Những phân tích hay nhất bài thơ
Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễu
Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá,
huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh nay là huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nguyễn khuyến
là một trong hai ngòi bút xuất sắc cuối cùng của nền văn học trung đại Việt
Nam. Với chùm thơ "Thu" 3 tác phẩm mùa thu nổi tiếng.
Dưới đây là những phân tích được xem là hay nhất bài thơ
"Thu Điếu"
Toàn bộ nội dung bài thơ:
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo."
|
Nguyễn Khuyến là một trong hai đại biểu xuất sắc cuối cùng của
nền văn học Trung đại Việt Nam .Ông được coi là bậc quán quân về thơ tả cảnh
mùa thu. Chùm thơ thu ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm của ông được đánh giá
là tam tuyệt của thơ thu Việt Nam.Trong đó, Thu điếu có nét đặc sắc riêng, tả cảnh
thu ở một không gian thời gian cụ thể. Đằng sau cảnh thu tĩnh lặng là nỗi niềm
tâm sự thầm kín của thi nhân.
Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca. Thơ viết về mùa thu
của văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn.
Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp
lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy .
Nhưng Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt
Nam. Gần suốt đời mình, ông gắn bó với thôn quê, hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất
quê nhà. Thế nên, cảnh vật làng quê trong thơ ông hiện lên rất chân thực, giản
dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức tranh thu đặc trưng của vùng
chiêm trũng Bắc bộ, quê hương của nhà thơ. Đấy chính là nét mới mẻ của tác phẩm
so với thi pháp truyền thống của văn học Trung đại Việt Nam .
Thu điếu viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú Đường
luật. Cảnh thu được miêu tả trong hầu hết 8 câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất
hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc –
những thi liệu quen thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ
điển.
Hình ảnh đầu tiên được tác giả miêu tả là “ao thu”. Từ “lạnh
lẽo” đặc tả khí lạnh của ao nước mùa thu, dường như cái lạnh ấy thấm sâu vào da
thịt con người. Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hóa độ trong của nước, đồng
thời còn gợi ra độ thanh sạch, sự bất động, tĩnh lặng của mặt ao. Hai âm “eo”
được gieo trong một câu khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng đọng của
không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian nhỏ hẹp của
chiếc ao.
Trên nền cảnh thu ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu lẻ loi,
đơn chiếc, bé nhỏ. Số từ chỉ số ít “một chiếc” kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến
cho chiếc thuyền càng nhỏ bé hơn, như co lại thành một nét chấm trên nền ao
cũng bé xíu và trong trong tận đáy.
Hai câu đề đã vẽ nên cảnh sắc rất riêng biệt, mộc mạc, đơn
sơ của mùa thu Bắc bộ với những nét đặc trưng nhất của khí thu, chất thu là cái
lạnh và sự tĩnh lặng .
Mùa thu tiếp tục hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vận động một cách khẽ khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là sự chuyển động “hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao.
Mùa thu tiếp tục hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vận động một cách khẽ khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là sự chuyển động “hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao.
Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc”,
‘tí’, “vàng”, “khẽ”,”vèo” được sử dụng một cách hợp lí, giàu chất tạo hình, vừa
tạo ra bức tranh màu sắc thanh nhã, có xanh có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển,
sinh động của tạo vật. Cảnh được miêu tả trong hai câu thực, mặc dù là động,
nhưng vì động khẽ khàng quá nên thực chất là lấy động để tả cái tĩnh lặng của
mùa thu trong không gian của một chiếc ao quê nhà.
Không gian cảnh vật trong hai câu luận không chỉ dừng lại ở bề mặt chiếc ao mà còn mở rộng thêm chiều cao, chiều sâu.
Không gian cảnh vật trong hai câu luận không chỉ dừng lại ở bề mặt chiếc ao mà còn mở rộng thêm chiều cao, chiều sâu.
Chiều cao được cụ thể bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và độ
thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Màu da trời mùa thu dường như có ám ảnh sâu đậm
trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nên trong các bài thơ thu, ông thường nhắc tới: “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” (Thu vịnh) hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”
(Thu ẩm). Bởi vậy, màu xanh ngắt của da trời không chỉ đơn giản là một sắc
màu khách quan đặc trưng của trời thu mà có lẽ còn chính là tâm trạng nhiều ẩn ức,
là chiều sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân.
Chiều sâu của không gian được cụ thể bằng độ “quanh co” uốn
lượn của bờ trúc. Không gian trong hai câu luận đậm dặc một màu xanh, màu xanh
bao trùm cả trên cao và chiều rộng. Cảnh vật thoáng đãng và yên tĩnh. Nguyên từ
“vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng “vắng teo” thì có nghĩa là cảnh vắng
tanh vắng ngắt, không chút cử động, không chút âm thanh, không một bóng người.
Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong
lòng người.
Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế ngồi bó gối, trong trạng thái trầm tư mặc tưởng. Nhà thơ ngồi câu cá mà chẳng chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Không gian phải yên tĩnh lắm, tâm hồn nhà thơ phải trong trẻo lắm thì mới nghe rõ âm thanh nhỏ nhẹ như vậy.
Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế ngồi bó gối, trong trạng thái trầm tư mặc tưởng. Nhà thơ ngồi câu cá mà chẳng chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Không gian phải yên tĩnh lắm, tâm hồn nhà thơ phải trong trẻo lắm thì mới nghe rõ âm thanh nhỏ nhẹ như vậy.
Từ “cá đâu” là cách hỏi vừa tạo nên sự mơ hồ trong không gian
vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ dường như mất cảm giác về không
gian thực tại mà chìm đắm trong không gian suy tưởng nên không thể xác định rõ
hướng gây ra tiếng động mặc dù đang ngồi trong một chiếc ao rất nhỏ.
Nhà thơ câu cá mà chẳng phải để bắt cá. Câu chỉ là cái cớ để
tìm sự thư thái trong tâm hồn. Trong lúc câu, thi nhân đã thâu tóm vào lòng những
vẻ đẹp tinh diệu của đường nét, màu sắc, hình khối, sự vận động tinh tế, trong
sáng của cảnh vật mùa thu. Cảnh thu tuy đẹp mà buồn, buồn vì quá quạnh quẽ, vắng
lặng, buồn vì người ngắm cảnh cũng đang chất chứa nỗi niềm thế sự của kẻ sĩ trước
cảnh vong quốc mà thân lại nhàn nhã.
Bài thơ Thu điếu không những thể hiện được cái hồn của cảnh thu mà còn đặc tả được nét đẹp mộc mạc giản dị của nông thôn đồng bằng Bắc bộ xưa. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Khuyến đã khơi gợi trong lòng người đọc những xúc cảm chân thành, trong sáng, tha thiết về cảnh sắc làng quê. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về tấm lòng nặng tình non nước và tài thơ Nôm độc đáo của thi nhân.
Bài thơ Thu điếu không những thể hiện được cái hồn của cảnh thu mà còn đặc tả được nét đẹp mộc mạc giản dị của nông thôn đồng bằng Bắc bộ xưa. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Khuyến đã khơi gợi trong lòng người đọc những xúc cảm chân thành, trong sáng, tha thiết về cảnh sắc làng quê. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về tấm lòng nặng tình non nước và tài thơ Nôm độc đáo của thi nhân.
Phân tích thứ 2:
Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam.
Thu thường mang đến cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một
cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không ai vô tình mà không nói đến cảnh
thu, tình thu khi đã là thi sĩ…Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều
đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời
nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu
trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và
cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm).
Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận xét về bài thơ Thu điếu
của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn hết,
nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh
Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu là điển hình hơn cả cho
mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?
Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ
cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mắt hướng thượng, khám
phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “ Trời thu xanh ngắt mấy tầng
cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiên rộng
rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một
ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn
Khuyến:
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"
Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại,
đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ
thường. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm
hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại
không bị giới hạn mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường
như làm cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng
trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ:
Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh
thiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần
nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm
cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao!Với hai câu mở đầu,
nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo
teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại.
Và rồi hình ảnh:
"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo"
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo"
Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng
vcái động của “lá vàng trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt
Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao
thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá
vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc”
nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với
nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong
gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không
gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên,
yêu cuộc sống thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm nhận được những âm
thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế! Như trên đã nói: mở đầu
bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị giới hạn mà đã mở rộng
không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:
Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa
thu. Những áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây
Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:
"Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng"
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng"
Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng
Nguyễn Khuyến lại trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh
tre truc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co…tất cả đều thân
thương vè nhuốm màu sắc thôn quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta
mới thấy được những nét quê tĩnh lặng, êm ả như vậy. Trời sang thu, không khí
giá lạnh, đường làng cũng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không
bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt đựơc
những nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào
những ngày giá lạnh:
"Những luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò"
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò"
Cùng với: Cành biếc run run chân ý nhi (Thu).
Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, những tưởng
sẽ không có bóng dáng của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đối với người đọc:
"Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo."
Cá đâu đớp động dưới chân bèo."
Hai câu thơ kết thúc đã góp phần bộc lộ đôi nét về chân dung
tác giả. Tôi nhớ không lầm dường như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần
lâu chẳng được”, “ôm” chứ không phải là “buông”. Theo Việt Nam tự điển thì
“buông” hay hơn, phù hợp với tính cách của nhà thơ hơn. Trong những ngày từ
quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú vui của nhà thơ nơi làng quê để
tiêu khiển trong công việc, để hoà mình vào thiên nhiên, mà quên đi những bận
lòng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”: thả lỏng, đi câu không cốt
để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), mà để giải trí, cho nên “ôm”
không phù hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” mang đến cho câu thơ hiệu quả nghệ thuật
cao hơn.
Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có những ao nhỏ, những “ngõ trúc quanh co”, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm say đắm lòng người. Thì ra mùa thu ở thôn quâ chẳng có gì là xa lạ, mùa thu ở thôn quê chính là cái hồn của cuộc sống, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa biểu hiện được cuộc sống ngây thơ nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo có tính chất vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được cảm tình của độc giả, đã đọc qua một lần thì khó mà quên được.
Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có những ao nhỏ, những “ngõ trúc quanh co”, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm say đắm lòng người. Thì ra mùa thu ở thôn quâ chẳng có gì là xa lạ, mùa thu ở thôn quê chính là cái hồn của cuộc sống, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa biểu hiện được cuộc sống ngây thơ nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo có tính chất vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được cảm tình của độc giả, đã đọc qua một lần thì khó mà quên được.
Phân tích thứ 3:
Mùa thu vốn là một chủ đề quen thuộc trong thơ ca Việt Nam.
Thu thường mang đến cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một
cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không ai vô tình mà không nói đến cảnh
thu, tình thu khi đã là thi sĩ…
Với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa
thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là mùa
thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt”
(Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phất
phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã
làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến,
Xuân Diệu có viết: “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận
bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử
tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh
Việt Nam”?
Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái
không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mát hướng thượng, khám phá
dần các tầng cao của mùa thu để thấy được:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”
thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh
thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ
gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng
quê của Nguyễn Khuyến:
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"
Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại,
đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ
thường. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm
hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại
không bị giới hạn mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường
như làm cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng
trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ:
Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh
thiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần
nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm
cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao!Với hai câu mở đầu,
nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo
teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại.
Và rồi hình ảnh:
"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo"
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo"
Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng
vcái động của “lá vàng trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt
Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao
thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá
vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc”
nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với
nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong
gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không
gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên,
yêu cuộc sống thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm nhận được những âm
thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế! Như trên đã nói: mở đầu
bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị giới hạn mà đã mở rộng
không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa
thu. Những áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây
Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:
"Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng"
"Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng"
Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng
Nguyễn Khuyến lại trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh
tre truc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co…tất cả đều thân
thương vè nhuốm màu sắc thôn quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta
mới thấy được những nét quê tĩnh lặng, êm ả như vậy. Trời sang thu, không khí
giá lạnh, đường làng cũng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không
bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt được
những nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào
những ngày giá lạnh:
"Những luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò"
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò"
Cùng với: Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)
Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, những tưởng
sẽ không có bóng dáng của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đối với người đọc:
"Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo."
Cá đâu đớp động dưới chân bèo."
Hai câu thơ kết thúc đã góp phần bộc lộ đôi nét về chân dung
tác giả. Tôi nhớ không lầm dường như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần
lâu chẳng được”, “ôm” chứ không phải là “buông”. Theo Việt Nam tự điển thì
“buông” hay hơn, phù hợp với tính cách của nhà thơ hơn. Trong những ngày từ
quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú vui của nhà thơ nơi làng quê để
tiêu khiển trong công việc, để hòa mình vào thiên nhiên, mà quên đi những bận
lòng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”: thả lỏng, đi câu không cốt
để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), mà để giải trí, cho nên “ôm”
không phù hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” mang đến cho câu thơ hiệu quả nghệ thuật
cao hơn.
Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà
thơ đối với thiên nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có những ao nhỏ, những “ngõ
trúc quanh co”, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm say đắm lòng người. Thì ra
mùa thu ở thôn quâ chẳng có gì là xa lạ, mùa thu ở thôn quê chính là cái hồn của
cuộc sống, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm
giác, vừa biểu hiện được cuộc sống ngây thơ nhất với sự việc sử dụng những âm
thanh rất trong trẻo có tính chất vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được cảm
tình của độc giả, đã đọc qua một lần thì khó mà quên được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét