Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017

Nhà thơ Huy Cận

Nhà thơ Huy Cận
Huy Cận (tên khai sinh là Cù Huy Cận; 31 tháng 5 năm 1919 - 19 tháng 2 năm 2005), là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông là bạn tâm giao của Xuân Diệu, một nhà thơ nổi tiếng khác của Việt Nam.
Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phúhuyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Ngày sinh hiện nay là do ông cậu của ông khai khi vào học ở Huế, còn ngày sinh chính xác là ngày 29 tháng Chạp năm Bính Thìn (dương lịch là ngày 22 tháng 1 năm 1917).
Ông lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Tháng 8 năm 1945, Cù Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ Lâm thời (gồm Nguyễn Lương BằngTrần Huy Liệu và Cù Huy Cận) đi vào Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, khi mới 26 tuổi, ông đã là Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh đứng đầu Chính phủ. Trong những năm 1945 - 1946 ông là Ủy viên Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ.
Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách các công tác văn hóa và văn nghệ. Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt NamĐại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII.
Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
Huy Cận mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội.
Trước tháng 8 năm 1945,Huy Cận có thơ đăng báo từ 1936, cho in tập thơ đầu Lửa Thiêng năm 1940 (gồm những bài đã đăng báo, khoảng 1936-1940) và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới lúc bấy giờ. Bao trùm Lửa Thiêng là một nỗi buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ "ảo não", bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Trong Kinh cầu tự (1942văn xuôi triết lí) và Vũ trụ ca (thơ đăng báo 1940-1942), Huy Cận đã tìm đến ca ngợi niềm vui, sự sống trong vũ trụ vô biên song vẫn chưa thoát khỏi bế tắc.
Các tập thơ của Huy Cận sau Cách mạng tháng 8: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (thơ thiếu nhi, 1967), Những năm sáu mươi (1968), Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Họp mặt thiếu niên anh hùng(1973), Những người mẹ, những người vợ (1974), Ngày hằng sống ngày hằng thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984)...
Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996).
Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.
Ở một số thành phố đã có đường phố mang tên nhà thơ Huy Cận.Ở huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh - quê ông, có Trường THPT mang tên nhà thơ Cù Huy Cận.

Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận
Lê Khánh Mai
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Mùa thu năm 1939, nhà thơ Huy Cận, chàng trai 20 tuổi, nhân lúc đi đến bến Chèm, đứng bên bờ nam nhìn cảnh sông Hồng mênh mông trời nước bao la đã hình thành bài thơ “Tràng giang”. Đây không chỉ là bài thơ tiêu biểu, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ Huy Cận mà còn là bài thơ đặc sắc trong trào lưu thơ lãng mạn giai đoạn 1930 –1945.
“Tràng Giang” mang không khí đường thi, cổ kính và thấm đẫm màu sắc Phương Đông. Nó có phần khác lạ so với rất nhiều thi phẩm của các thi sĩ cùng thời đang háo hức đón nhận luồng gió Tây phương, nhiệt tình vận dụng thể thơ sonet của Pháp đổi mới thơ Việt Nam. Tuy vậy “Tràng giang” tuyệt nhiên không bị coi là “cũ”. Ngay cả đối với hôm nay, nó đã từng vượt qua ba phần tư thế kỷ, từng song hành với rất nhiều bài thơ hay của nhiều xu hướng, trào lưu nghệ thuật khác nhau, song giá trị của Tràng giang vẫn không hề bị suy giảm. Có thể xem đây là một ví dụ điển hình chứng minh rằng sự trường tồn của một bài thơ không phụ thuộc vào việc nó được viết bằng thể thơ gì, hình thức nào? Sức sống của nó chính là ở hồn vía nhà thơ, một cá thể mà soi vào đó người ta thấy được tâm thế của thời đại.
Tràng giang có nghĩa sông dài, cụ thể ở đây là sông Hồng, nhưng tác giả không đặt tên bài thơ là sông dài, mà là “Tràng giang” vì sức biểu đạt của “Tràng giang” sâu sắc hơn, không chỉ về âm hưởng trang trọng cổ kính mà còn tái hiện một không gian khoáng đạt vô cùng vô tận của thiên nhiên vũ trụ.
Tràng giang trước hết là một bài thơ thiên nhiên, nhưng cái đích của nó là mượn thiên nhiên, thông qua thiên nhiên để bày tỏ niềm hoài nhớ quê hương và tâm trạng của người trí thức trước thời cuộc.
Thiên nhiên vừa là tác nhân khơi nguồn cảm xúc vừa là phương tiện biểu đạt. Thiên nhiên trải dài, xuyên suốt và được sắp xếp theo hệ thống đối lập. Một bên là những hình ảnh cao lớn, rộng dài, bao la kỳ vĩ mang chiều kích vũ trụ: “sông dài”, “trời rộng”,  “mây cao”, “núi bạc”, “bờ xanh”,  “bãi vàng”. Một bên là những hình ảnh, sự vật nhỏ bé, đơn sơ, trơ trọi, trôi nổi, vật vờ: “con thuyền”, “củi một cành khô”, “cồn nhỏ gió đìu hiu”, “bèo dạt”, “chim nghiêng cánh nhỏ”…Hệ thống hình ảnh đối lập này tạo nên sự liên tưởng về thân phận con người nhỏ bé,bơ vơ, bất lực, buông xuôi, không định hướng, như bèo dạt hàng nối hàng không biết về đâu, như củi một cành khô lạc mấy dòng. Đây là tâm trạng chung của nhiều thanh niên trí thức thời bấy giờ, khi dân tộc chìm trong bóng đêm nô lệ, mà họ chưa tìm thấy con đường đi. Tâm trạng này in đậm trong thơ giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Lưu Trọng Lư cảm nhận thân phận như “con nai vàng ngơ ngác”. Xuân Diệu cũng rơi vào trạng thái của “con cò trên ruộng cánh phân vân”. Còn Tố Hữu thì thốt lên:
“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi”.

Và đó là lý do của nỗi buồn, cô đơn mà người ta gọi là tâm bệnh của thời đại. Nỗi buồn ấy thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật trở thành lý tưởng thẩm mỹ, chi phối hoạt động sáng tạo của các nhà thơ lãng mạn. Trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận nỗi buồn là âm hưởng chủ đạo, bao trùm. Nỗi buồn dường như nằm trong bản thân tạo vật:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
…..Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
…Sông dài trời rộng bến cô liêu

Nỗi buồn ấy choán hết cả không gian, thời gian biến không gian thành một vũ trụ hoang vắng và tĩnh lặng và thời gian ngưng đọng.
 “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”
Bầu trời như thể bị đẩy lên cao, sâu thẳm không thể nhìn thấy đáy. Bầu trời hoang vu như hồn người, còn mặt đất thì 
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”

Giữa sông nước mênh mông không có con đò, không có chiếc cầu để gợi lên chút hy vọng về một bến bờ khác, vượt thoát khỏi thực tại. Không gian tuyệt đối tĩnh lặng. Không có một âm thanh nào phát ra thành tiếng. Sóng gợn nhẹ, gió đìu hiu, bờ bãi lặng lẽ, chỉ có thứ âm thanh từ ký ức xa xăm dội về tâm tưởng thành niềm khát khao, thành câu hỏi: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.
Hiếm có bài thơ nào cùng một lúc sử dụng hàng loạt từ láy như Tràng giang:  “điệp điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu hiu” “chót vót”, “lớp lớp”, “dợn dợn” là những từ có ưu thế diễn tả “cá tính” của sự vật, tạo nên nhịp điệu, âm hưởng của lời thơ và do đó bộc lộ sắc thái tình cảm của nhà thơ. Và cũng hiếm có bài thơ nào đưa cả một hệ thống thiên nhiên với nhiều hình ảnh, sự vật như “Tràng giang”. Lạ ở chỗ các yếu tố thiên nhiên sự vật hầu như không liên kết với nhau. Nó tồn tại, vận động một cách độc lập, cô lẻ, rời rạc như cũng tự mình ẩn vào nỗi  niềm riêng , do đó càng làm gia tăng ở con người cảm giác cô đơn, bơ vơ, không được nương tựa, che đỡ. Trong hoàn cảnh ấy con người thường tìm nơi bám víu, tìm chỗ dựa tinh thần, một nguồn an ủi. Nơi ấy là quê hương
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Bóng chiều, hoàng hôn đã trở thành thời gian tâm lý trong thơ kim cổ. Đó là khoảng thời gian cuối ngày đang dần chuyển sang đêm; những tâm tư lắng đọng cho nỗi nhớ trào lên, nhất là nỗi nhớ quê hương luôn thường trực đau đáu trong tâm hồn thi nhân.
Nhà thơ Thôi Hiệu từng viết:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Trước con sông dài mênh mông, nhà thơ Huy Cận như đồng cảm với nỗi lòng nhớ quê của Thôi Hiệu ông “thú nhận” với mình: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Vậy là nỗi buồn của nhà thơ được cắt nghĩa đầy đủ hơn. Đó không phải nỗi buồn vu vơ, vô cớ, mà là nỗi buồn trong sạch thanh cao. Nỗi buồn ấy không làm cho con người trở nên yếu đuối, bi lụy, mà nuôi dưỡng trong ta những tình cảm đẹp, những khát vọng lớn lao và tình yêu quê hương đất nước.

TRÀNG GIANG
Nguyễn Hồng Ngọc Lam
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc. 
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp .... 
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. 

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng. 
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại. 
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc. 
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng. 

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào. 
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng: 

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng. 

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn. 
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi. 
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo: 
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. 
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông: 
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Vẻ đẹp hiện đại lan tỏa qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
Đi Giữa Đường Thơm
Tặng Thạch Lam
Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm... 
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm, 
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tươ.ng.
Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng 
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu: 
Lên bề cao hay đi xuống bề sâu? 
Không biết nữa. -- Có chút gì làm ngợp 
Trong không khí... hương với màu hòa hợp...
Một buổi trưa không biết ở thời nào, 
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, 
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ, 
Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự. 
Buổi trưa này xưa kia ta đã đi, 
Phải cùng chăng? lòng nhớ rõ làm chi!
Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng, 
Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng, 
Trí vô tư cho da thở hương tình, 
Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình 
Như sắp nói, nhưng mà không; -- khóm trúc 
Vừa động lá, ta nhận vào một lúc 
Cả không gian hồn hậu rất thơm tho; 
Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ...
Trong cảnh lặng, vẫn đưa mùi gió thoảng... 
Trí bâng quơ nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều: 
"Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu". 
Chân đang bước bỗng e dè đứng lại 
-- Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại... 
Anh viết bài thơ
Anh viết bài thơ giữa ánh khuya 
Cỏ cây yên ngủ. Gió xa về 
Anh nhìn em ngủ hồn hiu nhẹ 
Như bóng vườn trưa xanh tiếng ve
Biển lặng em nằm trong gió êm 
Anh là bóng thức của hồn em 
Ngoài kia sao cũng từng đôi sáng 
Từng cặp nhân vàng trong trái đêm
Bát ngát lòng anh giữa trái đời 
Hai ta đôi hạt giữa nghìn đôi 
Gió khuya nào biết xuân hè nữa? 
Em mộng điều chi, miệng thoả cười
Áo trắng
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong, 
Hôm xưa em đến, mắt như lòng. 
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến, 
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng.
Em đẹp bàn tay ngón ngón thon, 
Em duyên đôi má nắng hoe tròn. 
Em lùa gió biếc vào trong tóc 
Thổi lại phòng anh cả núi non.
Em nói, anh nghe tiếng lẫn lời, 
Hồn em anh thở ở trong hơi. 
Nắng thơ dệt sáng trên tà áo, 
Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.
Đôi lứa thần tiên suốt cả ngày, 
Em ban hạnh phúc chứa đầy tay. 
Dịu dàng áo trắng trong như suối 
Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay.
Buồn

Đã chảy về đâu những suối xưa? 
Đâu cơn yêu mến đến không chờ? 
Tháng ngày vùn vụt phai màu áo 
Của những nàng tiên mộng trẻ thơ.
Rụng những chùm tên mấy độ bông; 
Phai hàng nhật ký chép song song; 
Chàng trai gối mộng trên trang sách 
Tỉnh thức, mùa xuân rụng hết hồng.
Đời mất về đâu, hỡi tháng, năm? 
Xuân không mọc nữa với trăng rằm! 
Chẳng bao lâu ngủ sầu trong đất, 
Vĩnh viễn mùa đông lạnh chỗ nằm.
Nay hẵng còn đây ấm mặt trời, 
Mà sao lòng lạnh tuyết băng rơi? 
-- U sầu chắc hẳn đang nhanh bước, 
Lưng khọm nghìn năm đến cửa tôi.
Hoa sấu bầy ong
      Mấy hôm chiều lại cơn giông 
Có lùm hoa sấu trước song, quên mình 
     Chiều nay mây tạnh nắng lên 
Đàn ong quen lại đến tìm lùm hoa 
     Ồ hoa đậu trái bây giờ? 
Bầy ong ngơ ngẩn một bờ sấu xanh.
Nằm nghe người thở
    Nằm nghe người thở bên ta 
Nghe ta cùng thở vui hoà đêm nay 
    Nghe xe nghìn kiếp đưa quay 
Nóng muôn hạt gió lừng bay ngực đời. 
    Trong hơi ta, trong hơi người 
Lại nghe nằm nghỉ đất trời ban sơ 
    Hơi ta thành tựu thuở xưa, 
Hơi người dằng dặc bao giờ cho tan! 
    Nghìn năm một cuộc giao hoan 
Trước chưa xương thịt, sau tàn thịt xương, 
    Hoa còn hơi thở hoa hương 
Cho hồn gặp gỡ âm dương lối về...
Ngậm ngùi
    Nắng chia nửa bãi; chiều rồi... 
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu. 
    Sợi buồn con nhện giăng mau; 
Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây. 
    Lòng anh mở với quạt này; 
Trăm con chim mộng về bay đầu giường. 
    Ngủ đi em, mộng bình thường! 
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ... 
    Cây dài bóng xế ngẩn ngơ... 
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau? 
    Tay anh em hãy tựa đầu, 
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
Tình mất

Ôi! Những kẻ tôi chỉ chào một bận, 
Chân xa mau, lòng chưa kịp giao thân, 
Trên đường tôi nếu trở lại vài lần, 
Chắc ta đã yêu nhau rồi, - hẳn chứ.. 
Một lời nói nếu có gan ướm thử; 
Một bàn tay đừng lưỡng lự trao thơ; 
Một lúc nhìn thêm, đôi lúc tình cờ, 
Chắc có lẽ đã làm nên luyến ái...
Yêu biết mấy nếu có lần gặp lại!
Tôi vụng về, tôi ngơ ngác, nên chi 
Người bên tôi mà để người đi, 
Tôi làm nũng, quyết giữ lòng kiêu hãnh; 
Người ở đó, tôi làm như ghẻ lạnh; 
Người đi rồi, thôi mong mỏi gì đâu! 
Những bàn tay đáng lẽ phải giao nhau, 
Hờ hững thế! Không chịu cầm lưu luyến.
Ôi! Những kẻ cùng tôi không hứa hẹn! 
Người không quen nhưng tôi chắc sẽ yêu; 
Mặt vừa nhìn mà chân đã muốn theo; 
Tình mới chép một hai dòng nhật ký; 
Tên viết tắt, tin rằng lòng nhớ kỹ 
Bạn một hôm đi đến rất tình cờ; 
Tình quên đi ở trong những bức thơ 
Viết không gửi, xếp nằm trong sách cũ; 
Ôi! Bao kẻ chỉ một lần gặp gỡ! 
Bởi vì sao lòng tôi rất thương đau 
Khi nghĩ thầm: "nếu ta đã gần nhau!..."
Xuân
Luống đất thơm hương mùa mới dậy, 
Bên đường chân rộn bước trai tơ. 
Cây xanh cành đẹp xui tay với; 
Sông mát tràn xuân nước đậm bờ. 
Ồ những người ta đi hóng xuân; 
Cho tôi theo với, kéo tôi gần! 
Rộn ràng bước nhịp hương vương gót, 
Nhựa mạnh tuôn trào tưởng dính chân.
Bắt gặp mùa tươi lên rún rẩy, 
Trong cành hoa trẻ, cổ chim non. 
- Có ai gửi ý trong xuân cũ, 
Đất nở muôn xuân vẫn chẳng mòn.                  
Giai thoại về nhà thơ Huy Cận
“Ngày thơ Việt Nam” lần thứ nhất (2002), tỉnh Hà Tĩnh tổ chức kỷ niệm tại Khu lưu niệm Nguyễn Du do Hội Văn hóa Nghệ thuật Hà Tĩnh chủ trì. Năm đó, các nhà thơ ở các nơi về dự rất đông (đặc biệt là các nhà thơ, nhà văn người Nghệ Tĩnh).
Sau thủ tục dâng hương mộ đại thi hào Nguyễn Du, mộ tướng công – nhà thơ Nguyễn Công Trứ, mộ tể tướng Nguyễn Nghiễm (thân sinh đại thi hào Nguyễn Du), đúng 9 giờ lễ khai mạc “Ngày thơ việt Nam” mở đầu bằng bài thơ Nguyên tiêu của Bác Hồ qua giọng ngâm của hai nghệ sĩ với tốp múa phụ họa. Cả khán trường bùi ngùi xúc động tưởng nhớ Bác – lãnh tụ, nhà thơ Hồ Chí Minh.
Buổi chiều, có lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh, huyện Nghi Xuân, các ban ngành trong tỉnh và huyện, đặc biệt có hàng trăm thầy trò trường PHTH Nguyễn Du (Nghi Xuân) đến chúc mừng. Nhà văn Đức Ban chủ trì, mời nhà thơ Huy Cận lên phát biểu và đọc thơ. Nhà thơ Huy Cận đã ở tuổi 83 nhưng ông còn mạnh khỏe, dí dỏm. Ông đọc và tự bạch bài Tràng giang xong mới phát biểu về phong trào sáng tác của Hà Tĩnh từ sau ngày giải phóng đến 2002, kế đó ông nhấn một số điểm về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Một nhà thơ lớn như Huy Cận mà sa vào Truyện Kiều thì khó dứt ra được. Ông nói sôi nổi và “hơi bị dài”. Nhà văn Đức Ban sốt ruột, cứ nhấp nha nhấp nhổm. Tôi nói nhỏ vào tai nhà văn Cao Tiến Lê ở ghế trước: “Anh nói với Đức Ban lên tặng hoa ngay”. Khi nhận được lời “tư vấn”, Đức Ban ôm bó hoa lên vừa chúc thọ nhà thơ Cù Huy Cận vừa cảm ơn ông. Không ngờ khi nhận hoa xong, ông nói: “Các cậu phê bình mình nói dài chứ gì. Cho tớ nói thêm tí nữa!”. Cả hội trường cười ồ. Đoạn thi sĩ gói gọn lời kết và chúc… chúc… rồi về ghế ngồi. Nhà văn Đức Ban giới thiệu đồng chí Chủ tịch Tỉnh lúc bấy giờ lên cảm ơn nhà thơ Huy Cận.
Đồng chí Chủ tịch Tỉnh trịnh trọng:
- Kính thưa Cụ Huy Cận…
Ngay lúc ấy, nhà thơ Cù Huy Cận liền đứng lên cải chính:
- Thưa đồng chí Chủ tịch, họ tôi “dấu huyền” không phải “dấu nặng”.
Cả hội trường được bữa cười xả láng. Đồng chí Chủ tịch sau một thoáng lúng túng rồi cũng cười xòa.
Yến Thanh
Theo http://vanhocnghethuathatinh.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...