Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017

Biên cương hành - Thơ của Phạm Ngọc Lư và cảm nhận của Huỳnh Xuân Sơn

Biên cương hành - Thơ của Phạm Ngọc Lư 
và cảm nhận của Huỳnh Xuân Sơn
Anh Phạm Ngọc Lư sinh năm 1946 (Bính Tuất) ở Vĩnh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên. Ngụ cư Đà Nẵng từ 1994. 
Cựu sinh viên Hán Học Viện và Đại học Văn khoa Huế. 
Tốt nghiệp trường Quốc gia Sư phạm Quy Nhơn.
Bước vào con đường văn chương (viết trên các tạp chí Văn, Khởi Hành, Ý Thức, Bách Khoa) trong những năm sống và dạy học ở Tuy Hòa trước năm 1975.
Anh vừa mới đi về miền miên viễn ngày 27-5-2017 tại Đà Nẵng.
                 BIÊN CƯƠNG HÀNH
                 Biên cương biên cương chào biên cương
                 Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
                 Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
                 Núi chập chùng như dãy mồ chôn
                 Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
                 Thổi lấp rừng già bạt núi non
                 Mùa khô tới theo chân thù địch
                 Ta về theo cho rậm chiến trường
                 Chiến trường ném bẹp núi
                 Núi mang cao điểm binh như vãi đậu
                 Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
                 Lớp lớp chồm lên đè ngút oan hờn
                 Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
                 Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
                 Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
                 Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
                 Biên cương biên cương đi biền biệt
                 Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
                 Trông núi có khi lầm bóng vợ
                 Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
                 Thôi em, sá chi ta mà đợi
                 Sá chi hạt cát giữa sa trường
                 Sa trường anh hùng còn vùi dập
                 Há rằng ta biết hẹn gì hơn?
                 Đây biên cương, ghê thay biên cương!
                 Núi tiếp rừng, rừng tiếp khe truông
                 Hãi hùng chưa trời hoang mây rậm
                 Mùa mưa về báo hiệu tai ương
                 Quân len lỏi dưới tàn lá dữ
                 Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
                 Sát khí đằng đằng rừng dựng tóc

                 Ma thiêng còn ngán bọn cô hồn
                 Cô hồn một lũ nơi quan tái

                 Có khi đã hóa thành thú muông
                 Cô hồn một lũ nơi đất trích
                 Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
                 Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
                 Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương
                 Đây biên cương, ghê thay biên cương!
                 Tử khí bốc lên dày như sương
                 Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu
                 Rừng núi ơi ta đến chia buồn
                 Buồn quá giả làm con vượn hú
                 Nào ngờ ta con thú bị thương
                 Chiều hôm bắt tay làm loa gọi
                 Gọi ai nơi viễn xứ tha phương?
                 Gọi ai giữa sơn cùng thủy tận?
                 Ai người thiên cổ tiếc máu xương?
                 Em đâu, quê nhà chong mắt đợi
                 Hồn theo mây trắng ra biên cương
                 Thôi em, yêu chi ta thêm tội
                 Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
                 Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
                 Hoặc ngày ta mắt nhắm tay buông
                 Thôi em, chớ liều thân cô phụ
                 Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường
                 Nơi nơi lạnh trăm dòng sông Dịch
                 Kinh Kha đời nay cả vạn muôn
                 Há một mình ta xuôi biên tái
                 “Nhất khứ bất phục phản” là thường!
                Thôi em, còn chi ta mà đợi
                Ngày về: thân cạn máu khô xương
                Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
                Hề chi! Buổi chinh chiến tang thương
                Hề chi! Kiếp cây rừng đá núi
                Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.

                                     PHẠM NGỌC LƯ
                                            Tháng 5. 1972  

CẢM NHẬN BÀI THƠ BIÊN CƯƠNG HÀNH CỦA NHÀ THƠ PHẠM NGỌC LƯ - Huỳnh Xuân Sơn
Đến thành phố Tuy Hòa một chiều cuối thu 2014, nhờ tôi rất thích ý thơ “Đa tình cái gió Tuy Hòa mặn… Vô tình con  mắt Tuy Hòa nhọn. Cắm  xuống hồn thơ tiếng thở dài” mà được biết đến tên tác giả Phạm Ngọc Lư… Thời gian ngắn sau, nhờ bút danh Huỳnh Xuân Sơn mà anh nhầm tôi với một “tu mi nam tử” nào đó, để rồi tôi lại có duyên kết bạn với anh, dẫu “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình.”
 Tôi đã tìm đọc những bài thơ của tác giả Phạm Ngọc Lư, phần lớn là những tác phẩm viết trước năm 1975 trên mảnh “đất Phú trờiYên” nơi anh đã từng sống và dạy học.
Hai hôm trước tôi tìm tên tác giả và gặp rất nhiều trang web có đăng Biên Cương Hành. Sẵn có thiện cảm với Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị, Tống Biệt Hành của Thâm Tâm hay Hành Phương Nam của Nguyễn Bính… nên tôi bấm vô Biên Cương Hành…
Đọc một lần xuôi, thêm một lần ngược, 66 câu thơ trong Biên Cương Hành làm tôi sởn gai ốc và thấy sống lưng mình lạnh toát. Trước đây tôi đã có cảm giác này hai lần với hai bài thơ của hai tác giả, một già, một trẻ  khác, cùng chung đề tài về những người lính đã “mãi mãi tuổi hai mươi”.
Hai ngày đã  trôi qua, nhưng những câu chữ trong Biên Cương Hành cứ luẩn quẩn trong đầu, để rồi giờ đây tôi ngồi đọc thêm một lần nữa (xem bài thơ BIÊN CƯƠNG HÀNH bên trên):
Ngày bài thơ ra đời ở Phú Yên thì tại một ngôi làng nhỏ trên thượng nguồn Sông Thương thuộc vùng đất Kinh Bắc, tôi mới chỉ là cô bé lẫm chẫm tập đi… Cho tới bây giờ tôi chưa bao giờ phải chứng kiến chiến tranh, chưa bao giờ nghe tiếng bom rơi đạn nổ, sự tàn khốc của chiến tranh tôi chỉ cảm nhận qua sách vở và phim ảnh.
Với Biên Cương Hành, tôi thật ngạc nhiên và bị cuốn theo từng câu chữ, như những nét vẽ, mà tác giả đang họa ra toàn cảnh bức tranh về vùng đất biên cương ngay trước mắt mình vậy… Biết là rất khó nhưng tôi thật khó cưỡng lại ý muốn viết những cảm nhận của riêng mình, về những gì tôi đã nhìn thấy, nghe thấy, thậm chí ngửi thấy, cầm nắm được qua những câu thơ của một nhà giáo trẻ, nay đã không còn trẻ nữa: Phạm Ngọc Lư.
Bên tai như có tiếng gọi nơi biên cương thúc giục và tôi bắt đầu Hành Biên Cương:
Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn
 Tổ quốc nào, vùng lãnh thổ nào, cũng có những dải biên cương. Nhưng liệu có được bao nhiêu dãi đất gắn trên mình hai chữ “biên cương” mà nặng như đất mẹ Việt Nam. Cùng tác giả “chào biên cương” thôi mà sao day dứt thế này nhỉ? Biên cương nào, ở đâu trên suốt dặm dài đất nước này? Nếu chỉ “núi cao rừng thẳm” thì dọc dãy Trường sơn hùng vĩ hôm nay đây, xưa kia là một chiến trường mà tác giả đã thấy “máu đã nuôi rừng xanh…” và “Núi chập chùng như dãy mồ chôn”. Ôi! đất mẹ Việt Nam ơi! Có lẽ nhiều địa danh gắn trên thân thể mẹ  nay cây xanh phủ kín, thậm chí vườn tược hay những ngôi nhà đã mọc lên… Năm 1972 ấy… tác giả Hải Minh một người lính già hôm nay khi nhớ lại chiến trường Thành Cổ Quảng Trị anh đã viết “Có một mùa hè không hoa phượng. Đỏ trên cây là máu bạn bè tôi”( Hè). Cũng năm 1972 đó, tác giả Phạm Ngọc Lư đang dạy học ở thị xã Tuy Hòa tỉnh Phú Yên, không ra trận, chưa hề biết mặt chiến trường nhưng lại viết BIÊN CƯƠNG HÀNH. Anh cho biết những cảm xúc đầu tiên đến từ sự thất bại của quân đội miền Nam trong cuộc hành quân qua Hạ Lào đầu năm 1971. Và, ngay lập tức mùi chết chóc của chiến tranh khốc liệt  bủa vây quanh tôi
Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Chiến trường gắn với chữ gió Lào hẳn là Đường 9 Nam Lào và mặt trận Quảng Trị-Thừa Thiên. Có lẽ Biên Cương này không thể thiếu các cao điểm dọc tuyến đường ác liệt ấy qua Kon Tum, Gia Lai… Rồi những địa danh như Lao Bảo,  Khe Sanh, Pleime, Đắc Tô… Bỗng nhiên tôi muốn hỏi  câu thơ “Chiến trường ném binh như vãi đậu”? Ai ném? Ném cho ai? Ném đi đâu? Vì sao lại mang quân ra mà“ném như vãi đậu”?. Để rồi đậu lại nảy mầm thành một “Đoàn quân ma bay”… Bay đi đâu hỡi những oan hồn các chàng trai trẻ tuổi hai mươi! Sao lại dồn thành những “Lớp lớp chồm lên” và nỡ nào lại “đè bẹp núi”. Núi còn đang chở nặng những “oan hồn” nảy sinh từ các cao điểm dọc Hạ Lào… Ngay lúc này, hơn bốn mươi năm đã trôi qua kể từ những ngày tàn khốc nhất cuộc chiến tranh ấy, nhưng nhắc đến Đường 9 Nam Lào, nhắc đến Hạ Lào, nhắc đến nhiều địa danh thuộc vùng đất giữa hai nước Việt- Lào ấy, hẳn rất nhiều người, không kể họ có tham gia trận chiến hay không, vẫn còn thấy hiển hiện nỗi đau mất mát, mà có lẽ mãi mãi không có sử gia nào thống kê và ghi chép được đã có bao nhiêu người lính trẻ vĩnh viễn “tuổi hai mươi”.
Ca dao xưa có câu “Đống Đa xưa bãi chiến trường. Ngổn ngang giặc chết vùi xương thành gò” xem ra xác quân thù xâm chiếm bờ cõi thời Quang Trung chẳng thấm tháp vào đâu so với “Chiến trường ném binh như vãi đậu” và hậu những cái vung tay mà ném ấy. Mãi mãi là những nỗi đau kéo dài nhiều thế hệ…
Đời người lính thật đơn giản trước cái chết “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” đã qua hàng ngàn năm vẫn còn nguyên tính thời sự... Hay như cái nhìn đưa tiễn của người cha anh lính trẻ Phùng Khắc Bắc “Bố tôi nhìn tôi bằng cái nhìn vuốt mắt” hỏi trên thế giới này có nơi đâu có những ánh mắt chia ly đau đớn hơn không? Và rồi phía sau trận chiến “ném binh như vãi đậu” ấy là những nỗi niềm riêng, nhưng không đơn lẻ. Chinh phụ chờ chồng, không chỉ vài Nàng trên cả đất nước nữa… mà là:
Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
Từ thủa xa xưa, hình ảnh người chinh phụ ngóng chờ người chinh phu, đã lưu truyền bằng những truyền thuyết, nhưng biết bao nỗi xúc động trào dâng  khi nghe: “Đời xưa đời xửa vua gì? Có người đứng ngóng chồng về đầu non. Thế rồi mong mỏi mong mòn. Thế rồi hóa đá ôm con đứng chờ (Hòn vọng phu 2-Lê Thương). Mới hay người trai ra trận dù “Lệnh vua hành quân trống kêu dồn” hay là theo lệnh cầm súng lao lên cứ điểm… Họ đều không màng sự sống chết hay hậu cuộc chiến họ được gì? mất gì? Những người chinh phụ chờ chồng đến hóa đá, người phụ nữ thời hiện đại chờ chồng, chờ con, chờ cháu đến mỏi mòn, đến không chờ được nữa… Nào có thể hóa đá mà cứ âm thầm ôm nỗi đớn đau mà chờ đợi, chờ đợi cả khi kết cục là  sự mất mát. Nhưng ngay trong nỗi mất mát lại nghẹn đắng niềm vui vỡ òa “Mẹ vỗ tay reo mừng xác con”. Thời nay hỏi mấy ai hiểu cái vỗ tay rụng rời tâm can trong bài ca “Hát trên những xác người” của Trịnh Công Sơn ấy. Nhưng với Biên Cương Hành thì “Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương”. Vọng Phu  trên dải đất hình chữ S vốn chỉ có ba:  một ở Đồng Đăng, Lạng Sơn, một ở Núi Bà, Phù Cát, Bình Định và một trên dãy Vọng Phu ở Khánh Dương... Vậy trong Biên Cương Hành sao lại nhiều Vọng Phu thế? Có phải mỗi người lính“chưa hết thanh xuân đã cùng đường” khi họ ngã xuống, sẽ có rất nhiều người phụ nữ hóa đá? Họ có thể là bà, là mẹ, là vợ, là em gái hay là người yêu, thậm chí là bạn thân của người lính đó…Nếu quả đúng vậy thì với những “ném binh như vãi đậu” của hai bên chiến tuyến trong suốt “trường kỳ kháng chiến”. Xin được hỏi đá nhiều? hay vọng phu nhiều?
Người phụ nữ thì đã vậy, nhưng những người lính ngoài những lúc lao lên giữa mưa bom bão đạn chẳng màng sống chết. Họ cũng là những con người bình thường, cũng có những phút giây sống cuộc sống đời thường, họ cũng nhớ nhà, cũng nhớ người thân và đặc biệt là vợ hay người yêu…
Trông núi có khi lầm bóng vợ
Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá chi ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa trường
Sa trường anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta biết hẹn gì hơn?
Nỗi cô đơn khủng khiếp là đây! “Trông núi có khi lầm bóng vợ. Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương” một sự nhân cách hóa, một hình tượng ví von thể hiện rất thành công về tâm tư người lính. Tôi xin mượn lời anh lính già Hải Minh để nói về tâm tư người lính những lúc bom ngừng rơi, đạn ngừng nổ: “Nỗi khát yêu của lính - đói rét, bom đạn, kể cả cái chết họ cũng không sợ, cái họ sợ là nỗi cô đơn, cô đơn đến mất ý chí, đến phát rồ phát dại -Trần  truồng chạy trong rừng gào gọi tình yêu. Cũng không biết bao nhiêu người ngã xuống có trở thành thiên sứ không khi mà họ còn trinh trắng?”
Nhưng cô đơn là thế, thèm khát là thế, nhưng người lính họ không nghĩ cho mình mà lại nghĩ cho Em. Bởi với họ không hẹn được ngày về. Thôi thì chỉ biết xin Em đừng chờ đợi. Chờ đợi phỏng có ích gì khi mà “Sa trường anh hùng còn vùi dập”. Mỗi cá nhân người lính họ đã coi mình chỉ là “hạt cát” giữa sa mạc mà thôi! Thật đau lòng, nhưng cũng đầy tính nhân văn cao cả của người lính…
Biên Cương Hành đang còn thúc giục phía trước. Sau khi đã chào biên cương, đã biết một phần của biên cương, đây là một mảng màu khác nữa của Biên Cương:
Đây biên cương, ghê thay biên cương!
Núi tiếp rừng, rừng tiếp khe truông
Hãi hùng chưa trời hoang mây rậm
Mùa mưa về báo hiệu tai ương
Quân len lỏi dưới tàn lá dữ
Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
Sát khí đằng đằng rừng dựng tóc
Ma thiêng còn ngán bọn cô hồn
Cô hồn một lũ nơi quan tái
Có khi đã hóa thành thú muông
Cô hồn một lũ nơi đất trích
Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương
Một thầy giáo trẻ đứng ngoài cuộc, nhưng vẫn chứng kiến và cảm nhận cuộc chiến những năm ác liệt nhất ấy! Rừng thiêng nước độc lại là nơi nương náu chở che những người con của Mẹ, những chàng trai nước Việt... Lớp lớp cây rừng hay lớp lớp máu xương chất chồng để núi mỗi ngày một cao, máu chảy khiến mỗi khe vực một sâu hơn… Tàng lá rừng được nuôi dưỡng bằng máu xương người chết phải chăng vì vậy mà nó thành “tàn lá dữ...” Lá xanh xao hay những khuôn mặt xanh xao vì sốt rét vì khói súng ám nhiều ngày tháng. Hình ảnh “lá xôn xao” và nó phải “xanh mặt hoảng hồn” trước “sát khí đằng đằng” của ai mà rừng phải “dựng tóc”?! Chả lẽ là những gương mặt “tuổi hai mươi” đang tuổi yêu đương và mơ mộng đấy ư? Không lý trước“trời hoang mây rậm” để “mùa mưa về báo hiệu tai ương”. Những người lính trẻ bất chấp cả mạng sống lao lên lại là những “Cô hồn” làm cho lũ “ma thiêng còn ngán”. Thật khó để cho tôi cảm được những gương mặt “cô hồn nơi quan tái” hay “cô hồn nơi đất trích”. Nhưng những hành động của người lính ngoài những  khi xung trận thì họ “Vỗ đá mà ca hát ngông cuồng”, hay “chém cây cho đỡ thèm giết chóc”… phải chăng là hành động vô thức? hay nhằm thỏa nỗi cô đơn? Hay bản tính thiện của con người đã bị thay đổi?
Từ ngàn xưa các cụ đã đúc kết “Non sông dễ đổi bản tính khó rời”! Vậy phải chăng cơn thèm giết chóc ấy chỉ là những lúc cô đơn nản chí đến cùng cực mà bộc phát ra cái thèm khát “ghê sợ ấy”? Hay là nỗi khát khao  rất thật, rất tình thể hiện bản năng con người trỗi dậy khi mà không thỏa cái “Thèm môi mắt gái” dẫu cho “gái buôn hương” cũng chẳng có, mới sinh ra các cơn thèm khát ghê sợ kia… Câu hỏi này thật khó có thể có câu trả lời nào thỏa mãn được mọi góc khuất trong trái tim những người lính nơi Biên Cương ấy! Thôi thì cứ mang theo câu hỏi ấy mà Hành Biên Cương tiếp, cũng không nặng thêm là bao nhiêu nữa đâu? Tôi tự nhủ mình như vậy và Hành tiếp:
Đây biên cương, ghê thay biên cương!
Tử khí bốc lên dày như sương
Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu
Rừng núi ơi ta đến chia buồn
Buồn quá giả làm con vượn hú
Nào ngờ ta con thú bị thương
Chiều hôm bắc tay làm loa gọi
Gọi ai nơi viễn xứ tha phương?
Gọi ai giữa sơn cùng thủy tận?
Ai người thiên cổ tiếc máu xương?
Ba câu hỏi liền nhau theo sau hành động “bắc tay làm loa gọi” của những người lính không là chủ thể của nỗi buồn mà lại là người đến để chia buồn  với núi rừng trùng điệp đang “ứa máu” trước mùi “tử khí dày như sương”. Đá vô tri còn biết chảy mồ hôi! Vậy người lính chia nỗi buồn? hay lại nhận thêm nỗi buồn đây? Khi tự nhận “buồn quá” nên “giả làm con vượn hú”. Hành động này thật thê thảm, đang làm một con người lại đi làm một việc giả làm con vượn, ngược đời đến thế là cùng… Chả biết giả Vượn hú được bao lâu thì nhận ra mình “con thú bị thương”. Khi bị thương con thú theo bản năng sẽ lồng lộn lên mà chống trả. Nhưng những người lính này biết chống trả lại ai đây? Bắc loa gọi “giữa sơn cùng thủy tận” ôi! Cũng một kiếp người! cũng một đời lính chiến… chắc chắn từ cổ chí kim không mấy người tiếc máu xương cả, ngay cả những người lính này cũng thế! Cuồng nộ, phá phách rồi họ cũng trở lại bản tính thiện của con người như bao chàng trai bình thường khác, biết yêu, biết thương, biết giận hờn, biết hy sinh vì người khác và điều quan trọng họ đã nhận ra mình từ đâu tới đây! Và tới để làm gì giữa chốn rừng thiêng nước độc đầy mùi tử khí, toàn cảnh chết chóc…Nhưng họ không thể làm gì khác bởi họ là lính…
Em đâu quê nhà chong mắt đợi
Hồn theo mây trắng ra biên cương
Thôi em, yêu chi ta thêm tội
Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
Hoặc ngày ta mắt nhắm tay buông
Thôi em chớ liều thân cô phụ
Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường 
Biên Cương Hành đã qua với nỗi niềm chịu đựng chờ đợi của những Vọng Phu chỉ còn biết hóa đá mà đè núi xương, dõi sông máu ngóng chồng... Nay đã tới khúc các “cô phụ” Thân hình em còn hiện diện trên “phố đông người qua” hay bên dòng sông quê mẹ mỗi chiều, chờ đợi tin về từ chiến sự, mỗi ngày chứng kiến những người góa phụ “Say đi để thấy mình không là mình” hay “Ôm mồ cứ tưởng ôm hình người yêu” (thơ Lê Thị Ý nhạc Phạm Duy). Nhưng họ vẫn son sắt một khối tình không phai, một lời hẹn nào có thể sai. Ở “quê nhà chong mắt đợi. Hồn theo mây trắng ra biên cương”.Chỉ một mong mỏi ngày đoàn tụ. Trong lòng họ cũng mỏi mòn, cũng đau đớn lắm chứ, chờ đợi trong vô vọng… Biết ngày về của người mình yêu thương mong nhớ sẽ ra sao… Người lính nơi biên ải cảm nhận rõ điều ấy qua nhịp đập trái tim “con người” nhưng cũng chỉ biết khuyên người yêu thương chờ đợi mình rằng “Thôi em! yêu chi ta thêm tội”. Tội gì? Yêu lính là có tội ư? Tôi đã từng nghe những lời ca về tình yêu của lính như :“Ai nói với em lính không sầu nhớ…Không có trái tim đắm say mộng mơ. Ai nói với em tình người lính trẻ. Nồng nàn nhưng nhiều dâu bể, không như cung đàn lời thơ…” (Ai Nói Với Em - Trần Thiện Thanh)
Hay “Cùng mắc võng trên rừng Trường sơn. Hai đứa ở hai đầu xa thẳm. Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Trường sơn đông nhớ Trường sơn tây. Một dãy núi mà hai màu mây’.(Trường Sơn đông Trường Sơn tây- Hoàng Hiệp)...
Vậy mà nay trong Biên Cương Hành người lính lại khuyên người con gái “Thôi em chớ liều thân cô phụ” với bức tranh chiến trường toàn màu mây xám ngắt bủa vây tình yêu của người lính? Để lý giải cho điều mình nói những người lính ấy đã biết:
Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường
Nơi nơi lạnh trăm dòng sông Dịch
Kinh Kha đời nay cả vạn muôn
Há một mình ta xuôi biên tái
“Nhất khứ bất phục phản” là thường!
Tích xưa Kinh Kha đi hành thích Tần Thủy Hoàng chỉ có một sông Dịch. Nay trong Biên Cương Hành có hàng trăm dòng sông Dịch mà là dòng sông Lạnh... Sông Bến Hải, Cửa Tùng, hay Serepok. Hoặc bất kỳ con suối nào trên đại ngàn Trường sơn, dọc Hạ Lào hay  chảy theo tuyến lửa 1C là hàng trăm con kênh rạch nơi miền Tây sông nước… Đâu đâu cũng là sông Dịch và mỗi người lính của hai bên chiến tuyến là một Kinh Kha thời hiện đại ư? Khi tác giả lấy câu thơ trong Hoàng Hạc Lâu “Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” (Thôi Hiệu) phải chăng anh đã nghĩ thân phận người lính chốn sa trường như cánh hạc kia “Bay đi không bao giờ trở lại” là thường! Biết “Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về”, biết “Há một mình ta xuôi biên tái” nhưng đời lính là như thế! Thì cũng chỉ còn biết nói với em, nói thay cho đồng đội, nói thay cho những người “vừa nằm xuống chiều qua” và nhiều ngày qua đã chưa kịp nói. Nói với Em hay nói với mình, nói với hậu thế:
Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày về thân cạn máu khô xương
Ngày về hôn lễ hay tang lễ
Với những người lính “hôn lễ hay tang lễ” họ không thể nào biết trước, hay nói đúng hơn không thể chọn lựa cho mình dẫu muốn hay không!
Họ chỉ biết và cảm nhận rất rõ ràng:
Hề chi! buổi chinh chiến tang thương
Hề chi! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương
Nếu là hôn lễ thì niềm vui, hạnh phúc sẽ mỉm cười, nhưng nhiều người lính sẽ về bằng tang lễ… 
Còn nếu không may mắn bởi bom đạn vốn không có mắt mà họ phải về  cùng “tang lễ” thì họ vẫn còn may mắn hơn nhiều người đã không bao giờ có một tang lễ đúng nghĩa vì thân thể họ đã hòa vào đất, tan vào nước Biên Cương…
Tôi đã cùng tác giả Hành Biên Cương đến vùng biên cương cuối cùng, nhưng vẫn không có một địa danh cụ thể nào trong suốt hành trình này. Với riêng tôi Biên Cương trong Hành Biên cương phải chăng là những địa danh lưu dấu tích suốt bốn mươi năm tiếng súng ngưng vẫn còn đó. Một dòng Bến Hải “Cả dòng sông là một nghĩa trang trôi”, một thành cổ Quảng Trị, một Đại lộ kinh hoàng, một Khe Sanh, một Hướng Hóa, một đường 9 Nam Lào, một lộ máu số 7, một ngôi mộ 3000 người ở An Lộc Bình Long, hay tuyến lửa 1C sắt còn bị nung chảy bởi bom đạn…
Biên Cương Hành viết theo lối thơ cổ phong trường thiên độc vận, có một ít điển tích và đã ra đời hơn bốn mươi năm… Mỗi bạn đọc sẽ có cho mình những cảm nhận riêng. Và đây là cảm nhận của cá nhân tôi, thế hệ cháu con của tác giả về một tác phẩm viết theo cảm xúc của một thầy giáo trẻ chứng kiến chiến tranh... chứ không trực tiếp cầm súng…
Rất mong nhận được sự lượng thứ từ bạn đọc nếu như có điều sai sót.
Sài Gòn 18/12/2014
Huỳnh Xuân Sơn
Theo http://phudoanlagi.blogspot.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...