Một lần về quê Nam Định, đến thắp hương viếng mộ Nhà
thơ Tú Xương trong công viên bên hồ Vị Xuyên, chúng tôi gặp mấy đoàn khách từ
miền Nam và miền Trung đang dâng hương trên mộ Cụ. Thật xúc động! Tôi chợt nhận
ra những bông hoa tươi và nhiều chân hương mới thắp trên phần mộ Thi nhân chắc
hẳn là tấm lòng của những người hâm mộ thơ trào phúng Tú Xương. Từ đó thôi thúc
tôi đi tìm hiểu vì sao thơ trào phúng Tú Xương lại có sức sống lâu bền đến vậy?
1. Thơ Đường luật trào phúng tạo nên danh tiếng thi sĩ
Tú Xương.
Như chúng ta đều biết Nhà thơ Tú Xương (1870-1907) từ
trần khi mới 37 tuổi nhưng những bài thơ Đường luật trào phúng của Cụ đã được
hậu thế đánh giá rất cao. Nhà thơ Tản Đà tâm sự với thi sĩ Xuân Diệu: "Trong
các thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương". Nhà văn Nguyễn Công
Hoan suy tôn Cụ là "Bậc thần thơ, thánh chữ". Nhà thơ Xuân Diệu
tặng Cụ câu thơ được nhiều người yêu thích:"Ông nghè, ông thám vô mây
khói/ Đứng lại văn chương một Tú tài"... Thơ của Cụ đã được đưa vào
giảng dạy trong nhà trường. Không ít các thế hệ người Việt Nam yêu thích thơ
trào phúng của Cụ, nhiều người đã thuộc, đặc biệt là các bài thơ: "Thương
vợ", "Chúc Tết", "Đêm buồn", "Mùa nực mặc áo
bông", "Khoa thi", "Chừa"... Người dân Nam Định tự hào
về Thi sĩ Tú Xương và miền văn hóa Non Côi- Sông Vị! Thơ trào phúng Tú
Xương đã góp phần làm giàu thêm kho tàng văn học Việt Nam với dòng thơ
trào phúng độc đáo mà sau này nhiều người nối tiếp, tiêu biểu là nhà thơ Tú Mỡ.
Nhà thơ Xuân Diệu xếp Tú Xương thứ 5 sau bốn thi hào dân tộc: Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm (Thơ Tú Xương- Vũ Hạnh Hiên tuyển
chọn).
Đường phố tại Sài Gòn, Nam Định và nhiều thành phố
khác ở nước ta đã được vinh danh mang tên Nhà thơ.
2. Thơ Đường luật trào phúng đã được Tú Xương sử dụng
như một công cụ sắc bén phản ánh hiện thực phê phán xã hội đương thời.
Cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX khi thực dân
Pháp chiếm xong các tỉnh phía Bắc nước ta, văn hóa phương Tây tràn vào, nền thi
cử Khoa bảng ngàn năm đứng trước sự thoái trào không thể cưỡng nổi. Chữ quốc
ngữ ra đời báo hiệu một nền văn hóa mới bắt đầu. Những phong tục, tập quán, đạo
đức xã hội phong kiến bao đời tồn tại ở nước ta đã và đang bị thách thức... Là
Khóa sinh, từ nhỏ được đào tạo theo con đường Khoa bảng, đã đỗ Tú tài Nho học,
lại "văn hay chữ tốt" nên Tú Xương rất thạo thơ Đường luật.
Thơ Tú Xương chủ yếu viết theo thể Đường luật bao gồm
thơ "thất ngôn bát cú" và thơ "tứ tuyệt". Thơ Đường luật là
thể thơ bác học, niêm luật chặt chẽ, ý tứ sâu xa các bậc trí thức đương thời
thường dùng xướng họa về những lĩnh vực cao sang của giới thượng lưu quyền quí.
Nhưng nhà thơ Tú Xương đã sử dụng thơ Đường thật tài tình khi viết về đời
thường với bao trăn trở, lo toan; những "thói đời" ngang trái, hợm
hĩnh, bất công... qua những vần thơ trào phúng, trữ tình. "Trâu mừng ruộng
nẻ cày không được/ Cá sợ ao khô vượt cả rồi" (Đại hạn); "Van
nợ lắm khi tràn nước mắt/ Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi" (Cái khó); "Một
tuồng rách rưới, con như bố/ Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng" (Mùa
nực mặc áo bông); "Nhà kia lỗi phép con khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ
chửi chồng" (Đất Vị Hoàng); "Kẻ yêu người ghét, hay gì chữ/
Đứa trọng thằng khinh chỉ vì tiền" (Thói đời)... đọc lên ta cảm thông
với nhà thơ và rộng ra là với người dân trong xã hội đương thời phải sống những
tháng năm khó khăn, cơ cực dưới hai tầng áp bức của thực dân Pháp và vua quan
nhà Nguyễn. Những câu thơ: "Xe kéo rợp trời quan Sứ đến/ Váy lê quyét
đất mụ đầm ra" (Khoa thi); "Hà Nam danh giá nhất ông cò/
trông thấy ai ai chẳng dám ho" (Ông cò);
"Tri huyện lâu nay giá rẻ mà/ Ví vào tay tớ quyết không tha" (Bỡn ông Phó bảng); "Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến/ Ông chỉ quen phê một chữ "tiền" (Bỡn Tri phủ Xuân Trường); "Sơ khảo phen này bác cử Nhu/ Thực là vừa dốt lại vừa ngu" (Ông cử Nhu); "Nghe văn mà gớm cho văn nhỉ/ Cờ biển Vua ban cũng lạ đời!" (Tiến sĩ mới)... khi đọc nghe phảng phất tiếng cười mỉa mai, chua chát thân phận của người dân mất nước và phê phán những thói hư, tật xấu, nhiễu nhương... trong xã hội đương thời. Bằng nghệ thuật thơ Đường, những cặp câu thực, câu luận đối nhau chan chát càng tăng chiều sâu và hiệu quả của tứ thơ tạo nên tiếng cười riêng có của mỗi bài.
"Tri huyện lâu nay giá rẻ mà/ Ví vào tay tớ quyết không tha" (Bỡn ông Phó bảng); "Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến/ Ông chỉ quen phê một chữ "tiền" (Bỡn Tri phủ Xuân Trường); "Sơ khảo phen này bác cử Nhu/ Thực là vừa dốt lại vừa ngu" (Ông cử Nhu); "Nghe văn mà gớm cho văn nhỉ/ Cờ biển Vua ban cũng lạ đời!" (Tiến sĩ mới)... khi đọc nghe phảng phất tiếng cười mỉa mai, chua chát thân phận của người dân mất nước và phê phán những thói hư, tật xấu, nhiễu nhương... trong xã hội đương thời. Bằng nghệ thuật thơ Đường, những cặp câu thực, câu luận đối nhau chan chát càng tăng chiều sâu và hiệu quả của tứ thơ tạo nên tiếng cười riêng có của mỗi bài.
3. Những sáng tạo từ ngữ độc đáo của Tú Xương góp phần
làm giàu ngôn ngữ tiếng Việt.
Nghiên cứu thơ Tú Xương điều đầu tiên chúng ta nhận
thấy công lao sáng tạo của Nhà thơ đã đưa nội dung trào phúng vào thơ Đường
luật thông qua những từ ngữ gần gũi với đời thường nên dễ hiểu, dễ nhớ, dễ
thuộc, có sức lan tỏa trong nhân dân. Văn thơ của Cụ nổi tiếng khắp vùng nhưng
Tú Xương không có duyên với thi cử, " học tài thi phận", tám lần đi
thi chỉ một lần đỗ Tú tài. Phải chăng đây là duyên nợ để Tú Xương trải lòng, sáng
tạo nên những bài Đường luật trào phúng " để Đời"? Trộm nghĩ, nếu Cụ
đỗ Đại khoa, chắc gì có được thi sĩ Tú Xương với những bài thơ trào phúng nổi
tiếng để lại cho hậu thế?
Về ngôn ngữ, thơ Tú Xương có những từ ngữ sáng tạo độc
đáo riêng có của Nhà thơ không lẫn vào đâu được, tạo nên thương hiệu Thơ Tú
Xương. Trong bài thơ Đêm buồn có 2 câu thơ độc đáo, được nhiều người
đọc các thế hệ tâm đắc:
Câu mở đề bài thơ Đi thi: "Tấp tểnh người
đi tớ cũng đi" hay câu: "Ông lão nhà quê tang tảng dậy" (Bài Mưa
tháng bảy)... có những từ láy đầy dụng ý tạo nên điểm nhấn của câu thơ.Một
số bài thơ Tú Xương sử dụng nghệ thuật tu từtạo nên sự khác lạ làm tăng khả
năng hấp dẫn của câu thơ: Bài thơ Cảm Tết có câu "Thôi thế
thì thôi đành Tết khác", hoặc câu kết bài Gái buôn "Chẳng
biết rằng dơ dáng dạng hình"...
Đọc thơ Tú Xương tôi rất thích hai câu đề của bài Than
cùng:
"Lúc túng toan lên bán cả Trời/ Trời cười:- Thằng bé nó hay chơi".
"Lúc túng toan lên bán cả Trời/ Trời cười:- Thằng bé nó hay chơi".
Đây thực sự là câu thơ trào phúng đặc sắc riêng
có của Tú Xương.Đọc câu thơ đầu ta liên tưởng đến các câu ngạn ngữ như:
"Đói ăn vụng, túng làm liều", "Bán Trời không văn tự" khi
nói về người nào đó túng bấn, làm liều, nói năng khoa trương, không thể tin
được. "Toan lên" tức là định lên, chưa lên. Khi đã túng bấn,
thiếu tiền thì luôn tính toán, cái gì cũng bán miễn là có tiền, đi đâu cũng đi,
kể cả "lên Trời" để thỏa cơn khát tiền? Câu sau vừa trữ tình, vừa
trào phúng: "Trời cười:- Thằng bé nó hay chơi". Đã là trẻ con
thì ai thèm chấp? Chắc trước khi nói "Trời" vừa lắc đầu,
vừa cười đầy thông cảm. Và người đọc không thể nhịn cười khi "nghe"
câu hài hước của Trời.
Còn nhiều, rất nhiều những câu thơ hay, những từ ngữ
lạ đầy sáng tạo, ngẫu hứng và trữ tình trong 170 bài thơ của Tú Xương mà tôi đã
đọc. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên bậc Túc Nho danh tiếng như Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu sau khi đọc thơ cụ Tú Vị Xuyên đã thốt lên:"Trong các thi sĩ
tiền bối, phục nhất Tú Xương" (Lời Xuân Diệu). Tôi tâm đắc ý
kiến Nhà văn Nguyễn Khôi:"Về nghệ thuật thơ ca, Tú Xương đã đưa những ngôn
ngữ đời thường (dân gian) vùng quê Nam Định - rộng ra là vùng đồng bằng sông
Hồng...vào văn chương bác học (thơ Đường luật) tạo nên một giọng điệu thơ
riêng,với hình tượng thơ rất sống động thành "thương hiệu thơ Tú Xương
"bất hủ cùng non sông Tổ Quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta".
Ngày 29 tháng 01 năm 2017 kỷ niệm 110 năm Thi sĩ Tú
Xương từ trần. Bài viết như một "nén hương tâm" tưởng niệm Nhà
thơ Trần Tế Xương- Niềm tự hào của quê hương Nam Định với Non Côi- Sông Vị mến
yêu!
Hà
Nội, cuối Thu 2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét