Cô em gái chuẩn bị cho hội trường kỷ niệm 100 năm Đồng Khánh
- Hai Bà Trưng tháng 3 vừa rồi bằng việc tìm may chiếc áo dài. Em bảo, bạn bè dặn
dò nhau kỹ lưỡng rồi, về với ngày hội trường là phải mặc áo dài.
Em tôi tuổi mới ngoài 40, học Trường cấp 3 Hai Bà Trưng sau
ngày nước nhà thống nhất. Lúc đó không như Đồng Khánh năm nào, học trò không
còn mặc áo dài đến trường, những hình ảnh học sinh của trường gắn liền với chiếc
áo dài màu tím Huế đã như một cái gì đó thật ngọt ngào, thấm sâu trong em và
các bạn đồng lứa. Huế vào dịp kỷ niệm 100 Đồng Khánh - Hai Bà Trưng ngập tràn
những tà áo dài của những mệ, những cô, những em, những bé... Áo dài tím, áo
dài xanh, áo dài trắng học trò một thời tung bay như sống lại trong ngày hội
trường Đồng Khánh.
Em tôi mặc áo dài trong ngày lễ hội. Khác với cách nay hơn nửa
thế kỷ, áo dài là trang phục hàng ngày của ngoại. Không chỉ phải ra ngoài như
đi chợ, mà ở nhà cũng thấy ngoại mặc. Chiếc áo dài trông thật cũ kỹ. Còn bình
thường không thấy mẹ mặc áo dài. Mẹ chỉ dành cho khi nào có công chuyện. Kỵ chạp,
thăm viếng hay tang gia, mẹ mặc chiếc áo dài cũ, màu nâu sẫm hay xanh lam. Dịp
cưới xin mẹ mới diện áo dài đẹp và ngắm nghía thật nhiều. Đó là chiếc áo dài mới
may xong mẹ đã cất kỹ, có khi suốt cả năm trời. Đem ra mặc xong việc lại treo cất
cẩn thận. Mặc chiếc áo đẹp, đánh ít phấn son lại mang thêm các đồ trang sức, mẹ
trông lạ hẳn.
Thế kỷ 17, từ thủ phủ Phú Xuân, Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban
hành sắc dụ về ăn mặc cho dân chúng xứ Đàng Trong. Lần đầu tiên chiếc áo dài Việt
Nam được định hình và đó là chiếc áo giao lãnh bốn vạt. Để tiện hơn cho việc đồng
áng, buôn bán vất vả, từ chiếc áo bốn vạt kia, người xưa chế ra kiểu áo tứ thân
gọn ghẽ. Phụ nữ thành thị ít phải lao động nên thường mặc áo ngũ thân để phân
biệt với tầng lớp lao động. Sang thế kỷ 20, chiếc áo dài liên tục có những cách
tân, chuyển từ Le Mur (1939) sang chiếc áo dài tay Raglan, từ áo dài bà Nhu
(1960) sang áo dài chít eo - áo dài mini (1960 - 1970) và cho đến nay là chiếc
áo dài với nhiều kiểu dáng và chất liệu đầy sáng tạo. Ít có trang phục nào ở Việt
Nam lại có những biến đổi như chiếc áo dài. Và, dù nhiều thay đổi, chiếc áo dài
vẫn giữ được sự chuẩn mực, vừa kín đáo, lại vừa tôn lên dáng vẻ mềm mại của người
phụ nữ Việt Nam.
Lần đầu tiên được tổ chức vào Festival Huế 2002, Huế tự hào
là nơi đầu tiên có lễ hội áo dài. Từ đó đến nay, liên tục và đều đặn các lễ hội
áo dài được khai diễn. Cuối tháng 5/2017, triển lãm nhiếp ảnh nghệ thuật “Áo
dài - Nét đẹp Huế” được tổ chức. Hình ảnh thiếu nữ và tà áo dài nổi bật trên nền
khung cảnh thành quách, đền đài, cung điện, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch
cho thấy sự gắn bó và gần gũi lạ thường để cùng tạo nên một vẻ đẹp rất riêng và
rất Huế. Không chỉ là nơi ghi dấu về sự ra đời, hình ảnh phụ nữ Huế với chiếc
áo dài thướt tha mà Đồng Khánh - Hai Bà Trưng là tiêu biểu, đã là một biểu tượng
cho sắc đẹp Việt Nam.
Cô nữ sinh Đồng Khánh Nguyễn Khoa Diệu Huyền từng bày tỏ, nên
làm cách nào đó để phát huy được cái hồn Huế qua hình ảnh chiếc áo dài. Cô mơ ước,
có những ngày phụ nữ Huế cùng mặc áo dài ở khắp phố phường. Với các lễ hội áo
dài trong những dịp Festival Huế, các triển lãm như “Áo dài - nét đẹp Huế’ hay
hội trường 100 năm Đồng Khánh - Hai Bà Trưng, người Huế đã biết cách tôn vinh vẻ
đẹp phụ nữ Huế gắn với tà áo dài huyền diệu. Còn hình ảnh “Những tà áo dài tung
bay trên phố”, sẽ giúp Huế trở nên hấp dẫn hơn và thu hút được ngày càng nhiều
hơn những du khách - điều mà Huế đang rất cần trong hội nhập và phát triển hôm
nay.
ĐAN DUY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét