 tiếng trắc hoặc bốn tiếng trắc và ba tiếng bằng. Những tiếng bằng hay trắc đó phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu. Ví dụ câu thơ có 4 tiếng bằng thì chỉ nên dùng 2 chữ có dấu huyền (trầm bình thanh), dùng 3 hoặc cả 4 chữ có dấu huyền làm câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Ngược lại nếu dùng nhiều tiếng không dấu (phù bình thanh) sẽ làm câu thơ nghe ngang ngang không êm dịu. 
Ví dụ:
Cung oán
Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa
Gang tấc xem bằng mấy dặm xa
Một kiếp đã đành rằng để vậy
Chín trùng có thấu đến chăng là
Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy
Tan mặt buồn tênh cái nhện sa
Ví biết than này chi khó bấy
Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà
(Ôn Như Hầu)
Than nghèo
Chẳng chán ru mà quấy mãi đây
Nợ nần dan díu bấy lâu nay
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phong lưu hoá phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay
Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này
(Nguyễn Công Trứ)
7.ĐIỆP ĐIỆU
Điệp điệu là khi nhiều câu liên tiếp ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy ra ở các câu giữa của bài thơ. 
Ví dụ:
Giữ mực thanh liêm
Chớ nghĩ là quan đã bảnh bao
Yêu nhau một giống nghĩa đồng bào
Bới lông tìm vết/ lòng không nỡ
Giục bị xui nguyên/ tội xiết bao
Dấu đỏ loè dân/ trò lính lệ
Môi thâm hót nhảm/ lối cường hào
Kiếm xu không phải mình không thạo
Bắt nạt dân đen có lẽ nào
(Đặng Xuân Bảng)
Hằng Nga
Hỡi chị Hằng Nga náu Quảng Hàn
Bốn mùa trăng gió với giang san
Áo tiên/ tuy nhuộm/ mùi Vương Mẫu
Hương tục/ còn nồng/ lửa Hậu Lang
Mắt phượng/ đã say/ miền ngọc thỏ
Cung nghê/ nỡ phụ/ khúc cầm loan
Nếu không duyên nợ cùng người thế
Xin chớ gieo mình nước hợp loan
(Hồ Xuân Hương)
8.ĐIỆP ÂM
Điệp âm là những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu hoặc cùng vị trí trong hai câu.
Ví dụ:
Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ
Chồn toan mượn lốt để hù nai
Giàn treo trã cá vung không đậy
Bếp tạt mưa đêm nước nhỏ đầy
Chim oanh đường cũ đương bay nhảy
Chồi quế sân trong muốn thập thò
(Khuyết danh)
Hai tiếng cùng âm đứng kế liền nhau, các từ đôi lắp láy thì không kể là lỗi.
Ví dụ:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
(Nguyễn Khuyến)
Ngàn mai lác đác chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà
(Bà Huyện Thanh Quan)
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Chỉ vì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
(Hồ Xuân Hương)
9.TRÙNG VẬN
Thơ Đường luật chỉ dùng đơn vận, nếu cùng một chữ vần được dùng lặp lại ở hai câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng.
Tuy nhiên nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau, không phạm lỗi. Nhưng không nên để hai vần đồng âm gần nhau để tránh nghe đọc không hay. 
Ví dụ:
Thăng Long Thành hoài cổ
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chữ “trường” câu 1 với chữ “trường” câu 8 có nghĩa khác nhau nên không phạm lỗi trùng vận .
Cũng vậy trong bài sau, hai chữ cờ có nghĩa khác nhau:
Cảm tác
Mấy chục năm qua gió bụi mờ
Tưởng rày bớt đục hoá thêm nhơ
Mặt đành bôi mặt gà chung mẹ (1)
Tay sẵn ngon tay gió phất cờ (2)
Ruột đứt non sông trời Bến Hải
Sầu vương cây cỏ đất Cần Thơ
Đêm đêm dưới nguyệt gươm mài hận (3)
Ai nữa chung tay lật thế cờ
(T. X.)
(1) Gà nhà bôi mặt đá nhau
(2) Theo gió phất cờ
(3) thơ Đặng Dung: Kỷ độ Long tuyền đái nguyệt ma (dưới trăng bao bận tuốt gươm mài)
Nhưng nếu để hai vần đồng âm gần nhau sẽ nghe rất dở! 
Ví dụ:
Tám phương bước lạc đến công trường
Thấy cảnh tình ai khỏi đoạn trường
(Khuyết danh)
10.TRÙNG TỪ
Cùng một chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ.
Bài thơ bị đánh giá là kém cỏi.
Trong trường hợp sử dụng mỹ từ pháp điệp ngữ thì không tính là lỗi. 
Ví dụ bài thơ trên của Bà Huyện Thanh Quan (Thăng Long Thành hoài cổ) bị trùng từ ở hai chữ “cũ”. Dùng lại chữ một lần thì tạm chấp nhận, dùng lại hai, ba lần thì bài thơ bị đánh giá là kém cỏi.
Ví dụ:
Dại khôn
Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại biết ai khôn?
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương ấy dại khôn
Mấy kẻ nên khôn đều có dại
Những người có dại mới nên khôn
Cái khôn ai cũng khôn là thế
Mới biết trần gian kẻ dại khôn
(Trần Tế Xương)
Ghẹo cô bán cau
Hỏi cau ai bán tiếng nghe rao
Tốt vóc mà trong biết thế nào
Giấu để trong buồng e đóng đục
Bày ra trước mắt thấy ngon dao
Muốn mua nên phải coi từ vú
Có bán xin cho thử chút mào
Chuốt ngót của mình ai dám chắc
Biết lòng biết mặt xỉa tiền trao
(Đỗ Thanh Tân)
Hỏi thăm ông ấm
Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà
Trước nhà có miếu có cây đa
Vườn ao đất cát chừng ba thước
Nửa lá tre pheo đủ mọi toà
Mới sáu bận sanh đà sáu cậu
Trong hai dinh ở đủ hai bà
Lưng ông mốc thếch như trăn gió
Ông được phong lưu tại nước da
(Trần Tế Xương)
Cũng là trùng từ khi hai chữ đọc khác nhau nhưng cùng một nghĩa, Ví dụ:
Tặng biệt
Dù bắc dù nam cũng một trời
Ba sinh tan hợp cái trò chơi
Cười ta tri kỷ bên mình ít
Mừng bạn cao đường dưới gối vui
Trăng nước Cù Giang duyên mãi thắm
Cỏ hoa Hồng Lĩnh bút thêm tươi
Những đêm êm ấm lòng rung động
Là biết nơi đây tớ nhớ người
(T.X.)
Ta và tớ đều nói cùng một nghĩa, phạm lỗi trùng từ nên giá trị bài thơ cũng giảm sút nhiều.
11.TRÙNG Ý
Trong bài thơ Đường luật nếu có câu chữ nào lặp lại ý của các câu chữ đã dùng mặc dù dùng từ khác đi thì cũng bị lỗi trùng ý. Nếu lỗi trùng ý nằm trong hai câu thực, hoặc hai câu luận thì gọi là hiệp chưởng (câu trên câu dưới đối nhau mà ý nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp lại). 
Ví dụ:
Thách họa
Thế sự nhìn xem rối cuộc cờ
Càng nhìn càng nghĩ lại càng dơ
Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm
Gõ vỡ trần gian tiếng mõ trưa
Chu tử ngán mùi nên vải ấm
Đỉnh chung lợm giọng hoá chay ưa
Lên đàn cứu khổ toan quay lại
Bể ái trông ra nước đục lờ
(Công chúa em Minh Mạng)
Vịnh pháo tre
Đông tàn xuân đã đến đây be
Bốn phía rền vang những pháo tre
Mắng tiếng giật mình loài quỷ xó
Nghe hơi mất vía lũ ma hè
Trêu người trướng gấm kinh hồn điệp
Ghẹo kẻ màn loan tỉnh giấc hoè
Trừ cựu mượn chàng kêu một tiếng
Mừng xuân muôn cửa chán tai nghe
(Hương Kiểu)
Nếu hai cặp thực và luận trùng ý nhau thì gọi là sàng túc (hai chiếc giường chồng lên nhau) hay là điệp sàng xá ốc (giường nhiều lớp, nhà gác chồng).
12.PHẠM ĐỀ/MẠ ĐỀ
Trong hai cặp THỰC và LUẬN không được dùng chữ của đầu bài, nếu có chữ nào của NHAN ĐỀ bài thơ lọt vào thì bị lỗi PHẠM ĐỀ hay MẠ ĐÈ. 
Ví dụ:
THEO voi ăn bã mía
Ăn mía theo voi tiếng đến giờ
Vì chi miếng bã để trò dơ
Rón chân những chực khi vòi nhả
Rát lưỡi đành xơi cái ngọt thừa
Ấy đã THEO đuôi thời phải hít
Còn đâu nên tấm nữa mà vơ
Nghìn năm bia miệng là câu thế
Những khách ăn tàn đã biết chưa
Tản Đà
Bài này bị PHẠM ĐỀ ở chữ THEO trong câu 5.
8 BỆNH
Thơ Đường luật
1. Bình Đầu
2. Thượng Vỹ
3. Phong Yêu
4. Hạc Tất
5. Chánh Nữu
6. Bàng Nữu
7. Đại Vận
8. Tiểu Vận

1.BÌNH ĐẦU
Bài thơ mà có nhiều câu liên tiếp bắt đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố tình làm có mục đích rõ rệt. 
Ví dụ:
Đĩ già đi tu
Lầu xanh thánh thót tiếng chuông chiền
Tỉnh giấc Cao đường lúc ngửa nghiêng
Mượn chiếc thuyền tình qua bể ái
Đưa con sóng sắc tới rừng thiền
Trông gương trí tuệ đau lòng tục
Lần chuỗi bồ đề kết trái duyên
Mát mẻ cửa Không trăng gió sẵn
Dầu chưa nên Phật cũng nên tiên
(Huỳnh Mẫn Đạt)
Đón Tết
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu
Rượu cúc nhắn đem hàng biếng quẩy
Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu
Bánh đường sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu
Thôi thế thì thôi đành tết khác
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
(Trần Tế Xương)
2.THƯỢNG VĨ 

Bệnh Thượng Vĩ là bệnh mà 3 chữ sau cùng của 2 liên đứng kề nhau, nghĩa là 3 chữ sau của 4 câu đứng liền nhau, hoặc 4 câu đầu, hoặc 4 câu giữa, hoặc 4 câu cuối. Kỵ nhất là chữ thứ 5. Nếu 3 chữ cuối của 4 câu, nhất là chữ thứ 5, chữ làm thi nhãn cho câu thơ, đồng tự loại, thì câu thơ như chỏng đuôi lên cao. Do đó mà gọi là bệnh Thượng Vĩ, tức là bệnh Chỏng Đuôi.
Thí dụ:
KHÓC TRƯƠNG QUỲNH NHƯ
Trời xanh cao thẳm mấy từng khơi
Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi
Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói
Sầu nâng chén cúc rượu không hơi
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng
Ải bắc hồng sang bể tuyệt vời
Một khối chung tình tan mấy mảnh
Suối vàng ai cũng thấu lòng ai
Phạm Thái
VIẾNG THÀNH HUẾ SAU NGÀY ĐÌNH CHIẾN
Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng
Sầu vương lau lách lạnh thành hoang
Tro tàn thư viện duyên ngao ngán
Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng
Gầy gọ gió sương tùng Thế miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Hương giang
Trông vời Thiên mụ mây man mác
Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng
Tú Xương
Những chữ ngao ngán, ngỡ ngàng, và Thế miếu, Hương giang tuy không đồng tự loại (một bên là trạng từ một bên là danh từ riêng) nhưng đều là tiếng đôi (từ kép), cho nên đứng sau tiếng Duyên, Bước, Tùng, Trúc, đều là danh từ chung, trở thành bộ ba gây ra bệnh Thượng Vĩ.
Nếu chữ thứ 5 tức chữ thi nhãn, của Hạm liên và của Cảnh liên không đồng tự loại, thì dù 2 chữ sau của cả 4 câu đều một tự loại cũng không bị bệnh. 
Bệnh Thượng Vĩ xưa nay thường bị vấp. Trong những tác phẩm lưu truyền của các danh gia, chúng ta thường gặp những bài bị bệnh. Bị bệnh là vì thi nhân muốn cho câu thơ được già dặn hay dùng thực tự làm thi nhãn và quá chú trọng ở nhãn tự, nhiều khi quên nghĩ đến bệnh. Lúc đã nhận thấy lại tiếc chữ vừa ý, không muốn thay đổi.
Cho nên muốn tránh bệnh Thượng Vĩ, chúng ta nên để ý đến chữ thứ 5 của 4 câu đi liền nhau, đừng cho trùng tự loại.
3.PHONG YÊU
Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 2 trong cùng câu thì gọi là lỗi phong yêu.
Ví dụ:
Để bụng phải đeo điều nhẹ nặng
Ôm tai mặc quách tiếng chê khen
(Trần Tế Xương)
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến
Giong lèo thây kẻ ráp xui ghềnh
(Hồ Xuân Hương)
4.HẠC TẤT
Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 4 trong cùng câu thì gọi là lỗi hạc tất.
Ví dụ:
Nghe lời phi pháp tai làm điếc
Nghĩ nỗi nhân tình ruột lại đầy
(Khuyết danh)
Tôn Phu Nhân Qui Thục
Cật ngựa thanh gươm ven chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
(Tôn Thọ Tường)
Bài này câu 2 phạm phong yêu, câu 3 phạm hạc tất.
Cảm hoài
Chút nghĩa vương mang phải gắng đi
Tang bồng đành rõ khí nam nhi
Thuyền ngô phơi phới giăng hòn bạc
Khói đá phăng phăng lướt tích ti
La Hán dang tay chờ khách đến
Tướng quân hé mắt hẹn ngày về
Phen này miễn được hoà hai nuớc
Nỗi tớ xin đừng bận bịu chi
(Phan Thanh Giản)
Bài này câu 1, 4 phạm hạc tất, câu 5 phạm phong yêu.
5.CHÁNH NỮU
Trong một câu có nhiều hơn hai chữ có cùng phụ âm đầu (hoặc bắt đầu bằng nguyên âm, không có phụ âm đầu) thì phạm lỗi chánh nữu. 
Ví dụ:
Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao long lánh bóng trăng loe
(Nguyễn Khuyến)
6.BÀNG NỮU
Nếu các chữ có cùng phụ âm đầu hoặc bắt đầu bằng nguyên âm nằm gần nhau trên hai câu liên tiếp thì phạm lỗi bàng nữu. 
Ví dụ:
Đón Tết
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu
Rượu cúc nhắn đem hàng biếng quẩy
Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu
Bánh đường sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu
Thôi thế thì thôi đành tết khác
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
(Trần Tế Xương)
Câu 1, 8 và câu 7 phạm lỗi chánh nữu, câu 1-2 phạm lỗi bàng nữu. 
Ví dụ:
Viếng thành Huế sau ngày đình chiến
Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng
Sầu vương lau lách lạnh thành hoang
Tro tàn thư viện duyên ngao ngán
Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng
Gầy gọ gió sương tùng Thế miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Hương giang
Trông vời Thiên Mụ mây man mác
Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng 
(Trần Tế Xương)
7.ĐẠI VẬN
Bài thơ Đường luật chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi đại vận
Ví dụ:
Bâng khuâng ngày xế cả than trời
Ai đố cho người gánh nạn đời
Làng đế đành theo ông hữu đạo
Cõi phàm hỗ ngó lũ vô quân …
(Nguyễn Đình Chiểu)
Siếu mai chi dám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
(Hồ Xuân Hương)
Nước non nào phải của ai đâu
Nhiều ít công hầu cũng mặc dầu
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
8.TIỂU VẬN
Nếu chữ thứ 2 trong câu vần với chữ thứ 6 hoặc thứ 7 thì phạm lỗi tiểu vận.
Ví dụ:
Chín bệ dâng lời dù khép nép
Bốn phương trông ngóng cũng nương nhờ
(Phan Huy Ích)
Ví dụ cả đại vận và tiểu vận:
Thi hỏng
Mai này tớ hỏng tớ đi ngay
Cúng giỗ từ nay nhớ lấy ngày
Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
Thi không ăn ớt thế mà cay
Sách đèn phó mặc đàn con trẻ
Thưng đấu nhờ tay một mẹ mày
“Cống hỉ” “mét xì” đây thuộc cả
Chẳng sang Tàu tớ cũng sang Tây
(Trần Tế Xương)
Trương Minh Thuận
Theo http://vantho.forumvi.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị Đèo Prenn ngun ngút sắc trời// Hờ hững ngang chiều dải lụa nàng tiên rơi mùa hội trẩy/ Lả lướt theo ...