Đây thôn Vĩ Dạ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
áo em trắng quá nhìn không ra
ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
(Rút từ tập Đau thương, 1938)
1. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ
Trong các nhà Thơ mới, Hàn Mặc Tử phải bất hạnh nhất, lạ nhất và phức tạp nhất. Vì thế cũng bí ẩn nhất. Có ai định tranh chấp với Tử những cái "nhất" ấy không? Ví Tử với ngôi sao chổi, Chế Lan Viên đã thật có lí. Và cũng như thái độ dành cho một ngôi sao chổi quá lạ, bao ống kính thiên văn đã đua nhau chĩa về Hàn Mặc Tử. Tiếc thay, cái vừng sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát ra từ ngôi sao có sức cuốn hút bao nhiêu cũng có sức xô đẩy bấy nhiêu. Đến nay đã có bao cuộc thăm dò, thám hiểm. Với một hiện tượng "bấn loạn" nhường này, ướm đi ướm lại, người ta thấy tiện nhất là xếp vào loại siêu: nào siêu thực, siêu thức, nào siêu thoát, v.v... Vậy mà, nào đã thoát! Rốt cuộc, lơ lửng treo phía trước vẫn cứ còn đó câu hỏi: Hàn Mặc Tử, anh là ai?
Ngày trước, cuộc xung đột "bách gia bách ý" chỉ xảy ra với Hàn Mặc Tử, nói chung. Đây thôn Vĩ Dạ vẫn hưởng riêng một không khí thái bình. Phải đến khi được mạnh dạn tuyển vào chương trình phổ thông cải cách, sóng gió mới ập đến cái thôn Vĩ bé bỏng của Tử. Thế mới biết, chả hồng nhan nào thoát khỏi truân chuyên! Có người hạ bệ bằng cách chụp xuống một lí lịch đen tối. Người khác đã đem tới một cái bóng đè. Không ít người thẳng tay khai trừ Đây thôn Vĩ Dạ khỏi danh sách những kiệt tác thuộc phần tinh chất của hồn thơ Tử... Ngay những ý kiến đồng lòng tôn vinh thi phẩm này cũng rất phân hóa. Người si mê thấy đó chỉ là tỏ tình (với Hoàng Cúc). Người vội vàng bảo rằng tả cảnh (cảnh Huế và người Huế). Người khôn ngoan thì làm một gạch nối: tình yêu - tình quê. Kẻ bảo hướng ngoại. Người khăng khăng hướng nội. Lắm người dựa hẳn vào mối tình Hoàng Cúc như một bảo bối để tham chiến. Người khác lại dẹp béng mảng tiểu sử với cái xuất xứ không ít quan trọng ấy sang bên để chỉ đột phá vào văn bản không thôi. Người khác nữa lại hoàn toàn "dùng ngoài hiểu trong, dùng chung hiểu riêng", ví như dùng lí sự chung chung về cái tôi lãng mạn và tâm trạng lãng mạn để áp đặt vào một trường hợp rất riêng này, v.v... Tôi tin Hàn Mặc Tử không bác bỏ hẳn những cực đoan ấy. Nếu sống lại, thi nhân sẽ mỉm cười độ lượng với mọi ý kiến vì quá yêu Vĩ Dạ bằng những cách riêng tây mà nghiêng lệch thôi. ở toàn thể là thế. Mà ở chi tiết cũng không phải là ít chuyện. Ngay một câu "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" cũng gây tranh cãi. Cái màn "Sương khói" làm "mờ nhân ảnh" là ở Vĩ Dạ hay thuộc chốn người thi sĩ đang chịu bất hạnh, cũng gây bất đồng... Hèn chi, hai tờ báo nhiều liên quan đến nhà trường và văn chương là "Giáo dục & Thời đại" và "Văn nghệ" được phen chịu trận. Dù muốn hay không, nó cũng đã thành một "vụ" thực sự thời bấy giờ. Đến nay, khó mà nói các ý kiến đã chịu nhau. Tình hình xem ra khá mệt mỏi, khó đặt được dấu chấm hết. Hai báo đành thổi còi thu quân với vài lời tiểu kết nghiêng về "điểm danh". Một độ sau, nhà giáo - nhà nghiên cứu Văn Tâm khi soạn cuốn Giảng văn Văn học Lãng mạn (NXB Giáo dục, 1991) đã điểm sâu hơn. Rồi nhà biên soạn này cũng nhanh chóng trở thành một ý kiến thêm vào cái danh sách dài dài đó. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ lại tiếp tục đua chen. Khói hương và cả khói lửa, vì thế, tràn lan ra nhiều báo khác, sang tận tờ Tập văn thành đạo của Giáo hội phật giáo Việt Nam [1] , động đến cả những người ở Hoa kỳ, Canađa...
Chắc là hiếm có bài thơ nào trong trẻo thế mà cũng bí ẩn đến thế. Xem ra, cái chúng ta "gỡ gạc" được mới thuộc phần "dễ dãi" nhất ở đó thôi!
Phải nói ngay rằng: coi một tác phẩm đã gắn làm một với cái tên Hàn Mặc Tử lại không tiêu biểu cho tinh chất của hồn thơ Tử, thì kì thật. Mỗi bài thơ hay, nhất là những tuyệt tác, bao giờ cũng có "mạng vi mạch" nối với tinh hoa tinh huyết của hồn thơ ấy. Có điều nó đã được dò tìm ra hay chưa thôi. Thậm chí, một hệ thống kiến giải mới về hiện tượng Hàn Mặc Tử sẽ khó được coi là thuyết phục, một khi chưa thử sức ở Đây thôn Vĩ Dạ. Đã đến lúc phải lần ra "mạng vi mạch" của thi phẩm cùng tinh hoa tinh huyết của thi sĩ.
Trong cảm thụ nghệ thuật, mọi việc khác không thể thay thế việc dùng trực cảm thâm nhập vào bản thân tác phẩm. Nhưng nguyên tắc độc tôn ấy ở đây đã tỏ ra không mấy hi vọng, nếu không nói là trở nên kém thiêng. Thôn Vĩ Dạ dường vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt", cự tuyệt ngay cả những linh khiếu vốn cả tin vào một trực giác đơn thuần. Vĩ Dạ vẫn điềm nhiên giấu kín ngay trong sự trong trẻo kia bao bí ẩn của nó. Muốn đến đúng chỗ giấu vàng của Thôn Vĩ, trực cảm nhất thiết phải được trang bị thêm một "sơ đồ chỉ dẫn", một chìa khoá. Những thứ này, tiếc rằng, cũng giấu mình khắp trong thơ Hàn Mặc Tử. Nói cách khác, mỗi tác phẩm sống trong đời như một sinh mệnh riêng, tự lập. Có một thân phận riêng, một giá trị riêng, tự thân. Đọc văn, căn cứ tin cậy nhất, trước sau, vẫn là văn bản tác phẩm. Đó là một nguyên tắc. Và nhiều khi không biết gì về tác giả, vẫn có thể cảm nhận được tác phẩm. Nhưng hiểu và hiểu thấu đáo là hai cấp độ. Không am tường tác giả thì khó mà thấu đáo tác phẩm. Trường hợp trong trẻo mà đầy bí ẩn như Đây thôn Vĩ Dạ, với một vị thân sinh đầy phức tạp như Hàn Mặc Tử càng cần phải thế. Nghĩa là: thiếu cái nhìn liên văn bản, cùng những khám phá về thân phận, tư tưởng và thi pháp của tác giả sẽ khó giúp ta soi sáng được thi phẩm này.
Trong nhiều điều cần cho sự soi sáng thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, không thể không nói đến một Tình yêu tuyệt vọng, lối Thơ Điên và lớp trầm tích những biểu tượng và ngôn ngữ thuộc hệ thống thi pháp của thi sĩ này. Nếu Tình yêu tuyệt vọng quyết định đến điệu tình cảm chung, thì lối Thơ Điên quyết định trình tự cấu tứ, cơ cấu không gian. Trong khi lớp biểu tượng và ngôn ngữ ở tầng trầm tích lại quyết định đến hệ thống hình tượng, hình ảnh của thi phẩm đặc sắc này.
2. Vĩ Dạ trong Đau thương và Thơ Điên
Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng tập thơ quan trọng nhất của thi sĩ chính là Đau thương. Thực ra ban đầu Hàn Mặc Tử đã đặt cho nó một tên khác, dễ sợ hơn: Thơ điên. Hai cái tên có thể hoán cải cho nhau, là một điều đáng để cho ta lưu ý. Nó nói rằng Tử ý thức rất sâu sắc về mình. Thì Đau thương và Điên chính là Hàn Mặc Tử vậy. Đau thương là cội nguồn sáng tạo, còn Điên là hình thức của sáng tạo ấy. Đọc ra điều này không khó, nhưng nhận diện bản chất của Đau thương lại không dễ. Chả thế mà người ta cứ đánh đồng "đau đớn thân xác" với "đau khổ tinh thần", và cứ coi Điên chỉ giản đơn là một trạng thái bệnh lí.
Ngẫm tới cùng Đau thương chính là một tình yêu tuyệt vọng. Ta thường tự cầm tù trong định kiến về tuyệt vọng. Thực ra, tuyệt vọng chả như ta vẫn tưởng. Không phải nỗi tuyệt vọng nào cũng làm cho con người gục ngã. Còn có nỗi tuyệt vọng làm tình yêu thăng hoa. Tuyệt vọng có thể chấm dứt hi vọng, nhưng không chấm dứt tình yêu. Càng mãnh liệt càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng càng mãnh liệt. Con người ta đi đến tuyệt vọng có thể vì những nguyên uỷ rất riêng tây kín khuất, đôi khi ta bất khả tri (một thiếu hụt, tổn thương, một mất mát nào đó trong tâm thể, chẳng hạn!). Hàn Mặc Tử có lẽ thuộc số đó. Ai cũng biết chết là một cuộc chia lìa tất yếu và đáng sợ. Sống có nghĩa là đang chia lìa. Nhưng, may thay, hết thảy chúng ta đều có khả năng quên đi mà vui sống. Còn ở những người như Tử lại không được trời phú cho cái khả năng quên. Càng mắc những bệnh trầm trọng lại càng ám ảnh. Sống trong dự cảm khôn nguôi về thời khắc chia lìa, Tử thường tự đẩy mình (giời xô đẩy thì đúng hơn) đến điểm chót cùng của tuyệt vọng để nuối đời, níu đời. Nói khác đi, Tử làm thơ bên miệng vực của nỗi chết. Không ai yêu sống, yêu đời hơn một người sắp phải lìa bỏ cuộc sống! Thơ Tử là tiếng nói của niềm yêu ấy. Và trong lăng kính lạ lùng của niềm yêu ấy, cảnh sắc trần gian này thường ánh lên những vẻ khác thường: lộng lẫy, rạng rỡ, thanh khiết hơn bao giờ hết. Mà càng đẹp, càng tuyệt vọng; càng tuyệt vọng, lại càng đẹp! Thế là Đau thương chứ sao! Đau thương không chỉ là cung bậc mà còn chính là dạng thức cảm xúc đặc thù của Hàn Mặc Tử. Mỗi lần cầm bút khác nào một lần nói lời tuyệt mệnh, lời nguyện cuối. Cho nên mỗi lời thơ Tử thực là một lời bày tỏ da diết đến đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng. Và như thế, điều oái oăm đã hình thành: Tuyệt vọng đã trở thành một cảm quan, một cách thế yêu đời đặc biệt của Hàn Mặc Tử.
Có thể nói, đó là nghịch lí đau xót của một thân phận. Và nghịch lí này lại cũng là cấu trúc của tiếng nói trữ tình Hàn Mặc Tử: Niềm yêu là một nỗi đau, mỗi vẻ đẹp là một sự tuyệt vọng, cảnh sắc lộng lẫy chỉ là phía sáng của tấm tình tuyệt vọng. ý thức rõ về điều này, nên trong bài thơ viết cho Thanh Huy - một người tình trong mộng - Tử đã tự họa bằng cặp hình ảnh nghịch lí trớ trêu: Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm. Thơ Tử là thế! Hàng chữ gấm (trong trẻo, tươi sáng) chỉ là phía thấy được của đôi mắt mờ lệ (u ám, đau thương) khuất chìm phía sau mà thôi.
Kết tinh từ nguồn thơ lạ lùng oan trái đó, Đây thôn Vĩ Dạ là lời tỏ tình với cuộc đời của một niềm tha thiết đến đau thương, một tình yêu mãnh liệt mà vô vọng. Một cách khác: là lời tỏ tình với cuộc đời của một tấm tình tuyệt vọng.
Nói đến một thi phẩm chân chính là phải nói đến điệu cảm xúc riêng của nó. Mà âm điệu chính là cái điệu tâm hồn, điệu cảm xúc của thi sĩ được hình thức hóa. Đọc thơ, nắm được âm điệu của nó xem như đã nắm được hồn vía của thơ rồi. Không cần phải cố gắng lắm người ta cũng thấy ngay mỗi khổ của Đây thôn Vĩ Dạ đều vang lên trong âm hưởng của một câu hỏi. Ba khổ là những câu hỏi kế tiếp, càng về sau càng da diết, khắc khoải:
- Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
- Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
- ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Âm điệu của những câu hỏi ấy được cất lên từ một niềm thiết tha với cuộc đời đến mức thương tâm của một hồn đau. Ở bài thơ vốn được xem là kiệt tác này, niềm yêu đau đáu đến tuyệt vọng còn hóa thân thành một mặc cảm sâu xa, thấm đẫm vào toàn thể thi phẩm: mặc cảm chia lìa. Trước tiên, nó quyết định đến hình ảnh cái Tôi của thi sĩ, đồng thời nó đổ bóng xuống cảm quan không gian của Hàn Mặc Tử, nó dàn dựng nên các tương quan không gian của Đây thôn Vĩ Dạ.
Đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác và tâm thế sáng tạo bấy giờ của thi sĩ, ta có thể thấy những điều ấy rõ hơn.
Sau khi mắc bệnh nan y, Hàn Mặc Tử đã coi mình như một cung nữ xấu số bị số phận oan nghiệt đày vào lãnh cung. Ấy là lãnh cung của sự chia lìa (tôi không nhằm nói đến Gò Bồi hay Qui Hòa, bởi đó chỉ là hai địa chỉ hạn hẹp trong cái lãnh - cung - định - mệnh ấy thôi). Cơ hội về lại cuộc đời cơ hồ không còn nữa. Vô cùng yêu đời, thiết tha bao luyến mọi người, vậy mà Tử đã chủ động cách li, quyết định tuyệt giao với tất cả. Nhưng tuyệt giao chứ không phải tuyệt tình. Thậm chí, càng tuyệt giao, tình nhớ thương càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hằng ngày ở trong cái lãnh cung ấy, Tử thèm khát thế giới ngoài kia: Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa?/ Trời ở trong đây chẳng có mùa/ Không có niềm trăng và ý nhạc/ Có nàng cung nữ nhớ thương vua. Chủ động tuyệt giao chỉ là biểu hiện lộn ngược của lòng thiết tha gắn bó. Hễ tiễn một ai đến thăm mình về lại Ngoài kia thì chẳng khác nào tiễn người từ chốn lưu đày vĩnh viễn về lại cuộc đời, thậm chí như tiễn người từ cõi này về cõi khác. Một nửa hồn mình coi như đã chết theo: Họ đã đi rồi khôn níu lại/ Lòng thương chưa đã mến chưa bưa/ Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Từ bấy trong thơ Tử hình thành hai không gian với sự phân định nghiệt ngã: Ngoài kia và Trong này. Nó là sự cách nhau của hai cõi, mà khoảng cách bằng cả một tầm tuyệt vọng - Anh đứng cách xa nghìn thế giới/ Lặng nhìn trong mộng miệng em cười/ Em cười anh cũng cười theo nữa/ Để nhắn lòng anh đã tới nơi. Đọc thơ Hàn, dễ thấy Ngoài kia và Trong này (hay ở đây) là hai thế giới hoàn toàn tương phản. Ngoài kia: mùa xuân, thắm tươi, đầy niềm trăng, đầy ý nhạc, tràn trề ánh sáng, là cuộc đời, trần gian, là sự sống, hy vọng, hạnh phúc... Trong này: chẳng có mùa, không ánh sáng, không trăng, không nhạc, âm u, mờ mờ nhân ảnh, là lãnh cung, là trời sâu, là địa ngục, bất hạnh... Trong này chỉ về lại được Ngoài kia bằng ước ao thầm lén, bằng khắc khoải tuyệt vọng mà thôi.
Tấm thiếp phong cảnh của Hoàng Cúc gửi vào lập tức đánh động khát vọng về Ngoài kia trong hồn Tử. Thôn Vĩ Dạ hiện lên như một địa danh khởi đầu, một địa chỉ cụ thể của Ngoài kia. Nói khác đi, Ngoài kia trong cái giờ khắc ấy đã hiện lên bằng gương mặt Vĩ Dạ. Thèm về thăm Vĩ Dạ cũng là thèm khát về với Ngoài kia, về với cuộc đời, với hạnh phúc trần gian. Nghĩa là trong ý thức sáng tạo của Hàn Mặc Tử, Vĩ Dạ vừa là một địa danh cụ thể vừa được tượng trưng hóa [2] . Trong văn bản của thi phẩm này, có thể thấy tương quan không gian như thế ở hai nơi chốn: "thôn Vĩ" (Ngoài kia) và "ở đây" (Trong này). Hình tượng cái Tôi thi sĩ hiện ra như một người đang "ở đây", ở Trong này mà khắc khoải ngóng trông hoài vọng về "thôn Vĩ", về Ngoài kia. Đó là hình ảnh một cá thể nhỏ nhoi tha thiết với đời mà đang phải lìa bỏ cuộc đời, đang bị số phận bỏ rơi bên trời quên lãng, đang chới với trong cô đơn, đang níu đời, nuối đời. Đây thôn Vĩ Dạ chẳng phải là lời tỏ tình với thế giới Ngoài kia của kẻ đang bị lưu đày ở Trong này hay sao? Chẳng phải lời tỏ tình ấy càng vô vọng lại càng mãnh liệt, càng mãnh liệt lại càng thêm vô vọng hay sao?.
Đau thương đã tìm đến "thơ điên" như một hình thức đặc thù đối với Hàn Mặc Tử, nhất là ở giai đoạn sau [3] Sẽ không quá lời khi nói rằng Tử đã buộc chúng ta phải xét lại cái quan niệm hẹp hòi lâu nay về "điên" và "thơ điên". Ta quen thấy điên chỉ như một trạng thái bệnh lí mà quên hẳn rằng còn có điên như một trạng thái sáng tạo. Có không ít người làm thơ cố học đòi thơ điên như chạy theo một thứ mốt tân kì, nên chỉ là cách làm ra điên của những người tỉnh queo. Còn điên ở Hàn Mặc Tử là trạng thái đau thương bên trong đang chuyển hoá thành sáng tạo. Cảm xúc tuyệt vọng, oái oăm thay, lại trở thành hưng phấn sáng tạo. Một hưng phấn cực điểm, thái quá, khiến tâm tư xé rào vượt ra khỏi những lối đi, những biên giới thông thường. Thi hứng đến như một cơn sốc, sáng tạo như lên đồng. Chính Hàn cũng tự ý thức rõ về trạng thái này: "Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú (...) Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên..." (Tựa "Thơ điên"). Ra đời như vậy, "Thơ điên" thường có những đặc trưng: a) là tiếng nói của đau thương với nhiều biểu hiện phản trái nhau; b) chủ thể như một cái Tôi li - hợp bất định; c) một kênh hình ảnh kì dị, kinh dị; d) mạch liên kết siêu lôgic; e) lớp ngôn từ cực tả. Với những đặc trưng ấy (đặc biệt là điểm d) đã khiến cho mỗi bài thơ khác nào những xao động tâm linh được tốc kí trọn vẹn. Những vẻ "điên" này hiện ra trong các bài thơ thành dòng tâm tư bất định. Đặc tính này không khó nhận ra, nếu tác giả viết thơ tự do. Nhưng ở những bài được viết thành những khổ tề chỉnh, vuông vức, tròn trịa, thì việc nhận biết khó hơn nhiều. Có hình dung như vậy mới thấy Đây thôn Vĩ Dạ vẫn cứ là "thơ điên" theo đúng nghĩa, dù chưa đủ hết mọi đặc trưng điên. Không có những hình ảnh kì dị ma quái, những tiếng kêu kinh dị, nhưng ngôn từ đây đó đã là cực tả và mạch liên kết toàn bài thì rõ ra là "đứt đoạn", "cóc nhảy" [4] . Mạch thơ như một dòng tâm tư bất định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ của lí trí. Nhìn từ văn bản hình tượng, có thể thấy thi phẩm được dệt bằng một chuỗi hình ảnh liên kết với nhau rất bất định. Vừa mới ngoại cảnh (phần đầu) thoắt đã tâm cảnh (phần sau); hãy còn tươi sáng (Vườn thôn Vĩ) chợt đã âm u (cảnh sông trăng và sương khói)... Những mảng thơ phản trái nhau cứ dính kết vào nhau ngỡ như rất thiếu trật tự, "vô kỉ luật". Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy đó chỉ là sự chuyển kênh quá mau lẹ từ "hàng chữ gấm" sang "đôi mắt mờ lệ" đó thôi. Nhìn từ mạch cảm xúc, cũng thấy có những gấp khúc, khuất khúc với những phía chợt sáng chợt tối như vậy. Khổ đầu: một ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như một mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm vốn âm u lại mang gương mặt của khát khao rực rỡ; khổ hai: một ước mong khẩn thiết dâng lên thoắt hóa thành một hoài vọng chới với; khổ ba: một niềm mong ngóng vừa ló rạng đã vội hóa thành một mối hoài nghi. Nhìn từ cấu trúc không gian, cũng thấy bài thơ có sự chuyển tiếp không gian rất tinh vi, kín mạch, không dễ nhận ra. Trong phần sâu của nội dung, có thể thấy ba cảnh chính: vườn xa, thuyền xa, khách đường xa. Chúng hợp thành cái thế giới Ngoài kia để đối lập với ở đây. Như sự đối lập quái ác giữa cuộc đời và lãnh cung, trần gian tươi đẹp và trời sâu ảm đạm, sống và không sống, gắn bó và chia lìa... Khổ một còn ở thôn Vĩ Ngoài kia, khổ hai rồi phần đầu khổ ba nữa vẫn là Ngoài kia, đến cuối khổ thứ ba thì đã bay vụt vào Trong này, đã "ở đây" rồi. Nó là chốn nào vậy? Còn chốn nào khác, ngoài cái nơi Tử đang bị căn bệnh tàn ác ấy hành hạ? Chẳng phải đó là sự chuyển tiếp lối "cóc nhảy" rất đặc thù của "liên tưởng thơ điên" đó sao? Điều đáng nói là: nếu lối liên tưởng đứt đoạn bất định của "thơ điên" tạo ra sự chuyển làn các cảnh sắc, các miền không gian một cách đột ngột đến tưởng như phi lí, thì âm điệu tự nhiên nhuần nhuyễn của cùng một mối u hoài, trong cùng một lối thơ chia thành các khổ vuông vức tề chỉnh lại đã san lấp, phủ kín hoàn toàn những quãng đứt nối, khiến người đọc cứ mặc nhiên coi rằng bài thơ là sự nới rộng cùng một không gian Vĩ Dạ, mà không thấy rằng đó là sự ghép nối rất bất chợt, xuất thần giữa các vùng không gian vốn góc biển chân trời ("thôn Vĩ" là Ngoài kia, còn "ở đây" là Trong này). Theo tài liệu đáng tin cậy mới đây của Phạm Xuân Tuyển, trong cuốn "Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử", NXB Văn học 1997, thì bài thơ vốn có tên đầy đủ là "ở đây thôn Vĩ Dạ". Bấy giờ, Tử đang tuyệt giao với tất cả, đến ở một chốn hoang liêu mạn Gò Bồi, cách li hoàn toàn với bên ngoài để chữa bệnh. Theo đó thì, cái nơi chốn "ở đây sương khói mờ nhân ảnh" lại càng là sự biểu hiện trực tiếp của chốn "trời sâu" bất hạnh mà Tử đang bị lưu đày - "Tôi đang còn đây hay ở đâu?/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?/ Sao bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?". Có hiểu như thế ta mới thấy lối biểu hiện phức tạp của "thơ điên" và tình yêu tuyệt vọng đầy uẩn khúc của Hàn Mặc Tử.
Tóm lại, nếu mạch "liên tưởng điên" tạo ra một văn bản hình tượng có vẻ "đầu Ngô mình Sở", thì dòng tâm tư bất định lại chuyển lưu thành một âm điệu liền hơi. Hệ quả là: dòng hình ảnh thì tán lạc, những dòng cảm xúc lại liền mạch. Bởi thế Đây thôn Vĩ Dạ vẫn có một hình thái rất đặc thù của một thi phẩm "thơ điên". Đó là phi lôgic ở bề mặt nhưng lại nguyên phiến, nguyên điệu ở bề sâu. Tất cả vẫn khiến cho thi phẩm là một nguyên khối. Vì thế, vào cõi thơ Hàn Mặc Tử, không chỉ cần chú mục vào phần "lộ thiên", mà cần đào rất sâu vào tầng "trầm tích" nữa!
3. Bước vào thi phẩm Dù là "thơ điên" hay thơ gì chăng nữa, một khi đã là một thi phẩm dành được chỗ đứng trang trọng trong kí ức của người đọc nhiều thế hệ, thì dứt khoát phải nhờ vào vẻ đẹp tư tưởng của nó. Mà lõi cốt của tư tưởng ấy không thể là gì khác hơn một quan niệm nào đó về cái đẹp. Sự tương phản giữa hai miền không gian vừa nói trên đây ở Đây thôn Vĩ Dạ, không chỉ là mặc cảm của một con người đang phải chia lìa với cuộc đời. Sâu sắc hơn, thấm thía hơn, đó còn là mặc cảm của một thi sĩ đang phải ngày một lìa xa cái đẹp mà mình hằng khao khát, tôn thờ. Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng chuẩn mực quan trọng nhất của cái đẹp theo quan niệm của Tử chính là sự thanh khiết. Điều này vừa có nguồn gốc từ trong nhỡn quan của một thi sĩ trước cuộc đời, vừa từ tín niệm tôn giáo của một kẻ mộ đạo. ở cảnh vật, nó hiện ra thành vẻ thanh tú (thiên nhiên lí tưởng theo Tử phải là "chốn nước non thanh tú"). Ở con người, nó hiện ra trong vẻ trinh khiết (đầy đủ là "trinh khiết mà xuân tình"). Quan niệm về cái đẹp như thế đã chi phối ngòi bút Hàn Mặc Tử khi thể hiện con người và thiên nhiên. Trong thi phẩm này có sự hiện diện của những hình tượng cơ bản Vườn thôn Vĩ, Sông trăng-thuyền trăng, Khách đường xa đều là những biểu hiện sống động của của vẻ đẹp Thanh khiết đó. Trong mặc cảm chia lìa, tất cả những vẻ đẹp kia đều khiến Tử lâm vào tuyệt vọng. Và đương nhiên, Tử đã cảm nhận chúng qua lăng kính của niềm tuyệt vọng. Có thể trường hợp Tử là một minh chứng đáng sợ cho định nghĩa về cái đẹp của Pôn Valeri: Cái đẹp là cái làm ta tuyệt vọng. Mặc cảm chia lìa ở đây, dường như, đã hiện ra trong cảm giác về một thực tại xa vời, một hiện tại quá ngắn ngủi và sự tồn tại mong manh của mình. Không chỉ thấm vào hơi thơ, giọng thơ khiến cho cả mạch thơ được phổ một âm điệu da diết khắc khoải thật ám ảnh, mà trước tiên, mặc cảm chia lìa với các cảm giác éo le kia đã hoá thân vào từng hình ảnh, từng cảnh sắc của thi phẩm này.
Hãy đi vào từng khổ.
Câu mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? là một câu hỏi nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhớ, vừa trách, vừa mời mọc. Giờ đây chẳng ai còn ấu trĩ gán cho nó là câu hỏi của Hoàng Cúc hay của một cô gái nào ở thôn Vĩ nữa. Bởi, là đằng này thì vô lí - không đúng sự thực, là đằng kia thì vô tình- viết để tạ lòng Hoàng Cúc mà lại nghĩ đến cô khác ư [5] ? Vả chăng, đâu chỉ có một câu hỏi này. Toàn bài có tới ba câu hỏi. Cả ba đều cùng một chủ thể. Trên kia đã phần nào nói đến việc bài thơ được viết thành ba khổ trên âm điệu chủ đạo của những câu hỏi buông ra, buột lên, không lời đáp. Thực ra, câu hỏi chỉ là hình thức bày tỏ. Nó không đợi trả lời để thành đối thoại. Nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc bạch tâm tình. Ngữ điệu hỏi càng về sau càng khắc khoải hơn, u hoài hơn. Và, nhờ ngữ điệu nhất quán ấy, mà ba cảnh sắc ở ba khổ thơ vốn đứt đoạn "cóc nhảy" đã được xâu chuỗi lại tự nhiên khăng khít. Đó là Tử đang phân thân để tự hỏi chính mình. Hỏi mà như nhắc đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà chẳng biết giờ đây có còn cơ hội để thực hiện nữa không. Ấy là về lại thôn Vĩ, thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Ta đều biết tuổi nhỏ Tử đã từng học trường Pellerin ở Huế, và khi in xong tập "Gái Quê", Tử đã từng đến tìm Hoàng Cúc tại thôn Vĩ mà rồi chỉ nấp nom ngoài rào trúc chứ không dám vào. Giờ đây, nhận được bức thiếp phong cảnh này, niềm khát khao đã cất lên thành lời tự vấn oái oăm vậy. Còn ba câu sau vẽ ra hình tượng mảnh vườn thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Mỗi câu là một chi tiết vườn. Tất cả đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú. Đọc thơ Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một môtip ám ảnh. Nào vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm bao... Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Tử đều mang chung một diện mạo mà Tử muốn gọi là "chốn nước non thanh tú". Phải, thiên nhiên mà Tử say đắm dứt khoát phải có vẻ đẹp thanh tú! Không thế, Tử khó mà động bút. Dường như các mảnh vườn kia đã hò hẹn nhau đầu thai thành mảnh vườn Vĩ Dạ này. Chả thế mà chi tiết nào của nó dù đơn sơ cũng toát lên vẻ tinh khôi, dù bình dị cũng toát lên vẻ thanh khiết cao sang. Nghĩa là một "chốn nước non thanh tú" hoàn toàn.
Trong thơ Tử, nắng cũng là môtip ám ảnh. Ta thường gặp những thứ nắng lạ đầy ấn tượng với những nắng tươi, nắng ửng, nắng chang chang, nắng loạn...Trong mảnh vườn này, Tử chỉ nói giản dị Nắng hàng cau nắng mới lên, cớ sao mà gợi thế! Có lẽ một câu thơ hay không chỉ hay bởi những gì nó mang sẵn, mà còn vì những gì nó có thể gợi ra để người đọc đồng sáng tạo. Ai đã từng sống với cau, dễ thấy cau là một thứ cây cao, thậm chí ở mảnh vườn nào đó, có thể là cao nhất. Nó là cây đầu tiên nhận được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Bởi thế mà tinh khôi. Trong đêm, lá cau được tắm gội trên cao, sắc xanh như mới được hồi sinh trong bóng tối, dưới nắng mai lại rời rợi thanh tân. Nắng trên lá cau thành nắng ướt, nắng long lanh, nắng thiếu nữ. Bởi thế mà thanh khiết. Lại nữa, cau có dáng mảnh dẻ, trong nắng sớm, bóng đổ xuống vườn, in xuống lối đi những nét mảnh thật thanh thoát. Thân cau chia thành nhiều đốt đều đặn, khác nào như một cây thước mà thiên nhiên dựng sẵn trong vườn dùng để đo mực nắng. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên theo từng đốt, từng đốt. Đến khi tràn trề thì nó biến cả khu vườn xanh thành viên ngọc lớn... Chẳng phải câu thơ hay còn phải đánh thức dậy bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức con người? Song, trọng tâm của hình tượng vườn dường như thuộc về những nét vẽ ở hai câu sau. Mà ấn tượng nhất là câu thơ có vẻ đẹp long lanh này: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Vì nó có sắc "mướt" chăng? vì được sánh với "ngọc" chăng? Quả là hai chữ ấy đã đập ngay vào trực cảm người đọc. "Mướt" ánh lên vẻ mượt mà óng ả đầy xuân sắc. Còn "ngọc" là tinh thể trong suốt nên vừa có màu vừa có ánh. Nhờ đó, vườn thôn Vĩ như một viên ngọc không chỉ rời rợi sắc xanh, mà còn đang tỏa vào ban mai cả những ánh xanh nữa. Thiếu đi những ánh sắc ấy, mảnh vườn đơn sơ bình dị này khó mà hiện ra vẻ thanh tú cao sang. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó không thôi, ta mới chỉ thấy tầng lộ thiên của chữ "ngọc". ẩn bên dưới, vẫn còn tầng trầm tích nữa. Khảo sát phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử, thấy thi sĩ này rất ưa dùng những vật liệu cao sang, nhất là ở giai đoạn cuối. Từ "Thơ điên" trở đi, các trang đều tràn ngập những vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược... đặc biệt là ngọc. "Ngọc" vừa được dùng lối ước lệ cổ điển như tay ngọc, mắt ngọc, đũa ngọc... vừa được dùng lối trực quan. Mà dù theo lối nào nó cũng là so sánh ở mức tuyệt đối: "Đức tin thơm hơn ngọc/ Thơ bay rồi thơ bay", "Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc/ Cả một mùa xuân đã hiện hình"... Thi sĩ đang muốn tuyệt đối hoá, tột cùng hoá vẻ đẹp đẽ, quí giá, cao sang của đối tượng. Nhu cầu tuyệt đối hoá này thường xuất hiện khi niềm thiết tha với cuộc đời trần thế dâng trào đến mức đau đớn. Càng đẹp lại càng đau. Cho nên, trong so sánh với "ngọc" luôn thấy chất chồng một cách oái oăm cả hai tâm thái: cảm giác càng tinh tế, cảm xúc càng đau thương. Ở đây cũng thế, Vườn ai mướt quá xanh như ngọc chứa đựng trong đó một cảm nhận về vẻ đẹp ở mức tột bậc và cả niềm thiết tha ở mức đau thương. Cũng phải thôi, lộng lẫy đến thế, ngay trước mắt thế, mà đang vuột ra ngoài tầm tay của mình, thì làm sao tránh khỏi đau thương!
Nhưng, bên cạnh những chữ phô ngay ra vẻ quyến rũ ấy, còn có những chữ khác, khép nép bên cạnh, khiêm nhường kín đáo thôi, nhưng dường như lại được Tử yêu tin mà kí thác vào đó những uẩn khúc của lòng mình. Tôi muốn nói đến chữ "ai". Nếu cả bài chỉ có một chữ này thôi thì chưa có gì thật đáng nói. Bởi chữ "ai" thường mang ý phiếm chỉ hoá, ỡm ờ hoá mà thơ truyền thống, nhất là ca dao đã khai thác đến nhàm. Đáng nói vì cả bài có tới bốn chữ "ai" nằm ở cả ba khổ. Chúng gắn với nhau bằng cả sắc thái lẫn giọng điệu tạo thành một "hệ vi mạch" ẩn sâu trong lòng bài thơ, chuyển tải một cảm giác se xót - cảm giác về thực tại xa vời: Vườn ai..., Thuyền ai..., Ai biết tình ai. Thế giới này, cuộc đời này đẹp đẽ là thế, hiện ngay trước mắt thế, vậy mà đã hoá xa vời, vậy mà đã thuộc về Ngoài kia, thuộc về cõi trần ai kia. Sắc thái phiếm chỉ bỗng chốc đã làm tất cả như lùi xa, bỗng như diệu vợi hoá, mông lung hoá. Cũng trong câu này, không thể không dành quan tâm ít nhiều đến chữ "quá", bởi hiệu quả nghệ thuật riêng của nó. Cũng là từ chỉ mức độ, nhưng xem ra chỉ có nó mới đem đến cho câu thơ âm hưởng của một tiếng kêu ngỡ ngàng, trầm trồ như chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn, mà có lẽ ở khoảnh khắc trước chưa thấy, khoảnh khắc sau cũng chưa hẳn đã thấy. Ta sẽ còn gặp ở khổ cuối tiếng kêu như thế nữa - áo em trắng quá nhìn không ra. Nó cũng là tiếng kêu muốn tuyệt đối hoá vẻ đẹp của đối tượng. Nghĩa là những tiếng kêu hàm chứa nỗi đau thương.
Trong khổ này, câu thứ tư đã gây nhiều tranh luận: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Gương mặt kia là phụ nữ hay đàn ông? Lối tạo hình của nó là cách điệu hay tả thực? ý kiến xem ra chưa ngã ngũ. Thực ra, làm sao lại có một chi tiết cách điệu lạc vào giữa một bức tranh trực quan thuần tả thực như thế này. Vả chăng, nó diễn tả một khuôn mặt chữ điền ẩn sau những lá trúc loà xoà kia mà. Có người đã cất công để chứng minh dứt khoát đấy là gương mặt phụ nữ [6]. Thiết tưởng muốn xác định là đàn ông hay phụ nữ, trước tiên cần phải trả lời một câu hỏi khác: đó là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ? Nếu xét thuần tuý về cú pháp câu thơ, người đọc có quyền hiểu theo cả hai cách. Nhưng xét trong tương quan với toàn cảnh và trong hệ thống môtip phổ biến ở thơ Tử, thì có thể loại trừ được cách không phù hợp. Nếu là người thôn Vĩ (chủ nhân khu vườn), thì hẳn phải là khuôn mặt phụ nữ. Một người đàn ông về thôn Vĩ chắc không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông! Còn là người trở về thôn Vĩ, thì người ấy chính là Tử, nói chuẩn hơn là hình tượng của chính Cái Tôi thi sĩ. Tìm trong thơ Hàn, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu... như thế này thường là hình bóng tự họa của Tử. Mà Tử vẫn có cái "thói" tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh và có phần... vơ vào nữa ("Người thơ phong vận như thơ ấy", "Có chàng trai mới in như ngọc? Gió căng hơi và nhạc lên trời", "Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó / Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu"...). Thực ra, cũng chả riêng gì Tử vơ vào. Nguyễn Bính chân quê cũng "vơ vào" chả kém khi tự hoạ một cách bóng gió trong một khuôn hình gần giống thế: "Bóng ai thấp thoáng sau rào trúc / Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền". Nghĩa là khuôn mặt và hình dáng văn nhân cả thôi. Tuy nhiên, khuôn mặt chữ điền sau lá trúc, không chỉ là sản phẩm của "tâm lí vơ vào" dễ thương thế thôi đâu. Sâu xa hơn, nó còn là sản phẩm của mặc cảm chia lìa. Mặc cảm này thường khiến Tử vẽ mình trong các trang thơ như một "kẻ đứng ngoài", "kẻ đi ngang qua cuộc đời", kẻ "đứng cách xa hàng thế giới", là vị "khách xa", kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế. Kẻ ấy thường làm những chuyến trở về với cuộc đời Ngoài kia một cách thầm lén, vụng trộm. Tử hình dung mình trở về thôn Vĩ (hay tái hiện lại cái lần mình đã trở về mà không vào, chỉ nép ngoài rào trúc, thì cũng thế!), vin một cành lá trúc, che ngang khuôn mặt mình để mà nhìn vào, say ngắm vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Hiểu thế mới thấy câu thơ kia, hoá ra là sản phẩm nhất quán của một tình yêu mãnh liệt mà cũng là sản phẩm của một tâm hồn đầy mặc cảm về thân phận mình. Trong đó chẳng phải giấu kín một niềm uẩn khúc đáng trân trọng mà cũng thật đáng thương sao? Song, hẳn sẽ có ý thắc mắc rằng: mạch thơ đang vẽ đối tượng (cảnh nơi thôn Vĩ) sao thoắt lại chuyển sang vẽ chủ thể (cái tôi thi sĩ), liệu có cóc nhảy, phi lôgic không? Đúng thế. Nhưng, như bạn biết đấy, cóc nhảy và phi lôgic trên bề mặt chính là một đặc trưng của mạch liên tưởng "thơ điên". Sự chuyển kênh đột ngột ấy, trước sau, vẫn chỉ xoay quanh một niềm thiết tha vô bờ mà cũng đầy uẩn khúc của Tử mà thôi.
Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất này, cảnh sắc là thôn Vĩ mà cũng là Ngoài kia, vườn Vĩ Dạ mà cũng là vườn trần gian. Qua lăng kính của mặc cảm chia lìa, cả những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Với Tử đó là thiên đường trần gian - một thiên đường giờ đây dường như không thuộc về mình nữa, đang tuột khỏi tầm mình. Về thôn Vĩ vốn là việc bình thường, với Tử giờ đây lại thành một ước ao - ước ao quá tầm với, thành một hạnh phúc- hạnh phúc quá tầm tay.
Khổ thứ hai chuyển sang một cảnh khác: cảnh dòng sông. Hiểu là sông Hương cũng được mà dòng sông nào đó của cuộc đời Ngoài kia cũng được [7] . Mặc cảm chia lìa ở đây hiện ra cả trong câu chữ, hình ảnh và nhạc điệu:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hai câu trên nói đến một thực tại phiêu tán. Tất cả dường như đang bỏ đi: gió bay đi, mây trôi đi, dòng nước cũng buồn bã ra đi... Có phải cảnh tượng kia là một cái gì thật ngang trái trớ trêu? Đúng thế. Trước tiên, gió mây làm sao có thể tách rời - mây không tự di chuyển, gió thổi mây mới bay, chúng không thể chia tách. Rõ ràng, đây không còn đơn thuần là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng không thể chia lìa! "Dòng nước buồn thiu" vì mang sẵn trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn li tán chia phôi từ mây gió đã bỏ buồn vào lòng sông? Khó mà đoan chắc. Lạ nhất là chữ "lay". Động thái "lay" tự nó không vui không buồn. Sao trong cảnh này nó lại buồn hiu hắt vậy? Nó là nét buồn phụ họa với gió mây sông nước? hay nỗi buồn sông nước đã lây nhiễm, đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp phất phơ này? Thật khó mà tách bạch. Có phải có một chữ "lay" buồn như thế từ bông sậy của dân ca đã xuôi theo ngọn gió thời gian mà đậu vào thơ Tử: Ai về giồng dứa qua truông/ Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em? Có phải chữ "lay" ấy lại trôi nổi thêm nữa để đến với hiện đại nhập vào lá ngô của thơ Trúc Thông: Lá ngô lay ở bờ sông - Bờ sông vẫn gió người không thấy về? Và tất cả những chữ "lay" kia có phải đều dây mơ rễ má với chữ "hiu hiu" đầy ám ảnh của thơ Nguyễn Du: Trông ra ngọn cỏ lá cây/ Thấy hiu hiu gió thì hay chị về? Hiu hiu, lay động đều là tín hiệu báo sự hiện hữu. Cứ nhìn thấy thế là người ngóng trông nhận ra sự trở về nào đó từ cõi vô hình. Còn Tử nhìn hoa bắp lay để nhận ra sự phiêu tán, sự ra đi. Cả mây, gió, cả dòng nước cứ lìa bỏ nhau và đều lìa bỏ chốn này mà đi hết cả. Chỉ riêng hoa bắp là cái tĩnh tại, không thể tự nhấc mình lên mà lưu chuyển. Bị bỏ rơi lại bên bờ, động thái "lay" kia có phải là một níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng của kẻ bị chia lìa? Có phải Tử đã thấy hoa bắp côi cút bên sông như vận vào mình? Có phải mặc cảm chia lìa đã khiến Tử nhìn ra cái thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình trong dáng "lay" sầu tủi của hoa bắp?
Đối mặt với cái xu thế tất cả đang chảy đi, bỏ đi, trôi đi càng lúc càng vuột xa ngoài tầm sống của mình ấy, Tử chợt ao ước một thứ có thể ngược dòng về với mình, ấy là trăng. Phải, mây đã đi, gió đã đi, dòng nước cũng đi... may ra chỉ còn trăng thôi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trong bài thơ này có hai chữ "về". Nếu chữ thứ nhất là về với Vĩ Dạ, với Ngoài kia (Sao anh không về chơi thôn Vĩ?), thì chữ thứ hai đây đã đổi hướng, là về phía Tử, về với Trong này. Cũng phải thôi, trong "lãnh cung" của sự chia lìa, vốn "không có niềm trăng và ý nhạc", nên Tử đã đặt vào trăng kì vọng của mình: Có chở trăng về kịp tối nay? Trăng giờ đây như một bám víu duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc! Tìm kiếm vẻ đẹp của những câu này, người phân tích thường chỉ chú mục vào hình ảnh "sông trăng", "thuyền trăng" với thủ pháp huyền ảo hoá. Thực ra đó chỉ là những vẻ đẹp thuộc cái duyên phô ra của thơ mà thôi. Tôi muốn nói đến chữ khác lâu nay bị bỏ quên, bởi nó lặng lẽ khiêm nhường chứ không bóng bảy ồn ào. Nhưng nó vẫn đẹp trong quên lãng. ấy là chữ "kịp". Chữ "kịp" mới mang bi kịch của tâm hồn ấy, thân phận ấy. Ta và cả người đọc sau ta nữa chắc chắn không thể biết "tối nay" kia là tối nào cụ thể. Nhưng qua giọng khắc khoải và qua chữ "kịp" này ta nhận ra một lời cầu khẩn. Dường như, nếu trăng không về "kịp" thì kẻ bị số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương. Như thế, chữ 'kịp" đã hé mở cho ta một cách thế sống: sống là chạy đua với thời gian. Một so sánh với Xuân Diệu có thể thấy rõ Tử hơn. Cũng chạy đua với thời gian, nhưng ở Xuân Diệu là để được hưởng tối đa, sống để mà tận hưởng mọi hạnh phúc nơi trần giới, bởi đời người quá ngắn ngủi, cái chết sẽ chờ đợi tất cả ở cuối con đường, còn Hàn Mặc Tử chỉ mong tối thiểu, chỉ được sống không thôi đã là hạnh phúc rồi, bởi lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng. Quĩ thời gian đang vơi đi từng giờ từng khắc, cuộc chia lìa vĩnh viễn đã sát gần. Trong cảnh ngộ này, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong nguy cơ chia lìa đương vây khốn. Thơ là sự lên tiếng của thân phận, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.
Khổ thứ ba, giọng khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Khác hẳn các đoạn trước, nhịp thơ ở đây gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
áo em trắng quá nhìn không ra
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Tất cả đều là những hình ảnh đầy mời gọi của thế giới Ngoài kia. Ở trên, tôi đã nói đến vẻ đẹp trinh khiết như là chuẩn mực cho cảm quan thẩm mĩ của Hàn Mặc Tử. Trinh khiết trở thành vẻ đẹp phổ biến của thế giới và của những Nàng thơ trong cõi thơ Tử. Những người con gái trong thơ Tử bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ trinh khiết xuân tình. Gắn làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi. Cho nên ngóng ra thế giới Ngoài kia, thì hình bóng người khách đường xa (người tình xa) phải là trung tâm, phải thanh khiết nhất, lung linh nhất. Và đắm say tột bậc cái vẻ đẹp này, Tử thường cực tả bằng những sắc trắng dị kỳ. Tử dồn cả màu cả ánh để diễn đạt cho được trực cảm của mình: "Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Thậm chí, có lúc không theo kịp trực giác, lời thơ trở nên kì quặc: "chết rồi xiêm áo trắng như tinh"... Nhiều người phân tích chưa nhận thấy đặc trưng này của thơ Tử đã giải thích áo trắng quá nhìn không ra là bởi lẫn và sương khói. Không phải thế. "Áo em trắng quá nhìn không ra" chính là một tiếng kêu, một cách cực tả sắc trắng ở sắc độ tuyệt đối, tột cùng. Trắng đến mức lạ lùng, không còn tin vào mắt mình nữa (tựa như tiếng kêu vườn ai mướt quá xanh như ngọc đã phân tích ở trên). Đừng lầm tưởng rằng đây là lời thú nhận về sự bất lực của thị giác.
Như thế, cuối cùng, mơ tưởng da diết khắc khoải hơn hết thảy vẫn là dành cho con người, vẫn là hướng tới những người tình xa. Bởi phải chia lìa với thế giới Ngoài kia, có lẽ mất mát lớn nhất, niềm đau thương nhất vẫn là phải chia lìa với người mình yêu vậy.
Đến đấy, Tử quay trở về với thực tại u ám của mình, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mịt mờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Được viết gần như đồng thời với bài "Những giọt lệ", cho nên ta cứ nghe đâu đây trong những câu chữ kia tiếng dội của những giọt lệ đau thương, như hoài nghi, như hi vọng, như tuyệt vọng: "Tôi đang còn đây hay ở đâu?/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?" và "Trời hỡi bao giờ tôi chết đi?/ Bao giờ tôi hết được yêu vì?"... Tử yêu đời đến đau đớn. Còn cuộc đời, tình đời còn dành cho Tử được bao nhiêu, được bao lâu? Cuộc đời Ngoài kia vẫn cứ kì diệu thế, vẫn "cách xa nghìn thế giới" như thế, vẫn cứ cách ở đây hẳn một tầm tuyệt vọng như thế. Tồn tại ở đây, ở trời sâu này thật quá đỗi mong manh. Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc Tử với ngoài ấy. Thế mà cái tình kia cũng mong manh xa vời làm sao? Câu hỏi cuối cùng khép lại toàn bộ dòng tâm tư bất định này là tiếng thở dài hay là lời cầu mong của một kẻ thiết tha gắn bó đến cháy lòng? Có lẽ là cả hai. Bởi vì uẩn khúc và nghịch lí chính là nét lạ lùng nhất trong cấu trúc của tiếng nói trữ tình Đây thôn Vĩ Dạ.
Thế đấy, tôi đã khá dài dòng khi hành hương về Vĩ Dạ theo cái đường dây mong manh và bí mật của tình yêu tuyệt vọng vốn chìm khuất trong thế giới của thi phẩm. Những đối chiếu giữa thi phẩm với thế giới nghệ thuật của thi sĩ: từ cội nguồn của tiếng nói trữ tình đến hình thức đặc thù của "thơ điên", từ lớp biểu tượng ở tầng trầm tích đến phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử... chính là những sự chỉ dẫn cần thiết. Không có bản chỉ dẫn ấy, cuộc hành hương khó tránh khỏi sa vào bế tắc. Tuy nhiên điều tôi muốn nói thêm trước khi dừng là: Thôn Vĩ vẫn còn nhiều bí ẩn sẵn chờ và mời mọc những cuộc hành hương khác.
Mùa xuân chín
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây...
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây...
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
(Rút từ tập Đau thương, 1938)
Cũng như Đây thôn Vĩ Dạ, thi phẩm Mùa xuân chín quả là tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử. Trong trẻo song cũng đầy bí ẩn. Có phải vì thế mà thơ Hàn thuộc dạng kén tri kỉ tri âm. Cứ tựa như một giai nhân kiêu kì vừa đầy quyến rũ vừa sẵn sàng làm nản lòng những kẻ mon men đến gần. Biết bao người vây quanh, ngưỡng mộ, cầu thân, cuối cùng thường chỉ nhận được sự chối từ lịch lãm. Đến nay cách hiểu thi phẩm chủ yếu vẫn chỉ qui về chủ đề ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, cảm thông với lao động nhọc nhằn. Đưa vào giảng dạy cho học trò thường chỉ khai thác bức tranh mùa xuân đầy xuân sắc, cảm xúc thiên nhiên hết sức tinh vi... Mới chỉ khơi khơi vành ngoài như vậy, hèn chi chỉ nhận được sự hững hờ. Cái duyên, cái hồn riêng của Hàn Mặc Tử trong thi phẩm chẳng mấy khi chịu hiện hình ló rạng.
Có lẽ do không bắt đầu bằng tháo gỡ mạch liên kết "nhảy cóc" của thi phẩm, nên đối tượng thật, cũng như những tình ý sâu kín nhất của Mùa xuân chín vẫn luôn trốn chạy khỏi chúng ta.
1. Chuỗi "sực nhớ"miên man hay là dòng tâm tư bất định
Ai cũng biết những khía cạnh lí thuyết chung này: thơ lãng mạn lấy việc đào sâu vào cái Tôi làm cứu cánh, cái Tôi của thơ lãng mạn là cái Tôi nội cảm, kết cấu của các thi phẩm lãng mạn thường tựa vào mạch diễn biến của cảm xúc...
Nhưng ít ai chịu thấy cho thật kĩ rằng xúc cảm can thiệp vào mạch vận động ở mỗi tác phẩm và ở từng tác giả không hề giống nhau. Đơn cử ba đại diện vào loại lớn nhất của Thơ mới là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử và Nguyễn Bính. Nếu xúc cảm trong các bài thơ của chàng thi sĩ chân quê dựa nhiều vào "cốt" - khiến thơ ít nhiều mang tính tự sự kể lể, thì ở chàng thi sĩ của ái tình cảm xúc dâng trào trên bề mặt lại dựa hẳn vào một cái "tứ" khá chặt nào đó dưới bề sâu. Trong khi ấy, mạch thơ của chàng thi sĩ thơ điên lại trôi chảy theo một dòng tâm tư hoàn toàn bất định khước từ sự dẫn dắt của lôgic lí trí. Vì thế, tìm kiếm tâm sự của Nguyễn Bính ta có thể lần theo mạch "chuyện", để hiểu tâm tư Xuân Diệu ta có thể bám sát mạch "ngôn từ lôgic" rải rác trong các mảng thơ để liên kết thi tứ. Còn các thi phẩm Hàn Mặc Tử rất khác: đã "phi tự sự" lại còn "phi lôgic"! Tất cả đều có vẻ thiếu mạch lạc, cóc nhảy, đầu Ngô mình Sở. Về thực chất đó là kiểu liên kết siêu lôgíc rất đặc trưng của Thơ điên. Toàn bài là một dòng tâm tư đầy những bất chợt cứ trôi chảy với hai biểu hiện trái chiều: mạch hình ảnh phía trên thì theo liên tưởng tán lạc, mạch tâm tư bên dưới thì theo cảm xúc nhất quán - nhưng là kiểu nhất quán đầy uẩn khúc chứ không hề giản đơn. Ngay trong bài Mùa xuân chín này có một câu thơ dường như muốn tiết lộ với chúng ta về khía cạnh ấy của thơ Hàn. Đó là: Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng. Tôi muốn lưu ý chữ "sực nhớ". Tức là những khoảnh khắc bất chợt, bất thần, vụt hiện, ngẫu nhiên. Có thể nói, dòng tâm tư bất định trong thơ Hàn Mặc Tử chính là một chuỗi những "sực nhớ" như thế. Các hình ảnh trôi trên bề mặt của dòng tâm tư là những ấn tượng, những kỉ niệm vụt hiện, mình Sở đầu Ngô, nhưng tất cả những ảnh hình bất chợt đầy ngẫu nhiên ấy lại đan bện vào cùng một nỗi niềm đang miên man chuyển hóa, vần vụ. Như thế, "phi lôgic" bề mặt, song lại "lôgic" ở bề sâu chính là bản tướng của cái hình thái được gọi bằng "siêu lôgic" trong thơ Hàn.
Có lẽ vì những phiền toái ấy, người đọc bước vào thơ Tử luôn bị mất dấu vết, mất phương hướng, chơi vơi, mệt. Người bối rối thì đâm tự hoài nghi, kẻ nông nổi lại dễ tự dối mình, và thường khi là tự mãn với vài ba lượm lặt đứt nối, rụng rơi nào đó.
Bước vào Mùa xuân chín cũng thế.
Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, đang say đắm trong thời khắc hiện tại - với cảnh xuân phô bày trước mắt và bao cô thôn nữ đang khao khát xuân tình đầy ý vị, thoắt cái đã sang một tương lai vô vị - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. Đương còn lắng nghe những lời thầm thĩ gần thế, đã sực nhớ đến một ảnh hình trong quá khứ xa thế - Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi, đám thôn nữ...) thoắt biến thành tâm cảnh (người con gái gánh thóc dọc bờ sông trắng), vừa mới "xuân sang" với nắng ửng, thoắt đà "xuân chín", rồi bất ngờ vuột hẳn ra ngoài cõi xuân với nắng chang chang. Cứ "nhảy cóc" như thế là bởi cứ "sực nhớ" mà ra. Kí ức thi sĩ cứ liên tục "vặn kênh", "chuyển kênh". Về mạch cảm xúc, nó không được triển khai theo kiểu cứ tăng tiến mãi một chiều. Mà vận động theo lối đứt gẫy rồi chuyển điệu đột ngột tựa như bất chợt chuyển kênh. Bài thơ có bốn khổ, thì ba khổ đầu nghiêng về diễn tả vẻ rạo rực xuân tình trong cảnh vật và trong lòng người. Thế rồi trạng thái rạo rực đang dồn đẩy tới, thoắt chuyển thành trạng thái bâng khuâng. Mạch cảm xúc vì thế có tới hai cao trào: rạo rực thì đến mức "hổn hển" - Hổn hển như lời của nước mây, còn "bâng khuâng" thì đến thành xa vắng - Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng. Mới vừa "rạo rực" thoắt đã "bâng khuâng", vừa ngây ngất yêu đời đã da diết thương đời. Đó chính là mạch chuyển lưu các đối cực của xúc cảm. Tất cả là chuỗi những "sực nhớ". Những "sực nhớ" được xâu thành chuỗi bởi một mạch cảm xúc luôn chuyển lưu, vần vụ đã tạo thành dòng tâm tư bất định. Đó chính là lối liên kết độc đáo của Mùa xuân chín nói riêng và Thơ điên Hàn Mặc Tử nói chung.
2. Cảnh chín hay tình chín? Nhìn từ bên ngoài, Mùa xuân chín trước hết là một bức tranh xuân. Thơ Mới viết về mùa xuân đâu phải ít, nhưng được như Mùa xuân chín đây thì đâu có nhiều. Bức tranh xuân ấy xứng đáng là một đóng góp của Hàn Mặc Tử đối với mạch thơ xuân. Song, thi phẩm đâu chỉ là chuyện cảnh xuân được họa bằng những vẻ xuân sắc phơi lộ bên ngoài. Đó chỉ là cái hữu hình, hữu thể thuộc về hình tướng bề ngoài. Chưa phải là điều đáng nói nhất. Đáng nói ở đây phải là cái vô hình vô thể náu ở trong lòng vạn vật kia. Tức là tình xuân vậy. Nó vừa là xuân tình trong lòng tạo vật, vừa là xuân tình trong lòng con người. Đành rằng nó cũng được phát lộ ra bên ngoài bằng xuân sắc. Nhưng ở khía cạnh này xuân sắc chỉ là ngôn ngữ, là chất liệu của xuân tình. Hãy xét kĩ một câu thơ: Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời có thể thấy rõ khuynh hướng cảm hứng của Hàn Mặc Tử. Nhiều người cứ mặc nhiên coi rằng nội dung của nó là giống với câu "Cỏ non xanh tận chân trời" của Nguyễn Du. Không phải. Quả là không thể chối bỏ ảnh hưởng của câu "Kiều" này đối với Hàn thi sĩ. Nhưng cần thấy rằng cái mà Tố Như định thể hiện là sắc cỏ non xanh (nghĩa là ngoại hình của cỏ) trải ra chân trời (bề rộng), còn cái mà Hàn Mặc Tử nhằm tới lại là sóng cỏ (nghĩa là sự rung động của cỏ) [8] đang gợn mãi lên đến tận vòm trời (chiều cao). Đây không nói chuyện hơn kém, mà chỉ nhận diện sự khác nhau. Trong tương quan ấy, nếu sắc nghiêng về cái hữu hình, thì sóng nghiêng về cái vô hình; sắc là hiện thân của xuân cảnh, còn sóng là hoá thân của xuân tình. Rõ ràng, Hàn Mặc Tử muốn thông qua sóng cỏ thuộc về hình tướng của tạo vật để nắm bắt cái xuân chín thuộc về chân tâm của tạo vật.
Vì thế "xuân chín", về thực chất, là "tình chín".
Và Tình chính là phần hồn cốt của Xuân.
Trong thi phẩm này, tình xuân không chỉ chín trong cảnh vật, mà còn chín trong cả con người. Hai vẻ xuân chín này diễn ra vừa đồng thời ở người và cảnh, vừa giao ứng giữa cảnh với người. Nói cách khác là cả hai chín cùng nhau, chín sang nhau và chín trong nhau. Sự song hành và hoà điệu như thế mới tạo nên Mùa xuân chín. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là ở đó.
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
Khổ thơ là một bức tranh toàn vẹn diễn tả cái diện mạo tươi thắm của cảnh lúc xuân sang: làn nắng ửng, khói xanh mơ, tà áo biếc, lấm tấm vàng... Đó là sắc xuân, đó cũng là tình xuân. Tình dậy lên bên trong phát lộ thành sắc bên ngoài. Và không chỉ ở sắc, tình còn hiện lên trong khí xuân. Để rõ thêm điều này, có lẽ nên tham khảo bài Sáng trăng, thi phẩm có cách cảm nhận rất gần gũi với Mùa xuân chín. Thậm chí, ở đó thi sĩ đã dùng cả những hình ảnh, ngôn từ như trong Mùa xuân chín để thể hiện cái tình dậy lên trong hồn người và phát lộ ra bên ngoài như thế nào: "Vui thay cảnh sáng trăng/ ái tình bắt đầu căng/ Hoa thơm thì nín lặng/ Hương thơm thì bay lan/ Em tôi thì hổn hển / áo xiêm lấm tấm vàng/ Em tôi đã hiểu chưa?/ Đó là khúc tình ca/ Nẩy theo hơi thở nhẹ/ ở trên làn dây tơ/ Của lòng em rộn rã...". Như thế, khi ái tình bắt đầu căng, lòng xuân náo nức thì nó tràn ra thành sắc xuân, sức xuân, khí xuân... hiển lộ thành sắc màu, thành cử chỉ, thành hơi thở, thành hương thơm, thành tiếng hát... của người thiếu nữ. Cũng như thế, ở Mùa xuân chín, ửng là xuân tình của nắng, xanh mơ là xuân tình của khói, lấm tấm vàng là xuân tình của những mái nhà gianh, sột soạt trêu là xuân tình của gió, và sắc biếc của tà áo bị trêu tròng là xuân tình nơi giàn thiên lí... Cứ như thế, như thế vẻ xuân tình của thiên nhiên theo làn sóng cỏ xanh tươi gợn lên đến tận trời. Cả bầu không gian mênh mông ấy, tràn đầy vẻ xuân, khí xuân. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời ca của con người thì cũng thế:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi ...
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây
Thiên nhiên mùa xuân cũng được cảm nhận và được mô tả như một thiếu nữ. Dường như sau cái bức tranh dệt bằng các chi tiết thiên nhiên ấy ta thấy thấp thoáng bóng một thiếu nữ tràn ngập xuân tình, khi thì qua sắc nắng ửng (như sắc má ửng hồng), khi thì qua tà áo biếc, khi thì qua lời nước mây hổn hển rồi lại thầm thỉ... ấy là Nàng Xuân vậy.
Chẳng phải thi sĩ muốn nhắm tới cái vô hình vô thể của xuân, và dùng cái hữu hình làm chất liệu để gợi ra cái vô hình hay sao?
3. Lòng xuân gửi vào Mùa xuân chín
Vừa ngất ngây xuân chín... Mùa xuân và mùa thu được thi ca ưu ái đến mức thiên vị. Xung quanh hai mùa này có biết bao áng thơ ca nổi tiếng. Vậy nên, riêng việc viết về mùa xuân hay vẽ nên một bức tranh xuân thú vị vẫn chưa phải là điều thật độc đáo. Cái độc đáo của bài thơ xuân này nằm ở chữ "chín". Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn thấy rằng mùa xuân có một uy thế lấn lướt trong thơ của thi sĩ này. Say mê vẻ xuân, Hàn đã có hẳn một tập "Xuân như ý" với những bài xuân tràn đầy thánh ý: Xuân gấm, Xuân hôn phối, Xuân trẻ, Xuân non, Xuân lịch sự... Ngay cái trạng thái "xuân chín" này cũng chứa đựng một quan niệm rất riêng của thi sĩ. Không nắm được quan niệm ấy, ta chỉ đến với bài thơ như một bức tranh thiên nhiên đơn thuần. Như đã nói ở trên, lõi của Xuân là Tình. Xuân chín ấy là Tình chín. Chín là thời điểm mãn khai, là trạng thái căng tràn, là khoảnh khắc nhậy cảm: sắc xuân mãn, thì xuân đoạn. Đó là đỉnh điểm mà cũng là giao điểm: tại đó nó chuyển thì, chuyển sắc.
Điều rất thú vị của Mùa xuân chín là trong bài thơ có cả một hệ thống nhân vật. Người thì: "bao cô thôn nữ", "ai ngồi dưới trúc", "khách xa" [9] và "chị ấy". Còn thiên nhiên cũng có thể xem như một nhân vật: nhân vật Nàng Xuân. Tình xuân chín trong lòng thiên nhiên ấy bắt đầu bằng làn nắng ửng. Từ chớm chín, nhanh chóng thành chín rục, chín muồi, chín mẩy... Xuân tình nảy nở và tràn căng cùng lúc trong cả những con người kia lẫn thiên nhiên này. Không phải ngẫu nhiên mà bức tranh xuân ở đây lại được họa bằng tất cả những gì tình tứ thế:
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
Cả đến mái nhà tranh cũng phát lộ xuân tình. Có lẽ còn lâu nữa về sau, mái nhà tranh vẫn cứ là một hình ảnh thân thương, dễ động lòng người Việt. Nó lặn sâu trong kí ức cộng đồng như một ảnh tượng của quê hương nghìn đời. Ta gặp trong thơ cổ điển của Nguyễn Khuyến "Năm gian nhà cỏ thấp le te" đơn sơ thanh bạch, ta gặp trong thơ cách mạng của Tố Hữu "Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây" cùng những "Mái nhà tranh thấp ngủ im hơi" đắm chìm buồn tủi hồi chưa cách mạng, ta cũng gặp trong thơ Trần Đăng Khoa những mái gianh tảo tần dầu dãi mà rất đỗi thiêng liêng "Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương"... Nhưng vẻ tình tứ của những mái gianh thì có lẽ chỉ thơ lãng mạn mới khơi dậy được. Đúng thế, cái sắc "lấm tấm vàng" kia đâu chỉ là màu nắng in từ ngoài vào. Đó cũng chính là dấu hiệu đầy gợi cảm của xuân tình khi "ái tình bắt đầu căng" phát lộ từ trong ra, khoe sắc ra bên ngoài. Hàn Mặc Tử thường cảm nhận như thế: "Em tôi thì hổn hển/ áo xiêm lấm tấm vàng" (Sáng trăng), "Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ/ Đầy mình lốm đốm những hào quang" (Duyên muộn)...Cả cái làn gió đang "sột soạt" trêu tròng tà áo biếc nơi giàn thiên lí kia nữa cũng thật phong tình. Cứ như là muốn... lật dở ra xem vậy! Xem chừng, làn gió táo bạo này cũng chính là làn gió "liều lĩnh" đã "lọt cửa cọ mài chăn" [10] bay từ Thơ Đường Luật của Tử về giàn thiên lí này thôi. Lời thơ Tử vẫn thường ánh lên màu sắc dục là như thế.
Dường như đối với Hàn Mặc Tử, tình xuân nảy nở cứ càng lúc càng nồng nàn mãnh liệt hơn: thành sắc màu, thành ánh sáng rồi thành gió trêu, thành sóng cỏ... mà cuối cùng là thành tiếng hát tình tứ. Tiếng hát là kết tinh cao nhất của tình xuân. Từ trong lòng tạo vật phát ra ngoài, rồi gợn lên, lan đi, vắt vẻo ở lưng chừng núi, và cuối cùng thì cao bay lên tận đỉnh trời thành lời của nước mây. Khi tiếng hát đã rộn rực say đắm đến thành "hổn hển" rồi thì đó là hơi xuân bốc lên cao nhất, lòng xuân tới độ nồng nàn nhất, chín nhất. Nó là đỉnh điểm của khí xuân tình xuân, điểm chín của vẻ xuân thì xuân. Nó "thầm thĩ"rót vào tai người "khách xa" những lời tình quyến rũ mà trong trẻo, nên khách đã: "nghe ra ý vị và thơ ngây". Từ lòng người đến đất trời mây nước, tất cả đã vào điểm chín của tình xuân. Cả vũ trụ dường đang chan chứa vẻ xuân.
Lời thơ quả là ngất ngư bởi hồn thi sĩ cũng đang tràn ngập xuân tình.
... đã nuối tiếc xuân thì
Đỉnh điểm cũng là giao điểm. Giờ xuân chín cũng là giờ xuân mãn. Xuân thì không còn nữa. Tình đã mãn rồi xuân cũng phôi pha phai lạt. Xuân chín cũng là chấm dứt xuân. Nó chấm dứt vào cái ngày cuối cùng của quãng đời thiếu nữ. Nửa sau của bài thơ đã chuyển mạch thành tiếc xuân thì.
Ivan Bunhin có một truyện đầy dư vị triết học về đời người. Chuyện rằng xửa xưa tuổi thọ con người ngắn lắm, chỉ được 18 năm thôi. Trong khi đó tuổi các loài khác cao hơn nhiều. Loài lừa có đến năm mươi năm, loài chó những 40 năm, còn ít như loài khỉ cũng tới 30 năm. Con người cho đó là chẳng công bằng, bèn lên kiện Thượng đế. Thượng đế nhân từ mà nghiêm khắc ưng thuận cho con người thêm tuổi. Nhưng người nói: tuổi muôn loài có hạn, nên con người muốn tăng thọ, thì phải lấy tuổi của các loài khác thêm vào. Tham lam và dại dột, loài người đã ưng ý liền. Từ đó tuổi thọ con người dài tới 60 - 70 tuổi. Song, cũng chỉ có 18 năm đầu được làm người, 30 năm kế tiếp là tuổi con lừa (nai lưng làm việc), 10 năm tiếp theo làm con chó (khư khư giữ lấy những của nả làm ra), và cuối đời sống tuổi con khỉ (xấu xí nhăn nheo)... Nghĩa là, tuổi người hết vào cái lúc xuân chín vậy.
Do ý thức được điều nghiệt ngã ấy mà không phải đến Thơ Mới, thi nhân mới tiếc xuân thì. Thơ xưa đã đầy những lời cảnh báo về sự ngắn ngủi của tuổi xuân - Chơi xuân kẻo hết xuân đi/ Cái già sồng sộc nó thì theo sau. Nhưng có lẽ chỉ đến Thơ Mới- tiếng thơ của ý thức cá nhân cá thể - thì nó mới thành tiếng nói đầy ý thức về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của tuổi trẻ và xuân thì ở mỗi cá nhân và mọi cá nhân. Xuân Diệu vội vàng giục giã: "Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất". Xuân của đời người đã ngắn, xuân của đời con gái còn ngắn hơn. Chả thế mà người ta vẫn nói một đời đàn ông bằng hai đời đàn bà. Nguyễn Bính thở dài ngán ngẩm: “Tuổi xuân má đỏ môi hồng/ Bước chân về đến nhà chồng là thôi". Hàn Mặc Tử cũng đã bao lần hẫng hụt về điều ấy. Việc lấy chồng là một mất mát không gì sánh được. Nó khiến cho tất thảy đều vô nghĩa. Nàng thì mất ước mơ, mình thì mất hồn thơ: "Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ/ Em lấy chồng rồi hết ước mơ/ Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng/ Ngồi lên để thả cái hồn thơ"... Còn ở đây, giữa lúc Mùa xuân chín, tiếng ca còn đương làm rạo rực cả nước mây, mà Hàn Mặc Tử đã thấy trước cái tương lai buồn, thấy trước ngày mai vô vị, mà thốt lên lời tiên báo:
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Nhìn xuân chín hiện thời, đã thấy nhỡn tiền cái kết cục mai hậu! Thật là một dự báo se lòng về hậu xuân chín. Khác chi xuân mãn, xuân tàn, xuân lạc tận!.
Nhìn thấy "tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại", cái Tôi Xuân Diệu sẽ vội ném mình vào cuộc chạy đua với thời gian, để sống đã đầy đến từng khoảnh khắc, tận hưởng và tận hiến. Còn Hàn Mặc Tử thì khác. Cái Tôi của Tử không có được sự bồng bột vô tư ấy. Mà nó đầy uẩn khúc. Dòng tâm tư bất định lưu chuyển bên trong Cái Tôi kia chính là: nhìn xuân sắc thì rạo rực xuân tình, nhưng vừa chợt khát khao đã dằn lòng tiết dục, vừa định hòa nhập thoắt đã cô đơn. Cho nên gặp xuân chín mà tiếc xuân thì, nghe xuân ca mà buồn xuân mãn. Có phải với "cuộc chơi" kia, Tử chỉ là kẻ đứng ngoài, là vị "khách xa" nên sinh buồn? Không hẳn vậy. Tử buồn chung cho kiếp người. Nỗi sầu vừa dâng lên trong Cái Tôi kia chính là sầu nhân thế. Tử không hề hiện ra như một Cái Tôi náo nức nhập cuộc chơi, lúc nào cũng vồ vập tận hưởng. Có lẽ cũng như chàng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về sau, Tử cũng chỉ là một nghệ sĩ đi ngang qua cuộc đời này để hát lên cái linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo thôi. Chả thế mà giữa đỉnh điểm cuộc chơi hiện tại, chợt nghĩ đến ngày mai mà buồn - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy..., sực nhớ đến dĩ vãng mà thương, chả biết người ấy giờ này có còn được thế nữa không - Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang? Người đọc câu thơ này đã có lúc cho rằng đó là hình ảnh nhọc nhằn của lao động, và xúc cảm của thi sĩ là xót thương cho đời người vất vả. Người viết đã từng đối lập cảnh trong "nắng ửng" của bao cô thôn nữ, với cảnh trong "nắng chang chang"; đằng thì hát (chơi), đằng thì gánh thóc (lao động), đằng thì hiện tại nhãn tiền, đằng thì khuất chìm trong quá vãng, để rồi đinh ninh rằng: hôm nay họ là những thôn nữ hát trên đồi, ngày mai họ sẽ thành người chị gánh thóc, cái "nắng chang chang" chắc chắn sẽ làm tiêu tan cái "nắng ửng" này đi. Vui sướng chỉ thoáng qua, nhọc nhằn mới vĩnh viễn. Có lẽ không phải thế. Đây không hẳn là hình ảnh vất vả (khổ) mà là hình ảnh thơ mộng (đẹp). Trong thơ Hàn Mặc Tử hình ảnh người tình xa chợt hiện về trong sắc trắng tinh khôi, nhiều khi lóa sáng nhìn không ra, bao giờ cũng là hiện thân của vẻ xuân tình mà trinh khiết. Đó là kỉ niệm về độ xuân thì của "chị ấy" vốn đọng trong kí ức thi nhân. Vì thế hình ảnh này là một thoáng "sực nhớ" của niềm khát khao, hơn là của nỗi thương xót. Nếu có chút ngậm ngùi nào đó thì phải là nỗi lo âu cho hiện tại ("năm nay") có còn không cái độ xuân thì ấy, chứ không phải xót xa vì gánh thóc nhọc nhằn - nắng chang chang đâu chỉ có nghĩa là gay gắt! Nên nhớ, Hàn Mặc Tử là một thi sĩ lãng mạn. Đối tượng của hồn thơ lãng mạn là vẻ xuân tình của độ xuân thì, chứ chưa phải là lao động! Thế đấy, nỗi niềm của Tử là cái trạng thái tâm hồn đầy uẩn khúc của vị khách thơ đi ngang qua vườn trần gian, đúng vào cái thời điểm xuân chín để mà thấy ra cái cảnh thần tiên đương khi xuân chín và cái tương lai vô vị buồn sầu ngay khi hậu xuân chín trong kiếp người của mọi cá thể. Đó chẳng phải là vấn đề lớn của cõi nhân sinh này hay sao? Tiếc xuân thì đó mới là nỗi niềm sâu xa nhất của thi phẩm và đó cũng là nỗi đau thương của chàng thi sĩ thiết tha vớí cuộc đời mà luôn phải sống trong mặc cảm lìa đời vậy.
[1] Ở số PL 2535, tác giả Võ Đình Cường đã công bố một tư liệu quan trọng liên quan đến cách hiểu bài thơ này: Bức thiếp phong cảnh Tử nhận được không phải là ảnh Hoàng Cúc trong tà áo dài trắng nữ sinh Đồng Khánh... Điều này cho thấy việc trói chặt nội dung bài thơ vào sự kiện Hoàng Cúc là vô lối.
[2] Nhiều người đã thấy rằng: "Trong thơ Tử, cả địa danh cụ thể cũng trở thành huyền ảo" (Mai Văn Hoan, Báo Văn Nghệ số 1757/ 11-9-1993)
[3] Có thể các nhà thơ thuộc Trường thơ loạn ít nhiều ảnh hưởng quan niệm "thơ điên" thuộc chặng cuối của thi phái Tượng trưng Pháp, mà người đại diện là Mallarme... Riêng Hàn Mặc Tử đến với "thơ điên" chủ yếu là do logic nội tại.
[4] Các ý kiến của Vũ Quần Phương (trong Thơ với lời bình), Lê Quang Hưng (trong Tác phẩm Văn học) và Nguyễn Hữu Tuyển trong "Nỗi oan cần được giải" đều nhận xét rằng: "bề ngoài câu chữ tưởng như rất lỏng lẻo chẳng ăn nhập gì" (Văn nghệ phụ san số 5/ 1990)...
[5] Cả Võ Đình Cường (Tập Văn Thành Đạo - tài liệu đã dẫn) và Nguyễn Bá Tín (Hàn Mặc Tử, anh tôi, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1991) đều xác nhận là trong tấm thiếp phong cảnh Hoàng Cúc gửi cho Tử, không có câu nào như thế cả.
[6] Xem sách Làm văn 12. NXB Giáo Dục, 1992.
[7] Về điểm này Vũ Quần Phương đã có lí khi cho rằng không nên hiểu trói buộc vào dòng sông Hương (tài liệu đã dẫn)
[8] Hàn Mặc Tử còn nói đến sóng áo, sóng trăng, sóng cành, sóng lá... đều là sự hiển lộ ra bên ngoài của tình ý bên trong: "Ta đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng chảy/ Trên sóng cành, sóng lá cô gì má đỏ hây hây/Ta rình nghe niềm ý bâng khuâng trong gió lảng/ Với là hơi thở nồng nàn của ả thơ ngây"...
[9] "Ai" và "khách xa" có lẽ đều chỉ là sự phân thân của tác giả.
[10] Trong bài Thức khuya, có câu: Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối/ Gió thu lọt cửa cọ mài chăn (Lệ Thanh thi tập).
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
áo em trắng quá nhìn không ra
ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
(Rút từ tập Đau thương, 1938)
1. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ
Trong các nhà Thơ mới, Hàn Mặc Tử phải bất hạnh nhất, lạ nhất và phức tạp nhất. Vì thế cũng bí ẩn nhất. Có ai định tranh chấp với Tử những cái "nhất" ấy không? Ví Tử với ngôi sao chổi, Chế Lan Viên đã thật có lí. Và cũng như thái độ dành cho một ngôi sao chổi quá lạ, bao ống kính thiên văn đã đua nhau chĩa về Hàn Mặc Tử. Tiếc thay, cái vừng sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát ra từ ngôi sao có sức cuốn hút bao nhiêu cũng có sức xô đẩy bấy nhiêu. Đến nay đã có bao cuộc thăm dò, thám hiểm. Với một hiện tượng "bấn loạn" nhường này, ướm đi ướm lại, người ta thấy tiện nhất là xếp vào loại siêu: nào siêu thực, siêu thức, nào siêu thoát, v.v... Vậy mà, nào đã thoát! Rốt cuộc, lơ lửng treo phía trước vẫn cứ còn đó câu hỏi: Hàn Mặc Tử, anh là ai?
Ngày trước, cuộc xung đột "bách gia bách ý" chỉ xảy ra với Hàn Mặc Tử, nói chung. Đây thôn Vĩ Dạ vẫn hưởng riêng một không khí thái bình. Phải đến khi được mạnh dạn tuyển vào chương trình phổ thông cải cách, sóng gió mới ập đến cái thôn Vĩ bé bỏng của Tử. Thế mới biết, chả hồng nhan nào thoát khỏi truân chuyên! Có người hạ bệ bằng cách chụp xuống một lí lịch đen tối. Người khác đã đem tới một cái bóng đè. Không ít người thẳng tay khai trừ Đây thôn Vĩ Dạ khỏi danh sách những kiệt tác thuộc phần tinh chất của hồn thơ Tử... Ngay những ý kiến đồng lòng tôn vinh thi phẩm này cũng rất phân hóa. Người si mê thấy đó chỉ là tỏ tình (với Hoàng Cúc). Người vội vàng bảo rằng tả cảnh (cảnh Huế và người Huế). Người khôn ngoan thì làm một gạch nối: tình yêu - tình quê. Kẻ bảo hướng ngoại. Người khăng khăng hướng nội. Lắm người dựa hẳn vào mối tình Hoàng Cúc như một bảo bối để tham chiến. Người khác lại dẹp béng mảng tiểu sử với cái xuất xứ không ít quan trọng ấy sang bên để chỉ đột phá vào văn bản không thôi. Người khác nữa lại hoàn toàn "dùng ngoài hiểu trong, dùng chung hiểu riêng", ví như dùng lí sự chung chung về cái tôi lãng mạn và tâm trạng lãng mạn để áp đặt vào một trường hợp rất riêng này, v.v... Tôi tin Hàn Mặc Tử không bác bỏ hẳn những cực đoan ấy. Nếu sống lại, thi nhân sẽ mỉm cười độ lượng với mọi ý kiến vì quá yêu Vĩ Dạ bằng những cách riêng tây mà nghiêng lệch thôi. ở toàn thể là thế. Mà ở chi tiết cũng không phải là ít chuyện. Ngay một câu "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" cũng gây tranh cãi. Cái màn "Sương khói" làm "mờ nhân ảnh" là ở Vĩ Dạ hay thuộc chốn người thi sĩ đang chịu bất hạnh, cũng gây bất đồng... Hèn chi, hai tờ báo nhiều liên quan đến nhà trường và văn chương là "Giáo dục & Thời đại" và "Văn nghệ" được phen chịu trận. Dù muốn hay không, nó cũng đã thành một "vụ" thực sự thời bấy giờ. Đến nay, khó mà nói các ý kiến đã chịu nhau. Tình hình xem ra khá mệt mỏi, khó đặt được dấu chấm hết. Hai báo đành thổi còi thu quân với vài lời tiểu kết nghiêng về "điểm danh". Một độ sau, nhà giáo - nhà nghiên cứu Văn Tâm khi soạn cuốn Giảng văn Văn học Lãng mạn (NXB Giáo dục, 1991) đã điểm sâu hơn. Rồi nhà biên soạn này cũng nhanh chóng trở thành một ý kiến thêm vào cái danh sách dài dài đó. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ lại tiếp tục đua chen. Khói hương và cả khói lửa, vì thế, tràn lan ra nhiều báo khác, sang tận tờ Tập văn thành đạo của Giáo hội phật giáo Việt Nam [1] , động đến cả những người ở Hoa kỳ, Canađa...
Chắc là hiếm có bài thơ nào trong trẻo thế mà cũng bí ẩn đến thế. Xem ra, cái chúng ta "gỡ gạc" được mới thuộc phần "dễ dãi" nhất ở đó thôi!
Phải nói ngay rằng: coi một tác phẩm đã gắn làm một với cái tên Hàn Mặc Tử lại không tiêu biểu cho tinh chất của hồn thơ Tử, thì kì thật. Mỗi bài thơ hay, nhất là những tuyệt tác, bao giờ cũng có "mạng vi mạch" nối với tinh hoa tinh huyết của hồn thơ ấy. Có điều nó đã được dò tìm ra hay chưa thôi. Thậm chí, một hệ thống kiến giải mới về hiện tượng Hàn Mặc Tử sẽ khó được coi là thuyết phục, một khi chưa thử sức ở Đây thôn Vĩ Dạ. Đã đến lúc phải lần ra "mạng vi mạch" của thi phẩm cùng tinh hoa tinh huyết của thi sĩ.
Trong cảm thụ nghệ thuật, mọi việc khác không thể thay thế việc dùng trực cảm thâm nhập vào bản thân tác phẩm. Nhưng nguyên tắc độc tôn ấy ở đây đã tỏ ra không mấy hi vọng, nếu không nói là trở nên kém thiêng. Thôn Vĩ Dạ dường vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt", cự tuyệt ngay cả những linh khiếu vốn cả tin vào một trực giác đơn thuần. Vĩ Dạ vẫn điềm nhiên giấu kín ngay trong sự trong trẻo kia bao bí ẩn của nó. Muốn đến đúng chỗ giấu vàng của Thôn Vĩ, trực cảm nhất thiết phải được trang bị thêm một "sơ đồ chỉ dẫn", một chìa khoá. Những thứ này, tiếc rằng, cũng giấu mình khắp trong thơ Hàn Mặc Tử. Nói cách khác, mỗi tác phẩm sống trong đời như một sinh mệnh riêng, tự lập. Có một thân phận riêng, một giá trị riêng, tự thân. Đọc văn, căn cứ tin cậy nhất, trước sau, vẫn là văn bản tác phẩm. Đó là một nguyên tắc. Và nhiều khi không biết gì về tác giả, vẫn có thể cảm nhận được tác phẩm. Nhưng hiểu và hiểu thấu đáo là hai cấp độ. Không am tường tác giả thì khó mà thấu đáo tác phẩm. Trường hợp trong trẻo mà đầy bí ẩn như Đây thôn Vĩ Dạ, với một vị thân sinh đầy phức tạp như Hàn Mặc Tử càng cần phải thế. Nghĩa là: thiếu cái nhìn liên văn bản, cùng những khám phá về thân phận, tư tưởng và thi pháp của tác giả sẽ khó giúp ta soi sáng được thi phẩm này.
Trong nhiều điều cần cho sự soi sáng thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, không thể không nói đến một Tình yêu tuyệt vọng, lối Thơ Điên và lớp trầm tích những biểu tượng và ngôn ngữ thuộc hệ thống thi pháp của thi sĩ này. Nếu Tình yêu tuyệt vọng quyết định đến điệu tình cảm chung, thì lối Thơ Điên quyết định trình tự cấu tứ, cơ cấu không gian. Trong khi lớp biểu tượng và ngôn ngữ ở tầng trầm tích lại quyết định đến hệ thống hình tượng, hình ảnh của thi phẩm đặc sắc này.
2. Vĩ Dạ trong Đau thương và Thơ Điên
Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng tập thơ quan trọng nhất của thi sĩ chính là Đau thương. Thực ra ban đầu Hàn Mặc Tử đã đặt cho nó một tên khác, dễ sợ hơn: Thơ điên. Hai cái tên có thể hoán cải cho nhau, là một điều đáng để cho ta lưu ý. Nó nói rằng Tử ý thức rất sâu sắc về mình. Thì Đau thương và Điên chính là Hàn Mặc Tử vậy. Đau thương là cội nguồn sáng tạo, còn Điên là hình thức của sáng tạo ấy. Đọc ra điều này không khó, nhưng nhận diện bản chất của Đau thương lại không dễ. Chả thế mà người ta cứ đánh đồng "đau đớn thân xác" với "đau khổ tinh thần", và cứ coi Điên chỉ giản đơn là một trạng thái bệnh lí.
Ngẫm tới cùng Đau thương chính là một tình yêu tuyệt vọng. Ta thường tự cầm tù trong định kiến về tuyệt vọng. Thực ra, tuyệt vọng chả như ta vẫn tưởng. Không phải nỗi tuyệt vọng nào cũng làm cho con người gục ngã. Còn có nỗi tuyệt vọng làm tình yêu thăng hoa. Tuyệt vọng có thể chấm dứt hi vọng, nhưng không chấm dứt tình yêu. Càng mãnh liệt càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng càng mãnh liệt. Con người ta đi đến tuyệt vọng có thể vì những nguyên uỷ rất riêng tây kín khuất, đôi khi ta bất khả tri (một thiếu hụt, tổn thương, một mất mát nào đó trong tâm thể, chẳng hạn!). Hàn Mặc Tử có lẽ thuộc số đó. Ai cũng biết chết là một cuộc chia lìa tất yếu và đáng sợ. Sống có nghĩa là đang chia lìa. Nhưng, may thay, hết thảy chúng ta đều có khả năng quên đi mà vui sống. Còn ở những người như Tử lại không được trời phú cho cái khả năng quên. Càng mắc những bệnh trầm trọng lại càng ám ảnh. Sống trong dự cảm khôn nguôi về thời khắc chia lìa, Tử thường tự đẩy mình (giời xô đẩy thì đúng hơn) đến điểm chót cùng của tuyệt vọng để nuối đời, níu đời. Nói khác đi, Tử làm thơ bên miệng vực của nỗi chết. Không ai yêu sống, yêu đời hơn một người sắp phải lìa bỏ cuộc sống! Thơ Tử là tiếng nói của niềm yêu ấy. Và trong lăng kính lạ lùng của niềm yêu ấy, cảnh sắc trần gian này thường ánh lên những vẻ khác thường: lộng lẫy, rạng rỡ, thanh khiết hơn bao giờ hết. Mà càng đẹp, càng tuyệt vọng; càng tuyệt vọng, lại càng đẹp! Thế là Đau thương chứ sao! Đau thương không chỉ là cung bậc mà còn chính là dạng thức cảm xúc đặc thù của Hàn Mặc Tử. Mỗi lần cầm bút khác nào một lần nói lời tuyệt mệnh, lời nguyện cuối. Cho nên mỗi lời thơ Tử thực là một lời bày tỏ da diết đến đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng. Và như thế, điều oái oăm đã hình thành: Tuyệt vọng đã trở thành một cảm quan, một cách thế yêu đời đặc biệt của Hàn Mặc Tử.
Có thể nói, đó là nghịch lí đau xót của một thân phận. Và nghịch lí này lại cũng là cấu trúc của tiếng nói trữ tình Hàn Mặc Tử: Niềm yêu là một nỗi đau, mỗi vẻ đẹp là một sự tuyệt vọng, cảnh sắc lộng lẫy chỉ là phía sáng của tấm tình tuyệt vọng. ý thức rõ về điều này, nên trong bài thơ viết cho Thanh Huy - một người tình trong mộng - Tử đã tự họa bằng cặp hình ảnh nghịch lí trớ trêu: Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm. Thơ Tử là thế! Hàng chữ gấm (trong trẻo, tươi sáng) chỉ là phía thấy được của đôi mắt mờ lệ (u ám, đau thương) khuất chìm phía sau mà thôi.
Kết tinh từ nguồn thơ lạ lùng oan trái đó, Đây thôn Vĩ Dạ là lời tỏ tình với cuộc đời của một niềm tha thiết đến đau thương, một tình yêu mãnh liệt mà vô vọng. Một cách khác: là lời tỏ tình với cuộc đời của một tấm tình tuyệt vọng.
Nói đến một thi phẩm chân chính là phải nói đến điệu cảm xúc riêng của nó. Mà âm điệu chính là cái điệu tâm hồn, điệu cảm xúc của thi sĩ được hình thức hóa. Đọc thơ, nắm được âm điệu của nó xem như đã nắm được hồn vía của thơ rồi. Không cần phải cố gắng lắm người ta cũng thấy ngay mỗi khổ của Đây thôn Vĩ Dạ đều vang lên trong âm hưởng của một câu hỏi. Ba khổ là những câu hỏi kế tiếp, càng về sau càng da diết, khắc khoải:
- Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
- Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
- ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Âm điệu của những câu hỏi ấy được cất lên từ một niềm thiết tha với cuộc đời đến mức thương tâm của một hồn đau. Ở bài thơ vốn được xem là kiệt tác này, niềm yêu đau đáu đến tuyệt vọng còn hóa thân thành một mặc cảm sâu xa, thấm đẫm vào toàn thể thi phẩm: mặc cảm chia lìa. Trước tiên, nó quyết định đến hình ảnh cái Tôi của thi sĩ, đồng thời nó đổ bóng xuống cảm quan không gian của Hàn Mặc Tử, nó dàn dựng nên các tương quan không gian của Đây thôn Vĩ Dạ.
Đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác và tâm thế sáng tạo bấy giờ của thi sĩ, ta có thể thấy những điều ấy rõ hơn.
Sau khi mắc bệnh nan y, Hàn Mặc Tử đã coi mình như một cung nữ xấu số bị số phận oan nghiệt đày vào lãnh cung. Ấy là lãnh cung của sự chia lìa (tôi không nhằm nói đến Gò Bồi hay Qui Hòa, bởi đó chỉ là hai địa chỉ hạn hẹp trong cái lãnh - cung - định - mệnh ấy thôi). Cơ hội về lại cuộc đời cơ hồ không còn nữa. Vô cùng yêu đời, thiết tha bao luyến mọi người, vậy mà Tử đã chủ động cách li, quyết định tuyệt giao với tất cả. Nhưng tuyệt giao chứ không phải tuyệt tình. Thậm chí, càng tuyệt giao, tình nhớ thương càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hằng ngày ở trong cái lãnh cung ấy, Tử thèm khát thế giới ngoài kia: Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa?/ Trời ở trong đây chẳng có mùa/ Không có niềm trăng và ý nhạc/ Có nàng cung nữ nhớ thương vua. Chủ động tuyệt giao chỉ là biểu hiện lộn ngược của lòng thiết tha gắn bó. Hễ tiễn một ai đến thăm mình về lại Ngoài kia thì chẳng khác nào tiễn người từ chốn lưu đày vĩnh viễn về lại cuộc đời, thậm chí như tiễn người từ cõi này về cõi khác. Một nửa hồn mình coi như đã chết theo: Họ đã đi rồi khôn níu lại/ Lòng thương chưa đã mến chưa bưa/ Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Từ bấy trong thơ Tử hình thành hai không gian với sự phân định nghiệt ngã: Ngoài kia và Trong này. Nó là sự cách nhau của hai cõi, mà khoảng cách bằng cả một tầm tuyệt vọng - Anh đứng cách xa nghìn thế giới/ Lặng nhìn trong mộng miệng em cười/ Em cười anh cũng cười theo nữa/ Để nhắn lòng anh đã tới nơi. Đọc thơ Hàn, dễ thấy Ngoài kia và Trong này (hay ở đây) là hai thế giới hoàn toàn tương phản. Ngoài kia: mùa xuân, thắm tươi, đầy niềm trăng, đầy ý nhạc, tràn trề ánh sáng, là cuộc đời, trần gian, là sự sống, hy vọng, hạnh phúc... Trong này: chẳng có mùa, không ánh sáng, không trăng, không nhạc, âm u, mờ mờ nhân ảnh, là lãnh cung, là trời sâu, là địa ngục, bất hạnh... Trong này chỉ về lại được Ngoài kia bằng ước ao thầm lén, bằng khắc khoải tuyệt vọng mà thôi.
Tấm thiếp phong cảnh của Hoàng Cúc gửi vào lập tức đánh động khát vọng về Ngoài kia trong hồn Tử. Thôn Vĩ Dạ hiện lên như một địa danh khởi đầu, một địa chỉ cụ thể của Ngoài kia. Nói khác đi, Ngoài kia trong cái giờ khắc ấy đã hiện lên bằng gương mặt Vĩ Dạ. Thèm về thăm Vĩ Dạ cũng là thèm khát về với Ngoài kia, về với cuộc đời, với hạnh phúc trần gian. Nghĩa là trong ý thức sáng tạo của Hàn Mặc Tử, Vĩ Dạ vừa là một địa danh cụ thể vừa được tượng trưng hóa [2] . Trong văn bản của thi phẩm này, có thể thấy tương quan không gian như thế ở hai nơi chốn: "thôn Vĩ" (Ngoài kia) và "ở đây" (Trong này). Hình tượng cái Tôi thi sĩ hiện ra như một người đang "ở đây", ở Trong này mà khắc khoải ngóng trông hoài vọng về "thôn Vĩ", về Ngoài kia. Đó là hình ảnh một cá thể nhỏ nhoi tha thiết với đời mà đang phải lìa bỏ cuộc đời, đang bị số phận bỏ rơi bên trời quên lãng, đang chới với trong cô đơn, đang níu đời, nuối đời. Đây thôn Vĩ Dạ chẳng phải là lời tỏ tình với thế giới Ngoài kia của kẻ đang bị lưu đày ở Trong này hay sao? Chẳng phải lời tỏ tình ấy càng vô vọng lại càng mãnh liệt, càng mãnh liệt lại càng thêm vô vọng hay sao?.
Đau thương đã tìm đến "thơ điên" như một hình thức đặc thù đối với Hàn Mặc Tử, nhất là ở giai đoạn sau [3] Sẽ không quá lời khi nói rằng Tử đã buộc chúng ta phải xét lại cái quan niệm hẹp hòi lâu nay về "điên" và "thơ điên". Ta quen thấy điên chỉ như một trạng thái bệnh lí mà quên hẳn rằng còn có điên như một trạng thái sáng tạo. Có không ít người làm thơ cố học đòi thơ điên như chạy theo một thứ mốt tân kì, nên chỉ là cách làm ra điên của những người tỉnh queo. Còn điên ở Hàn Mặc Tử là trạng thái đau thương bên trong đang chuyển hoá thành sáng tạo. Cảm xúc tuyệt vọng, oái oăm thay, lại trở thành hưng phấn sáng tạo. Một hưng phấn cực điểm, thái quá, khiến tâm tư xé rào vượt ra khỏi những lối đi, những biên giới thông thường. Thi hứng đến như một cơn sốc, sáng tạo như lên đồng. Chính Hàn cũng tự ý thức rõ về trạng thái này: "Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú (...) Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên..." (Tựa "Thơ điên"). Ra đời như vậy, "Thơ điên" thường có những đặc trưng: a) là tiếng nói của đau thương với nhiều biểu hiện phản trái nhau; b) chủ thể như một cái Tôi li - hợp bất định; c) một kênh hình ảnh kì dị, kinh dị; d) mạch liên kết siêu lôgic; e) lớp ngôn từ cực tả. Với những đặc trưng ấy (đặc biệt là điểm d) đã khiến cho mỗi bài thơ khác nào những xao động tâm linh được tốc kí trọn vẹn. Những vẻ "điên" này hiện ra trong các bài thơ thành dòng tâm tư bất định. Đặc tính này không khó nhận ra, nếu tác giả viết thơ tự do. Nhưng ở những bài được viết thành những khổ tề chỉnh, vuông vức, tròn trịa, thì việc nhận biết khó hơn nhiều. Có hình dung như vậy mới thấy Đây thôn Vĩ Dạ vẫn cứ là "thơ điên" theo đúng nghĩa, dù chưa đủ hết mọi đặc trưng điên. Không có những hình ảnh kì dị ma quái, những tiếng kêu kinh dị, nhưng ngôn từ đây đó đã là cực tả và mạch liên kết toàn bài thì rõ ra là "đứt đoạn", "cóc nhảy" [4] . Mạch thơ như một dòng tâm tư bất định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ của lí trí. Nhìn từ văn bản hình tượng, có thể thấy thi phẩm được dệt bằng một chuỗi hình ảnh liên kết với nhau rất bất định. Vừa mới ngoại cảnh (phần đầu) thoắt đã tâm cảnh (phần sau); hãy còn tươi sáng (Vườn thôn Vĩ) chợt đã âm u (cảnh sông trăng và sương khói)... Những mảng thơ phản trái nhau cứ dính kết vào nhau ngỡ như rất thiếu trật tự, "vô kỉ luật". Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy đó chỉ là sự chuyển kênh quá mau lẹ từ "hàng chữ gấm" sang "đôi mắt mờ lệ" đó thôi. Nhìn từ mạch cảm xúc, cũng thấy có những gấp khúc, khuất khúc với những phía chợt sáng chợt tối như vậy. Khổ đầu: một ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như một mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm vốn âm u lại mang gương mặt của khát khao rực rỡ; khổ hai: một ước mong khẩn thiết dâng lên thoắt hóa thành một hoài vọng chới với; khổ ba: một niềm mong ngóng vừa ló rạng đã vội hóa thành một mối hoài nghi. Nhìn từ cấu trúc không gian, cũng thấy bài thơ có sự chuyển tiếp không gian rất tinh vi, kín mạch, không dễ nhận ra. Trong phần sâu của nội dung, có thể thấy ba cảnh chính: vườn xa, thuyền xa, khách đường xa. Chúng hợp thành cái thế giới Ngoài kia để đối lập với ở đây. Như sự đối lập quái ác giữa cuộc đời và lãnh cung, trần gian tươi đẹp và trời sâu ảm đạm, sống và không sống, gắn bó và chia lìa... Khổ một còn ở thôn Vĩ Ngoài kia, khổ hai rồi phần đầu khổ ba nữa vẫn là Ngoài kia, đến cuối khổ thứ ba thì đã bay vụt vào Trong này, đã "ở đây" rồi. Nó là chốn nào vậy? Còn chốn nào khác, ngoài cái nơi Tử đang bị căn bệnh tàn ác ấy hành hạ? Chẳng phải đó là sự chuyển tiếp lối "cóc nhảy" rất đặc thù của "liên tưởng thơ điên" đó sao? Điều đáng nói là: nếu lối liên tưởng đứt đoạn bất định của "thơ điên" tạo ra sự chuyển làn các cảnh sắc, các miền không gian một cách đột ngột đến tưởng như phi lí, thì âm điệu tự nhiên nhuần nhuyễn của cùng một mối u hoài, trong cùng một lối thơ chia thành các khổ vuông vức tề chỉnh lại đã san lấp, phủ kín hoàn toàn những quãng đứt nối, khiến người đọc cứ mặc nhiên coi rằng bài thơ là sự nới rộng cùng một không gian Vĩ Dạ, mà không thấy rằng đó là sự ghép nối rất bất chợt, xuất thần giữa các vùng không gian vốn góc biển chân trời ("thôn Vĩ" là Ngoài kia, còn "ở đây" là Trong này). Theo tài liệu đáng tin cậy mới đây của Phạm Xuân Tuyển, trong cuốn "Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử", NXB Văn học 1997, thì bài thơ vốn có tên đầy đủ là "ở đây thôn Vĩ Dạ". Bấy giờ, Tử đang tuyệt giao với tất cả, đến ở một chốn hoang liêu mạn Gò Bồi, cách li hoàn toàn với bên ngoài để chữa bệnh. Theo đó thì, cái nơi chốn "ở đây sương khói mờ nhân ảnh" lại càng là sự biểu hiện trực tiếp của chốn "trời sâu" bất hạnh mà Tử đang bị lưu đày - "Tôi đang còn đây hay ở đâu?/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?/ Sao bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?". Có hiểu như thế ta mới thấy lối biểu hiện phức tạp của "thơ điên" và tình yêu tuyệt vọng đầy uẩn khúc của Hàn Mặc Tử.
Tóm lại, nếu mạch "liên tưởng điên" tạo ra một văn bản hình tượng có vẻ "đầu Ngô mình Sở", thì dòng tâm tư bất định lại chuyển lưu thành một âm điệu liền hơi. Hệ quả là: dòng hình ảnh thì tán lạc, những dòng cảm xúc lại liền mạch. Bởi thế Đây thôn Vĩ Dạ vẫn có một hình thái rất đặc thù của một thi phẩm "thơ điên". Đó là phi lôgic ở bề mặt nhưng lại nguyên phiến, nguyên điệu ở bề sâu. Tất cả vẫn khiến cho thi phẩm là một nguyên khối. Vì thế, vào cõi thơ Hàn Mặc Tử, không chỉ cần chú mục vào phần "lộ thiên", mà cần đào rất sâu vào tầng "trầm tích" nữa!
3. Bước vào thi phẩm Dù là "thơ điên" hay thơ gì chăng nữa, một khi đã là một thi phẩm dành được chỗ đứng trang trọng trong kí ức của người đọc nhiều thế hệ, thì dứt khoát phải nhờ vào vẻ đẹp tư tưởng của nó. Mà lõi cốt của tư tưởng ấy không thể là gì khác hơn một quan niệm nào đó về cái đẹp. Sự tương phản giữa hai miền không gian vừa nói trên đây ở Đây thôn Vĩ Dạ, không chỉ là mặc cảm của một con người đang phải chia lìa với cuộc đời. Sâu sắc hơn, thấm thía hơn, đó còn là mặc cảm của một thi sĩ đang phải ngày một lìa xa cái đẹp mà mình hằng khao khát, tôn thờ. Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng chuẩn mực quan trọng nhất của cái đẹp theo quan niệm của Tử chính là sự thanh khiết. Điều này vừa có nguồn gốc từ trong nhỡn quan của một thi sĩ trước cuộc đời, vừa từ tín niệm tôn giáo của một kẻ mộ đạo. ở cảnh vật, nó hiện ra thành vẻ thanh tú (thiên nhiên lí tưởng theo Tử phải là "chốn nước non thanh tú"). Ở con người, nó hiện ra trong vẻ trinh khiết (đầy đủ là "trinh khiết mà xuân tình"). Quan niệm về cái đẹp như thế đã chi phối ngòi bút Hàn Mặc Tử khi thể hiện con người và thiên nhiên. Trong thi phẩm này có sự hiện diện của những hình tượng cơ bản Vườn thôn Vĩ, Sông trăng-thuyền trăng, Khách đường xa đều là những biểu hiện sống động của của vẻ đẹp Thanh khiết đó. Trong mặc cảm chia lìa, tất cả những vẻ đẹp kia đều khiến Tử lâm vào tuyệt vọng. Và đương nhiên, Tử đã cảm nhận chúng qua lăng kính của niềm tuyệt vọng. Có thể trường hợp Tử là một minh chứng đáng sợ cho định nghĩa về cái đẹp của Pôn Valeri: Cái đẹp là cái làm ta tuyệt vọng. Mặc cảm chia lìa ở đây, dường như, đã hiện ra trong cảm giác về một thực tại xa vời, một hiện tại quá ngắn ngủi và sự tồn tại mong manh của mình. Không chỉ thấm vào hơi thơ, giọng thơ khiến cho cả mạch thơ được phổ một âm điệu da diết khắc khoải thật ám ảnh, mà trước tiên, mặc cảm chia lìa với các cảm giác éo le kia đã hoá thân vào từng hình ảnh, từng cảnh sắc của thi phẩm này.
Hãy đi vào từng khổ.
Câu mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? là một câu hỏi nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhớ, vừa trách, vừa mời mọc. Giờ đây chẳng ai còn ấu trĩ gán cho nó là câu hỏi của Hoàng Cúc hay của một cô gái nào ở thôn Vĩ nữa. Bởi, là đằng này thì vô lí - không đúng sự thực, là đằng kia thì vô tình- viết để tạ lòng Hoàng Cúc mà lại nghĩ đến cô khác ư [5] ? Vả chăng, đâu chỉ có một câu hỏi này. Toàn bài có tới ba câu hỏi. Cả ba đều cùng một chủ thể. Trên kia đã phần nào nói đến việc bài thơ được viết thành ba khổ trên âm điệu chủ đạo của những câu hỏi buông ra, buột lên, không lời đáp. Thực ra, câu hỏi chỉ là hình thức bày tỏ. Nó không đợi trả lời để thành đối thoại. Nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc bạch tâm tình. Ngữ điệu hỏi càng về sau càng khắc khoải hơn, u hoài hơn. Và, nhờ ngữ điệu nhất quán ấy, mà ba cảnh sắc ở ba khổ thơ vốn đứt đoạn "cóc nhảy" đã được xâu chuỗi lại tự nhiên khăng khít. Đó là Tử đang phân thân để tự hỏi chính mình. Hỏi mà như nhắc đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà chẳng biết giờ đây có còn cơ hội để thực hiện nữa không. Ấy là về lại thôn Vĩ, thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Ta đều biết tuổi nhỏ Tử đã từng học trường Pellerin ở Huế, và khi in xong tập "Gái Quê", Tử đã từng đến tìm Hoàng Cúc tại thôn Vĩ mà rồi chỉ nấp nom ngoài rào trúc chứ không dám vào. Giờ đây, nhận được bức thiếp phong cảnh này, niềm khát khao đã cất lên thành lời tự vấn oái oăm vậy. Còn ba câu sau vẽ ra hình tượng mảnh vườn thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Mỗi câu là một chi tiết vườn. Tất cả đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú. Đọc thơ Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một môtip ám ảnh. Nào vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm bao... Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Tử đều mang chung một diện mạo mà Tử muốn gọi là "chốn nước non thanh tú". Phải, thiên nhiên mà Tử say đắm dứt khoát phải có vẻ đẹp thanh tú! Không thế, Tử khó mà động bút. Dường như các mảnh vườn kia đã hò hẹn nhau đầu thai thành mảnh vườn Vĩ Dạ này. Chả thế mà chi tiết nào của nó dù đơn sơ cũng toát lên vẻ tinh khôi, dù bình dị cũng toát lên vẻ thanh khiết cao sang. Nghĩa là một "chốn nước non thanh tú" hoàn toàn.
Trong thơ Tử, nắng cũng là môtip ám ảnh. Ta thường gặp những thứ nắng lạ đầy ấn tượng với những nắng tươi, nắng ửng, nắng chang chang, nắng loạn...Trong mảnh vườn này, Tử chỉ nói giản dị Nắng hàng cau nắng mới lên, cớ sao mà gợi thế! Có lẽ một câu thơ hay không chỉ hay bởi những gì nó mang sẵn, mà còn vì những gì nó có thể gợi ra để người đọc đồng sáng tạo. Ai đã từng sống với cau, dễ thấy cau là một thứ cây cao, thậm chí ở mảnh vườn nào đó, có thể là cao nhất. Nó là cây đầu tiên nhận được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Bởi thế mà tinh khôi. Trong đêm, lá cau được tắm gội trên cao, sắc xanh như mới được hồi sinh trong bóng tối, dưới nắng mai lại rời rợi thanh tân. Nắng trên lá cau thành nắng ướt, nắng long lanh, nắng thiếu nữ. Bởi thế mà thanh khiết. Lại nữa, cau có dáng mảnh dẻ, trong nắng sớm, bóng đổ xuống vườn, in xuống lối đi những nét mảnh thật thanh thoát. Thân cau chia thành nhiều đốt đều đặn, khác nào như một cây thước mà thiên nhiên dựng sẵn trong vườn dùng để đo mực nắng. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên theo từng đốt, từng đốt. Đến khi tràn trề thì nó biến cả khu vườn xanh thành viên ngọc lớn... Chẳng phải câu thơ hay còn phải đánh thức dậy bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức con người? Song, trọng tâm của hình tượng vườn dường như thuộc về những nét vẽ ở hai câu sau. Mà ấn tượng nhất là câu thơ có vẻ đẹp long lanh này: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Vì nó có sắc "mướt" chăng? vì được sánh với "ngọc" chăng? Quả là hai chữ ấy đã đập ngay vào trực cảm người đọc. "Mướt" ánh lên vẻ mượt mà óng ả đầy xuân sắc. Còn "ngọc" là tinh thể trong suốt nên vừa có màu vừa có ánh. Nhờ đó, vườn thôn Vĩ như một viên ngọc không chỉ rời rợi sắc xanh, mà còn đang tỏa vào ban mai cả những ánh xanh nữa. Thiếu đi những ánh sắc ấy, mảnh vườn đơn sơ bình dị này khó mà hiện ra vẻ thanh tú cao sang. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó không thôi, ta mới chỉ thấy tầng lộ thiên của chữ "ngọc". ẩn bên dưới, vẫn còn tầng trầm tích nữa. Khảo sát phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử, thấy thi sĩ này rất ưa dùng những vật liệu cao sang, nhất là ở giai đoạn cuối. Từ "Thơ điên" trở đi, các trang đều tràn ngập những vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược... đặc biệt là ngọc. "Ngọc" vừa được dùng lối ước lệ cổ điển như tay ngọc, mắt ngọc, đũa ngọc... vừa được dùng lối trực quan. Mà dù theo lối nào nó cũng là so sánh ở mức tuyệt đối: "Đức tin thơm hơn ngọc/ Thơ bay rồi thơ bay", "Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc/ Cả một mùa xuân đã hiện hình"... Thi sĩ đang muốn tuyệt đối hoá, tột cùng hoá vẻ đẹp đẽ, quí giá, cao sang của đối tượng. Nhu cầu tuyệt đối hoá này thường xuất hiện khi niềm thiết tha với cuộc đời trần thế dâng trào đến mức đau đớn. Càng đẹp lại càng đau. Cho nên, trong so sánh với "ngọc" luôn thấy chất chồng một cách oái oăm cả hai tâm thái: cảm giác càng tinh tế, cảm xúc càng đau thương. Ở đây cũng thế, Vườn ai mướt quá xanh như ngọc chứa đựng trong đó một cảm nhận về vẻ đẹp ở mức tột bậc và cả niềm thiết tha ở mức đau thương. Cũng phải thôi, lộng lẫy đến thế, ngay trước mắt thế, mà đang vuột ra ngoài tầm tay của mình, thì làm sao tránh khỏi đau thương!
Nhưng, bên cạnh những chữ phô ngay ra vẻ quyến rũ ấy, còn có những chữ khác, khép nép bên cạnh, khiêm nhường kín đáo thôi, nhưng dường như lại được Tử yêu tin mà kí thác vào đó những uẩn khúc của lòng mình. Tôi muốn nói đến chữ "ai". Nếu cả bài chỉ có một chữ này thôi thì chưa có gì thật đáng nói. Bởi chữ "ai" thường mang ý phiếm chỉ hoá, ỡm ờ hoá mà thơ truyền thống, nhất là ca dao đã khai thác đến nhàm. Đáng nói vì cả bài có tới bốn chữ "ai" nằm ở cả ba khổ. Chúng gắn với nhau bằng cả sắc thái lẫn giọng điệu tạo thành một "hệ vi mạch" ẩn sâu trong lòng bài thơ, chuyển tải một cảm giác se xót - cảm giác về thực tại xa vời: Vườn ai..., Thuyền ai..., Ai biết tình ai. Thế giới này, cuộc đời này đẹp đẽ là thế, hiện ngay trước mắt thế, vậy mà đã hoá xa vời, vậy mà đã thuộc về Ngoài kia, thuộc về cõi trần ai kia. Sắc thái phiếm chỉ bỗng chốc đã làm tất cả như lùi xa, bỗng như diệu vợi hoá, mông lung hoá. Cũng trong câu này, không thể không dành quan tâm ít nhiều đến chữ "quá", bởi hiệu quả nghệ thuật riêng của nó. Cũng là từ chỉ mức độ, nhưng xem ra chỉ có nó mới đem đến cho câu thơ âm hưởng của một tiếng kêu ngỡ ngàng, trầm trồ như chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn, mà có lẽ ở khoảnh khắc trước chưa thấy, khoảnh khắc sau cũng chưa hẳn đã thấy. Ta sẽ còn gặp ở khổ cuối tiếng kêu như thế nữa - áo em trắng quá nhìn không ra. Nó cũng là tiếng kêu muốn tuyệt đối hoá vẻ đẹp của đối tượng. Nghĩa là những tiếng kêu hàm chứa nỗi đau thương.
Trong khổ này, câu thứ tư đã gây nhiều tranh luận: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Gương mặt kia là phụ nữ hay đàn ông? Lối tạo hình của nó là cách điệu hay tả thực? ý kiến xem ra chưa ngã ngũ. Thực ra, làm sao lại có một chi tiết cách điệu lạc vào giữa một bức tranh trực quan thuần tả thực như thế này. Vả chăng, nó diễn tả một khuôn mặt chữ điền ẩn sau những lá trúc loà xoà kia mà. Có người đã cất công để chứng minh dứt khoát đấy là gương mặt phụ nữ [6]. Thiết tưởng muốn xác định là đàn ông hay phụ nữ, trước tiên cần phải trả lời một câu hỏi khác: đó là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ? Nếu xét thuần tuý về cú pháp câu thơ, người đọc có quyền hiểu theo cả hai cách. Nhưng xét trong tương quan với toàn cảnh và trong hệ thống môtip phổ biến ở thơ Tử, thì có thể loại trừ được cách không phù hợp. Nếu là người thôn Vĩ (chủ nhân khu vườn), thì hẳn phải là khuôn mặt phụ nữ. Một người đàn ông về thôn Vĩ chắc không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông! Còn là người trở về thôn Vĩ, thì người ấy chính là Tử, nói chuẩn hơn là hình tượng của chính Cái Tôi thi sĩ. Tìm trong thơ Hàn, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu... như thế này thường là hình bóng tự họa của Tử. Mà Tử vẫn có cái "thói" tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh và có phần... vơ vào nữa ("Người thơ phong vận như thơ ấy", "Có chàng trai mới in như ngọc? Gió căng hơi và nhạc lên trời", "Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó / Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu"...). Thực ra, cũng chả riêng gì Tử vơ vào. Nguyễn Bính chân quê cũng "vơ vào" chả kém khi tự hoạ một cách bóng gió trong một khuôn hình gần giống thế: "Bóng ai thấp thoáng sau rào trúc / Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền". Nghĩa là khuôn mặt và hình dáng văn nhân cả thôi. Tuy nhiên, khuôn mặt chữ điền sau lá trúc, không chỉ là sản phẩm của "tâm lí vơ vào" dễ thương thế thôi đâu. Sâu xa hơn, nó còn là sản phẩm của mặc cảm chia lìa. Mặc cảm này thường khiến Tử vẽ mình trong các trang thơ như một "kẻ đứng ngoài", "kẻ đi ngang qua cuộc đời", kẻ "đứng cách xa hàng thế giới", là vị "khách xa", kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế. Kẻ ấy thường làm những chuyến trở về với cuộc đời Ngoài kia một cách thầm lén, vụng trộm. Tử hình dung mình trở về thôn Vĩ (hay tái hiện lại cái lần mình đã trở về mà không vào, chỉ nép ngoài rào trúc, thì cũng thế!), vin một cành lá trúc, che ngang khuôn mặt mình để mà nhìn vào, say ngắm vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Hiểu thế mới thấy câu thơ kia, hoá ra là sản phẩm nhất quán của một tình yêu mãnh liệt mà cũng là sản phẩm của một tâm hồn đầy mặc cảm về thân phận mình. Trong đó chẳng phải giấu kín một niềm uẩn khúc đáng trân trọng mà cũng thật đáng thương sao? Song, hẳn sẽ có ý thắc mắc rằng: mạch thơ đang vẽ đối tượng (cảnh nơi thôn Vĩ) sao thoắt lại chuyển sang vẽ chủ thể (cái tôi thi sĩ), liệu có cóc nhảy, phi lôgic không? Đúng thế. Nhưng, như bạn biết đấy, cóc nhảy và phi lôgic trên bề mặt chính là một đặc trưng của mạch liên tưởng "thơ điên". Sự chuyển kênh đột ngột ấy, trước sau, vẫn chỉ xoay quanh một niềm thiết tha vô bờ mà cũng đầy uẩn khúc của Tử mà thôi.
Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất này, cảnh sắc là thôn Vĩ mà cũng là Ngoài kia, vườn Vĩ Dạ mà cũng là vườn trần gian. Qua lăng kính của mặc cảm chia lìa, cả những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Với Tử đó là thiên đường trần gian - một thiên đường giờ đây dường như không thuộc về mình nữa, đang tuột khỏi tầm mình. Về thôn Vĩ vốn là việc bình thường, với Tử giờ đây lại thành một ước ao - ước ao quá tầm với, thành một hạnh phúc- hạnh phúc quá tầm tay.
Khổ thứ hai chuyển sang một cảnh khác: cảnh dòng sông. Hiểu là sông Hương cũng được mà dòng sông nào đó của cuộc đời Ngoài kia cũng được [7] . Mặc cảm chia lìa ở đây hiện ra cả trong câu chữ, hình ảnh và nhạc điệu:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hai câu trên nói đến một thực tại phiêu tán. Tất cả dường như đang bỏ đi: gió bay đi, mây trôi đi, dòng nước cũng buồn bã ra đi... Có phải cảnh tượng kia là một cái gì thật ngang trái trớ trêu? Đúng thế. Trước tiên, gió mây làm sao có thể tách rời - mây không tự di chuyển, gió thổi mây mới bay, chúng không thể chia tách. Rõ ràng, đây không còn đơn thuần là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng không thể chia lìa! "Dòng nước buồn thiu" vì mang sẵn trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn li tán chia phôi từ mây gió đã bỏ buồn vào lòng sông? Khó mà đoan chắc. Lạ nhất là chữ "lay". Động thái "lay" tự nó không vui không buồn. Sao trong cảnh này nó lại buồn hiu hắt vậy? Nó là nét buồn phụ họa với gió mây sông nước? hay nỗi buồn sông nước đã lây nhiễm, đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp phất phơ này? Thật khó mà tách bạch. Có phải có một chữ "lay" buồn như thế từ bông sậy của dân ca đã xuôi theo ngọn gió thời gian mà đậu vào thơ Tử: Ai về giồng dứa qua truông/ Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em? Có phải chữ "lay" ấy lại trôi nổi thêm nữa để đến với hiện đại nhập vào lá ngô của thơ Trúc Thông: Lá ngô lay ở bờ sông - Bờ sông vẫn gió người không thấy về? Và tất cả những chữ "lay" kia có phải đều dây mơ rễ má với chữ "hiu hiu" đầy ám ảnh của thơ Nguyễn Du: Trông ra ngọn cỏ lá cây/ Thấy hiu hiu gió thì hay chị về? Hiu hiu, lay động đều là tín hiệu báo sự hiện hữu. Cứ nhìn thấy thế là người ngóng trông nhận ra sự trở về nào đó từ cõi vô hình. Còn Tử nhìn hoa bắp lay để nhận ra sự phiêu tán, sự ra đi. Cả mây, gió, cả dòng nước cứ lìa bỏ nhau và đều lìa bỏ chốn này mà đi hết cả. Chỉ riêng hoa bắp là cái tĩnh tại, không thể tự nhấc mình lên mà lưu chuyển. Bị bỏ rơi lại bên bờ, động thái "lay" kia có phải là một níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng của kẻ bị chia lìa? Có phải Tử đã thấy hoa bắp côi cút bên sông như vận vào mình? Có phải mặc cảm chia lìa đã khiến Tử nhìn ra cái thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình trong dáng "lay" sầu tủi của hoa bắp?
Đối mặt với cái xu thế tất cả đang chảy đi, bỏ đi, trôi đi càng lúc càng vuột xa ngoài tầm sống của mình ấy, Tử chợt ao ước một thứ có thể ngược dòng về với mình, ấy là trăng. Phải, mây đã đi, gió đã đi, dòng nước cũng đi... may ra chỉ còn trăng thôi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trong bài thơ này có hai chữ "về". Nếu chữ thứ nhất là về với Vĩ Dạ, với Ngoài kia (Sao anh không về chơi thôn Vĩ?), thì chữ thứ hai đây đã đổi hướng, là về phía Tử, về với Trong này. Cũng phải thôi, trong "lãnh cung" của sự chia lìa, vốn "không có niềm trăng và ý nhạc", nên Tử đã đặt vào trăng kì vọng của mình: Có chở trăng về kịp tối nay? Trăng giờ đây như một bám víu duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc! Tìm kiếm vẻ đẹp của những câu này, người phân tích thường chỉ chú mục vào hình ảnh "sông trăng", "thuyền trăng" với thủ pháp huyền ảo hoá. Thực ra đó chỉ là những vẻ đẹp thuộc cái duyên phô ra của thơ mà thôi. Tôi muốn nói đến chữ khác lâu nay bị bỏ quên, bởi nó lặng lẽ khiêm nhường chứ không bóng bảy ồn ào. Nhưng nó vẫn đẹp trong quên lãng. ấy là chữ "kịp". Chữ "kịp" mới mang bi kịch của tâm hồn ấy, thân phận ấy. Ta và cả người đọc sau ta nữa chắc chắn không thể biết "tối nay" kia là tối nào cụ thể. Nhưng qua giọng khắc khoải và qua chữ "kịp" này ta nhận ra một lời cầu khẩn. Dường như, nếu trăng không về "kịp" thì kẻ bị số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương. Như thế, chữ 'kịp" đã hé mở cho ta một cách thế sống: sống là chạy đua với thời gian. Một so sánh với Xuân Diệu có thể thấy rõ Tử hơn. Cũng chạy đua với thời gian, nhưng ở Xuân Diệu là để được hưởng tối đa, sống để mà tận hưởng mọi hạnh phúc nơi trần giới, bởi đời người quá ngắn ngủi, cái chết sẽ chờ đợi tất cả ở cuối con đường, còn Hàn Mặc Tử chỉ mong tối thiểu, chỉ được sống không thôi đã là hạnh phúc rồi, bởi lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng. Quĩ thời gian đang vơi đi từng giờ từng khắc, cuộc chia lìa vĩnh viễn đã sát gần. Trong cảnh ngộ này, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong nguy cơ chia lìa đương vây khốn. Thơ là sự lên tiếng của thân phận, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.
Khổ thứ ba, giọng khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Khác hẳn các đoạn trước, nhịp thơ ở đây gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
áo em trắng quá nhìn không ra
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Tất cả đều là những hình ảnh đầy mời gọi của thế giới Ngoài kia. Ở trên, tôi đã nói đến vẻ đẹp trinh khiết như là chuẩn mực cho cảm quan thẩm mĩ của Hàn Mặc Tử. Trinh khiết trở thành vẻ đẹp phổ biến của thế giới và của những Nàng thơ trong cõi thơ Tử. Những người con gái trong thơ Tử bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ trinh khiết xuân tình. Gắn làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi. Cho nên ngóng ra thế giới Ngoài kia, thì hình bóng người khách đường xa (người tình xa) phải là trung tâm, phải thanh khiết nhất, lung linh nhất. Và đắm say tột bậc cái vẻ đẹp này, Tử thường cực tả bằng những sắc trắng dị kỳ. Tử dồn cả màu cả ánh để diễn đạt cho được trực cảm của mình: "Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Thậm chí, có lúc không theo kịp trực giác, lời thơ trở nên kì quặc: "chết rồi xiêm áo trắng như tinh"... Nhiều người phân tích chưa nhận thấy đặc trưng này của thơ Tử đã giải thích áo trắng quá nhìn không ra là bởi lẫn và sương khói. Không phải thế. "Áo em trắng quá nhìn không ra" chính là một tiếng kêu, một cách cực tả sắc trắng ở sắc độ tuyệt đối, tột cùng. Trắng đến mức lạ lùng, không còn tin vào mắt mình nữa (tựa như tiếng kêu vườn ai mướt quá xanh như ngọc đã phân tích ở trên). Đừng lầm tưởng rằng đây là lời thú nhận về sự bất lực của thị giác.
Như thế, cuối cùng, mơ tưởng da diết khắc khoải hơn hết thảy vẫn là dành cho con người, vẫn là hướng tới những người tình xa. Bởi phải chia lìa với thế giới Ngoài kia, có lẽ mất mát lớn nhất, niềm đau thương nhất vẫn là phải chia lìa với người mình yêu vậy.
Đến đấy, Tử quay trở về với thực tại u ám của mình, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mịt mờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Được viết gần như đồng thời với bài "Những giọt lệ", cho nên ta cứ nghe đâu đây trong những câu chữ kia tiếng dội của những giọt lệ đau thương, như hoài nghi, như hi vọng, như tuyệt vọng: "Tôi đang còn đây hay ở đâu?/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?" và "Trời hỡi bao giờ tôi chết đi?/ Bao giờ tôi hết được yêu vì?"... Tử yêu đời đến đau đớn. Còn cuộc đời, tình đời còn dành cho Tử được bao nhiêu, được bao lâu? Cuộc đời Ngoài kia vẫn cứ kì diệu thế, vẫn "cách xa nghìn thế giới" như thế, vẫn cứ cách ở đây hẳn một tầm tuyệt vọng như thế. Tồn tại ở đây, ở trời sâu này thật quá đỗi mong manh. Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc Tử với ngoài ấy. Thế mà cái tình kia cũng mong manh xa vời làm sao? Câu hỏi cuối cùng khép lại toàn bộ dòng tâm tư bất định này là tiếng thở dài hay là lời cầu mong của một kẻ thiết tha gắn bó đến cháy lòng? Có lẽ là cả hai. Bởi vì uẩn khúc và nghịch lí chính là nét lạ lùng nhất trong cấu trúc của tiếng nói trữ tình Đây thôn Vĩ Dạ.
Thế đấy, tôi đã khá dài dòng khi hành hương về Vĩ Dạ theo cái đường dây mong manh và bí mật của tình yêu tuyệt vọng vốn chìm khuất trong thế giới của thi phẩm. Những đối chiếu giữa thi phẩm với thế giới nghệ thuật của thi sĩ: từ cội nguồn của tiếng nói trữ tình đến hình thức đặc thù của "thơ điên", từ lớp biểu tượng ở tầng trầm tích đến phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử... chính là những sự chỉ dẫn cần thiết. Không có bản chỉ dẫn ấy, cuộc hành hương khó tránh khỏi sa vào bế tắc. Tuy nhiên điều tôi muốn nói thêm trước khi dừng là: Thôn Vĩ vẫn còn nhiều bí ẩn sẵn chờ và mời mọc những cuộc hành hương khác.
Mùa xuân chín
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây...
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây...
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
(Rút từ tập Đau thương, 1938)
Cũng như Đây thôn Vĩ Dạ, thi phẩm Mùa xuân chín quả là tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử. Trong trẻo song cũng đầy bí ẩn. Có phải vì thế mà thơ Hàn thuộc dạng kén tri kỉ tri âm. Cứ tựa như một giai nhân kiêu kì vừa đầy quyến rũ vừa sẵn sàng làm nản lòng những kẻ mon men đến gần. Biết bao người vây quanh, ngưỡng mộ, cầu thân, cuối cùng thường chỉ nhận được sự chối từ lịch lãm. Đến nay cách hiểu thi phẩm chủ yếu vẫn chỉ qui về chủ đề ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, cảm thông với lao động nhọc nhằn. Đưa vào giảng dạy cho học trò thường chỉ khai thác bức tranh mùa xuân đầy xuân sắc, cảm xúc thiên nhiên hết sức tinh vi... Mới chỉ khơi khơi vành ngoài như vậy, hèn chi chỉ nhận được sự hững hờ. Cái duyên, cái hồn riêng của Hàn Mặc Tử trong thi phẩm chẳng mấy khi chịu hiện hình ló rạng.
Có lẽ do không bắt đầu bằng tháo gỡ mạch liên kết "nhảy cóc" của thi phẩm, nên đối tượng thật, cũng như những tình ý sâu kín nhất của Mùa xuân chín vẫn luôn trốn chạy khỏi chúng ta.
1. Chuỗi "sực nhớ"miên man hay là dòng tâm tư bất định
Ai cũng biết những khía cạnh lí thuyết chung này: thơ lãng mạn lấy việc đào sâu vào cái Tôi làm cứu cánh, cái Tôi của thơ lãng mạn là cái Tôi nội cảm, kết cấu của các thi phẩm lãng mạn thường tựa vào mạch diễn biến của cảm xúc...
Nhưng ít ai chịu thấy cho thật kĩ rằng xúc cảm can thiệp vào mạch vận động ở mỗi tác phẩm và ở từng tác giả không hề giống nhau. Đơn cử ba đại diện vào loại lớn nhất của Thơ mới là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử và Nguyễn Bính. Nếu xúc cảm trong các bài thơ của chàng thi sĩ chân quê dựa nhiều vào "cốt" - khiến thơ ít nhiều mang tính tự sự kể lể, thì ở chàng thi sĩ của ái tình cảm xúc dâng trào trên bề mặt lại dựa hẳn vào một cái "tứ" khá chặt nào đó dưới bề sâu. Trong khi ấy, mạch thơ của chàng thi sĩ thơ điên lại trôi chảy theo một dòng tâm tư hoàn toàn bất định khước từ sự dẫn dắt của lôgic lí trí. Vì thế, tìm kiếm tâm sự của Nguyễn Bính ta có thể lần theo mạch "chuyện", để hiểu tâm tư Xuân Diệu ta có thể bám sát mạch "ngôn từ lôgic" rải rác trong các mảng thơ để liên kết thi tứ. Còn các thi phẩm Hàn Mặc Tử rất khác: đã "phi tự sự" lại còn "phi lôgic"! Tất cả đều có vẻ thiếu mạch lạc, cóc nhảy, đầu Ngô mình Sở. Về thực chất đó là kiểu liên kết siêu lôgíc rất đặc trưng của Thơ điên. Toàn bài là một dòng tâm tư đầy những bất chợt cứ trôi chảy với hai biểu hiện trái chiều: mạch hình ảnh phía trên thì theo liên tưởng tán lạc, mạch tâm tư bên dưới thì theo cảm xúc nhất quán - nhưng là kiểu nhất quán đầy uẩn khúc chứ không hề giản đơn. Ngay trong bài Mùa xuân chín này có một câu thơ dường như muốn tiết lộ với chúng ta về khía cạnh ấy của thơ Hàn. Đó là: Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng. Tôi muốn lưu ý chữ "sực nhớ". Tức là những khoảnh khắc bất chợt, bất thần, vụt hiện, ngẫu nhiên. Có thể nói, dòng tâm tư bất định trong thơ Hàn Mặc Tử chính là một chuỗi những "sực nhớ" như thế. Các hình ảnh trôi trên bề mặt của dòng tâm tư là những ấn tượng, những kỉ niệm vụt hiện, mình Sở đầu Ngô, nhưng tất cả những ảnh hình bất chợt đầy ngẫu nhiên ấy lại đan bện vào cùng một nỗi niềm đang miên man chuyển hóa, vần vụ. Như thế, "phi lôgic" bề mặt, song lại "lôgic" ở bề sâu chính là bản tướng của cái hình thái được gọi bằng "siêu lôgic" trong thơ Hàn.
Có lẽ vì những phiền toái ấy, người đọc bước vào thơ Tử luôn bị mất dấu vết, mất phương hướng, chơi vơi, mệt. Người bối rối thì đâm tự hoài nghi, kẻ nông nổi lại dễ tự dối mình, và thường khi là tự mãn với vài ba lượm lặt đứt nối, rụng rơi nào đó.
Bước vào Mùa xuân chín cũng thế.
Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, đang say đắm trong thời khắc hiện tại - với cảnh xuân phô bày trước mắt và bao cô thôn nữ đang khao khát xuân tình đầy ý vị, thoắt cái đã sang một tương lai vô vị - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. Đương còn lắng nghe những lời thầm thĩ gần thế, đã sực nhớ đến một ảnh hình trong quá khứ xa thế - Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi, đám thôn nữ...) thoắt biến thành tâm cảnh (người con gái gánh thóc dọc bờ sông trắng), vừa mới "xuân sang" với nắng ửng, thoắt đà "xuân chín", rồi bất ngờ vuột hẳn ra ngoài cõi xuân với nắng chang chang. Cứ "nhảy cóc" như thế là bởi cứ "sực nhớ" mà ra. Kí ức thi sĩ cứ liên tục "vặn kênh", "chuyển kênh". Về mạch cảm xúc, nó không được triển khai theo kiểu cứ tăng tiến mãi một chiều. Mà vận động theo lối đứt gẫy rồi chuyển điệu đột ngột tựa như bất chợt chuyển kênh. Bài thơ có bốn khổ, thì ba khổ đầu nghiêng về diễn tả vẻ rạo rực xuân tình trong cảnh vật và trong lòng người. Thế rồi trạng thái rạo rực đang dồn đẩy tới, thoắt chuyển thành trạng thái bâng khuâng. Mạch cảm xúc vì thế có tới hai cao trào: rạo rực thì đến mức "hổn hển" - Hổn hển như lời của nước mây, còn "bâng khuâng" thì đến thành xa vắng - Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng. Mới vừa "rạo rực" thoắt đã "bâng khuâng", vừa ngây ngất yêu đời đã da diết thương đời. Đó chính là mạch chuyển lưu các đối cực của xúc cảm. Tất cả là chuỗi những "sực nhớ". Những "sực nhớ" được xâu thành chuỗi bởi một mạch cảm xúc luôn chuyển lưu, vần vụ đã tạo thành dòng tâm tư bất định. Đó chính là lối liên kết độc đáo của Mùa xuân chín nói riêng và Thơ điên Hàn Mặc Tử nói chung.
2. Cảnh chín hay tình chín? Nhìn từ bên ngoài, Mùa xuân chín trước hết là một bức tranh xuân. Thơ Mới viết về mùa xuân đâu phải ít, nhưng được như Mùa xuân chín đây thì đâu có nhiều. Bức tranh xuân ấy xứng đáng là một đóng góp của Hàn Mặc Tử đối với mạch thơ xuân. Song, thi phẩm đâu chỉ là chuyện cảnh xuân được họa bằng những vẻ xuân sắc phơi lộ bên ngoài. Đó chỉ là cái hữu hình, hữu thể thuộc về hình tướng bề ngoài. Chưa phải là điều đáng nói nhất. Đáng nói ở đây phải là cái vô hình vô thể náu ở trong lòng vạn vật kia. Tức là tình xuân vậy. Nó vừa là xuân tình trong lòng tạo vật, vừa là xuân tình trong lòng con người. Đành rằng nó cũng được phát lộ ra bên ngoài bằng xuân sắc. Nhưng ở khía cạnh này xuân sắc chỉ là ngôn ngữ, là chất liệu của xuân tình. Hãy xét kĩ một câu thơ: Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời có thể thấy rõ khuynh hướng cảm hứng của Hàn Mặc Tử. Nhiều người cứ mặc nhiên coi rằng nội dung của nó là giống với câu "Cỏ non xanh tận chân trời" của Nguyễn Du. Không phải. Quả là không thể chối bỏ ảnh hưởng của câu "Kiều" này đối với Hàn thi sĩ. Nhưng cần thấy rằng cái mà Tố Như định thể hiện là sắc cỏ non xanh (nghĩa là ngoại hình của cỏ) trải ra chân trời (bề rộng), còn cái mà Hàn Mặc Tử nhằm tới lại là sóng cỏ (nghĩa là sự rung động của cỏ) [8] đang gợn mãi lên đến tận vòm trời (chiều cao). Đây không nói chuyện hơn kém, mà chỉ nhận diện sự khác nhau. Trong tương quan ấy, nếu sắc nghiêng về cái hữu hình, thì sóng nghiêng về cái vô hình; sắc là hiện thân của xuân cảnh, còn sóng là hoá thân của xuân tình. Rõ ràng, Hàn Mặc Tử muốn thông qua sóng cỏ thuộc về hình tướng của tạo vật để nắm bắt cái xuân chín thuộc về chân tâm của tạo vật.
Vì thế "xuân chín", về thực chất, là "tình chín".
Và Tình chính là phần hồn cốt của Xuân.
Trong thi phẩm này, tình xuân không chỉ chín trong cảnh vật, mà còn chín trong cả con người. Hai vẻ xuân chín này diễn ra vừa đồng thời ở người và cảnh, vừa giao ứng giữa cảnh với người. Nói cách khác là cả hai chín cùng nhau, chín sang nhau và chín trong nhau. Sự song hành và hoà điệu như thế mới tạo nên Mùa xuân chín. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là ở đó.
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
Khổ thơ là một bức tranh toàn vẹn diễn tả cái diện mạo tươi thắm của cảnh lúc xuân sang: làn nắng ửng, khói xanh mơ, tà áo biếc, lấm tấm vàng... Đó là sắc xuân, đó cũng là tình xuân. Tình dậy lên bên trong phát lộ thành sắc bên ngoài. Và không chỉ ở sắc, tình còn hiện lên trong khí xuân. Để rõ thêm điều này, có lẽ nên tham khảo bài Sáng trăng, thi phẩm có cách cảm nhận rất gần gũi với Mùa xuân chín. Thậm chí, ở đó thi sĩ đã dùng cả những hình ảnh, ngôn từ như trong Mùa xuân chín để thể hiện cái tình dậy lên trong hồn người và phát lộ ra bên ngoài như thế nào: "Vui thay cảnh sáng trăng/ ái tình bắt đầu căng/ Hoa thơm thì nín lặng/ Hương thơm thì bay lan/ Em tôi thì hổn hển / áo xiêm lấm tấm vàng/ Em tôi đã hiểu chưa?/ Đó là khúc tình ca/ Nẩy theo hơi thở nhẹ/ ở trên làn dây tơ/ Của lòng em rộn rã...". Như thế, khi ái tình bắt đầu căng, lòng xuân náo nức thì nó tràn ra thành sắc xuân, sức xuân, khí xuân... hiển lộ thành sắc màu, thành cử chỉ, thành hơi thở, thành hương thơm, thành tiếng hát... của người thiếu nữ. Cũng như thế, ở Mùa xuân chín, ửng là xuân tình của nắng, xanh mơ là xuân tình của khói, lấm tấm vàng là xuân tình của những mái nhà gianh, sột soạt trêu là xuân tình của gió, và sắc biếc của tà áo bị trêu tròng là xuân tình nơi giàn thiên lí... Cứ như thế, như thế vẻ xuân tình của thiên nhiên theo làn sóng cỏ xanh tươi gợn lên đến tận trời. Cả bầu không gian mênh mông ấy, tràn đầy vẻ xuân, khí xuân. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời ca của con người thì cũng thế:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi ...
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây
Thiên nhiên mùa xuân cũng được cảm nhận và được mô tả như một thiếu nữ. Dường như sau cái bức tranh dệt bằng các chi tiết thiên nhiên ấy ta thấy thấp thoáng bóng một thiếu nữ tràn ngập xuân tình, khi thì qua sắc nắng ửng (như sắc má ửng hồng), khi thì qua tà áo biếc, khi thì qua lời nước mây hổn hển rồi lại thầm thỉ... ấy là Nàng Xuân vậy.
Chẳng phải thi sĩ muốn nhắm tới cái vô hình vô thể của xuân, và dùng cái hữu hình làm chất liệu để gợi ra cái vô hình hay sao?
3. Lòng xuân gửi vào Mùa xuân chín
Vừa ngất ngây xuân chín... Mùa xuân và mùa thu được thi ca ưu ái đến mức thiên vị. Xung quanh hai mùa này có biết bao áng thơ ca nổi tiếng. Vậy nên, riêng việc viết về mùa xuân hay vẽ nên một bức tranh xuân thú vị vẫn chưa phải là điều thật độc đáo. Cái độc đáo của bài thơ xuân này nằm ở chữ "chín". Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn thấy rằng mùa xuân có một uy thế lấn lướt trong thơ của thi sĩ này. Say mê vẻ xuân, Hàn đã có hẳn một tập "Xuân như ý" với những bài xuân tràn đầy thánh ý: Xuân gấm, Xuân hôn phối, Xuân trẻ, Xuân non, Xuân lịch sự... Ngay cái trạng thái "xuân chín" này cũng chứa đựng một quan niệm rất riêng của thi sĩ. Không nắm được quan niệm ấy, ta chỉ đến với bài thơ như một bức tranh thiên nhiên đơn thuần. Như đã nói ở trên, lõi của Xuân là Tình. Xuân chín ấy là Tình chín. Chín là thời điểm mãn khai, là trạng thái căng tràn, là khoảnh khắc nhậy cảm: sắc xuân mãn, thì xuân đoạn. Đó là đỉnh điểm mà cũng là giao điểm: tại đó nó chuyển thì, chuyển sắc.
Điều rất thú vị của Mùa xuân chín là trong bài thơ có cả một hệ thống nhân vật. Người thì: "bao cô thôn nữ", "ai ngồi dưới trúc", "khách xa" [9] và "chị ấy". Còn thiên nhiên cũng có thể xem như một nhân vật: nhân vật Nàng Xuân. Tình xuân chín trong lòng thiên nhiên ấy bắt đầu bằng làn nắng ửng. Từ chớm chín, nhanh chóng thành chín rục, chín muồi, chín mẩy... Xuân tình nảy nở và tràn căng cùng lúc trong cả những con người kia lẫn thiên nhiên này. Không phải ngẫu nhiên mà bức tranh xuân ở đây lại được họa bằng tất cả những gì tình tứ thế:
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
Cả đến mái nhà tranh cũng phát lộ xuân tình. Có lẽ còn lâu nữa về sau, mái nhà tranh vẫn cứ là một hình ảnh thân thương, dễ động lòng người Việt. Nó lặn sâu trong kí ức cộng đồng như một ảnh tượng của quê hương nghìn đời. Ta gặp trong thơ cổ điển của Nguyễn Khuyến "Năm gian nhà cỏ thấp le te" đơn sơ thanh bạch, ta gặp trong thơ cách mạng của Tố Hữu "Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây" cùng những "Mái nhà tranh thấp ngủ im hơi" đắm chìm buồn tủi hồi chưa cách mạng, ta cũng gặp trong thơ Trần Đăng Khoa những mái gianh tảo tần dầu dãi mà rất đỗi thiêng liêng "Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương"... Nhưng vẻ tình tứ của những mái gianh thì có lẽ chỉ thơ lãng mạn mới khơi dậy được. Đúng thế, cái sắc "lấm tấm vàng" kia đâu chỉ là màu nắng in từ ngoài vào. Đó cũng chính là dấu hiệu đầy gợi cảm của xuân tình khi "ái tình bắt đầu căng" phát lộ từ trong ra, khoe sắc ra bên ngoài. Hàn Mặc Tử thường cảm nhận như thế: "Em tôi thì hổn hển/ áo xiêm lấm tấm vàng" (Sáng trăng), "Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ/ Đầy mình lốm đốm những hào quang" (Duyên muộn)...Cả cái làn gió đang "sột soạt" trêu tròng tà áo biếc nơi giàn thiên lí kia nữa cũng thật phong tình. Cứ như là muốn... lật dở ra xem vậy! Xem chừng, làn gió táo bạo này cũng chính là làn gió "liều lĩnh" đã "lọt cửa cọ mài chăn" [10] bay từ Thơ Đường Luật của Tử về giàn thiên lí này thôi. Lời thơ Tử vẫn thường ánh lên màu sắc dục là như thế.
Dường như đối với Hàn Mặc Tử, tình xuân nảy nở cứ càng lúc càng nồng nàn mãnh liệt hơn: thành sắc màu, thành ánh sáng rồi thành gió trêu, thành sóng cỏ... mà cuối cùng là thành tiếng hát tình tứ. Tiếng hát là kết tinh cao nhất của tình xuân. Từ trong lòng tạo vật phát ra ngoài, rồi gợn lên, lan đi, vắt vẻo ở lưng chừng núi, và cuối cùng thì cao bay lên tận đỉnh trời thành lời của nước mây. Khi tiếng hát đã rộn rực say đắm đến thành "hổn hển" rồi thì đó là hơi xuân bốc lên cao nhất, lòng xuân tới độ nồng nàn nhất, chín nhất. Nó là đỉnh điểm của khí xuân tình xuân, điểm chín của vẻ xuân thì xuân. Nó "thầm thĩ"rót vào tai người "khách xa" những lời tình quyến rũ mà trong trẻo, nên khách đã: "nghe ra ý vị và thơ ngây". Từ lòng người đến đất trời mây nước, tất cả đã vào điểm chín của tình xuân. Cả vũ trụ dường đang chan chứa vẻ xuân.
Lời thơ quả là ngất ngư bởi hồn thi sĩ cũng đang tràn ngập xuân tình.
... đã nuối tiếc xuân thì
Đỉnh điểm cũng là giao điểm. Giờ xuân chín cũng là giờ xuân mãn. Xuân thì không còn nữa. Tình đã mãn rồi xuân cũng phôi pha phai lạt. Xuân chín cũng là chấm dứt xuân. Nó chấm dứt vào cái ngày cuối cùng của quãng đời thiếu nữ. Nửa sau của bài thơ đã chuyển mạch thành tiếc xuân thì.
Ivan Bunhin có một truyện đầy dư vị triết học về đời người. Chuyện rằng xửa xưa tuổi thọ con người ngắn lắm, chỉ được 18 năm thôi. Trong khi đó tuổi các loài khác cao hơn nhiều. Loài lừa có đến năm mươi năm, loài chó những 40 năm, còn ít như loài khỉ cũng tới 30 năm. Con người cho đó là chẳng công bằng, bèn lên kiện Thượng đế. Thượng đế nhân từ mà nghiêm khắc ưng thuận cho con người thêm tuổi. Nhưng người nói: tuổi muôn loài có hạn, nên con người muốn tăng thọ, thì phải lấy tuổi của các loài khác thêm vào. Tham lam và dại dột, loài người đã ưng ý liền. Từ đó tuổi thọ con người dài tới 60 - 70 tuổi. Song, cũng chỉ có 18 năm đầu được làm người, 30 năm kế tiếp là tuổi con lừa (nai lưng làm việc), 10 năm tiếp theo làm con chó (khư khư giữ lấy những của nả làm ra), và cuối đời sống tuổi con khỉ (xấu xí nhăn nheo)... Nghĩa là, tuổi người hết vào cái lúc xuân chín vậy.
Do ý thức được điều nghiệt ngã ấy mà không phải đến Thơ Mới, thi nhân mới tiếc xuân thì. Thơ xưa đã đầy những lời cảnh báo về sự ngắn ngủi của tuổi xuân - Chơi xuân kẻo hết xuân đi/ Cái già sồng sộc nó thì theo sau. Nhưng có lẽ chỉ đến Thơ Mới- tiếng thơ của ý thức cá nhân cá thể - thì nó mới thành tiếng nói đầy ý thức về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của tuổi trẻ và xuân thì ở mỗi cá nhân và mọi cá nhân. Xuân Diệu vội vàng giục giã: "Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất". Xuân của đời người đã ngắn, xuân của đời con gái còn ngắn hơn. Chả thế mà người ta vẫn nói một đời đàn ông bằng hai đời đàn bà. Nguyễn Bính thở dài ngán ngẩm: “Tuổi xuân má đỏ môi hồng/ Bước chân về đến nhà chồng là thôi". Hàn Mặc Tử cũng đã bao lần hẫng hụt về điều ấy. Việc lấy chồng là một mất mát không gì sánh được. Nó khiến cho tất thảy đều vô nghĩa. Nàng thì mất ước mơ, mình thì mất hồn thơ: "Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ/ Em lấy chồng rồi hết ước mơ/ Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng/ Ngồi lên để thả cái hồn thơ"... Còn ở đây, giữa lúc Mùa xuân chín, tiếng ca còn đương làm rạo rực cả nước mây, mà Hàn Mặc Tử đã thấy trước cái tương lai buồn, thấy trước ngày mai vô vị, mà thốt lên lời tiên báo:
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Nhìn xuân chín hiện thời, đã thấy nhỡn tiền cái kết cục mai hậu! Thật là một dự báo se lòng về hậu xuân chín. Khác chi xuân mãn, xuân tàn, xuân lạc tận!.
Nhìn thấy "tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại", cái Tôi Xuân Diệu sẽ vội ném mình vào cuộc chạy đua với thời gian, để sống đã đầy đến từng khoảnh khắc, tận hưởng và tận hiến. Còn Hàn Mặc Tử thì khác. Cái Tôi của Tử không có được sự bồng bột vô tư ấy. Mà nó đầy uẩn khúc. Dòng tâm tư bất định lưu chuyển bên trong Cái Tôi kia chính là: nhìn xuân sắc thì rạo rực xuân tình, nhưng vừa chợt khát khao đã dằn lòng tiết dục, vừa định hòa nhập thoắt đã cô đơn. Cho nên gặp xuân chín mà tiếc xuân thì, nghe xuân ca mà buồn xuân mãn. Có phải với "cuộc chơi" kia, Tử chỉ là kẻ đứng ngoài, là vị "khách xa" nên sinh buồn? Không hẳn vậy. Tử buồn chung cho kiếp người. Nỗi sầu vừa dâng lên trong Cái Tôi kia chính là sầu nhân thế. Tử không hề hiện ra như một Cái Tôi náo nức nhập cuộc chơi, lúc nào cũng vồ vập tận hưởng. Có lẽ cũng như chàng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về sau, Tử cũng chỉ là một nghệ sĩ đi ngang qua cuộc đời này để hát lên cái linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo thôi. Chả thế mà giữa đỉnh điểm cuộc chơi hiện tại, chợt nghĩ đến ngày mai mà buồn - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy..., sực nhớ đến dĩ vãng mà thương, chả biết người ấy giờ này có còn được thế nữa không - Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang? Người đọc câu thơ này đã có lúc cho rằng đó là hình ảnh nhọc nhằn của lao động, và xúc cảm của thi sĩ là xót thương cho đời người vất vả. Người viết đã từng đối lập cảnh trong "nắng ửng" của bao cô thôn nữ, với cảnh trong "nắng chang chang"; đằng thì hát (chơi), đằng thì gánh thóc (lao động), đằng thì hiện tại nhãn tiền, đằng thì khuất chìm trong quá vãng, để rồi đinh ninh rằng: hôm nay họ là những thôn nữ hát trên đồi, ngày mai họ sẽ thành người chị gánh thóc, cái "nắng chang chang" chắc chắn sẽ làm tiêu tan cái "nắng ửng" này đi. Vui sướng chỉ thoáng qua, nhọc nhằn mới vĩnh viễn. Có lẽ không phải thế. Đây không hẳn là hình ảnh vất vả (khổ) mà là hình ảnh thơ mộng (đẹp). Trong thơ Hàn Mặc Tử hình ảnh người tình xa chợt hiện về trong sắc trắng tinh khôi, nhiều khi lóa sáng nhìn không ra, bao giờ cũng là hiện thân của vẻ xuân tình mà trinh khiết. Đó là kỉ niệm về độ xuân thì của "chị ấy" vốn đọng trong kí ức thi nhân. Vì thế hình ảnh này là một thoáng "sực nhớ" của niềm khát khao, hơn là của nỗi thương xót. Nếu có chút ngậm ngùi nào đó thì phải là nỗi lo âu cho hiện tại ("năm nay") có còn không cái độ xuân thì ấy, chứ không phải xót xa vì gánh thóc nhọc nhằn - nắng chang chang đâu chỉ có nghĩa là gay gắt! Nên nhớ, Hàn Mặc Tử là một thi sĩ lãng mạn. Đối tượng của hồn thơ lãng mạn là vẻ xuân tình của độ xuân thì, chứ chưa phải là lao động! Thế đấy, nỗi niềm của Tử là cái trạng thái tâm hồn đầy uẩn khúc của vị khách thơ đi ngang qua vườn trần gian, đúng vào cái thời điểm xuân chín để mà thấy ra cái cảnh thần tiên đương khi xuân chín và cái tương lai vô vị buồn sầu ngay khi hậu xuân chín trong kiếp người của mọi cá thể. Đó chẳng phải là vấn đề lớn của cõi nhân sinh này hay sao? Tiếc xuân thì đó mới là nỗi niềm sâu xa nhất của thi phẩm và đó cũng là nỗi đau thương của chàng thi sĩ thiết tha vớí cuộc đời mà luôn phải sống trong mặc cảm lìa đời vậy.
[1] Ở số PL 2535, tác giả Võ Đình Cường đã công bố một tư liệu quan trọng liên quan đến cách hiểu bài thơ này: Bức thiếp phong cảnh Tử nhận được không phải là ảnh Hoàng Cúc trong tà áo dài trắng nữ sinh Đồng Khánh... Điều này cho thấy việc trói chặt nội dung bài thơ vào sự kiện Hoàng Cúc là vô lối.
[2] Nhiều người đã thấy rằng: "Trong thơ Tử, cả địa danh cụ thể cũng trở thành huyền ảo" (Mai Văn Hoan, Báo Văn Nghệ số 1757/ 11-9-1993)
[3] Có thể các nhà thơ thuộc Trường thơ loạn ít nhiều ảnh hưởng quan niệm "thơ điên" thuộc chặng cuối của thi phái Tượng trưng Pháp, mà người đại diện là Mallarme... Riêng Hàn Mặc Tử đến với "thơ điên" chủ yếu là do logic nội tại.
[4] Các ý kiến của Vũ Quần Phương (trong Thơ với lời bình), Lê Quang Hưng (trong Tác phẩm Văn học) và Nguyễn Hữu Tuyển trong "Nỗi oan cần được giải" đều nhận xét rằng: "bề ngoài câu chữ tưởng như rất lỏng lẻo chẳng ăn nhập gì" (Văn nghệ phụ san số 5/ 1990)...
[5] Cả Võ Đình Cường (Tập Văn Thành Đạo - tài liệu đã dẫn) và Nguyễn Bá Tín (Hàn Mặc Tử, anh tôi, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1991) đều xác nhận là trong tấm thiếp phong cảnh Hoàng Cúc gửi cho Tử, không có câu nào như thế cả.
[6] Xem sách Làm văn 12. NXB Giáo Dục, 1992.
[7] Về điểm này Vũ Quần Phương đã có lí khi cho rằng không nên hiểu trói buộc vào dòng sông Hương (tài liệu đã dẫn)
[8] Hàn Mặc Tử còn nói đến sóng áo, sóng trăng, sóng cành, sóng lá... đều là sự hiển lộ ra bên ngoài của tình ý bên trong: "Ta đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng chảy/ Trên sóng cành, sóng lá cô gì má đỏ hây hây/Ta rình nghe niềm ý bâng khuâng trong gió lảng/ Với là hơi thở nồng nàn của ả thơ ngây"...
[9] "Ai" và "khách xa" có lẽ đều chỉ là sự phân thân của tác giả.
[10] Trong bài Thức khuya, có câu: Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối/ Gió thu lọt cửa cọ mài chăn (Lệ Thanh thi tập).
Văn chỉ, 1997-2002
Chu Văn Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét