Ðôi lời giới thiệu về tác giả.
JON KABAT-ZINN là sáng lập viên cũng như giám đốc của Stress
Reduction Clinic tại University of Massachusetts Medical Center, và cũng là
giáo sư diễn giảng Y khoa trong ngành Preventive and Behavioral Medicine. Lãnh
vực chuyên môn của ông là nghiên cứu về sự ảnh hưởng của thân và tâm trong việc
chữa bệnh, cũng như sự áp dụng của thiền tập và chánh niệm vào đời sống hằng
ngày.
Trong quyển sách này, tác giả giúp mở những cánh cửa đơn sơ để
ta bước vào và tiếp xúc với bản chất của thiền tập chánh niệm, cũng như những
áp dụng cụ thể của nó trong cuộc sống hằng ngày. Và cùng một lúc, quyển sách
này cũng cung cấp cho những ai đã và đang thực tập thiền quán, muốn mở rộng,
đào sâu và củng cố ước vọng muốn sống một cuộc đời tỉnh thức và minh triết. Nơi
đây, trong những chương ngắn, tác giả đặt trọng tâm vào tinh thần của chánh niệm,
trong cả hai lãnh vực: sự tu tập nghiêm túc theo quy cũ và sự cố gắng đem
phương pháp thực tập áp dụng vào mọi phương diện.
LỜI MỞ
Bạn có biết không? Nói cho cùng thì bất cứ một nơi nào bạn đến
cũng sẽ là bây giờ và ở đây mà thôi. Trong giờ phút này bạn đang bận bịu với những
vấn đề gì, thì chúng cũng đã là những việc bạn đã bận bịu trong quá khứ. Những
gì bạn đang suy nghĩ ngay bây giờ là những gì đang ở trong tâm bạn. Bất cứ việc
gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Câu hỏi quan trọng là ta sẽ xử sự với chúng như
thế nào. Nói một cách khác: "Bây giờ sao đây?"
Dù muốn dù không, ta chỉ duy có mỗi giây phút hiện tại này để
sống mà thôi. Tuy vậy, ta lại cứ sống trong quên lãng, không nhớ rằng mình đang
ở nơi đây, nơi ta đang có mặt, và đang sống trong hoàn cảnh ta đã có. Trong mỗi
giây phút, chúng ta bắt gặp mình đứng trước một ngã tư đường của bây giờ và ở
đây. Nhưng khi đám mây mờ của sự quên lãng che phủ giây phút hiện tại, chúng ta
bị lạc lối. Và lúc ấy "Bây giờ sao đây?" thật sự trở thành một vấn đề.
Bị lạc lối, ở đây tôi muốn nói là khi ta tạm thời không còn
tiếp xúc được với chính mình, cũng như với tất cả những tiềm năng của mình.
Thay vì vậy, chúng ta lại bị rơi vào một trạng thái hành xử, quan sát và suy
nghĩ như một người máy. Trong những giây phút ấy, ta cắt đứt sự liên lạc của
mình với những gì sâu kín nhất trong nội tâm, mà chúng có thể đem lại cho ta những
cơ hội rất lớn cho sự sáng tạo, học hỏi và phát triển. Và nếu không cẩn thận,
những giây phút mờ mịt ấy có thể kéo dài ra và trở thành cuộc đời của
mình.
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì,
chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm
sâu vào và lắng đọng xuống, lâu đủ để ta có thể thật sự cảm giác được giây phút
hiện tại, thấy được nó một cách toàn vẹn, giữ nó trong tâm, để ta có thể biết
và hiểu rõ ràng hơn. Chỉ chừng ấy, ta mới có thể chấp nhận được sự thật của
giây phút này trong cuộc sống, để được học từ nó và rồi tiếp tục. Nhưng thay vì
vậy, chúng ta thường bị ám ảnh bởi một quá khứ đã qua rồi hoặc một tương lai
chưa tới. Chúng ta luôn đi tìm ở một nơi nào khác, với hy vọng rằng ở nơi đó mọi
việc sẽ được tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, sẽ giống như ý ta muốn, hoặc sẽ được lại
như xưa. Nhưng hầu hết chúng ta chỉ ý thức được một phần rất nhỏ của sự dằn co
này, nếu ta có ý thức được chúng. Hơn nữa, chúng ta cũng chỉ có một ý thức nhỏ
nhoi về những gì mình đang làm trong và đối với cuộc sống này, cũng như ảnh hưởng
của chúng. Và tinh tế hơn nữa là ảnh hưởng của những ý nghĩ của ta trên những
gì mình thấy và không thấy, những gì ta làm và không làm.
Ví dụ, chúng ta thường bị kẹt, một cách vô ý thức, vào sự giả
định cho rằng những gì mình nghĩ - tư tưởng, ý kiến ta hằng nuôi dưỡng - là một
chân lý tuyệt đối về những gì đang xảy ra ngoài kia cũng như ở trong tâm ta. Mà
sự thật thì không bao giờ như vậy.
Chúng ta đã trả một giá rất đắt cho sự sai lầm cũng như cho
cái giả định vô căn cứ ấy, khi ta đã cố ý xem thường tính cách nhiệm mầu của
giây phút hiện tại. Hậu quả của chúng đã được tích lũy trong lặng lẽ và tô màu
cho cuộc sống, trong khi chúng ta không hề hay biết hoặc có thể làm gì khác hơn
được. Và có lẽ chúng ta cũng sẽ không bao giờ thật sự được là mình, không bao
giờ có thể tiếp xúc được với tất cả những tiềm năng trong ta. Vì chúng ta thường
hay tự khó chặt mình trong một ảo tuởng, rằng ta đã biết mình là ai, ta biết
mình đang ở đâu và đang đi về đâu, rằng ta biết việc gì đang xảy ra. Trong khi
sự thật ta đang bị liệm kín trong những ý nghĩ, mơ mộng, và những sự thúc đẩy,
phần nhiều là về quá khứ hoặc tương lai, về những gì ta ưa thích hoặc ghét bỏ,
chúng quay tít mù, che lấp kín con đường chúng ta đi và ngay cả mảnh đất ta
đang đứng.
Quyển sách bạn đang cầm trên tay, đây là nói về một sự tỉnh
thức dậy từ những giấc mơ ấy, nhiều khi chúng lại trở thành những ác mộng.
Không ý thức được rằng mình đang sống trong mộng, đạo Phật gọi đó là vô minh,
hoặc thất niệm. Và ý thức được sự không biết đó, ta gọi là chánh niệm. Công phu
đánh thức mình dậy từ những giấc mơ ấy chính là Thiền tập, một phương pháp thực
tập có hệ thống, giúp ta phát triển sự tỉnh thức, một khả năng ý thức được giây
phút hiện tại. Sự tỉnh thức này đi song đôi với tuệ giác, tức một cái thấy sâu
sắc về nhân và quả, về tính cách liên hệ mật thiết của mọi vật với nhau, nó
giúp ta không còn bị kẹt trong một thực tại ảo tưởng về những tạo vật do chính
mình dựng lên. Muốn tìm được con đường đi cho mình, ta cần phải biết chú ý hơn
đến giây phút hiện tại này. Ta chỉ có mỗi một giây phút này để sống, để phát
triển, để cảm nhận và để thay đổi. Chúng ta cần phải trở nên thật cẩn thận và đề
phòng sự lôi kéo rất mãnh liệt của hai hấp lực quá khứ và tương lai, cũng như
cái thế giới mộng tưởng chúng dâng tặng ta trong cuộc sống.
Khi nói đến Thiền tập, điều quan trọng là bạn nên biết rằng
đây không phải là một việc làm nào lạ kỳ hoặc bí ẩn hết, Nó không có nghĩa là bắt
ta phải trở thành một người lạnh lùng, xa lạ, lãnh đạm, cuồng tín, huyền bí hoặc
làm một triết gia. Thiền tập chỉ đơn giản có nghĩa là làm chính mình và thật sự
biết được một chút gì về con người ấy. Ðây là một ý thức rằng ta đang đi trên một
con đường, cho dù mình có ưa thích hay không, và con đường ấy chính là cuộc đời
của ta. Thiền tập có thể giúp ta thấy được con đường mà ta gọi là cuộc đời này
nó có một phương hướng, luôn luôn khai mở trong từng giây phút một, và những gì
đang xảy ra bây giờ sẽ ảnh hưởng đến những gì xảy ra kế tiếp.
Và nếu việc xảy ra trong giây phút này sẽ có tác dụng đến việc
xảy ra trong giây phút kế, thỉnh thoảng ta cũng nên nhìn lại chung quanh mình một
chút, để có thể tiếp xúc với chúng sâu sắc hơn, và từ đó có được một nhận thức
rõ ràng về con đường cũng như phương hướng chúng ta đang theo, như vậy thì có
hay hơn không? Ðược như vậy, có lẽ ta sẽ có được một vị thế tốt đẹp hơn để có
thể tự định cho mình một con đường nào thật sự thích hợp - một con đường tâm
linh, một con đường của tình thương, một con đường của chính ta. Bằng không, sự
thúc đẩy, xung lực của sự vô ý thức trong giây phút này sẽ quyết định cho giây
phút kế. Những ngày, tháng, năm của ta sẽ trôi qua như chiếc bóng mờ của một
con ngựa thoáng bên ngoài cửa sổ, thời gian ấy ta không hề biết tới và cũng
không dùng đến.
Chúng ta rất dễ rơi thẳng vào một con dốc trơn bị sương mù
che kín, dẫn ngay vào huyệt mộ của mình. Hoặc là một giây phút tỉnh táo nào đó
vào lúc cuối đời trên giường bệnh, ta chợt tỉnh thức dậy và hiểu rằng những gì
mình tưởng là quan trọng, là lối sống trong những năm qua, thật ra chỉ là một
phần nhỏ của sự thật dựa trên sự sợ hãi và vô minh, chúng chỉ là những ý niệm
giới hạn của ta về sự sống, chứ không hề là chân lý hoặc thật sự là một con đường
sống.
Không một ai có thể làm công việc đánh thức dùm ta được, mặc dù
đôi khi gia đình, bè bạn cũng đã cố gắng hết sức để truyền thông với ta, giúp
ta thấy sáng suốt hơn cũng như phá tan sự mù tối của mình. Nhưng cuối cùng thì
sự tỉnh thức là việc của mỗi chúng ta chỉ có thể làm cho chính mình. Chung quy
lại thì bất cứ nơi nào ta đến, chỉ có thể là bây giờ và ở đây. Ðó chính là cuộc
sống của chính ta đang khai mở.
Trọn cuộc đời, đức Phật đã đi truyền dạy một giáo lý sống tỉnh
thức. Có lẽ đức Phật cũng có những hàng đệ tử lúc nào cũng mong ngài giúp họ đễ
dàng tìm được một con đường cho họ. Vào lúc cuối đời, đức Phật cũng đã tóm tắt
lại một lời này cho các đệ tử của ngài: "Các con hãy tự thắp đuốc lên mà
đi".
Chánh niệm là một thực tập có liên quan đến sự chú ý và tỉnh
thức, đó là những nhân tính rất phổ thông của loài người. Nhưng trong xã hội
này, chúng ta lại hay xem thường những khả năng ấy, không nghĩ đến chuyện phát
triển chúng một cách có hệ thống để phục vụ cho sự tự hiểu cũng như tuệ giác của
chúng ta. Thiền tập là một quá trình giúp ta làm sâu sắc thêm sự chú ý cũng như
chánh niệm của mình, tôi luyện chúng và đem áp dụng vào những sự việc cụ thể
trong đời sống hàng ngày.
Mục đích của quyển sách này là để mời gọi đọc giả ý thức rằng,
qua các kinh nghiệm trực tiếp bằng sự chú ý đến những việc đa số chúng ta thường
bỏ qua, có một lý do thật sự để chúng ta đem sự thực tập chánh niệm thể nhập
vào cơ cấu đời sống của mình.
Nhưng không phải tôi nói rằng chánh niệm là một liều thuốc
tiên có công năng, chữa trị bá bệnh, giải quyết hết mọi khó khăn của cuộc sống.
Không hề là vậy. Tôi không biết là thật sự có một giải pháp kỳ diệu nào không,
thật sự tôi cũng không muốn đi tìm. Một cuộc sống toàn vẹn phải được vẽ bằng những
đường nét rộng lớn. Có nhiều con đường dẫn đến sự hiểu biết và tuệ giác. Mỗi
người chúng ta có những nhu cầu riêng cần được xử lý và đeo đuổi trong cuộc
hành trình của đời mình. Mỗi người chúng ta phải tự vạch lấy con đường đi và nó
phải thích hợp với sự sẵn sàng của chính mình.
Lẽ dĩ nhiên bạn phải sẵn sàng cho sự thực tập thiền quán. Bạn
phải biết đến với nó vào đúng lúc trong đời mình, ở một thời điểm bạn đã sẵn
sàng biết thật sự lắng nghe giọng nói, con tim và hơi thở của mình - biết có mặt
với chúng, không cần phải đi đâu hoặc cải tiến hay thay đổi bất cứ một việc gì
hết. Nó là một công phu tu tập.
Quyển sách này mở những cánh cửa đơn sơ để giúp ta bước vào
và tiếp xúc với bản chất của thiền tập chánh niệm, cũng như những ứng dụng cụ
thể của nó. Nó đặc biệt giúp ích cho những ai cảm thấy không thích hợp với những
chương trình được ấn định có quy củ, không bị thích trực tiếp hướng dẫn, nhưng
tò mò muốn tìm hiểu về chánh niệm và sự áp dụng của nó. Trong sách, tôi thỉnh
thoảng có đóng góp những lời nhắn nhủ và gợi ý cho sự thực tập.
Và cùng một lúc, quyển sách này cũng cung cấp cho những ai đã
và đang thực tập thiền quán, muốn mở rộng, đào sâu và củng cố ước vọng muốn sống
một cuộc đời tỉnh thức và minh triết. Nơi đây, trong những chương ngắn, tôi đặt
trong tâm vào tinh thần của chánh niệm, trong cả hai lãnh vực: sự tu tập nghiêm
túc theo quy củ và sự cố gắng đem phương pháp thực tập áp dụng vào mọi phương
diện của cuộc sống. Mỗi chương là một cái nhìn lướt qua trên một mặt nhỏ của
viên kim cương chánh niệm có muôn ngàn mặt. Ðôi khi chúng có vẻ tương tự như
nhau, nhưng mỗi mặt đều có một nét đặc thù và hoàn cảnh khác biệt.
Sự khám phá viên kim cương của chánh niệm này được dâng tặng
cho những ai muốn tìm cho mình một con đường đi đến sự giải thoát và minh triết
trong đời sống. Nó chỉ đòi hỏi một sự cương quyết, muốn nhìn sâu sắc vào giây
phút hiện tại, cho dù đó là bất cứ một hoàn cảnh gì, với lòng từ ái đối với
chính mình, và sự cởi mở đối với những gì có thể xảy ra.
Phần Một giới thiệu lý do căn bản và nền tảng của việc thực tập
cũng như phát huy chánh niệm trong đời sống cá nhân. Nó thách thức đọc giả hãy
kinh nghiệm, thử áp dụng chánh niệm vào đời sống của mình qua nhiều phương cách
khác nhau. Phần Hai giới thiệu một vài phương diện căn bản của một sự tu tập
nghiêm túc. Tu tập nghiêm túc ở đây nói về những khi ta bỏ ra một thời gian nhất
định, khi ta ngưng hết mọi sinh hoạt thường ngày với mục đích thực hành những
phương pháp thiền tập để phát huy chánh niệm và định lực. Nhiều chương trong Phần
Ba của quyển sách được chấm dứt bằng những bài thực tập, chúng gợi ý cho đọc giả
những phương cách đem ứng dụng chánh niệm vào đời sống hằng ngày.
PHẦN MỘT
SỰ NHIỆM MẦU CỦA GIÂY PHÚT HIỆN TẠI
1.- CHÁNH NIỆM LÀ GÌ?
Chánh niệm là một phương pháp tu tập cổ truyền trong đạo Phật,
vẫn còn rất thích hợp đến đời sống hiện tại của chúng ta ngày nay. Sự thích hợp
ấy tự nó không dính dáng gì đến đạo Phật, hoặc việc trở thành một Phật tử,
nhưng nó là sự tỉnh thức dậy, biết sống hòa hợp với chính mình và thế giới
chung quanh. Chánh niệm có nghĩa là ta biết tự nhìn lại mình, quan niệm sống của
mình, và ý thức được tính chất toàn vẹn của mỗi giây, mỗi phút trong cuộc sống.
Và trên hết, chánh niệm có nghĩa là tiếp xúc được với thực tại, những gì đang xảy
ra chung quanh ta.
Theo quan điểm của Phật giáo, thì trạng thái tỉnh thức của một
người bình thường rất có giới hạn và đang bị giới hạn. Nói chính xác hơn thì trạng
thái ấy giống như của một người nằm mộng hơn của một người tỉnh thức. Thiền tập
sẽ giúp đánh thức ta dậy từ một giấc ngủ mê của những tập quán hành động máy
móc vô ý thức. Và từ đó ta mới có thể thật sự sống, và có thể xử dụng được hết
mọi khả năng của ý thức cũng như trong tiềm thức của mình. Những bậc thánh
nhân, các nhà Yoga, những vị thiền sư đã thám hiểm và thăm dò lãnh thổ này từ
hàng mấy nghìn năm nay. Và trong tiến trình ấy, họ đã học được những điều có thể
đem lại lợi ích lớn lao cho chúng ta, nhất là những người sống ở Tây phương,
giúp họ làm quân bình lại một nền văn hóa lúc nào cũng muốn chiếm hữu, kiểm
soát thiên nhiên, thay vì ý thức được rằng ta cũng là một phần rất thân thiết đối
với chúng. Kinh nghiệm của những bậc thánh nhân dạy rằng, khi ta biết quay vào
trong và tự quán sát mình cho sâu sắc, bằng những phương pháp có hệ thống rõ
ràng , chúng ta có thể sống một cuộc đời hòa hợp hơn, hạnh phúc hơn và với nhiều
tuệ giác hơn. Nó cũng sẽ đem lại cho ta một cái nhìn mới về thế giới chung
quanh, có thể bổ sung cho những quan niệm duy vật hạn hẹp đang chi phối tư tưởng
và tập tục của chúng ta, nhất là những người Tây phương. Nhưng quan điểm mới
này không nhất thiết là của riêng gì Ðông phương hoặc là một triết lý nào huyền
bí cả. Ông Thoreau cũng đã nhìn thấy rất rõ vấn đề này, ở New England vào năm
1846 và ông đã viết về hậu quả nguy hại của nó với một cảm xúc rất mạnh mẽ.
Trong đạo Phật, chánh niệm còn được gọi là trái tim của thiền
quán. Trên căn bản thì chánh niệm là một ý niệm hết sức đơn giản. Sức mạnh của
chánh niệm nằm ở chỗ ta biết thực hành và áp dụng nó. Chánh niệm có nghĩa là
chú ý theo một đường lối đặc biệt: có mục đích, ở trong giây phút hiện tại và
không phán xét. Sự chú ý này sẽ nuôi dưỡng một ý thức rộng lớn, sáng tỏ và biết
chấp nhận thực tại. Chánh niệm đánh thức ta dậy để nhận thấy sự thật rằng sự sống
của ta chỉ có mặt trong giây phút hiện tại này mà thôi. Nếu chúng ta không có mặt
trọn vẹn trong những giây phút ấy, ta không những bỏ qua những gì quý báu nhất
trong đời mình, mà còn không thể nhận diện được sự giàu có và thâm sâu của những
cơ hội có thể giúp ta trưởng thành và chuyển hóa.
Nếu ta thiếu chánh niệm trong giờ phút hiện tại, những thói
quen và tập quán vô ý thức sẽ có thể tạo nên nhiều vấn đề khác nữa, thường thường
chúng bị thúc đẩy bởi một sự sợ hãi và bất an sâu xa trong ta. Những vấn đề này
sẽ tích tụ qua thời gian, nếu lâu ngày không được chăm sóc, chúng có thể gây
cho ta một cảm giác bị mắc kẹt và xa lìa thực tại. Và cuối cùng, ta có thể sẽ
đánh mất đi niềm tin vào khả năng giải thoát của chính mình.
Chánh niệm là một phương pháp tu tập giản dị nhưng có một
năng lực vô song, có thể giúp ta thoát ra và tiếp xúc lại được với tuệ giác và
sự sống của mình. Ðây cũng là một phương cách giúp ta làm chủ lại được đường hướng
và phẩm chất của đời mình, trong đó có những mối tương quan của ta trong gia
đình, ngoài xã hội, rộng hơn nữa là với thế giới và trái đất này, và căn bản
hơn hết là với chính ta, như một con người.
Cây chìa khóa của con đường giải thoát này có gốc rễ nằm
trong đạo Phật, đạo Lão và Yoga, nhưng ta cũng có tìm thấy nó trong các công
trình của những người Tây phương như Emerson, Thoreau và Whitman, và trong tuệ
giác của người Da Ðỏ nữa. Ðó chính là sự ý thức được tính chất quý báu của giây
phút hiện tại và nuôi dưỡng một mối liên hệ mật thiết với thực tại bằng một sự
chú ý liên tục và thận trọng. Thái độ ấy hoàn toàn khác hẳn với những khi ta
xem cuộc sống này như là một cái gì rất bình thường và đương nhiên!
Thói quen đem hy sinh giây phút hiện tại này cho một sự kiện
nào đó chưa xảy ra, đẩy ta thẳng vào thế giới của thất niệm, và từ đó ta không
còn ý thức được màn lưới chằn chịt nối liền mọi sự sống với nhau nữa. Sự thất
niệm ấy gồm có việc thiếu ý thức và thiếu hiểu biết về chính bản tâm ta, và ảnh
hưởng của nó trên nhận thức và hành động của ta. Vì vậy sự sống của ta, mối
tương quan với người khác, và với thế giới chung quanh, đã trở nên vô cùng giới
hạn. Xưa nay, người ta vẫn thường cho rằng, những vấn đề căn bản ấy là thuộc
lãnh vực tôn giáo, nằm trong một khuôn khổ tâm linh. Nhưng thật ra chánh niệm
không có dính dáng gì đến tôn giáo hết, ngoại trừ trong ý nghĩa cơ bản của danh
từ ấy, như là một phương tiện để tiếp xúc với sự huyền nhiệm của sự sống, và ý
thức được rằng ta có một mối liên hệ rất mật thiết với hiện hữu chung quanh
ta.
Khi ta biết chú ý một cách cởi mở, không để bị chi phối bởi sự
ưa thích, ghét bỏ của mình, cũng như những ý kiến, phê bình, xu hướng và mong ước,
thì sẽ có những cơ hội mới xuất hiện và chúng có thể giúp ta thoát ra khỏi được
sự trói buộc của vô thức trong ta.
Ðối với tôi thì chánh niệm là một nghệ thuật sống tỉnh thức.
Bạn không cần phải là một Phật tử hay một nhà Yoga mới có thể thực tập chánh niệm.
Thật ra trong Phật giáo, điểm quan trọng nhất là ta phải biết trở về với chính
mình, chứ không nên cố gắng trở thành một cái gì khác hơn là mình. Ðạo Phật dạy
cho ta biết tiếp xúc với tự tánh của ta và để cho nó hiển lộ ra một cách không
ngăn ngại. Có nghĩa là ta phải tỉnh thức dậy và nhìn thấy sự vật như chúng thật
sự như vậy. Thật ra chữ Buddha, Phật, có nghĩa là một người tỉnh thức, một người
đã thấy được tự tánh của mình.
Vì vậy, sự thực tập chánh niệm không hề xung đột với bất cứ một
tín ngưỡng hay một truyền thống nào khác - cho dù đó là tôn giáo hoặc khoa học
- và nó cũng không đòi hỏi ta phải tin vào một hệ thống tư tưởng hoặc một chủ
nghĩa nào hết. Chánh niệm chỉ đơn giản là một phương pháp cụ thể giúp ta tiếp
xúc được với chính mình một cách trọn vẹn hơn, qua một quá trình tự quán chiếu,
tự xét soi và hành động có ý thức. Quá trình ấy không có gì là lạnh lùng, khô
khan và vô tâm hết. Thật ra nền tảng của chánh niệm phải là lòng từ ái, hiểu biết
và nuôi dưỡng. Bạn cũng có thể nghĩ đến chánh niệm như là một lòng nhân từ.
- Có một người học trò nói rằng: "Khi tôi là một Phật tử
thì cha mẹ, bạn bè tôi ai cũng cũng lấy làm khó chịu. Thế nhưng khi tôi là một
vị Phật, thì mọi nguời đều hạnh phúc".
2.- GIẢN DỊ NHƯNG KHÔNG DỄ.
Mặc dù phương pháp tu tập chánh niệm có thể rất là đơn giản,
nhưng nó không có nghĩa là dễ dàng. Sự thực tập chánh niệm đòi hỏi một nỗ lực
và một kỷ luật khá hơn. Việc ấy cũng dễ hiểu, vì chúng ta phải đương đầu với một
năng lực thất niệm rất mãnh liệt, tức những tập quán và thói quen vô ý thức của
ta. Những năng lực ấy rất là mạnh, chúng phát xuất từ nội tâm ta, đôi khi chúng
ta cần một sự cương quyết cũng như cố gắng chỉ để duy trì sự tu tập của mình,
cũng như để bắt giữ được giây phút hiện tại. Nhưng việc làm ấy rất là thỏa mãn,
vì nó giúp ta tiếp xúc được với những khía cạnh mới của sự sống mà ta đã đánh mất
vì không chịu nhìn thấy.
Việc làm ấy cũng rất là khai ngộ và giải thoát. Khai ngộ là
vì nó giúp ta nhìn thấy sự vật được rõ rệt, và từ đó ta sẽ có thể hiểu biết được
sâu sắc những khía cạnh khác trong cuộc sống, mà ta đã vì cách biệt hoặc vì
không muốn nhìn tới. Việc ấy cũng có nghĩa là ta sẽ phải tiếp xúc với những cảm
xúc sâu kín của mình - như là khổ đau, tổn thương, giận dữ và sợ hãi - mà chúng
ta đã thường tìm cách trốn tránh hoặc đã không bao giờ cho phép chúng được biểu
lộ ra. Và chánh niệm cũng sẽ giúp ta được thật sự sống với những cảm xúc như là
vui sướng, an lạc và hạnh phúc, mà nhiều khi chúng chỉ trôi thoáng qua trong cuộc
đời vì ta thiếu ý thức. Chánh niệm có tính cách giải thoát vì nó giúp ta thật sự
sống với chính mình và với những gì đang xảy ra chung quanh ta. Nó đem ta ra khỏi
chiếc hố sâu mù mịt của thất niệm. Ngoài ra, chánh niệm còn có thể gia quyền
cho ta nữa, ban cho ta sức mạnh, vì nó giúp ta khai mở được nguồn năng lượng
tích trữ của sự sáng tạo, trí thông minh, tưởng tượng, sự cương quyết, biết chọn
lựa và một tuệ giác tiềm ẩn trong ta.
Chúng ta thường có một khuynh hướng đặc biệt là không ý thức
được rằng mình lúc nào cũng đang suy nghĩ. Dòng tư tưởng lúc nào cũng trôi chảy
không ngừng nghĩ, trong tâm ta không bao giờ có một giây phút tĩnh lặng. Chúng
ta không còn có một khoảng không gian nào để cho mình yên nghỉ, để thôi đeo đuổi
hết việc này đến việc khác. Và những hành động của ta phần nhiều, thay vì được
chánh niệm soi sáng, thì lại bi sai xử bởi những ý nghĩ và sự thúc đẩy rất tầm
thường, chúng đi ngang qua tâm ta như một dòng sông cuồn cuộn chảy, nếu không
phải là một dòng thác lũ. Và cuộc đời ta bị dòng nước lớn ấy tràn ngập, lôi cuốn
ta về một nơi mà mình không muốn, và chắc chắn có lẽ cũng không biết là sẽ đi về
đâu.
Thiền tập có nghĩa là ta học phương pháp thoát ra dòng nước
lũ ấy, để ta có thể ngồi lại bên bờ, lắng nghe nó, học hỏi nó, để rồi xử dụng
năng lượng ấy theo ý ta, thay vì bị nó khống chế và áp đảo. Nhưng quá trình ấy
không phải là tự nhiên xảy ra được. Nó đòi hỏi một sự cố gắng, một công phu. Và
chúng ta gọi sự cố gắng để phát triển khả năng sống trong hiện tại ấy là tu tập
hoặc thiền tập.
Hỏi: Làm sao con có thể sửa đổi được một vấn đề khó khăn, khi
nó hoàn toàn nằm dưới phần ý thức của con?
Nisargadatta: Bằng sự sống thực với mình... bằng cách tự quán
sát mình trong đời sống hằng ngày trong chánh niệm, với một ý muốn để tìm hiểu
hơn là để phê phán, hoàn toàn chấp nhận bất cứ việc gì xảy đến, bởi dù sao thì
nó cũng đang có mặt, ta phải biết khuyến khích những gì sâu kín được biểu lộ
lên trên bề mặt, và làm phong phú thêm cho sự sống và tâm thức của ta bằng năng
lượng ẩn tàng của nó. Ðó là sản phẩm của ý thức; nó loại trừ hết những chướng
ngại và tháo mở năng lượng của ta bằng sự hiểu biết về tự tánh của sự sống và
tâm thức. Trí thông minh là cánh cửa của tự do, mà chánh niệm là mẹ đẻ của trí
thông minh. -- Nisargadatta Maharaj, "I am That".
3.- DỪNG LẠI:
Người ta thường nghĩ rằng thiền tập là một hành động gì đó đặc
biệt lắm, nhưng sự thật không đúng hẳn như vậy. Như chúng ta thường nói đùa với
nhau: "Ðừng có làm gì hết, ngồi đó thôi!" Nhưng thiền tập cũng không
hẳn là ngồi yên đó thôi. Nó có nghĩa là dừng lại và sống trong hiện tại, chỉ có
vậy thôi. Phần nhiều chúng ta lúc nào cũng bận rộn chạy loanh quanh, làm hết việc
này đến việc khác. Bạn có thể nào dừng lại trong cuộc đời của bạn không, dù chỉ
trong chốc lát thôi? Có thể là giây phút này không?
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn làm việc ấy?
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn làm việc ấy?
Một phương cách để dừng lại là ta hãy chuyển dời sang một trạng
thái có mặt. Hãy xem mình là một nhân chứng vĩnh viễn và bất diệt. Hãy quan sát
giây phút này, không cần có gắng thay đổi một cái gì hết. Việc gì đang xảy ra?
Bạn cảm thấy thế nào? Bạn thấy gì? Nghe gì?
Có điều rất ngộ nghĩnh là khi bạn vừa dừng lại, lập tức bạn sẽ
rơi vào giây phút hiện tại nầy ngay. Mọi việc được trở nên đơn giản hơn. Nó giống
như là bạn đã qua đời và cuộc sống vẫn cứ tiếp tục. Nếu bạn có chết đi, mọi bổn
phận và trách nhiệm của bạn sẽ tự động tan biến thành mây khói. Những gì còn
sót lại cũng sẽ được giải quyết bằng một cách nào đó, mà không cần đến bạn. Nó
cũng sẽ chết đi hoặc mờ phai dần theo bạn, cũng giống như số phận của bao nhiêu
người khác đã đi trước. Vì thế, bạn đừng nên lo nghĩ về bất cứ một chuyện gì
quá mức.
Nếu sự thật là vậy, có lẽ ngay bây giờ bạn không cần phải gọi
thêm một cú điện thoại nữa làm gì, dù bạn có cho là cần thiết. Có lẽ bây giờ bạn
cũng không cần đọc thêm gì nữa, hoặc lo làm thêm một việc gì nữa. Khi bạn có thể
tập "chết theo ý muốn" trong khi mình vẫn còn sống, bạn sẽ có thể
thoát ra được khỏi sự đốc thúc của thời gian, và có thể sống với hiện tại. Bằng
"cái chết" theo lối ấy, thật ra bạn lại sẽ biết sống hơn! Sự dừng lại
có thể giúp bạn làm được việc đó. Nó không có gì là thụ động hết. Và khi bạn
quyết định bước đi, thì sự tiến bước ấy sẽ rất khác biệt vì bạn đã dừng lại. Thật
ra sự dừng lại sẽ làm cho hành trình của bạn được sống động, toàn vẹn và tươi đẹp
hơn. Nó giúp ta giữ những sự lo âu và cảm tưởng thua sút của mình trong khuôn
khổ. Nó sẽ dẫn đường cho ta đi.
Thực tập: Trong một ngày bạn hãy dừng lại, ngồi xuống và
có ý thức về hơi thở của mình, ít nhất là vài lần. Có thể là năm phút hoặc năm
giây cũng được. Hãy buông bỏ hết tất cả và thành thật chấp nhận giây phút hiện
tại này, trong đó có cảm thọ và ý tưởng của bạn về những gì đang xảy ra. Trong
giây phút này, đừng cố gắng thay đổi bất cứ một điều gì, chỉ thở và buông bỏ.
Thở và chấp nhận. Hãy để cho những ý muốn thay đổi trong giờ phút hiện tại này
chết đi. Trong tâm bạn, trong ý bạn, hãy cho phép giây phút này được như là nó
thật sự có mặt, và cho phép bạn được là bạn, không cần phải thay đổi gì cả. Và
tiếp đó, khi nào sẵn sàng, bạn hãy đi theo sự hướng dẫn của con tim mình, với
chánh niệm và bằng một sự cương quyết.
4.- CHỈ CÓ VẬY THÔI:
Một tranh hí họa trong tạp chí New Yorker: Hai vị sư, một
già, một trẻ, ngồi xếp bằng tọa thiền trong thiền đường. Vị sư trẻ thỉnh thoảng
liếc nhìn vị sư già với ánh mắt dò hỏi, vị sư già quay sang anh ta nói:
"Không có gì xảy ra hết. Chỉ có vậy thôi".
Thật vậy, thông thường khi chúng ta quyết định làm một việc
gì, tự nhiên ta muốn có được một kết quả nào đó cho công trình của mình. Chúng
ta muốn thấy một kết quả, cho dù đó chỉ là một cảm thọ an vui nhẹ nhàng. Tôi thấy
có một ngoại lệ duy nhất trong thiền tập là một việc làm có ý thức và có phương
pháp của con người, mục đích không phải để tự cải tiến hoặc đưa chúng ta đi đâu
hết. Thiền tập giúp cho ta giản dị nhận thức được thực tại của mình trong bây
giờ và ở đây. Có lẽ giá trị của nó là ở chỗ đó. Và có lẽ trong cuộc đời chúng
ta cần nên làm một việc nào đó, chỉ là làm là vì làm thế thôi.
Nhưng nếu ta gọi thiền tập là một hành động thì chữ ấy cũng
không đúng lắm. Tôi nghĩ diễn tả nó như là một sự sống thì có lẽ chính xác hơn.
Khi chúng ta hiểu được rằng tất cả "chỉ có vậy thôi", thì ta sẽ có thể
buông bỏ được quá khứ và tương lai, để tỉnh dậy và sống với hiện tại, trong
chính giây phút này đây.
Nhưng thường thường ít khi nào người ta hiểu được sự thật này
ngay. Họ muốn tập thiền để được nghỉ ngơi, để kinh nghiệm một trạng thái đặc biệt
nào đó, để được trở thành một người tốt hơn, để làm giảm sự căng thẳng, đau đớn,
để thoát ra những tập quán, thói quen ngàn đời của mình, hoặc để được giải
thoát và giác ngộ. Mặc dù đó là những lý do chánh đáng, nhưng chúng có thể sẽ
trở thành những chướng ngại nếu ta hy vọng rằng chúng phải xảy ra, chỉ vì ta bắt
đầu tập thiền. Ta sẽ bị kẹt vào sự ước muốn có được một "kinh nghiệm đặc
biệt" nào đó. hoặc tìm kiếm một dấu hiệu để chứng tỏ là mình đang tiến bộ
và trong một thời gian ngắn nếu không cảm thấy có gì đặc biệt, có thể ta sẽ bắt
đầu nghi ngờ con đường mình chọn, hoặc tự hỏi, không biết mình thực hành
"có đúng cách" không?
Trong đa số các lãnh vực học tập thì những đòi hỏi, thắc mắc
của ta kể trên rất là chính đáng. Lẽ dĩ nhiên sớm muôn gì chúng ta cũng cần phải
nhìn thấy sự tiến bộ của mình, để được khuyến khích và để tiếp tục sự thực tập.
Nhưng trong thiền tập thì khác. Dưới ánh mắt của thiền quán, mỗi trạng thái là
một trạng thái đặc biệt, mỗi giây phút là một giây phút đặc biệt.
Khi chúng ta bỏ đi ý muốn có một sự việc nào khác hơn xảy ra
trong giây phút hiện tại, là ta đã bước một bước rất dài và rộng để tiếp xúc với
thực tại, ngay bây giờ và ở đây. Ví dù ta có muốn đi đến bất cứ một nơi nào, hoặc
phát triển theo một lối nào, ta chỉ có thể bắt đầu từ nơi mình đang đứng đây.
Và nếu ta không biết rõ mình đang ở đâu - một cái biết chỉ có thể phát sinh trực
tiếp từ sự tu tập chánh niệm - chúng ta có thể chỉ đi lòng vòng, dù mình có cố
gắng và ước muốn bao nhiêu. Vì vậy trong thiền tập, phương cách hay nhất để đi
đến một mục tiêu nào đó là ta hãy hoàn toàn buông bỏ ý muốn cố gắng để đi đến
nơi ấy.
Nếu tâm bạn không bị che mờ bởi những sự việc không cần thiết,
thì ngay bây giờ là mùa tốt đẹp nhất của đời bạn. -- Wu Men
Thực tập:Thỉnh thoảng bạn nên tự nhắc nhở rằng chỉ có vậy
thôi. Thử xem có bất cứ một vấn đề nào ta không thể áp dụng câu đó không? Bạn
nên nhớ rằng, chấp nhận giây phút hiện tại không có nghĩa là ta chịu thua hay đầu
hàng những gì xảy ra trước mắt. Nó đơn giản có nghĩa là ta công nhận và ý thức
rõ ràng rằng việc gì đang xảy ra, nó thực sự xảy ra. Thái độ chấp nhận không hề
chỉ cho bạn biết việc gì cần phải làm. Việc gì sẽ xãy ra kế tiếp, bạn chọn một
phản ứng nào, những điều ấy hoàn toàn tùy thuộc vào sự hiểu biết của bạn về
giây phút hiện tại này. Bạn nên tập hành động với một ý thức sâu xa rằng, thật
ra sự việc chỉ có vậy thôi. Nó có ảnh hưởng gì đến quyết định và phản ứng của bạn
không? Bạn có thể suy nghiệm về việc đó một cách chân thành không, bây giờ có
thể là mùa tốt đẹp nhất, thời điểm tốt đẹp nhất trong đời bạn? Nếu đó là sự thật
thì bạn sẽ làm gì?
5.- NẮM BẮT HIỆN TẠI:
Phương pháp hay nhất để nắm bắt hiện tại là chú ý. Ðó cũng là
một cách để ta phát triển chánh niệm. Chánh niệm có nghĩa là tỉnh thức. Nó có
nghĩa là khi ta ý thức được việc mình đang làm. Nhưng thường thường mỗi khi ta
bắt đầu tập trung sự chú ý của mình vào những gì đang có mặt trong tâm, ta lại
hay bị rơi trở về thất niệm, đi vào một trạng thái hành xử tự động vô ý thức. Sự
rơi trở về thất niệm này đa số phát sinh từ một sự bất mãn với những gì ta thấy
hoặc cảm nhận trong giây phút hiện tại, và từ đó ta mong muốn có một sự thay đổi,
một cái gì khác hơn.
Bạn có thể quan sát được thói quen trốn tránh giây phút hiện
tại này của tâm rất dễ dàng. Bây giờ bạn hãy thử chú ý vào bất cứ một đối tượng
nào đó, trong một thời gian ngắn thôi. Bạn sẽ khám phá ra rằng, muốn duy trì
chánh niệm, ta phải liên tiếp đánh thức mình dậy và có ý thức. Chúng ta thực hiện
việc đó bằng cách luôn nhắc nhở mình: hãy nhìn, hãy cảm xúc, hãy sống. Chỉ giản
dị thế thôi... đánh thức mình dậy trong giây phút này sang giây phút kế, duy
trì một chánh niệm trong khoảng thời gian vô tận, có mặt trong bây giờ và ở
đây.
Thực tập: Trong giây phút này, bạn hãy tự hỏi mình:
"Tôi có tỉnh thức không? Tâm tôi bây giờ đang ở đâu?"
6.- Ý THỨC VỂ HƠI THỞ
Chúng ta cần phải có một đối tượng cho sự chú ý của mình, một
dây neo để giữ ta lại trong giây phút hiện tại và đưa ta trở về, mỗi khi tâm
mình trôi dạt đi khắp nơi. Hơi thở của ta có thể làm nhiệm vụ của chiếc neo ấy.
Nó có thể là một đồng minh chân thật của ta. Mỗi khi có ý thức về hơi thở là ta
tự nhắc nhở rằng, mình đang sống trong bây giờ và ở đây, vì vậy ta hãy có mặt
trọn vẹn với những gì đã và đang xảy ra.
Bạn biết không, hơi thở có thể giúp ta bắt giữ được giây phút
hiện tại. Ðiều lạ lùng là rất nhiều người trong chúng ta không biết đến việc
đó. Dù sao hơi thở lúc nào cũng có mặt sờ sờ ở đây, ngay trước mũi ta đó! Chắc
các bạn cũng tưởng rằng rồi thế nào một ngày người ta cũng sẽ khám phá ra được
công dụng của nó! Chúng ta thường có câu: "Bận đến nổi không có thì giờ để
thở", để chỉ cho ta thấy rằng giây phút này và hơi thở, chúng liên hệ với
nhau rất mật thiết.
Muốn xử dụng hơi thở để tu tập chánh niệm ta chỉ cần tập nhận
thức được cảm giác của chúng: cảm giác của hơi thở đi vào thân ta và cảm giác của
hơi thở đi ra khỏi thân ta. Tất cả chỉ có vậy thôi. Cảm giác hơi thở của mình.
Thở và biết được rằng mình đang thở. Nó không có nghĩa là ta phải cố thở cho
sâu, hoặc kiểm soát hơi thở của mình, hoặc cố gắng cảm giác một cái gì đặc biệt,
hoặc thắc mắc không biết mình làm có đúng hay không. Và nó cũng không có nghĩa
là ta suy nghĩ về hơi thở của mình. Nó chỉ là một ý thức đơn thuần về hơi thở
vào và ra của ta mà thôi.
Sự thực tập chánh niệm không nhất thiết mỗi lần phải kéo dài
lâu. Xử dụng hơi thở để mang ta trở về giây phút hiện tại không mất chút thì giờ
nào hết, chỉ là một thay đổi nhỏ trong sự chú ý của ta. Nhưng nó sẽ đem lại một
khám phá rất lớn, nếu ta biết nối liền những giây phút chánh niệm ấy lại với
nhau, từng hơi thở một, từng giây phút một.
Kabir hỏi: Này con, hãy nói cho ta nghe. Thượng Ðế là
gì?
Ngài là một hơi thở bên trong một hơi thở.
Ngài là một hơi thở bên trong một hơi thở.
Thực tập: Hãy có mặt và ý thức trọn vẹn một hơi thở vào
của mình, trọn vẹn một hơi thở ra, giữ cho tâm ta được hoàn toàn cởi mở và tự
do trong một giây phút này thôi, một hơi thở này thôi. Buông bỏ hết mọi ý niệm
về việc sẽ đi đến đâu hoặc mong chờ một cái gì khác xảy ra. Tiếp tục trở về với
hơi thở mỗi khi tâm ta suy nghĩ lam man, nối những hạt thời gian chánh niệm lại
với nhau thành một xâu chuỗi, từng hơi thở một. Thỉnh thoảng bạn nên thực hành
những điều ấy trong khi đọc quyển sách này.
Kiên trì thực tập là yếu quyết. Khi bạn bắt đầu quen với hơi
thở của mình rồi, bạn sẽ khám phá ra rằng thất niệm có mặt ở khắp mọi nơi. Hơi
thở chỉ cho ta thấy, sự thất niệm, vô ý thức, không phải chỉ nằm trong lãnh vực
tu tập của ta, mà nó chính là lãnh vực tu tập của ta. Nó còn cho ta thấy, rất
nhiều lần là có mặt với hơi thở của mình không phải là một chuyện dễ, cho dù ta
có muốn. Có rất nhiều chuyện xảy ra, xen vào lôi ta đi, không cho ta tập trung.
Chúng ta thấy được tâm mình đã bị chất chứa quá nhiều qua năm tháng, như một
căn nhà kho, đầy những đồ phế thải, vô dụng. Và chỉ cần ý thức được bấy nhiêu
thôi, cũng đã là một bước tiến rất xa trên con đường tu tập của ta rồi.
8.- THỰC TẬP KHÔNG PHẢI LÀ DIỄN TẬP
Ở đây chúng ta thường dùng chữ thực tập (practice) để diễn tả
một công phu trau dồi, phát triển chánh niệm, nhưng ta không nên hiểu theo
nghĩa thông thường như là một sự diễn tập (rehearsal), được lập đi lập lại nhiều
lần, để sự trình diễn của ta được thuần thục hơn, hoặc sự tranh đua có nhiều
thành quả hơn.
Chánh niệm có nghĩa là ta thực sự sống trọn vẹn trong giây
phút hiện tại. Ở đây không có một sự trình diễn nào hết. Chỉ có chính giây phút
này thôi. Chúng ta cũng không hề cố gắng cải tiến để đi về đâu cả. Ta không cần
chạy theo một tuệ giác hoặc một cảnh tượng đặc biệt nào. Ta cũng không ép buộc
mình phải trở nên vô tư, tĩnh lặng hoặc là thanh thản. Và chắc chắn là chúng ta
không hề đề cao một thái độ vị kỷ hoặc chỉ biết bận rộn lo nghĩ về mình. Thật
ra ta chỉ đơn giản muốn kêu gọi mình tiếp xúc với hiện tại cho thật trọn vẹn, để
ta có thể là hiện thân của một sự tĩnh lặng, chánh niệm và điềm tĩnh, ngay bây
giờ và ở đây.
Lẽ dĩ nhiên, khi ta biết kiên trì tu tập và với một sự tinh tấn
đúng mức, thì sự tĩnh lặng, chánh niệm và trầm tĩnh sẽ tự nhiên được phát triển
và trở nên thâm sâu hơn, nhất là khi ta biết an trú trong sự tĩnh lặng và quan
sát nhưng không phê bình hoặc phản ứng. Ðược như vậy, hiểu biết và tuệ giác, an
lạc và hạnh phúc, chắc chắn thế nào cũng sẽ đến với ta. Nhưng không phải là ta
tu tập với mục đích để đạt được những kinh nghiệm này, hoặc để có thêm chúng
nhiều hơn.
Tinh thần của chánh niệm là thực tập vì thực tập. Chúng ta phải
biết tiếp nhận mỗi giây phút như là nó đến - dễ chịu hay khó chịu, tốt hay xấu
- và làm việc với nó, vì đó là những gì đang thật sự có mặt ngay bây giờ. Có được
thái độ này thì cuộc sống tự nó sẽ trở thành một sự tu tập. Và khi ấy, thay vì
ta là người thực hành chánh niệm, chánh niệm sẽ trở lại "thực hành"
ta, hay nói một cách khác, sự sống tự nó sẽ trở thành một vị thiền sư, một vị
thầy hướng dẫn ta trên con đường tu tập.
9.- BẠN KHÔNG CẦN PHẢI TÌM KIẾM XA XÔI:
Hai năm của Henry David Thoreau sống tại hồ Walden quả thật
là một kinh nghiệm bản thân rất cá biệt về chánh niệm. Ông đã dám tạm gác lại
cuộc đời của mình để được vui thú với sự kỳ diệu và đơn sơ của giây phút hiện tại.
Nhưng thật ra bạn không phải làm một hành động gì lập dị, đi tìm một nơi xa xôi
hẻo lánh nào đó để tu tâp chánh niệm. Trong cuộc sống hằng ngày, bạn chỉ cần bỏ
ra chút thì giờ cho sự thinh lặng và ngừng nghĩ, và chú ý đến hơi thở của mình
là đủ lắm rồi.
Hồ Walden đang có mặt trọn vẹn trong hơi thở của ta. Sự huyền
diệu của bốn mùa thay đổi cũng có mặt trong hơi thở; cha mẹ, con cháu ta cũng
có mặt trong hơi thở; thân và tâm ta cũng nằm đó trong mỗi hơi thở của mình.
Hơi thở là một dòng sông nối liền thân với tâm, nối liền ta lại với tổ tiên và
con cháu ta, nối liền thân này với hiện hữu chung quanh. Hơi thở là dòng sông của
sự sống. Trong dòng nước mát ấy chỉ có những con cá vàng óng ánh đang bơi lội.
Muốn thấy được chúng, ta chỉ cần nhìn qua ống kính của chánh niệm và ý thức.
Thời gian chỉ là một dòng suối mát mà tôi thường hay đến đi
câu. Tôi cúi xuống vóc nước uống. Trong khi uống, tôi nhìn thấy được đáy cát và
chợt hiểu rằng lòng suối rất cạn. Dòng nước mỏng manh trượt êm trôi đi, nhưng
thời gian vô tận vẫn còn ở lại đó. Tôi sẽ uống cho thật sâu; cá trên bầu trời,
mà trong lòng suối lấp lánh những viên đá cuội là các vì sao.
Trong khoảng thời gian vô tận này, thật ra có một cái gì đó rất
là chân thật và nhiệm mầu. Nhưng tất cả những thời gian nơi chốn và hoàn cảnh ấy
đều là bây giờ và ở đây. Thượng đế cuối cùng rồi cũng chỉ có thể hiện hữu trong
giờ phút hiện tại này, và sẽ không bao giờ thánh thiện hơn, cho dù có trải qua
bao nhiêu thời đại đi chăng nữa. -- Thoreau, Walden.
10.- TỈNH THỨC DẬY
Khi ta bắt đầu nghiêm chỉnh thực hành thiền tập bằng cách bỏ
ra chút thì giờ mỗi ngày, việc ấy không có nghĩa là ta sẽ không còn biết suy
tính, không thể chạy đây đó, hoặc lo giải quyết công chuyện thường ngày của
mình được nữa. Nó chỉ có nghĩa là chúng ta sẽ ý thức được việc mình đang làm,
vì ta đã biết dừng lại một chút để nhìn, để lắng nghe và để hiểu.
Ông Thoreau đã ý thức được điều này rất rõ tại hồ Walden.
Trong lời kết thúc, ông viết: "Bình minh chỉ có thể xuất hiện trên những
gì ta tỉnh thức dậy". Nếu chúng ta muốn nắm bắt được thực tại này, trong
khi chúng vẫn còn là của ta, ta cần phải tỉnh thức dậy trong giây phút hiện tại.
Bằng không, ngày tháng, có khi cả cuộc đời, sẽ lần lượt trôi qua mà ta không hề
hay biết.
Một phương pháp thiết thực để thực hiện được việc ấy là mỗi
khi nhìn một người nào, ta nên tự hỏi ta, ta thật sự thấy người đó không, hay
đó chỉ là những ý tưởng của ta về họ? Nhiều khi ý nghĩ của ta cũng giống như là
một cặp mắt kính mộng tưởng. Khi mang vào rồi, ta chỉ thấy những người chồng mộng
tưởng, người vợ mộng tưởng, đứa con mộng tưởng, việc làm mộng tưởng, đồng nghiệp
mộng tưởng, bạn bè mộng tưởng... Và rồi chúng ta sống trong hiện tại mộng tưởng,
cho một tương lai cũng sẽ là mộng tưởng y như thế. Vô tình chúng ta lại tô mầu
và thêu dệt thêm lên mọi việc. Mặc dù những sự việc trong mộng mơ đôi khi cũng
biến đổi, và chúng có thể đem lại cho ta những ảo giác sống động như thật,
nhưng nó cũng vẫn chỉ là một giấc mộng mà ta đang bị vướng mắc. Nếu ta biết bỏ
cặp kính ấy xuống thì có lẽ, tôi nói có lẽ thôi, chúng ta sẽ có thể thấy được
chính xác hơn một chút, những gì đang thật sự có mặt.
Ông Thoreau cảm thấy cần thiết phải tìm đến một nơi hẻo lánh,
quạnh quẻ trong một thời gian dài (ông đã sống một mình hai năm hai tháng tại hồ
Walden) để thực hiện việc ấy. "Tôi đi vào rừng vì tôi muốn sống một cách
có chủ tâm, muốn đối diện với những gì là thật thiết yếu của sự sống, và để xem
có thể học hỏi được những gì từ nơi chúng. Tôi không muốn rồi một ngày nào khi
tôi chết, lại khám phá ra rằng, tôi chưa từng bao giờ thật sự sống".
Niềm tin sâu xa nhất của ông là : "Ảnh hưởng được phẩm
chất của một ngày là một nghệ thuật cao thượng nhất... Tôi chưa từng bao giờ gặp
được một người nào thật sự là tỉnh thức. Làm sao tôi lại có thể nhìn rõ mặt họ
được".
Nội tâm của tôi ơi, hãy lắng nghe đây,
Ðại hồn, một vị thầy đã đến rất kề,
Tỉnh dậy, hãy tỉnh dậy đi thôi!
Chạy đến phủ phục bên chân ngài,
Người đang đứng bên cạnh đầu ngươi đó.
Ngươi đã ngủ mê hằng triệu triệu năm nay,
Sao sáng hôm nay người không tỉnh thức dậy. -- Kabir
Ðại hồn, một vị thầy đã đến rất kề,
Tỉnh dậy, hãy tỉnh dậy đi thôi!
Chạy đến phủ phục bên chân ngài,
Người đang đứng bên cạnh đầu ngươi đó.
Ngươi đã ngủ mê hằng triệu triệu năm nay,
Sao sáng hôm nay người không tỉnh thức dậy. -- Kabir
Thực tập: Thỉnh thoảng bạn hãy tự hỏi mình: "Bây giờ
tôi có thật sự đang tỉnh thức không?"
11.- GIỮ CHO ÐƠN GIẢN:
Nếu bạn quyết định bắt đầu thực tập thiền quán, bạn không cần
phải đi loan báo với người chung quanh, bạn cũng không cần phải giải thích lý
do hoặc lợi ích của sự thiền tập làm gì. Thật ra những việc đó có thể làm hao
tán năng lượng còn yếu ớt và lòng nhiệt tình của bạn rất mau chóng, và đôi khi
chúng còn ngăn trở sự cố gắng, không cho bạn tập trung những nỗ lực của mình nữa.
Phương pháp hay nhất là bạn hãy cứ tu tập mà không cần phải quảng cáo làm
gì.
Những khi bạn cảm thấy có một sự thúc đẩy, muốn nói cho người
khác nghe về thiền tập, rằng nó tốt đẹp như thế nào, ảnh hưởng đến bạn ra sao,
hoặc muốn thuyết phục người khác là thiền tập cũng sẽ tốt cho họ, bạn hãy xem
chúng như là những ý nghĩ và cứ tiếp tục sự tu tập của mình. Hãy để yên, sự
thúc dục tạm thời ấy rồi sẽ qua, và mọi người sẽ được lợi lạc - nhất là bạn.
Có người quan niệm rằng, thiền tập là một phương pháp giúp ta
thoát ra khỏi những áp lực của cuộc sống, cũng như của chính bản tâm ta. Nhưng
sự thật những quan điểm ấy không được chính xác cho lắm. Thiền quán không có nghĩa
là đi ngăn chận hoặc trốn tránh bất cứ một vấn đề gì. Nó có nghĩa là ta nhìn thấy
sự vật một cách rõ ràng, và tự chọn cho mình một mối tương quan khác đối với
chúng.
Những người tìm đến y viện của chúng tôi, họ học được một sự
thật này rất mau chóng, là sự mệt mỏi, căng thẳng là một phần tất nhiên của cuộc
sống. Mặc dù chúng ta có thể tập lựa chọn khôn ngoan, tránh không để cho vấn đề
trở nên tệ hại hơn, nhưng trong đời có biết bao nhiêu việc hoàn toàn nằm ngoài
sự kiểm soát của ta. Sự căng thẳng là một phần của sự sống, một phần của con
người, là thực chất của thân phận con người.
Nhưng điều ấy không có nghĩa là chúng ta nhất thiết phải trở thành nạn nhân của những sức mạnh lớn lao ấy trong cuộc sống. Chúng ta có thể học cách làm việc với chúng, tìm hiểu chúng, biết chọn lựa và biết xử dụng những năng lượng ấy, để có thể phát triển trong sức mạnh của từ bi và tuệ giác. Thái độ sẵn sàng chấp nhận và làm việc với bất cứ những gì đang có mặt là trái tim của thiền tập.
Nhưng điều ấy không có nghĩa là chúng ta nhất thiết phải trở thành nạn nhân của những sức mạnh lớn lao ấy trong cuộc sống. Chúng ta có thể học cách làm việc với chúng, tìm hiểu chúng, biết chọn lựa và biết xử dụng những năng lượng ấy, để có thể phát triển trong sức mạnh của từ bi và tuệ giác. Thái độ sẵn sàng chấp nhận và làm việc với bất cứ những gì đang có mặt là trái tim của thiền tập.
Một cách để hiểu được sự hoạt động của chánh niệm là bạn hãy
nghĩ đến tâm mình như một mặt hồ hay mặt đại dương, chúng lúc nào cũng có sóng.
Có lúc sóng lớn, có lúc sóng nhỏ, có lúc rất tinh tế. Những làn sóng ấy do gió
đến và đi từ muôn hướng, với nhiều cường độ khác nhau, khuấy động lên. Chúng
cũng tương tự như những làn gió của sự thay đổi và mệt mỏi trong cuộc đời, khơi
động lên những con sóng trong tâm ta.
Những người không hiểu về thiền quán thường nghĩ rằng thiền
là một loại thao tác nội tâm đặc biệt nào đó, có một năng lực thần diệu làm yên
hết những làn sóng, giúp mặt hồ tâm được lập tức trở nên bằng phẳng, an bình và
tĩnh lặng. Nhưng cũng như chúng ta không thể nào đặt một cái dĩa kiếng lên trên
mặt nước để làm yên những làn sóng, chúng ta không thể nào giả tạo đè nén được
những làn sóng trong tâm mình. Thật ra việc làm đó cũng không thông minh lắm,
vì nó chỉ tạo thêm một sự căng thẳng, xung đột trong nội tâm mà thôi, chứ không
phải là sự tĩnh lặng. Nhưng điều ấy không có nghĩa là ta sẽ không bao giờ có thể
đạt đến một trạng thái tĩnh lặng. Nó chỉ có nghĩa là ta sẽ không thể thành công
bằng những nỗ lực sai lầm, như là đè nén những sinh hoạt tự nhiên của tâm
mình.
Qua sự tu tập thiền quán, chúng ta có thể tìm được cho mình một
nơi trú ẩn, tránh được những cơn phong ba làm xáo động hồ tâm. Sau một thời
gian, một phần lớn của sự náo động này có lẽ sẽ dần dần lắng yên xuống, vì ta
không còn cấp dưỡng cho chúng nữa. Nhưng những cơn gió của cuộc đời, của nội
tâm bao giờ cũng vẫn cứ thổi, ta có làm gì cũng vậy thôi. Và thiền tập có nghĩa
là ý thức được điều này, để rồi ta có thể đối diện với nó.
Tinh thần của sự tu tập chánh niệm được biểu lộ vui tươi
trong một tấm bích chương có in hình đạo sư Swami Satchitanada bảy mươi mấy tuổi,
trong một chiếc áo thụng trắng dài và bộ râu bạc bay phất phới, đứng trên một
chiếc ván lướt sóng (surfboard), cỡi trên đầu những ngọn sóng to ở cạnh bờ biển
Hạ Uy Di. Bên dưới có in một dòng chữ chú thích: "Bạn không thể ngăn những
cơn sóng, nhưng bạn có thể tập cỡi chúng được".
13.- AI CŨNG CÓ THỂ THIỀN ÐƯỢC?
Người ta hỏi tôi câu ấy nhiều nhất. Tôi ngờ người ta hỏi có lẽ
vì họ nghĩ rằng, những người khác tập thiền được, chứ họ thì không. Họ muốn được
an tâm nghĩ rằng họ không cô đơn, ngoài kia cũng có những hạng người giống như
họ, những linh hồn bất hạnh, sanh ra mà không có khả năng thiền tập. Nhưng vấn
đề không đơn giản như thế.
Cho rằng mình không có khả năng thiền tập cũng giống như cho
rằng ta không có khả năng thở, tập trung hoặc nghỉ ngơi vậy. Hầu hết mọi người
trong chúng ta cũng có thể thở một cách dễ dàng. Và trong tình trạng thích hợp,
hầu hết ai cũng có thể tập trung, ai cũng có thể nghỉ ngơì.
Người ta thường hay lẫn lộn thiền tập với sự nghỉ ngơi hay là
một trạng thái đặc biệt nào đó, mà ta cần phải cảm thấy hoặc đạt đến. Và khi ta
đã thử một vài lần mà chẳng cảm thấy gì đặc biệt, chúng ta vội vàng cho rằng có
lẽ mình là một trong những người không có khả năng thiền tập.
Nhưng thiền tập không có nghĩa là ta phải có một cảm giác nào
đặc biệt. Nó chỉ có nghĩa là thật sự cảm nhận được những gì mình đang cảm nhận
trong giờ phút này. Thiền tập cũng không phải là cố gắng làm cho tâm ta trở nên
rỗng không hoặc tĩnh lặng, mặc dù trong thiền tập sự tĩnh lặng sẽ được phát triển
và trở nên sâu sắc hơn. Trên hết, thiền tập có nghĩa là để cho tâm ta được như
nó và ý thức được tướng trạng của nó trong giây phút ấy. Mục tiêu không phải là
ta sẽ đi đến bất cứ một nơi nào khác, mà là cho phép mình được an trú ở nơi ta
đang có mặt. Không hiểu được điều này, bạn sẽ cho rằng mình không có khả năng
thiền tập. Nhưng đó cũng chỉ là ý nghĩ mà thôi và trong trường hợp này, một ý
nghĩ hết sức là sai lầm.
Sự thật, sự tu tập có đòi hỏi một công phu và sự hết lòng của
ta. Nhưng nếu vậy chúng ta nên nói rằng: "Tôi không muốn cố gắng tu tập"
thay vì là: "Tôi không thể tu tập" thì có đúng hơn không? Bất cứ một
người nào cũng đều có thể ngồi xuống và theo dõi hơi thở hoặc tâm ý của mình.
Thật ra bạn không cần phải ngồi, bạn có thể thực hành trong khi đi, đứng, nằm,
ngồi, chạy bộ, đứng một chân hay trong lúc tắm hoặc gì cũng được. Nhưng duy trì
được nó, cho dù chỉ trong năm phút thôi, đòi hỏi một sự chủ tâm. Và nếu bạn muốn
nó trở thành một phần của đời sống mình, việc ấy đòi hỏi một số kỷ luật. Thế
cho nên, khi người ta bảo rằng họ không thể thiền, điều mà họ thật sự muốn nói
là họ không chịu bỏ thì giờ, hoặc khi họ cố gắng thử, lại không thích những gì
xảy ra. Chúng đã không là những gì họ tìm kiếm hoặc không thoả mãn được những ước
vọng của họ. Nếu bạn là một trong những số người ấy, có lẽ bạn nên thử cố gắng
một lần nữa xem sao, nhưng lần này bạn hãy buông bỏ hết những ước vọng đi và chỉ
việc theo dõi những gì xảy ra mà thôi.
14.- LỢI ÍCH CỦA VÔ HÀNH
Khi bạn ngồi xuống thiền, dù chỉ trong chốc lát, đó sẽ là một
thời gian của vô hành (non-doing). Ðiều quan trọng là bạn đừng nên nghĩ rằng vô
hành đồng nghĩa với không làm gì hết. Thật ra hai việc ấy rất khác biệt. Vấn đề
là ta có ý thức và có một tác ý hay không. Ðó là cây chìa khoá.
Bề ngoài chúng ta thấy dường như có hai loại vô minh: một loại
là không làm những hành động có tánh cách hướng ngoại và một loại là những hành
động nào không có sự dụng công. Nhưng cuối cùng ta sẽ nhận thấy rằng cả hai chỉ
là một. Cái kinh nghiệm nội tâm mới thật sự quan trọng. Thiền tập gồm có một sự
cố gắng tạo cho mình những giây phút dừng lại hết mọi hành động hướng ngoại và
phát triển một sự tĩnh lặng, lúc ấy ta không có một mục đích nào khác hơn là sống
trọn vẹn trong giây phút hiện tại. Không làm gì hết. Và có lẽ những giây phút
vô hành ấy sẽ là một món quà quý báu nhất mà ta có thể tự ban cho mình.
Ông Thoreau thường hay ngồi một mình trước hiên nhà hằng giờ
để nhìn và lắng nghe, khi mặt trời đi ngang qua bầu trời, khi ánh sáng và bóng
tối biến đổi, hoà nhập vào nhau một cách thật kỳ diệu.
Có những lúc tôi không thể nào hy sinh giờ phút hiện tại nhiệm
mầu này cho bất cứ một việc làm nào khác. Dù cho đó là việc làm của chân tay
hay của tâm trí cũng vậy. Tôi thấy yêu quý khoảng không gian thênh thang của cuộc
sống mình. Có những buổi sáng mùa Hạ, sau khi tắm rửa xong, tôi ra ngồi ngoài
hiên nhà từ sáng cho đến trưa, miệt mài vui sống giữa thiên nhiên, với những
cây thông, cây bồ đào, cây thù du, trong một không gian tĩnh mịch và vắng lặng,
có những con chim ca hát líu lo, thỉnh thoảng lại bay lượn vào nhà trong, cho đến
khi ánh nắng hoàng hôn vàng vọt rọi vào cửa sổ phía Tây, hay âm thanh của những
chiếc xe ngựa của vài người lữ hành từ ngoài xa vang vọng vào, tôi mới giật
mình sực nhớ đến thời gian trôi qua. Tôi lớn lên theo những tiết mùa đến rồi
đi, như một cây bắp lớn lên trong đêm, công trình ấy có giá trị hơn bất cứ một
việc gì ta có thể thực hiện được bằng tay chân. Thời gian qua không phải là những
giây phút mất đi trong đời tôi mà ngược lại, nó còn quý giá hơn những giờ phút
bình thường khác. Bây giờ tôi mới hiểu được sự thâm thúy của người phương Ðông,
khi họ nói về sự lặng yên, chú ý và buông bỏ. Cuộc sống ở đây, phần nhiều tôi
không hề chú ý đến thời gian trôi qua bằng cách nào? Một ngày đến dường như chỉ
để giúp tôi sống sự sống của mình. Khi nãy là buổi sáng và bây giờ trời đã chiều,
tôi chẳng có thành tựu được một việc nào đáng kể hết. Nhưng thay vì ca hát như
những con chim, tôi im lặng mỉm cười với sự may mắn vô tận của mình. Cũng như
con chim sẻ đang đứng trên một nhánh cây bồ đào ngoài cửa hát líu lo, tôi cũng
có những tiếng cười thầm nho nhỏ cố nén lại trong cái tổ ấm của mình, mà không
chừng con chim sẻ ấy đã nghe thấy rồi. -- Thoreau, Walden
Thực tập: Hãy nhận thức sự tươi mới của giây phút hiện tại
trong giờ thiền tập hằng ngày của bạn, nếu bạn có thực tập. Nếu buổi sáng bạn dậy
sớm, hãy đi ra ngoài nhìn những vì sao, nhìn ánh trăng, nhìn những tia nắng
bình minh đầu tiên của một ngày xuất hiện (một cái nhìn có ý thức, có chánh niệm,
vững chãi). Hãy cảm giác bầu không khí chung quanh, lạnh, ấm (một cảm nhận có ý
thức, có chánh niệm, vững vàng). Ý thức được rằng thế giới chung quanh ta còn
đang say ngủ. Bạn nên nhớ rằng, những ngôi sao bạn đang nhìn chỉ là bóng dáng của
chúng hàng triệu năm về trước. Quá khứ đang có mặt trong bây giờ và ở đây.
Sau đó bạn hãy đi, ngồi, hoặc nằm xuống thiền. Hãy để cho thời
gian này hay bất cứ giờ phút thực tập nào khác là giờ phút bạn đang buông bỏ hết
mọi hành động, chuyển sang một trạng thái thực sự sống, lúc này ta an trú trong
chánh niệm và tĩnh lặng, ý thức được sự khai mở của giây phút hiện tại trong từng
giây phút, không thêm bớt và khẳng định với mình rằng: "Chỉ có vậy
thôi".
15.- SỰ MÂU THUẪN CỦA VÔ HÀNH
Người Tây phương rất khó có thể lãnh hội được mùi vị cũng như
niềm vui của vô hành, vì nền văn hóa của họ quá coi trọng hành động và sự tiến
bộ. Ngay cả thời gian nhàn rỗi của họ cũng có khuynh hướng bận rộn và thiếu ý
thức. Niềm vui của vô hành là nó không cần phải có bất cứ một việc nào khác xảy
ra, thì giây phút này mới được trọn vẹn.
Khi ông Thoreau nói: "Khi nãy là buổi sáng và bây giờ trời
đã chiều, tôi chẳng có thành tựu được một việc nào đáng kể hết", việc đó
cũng giống như một tấm vải đỏ phất trước mặt một con bò mộng, của những người
quen xông xáo, ham phát triển. Nhưng làm sao ta có thể biết rằng, buổi sáng của
ông ngồi trước cửa nhà lại không đáng nhớ hoặc có phẩm chất bằng cuộc sống xô bồ,
bận rộn, mà trong đó ta không biết gì đến niềm vui của sự tĩnh lặng, và tươi mới
của giây phút hiện tại này?
Ông Thoreau đã hát lên một bài ca cần được nghe trong khi đó,
cũng như trong lúc này. Cho đến ngày hôm nay, ông ta vẫn tiếp tục chỉ cho chúng
ta, những ai muốn lắng nghe, sự quan trọng sâu xa của việc trầm tư cũng như một
thái độ vô trước (non-attachment), không dính mắc vào bất cứ một kết quả nào,
trừ niềm vui thuần túy của sự sống. Và bạn biết không, điều ấy "có giá trị
hơn bất cứ một việc gì mà ta có thể thực hiện được bằng tay chân". Quan điểm
ấy làm tôi nhớ đến lời của một thiền sư ngày trước: "Ô hô! Bốn mươi năm trời
ta ngồi bán nước bên cạnh bờ sông, té ra công lao của ta chẳng có một ích lợi
nào hết".
Bạn thấy không, nó sặc mùi mâu thuẫn. Chỉ có mỗi một cách có
thể giúp cho hành động của ta được giá trị là cố gắng bằng một thái độ vô hành,
và không chấp trước vào kết quả của nó. Còn bằng không, sự vướng mắc và lòng
tham sẽ len lỏi vào, làm hư hỏng mối tương quan của ta với công việc, hay chính
công việc ấy. Từ đó, nó sẽ trở nên lạc hướng, bị thiên kiến, ô uế và cuối cùng
không đem lại cho ta được một niềm vui trọn vẹn, cho dù kết quả có tốt đẹp đến
đâu. Bất cứ một khoa học gia nào cũng biết rõ trạng thái này của tâm và cố gắng
ngăn ngừa nó, vì nó có thể làm trở ngại tiến trình sáng tạo và bóp méo khả năng
nhìn thấy được những mối liên hệ của họ.
16.- SỰ BIẾN HÓA CỦA VÔ HÀNH
Vô hành có thể phát xuất từ hành động cũng như từ sự tĩnh lặng.
Nội tâm tĩnh lặng của thiền giả có thể hòa nhập với những hoạt động bên ngoài,
tới mức như là hành động tự nó biểu lộ lấy. Chúng là những hoạt động không cần
dụng sức. Ở đó ta không thấy có một nghị lực nào, không có một tiểu tâm của cái
Tôi nhỏ bé nào để nhận dành kết quả. Nhưng không vì vậy mà ta bỏ sót bất cứ một
việc gì, dù nhỏ nhoi đến đâu. Vô hành là nền tảng của sự tinh thông trong bất cứ
một lãnh vực nào của hành động. Thiên Dưỡng Sinh Chủ trong Nam Hoa Kinh có ghi
lại một câu chuyện như sau:
Bào Ðinh mổ bò cho Văn Huệ Quân.
Lúc ra thịt, điệu bộ của tay động, của vai đưa, của chân đạp,
của gối chạm, tiếng da xương lìa nhau, tiếng dao cạo cắt đều trúng cung bực, hợp
với điệu múa Tang Lâm, với bài nhạc Kinh Thủ.
Văn Huệ Quân nói: "Hay thật! Nghệ thuật đến đó là
cùng!"
Bào Ðinh buông dao, thưa rằng: "Chỗ ưa thích của thần là
đạo. Ban sơ, lúc ra thịt một con bò, chỗ mà thần chỉ có thấy mà thôi, là con
bò. Về sau ba năm, thần không còn thấy con bò nữa. Bấy giờ thần không dùng con
mắt để nhìn mà dùng cái "thần" để xem; ngũ quan dừng lại mà "thần"
thì muốn đi, nương theo thiên lý. Tách các gân lớn, lùa các khớp xương, nhân chỗ
cố nhiên của nó mà cắt. Bắp thịt còn không xắt qua, huống chi là khớp xương to.
Người bếp bình thường mỗi tháng thay dao một lần, vì họ chặt. Nay con dao của
thần dùng đã mười chín năm; số bò đã mổ có trên nghìn con, vậy mà dao như mới
mài xong. Các khớp xương kia có kẽ hở mà lưỡi dao này thì mỏng. Lấy bề mỏng của
con dao đưa vào chỗ kẽ hở, thì rộng có thừa. Vì vậy lưỡi dao đã dùng mười chín
năm nay vẫn còn sắc như mới mài. Tuy vậy, mỗi khi gặp chỗ gân xương sát nhau cảm
thấy khó làm, thần nhìn kỹ, hành động chậm lại; con dao cử động một cách rất nhẹ
nhàng, thế mà thịt lại đứt và rớt xuống như bùn rơi xuống đất. Bây giờ thần cầm
con dao đứng yên, ngoảnh nhìn bốn phía, đắc ý vì được con dao tốt, rồi đem cất
nó đi".
Văn Huệ Quân nói: "Hay biết chừng nào! Ta nghe lời nói của
Bào Ðinh mà hiểu được đạo dưỡng sinh!"
17.- THỰC HIỆN VÔ HÀNH
Vô hành không dính líu gì đến thái độ làm biếng và thụ động.
Mà còn ngược lại như thế! Vô hành đòi hỏi ở ta một lòng can đảm và năng lượng lớn
mới có thể phát triển nổi, trong tĩnh lặng cũng như giữa những sinh hoạt của đời
sống. Tự tạo cho mình một thời gian đặc biệt để thực hiện vô hành, và duy trì
nó trong cuộc sống bận rộn hàng ngày, việc ấy không phải dễ.
Nhưng chúng ta cũng đừng bao giờ để cho sự vô hành đe dọa những
ai cảm thấy rằng họ lúc nào cũng cần phải làm việc, phải hoạt động. Những hạng
người ấy đôi khi khám phá ra rằng, thái độ vô hành còn giúp cho họ làm được nhiều
việc hơn, đạt được kết quả tốt đẹp hơn! Vì vô hành chỉ có nghĩa là hãy để cho sự
việc như là và cho phép chúng tự khai triển theo đường lối của chúng. Bạn cũng
vẫn có thể dụng công nhiều nếu muốn, nhưng đó sẽ là một sự dụng công khéo léo,
có ý thức, một "hành động không có người hành". Sự tu tập ấy sẽ là suốt
cuộc đời của ta.
Bạn có thể thấy những hành động không dụng sức này trong các
buổi biểu diễn những điệu vũ ở môn thể thao, vào một trình độ cao nhất. Ðược
nhìn những hành động vô hành ấy, có thể làm cho chúng ta nín thở! Nhưng điều ấy
cũng có thể xảy ra ở nhiều lãnh vực khác nhau trong sinh hoạt hàng ngày của ta
nữa, từ hội họa, sửa xe cho đến dạy dỗ con cái. Với nhiều năm kinh nghiệm thực
tập chúng ta có thể phát triển được một khả năng mới, cho phép hành động của ta
khai triển vượt ra ngoài mọi kỷ thuật, mọi nỗ lực, mọi suy tính. Và khi ấy hành
động của ta sẽ trở thành một sự diễn đạt thuần túy của nghệ thuật, của sự sống,
của sự buông bỏ hết mọi cố gắng - một sự chuyển động hòa hợp của thân tâm. Mỗi
khi nhìn một biểu diễn siêu việt nào của một nhà thể thao hoặc một nghệ sĩ,
chúng ta thường cảm thấy rung động và xao xuyến, vì nó cho phép ta tham dự vào
sự kỳ diệu ấy, cũng như cảm thấy nâng cao tinh thần, dù chỉ trong một giây
phút. Và có lẽ nó còn nhắc nhở rằng, mỗi người trong chúng ta, tùy theo một
cách riêng, đều có thể tiếp xúc được với những giây phút nhiệm mầu ấy trong sự
sống của chính mình.
Ông Thoreau nói: "Ảnh hưởng được phẩm chất của một ngày,
đó mới là nghệ thuật cao thượng nhất". Martha Graham, nói về nghệ thuật
vũ, diễn tả như sau: "Cái quan trọng nhất là giây phút này đây trong toàn
cử động. Hãy làm cho giây phút ấy có sinh khí và đáng sống. Ðừng bao giờ để nó
trôi qua không hay biết và không xử dụng đến".
Không thiền sư nào còn có thể diễn đạt chân thật hơn. Ðây là
một nghề chúng ta cần phải kiên trì học hỏi, và bao giờ cũng biết rằng nó là
công trình của cả một đời. Vì thái độ hành động, làm một việc gì đã ăn sâu vào
gốc rễ của chúng ta, nên dĩ nhiên muốn thực tập vô hành sẽ đòi hỏi một nỗ lực rất
lớn.
Thiền quán đồng nghĩa với thực tập vô hành. Chúng ta tu tập
không phải vì muốn cho sự việc được trở nên hoàn hảo hơn, hoặc muốn hành động của
ta được tốt đẹp hơn. Chúng ta thực tập là để nắm bắt và ý thức được sự thật là
mỗi việc tự chính nó như vậy đã là hoàn mỹ rồi. Vì vậy, ta hãy giữ sự trọn vẹn
của giây phút hiện tại này, mà không áp đặt lên đó bất cứ một sự dư thừa nào
khác, và nhận thức được sự tươi mới của tiềm năng làm phát khởi giây phút kế tiếp
của nó. Một khi ta biết những gì mình biết, thấy những gì mình thấy, và ý thức
được những gì mình không biết, chúng ta sẽ có thể hành động, xử sự, tiến tới, dừng
lại, hoặc biết nắm lấy cơ hội một cách tự tại. Ðôi khi người ta ví đó như là một
dòng nước chảy, giây phút này nhẹ nhàng thong thả lướt trôi sang giây phút kế,
không chút nỗ lực và được nâng niu, ôm ấp bởi lòng sông chánh niệm.
Thực tập:Trong một ngày thử xem bạn có thể ý thức được sự
tươi mới của giây phút hiện tại này không, trong mỗi khoảnh khắc - trong giây
phút bình thường, trong giây phút khó khăn, và luôn cả những giây phút
"chính giữa". Tập cho phép những sự việc trong cuộc sống được khai mở
tự nhiên, không ép buộc và cũng đừng ghét bỏ những gì không xảy ra đúng như sự
mong cầu của ta. Thử xem bạn có thể cảm nhận được những "chỗ hở", nơi
bạn có thể di động mà không cần dụng công, như người mổ bò của Trang Tử không?
Hãy biết rằng, nếu bạn có thể dành ra một chút thời giờ vào buổi sáng sớm để thật
sự sống, không cần chương trình, điều ấy sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất của trọn một
ngày. Khi ta biết khẳng định trước cái gì là chủ yếu của sự sống, ta sẽ có khả
năng cảm nhận, thưởng thức và đáp ứng với sự mới mẻ của mỗi giây mỗi phút hơn.
18.- KIÊN NHẪN
Có những thái độ và đức tánh đặc biệt có khả năng hỗ trợ cho
sự tu tập của ta, và tạo nên một mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống chánh niệm
đơm bông kết trái. Khi ta khai phát những phẩm tính này, là ta đang thực sự
canh tác mảnh đất tâm để nó có thể trở thành một nguồn mạch của từ bi, trí tuệ
và những hành động chân chính trong cuộc sống.
Những đức tính nội tâm có khả năng bảo trợ sự thiền tập của
ta, không thể nào bị áp đặt, ép buộc hoặc tuân theo như một đạo luật. Chúng chỉ
có thể được nuôi dưỡng và phát triển mà thôi. Và việc ấy chỉ xảy ra khi nào ta
đạt đến một giai đoạn mà ta thôi không còn muốn đóng góp vào khổ đau, cũng như
sự bối rối của chính mình, và có lẽ là của kẻ khác nữa. Chung quy nó có nghĩa
là hành động sao cho có luân lý, đạo đức - và đối với nhiều người, đây có thể
là một ý niệm rất nguy hại.
Có một lần tôi nghe trên máy phát thanh, một người nào đó định
nghĩa luân lý như là "sự phục tùng theo những điều không ai bắt buộc được".
Cũng hay đó chứ! Bạn làm vì một lý do nội tại, chứ không phải vì ai đó kiểm
soát bạn, hoặc vì bạn sẽ bị trừng phạt nếu không tuân theo, hay bị bắt gặp. Bạn
hành động theo lương tri của chính mình. Nó là một tiếng nói sâu xa phát xuất từ
trong ta, cũng tương tự như một mảnh đất tâm đang được vun xới cho sự trồng trọt
chánh niệm. Bạn sẽ không thể nào có được sự hòa hợp nếu bạn không tuân theo những
hành động đạo đức. Chúng cũng như là những hàng rào ngăn chận không cho các con
dê vào ăn hết những mầm non trong vườn của bạn.
Tôi thấy một trong những đức tính đạo đức căn bản này là sự
kiên nhẫn. Nếu bạn nuôi dưỡng đức kiên nhẫn, thì nhất định bạn sẽ nuôi dưỡng
chánh niệm, và sự thiền tập của bạn cũng sẽ từ đó dần dà trở nên thâm sâu hơn
và già dặn hơn. Dù sao đi nữa, trong giây phút hiện tại này, nếu bạn thật sự không
cố gắng đi về đâu hết, kiên nhẫn sẽ tự lo liệu lấy chính nó. Ðức kiên nhẫn nhắc
nhở với ta rằng sự việc sẽ khai triển theo đúng thời điểm của nó. Ta không bao
giờ có thể hối thúc bốn mùa được. Xuân đến thì cỏ xanh lại mọc. Sự vội vã thường
không ích lợi gì cho ai, mà nhiều khi lại còn gây nên nhiều khổ đau - cho chính
ta, đôi khi là cho những người sống quanh ta.
Kiên nhẫn lúc nào cũng là một liều thuốc chữa cho căn bệnh bất
an, bồn chồn và nóng nảy. Nếu bạn nhìn xuyên qua mặt ngoài của sự bất an, bạn sẽ
thấy được nằm bên dưới, dù có tinh tế hay không, là một sự nóng giận. Ðó là một
loại năng lượng mạnh phát xuất từ việc không muốn thực tại như nó là, và ta đổ
lỗi ấy cho một người nào đó (thường là tự trách mình), hoặc một vật nào đó.
Nhưng kiên nhẫn cũng không có nghĩa là ta sẽ không còn có thể vội vã được nữa,
những lúc cần thiết. Thật ra ta vẫn có thể vội vã một cách kiên trì, trong
chánh niệm và hành động mau mắn, vì ta chọn như thế.
Dưới cái nhìn của kiên nhẫn, thì cái này xảy ra vì cái kia xảy
ra. Không có bất cứ một sự việc nào có thể tồn tại riêng rẽ hay biệt lập. Không
có một nguyên nhân gốc rễ nào là tuyệt đối, cuối cùng, hoặc chịu trách nhiệm
hoàn toàn hết. Giả sử có một người nào đó dùng cây đánh bạn một cái, bạn sẽ
không nổi giận với cây gậy hoặc cánh tay ấy, mà là bạn tức giận với người có
cánh tay đó. Nhưng nếu bạn nhìn sâu hơn một chút, bạn sẽ không thể nào tìm thấy
một nguyên nhân thỏa đáng cho cơn giận của mình, cho dù ở nơi người kia, vì sự
thật anh ta không hề có ý thức về hành động của mình, cho nên chỉ mù quáng
trong lúc đó mà thôi. Vậy thì chúng ta nên đổ lỗi và trừng phạt ai đây? Có lẽ
ta nên trút cơn giận của mình lên cha mẹ của người ấy chăng, vì có thể anh ta
đã phải chịu sự hành hạ của họ lúc còn bé thơ? Hay là ta nên trách cứ thế giới
này vì đã không có tình thương? Nhưng thế giới này là gì đây? Có phải chăng
trong đó có cả bạn và tôi? Bạn có bao giờ nhận thấy rằng mình cũng có những cơn
giận như thế không, và trong một vài trường hợp nó có những khuynh hướng rất bạo
động, đôi khi có thể là giết người được?
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma không hề biểu lộ sự tức giận đối với người
Trung Hoa, mặc dù trong nhiều năm qua chính sách của chánh quyền Trung Hoa là
muốn diệt chủng dân tộc Tây Tạng của ông. Họ cố gắng đồng hóa những tín ngưỡng,
văn hóa, tục lệ, tất cả những gì mà người Tây Tạng yêu quý nhất, và muốn thâu gồm
luôn mảnh đất thân yêu mà họ đang sinh sống. Khi lên lãnh giải thưởng thế giới
Nobel về hòa bình, trả lời cho một ký giả hỏi rằng vì sao ngài không thù ghét
người Trung Hoa, đức Ðạt Lai Lạt Ma đáp: "Họ đã cướp hết tất cả những gì
chúng tôi có, không lẽ tôi lại để cho họ lấy luôn sự an lạc của mình hay
sao?"
Thái độ ấy tự nó là một biểu lộ rất đặc thù của hòa bình - niềm
an lạc trong nội tâm, ý thức được những gì thật sự là chính yếu - và sự an lạc
bên ngoài, hiện thân của tuệ giác ấy trong sự sống và hành động. An lạc và thái
độ sẵn lòng kiên nhẫn trước một sự khiêu khích và khổ đau to tát như thế, chỉ
có thể phát xuất ở một tâm từ bao la, một tình thương không chỉ giới hạn cho những
người thân, mà cho luôn cả những ai, vì si mê, đã gây cho ta và những người ta
yêu nhiều khổ đau.
Mức độ vô ngã của tâm từ dựa trên những gì mà đức Phật gọi là
chánh niệm và chánh kiến. Nhưng việc ấy không phải tự nhiên mà có. Nó cần phải
được tu tập và khai triển. Bạn nên nhớ rằng, không phải tánh giận sẽ không bao
giờ khởi lên nữa, nhưng ta có thể xử dụng nó, kiểm soát nó, và dùng năng lượng ấy
để nuôi dưỡng cho tính kiên nhẫn, từ bi, hòa hài và tuệ giác trong ta, và còn
có lẽ trong kẻ khác nữa.
Trong thiền tập, chúng ta phát triển tánh kiên nhẫn mỗi khi
ta dừng lại và ngồi xuống theo dõi hơi thở của mình. Và hành động ấy sẽ mời gọi
ta biết cởi mở hơn, biết tiếp xúc hơn, kiên nhẫn hơn với giây phút hiện tại, và
giây phút này tự nhiên sẽ kéo dài sang những thời gian khác trong cuộc sống.
Chúng ta ý thức được rằng, mọi việc sẽ khai mở theo đúng tự tánh của nó. Vì vậy
ta cũng phải biết cho phép sự sống của mình khai mở theo cùng một lối ấy. Ta
không cần phải để cho những lo âu và tham muốn về một tương lai nào đó thống trị
phẩm chất của giây phút hiện tại này, cho dù thực tại có là khổ đau chăng nữa.
Khi nào ta cần phải xô đẩy, hãy cứ xô đẩy. Khi nào ta cần phải lôi kéo, hãy cứ
lôi kéo. Nhưng chúng ta cũng biết khi nào mình không cần phải xô đẩy, và khi
nào không cần phải lôi kéo.
Chung quy là chúng ta cố gắng đem lại sự quân bình cho giây
phút hiện tại, biết rằng tuệ giác nằm trong sự kiên nhẫn, biết rằng những gì sắp
đến sẽ được định doạt bởi con người của ta trong giờ phút hiện tại này. Nhớ được
những điều ấy sẽ giúp ích cho ta rất nhiều, nhất là những khi ta cảm thấy bất
an trong sự tu tập của mình, hoặc khi ta trở nên nản lòng, buồn chán và tức giận
trong cuộc sống.
Thục năng trọc dĩ chỉ,
Tĩnh chi từ thanh.
Thục dĩ an dĩ cửu,
Ðộng chi từ sanh.
Tĩnh chi từ thanh.
Thục dĩ an dĩ cửu,
Ðộng chi từ sanh.
Ai hay nhờ tịnh mà đục hóa trong,
Ai hay nhờ động mà đứng lại đi.
Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh.
Ai hay nhờ động mà đứng lại đi.
Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh.
Tôi hiện hữu như vậy đủ rồi,
Dù không một ai khác biết.
Tôi vẫn ngồi đây mãn nguyện,
Và dù mọi người ai cũng biết.
Tôi vẫn ngồi đây mãn nguyện,
Có một thế giới đang biết, và đối với tôi.
Nó vĩ đại vô cùng, vì đó là Tôi,
Và dù tôi có trở về với chính mình.
Ngày hôm nay,
Hay trong ngàn, triệu năm đi qua,
Tôi sẽ hân hoan nhận lãnh nó bây giờ.
Và với cùng một niềm vui,
Vì tôi có thể đợi chờ. -- Walt Whitman, Leaves of Grass.
Dù không một ai khác biết.
Tôi vẫn ngồi đây mãn nguyện,
Và dù mọi người ai cũng biết.
Tôi vẫn ngồi đây mãn nguyện,
Có một thế giới đang biết, và đối với tôi.
Nó vĩ đại vô cùng, vì đó là Tôi,
Và dù tôi có trở về với chính mình.
Ngày hôm nay,
Hay trong ngàn, triệu năm đi qua,
Tôi sẽ hân hoan nhận lãnh nó bây giờ.
Và với cùng một niềm vui,
Vì tôi có thể đợi chờ. -- Walt Whitman, Leaves of Grass.
Thực tập: Hãy quan sát sự bất an và giận dữ mỗi khi chúng khởi
lên. Bạn hãy thử tập một cái nhìn mới, thấy được rằng sự việc sẽ khai mở theo
đúng thời điểm của nó. Việc này rất hữu ích, nhất là những khi bạn cảm thấy
căng thẳng, kẹt lối hoặc bối rối trong công việc bạn cần làm hay muốn làm. Biết
rằng khó, nhưng bạn cố gắng đừng thúc dục dòng sông trong lúc ấy, mà nên lắng
nghe nó cho thật cẩn trọng. Nó muốn nói gì với bạn? Nó khuyên bạn phải làm gì?
Nếu không cảm thấy gì hết, bạn hãy tiếp tục thở trong chánh niệm, để cho sự việc
như chúng là, buông hết cho sự kiên nhẫn và tiếp tục lắng nghe. Nếu dòng sông khuyên
bạn làm gì, bạn hãy thi hành, nhưng phải nhớ là làm trong chánh niệm. Rồi sau
đó, dừng lại, kiên nhẫn chờ đợi và lại lắng nghe.
19.- BUÔNG BỎ
"Buông bỏ" là một thành ngữ vô cùng sáo rỗng, đã được
xử dụng nhiều nhất trong kỷ nguyên thời đại mới (new age). Nó bị lợi dụng và lạm
dụng mỗi ngày. Nhưng tuy vậy, danh từ ấy diễn tả một thái độ nội tâm rất dũng
mãnh, đáng cho ta tìm hiểu dù có là sáo rỗng hay không!
Buông bỏ có nghĩa y như vậy, là bảo ta thôi bám víu vào bất cứ
một sự việc gì - cho dù đó là một ý tưởng, một vật, một sự kiện, một thời điểm,
một quan niệm, hoặc một tham muốn nào đó. Buông bỏ là một quyết định có ý thức,
với sự chấp nhận hoàn toàn hòa nhập vào dòng sông hiện tại trong khi hiện hữu
đang khai mở. Buông bỏ có nghĩa là thôi ép buộc, thôi chống cự hoặc tranh đấu,
để đổi lấy một cái gì cường mạnh hơn và trọn vẹn hơn. Nó phát sinh từ một sự
cho phép mọi việc có mặt như chúng là, mà không bị mắc kẹt vào bản chất dính
như keo của lòng tham muốn, của thương và ghét. Hành động ấy cũng tương tự như
là ta mở rộng bàn tay ra, buông bỏ một vật gì mà mình hằng mãi mê nắm giữ.
Nhưng thật ra không phải sự dính mắc của lòng tham vào ngoại
vật đã giam giữ ta. Cũng không phải chúng ta chỉ nắm giữ bằng đôi tay, chúng ta
còn nắm bắt bằng tâm ý của mình nữa. Chúng ta tự bắt giữ mình, tự giam hãm mình
bằng những quan điểm nhỏ hẹp, bằng những hy vọng và mơ ước nhỏ nhen. Thật ra
buông bỏ có nghĩa là ta được trở nên trong sáng, không để bị ảnh hưởng bởi sự
lôi cuốn của lòng ưa thích và ghét bỏ. Muốn đạt được sự trong sáng đó, ta cần
phải biết cho phép sự sợ hãi và bất an của tự chúng biểu lộ ra dưới ánh sáng
quán chiếu của chánh niệm.
Chúng ta chỉ có thể thực sự buông bỏ khi nào ta biết đem
chánh niệm và sự chấp nhận, nhìn thẳng vào thực chất vô cùng dính mắc của mình.
Và nếu ta biết ý thức được những lúc ta vô tình mang lên một cặp mắt kính màu,
đi phân chia chủ thể và đối tượng, làm cong quẹo và uốn éo cái thấy của ta.
Trong những lúc ấy, ta vẫn có một khả năng cởi mở, nhất là nếu ta có chánh niệm
thấy được mình đang mãi mê theo đuổi, bám víu, buộc tội hoặc chối bỏ sự việc vì
một lợi lộc riêng tư nào đó.
Sự tĩnh lặng, minh triết, tuệ giác chỉ có thể phát sinh khi
ta thật sự an trú trong giờ phút hiện tại, mà không bám víu hoặc xua đuổi bất cứ
một việc gì. Ðiều tôi nói đó bạn có thể thí nghiệm được. Hãy cứ thử đi cho biết!
Bạn hãy thử chứng nghiệm đi, xem mỗi khi ta buông bỏ một cái gì mà mình rất ưa
thích, nó có đem lại cho ta một sự mãn nguyện sâu xa hơn là sự bám víu vào nó
hay không!
20.- KHÔNG PHÊ PHÁN
Bạn không cần phải hành thiền lâu dài mới nhận ra rằng, một
phần của tâm ta lúc nào cũng đánh giá những kinh nghiệm của mình, so sánh chúng
với kinh nghiệm của kẻ khác, hoặc so đọ với những kỳ vọng và tiêu chuẩn mà ta
đã tự đặt ra. Nguyên nhân thường là vì những nỗi sợ của mình. Sợ rằng mình
không xứng đáng, rằng sẽ có việc không may xảy ra, rằng những gì tốt đẹp không
tồn tại lâu, rằng người khác sẽ làm mình khổ đau, rằng ta không đạt được những
gì mình muốn, rằng chỉ có ta mới là người biết, rằng chỉ có mình ta là không biết
gì hết. Chúng ta có khuynh hướng nhìn sự vật qua một cặp kính màu: sự việc tốt
hoặc xấu, hoặc chúng có phù hợp với niềm tin và triết lý của mình không. Nếu tốt
thì ta ưa thích, nếu xấu thì ta ghét bỏ. Và nếu không tốt cũng không xấu, thì
ta không có một cảm xúc nào đặc biệt hết, và có lẽ cũng chẳng thèm để ý đến.
Khi ta an trú trong tĩnh lặng, những tư tưởng phê phán trong
ta sẽ phát hiện ra rõ rệt như là những tiếng còi báo hiệu sương mù ở ven biển.
Tôi không ưa cái đau ở chân... Cái này chán quá... Tôi thích cảm giác tĩnh lặng
này... Hôm qua tôi ngồi thiền thật tốt, nhưng hôm nay thì tệ quá... Cái này
không hợp với tôi... Tôi không giỏi ngồi thiền cho lắm... Thật ra tôi không giỏi
chút nào hết... Những loại tư tưởng này đã từng chế ngự và trì kéo tâm ta xuống.
Nó cũng tương tự như ta đang đội một thúng đá trên đầu vậy. Bạn nghĩ xem, nếu
ta có thể bỏ nó xuống thì sung sướng biết chừng nào! Và bạn hãy tưởng tượng, nếu
chúng ta biết dừng sự phê phán của mình lại, và để cho mỗi giây phút được như
nó là, không cần phán đoán nó là "tốt" hoặc "xấu", ta sẽ cảm
thấy như thế nào! Ðó mới thật sự là tĩnh lặng, là chân giải thoát.
Thiền tập có nghĩa là nuôi dưỡng và phát triển một thái độ
không phê phán những gì đang khởi lên trong tâm, bất cứ là một sự việc gì. Thiếu
thái độ ấy không có nghĩa là sự phê phán không còn nữa. Lẽ dĩ nhiên nó sẽ vẫn
còn đó, vì bản tánh của tâm ý là hay so sánh, phê phán và đánh giá. Nhưng khi
nó có mặt, ta sẽ không cố gắng ngăn chận hoặc làm lơ nó, hơn bất cứ một tư tưởng
nào khác có mặt trong tâm mình.
Con đường của thiền tập là chỉ đơn giản chứng kiến bất cứ một
sự việc gì khởi lên trong tâm và thân, nhận diện nó bằng một tâm bình thản,
không theo đuổi cũng không ghét bỏ. Ta cũng ý thức được rằng, sự phán đoán của
ta không thể nào tránh được, và ý tưởng về kinh nghiệm thì rất giới hạn. Ðiều
ta muốn có được trong thiền tập là tiếp xúc trực tiếp với kinh nghiệm của mình.
Cho dù đó là một hơi thở vào, hơi thở ra, một cảm giác hoặc cảm thọ, một âm
thanh, một sự thôi thúc, một tư tưởng, một ý niệm, hoặc một ý nghĩ phê phán. Và
ta luôn luôn tỉnh thức, biết rằng mình rất có thể bị kẹt vào việc đi phê phán
chính sự phê phán ấy, hoặc dán cho chúng nhản hiệu là tốt hay xấu.
Trong khi ý nghĩ của ta hay tô màu lên mọi kinh nghiệm, những
ý nghĩ ấy lại thường không được mấy chính xác. Lắm khi chúng chỉ là ý kiến cá
nhân, là những phản ứng và thiên kiến dựa trên một kiến thức giới hạn và chịu
nhiều ảnh hưởng bởi những điều kiện trong quá khứ. Bao giờ cũng vậy, khi không
nhận thức được chúng, những tư tưởng ấy có thể ngăn trở không cho ta thấy rõ được
thực tại chung quanh. Chúng ta bị mắc kẹt trong sự suy nghĩ, tưởng rằng ta thật
sự biết những gì mình đang nhìn, đang cảm nhận, và đem tâm phán đoán khéo léo
áp đặt lên mọi việc ta tiếp xúc. Chỉ cần ta ý thức được tập quán cố hữu này và
theo dõi nó mỗi khi nó có mặt, có thể giúp ta phát triển một thái độ chấp thuận
và tiếp nhận mà không phê phán, vô cùng rộng lớn.
Nhưng bạn nên nhớ rằng, một thái độ không phê phán không có
nghĩa là ta sẽ không còn biết xử sự hoặc hành động có trách nhiệm trong xã hội
nữa, hoặc là để mặc ai làm gì cũng được. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là chúng ta
biết hành xử sáng suốt hơn trong cuộc sống, ta trở nên quân bình hơn, hữu hiệu
hơn và có đạo đức hơn trong mọi sinh hoạt. Vì ta ý thức được rằng, mình đang đắm
chìm trong dòng sông thất niệm, của sự ưa thích và ghét bỏ, chúng ngăn che ta với
thế giới và bản chất thanh tịnh của mình. Tâm thức ưa ghét ấy có thể cư trú thường
trực trong ta, và nó cung cấp nguyện liệu cho những hành động si mê của ta một
cách vô ý thức, trong mọi lãnh vực của sự sống. Khi ta có thể nhận diện và gọi
tên những hạt giống tham lam trong tâm, dù chúng tinh tế đến đâu - lúc nào cũng
muốn theo đuổi sự vật và kết quả mình mong mỏi - và những hạt giống của sân hận,
ghét bỏ, trốn tránh những gì mình không ưa thích - nó sẽ giúp ta dừng lại trong
một khoảnh khắc và tự nhắc nhở rằng, những năng lực nguy hại ấy đang thực sự có
mặt nơi ta. Ta có thể nói rằng chúng là những vi khuẩn, độc tố rất nguy hiểm, ngăn
trở không cho ta nhìn thấy rõ được thực tại cũng như xử dụng hết chân tiềm lực
của mình.
21.- NIỀM TIN
Niềm tin là một cảm giác tự tin hoặc tin thực rằng, sự việc
có thể khai triển trong một khuôn khổ đáng tin cậy, cũng như nó là hiện thân của
trật tự và sự trung thực. Có lẽ không phải lúc nào chúng ta cũng sẽ có thể hiểu
được những gì xảy đến với mình, với người khác, hoặc sự kiện trong một trường hợp
đặc biết nào đó. Nhưng nếu ta biết đặt niềm tin nơi mình, hoặc người khác, hoặc
vào một tiến trình, một lý tưởng, chúng ta có thể tìm được một yếu tố rất vững
vàng, nó tàng chứa sự an ổn, quân bình và cởi mở trong một niềm tin dựa vào trực
giác mà có thể dẫn dắt và bảo vệ ta khỏi mọi sự nguy hiểm cũng như tự tổn
thương.
Niềm tin rất quan trọng trong sự tu tập chánh niệm. Vì nếu ta
không tin vào khả năng quan sát, cởi mở và chú ý của mình, cũng như khả năng
suy ngẫm về những kinh nghiệm đã qua, hoặc học hỏi từ sự quán chiếu sâu xa,
chúng ta sẽ không bao giờ chịu cố gắng phát triển những khả năng ấy, và chúng sẽ
ngủ vùi hoặc héo khô đi.
Một phần của sự tu tập chánh niệm là phát huy mọi con tim biết
tin tưởng. Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách quay lại nhìn chính mình cho thật
sâu. Bạn có tìm được một điều gì ở mình để cho ta đặt niềm tin không? Nếu bạn
còn chút phân vân thì có lẽ bạn nên quan sát sâu thêm một chút, nên tiếp xúc với
chính mình trong hiện thực và tĩnh lặng lâu hơn một chút. Nếu chúng ta đã quen
sống trong sự thất niệm và không bao giờ cảm thấy bằng lòng với những gì xảy đến
trong cuộc đời mình, thì có lẽ đây là lúc ta nên tập ý thức hơn, biết tiếp xúc
hơn, và chú ý đến những sự chọn lựa của mình, cũng như hậu quả của chúng về
sau.
Có lẽ ta nên thử nghiệm bằng cách đặt niềm tin vào giây phút
hiện tại này, hãy chấp nhận hết những gì mình đang cảm nhận, suy nghĩ hoặc nhìn
thấy trong giây phút này, vì đó là hiện thực. Nếu ta có thể đứng vững vàng nơi
đây và hội nhập được trọn vẹn vào giây phút này, ta sẽ nhận ra rằng thời gian
hiện tại rất đáng được cho ta tín cẩn. Với những thí nghiệm đó, được kinh nghiệm
nhiều lần, ta sẽ khám phá ra rằng sâu kín trong ta là một cốt lõi rất lành mạnh
và đáng tin. Và trực giác của ta là một sự vang động thâm sâu của hiện thực, nó
rất đáng được tín nhiệm.
Hãy mạnh dạn,
Và an trú trong thân mình.
Nơi dưới chân ta bao giờ cũng vững chắc,
Hãy suy nghĩ cho tường tận!
Ðừng bỏ đi đâu nữa mà làm gì!
Và an trú trong thân mình.
Nơi dưới chân ta bao giờ cũng vững chắc,
Hãy suy nghĩ cho tường tận!
Ðừng bỏ đi đâu nữa mà làm gì!
Kabir nói như vầy: "Hãy quẳng đi hết mọi ý nghĩ và những
sự vật tưởng tượng.
Và đứng cho thật vững vàng trong con người của ta. -- Kabir
Và đứng cho thật vững vàng trong con người của ta. -- Kabir
22.- ÐỨC RỘNG LƯỢNG
Ðức rộng lượng cũng như những đức tính khác, như là kiên nhẫn,
buông bỏ, không phê phán và tin tưởng, nó cung cấp một nền tảng vững chắc cho sự
tu tập chánh niệm của ta. Chúng ta có thể kinh nghiệm đức rộng lượng như là một
phương tiện tự quán chiếu sâu sắc hoặc là một bài tập bố thí. Và bài tập về đức
rộng lượng ấy, chúng ta nên bắt đầu từ chính ta. Thỉnh thoảng, bạn có thể tự tặng
cho mình những món quà thật sự là quý báu, như là một thái độ tự chấp nhận, hoặc
là một ngày không cần có chương trình và mục đích. Bạn cũng nên tập cảm thấy
mình xứng đáng nhận lãnh những món quà ấy - chỉ cần giản dị tiếp nhận tự chính
ta, và từ vũ trụ.
Bạn có thể tiếp xúc được với bản chất của con người mình
không, nơi ấy giàu có và phong phú hơn tất cả những gì bạn có thể tìm kiếm được!
Hãy để nơi ấy tỏa chiếu năng lượng của nó ra bên ngoài, tràn ngập thân thể ta,
và tỏa phát ra chung quanh ta. Bạn hãy thí nghiệm sự ban phát năng lượng này -
ban đầu một chút thôi - hướng nó về chính mình và cho những người khác mà không
cần mong cầu được lại một cái gì hết. Hãy cho nhiều hơn là bạn nghĩ mình có thể,
và tin rằng ta giàu có hơn là mình tưởng. Ăn mừng sự giàu có này của ta, hãy
ban cho như là ta có một kho tàng vô tận. Ðó chính là con đường "bố thí
theo vương đạo" trong nhà Phật.
Tôi không phải chỉ nói về vấn đề tiền bạc hay của cải, mặc dù
sự chia xẻ giàu có vật chất cũng rất lợi ích, có thể làm tăng trưởng, nâng cao
tâm hồn ta rất nhiều. Nhưng điều tôi muốn nói là ta nên thực tập chia xẻ sự
toàn vẹn của con người mình, một cái tôi tốt đẹp nhất, nhiệt tình của ta, sức sống
của ta, tâm hồn ta, niềm tin tưởng, sự cởi mở và trên hết tất cả, là sự có mặt
của ta. Hãy chia xẻ nó với chính ta, với gia đình ta, và thế giới chung quanh
ta.
Thực tập: Hãy ghi nhận sự thúc đẩy lại ý muốn bố thí, những
lo âu về tương lai, cảm tưởng rằng có lẽ ta đã cho quá nhiều, không được ai tán
thưởng, hoặc giả ta sẽ bị đuối sức, không được lợi lộc gì hết, hay là mình sẽ
không còn lại một cái gì. Bạn hãy xét lại những lo nghĩ ấy, vì rất có thể chúng
không thực chút nào hết. Chúng có thể chỉ là những hình tướng của một sự lười
biếng, nhỏ nhen hoặc ích kỷ, bắt nguồn từ một sự sợ hãi. Cái ý nghĩ và cảm giác
này là những góc cạnh của thô thiển, gồ ghề của tính tự lợi. Chúng va chạm với
thế giới chung quanh và thường đem lại khổ đau cho ta cũng như cho kẻ khác, một
cảm giác ngăn cách, cô lập và suy tổn. Ðức bố thí sẽ dùi mài và làm phẳng láng
những góc cạnh còn thô ấy và giúp ta trở nên có ý thức hơn về sự giàu có trong
nội tâm của mình. Bằng sự thực tập chánh niệm về đức rộng lượng, bằng sự bố thí
và quan sát ảnh hưởng của chúng trên chính ta và kẻ khác, ta sẽ bắt đầu tự chuyển
hóa, tự thanh lọc và khám phá được một con người mới của ta rộng lớn hơn.
Có thể bạn phản đối rằng, bạn không còn đủ năng lượng hoặc
nhiệt tình để ban bố bất cứ một cái gì hết, rằng bạn đã quá mệt mỏi và nghèo
túng lắm rồi. Hoặc có thể bạn cảm thấy cả đời mình chỉ có ban cho và ban cho,
mà không ai biết ơn hay để ý gì đến cả. Cũng có thể bạn xử dụng sự bố thí như
là một phương tiện để đi trốn tránh một nỗi đau và sự sợ hãi, hay vì muốn kẻ
khác ưa thích và chịu lệ thuộc vào mình. Bạn nên chú tâm và quán chiếu những loại
bố thí ấy cho thật cẩn thận. Vì bố thí mà thiếu chánh niệm sẽ không bao giờ
lành mạnh, hoặc rộng lượng. Ðiều quan trọng là bạn phải hiểu được động cơ thúc
đẩy mình bố thí, và ý thức được khi nào sự bố thí của mình bắt nguồn từ sự sợ
hãi và thiếu tự tin, thay vì từ một lòng độ lượng.
Trong sự thực tập bố thí với chánh niệm, ta không cần thiết
phải cho tất cả những gì mình có, mà thật ra ta không cần phải cho bất cứ một
cái gì hết. Và trên hết, đức rộng lượng là một sự bố thí trong nội tâm, một sự
cảm biết, một ý muốn chia xẻ con người và sự sống của chính ta với thế giới
chung quanh. Ðiều quan trọng nhất là bạn phải biết tin tưởng và tôn trọng trực
giác của mình, nhưng cùng một lúc, bao giờ cũng dám mạo hiểm, dám liều lĩnh để
thử nghiệm. Có thể là bạn cần nên bớt ban cho lại một chút, hoặc tin nơi trực
giác của mình về những sự lạm dụng hay những động cơ thúc đẩy mờ ám. Cũng có thể
bạn cần phải biết cho nhiều hơn nữa, nhưng bằng một lối khác, hoặc cho những hạng
người khác. Và cũng rất có thể, bạn cần phải biết bố thí cho chính mình trong một
thời gian trước đã. Rồi sau đó bạn mới tập bố thí cho người khác, một chút xíu
nhiều hơn là bạn nghĩ bạn có thể, ghi nhận trong chánh niệm và buông bỏ hết bất
cứ một ý nghĩ hoặc mong cầu nào về sự trả ơn.
Hãy tự động bố thí. Bạn không cần phải chờ người khác hỏi. Thử
xem việc gì sẽ xảy ra - nhất là cho bạn. Có thể bạn sẽ khám phá ra rằng, bạn đạt
được một cái nhìn sáng tỏ hơn về mình và về những mối tương quan của mình, cũng
như bạn sẽ có nhiều năng lượng hơn, thay vì bị giảm bớt đi. Cũng có thể bạn sẽ
cảm thấy thay vì trở nên đuối sức hoặc nghèo túng, bạn lại được nuôi dưỡng và
giàu có thêm lên. Vì đó là năng lực của sự bố thí vị tha trong chánh niệm. Bạn
nên nhớ rằng, ở một bình diện thâm sâu nhất, thật ra không hề có người cho,
không có người nhận và cũng không có quà tặng... tất cả chỉ là một vũ trụ này,
và nó tự sắp xếp lại mà thôi.
23.- CÁI DŨNG CỦA SỰ YẾU ÐỐI
Nếu bạn là một người có ý chí mạnh mẽ và thành đạt trong xã hội,
có lẽ bạn thường biểu lộ là mình không khi nào cảm thấy bất an, tổn thương hoặc
sút kém bao giờ. Sự kiện này có thể rất là cô đơn và cuối cùng sẽ đem lại cho
ta cũng như người chung quanh những khổ đau rất lớn. Những người chung quanh sẽ
không ngần ngại gì mà không chấp nhận thái độ ấy của bạn, và họ sẽ cùng thông đồng
đem gán cho bạn có một cá tánh vững như bàn thạch, và từ đó không cho phép bạn
được thật sự biểu lộ ra một cảm tình nào nữa. Thật ra chúng ta rất dễ dàng bị
tách rời với những cảm xúc thật sự của mình, nhất là qua những tấm áo địa vị và
sự hào nhoáng bề ngoài. Sự cô lập này rất thường xảy đến cho những người chủ
trong gia đình và cho bất cứ những ai giữ một chức vụ nào có chút ít quyền lực,
bất cứ ở đâu.
Và khi ta chấp nhận rằng thiền tập sẽ làm cho ta trở nên vững
mạnh hơn, việc ấy cũng có thể tạo nên một hoàn cảnh khốn khó tương tự. Ta có thể
bắt đầu tin thật sự và đi đóng vai một người hoàn toàn bất lay động, không gì
có thể xúc phạm tới, một thiền sinh chân chánh - là người biết giữ mọi việc
trong sự kiểm soát của mình, có trí tuệ đủ để đối với mọi chuyện mà không bị mắc
kẹt vào những phản ứng cảm xúc. Nhưng trong quá trình ấy, ta có thể vô tình đi
ngăn chận chính sự phát triển của mình một các khéo léo mà không hề hay biết.
Chúng ta ai cũng có một đời sống tình cảm. Chối bỏ nó chỉ tự đem lại hiễm họa
cho mình mà thôi.
Vì thế, mỗi khi bạn cảm thấy mình đang xây dựng một hình ảnh
của sự bất lay chuyển, của sức mạnh, của một kiến thức sâu rộng hay là một tuệ
giác, dựa trên kinh nghiệm thiền tập của bạn, cho rằng có lẽ mình đã đạt đến một
trình độ nào đó rồi và bạn bắt đầu thích bàn nhiều về thiền theo chiều hướng tự
đề cao, tự thổi phồng, những lúc ấy bạn nên đem chánh niệm trở về để ý thức được
những tâm ý ấy của mình. Bạn hãy tự hỏi, có phải ta đang trốn chạy những yếu đuối
của mình hay không, hay có lẽ vì một nỗi khổ đau, hoặc cũng có thể là vì một sự
sợ hãi nào đó trong tâm. Vì nếu bạn thực sự vững mạnh, bạn sẽ không bao giờ cảm
thấy cần thiết phải chứng tỏ điều ấy với chính mình hoặc người khác. Cách hay
nhất là hãy chọn lựa một con đường hoàn toàn khác hẳn, là hướng sự chú ý của
mình vào nơi nào mà mình cảm thấy sợ hãi nhất. Bạn có thể thực hiện được việc ấy
bằng cách cho phép mình dám cảm xúc, dám khóc nếu muốn, rằng ta không cần phải
có ý kiến về mọi vấn đề, không cần phải làm ra vẻ như mình là vô song hoặc
không có một cảm xúc gì đối với người khác. Thay vào đó, bạn hãy tập tiếp xúc
và cởi mở, một cách thích hợp với những cảm xúc của mình. Những gì bề ngoài có
vẻ như yếu đuối thường thường lại ẩn tàng một sức mạnh thật sự. Và những gì dường
như là sức mạnh nhiều khi lại là một sự yếu đuối. Chúng chỉ là những bộ mặt và
hành động giả tạo bề ngoài mà thôi, cho dù đối với ta và người khác chúng có vẻ
đáng tin đến đâu đi chăng nữa.
Thực tập: Ghi nhận đường lối gay gắt của mình mỗi khi ta
đối phó với những khó khăn trong cuộc sống. Hãy thử kinh nghiệm, giữ cho mình
được mềm dịu mỗi khi ta cảm thấy muốn cứng rắn, rộng rãi khi ta cảm thấy muốn
ích kỷ, cởi mở ra mỗi khi ta cảm thấy muốn đóng kín, khép chặt tình cảm lại.
Khi nào ta có những buồn khổ hay sầu muộn, cố gắng cho phép nó có mặt. Hãy cho
phép ta cảm xúc những gì mình đang cảm xúc. Chú ý đến những danh hiệu ta dán
cho những giọt nước mắt và cảm giác dễ bị thương tổn. Buông bỏ hết đi những
danh hiệu ấy, chỉ cần cảm giác những gì mình đang cảm giác, và luôn duy trì
chánh niệm trong từng giây phút, cởi trên đầu những ngọn sóng "thăng"
và "trầm", "tốt" và "xấu", "mạnh" và
"yếu", cho đến khi bạn thấy rằng chúng không hề có khả năng diễn tả
trọn vẹn được hết những kinh nghiệm của mình. Sống với chính kinh nghiệm ấy.
Hãy đặt niềm tin nơi sức mạnh thâm sâu nhất của ta: có mặt trong giờ phút hiện
tại, sống tỉnh thức.
Trong tôi bao giờ cũng có một sự thúc đẩy muốn dồn nhét thêm
một điều này hoặc việc nọ trong trong giây phút hiện tại. Chỉ cần một cú điện
thoại nữa thôi, dừng lại thêm một chỗ này thôi trên đường đi đến chỗ kia. Cho
dù có ngược đường đi chăng nữa cũng mặc kệ.
Tôi đã học cách nhận diện được những cảm xúc thúc đẩy này và
bất tin nơi chúng, tôi cố gắng tập cách từ chối chúng. Ðôi khi tôi bắt gặp mình
đang ngồi ăn sáng, trong khi mắt dính chặt vào hộp bánh ngũ cốc (Cereal), đọc
đi đọc lại có lẽ hằng trăm lần tấm bảng liệt kê những chi tiết về dinh dưỡng,
hoặc tờ quảng cáo đồ biếu không của công ty thực phẩm. Sự thúc đẩy này không cần
biết là nó đang được cấp dưỡng từ những gì, hễ được cung cấp là đủ rồi. Báo chí
cũng là một sự hấp dẫn đặc biệt khác, hoặc là những sách quảng cáo hàng hóa,
hay bất cứ những gì chung quanh mà ánh mắt tôi có thể bắt gặp. Sự thúc đẩy ấy
bươi móc tìm kiếm để giết thì giờ, nó đồng lõa với tâm ý để giữ tôi trong thất
niệm, ru ngủ tôi trong sương mù của sự tê lặng, đủ để làm cho tôi đầy bụng hoặc
tức bụng trong khi hoàn toàn bỏ lỡ mất buổi ăn sáng. Nó khiến tôi không hề thật
sự có mặt với những người chung quanh, không biết đến ánh sáng bình minh loáng
thoáng trên bàn, những mùi hương thơm trong gian phòng, những năng lượng trong
giây phút hiện tại, kể cả những tranh cải và thảo luận, khi chúng tôi cùng ngồi
lại với nhau trong ngày trước khi mỗi người phải đi một nơi.
Tôi muốn tự nguyện tập cho mình một đức giản dị để đối trị những
cảm xúc thúc đẩy ấy, và muốn đoan chắc rằng sự dinh dưỡng phải được bắt nguồn từ
một bình diện sâu sắc. Tôi thực tập có ý thức, cố ý bao giờ cũng chỉ làm một việc
thôi, và thật sự có mặt ở đó. Có biết bao nhiêu cơ hội để tôi luyện tập như khi
đi dạo chẳng hạn, hay khi đùa chơi với con chó của mình, tôi thực sự có mặt với
nó. Ðức đơn giản tự nguyện có nghĩa là trong một ngày tôi ít đi đây đó hơn, tôi
nhìn ít lại để có thể thấy được nhiều hơn, làm ít lại để tôi có thể hoàn tất
nhiều hơn, thu thập ít lại để được giàu có hơn. Tất cả mọi việc điều dính liền
với nhau. Là một người cha của mấy đứa con còn nhỏ dại, là một trụ cột của gia
đình, một người chồng, một người con trưởng, một người rất yêu công việc của
mình, tôi không thể nào chọn con đường bỏ đi đến hồ Walden hay một nơi hẻo lánh
nào đó, và ngồi dưới gốc cây trong vài năm, lắng nghe tiếng cây cỏ đổi thay và
bốn mùa chuyển hóa, mặc dù sự thúc đẩy ấy đã vẫy gọi tôi biết bao nhiêu lần.
Nhưng sống giữa những hỗn loạn có trật tự này, giữa những phúc tạp của đời sống
gia đình và việc làm, với mọi đòi hỏi cũng như trách nhiệm của chúng, những sự
nản lòng và niềm vui vô tận, vẫn có dư thừa cơ hội để ta thực tập sự giản dị bằng
những đường lối nho nhỏ.
Chậm rãi lại trong mọi việc là một phần rất lớn của sự thực tập.
Biết bao nhiêu lần tôi đã phải bảo thân tâm mình ở với đứa con gái thay vì
phóng đi trả lời chuông điện thọai, không phản ứng theo dự thúc dục gọi điện
thoại cho một người nào đó đang "cần gọi" ngay bây giờ, không thu mua
những món đồ mới, và ngay cả những tạp chí, truyện hình, phim chuyện theo một sự
thúc dục nhất thời. Ðó là một trong những cách có thể giúp ta làm đơn giản hóa
cuộc sống của mình một chút. Cũng còn những cách khác nữa như: một buổi chiều
chỉ ngồi nghỉ không cần phải làm gì hết, hoặc đọc sách, hoặc đi dạo một mình, với
một em bé hay một người thân thương, chất thêm đống củi cho đầy, nhìn trăng, cảm
giác gió mát trên mặt khi đứng dưới gốc cây, hoặc là đi ngủ sớm...
Tôi tập nói "không" để giữ cho đời sống mình được
giản dị và tôi thấy rằng mình không bao giờ có thể làm đủ. Sự tu tập ấy tự nó
là một kỷ luật rất cam go nhưng vô cùng đáng giá. Tuy vậy cũng rất là tế nhị.
Trong cuộc sống bao giờ cũng sẽ có những nhu cầu và cơ hội đòi hỏi sự đáp ứng tức
thì của ta. Sự cương quyết sống đơn giản giữa cuộc đời là một hành động giữ
quân bình rất tinh tế. Chúng ta bao giờ cũng phải biết quay trở về, tìm hiểu
thêm và có ý thức hơn. Nhưng tôi thấy rằng, quan niệm về sự đơn giản tự nguyện
giúp cho tôi ý thức được những gì thực sự quan trọng, về một môi sinh (Ecology)
của thân, tâm và thế giới chung quanh, trong đó mọi sự đều có một tương quan mật
thiết với nhau và mỗi sự chọn lựa của ta đều có những hậu quả rất sâu xa. Ta
không bao giờ có thể kiểm soát được tất cả mọi chuyện. Nhưng chọn sự đơn giản,
mỗi khi được, sẽ đem lại cho sự sống của ta một yếu tố tự do rộng lớn, mà cũng
rất có thể bị đánh mất thật dễ dàng. Và tôi đã khám phá ra rằng "ít"
đôi khi mới thật sự là "nhiều".
Ðơn giản, đơn giản, đơn giản! Tôi nói rằng một số công việc của
bạn phải là hai hay ba, chứ đừng để là trăm hay ngàn; thay vì là một triệu hãy
đếm chừng nửa tá thôi... Giữa đại dương sóng vỗ bập bềnh của đời sống văn minh,
có mây đen và giông bão và vùng cát lầy và một ngàn lẻ một món đồ cho phép mang
theo, nếu một người muốn sinh tồn, nếu người ấy không về đến bến bị đắm chìm dưới
lòng đại dương sâu thẳm, xem như là đã chết, và chỉ có những ai là bậc tính
toán đại tài mới có thể thành công. Hãy giản dị hóa và giản dị hóa. --
Thoreau, Walden.
25.- ÐỊNH
Ðịnh là nền tảng của sự tu tập chánh niệm. Năng lực chánh niệm
của ta hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng tĩnh lặng, mặt hồ chánh niệm sẽ bị gợn
sóng và lao chao, nó không thế nào phản ảnh được sự thật một cách rõ ràng và
chính xác.
Ðịnh có thể được thực tập chung với chánh niệm hoặc riêng rẽ.
Bạn có thể nghĩ đến định như là khả năng của tâm, giúp ta duy trì sự chú ý của
mình vào một đối tượng quan sát mà không xao lãng. Ðịnh có thể được thực tập bằng
cách chú tâm vào một vật mà thôi, thí dụ hơi thở chẳng hạn, và giới hạn sự chú
ý của ta vào nơi đó. Trong tiếng Phạn, định được gọi là Samadhi hay là "nhất
điểm". Samadhi của ta sẽ được phát triển và trở nên sâu sắc hơn, mỗi khi
ta đem sự chú ý của mình trở về với hơi thở những khi nó suy nghĩ lan man.
Trong những phương pháp chuyên về thiền định, chúng ta không cần phải quán sát
và theo dõi, ví dụ tâm ý ta lang thang đi đâu, hoặc hơi thở ta thay đổi như thế
nào? Ngược lại, chúng ta dồn hết nỗ lực của mình vào một việc kinh nghiệm hơi
thở này vào, hơi thở này ra, hay một đối tượng duy nhất nào đó. Sau một thời
gian dài thực tập, tâm ta sẽ có thể ở với hơi thở càng lúc càng dễ dàng hơn. Nó
sẽ ghi nhận được ngay những lơ đãng, lo ra của ta vì bất cứ một nguyên nhân nào
đó và ta có thể chống lại sự lôi kéo ấy hoặc là nhanh chóng đem sự chú ý của
mình trở về với hơi thở.
Sự tĩnh lặng đạt được bằng sự tu tập thiền định chuyên cần,
có một phẩm chất vững vàng rất đặc biệt. Nó kiên cố, thâm sâu và không thể suy
chuyển vì bất cứ một lý do gì. Nếu thỉnh thoảng bạn có thể thực tập thiền định
trong một thời gian, thì đó là một món quà rất quý giá, nhất là trong những
khóa tu thinh lặng nhiều ngày, khi ta có cơ hội để tạm xa lánh cuộc đời như ông
Thoreau vậy.
Sự vững vàng và tĩnh lặng do thiền định đem lại, sẽ làm nền tảng
cho sự tu tập chánh niệm. Nếu thiếu định (Samadhi), chánh niệm của ta sẽ không
thế nào vững mạnh. Ta chỉ có thể nhìn sâu vào một đối tượng nào đó, nếu tâm ta
không bị xao động, hoặc đi lang thang từ nơi này đến nơi khác. Ðịnh của ta càng
thâm sâu đến đâu, thì niệm của ta mới có thể được thâm sâu đến chừng ấy.
Kinh nghiệm của một trạng thái định thâm sâu rất dễ chịu. Khi
ta nhất tâm chú ý vào hơi thở của mình, mọi việc khác sẽ biến mất - kể cả tư tưởng,
cảm xúc và thế giới chung quanh. Samadhi thường được tiêu biểu bằng một sự hội
nhập vào một trạng thái tĩnh lặng và một niềm an lạc bất chuyển. Mùi vị của sự
tĩnh lặng này có thể vô cùng quyến rũ, đôi khi làm cho ta đê mê. Vì thế, chúng
ta thấy mình thích đi tìm cảm giác an tịnh này, cũng như sự đơn sơ của một trạng
thái yên ổn và vui sướng.
Nhưng thiền định, dù mạnh mẽ và thỏa mãn đến đâu, cũng không
thế nào trọn vẹn nếu thiếu chánh niệm để hỗ trợ và làm cho nó được sâu sắc hơn.
Nếu tự mình nó, định cũng giống như một trạng thái rút lui khỏi thế giới chung
quanh vậy. Năng lượng tiêu biểu của nó là đóng kín thay vì cởi mở, thu rút thay
vì sẵn sàng, mê ngủ thay vì tỉnh thức. Cái nó thiếu là một năng lượng của sự tò
mò, thắc mắc, quán sát, rộng mở, sẵn sàng và tiếp xúc với bất cứ một hiện tượng
nào được kinh nghiệm bởi loài người. Và tất cả những cái đó thuộc về lãnh vực của
Niệm. Sự nhất tâm và khả năng đem lại sự an tịnh, vững vàng trong giây phút hiện
tại, sẽ hỗ trợ giúp cho ta có thể quán chiếu, và hiểu được được những mối tương
quan duyên khởi của mọi hiện tượng trong cuộc sống này.
Ðịnh có thể có một giá trị rất lớn, nhưng có thể rất giới hạn
nếu ta bị cám dỗ bởi phẩm chất dễ chịu của nó, và xem đó như là một nơi trú ẩn,
để trốn tránh cuộc đời đôi khi có nhiều khổ đau và bất mãn. Ta sẽ có thể tìm
cách tránh né sự xô bồ của cuộc sống hằng ngày, để đi tìm một sự tĩnh lặng và
an lạc. Lẽ dĩ nhiên đó cũng là một dính mắc vào sự tĩnh lặng, và giống như một
sự dính mắc mạnh mẽ nào khác, nó sẽ dẫn đến sự si mê, và từ đó sẽ ngăn chận sự
phát triển, cũng như làm chết hạt giống tuệ giác trong ta.
26.- Ý HƯỚNG
Chúng ta không thể nào, mà cũng rất là điên rồ, nếu ta cương
quyết thực tập thiền quán mỗi ngày, mà không hề có một ý niệm nào về lý do tại
sao mình lại làm việc ấy, nó có giá trị gì cho cuộc sống của mình, và vì sao đó
là con đường của mình mà không phải chỉ là một ảo giác nào đó! Trong những xã hội
ngày xưa, quan niệm về thiền tập đã được cung cấp cũng như nuôi dưỡng bởi một nền
văn hóa. Nếu bạn là một Phật tử, có thể bạn tu tập là vì nền văn hóa của bạn
đánh giá thiền quán rất cao, nó là con đường dẫn đến sự tỉnh thức, từ bi, giác
ngộ, con đường của một tuệ giác giúp ta diệt hết mọi khổ đau trong cuộc sống.
Nhưng trong văn hóa của Tây phương, bạn sẽ khó tìm thấy được một sự hỗ trợ nào
cho con đường tu tập kiên định có tính cách cá nhân này. Nhất là khi nó có những
quan niệm như là, cố gắng nhưng lại vô hành, xử dụng năng lượng nhưng không
mang lại một "sản phẩm" nào rõ rệt. Và hơn nữa, những ý tưởng nông cạn
và thơ mộng mà ta đang ôm ấp về việc trở thành một con người tốt đẹp hơn - tĩnh
lặng hơn, sáng suốt hơn, từ bi hơn - sẽ không kéo dài được bao lâu, khi trực diện
với sóng gió của cuộc đời, của thân tâm hay ngay cả cái viễn tượng của việc thức
dậy mỗi sáng sớm, khi trời còn mờ tối và lạnh căm căm, để ngồi một mình và sống
với hiện tại. Những lúc ấy ta sẽ rất dễ dàng cho nó không còn là quan trọng nữa,
có thể dời lại một khi khác, để ta ngủ thêm một chút xíu hoặc được nằm yên
trong giường ấm.
Nếu bạn muốn, có thể mang thiền tập vào cuộc đời mình, một
cách cương quyết và lâu dài, bạn sẽ cần phải có mộ ý hướng nào thật sự là của
mình - nó phải sâu xa và cương quyết, nhất là gần gũi với con người thật của
ta, với những gì ta tin là có giá trị trong cuộc sống cũng như đường hướng của
mình. Chỉ có sức mạnh của một quan điểm linh động như vậy và động cơ thúc đẩy
phát xuất từ nó, mới có thể giữ ta trên con đường tu tập hết năm này sang năm
khác. Từ đó, ta mới có nghị lực để thực tập mỗi ngày, và mang chánh niệm soi
sáng trên bất cứ những gì đang xảy ra. Nó sẽ giúp cho ta cởi mở với bất cứ những
gì ta nhận thức và chỉ cho ta những nơi nào mình còn bị mắc kẹt, và nơi nào cần
phải có một sự buông thả hoặc cần được phát triển thêm.
Sự tu tập thiền quán không có chút gì thơ mộng và lãng mạn hết.
Những chỗ ta cần phải tu sửa thường khi lại là những nơi ta rất bảo thủ, và ít
khi nào chịu chấp nhận rằng chúng có thật, chứ đừng nói chi đến chuyện quan sát
chúng mà không phán xét để sửa đổi. Thế cho nên, sự tu tập sẽ không thể nào đứng
vững được lâu dài, nếu chỉ vì ta có một ý nghĩ ngây ngô rằng mình là một thiền
giả, hoặc cho rằng thiền tập sẽ có lợi cho mình vì nó đã giúp ích cho người
khác, hay vì triết lý Ðông phương nghe có vẽ thâm sâu, hoặc vì ta đang có một
thói quen thích ngồi thiền. Ý hướng ta đang đề cập ở đây, cần phải được cải tiến
mỗi ngày, lúc nào cũng phải rõ ràng ở trước mặt, bởi vì chánh niệm tự nó cũng
đòi hỏi một ý thức về chủ đích và ý định phải được rõ rệt như thế. Còn bằng
không, thà rằng ta cứ nằm trên giường ngủ tiếp cho xong chuyện.
Sự tu tập tự nó phải là hiện thân của ý hướng ta mỗi ngày, và
chứa đựng những gì ta tôn quý nhất. Nó không có nghĩa là ta phải cố gắng thay đổi
hoặc trở nên khác biệt với con người thật của mình, như là an tịnh khi ta cảm
thấy không an ổn, hoặc vui vẻ khi ta đang tức giận. Nhưng lúc nào ta cũng ý thức
được điều gì thật sự quan trọng nhất đối với mình, để nó khỏi bị đánh mất hoặc
bị phản bội trong một phút giây cảm xúc mạnh nào đó. Nếu chánh niệm thật sự là
quan trọng nhất đối với bạn, thì mỗi giây phút sẽ là một cơ hội để ta tu tập.
Ví dụ, trong ngày có một lúc nào ta cảm thấy tức giận chẳng hạn.
Nếu bạn ý thức được rằng mình đang giận và đang biểu lộ nó ra, thì bạn cũng sẽ
có thể quan sát, theo dõi sự biểu lộ đó và ảnh hưởng của nó trong mỗi giây
phút. Nhờ vậy bạn sẽ có thể tiếp xúc được với cơn giận như là một cảm giác có
thật, có lai lịch với nguyên nhân cơn giận ấy, và nó ảnh hưởng đến cử chỉ, điệu
bộ của bạn như thế nào, trong giọng nói của bạn ra sao, qua sự xử dụng ngôn ngữ
và lý lẽ của bạn, cũng như ấn tượng nó để lại trên những người chung quanh.
Chúng ta có thể bàn rất nhiều về việc biểu lộ cơn giận của mình một cách có ý
thức. Và trong y học cũng như trong phân tâm học, ai cũng đồng ý rằng, đè nén
cơn giận trong tâm bằng cách nội hóa nó, có một tác dụng rất là nguy hại, nhất
là khi nó trở thành tập quán. Nhưng ngược lại, nếu ta cứ tự do bộc lộ cơn giận
của mình mà không kiểm soát, như là một thói quen hoặc phản ứng, cho dù nó có
"chính đáng" tới đâu đi nữa, thì sự nguy hại cũng không kém. Ta có thể
thấy được cơn giận làm mờ mịt sự suy nghĩ của mình. Nó nảy sinh ra một cảm giác
gây hấn và bạo động - dù cho cơn giận ấy là để sửa sai một việc gì hoặc giúp một
sự kiện nào đó được xảy ra - vì thế tự trong bản chất của nó đã bị méo mó rồi,
dù cho bạn đúng hay sai. Chúng ta có thể cảm nhận được những việc ấy, mặc dù
đôi khi mình không ngăn chận lại được. Chánh niệm sẽ giúp ta tiếp xúc được với
độc tố của lòng sân hận đối với mình và với người khác. Bao giờ sau một cơn giận,
tôi cũng cảm thấy có một cái gì đó không thỏa đáng, dù tôi có đúng lý tới đâu
chăng nữa. Ðộc tố bẩm sinh của lòng sân hận làm ô nhiễm bất cứ những gì nó sờ đến.
Nên năng lượng này có thể được biến đổi thành một nghị lực và tuệ giác, mà
không còn bóng dáng của tự ái hoặc tự thị thì sức mạnh của nó sẽ gia tăng theo
cấp số nhân, và khả năng chuyển hóa được nguyên nhân cũng như đối tượng của cơn
giận, cũng sẽ tăng trưởng theo.
Thế cho nên, khi bạn có ý thức muốn thực tập mở rộng bối cảnh
của cơn giận ngay lúc nó đang dâng lên cao độ, bạn nên nhớ rằng phải có một cái
gì đó vĩ đại hơn và cơ bản hơn, mà ta đã quên đi trong cơn sôi nổi của của cảm
xúc. Chừng ấy, bạn sẽ có thể tiếp xúc được với một ý thức sáng suốt bên trong
ta, và nó không hề bị dính mắc hay ảnh hưởng bởi cơn giận. Ý thức ấy thấy được
cơn giận, biết được chiều sâu của cơn giận, và nó vĩ đại hơn cơn giận. Nó có thể
dễ dàng chứa đựng được cơn giận, như một cái nồi đựng đồ ăn bên trong vậy. Cái
nồi ý thức ấy sẽ giúp ta nâng niu cơn giận, và thấy được rằng nó có thể gây nên
những hậu quả nguy hại hơn là có ích, mặc dù ta không hề muốn. Từ đó, ta có thể
nấu chín cơn giận và tiêu hóa nó, để ta có thể xử dụng cho có hiệu quả hơn, như
là đổi từ một phản ứng hoàn toàn máy móc sang một phản ứng có ý thức, hay đôi
khi có thể vượt thoát ra hoàn toàn. Sự lựa chọn này phát sinh từ một thái độ thận
trọng lắng nghe tiếng nói của hoàn cảnh, một cách trọn vẹn.
Ý hướng của ta tùy thuộc vào những giá trị đạo đức của mình
và những gì ta cho là quan trọng nhất trong cuộc sống. Nếu bạn tin vào tình
yêu, bạn sẽ thể hiện nó ra hay là chỉ nói suông cho nhiều rồi thôi? Và nếu bạn
tin vào từ bi, không sát sanh, tuệ giác rộng lượng, an tĩnh, vắng lặng, vô
hành, công bằng và minh bạch, thì bạn có biểu lộ chúng ra trong cuộc sống hàng
ngày của bạn không? Ðây là một mức độ có chủ tâm mà chúng ta cần phải có, để
duy trì sự sinh động trong thiền tập của mình, giúp cho nó khỏi bị khuất phục,
trở thành một bài tập máy móc, điều khiển bởi năng lực của tập quán và đức
tin.
"Hãy tự hoàn toàn đổi mới mình mỗi ngày, một ngày một mới,
luôn luôn đổi mới". -- Tục ngữ Trung Hoa.
Thực tập: Hãy tự hỏi vì sao bạn tập thiền hay vì sao bạn
muốn tập thiền. Ðừng tin vào những câu trả lời đầu tiên của mình. Hãy ghi xuống
hết những gì bạn nghĩ trong đầu. Cứ tiếp tục hỏi. Xét xem những gì tôn quý nhất.
Xét xem những gì là tiêu chuẩn đạo đức của ta, những gì mà ta tôn quý nhất
trong cuộc sống. Lập một danh sách liệt kê hết những gì mình thật sự cho là
quan trọng. Tự hỏi: Ý hướng của tôi là gì, bản đồ của tôi nơi đang ở và nơi tôi
muốn đến, chúng là gì? Ý hướng này có phản ảnh được giá trị đạo đức và ý định của
tôi không? Tôi có nhớ để thể hiện những giá trị ấy trong cuộc sống không? Tôi
có thực hiện những ý định của mình không? Tình trạng của tôi trong công việc của
mình bây giờ như thế nào? Trong gia đình, trong những mọi tương quan, và với
chính mình thì sao? Tôi muốn chúng phải được như thế nào? Tôi sẽ sống theo ý hướng,
giá trị đạo đức của mình bằng cách nào? Tôi đối xử với khổ đau, của chính mình
và của kẻ khác ra sao?
27.- THIỀN TẬP PHÁT TRIỂN MỘT CON NGƯỜI TOÀN VẸN
Tôi nghe nói rằng trong tiếng Pali, ngôn ngữ nguyên thủy được
xử dụng trong thời đức Phật không có danh từ nào tương đương với chữ
"Meditation" của người Tây phương bây giờ. Mặc dù Meditation, ở đây
ta tạm dịch là thiền tập, có thể nói rằng đã được cải tiến đến trình độ rất cao
trong nền văn hóa cổ Ấn Ðộ. Danh từ được người ta xử dụng thường xuyên là
Bhavana. Bhavana được tạm dịch là "phát triển bằng sự luyện tâm". Ðối
với tôi thì nghĩa đó lại chính xác vô cùng, vì thiền thật ra là nói về sự phát
triển của con người. Nó là một phần tiếp nối của sự thay đổi tự nhiên trong ta
như là thay răng, thân thể trưởng thành, làm việc và thành đạt trong xã hội,
xây dựng gia đình, vay mượn nợ bằng cách này hoặc cách khác,(bất cứ một sự mặc
cả nào làm giam hãm tâm hồn ta, cũng đều là một hình thức mượn), và ý thức rằng
mình rồi cũng sẽ già chết và chết. Rồi có một lúc nào đó, ta sẽ bị bắt buộc phải
ngồi xuống chiêm nghiệm lại đời mình, tự hỏi ta thật sự là ai và ý nghĩa của cuộc
đời này - cuộc đời của chính ta - là gì?
Những truyện cổ tích thường thường là những tấm bản đồ xưa,
chúng chỉ cho ta thấy đường lối phát triển một con người toàn vẹn. Sự minh triết
của những câu chuyện này được truyền xuống thời đại ta từ một thời mà chữ viết
chưa có. Chúng được kể cho nhau nghe trong bóng đêm mập mờ ánh sáng, quanh những
đóm lửa hồng, qua mấy nghìn năm nay. Những câu chuyện đời xưa ấy, ngoài tính chất
lý thú và hấp dẫn ra, chúng còn là những biểu tượng cho những vở tuồng, chúng
ta sẽ gặp trên con đường đi tìm sự toàn vẹn, hạnh phúc và an lạc. Những ông
vua, bà hoàng, cậu hoàng tử và cô công chúa không phải chỉ là những nhân vật
"ngoài kia". Bằng trực giác, ta biết rằng chúng cũng là những phương
tiện khác nhau của tâm hồn mình, những sợi tơ kết cấu nên con người của ta,
đang dò dẫm đi tìm hạnh phúc. Ta có trong ta đầy đủ hết, những ông khổng lồ
hung dữ, bà phù thủy gian ác, và chúng phải được trực diện và tôn trọng, bằng
không ta sẽ tiêu diệt ta. Những chuyện cổ tích là những lời chỉ dẫn xa xưa, ẩn
tàng một sự minh triết, được cô động lại qua hàng ngàn năm truyền khẩu. Chúng
giúp cho sự sinh tồn, trưởng thành của ta và một sự hội nhập khi đối diện với
những con ác quỷ, những con rồng hung dữ, những khu rừng rậm và đầm lầy tối
tăm, bên trong cũng như bên ngoài ta. Những câu chuyễn ấy nhắc nhở ta về giá trị
của việc cưới hỏi, một sự hợp nhất giữa những phần tử lẻ loi, cô độc trong nội
tâm khi chúng tìm được nhau, sẽ đem lại một mức độ hòa hợp và ý thức mới trong
cuộc sống. Ta có thể nói rằng, mình có khả năng sống hạnh phúc mãi mãi được,
hay nói một cách khác, trong khoảng thời gian muôn thuở của bây giờ và ở đây.
Những truyện cổ tích này rất là minh triết, xưa cũ và vô cùng tinh tế, chúng là
một tấm bản đồ cho sự phát triển toàn vẹn con người của ta.
Những chuyện cổ tích của Tây phương đa số được xây dựng quanh
chủ đề về một đứa trẻ, thường là một vị hoàng tử hay cô công chúa. Dầu nam hay
nữ, trẻ hay già, mỗi người trong chúng ta đều có ẩn tàng một vị hoàng tử và một
cô công chúa. Và cuộc đời của ta cũng đã từng tỏa sáng một sự ngây thơ và những
hứa hẹn vô tận của tuổi trẻ. Sự tỏa sáng ấy vẫn còn tiếp tục, nếu chúng ta biết
đừng để cho sự sống của mình bị ngăn ngại.
Trong quyển Iron John, Robert Bly cho rằng chúng ta đánh mất
trái châu bằng vàng của mình vào khoảng tám tuổi, và đến khi người ta bắt đầu
tìm cách khôi phục lại hoặc ý thức được rằng mình đã đánh mất đến ba, bốn chục
năm. Trong truyện người ta chỉ nhắc đến thời điểm ấy như là một "ngày
xưa", nó nằm ngoài ý niệm thông thường về thời gian của ta, và chỉ mất có
đôi ba ngày mà thôi. Nhưng trong trường hợp nào cũng vậy, trước hết ta cần phải
có một sự mặc cả, thương lượng. Ta cần phải thương lượng với những năng lượng
còn bị đè nén trong bóng tối của mình, chúng được biểu tượng hóa bằng một con ếch
hay có thể là một người rừng lông lá sống dưới ao hồ trong rừng vắng, theo câu
chuyện của ông Bly.
Trước khi ta có thể bắt đầu thương lượng, ta phải ý thức rằng
tất cả những nhân vật ấy là có thật, hoàng tử và công chúa, con ếch và người rừng.
Biết tiếp xúc với những khía cạnh tăm tối của tâm hồn, mà trong quá khứ ta đã từng
dồn nhét vào tiềm thức theo bản năng tự nhiên, là một điều kiện tiên quyết. Ta
có thể sẽ có một sự sợ hãi, mà đó cũng là cảm giác tự nhiên, khi ta bắt đầu đi
vào những vùng đen tối, bí mật mà mình chưa từng biết tới.
Truyền thống Phật giáo Tây Tạng, bắt nguồn từ thế kỷ thứ tám
cho đến hiện đại, có lẽ đã phát triển được một sự diễn đạt rất nghệ thuật và
tinh tế về những khía cạnh đáng sợ này trong tâm thức của con người. Phật giáo
Tây Tạng có nhiều tranh ảnh và hình tượng của những nhân vật rất quái dị và
hung tợn, mà họ đều là những vị thánh đáng kính của dòng cổ thần. Nhưng ta nên
nhớ rằng, những vị thần này không phải là những vị thần linh có quyền lực theo
nghĩa thông thường. Thật ra họ biểu tượng cho những trạng thái tâm thức khác
nhau, mỗi trạng thái có một năng lượng thiêng liêng cá biệt mà chúng ta cần phải
đối diện, kính trọng và tiếp nhận, nếu ta muốn trưởng thành và được phát triển
trọn vẹn như một con người, dù là nam hay nữ. Những vị thần hung tợn này không
được coi là xấu, mặc dù bề ngoài của họ rất kinh dị và ghê tởm, họ đeo những
xâu chuỗi đầu lâu và mang một bộ mặt dữ dằn. Các biểu tượng bề ngoài ấy thật ra
chỉ là những sự cải trang, trá hình của những vị thần đầy lòng từ bi và trí tuệ.
Họ muốn sử dụng những hình tướng ấy để giúp ta đạt được một sự hiểu biết về
tình thương rộng lớn hơn, đối với chính mình cũng như với người khác, vì tất cả
chúng ta đều không khác gì nhau.
Trong đạo Phật, một phương tiện giúp cho sự tu luyện phát triển
nội tâm này là thiền tập. Ngay trong những truyện huyền thoại, như ông Bly đã kể,
muốn tiếp xúc được với người rừng sống dưới đáy hồ cũng đòi hỏi chúng ta phải
tát hết nước trong hồ ra. Việc ấy cần một công phu dài lâu và phải được lặp đi
lặp lại nhiều lần. Không có gì là quyến rũ hoặc hấp dẫn trong công việc tát hết
nước hồ, hoặc làm việc trong một lò rèn, hay dưới cơn nắng như thiêu ngoài đồng
ruộng, ngày này sang ngày khác, năm này sang năm nọ. Nhưng chính ở sự kiên trì
thực hành, để thấy được những năng lực trong tâm mình, tự nó là động lực thúc đẩy
ta tiếp tục. Ðây là một quá trình tôi luyện và nó có tàng chứa nhiệt lực trong
đó. Muốn chịu đựng được sức nóng và được bền gan, đòi hỏi một sự tự chủ. Nhưng
đìều có thể giúp chúng ta giữ vững sự tu tập của mình là một sự tinh thông, một
trật tự trong nội tâm mà ta không bao giờ có nếu thiếu kỷ luật, nhiệt lực và nếu
ta không dám bước vào bóng tối và sự sợ hãi của chính mình. Trong sự tu tập, những
thất bại của ta cũng sẽ phục vụ rất nhiều cho sự trau luyện này.
Ðây là điều mà những nhà phân tâm học thuộc trường phái Jung
gọi là công phu tâm linh, sự phát triển chiều sâu của nhân cách qua sự nhận biết
sâu sắc và mở rộng tâm thức. Nhiệt lực sẽ trui rèn, sắp xếp lại mọi nguyên tử
trong con người tâm linh của ta và rất có thể, chính con người thể chất của ta
nữa.
Sự kỳ diệu của thiền tập là ta có thể dựa trên chính sự tu
luyện ấy để dẫn dắt mình qua những mê hồn trận. Nó giúp ta bước vững vàng trên
con đường mình di, ngay cả trong những giờ phút đen tối nhất, khi ta phải đối
diện với những tình cảnh hoang mang trong nội tâm cũng như ngoại cảnh. Nó nhắc
nhở với ta rằng, mình bao giờ cũng có một sự chọn lựa. Sự tu tập ấy là một kim
chỉ nam cho sự phát triển con người, một bản đồ dẫn ta đến bản thể chiếu sáng của
mình, và đó không phải là thời hoàng kim của một tuổi thơ đã qua, mà là của tuổi
thành niên trọn vẹn. Nhưng nếu ta muốn thiền tập làm phận sự của nó, thì ta phải
biết làm tròn phận sự của mình trước đã. Chúng ta phải dám đối diện với những sự
tối tăm và nỗi thất vọng mỗi khi chúng khởi lên, hết lần này đến lần khác, mà
không chạy trốn hoặc tự làm tê liệt bằng ngăn cách khác nhau, để tìm cách tránh
né những gì không thể tránh được.
Thực tập: Hãy cỡi mở ra với những hoàng tử và công chúa, ông
vua và bà hoàng, ông khủng lồ và bà phù thủy; người rừng, chú lùn và bà lão xấu
xí; vị lương y và kẻ gian manh trong ta. Khi ngồi thiền, bạn nên trải chiếu ra
mời đón hết những nhân vật ấy. Hãy tập ngồi vững vàng như một ông chúa, bà
hoàng, một dũng sĩ hay một thánh nhân. Trong những hoàn cảnh rối loạn hoặc tăm
tối nhất, bạn hãy nhớ xử dụng hơi thở của mình như là một sợi dây dẫn dắt ta ra
khỏi mê cung. Giữ vững chánh niệm ngay trong những lúc đen tối nhất, bạn nên nhớ
rằng, sự chú ý không phải là một phần của bóng tối hay nỗi đau. Chánh niệm có
khả năng ôm ấp được nỗi đau và soi sáng nó. Vì vậy, chánh niệm phải căn bản
hơn, gần gũi hơn với những gì là lành mạnh, vững vàng và tỏa sáng trong
ta.
28.- CON ÐƯỜNG TU TẬP
Trên con đường mà ta gọi là cuộc đời,
Tôi chợt thấy mình lạc lõng giữa rừng sâu,
Không tìm được một lối ra.
-- Dante Alighieri, Divine Comedy, "Inferno"
Tôi chợt thấy mình lạc lõng giữa rừng sâu,
Không tìm được một lối ra.
-- Dante Alighieri, Divine Comedy, "Inferno"
Trong hầu hết mọi truyền thống văn hóa, người ta thường dùng
hình ảnh hành trình để làm một ẩn dụ biểu tượng cho cuộc đời và việc đi tìm một
ý nghĩa. Ở phương Ðông, ta dùng chữ Ðạo có nghĩa là con đường, để nói lên ý
nghĩa này. Trong Phật giáo, thiền tập thường đường nhắc đến như là một con đường
- một trong tám chi phần của Bát chánh đạo, như là chánh niệm, chánh kiến,
chánh định. Ðạo và Dharma cũng có nghĩa là thực tại của sự sống, định luật chi
phối tất cả những gì hiện hữu cũng như những gì bất hiện hữu. Tất cả mọi sự kiện
trên đời này, dù bề ngoài đối với ta có là tốt hay xấu, trên cơ bản đều hợp với
đạo. Bổn phận của ta là làm sao nhận thức được nền tảng của sự hòa hợp này, và
sống cũng như hành động cho phù hợp với nó. Tuy vậy, nhiều khi ta không hề biết
được con đường nào đúng. Trong cuộc sống, có một khoảng trống rất lớn dành cho
sự tự do chọn lựa và hành động theo nguyên tắc của ta, cũng như cho những sự căng
thẳng và bất đồng ý kiến, đó là chưa nói đến đôi khi ta cảm thấy hoàn toàn lạc
lối.
Khi thực hành thiền tập, ta thành thật thừa nhận rằng trong
lúc này mình đang đi trên con đường của sự sống. Con đường ấy đang trải rộng ra
ngay trong giờ phút này và trong bất cứ một giây phút nào ta đang thật sự sống.
Thiền tập đúng ra là một con đường, hơn là một phương pháp. Một con đường của
hiện thực, con đường của sự sống, con đường của sự lắng nghe, con đường dẫn đến
một lối sống và hiện hữu hài hòa với một thực tại. Nó cũng có nghĩa là chúng ta
đôi khi công nhận, thường thường vào những giờ phút nghiêm trọng nhất, rằng
mình thật sự không biết là đang đi về đâu, hoặc con đường ấy đang nằm ở một nơi
nào. Nhưng cùng lúc đó, ta bao giờ cũng ý thức được tình trạng của mình trong
giờ phút hiện tại, mặc dù đó có thể biết rằng ta đang lạc lõng, bối rối và vô vọng.
Trong cuộc sống, chúng ta nhiều khi bị mắc bẫy và tưởng rằng biết mình đang đi
đâu, nhất là những khi ta đang bị thúc đẩy bởi một tham vọng cá nhân, hoặc mong
muốn một việc gì quá mức. Khi chúng ta đang ôm ấp một hoạch định riêng tư nào
đó, nó thường làm cho ta mù quáng, ngĩ rằng mình biết hết, mặc dù ta không thật
sự biết như là mình nghĩ.
"Dòng nước của sự sống", một câu chuyện cổ tích Tây
phương nói về ba anh em nhà nọ, đều là những vị hoàng tử. Hai người anh thì
tham lam và ích kỷ. Người em út thì rất tốt và biết thương người. Vua cha lúc ấy
đang đau nặng. Một hôm có một ông lão bí mật xuất hiện nơi vườn thượng uyển, thấy
mọi người có vẻ mặt ưu sầu, ông hỏi thăm sự tình. Sau khi nghe kể về căn bệnh của
vua, ông bảo họ rằng, liều thuốc chữa bệnh cho vua hiện đang nằm nơi dòng nước
của sự sống: "Nếu hoàng thượng uống nước này, ngài sẽ phục hồi sức khỏe,
nhưng khó ai có thể tìm được dòng nước ấy".
Nghe vậy, người anh cả xin phép được đi tìm dòng nước của sự
sống cho phụ hoàng, trong tâm anh thầm mong rằng nếu thành công thì ngôi báu chắc
chắn sẽ thuộc về mình. Người anh cả phi ngựa ra khỏi thành, đi vừa được một đoạn,
anh gặp một người lùn đứng bên đường, chặn lại và hỏi anh vội vã đi đâu. Không
đếm xỉa gì đến lời thăm hỏi của người lùn, anh hét lớn, chửi mắng và quát bảo
ông tránh qua một bên. Người anh cả tự cho là mình biết là mình đang đi đâu, chỉ
vì anh nghĩ rằng mình biết cái gì mình đang tìm kiếm. Nhưng thực tế không bao
giờ là vậy. Người anh cả đã không làm chủ được tánh ngạo mạn của mình, cũng như
vì ngu muội không thấy được nhiều ngỏ lối khác nhau của sự sống đang mở ra trước
mắt anh.
Lẽ dĩ nhiên, người lùn trong những huyền thoại không phải là
một nhân vật xa lạ nào bên ngoài ta, mà đó là biểu tượng cho một quyền lực nội
tại thâm sâu trong ta. Ở đây người anh cả ích kỷ đã không có khả năng tiếp xúc
được với những năng lực ấy trong tâm, cũng như cảm nhận được tình thương và tuệ
giác tiềm ẩn trong anh. Vì sự kiêu ngạo ấy, người lùn đã sắp đặt cho anh đi
theo một con đường, dẫn vào một khe núi nhỏ hẹp và cuối cùng anh không thể nào
quay lui trở lại được; nói một cách khác anh bị mắt kẹt. Và người anh cả kẹt bị
cứng nơi này trong khi câu chuyện tiếp tục.
Chờ đợi mãi không thấy người anh cả trở về, người anh thứ hai
xin phép được lên đường. Người cũng gặp người lùn, cũng đối xử với ông ta cùng
một thái độ ấy, và cuối cùng lại cũng bị mắc kẹt như người anh cả. Hai người
anh trong câu chuyện tượng trưng cho những khía cạnh khác nhau của cùng một con
người, vì vậy ta có thể nói rằng, có những kẻ không bao giờ chịu học bài học của
mình.
Vẫn không nghe tin tức của hai người anh, cuối cùng người em
út xin phép lên đường đi tìm nước của sự sống cho phụ hoàng. Vừa ra khỏi thành,
anh cũng gặp người lùn hỏi anh đang vội vã đi đâu. Khác với hai người anh, người
em út dừng lại, xuống ngựa và kể cho ông nghe về bệnh tình của cha, và mình
đang đi tìm dòng nước của sự sống. Anh thú thật với người lùn rằng anh không biết
phải tìm kiếm nơi nào. Nghe vậy ông ta nói: "Ồ, ta biết chỗ ấy nằm ở
đâu", rồi ông chỉ phương hướng để đi đến đó, con đường rất quanh co, phức
tạp. Người em út lắng nghe thật cẩn trọng và ghi nhớ từng lời ông dặn. Và câu
chuyện còn tiếp diễn với nhiều chi tiết hấp dẫn. Ý trong truyện muốn nói là đôi
khi chúng ta cần phải biết chập nhận sự thật rằng mình không biết, và cởi mở ra
để tiếp nhận sự giúp đở trong những trường hợp bất ngờ nhất. Ðược vậy, chúng ta
mới có thể tiếp xúc với những năng lượng và đồng minh trong ta cũng như ngoài
ta, chúng phát sinh từ một tâm linh phong phú và vô ngã của chính mình. Lẽ dĩ
nhiên, hai người anh ích kỹ kia cũng là những phương diện khác của tâm thức ta.
Thông điệp của câu chuyện, nhắc ta hay bị mắc kẹt vào những thói quen tự kỷ, tự
đại thường tình của con người và quên đi cái trật tự chung lớn lao của mọi vật,
cuối cùng ta sẽ bị dẫn vào một ngỏ cụt của cuộc đời. Và nơi đó ta không còn có
thể tiến tới, lui về hay quay trở lại được nữa. Câu chuyện kể rằng, ta sẽ không
bao giờ tìm được nước của sự sống bằng một thái độ ấy, và ta sẽ bị mắc kẹt, rất
có thể là vĩnh viễn.
Sự tu tập chánh niệm đòi hỏi ta phải biết kính trọng và để
tâm đến năng lượng của "người lùn" trong ta. Chứ không phải chỉ biết
lao đầu vào vào công việc với một tâm thức nhỏ nhen, bị thúc đẩy bởi những tham
vọng và sự ích kỷ, không biết gì đến phần lớn lao còn lại của con người mình.
Câu chuyện kể tiếp rằng, chúng ta chỉ có thể thành công nếu ta biết tiến bước với
một ý thức rõ ràng về thực tại của mình, kể cả việc sẵn sàng chấp nhận rằng
mình đang đi đâu. Trong câu chuyện, vị hoàng tử út phải mất một thời gian dài mới
ý thức được những gì xảy ra, chẳng hạn như việc hai người anh đang bị mắc kẹt
trong khe núi. Và anh cũng đã phải trải qua biết bao nhiêu sự lừa đảo, phản bội
vì sự ngây thơ của mình, trước khi đạt đến một sức mạnh và tuệ giác hoàn toàn.
Cuối cùng, anh đã cỡi trên lưng ngựa đi giữa một con đường lát vàng, cưới một
nàng công chúa thật đẹp và trở thành vua - một con người toàn vẹn, không phải
cho giang san của vua cha mà là cho chính anh.
Thực tập: Hãy xem cuộc đời của bạn trong ngày hôm nay
như là một hành trình và một cuộc mạo hiểm. Bạn đang đi về đâu? Bạn đang tìm kiếm
những gì? Bây giờ bạn đang ở đâu? Bạn đang ở vào giai đọa nào trên hành trình của
bạn? Nếu cuộc đời bạn là một quyển sách, hôm nay bạn sẽ đặt nó tên là gì? Bạn sẽ
đặt tựa gì cho chương mà bạn đang sống đây? Bạn có đang bị kẹt ở nơi này bằng một
lối nào đó không? Bạn có thể cởi mở ra với tất cả những năng lượng cần sử dụng
trong giờ phút này không? Nên nhớ rằng hành trình này độc nhất của bạn, chứ
không phải của bất cứ một ai khác. Vì vậy con đường này phải là của chính bạn.
Bạn không thể nào bắt chước hành trình của một người khác, và vẫn có thể tự
thành thật với mình được. Bạn có sẵn sàng tôn trọng sự cá biệt của mình bằng
cách đó không? Bạn có thấy được thiền tập là một phần rất thân thiết với lối sống
chân thật này không? Bạn có cương quyết soi sáng con đường của mình bằng chánh
niệm và ý thức không? Bạn có thấy được những chỗ mà mình đang còn bị mắc kẹt
không, hoặc là trong thời gian qua?
29.- THIỀN TẬP: ÐỪNG LẦM LẪN VỚI TƯ TƯỞNG LẠC QUAN
Chính khả năng suy nghĩ của chúng ta đã giúp phân biệt loài
người với những loại sinh vật khác, và nó vô cùng mầu nhiệm. Nhưng nếu không cẩn
thận, sự suy nghĩ ấy có thể dễ dàng lấn áp những khía cạnh quý báu khác của con
người mình. Sự tỉnh thức thường lại là những nạn nhân đầu tiên.
Cái biết không phải là tư tưởng. Nó nằm ngoài sự suy nghĩ, mặc dù nó xử dụng ý nghĩ, cũng như tôn trọng giá trị và năng lực của chúng. Cái biết của ta cũng tương tự như một chiếc thuyền lớn, có thể chuyên chở và chứa đựng hết mọi tư tưởng của mình. Nó giúp cho ta thấy và hiểu được tư tưởng chỉ là tư tưởng, thay vì bị mắc kẹt và cho đó là thực tại.
Cái biết không phải là tư tưởng. Nó nằm ngoài sự suy nghĩ, mặc dù nó xử dụng ý nghĩ, cũng như tôn trọng giá trị và năng lực của chúng. Cái biết của ta cũng tương tự như một chiếc thuyền lớn, có thể chuyên chở và chứa đựng hết mọi tư tưởng của mình. Nó giúp cho ta thấy và hiểu được tư tưởng chỉ là tư tưởng, thay vì bị mắc kẹt và cho đó là thực tại.
Tư tưởng của ta nhiều khi rất vụn vỡ. Thật ra nó bao giờ cũng
vậy. Vì đó là bản chất của tư tưởng. Nhưng nhờ có một cái biết phát khởi trong
giây phút hiện tại với một ý định, giúp ta nhận thức rằng mặc dù giữa những vụn
vỡ này, bản chất nguyên thủy của ta bao giờ cũng vẫn là hợp nhất và toàn vẹn.
Không những nó không bị giới hạn vì sự rời rạc của tư tưởng, mà cái biết ấy
cũng chính là cái nồi nấu, chứa đựng hết những mảnh vụn đó, cũng giống như một
nồi canh chứa hết những rau, đậu, bầu, bí, hành, cà... cho phép chúng được nấu
chín, hòa hợp nhau thành một bát canh thơm ngon. Nhưng đây là một cái nồi thần,
giống như nồi luyện phép vậy, bởi vì nó không cần ta phải làm gì hết, ngay cả
việc nhóm lửa bên dưới. Cái biết, nhận thức, tự nó nấu lấy, miễn là được duy
trì. Ta cứ để yên cho những mảnh vụn đó khuấy động lên, trong khi có chánh niệm
về chúng. Ðược như vậy, bất cứ những gì khởi lên trong tâm hay thân sẽ được bỏ
vào nồi, và trở thành một phần của bát canh thơm.
Thiền tập không phải là cố gắng thay đổi sự suy nghĩ của ta bằng
cách suy nghĩ thêm. Mà thiền là quan sát chính sự suy nghĩ ấy. Sự quan sát đó
là cái nồi mà ta vừa nói. Khi ta theo dõi ý nghĩ của mình, không bị dính mắc
vào chúng, ta sẽ học được những điều rất sâu sắc và khai phóng về sự suy nghĩ.
Việc ấy sẽ giúp ta bớt là một tù nhân của những tập quán suy nghĩ của mình hơn
- mà chúng thì vô cùng kiên cố. - như là nhỏ nhen, không chính xác, tự lợi, và
đôi khi là hoàn toàn sai lầm.
Một cách khác để nhìn thiền tập là xem tiến trình suy nghĩ
như một thác nước, những dòng tư tưởng liên tục đổ xuống. Khi ta thực tập chánh
niệm, chúng ta vượt ra bên ngoài hoặc là phía sau tư tưởng của mình. Nó cũng giống
như khi ta khám phá ra đưọc một hang động hoặc một chỗ lõm nào trong vách đá
phía sau thác nước này. Ðứng nơi đây ta vẫn có thể nhìn thấy và nghe được tiếng
thác đổ, nhưng không hề bị lôi cuốn bởi dòng nước.
Qua sự thực tập chánh niệm, những khuôn mẫu suy nghĩ của ta tự
chúng sẽ thay đổi. Chúng sẽ trở nên hòa hợp hơn và từ bi hơn trong cuộc sống.
Nhưnng không phải vì ta cố gắng thay thế một tư tưởng xấu bằng những gì tốt
lành hơn, mà là ta hiểu được tự tánh của tư tưởng chỉ là tư tưởng mà thôi, và mối
tương quan của ta với chúng. Nhờ vậy, chúng ta có thể sai xử được chúng dễ dàng
hơn, thay vì ngược lại.
Nếu bạn muốn suy nghĩ lạc quan, tích cực, việc ấy cũng tốt,
nhưng đó không phải là thiền. Nó chỉ là sự suy nghĩ thêm mà thôi! chúng ta cũng
rát có thể dễ dàng trở thành một tù nhân của những tư tưởng tiêu cực. Vì những
ý nghĩ ấy có thể rất hạn hẹp, vụn vặt, không chính xác, ảo huyền, tự lợi và sai
lầm. Cái mà ta cần là những gì có thể đem lại cho đời ta một sự chuyển hóa, và
giúp ta vượt ra được khỏi phạm vi trù hạn của tư tưởng.
30.- QUAY VÀO BÊN TRONG
Chúng ta thường nói rằng, thiền tập có nghĩa là quay vào
trong nội tâm, hoặc trụ ở bên trong ta. Nhưng "bên trong" và
"bên ngoài" là những ý niệm phân biệt có giới hạn. Trong sự tĩnh lặng
của thiền tập, chúng ta quay năng lượng của mình hướng vào bên trong, để rồi
khám phá ra rằng, ta chứa đựng hết hoàn toàn vũ trụ này trong thân và tâm của
mình.
Quay vào bên trong một thời gian, chúng ta sẽ nhận thức được
rằng, bấy lâu nay mình quá nghèo nàn vì đã hướng ngoại để tìm kiếm những hạnh
phúc, hiểu biết và trí tuệ đâu đâu. Không một ai - thượng đế, môi trường hay bất
cứ một người nào - có thể đem lại hạnh phúc hoặc tìm cho ta một sự thỏa mãn nào
hết. Vì hạnh phúc và sự hiểu biết của ta, sẽ không thể nào sâu sắc hơn khả năng
tự biết của mình, khả năng đối phó với thế giới chung quanh, chúng phát xuất từ
sự an trú trong nội tâm, từ một sự am tường về hiện thực của thân và tâm
mình.
Mỗi ngày, thỉnh thoảng, nếu ta biết sống trong tĩnh lặng và
quay vào bên trong, chúng ta sẽ tiếp xúc được với những gì chân thật và đáng
tin cậy trong ta. Chúng rất dễ dàng bị bỏ sót và thiếu phát triển. Khi ta có thể
an trú nơi ta, dù chỉ trong phút chốc giữa cơn lốc xoáy của cuộc đời, không phải
đi tìm kiếm một cái gì khác để được đầy đủ, được hạnh phúc, thì ta sẽ có an lạc
ở bất cứ nơi nào mình đến, chấp nhận được thực tại trong từng giây phút một.
Ðừng ra khỏi nhà để ngắm hoa,
Này bạn đừng bận lòng với cuộc du ngoạn ấy.
Bên trong bạn có biết bao nhiêu là hoa.
Mỗi đóa có trăm ngàn cánh.
Hãy ngồi xuống đi,
Ngồi đây bạn sẽ chiêm ngưỡng được vẻ đẹp ấy,
bên trong cũng như bên ngoài bạn.
Trước những ngôi vườn,
và sau những ngôi vườn. -- Kabir.
Này bạn đừng bận lòng với cuộc du ngoạn ấy.
Bên trong bạn có biết bao nhiêu là hoa.
Mỗi đóa có trăm ngàn cánh.
Hãy ngồi xuống đi,
Ngồi đây bạn sẽ chiêm ngưỡng được vẻ đẹp ấy,
bên trong cũng như bên ngoài bạn.
Trước những ngôi vườn,
và sau những ngôi vườn. -- Kabir.
Trọng khinh vi căn
Tịnh vi táo quân
Thị dĩ thánh nhân chung nhật
Hành bát ly tri vọng
Tuy hữu vinh quan
Yếu xử siêu nhiên
Nại hà vạn thăng chi chủ
Nhi dĩ thân khinh thiên hạ
Khinh tắc thất bổn
Táo tắc thất quân
Tịnh vi táo quân
Thị dĩ thánh nhân chung nhật
Hành bát ly tri vọng
Tuy hữu vinh quan
Yếu xử siêu nhiên
Nại hà vạn thăng chi chủ
Nhi dĩ thân khinh thiên hạ
Khinh tắc thất bổn
Táo tắc thất quân
Dịch:
Nặng là rễ gốc của nhe,
Tịnh là chủ của náo loạn.
Ấy nên, thánh nhân suốt ngày đi
mà không lìa xe nặng.
Tuy trên cảnh tượng thấy vẻ vang,
Mà lòng yên lặng vượt lên trên cả.
Vì sao vua nước vạn thặng,
Lấy thân mà xem nhẹ thiên hạ?
Nhẹ thì mất gốc,
Nặng thì mất chủ. -- Lão Tử, Ðạo đức kinh.
Tịnh là chủ của náo loạn.
Ấy nên, thánh nhân suốt ngày đi
mà không lìa xe nặng.
Tuy trên cảnh tượng thấy vẻ vang,
Mà lòng yên lặng vượt lên trên cả.
Vì sao vua nước vạn thặng,
Lấy thân mà xem nhẹ thiên hạ?
Nhẹ thì mất gốc,
Nặng thì mất chủ. -- Lão Tử, Ðạo đức kinh.
Quay mắt vào nhìn, và bạn sẽ thấy,
Trăm ngàn khu vực trong tâm ta.
Vẫn còn hoang vu chưa khai phá,
Hãy tìm vào và du ngoạn đó đây.
Và làm một nhà chuyên môn,
về vũ trụ nội tâm. -- Thoreau, Walden.
Trăm ngàn khu vực trong tâm ta.
Vẫn còn hoang vu chưa khai phá,
Hãy tìm vào và du ngoạn đó đây.
Và làm một nhà chuyên môn,
về vũ trụ nội tâm. -- Thoreau, Walden.
Thực tập: Lần tới, nếu bạn thấy có một cảm giác bất mãn,
một cái gì đó mất mát hay là thiếu an lạc, bạn hãy thí nghiệm quay vào bên
trong mình để thử xem. Xem bạn có thể nắm bắt được năng lượng của giây phút ấy
không. Thay vì tìm đọc một tạp chí, đi xem hát, gọi điện thoại cho một người bạn,
hoặc đi tìm một cái gì để ăn, hay một sự bận rộn nào đó, bạn hãy dành cho mình
một khoảng trống. Hãy ngồi xuống và theo dõi hơi thở của mình, dù chỉ trong vài
phút thôi. Ðừng mong chờ gì hết - bông hoa, ánh sáng hay bất cứ một hình ảnh đẹp
nào. Ðừng ca tụng cái hay, cái tốt của bất cứ một sự việc gì, hay bài bác cái xấu,
cái dở của chúng. Cũng đừng tự nghĩ rằng: "À, bây giờ mình đang hướng vào
nội tâm đây!" Chỉ ngồi yên đó. An trú nơi trung tâm của vũ trụ này. Mọi việc
ra sao cũng được.
PHẦN HAI: TRÁI TIM CỦA SỰ TU TẬP
1.- THIỀN TỌA
Tư thế ngồi có gì đặc biệt không? Không, nếu ta nói về tư thế
ngồi thông thường của mình. Nó chỉ là một cách tiện lợi để thân ta tạm trút
gánh nặng khỏi đôi chân. Nhưng trong thiền tập, tư thế ngồi rất là quan trọng.
Chúng ta có thể dễ dàng thấy được việc đó, chỉ cần nhìn qua
hình tướng bên ngoài thôi. Ví dụ, ta không thể biết rằng một người nào đó đang
hành thiền, nếu ta thấy người ấy đang nằm, đứng hoặc đi. Nhưng ta có thể nhận
biết được ngay, nếu người ấy đang ngồi, nhất là trên sàn nhà. Nhìn từ bất cứ góc
cạnh nào cũng vậy, tư thế ngồi thiền lúc nào cũng biểu tượng cho một sự tỉnh thức,
mặc dù đôi mắt đang nhắm và gương mặt có nét tĩnh lặng và an lạc. Tư thế ngồi ấy
rất vững vàng và hùng tráng như một ngọn thái sơn. Sự vững chãi ấy mạnh mẽ lắm,
tỏa sáng vào bên trong và lan rộng ra chung quanh ta. Nhưng khi ta bị hôn trầm
và thất niệm xâm chiếm, thì ngay giây phút ấy, tất cả những đức tính đó sẽ tiêu
tan mất. Tâm ta bị sụp đổ bên trong và ngoài thân sẽ biểu lộ cho thấy tình trạng
ấy.
Ngồi thiền đòi hỏi một tư thế ngay thẳng và trang nghiêm, thường
thường kéo dài trong một thời gian. Nhưng có được một tư thế vững vàng còn
tương đối dễ, đó chỉ là giai đoạn đầu của một tiến trình khai mở liên tục nhiều
thử thách này. Có thể bạn đã sẵn sàng để "đậu lại" chiếc xe thân của
mình rồi, nhưng tâm bạn thì sao, giờ này bạn có biết nó đang làm gì và ở đâu
không? Thiền tọa không phải chỉ có nghĩa là ngồi trong một tư thế đặc biệt, mặc
dù việc ấy có một tác dụng rất lớn. Nó còn có nghĩa là tiếp nhận một tư thế đặc
biệt cho tâm của mình nữa. Thiền tọa tức là tâm tọa.
Một khi bạn ngồi xuống rồi, sẽ có rất nhiều đường lối để tiếp
xúc với giây phút hiện tại. Tất cả đều đòi hỏi một sự chú ý có chủ định và
không phán đoán. Chỉ có sự khác biệt là ta chọn đề mục gì và bằng cách
nào.
Phương pháp hay nhất và đơn giản nhất là bắt đầu với hơi thở
của bạn, cảm nhận sự ra vào của hơi thở mình. Rồi từ đó, bạn có thể nới rộng ý
thức của mình ra, để quan sát sự đến và đi của mọi việc, tính cách lòng vòng và
máy móc của tư tưởng, cảm thọ, tri thức, cảm hứng, cũng như của thân và tâm.
Nhưng muốn năng lực của định và niệm được phát huy đúng mức, nó cũng cần phải mất
một thời gian. Và chừng ấy, ta sẽ có thể quan sát mọi đề mục mà không bị lạc hoặc
dính mắc vào bất cứ một đối tượng đặc biệt nào, hoặc bị chúng khống chế. Ðối với
đa số chúng ta, nó đòi hỏi nhiều năm tu tập và còn tùy thuộc vào nhiệt tâm cũng
như nghị lực của mình nữa. Vì vậy, lúc đầu ta nên ở với hơi thở của mình, sử dụng
đó như là một mỏ neo đem ta trở về hiện tại những khi mình bị trôi dạt vào thất
niệm. Bạn hãy thử thực tập trong vài năm xem sao!
Thực tập: Mỗi ngày bạn nên dành ra một khoảng thời gian
nhất định để ngồi thiền. Năm phút cũng được, hoặc là mười, hai mươi, ba mươi
phút nếu bạn muốn. Ngồi xuống và quan sát giờ phút hiện tại phô bày, bạn không
có một mục đích nào hết ngoài việc xử dụng trọn vẹn trong giây phút này. Xử dụng
hơi thở như một dây neo giữ ta lại trong hiện tại. Tư tưởng của ta sẽ trôi dạt
đó đây, tùy theo dòng nước và ngọn gió tâm, cho đến một lúc nào đó, sợi dây neo
sẽ bị căng thẳng và kéo ta trở về. Chuyện này sẽ xảy ra rất thường. Ðừng nản
lòng. Mau mắn đem sự chú ý của mình trở về với hơi thở mỗi khi nó lang thang. Bạn
nên nhớ giữ cho thân mình ngay thẳng nhưng không phải là cứng đơ. Tưởng mình
như là một ngọn núi vững vàng.
2.- NGỒI XUỐNG CHỖ CỦA MÌNH
Mỗi khi bạn bước đến tọa cụ của mình, bạn nên có một ý niệm về
hành động ngồi xuống chỗ của mình. Việc ấy sẽ giúp bạn rất nhiều trong sự tu tập.
Ngồi thiền rất khác với hành động ngồi xuống thông thường hàng ngày của ta. Khi
ta ngồi thiền, hành động ngồi xuống chỗ ấy của mình, tự nó có một năng lượng rất
lớn, cả trong việc chọn lựa chỗ ngồi cũng như chánh niệm về thân. Tư thế ấy biểu
tượng cho một sự cứng rắn, vươn thẳng, mặc dù là ta đang ngồi xuống. Nó mang một
ý thức tôn trọng về nơi chốn cũng như sự sắp xếp của thân và tâm trong giây
phút hiện tại.
Mỗi khi chúng ta ngồi xuống chỗ của mình, mặc dù ý thức được
năng lượng của nó, nhưng ta cũng đừng bao giờ để quá bận tâm về nơi chốn cũng
như thư thế ngồi của mình. Thật ra, trong nhà hoặc ở ngoài trời, chúng cũng có
những "địa điểm năng lực" đặc biệt. Nhưng với một thái độ ngồi xuống
chỗ của mình, ta có thể ngồi xuống ở bất cứ một nơi nào, với bất cứ một tư thế
nào, ta vẫn có thể cảm thấy an ổn. Khi nào ta có thể duy trì chánh niệm về
thân, tâm, nơi chốn cũng như tư thế của mình, và vẫn giữ được một sự bình thản,
không mong ước, chừng ấy và chỉ có chừng ấy, ta mới thực sự là ngồi thiền.
3.- NHÂN PHẨM
Khi diễn tả về tư thế ngồi thiền của mình, tôi nghĩ danh từ
thích hợp nhất là nhân phẩm.
Mỗi khi ngồi xuống thiền, tư thế của ta thường nói với ta một
việc gì đó. Nó có một sự phát biểu riêng của nó. Ta có thể nói rằng,tư thế ngồi
thiền tự chính nó là thiền tập. Nếu ta ngồi xiêu vẹo, nó phản chiếu một sự thiếu
năng lượng thụ động và không được trong sáng. Nếu chúng ta ngồi thẳng cứng đơ,
là ta đang bị căng thẳng, dụng công hoặc cố gắng quá sức. Trong những khóa tu
thiền, mỗi khi tôi xử dụng danh từ "nhân phẩm" để nhắc nhở các thiền
sinh, như là "ngồi sao cho biểu lộ được nhân phẩm của mình", tôi để ý
thấy mọi người lập tức sửa lại tư thế người cho được thẳng hơn. Nhưng họ không
hề gồng cứng người. Gương mặt họ thoải mái, hai vai xuôi xuống, đầu, cổ và lưng
cùng nằm trên một đường thẳng. Xương sống đứng thẳng ra từ xương chậu, biểu lộ
năng lượng. Ðôi khi những người ngồi trên ghế có khuynh hướng nhích tới trước,tách
ra khỏi lưng dựa một cách tự nhiên, khi nghe lời nhắc nhở của tôi. Mọi người dường
như ai cũng lập tức ý thức được cảm nhận về nhân phẩm trong họ, và làm sao để
biểu lộ nó.
Tôi nghĩ, thỉnh thoảng chúng ta phải cần được nhắc nhở rằng,
mình bao giờ cũng có nhân phẩm, tư cách và xứng đáng. Nhiều khi chúng ta quên mất
điều ấy, có lẽ vì những thương tích trong quá khứ, hoặc vì sự bất định trong
tương lai. Tôi không tin rằng, mình cảm thấy không xứng đáng vì tự ở mình.
Chúng ta đã được giúp đở rất nhiều trong việc gầy dựng cái mặc cảm tự ty ấy. Từ
thuở còn thơ, ta đã được dạy bằng trăm ngàn cách khác nhau và chúng ta học rất
nhanh.
Vì vậy, mỗi khi ta ngồi xuống tọa cụ và tự nhắc mình ngồi với
nhân phẩm, là chúng ta đang trở lại với một tự tánh nguyên vẹn. Hành động đó tự
nó là một lời tuyên bố sấm sét. Bạn có thể tin chắc rằng nội tâm bạn sẽ lắng
nghe. Còn bạn thì sao, bạn có biết lắng nghe không? Chúng ta có sẵn sàng tiếp
nhận những kinh nghiệm trực tiếp của giây phút hiện tại này không?
Thực tập: Hãy ngồi xuống sao cho biểu lộ nhân phẩm của
mình trong chừng ba mươi giây. Ghi nhận những cảm giác của bạn. Hãy thử đứng với
nhân phẩm. Ðôi vai của bạn như thế nào? Xương sống và đầu của bạn ra sao? Ði một
cách có tư cách, có nhân phẩm nghĩa là đi như thế nào?
4.- TƯ THẾ
Khi ta ngồi với một chủ định vững vàng, tự thân ta sẽ biểu lộ
được một nghị lực và niềm tin rất sâu sắc. Chúng tỏa chiếu vào bên trong lẫn bên
ngoài ta. Một tư thế ngồi vững vàng đầy nhân phẩm, tự nó chính là một sự xác nhận
của giải thoát, của tính chất hòa hài, của vẻ đẹp và sự phong phú của cuộc sống.
Có khi bạn cảm nhận được những điều ấy, và cũng có khi là
không. Những lúc ta cảm thấy buồn nản, mệt nhọc và bối rối, ngồi thiền cũng có
thể giúp ta tiếp xúc được với sức mạnh cũng như giá trị của cuộc đời ta đang sống.
Trong những giai đoạn khó khăn, nếu bạn có thể gom góp nghị lực lại để ngồi xuống
thiền, cho dù trong một khoản thời gian ngắn, nó có thể giúp bạn lấy lại được
cái cốt tủy của con người mình, nó nằm ngoài phạm trù của những sự thăng và trầm,
giải thoát và trói buộc, sáng tỏ và mù mịt. Cái cốt tủy này có một liên hệ mật
thiết với chánh niệm, nó không hề bị giao động theo tâm thức hoặc hoàn cảnh
chung quanh ta. Nó giống như một tấm gương sáng, vô tư phản chiếu những gì xảy
ra trước mắt. Nó ý thức được thực tại một cách sâu sắc, những gì đang làm cho đời
ta xao động hoặc khống chế ta. Biết rằng mọi việc rồi sẽ thay đổi, nó tĩnh lặng
như một tấm gương sáng trong giờ phút hiện tại - quan sát việc gì đang xảy ra,
ôm ấp sự có mặt của chúng, cỡi ngọn sóng của một thực tại đang biểu lộ như những
ngọn sóng của hơi thở mình. Và vững tin rằng, không chóng thì chầy, ta cũng sẽ
tìm được phương cách đối phó, hòa giải và vượt thoát ra được hết. Ta không có một
cố gắng nào khác hơn là chỉ quan sát chúng, để cho mọi việc như là, và sống thật
trọn vẹn trong mỗi phút mỗi giây.
Thiền quán không phải là một cố gắng đi trốn tránh những khó
khăn hoặc vấn đề của cuộc sống, không phải là ta đi tìm một trạng thái dững
dưng hoặc chối bỏ nào hết. Trái lại, ta lúc nào cũng biết duy trì chánh niệm và
sẵn lòng trực diện với những đau đớn, bối rối và mất mát, nếu chúng là những gì
đang chi phối thực tại. Chúng ta tìm hiểu vấn đề bằng một đường lối rất đơn giản,
là để cho nó có mặt trong tâm, cùng với hơi thở và giữ một tư thế ngồi thật vững
chãi.
Trong truyền thống Zen, thiền sư Shunryu Suzuki có nói:
"Trạng thái tâm có mặt khi bạn ngồithiền vững vàng tự nó là giác ngộ... Tư
thế ngồi không phải chỉ là một phương tiện để ta đạt đến một trạng thái chân thật
của tâm. Ngồi trong tư thế ấy tự nó chính là một trạng thái chân thật của
tâm". Vì vậy, khi ngồi xuống thiền là ta đã tiếp xúc được với chân tánh của
mình rồi.
Thế cho nên, khi ta tập ngồi thiền, điều tiên quyết là phải
ngồi sao cho thân được vững vàng, tỏa sáng, nói lên được sự có mặt của mình, rằng
ta sẵn sàng tiếp nhận bất cứ một sự việc gì xảy ra trong giây phút hiện tại. Ðó
là một thái độ vô trước và một sự vững vàng không lay chuyển, như một tấm gương
sáng, chỉ biết phản chiếu, hoàn toàn trống không, tiếp nhận và cởi mở. Thái độ
nằm trong tư thế của ta, ngay trong cách ngồi của ta. Tư thế ấy chính là hiện
thân của thái độ.
Vì vậy, nhiều người thấy rằng, hình ảnh một ngọn núi giúp họ
rất nhiều trong sự phát triển định và niệm trong thiền tập. Nó khơi dậy những đức
tính như là hướng thượng, to tát, hùng tráng, không lay chuyển và có gốc rễ,
giúp ta mang những đức tính ấy trực tiếp vào tư thế và thái độ của mình.
Chúng ta nên nhớ luôn luôn mời gọi những đức tính ấy vào
trong sự thiền tập của mình. Sự kiên trì thực tập sẽ giúp ta thể hiện được nhân
phẩm, sự tĩnh lặng và an lạc trong bất cứ một hoàn cảnh nào. Nó có thể mang lại
cho ta một nền tảng vững chắc, xác thực để duy trì chánh niệm và bình lặng,
ngay cả trong những giờ phút căng thẳng và xáo động nhất. Nhưng chỉ khi nào ta
thật sự thực tập, thực tập và thực tập.
Bạn nên nhớ một điều này, ta không nên nghĩ rằng mình biết thế
nào là có chánh niệm, và chỉ để dành để đối phó với những biến cố quan trọng mà
thôi. Vì khi những biến cố lớn xảy ra, với một năng lượng rất mạnh, chúng sẽ lập
tức tràn ngập và lấn áp ta, luôn cả những ý tưởng ngây ngô, thơ mộng về tĩnh lặng,
vế thế nào là có chánh niệm. Thiền tập là một tiến trình từ tốn, chậm rãi và
nhiều tự chủ, như là trồng cây, san bằng núi, tát cạn biển. Nó là công việc của
giây phút này và cũng là của trọn một đời người, tất cả chỉ là một mà thôi.
5.- TA LÀM GÌ VỚI ÐÔI BÀN TAY?
Trong thân ta có những luồng năng lượng rất tinh tế. Chúng đã
được kẻ vạch, học hỏi và sử dụng trong những truyền thống tu tập như là thiền định
và Du già (Yoga) từ hàng mấy ngàn năm nay. Bằng trực giác, chúng ta biết rằng mỗi
tư thế của mình biểu lộ một trạng thái đặc biệt, và chúng tỏa chiếu vào bên
trong cũng như ra bên ngoài ta. Ngày nay người ta thường gọi đó là "ngôn
ngữ của thân". Nhìn bề ngoài một người, ta có thể đọc được thứ ngôn ngữ ấy,
ta có thể biết được người ấy nghĩ gì về chính họ. Chúng ta lúc nào cũng truyền
phát đi các tin tức ấy cho bất cứ những ai biết tiếp nhận chúng.
Nhưng ở đây, tôi muốn nói đến giá trị của việc ý thức được
ngôn ngữ của chính bản thân mình. Ý thức ấy có một khả năng xúc tác, làm phát
triển sự chuyển hóa cũng như sự tăng trưởng của ta. Trong truyền thống Du già,
bộ môn có liên quan đến những tư thế đặc biệt của thân được gọi là Ấn, tức là
Mudra. Nói chung mọi tư thế của thân đều có thể là Ấn, vì mỗi cái đều có mang một
biểu tượng và một năng lượng đặc biệt. Nhưng Ấn thường được dùng để nói đến những
gì tinh tế hơn là tư thế của toàn thân. Chúng được dùng để diễn tả vị thế của
đôi bàn tay, và còn được gọi là thủ ấn.
Nếu có dịp bước vào một tu viện Phật giáo và quan sát những
hình tượng Phật và các vị Bồ tát, bạn sẽ nhận thấy rằng trong hàng trăm tư thế
thiền định khác nhau, đứng, nằm hoặc ngồi, đôi bàn tay của các ngài cũng còn được
đặt trong những vị thế khác nhau. Trong tư thế ngồi thiền, đôi khi hai bàn tay
được đặt trên đầu gối, lòng bàn tay úp xuống; đôi khi một bàn tay hoặc cả hai
bàn tay ngửa lên; đôi khi có một ngón tay chạm xuống đất, trong khi bàn tay kia
đưa lên. Cũng có khi hai bàn tay để trong lòng bắp vế, bàn tay này ngửa lên, nằm
trong lòng bàn tay kia, hai đầu ngón tay cái khẽ chạm vào nhau, làm thành một
hình bầu dục như quả trứng, đó được gọi là vũ trụ ấn. Có khi hai bàn tay được
chấp vào nhau để trước ngực như hình một đóa sen. Tư thế này được dùng để chào
nhau, ta kính nhận được Phật tính ở nơi người đối diện.
Những thủ ấn này, mỗi cái đều mang một năng lượng khác nhau.
Bạn có thể tự thử nghiệm lấy việc ấy trong sự thiền tập của mình. Bạn hãy thử
ngồi với đôi bàn tay úp xuống để trên đầu gối. Ghi nhận tính chất tự chế của
nó. Ðối với tôi, tư thế này biểu lộ rằng ta không tìm kiếm thêm một việc gì nữa,
mà chỉ tiêu thụ những gì mình đã có.
Nếu bạn thử xoay lòng bàn tay lên trời, lẽ dĩ nhiên là trong
chánh niệm, bạn có thể sẽ cảm nhận được một sự thay đổi nơi vùng năng lượng
trong thân. Ðối với tôi, tư thế này biểu tượng cho một sự tiếp nhận, cởi mở với
năng lượng từ bên trên. Những năng lượng ấy là của trí tuệ, thanh tịnh và từ
bi.
Mọi vị thế của đôi bàn tay ta đều là những thủ ấn, vì chúng đều
mang theo một năng lượng, dù tinh tế hay là hiển lộ. Ví dụ năng lượng của một nắm
tay chẳng hạn. Mỗi khi ta tức giận, bàn tay ta thường có khuynh hướng nắm chặt
lại. Có một số người thực hành thủ ấn này một cách vô ý thức, rất nhiều lần
trong đời sống của họ. Nó tưới tẩm cho những hạt giống giận dữ và bạo động
trong ta mỗi khi ta làm việc ấy. Và rồi mỗi ngày cây sân hận của ta càng lúc sẽ
trở nên xanh tươi hơn, mạnh mẽ hơn.
Lần tới, nếu bạn thấy mình nắm chặt bàn tay lại vì một cơn giận
nào đó, bạn hãy giữ chánh niệm và chú ý đến thái độ của ta được biểu lộ trong
cái nắm tay ấy. Cảm nhận được sự căng thẳng, căm giận, khích động và sợ hãi
đang có mặt nơi đó. Rồi trong cơn giận của mình, như là một thử nghiệm, nếu người
làm cho ta giận có mặt nơi đó, bạn hãy mở rộng đôi bàn tay mình ra, chấp lại
trước ngực làm thành hình một đóa sen. Lẽ dĩ nhiên người ấy sẽ ngẩn ngơ, chẳng
biết bạn dang làm trò gì! Ghi nhận chuyện gì xảy đến cho cơn giận và nổi đau của
bạn, trong khi bạn giữ tư thế này, dù chỉ trong giây phút.
Tôi nhận thấy rằng, mỗi khi thử làm việc ấy, tôi không thể
nào duy trì cơn giận được nữa. Việc đó không có nghĩa là cơn giận của ta không
bao giờ là chánh đáng. Nhưng vì sẽ có nhiều cảm xúc khác tham dự vào, giúp ta
kiểm soát và hòa giải được cơn giận ấy - như là lòng từ bi, thương hại đối với
người kia, và có lẽ nhờ một sự hiểu biết minh triết hơn. Ta ý thức được rằng, mọi
việc đều có liên hệ chằng chịt với nhau, cái này dẫn đến cái kia, có thể một
nguyên nhân vô tư nào đó đưa đẩy đến một kết quả bị hiểu lầm là có ác ý. Và rồi
từ đó si mê cộng thêm vào si mê, tham sân cộng thêm với tham sân, ta không còn
thấy đâu là ánh sáng nữa.
Khi thánh Gandhi bị ám sát vì một phát súng kề sát bên, ngài
đã chấp hai tay lại và hướng về kẻ giết ngài, thốt lên một câu thần chú rồi nhắm
mắt. Những năm dài tu tập thiền định và Du già, được hướng dẫn bởi bộ kinh
Bhagavad Gita, đã đem lại cho thánh Gandhi một thái độ vô trước, không dính mắc
vào bất cứ một việc gì, ngay cả chính sự sống của mình. Nó đã cho phép ngài được
tự do chọn bất cứ một thái độ nào ngài muốn, ngay cả trong lúc mạng sống của mình
đang bị cướp đoạt đi. Thánh Gandhi không chết trong sự giận dữ hoặc là bất ngờ.
Ngài bao giờ cũng ý thức rằng mạng sống mình luôn luôn đang bị đe dọa. Nhưng
ngài dám làm theo chí hướng và niềm tin của mình. Thành Gandhi là một biểu tượng
cho đức từ bi. Ngài sống cho lý tưởng tự do của cả chánh trị lẫn tôn giáo. Sự
an ninh cá nhân, ngài không bao giờ lấy đó làm trọng. Bao giờ ngài cũng dám hy
sinh.
Thực tập: Hãy tập ý thức được những phẩm tính của các cảm
xúc tinh tế khác nhau, ta có trong một ngày và trong suốt thời gian ngồi thiền.
Ðặc biệt chú ý đến đôi bàn tay của bạn. Vị thế của chúng có tạo nên một sự khác
biệt nào không? Ghi nhận rằng, khi ta có chánh niệm về thân thì ta cũng sẽ có
chánh niệm về tâm.
Khi bạn thực tập tiếp xúc với đôi bàn tay của mình trong lúc
ngồi thiền, ghi nhận xem nó ảnh hưởng đến sự xúc chạm của bạn trong đời sống hằng
ngày ra sao? Mọi việc, từ mở một cánh cửa cho đến ôm hôn một người thân, đều
đòi hỏi sự xúc chạm. Trong ngày, biết bao nhiêu lần bàn tay ta đã mở một cánh cửa
mà không hề có ý thức, không có một cảm giác nào hết. Lần tới, nếu bạn có ôm
hôn một người thân, đừng để cho nó trở thành một hành động máy móc, phải biết
có mặt trọn vẹn và thật lòng.
6.- XẢ THIỀN
Những giây phút chót trong giờ ngồi thiền, cũng có những khó
khăn riêng của chúng. Chánh niệm của ta có thể trở nên dễ duôi, và mong chờ cho
đến hết giờ. Thái độ của ta trong lúc này rất là quan trọng. Chính những giai
đoạn chuyển tiếp này là một sự thử thách cho ta, làm sao giữ cho chánh niệm được
sâu sắc hơn và nới rộng được phạm vi của nó.
Vào lúc cuối giờ ngồi thiền, nếu bạn không cẩn thận và thiếu
ý thức, có thể bạn sẽ bắt qua làm chuyện khác mà không hề biết giờ thiền của
mình đã chấm dứt ra sao, hoặc như thế nào? Giai đoạn chuyển tiếp ấy đối với bạn
sẽ chỉ là một bóng mờ. Bạn có thể dùng ngọn đèn chánh niệm soi sáng tiến trình
này, bằng cách tiếp xúc với những ý nghĩ và sự thúc đẩy là đã đến giờ xả thiền.
Dù bạn đã ngồi yên một giờ đồng hồ hoặc chỉ dăm ba phút, có thể sẽ có một cảm
giác thật mạnh nói với bạn rằng: "Thôi! bấy nhiêu đó đủ rồi". Hoặc là
bạn hé mắt nhìn đồng hồ và thấy rằng đã đến giờ xả thiền.
Trong giờ thiền tọa, thử xem bạn có thể ghi nhận được ý nghĩ
đầu tiên thức đẩy mình đi nghĩ không. Và tiếp theo đó sẽ có nhiều ý nghĩ tương
tự khởi lên, càng lúc càng mạnh mẽ hơn. Mỗi khi ghi nhận được chúng, hãy thở
vài giây và tự hỏi: "Ai là người đã đủ rồi?" Hãy cố gắng nhìn sâu vào
những gì nằm đằng sau những tư tưởng ấy. Có phải chúng chỉ là những mệt mỏi, buồn
chán, đau đớn, bồn chồn, nóng nảy; hay thật sự là lúc ta nên đi nghỉ? Nhưng dù
gì đi nữa, thay vì máy móc đứng dậy đi làm việc khác, bạn hãy quán chiếu câu hỏi
ấy, và có chánh niệm về những cử động xả thiền của mình, như bất cứ một đề mục
nào khác trong giờ thiền tập.
Sự thực tập này còn có thể giúp ta phát huy chánh niệm trong
bất cứ một hoàn cảnh nào đòi hỏi một sự hoàn tất, chấm dứt và bắt đầu khởi sự một
công việc mới. Nó có thể đơn giản và ngắn ngủi như là tiếp xúc với cử động đóng
cửa của mình, hoặc phức tạp và đau đớn như một đoạn đời nào đó của ta vừa đi
qua. Ta rất dễ đóng cửa một cách máy móc, vì hành động ấy tầm thường quá, không
nghĩa lý gì so với những đại sự khác. Nhưng cũng chính vì nó tầm thường mà khi
ta thực tập đóng cánh cửa trong chánh niệm, nó lại có tác dụng phát khởi và làm
sâu sắc thêm sự bén nhạy, khả năng tiếp xúc với thực tại, cũng như hóa giải những
thói quen vô ý thức của ta.
Trong đời sống cũng thế, sự thất niệm cũng có thể len lỏi vào
những giây phút chuyển tiếp nghiêm trọng nhất trong đời ta, như là tuổi già hoặc
giờ phút hấp hối. Và trong lãnh vực này chánh niệm cũng có một năng lượng chữa
trị rất lớn. Vì không dám trực diện với những cảm xúc đau đớn - cho dù đó là buồn
nản, tủi hổ, thất vọng, sân hận, hoặc có thể là vui sướng, thỏa mãn - ta có thể
vô tình đi lẫn trốn trong đám mây mù của sự tê lặng. Nơi đó, ta không cho phép
mình được cảm giác một cái gì hết, hoặc ý thức được những gì mình đang cảm xúc.
Như một vầng mây mù, thất niệm trùm phủ những giây phút quan trọng nhất, sâu sắc
nhất, trong cuộc đời chúng ta. Nó che mờ hết những cơ hội có thể giúp ta thấy
được sự vận hành của luật vô thường, tiếp xúc được với tự tánh vô ngã, với điều
bí mật của sự nhỏ nhoi, mong manh và tạm thời của hiện hữu, cũng như giúp ta được
bình thản trước những đổi thay không thể nào tránh được.
Trong các thiền viện theo truyền thống Zen, những giờ thiền
đường được chấm dứt bằng một tiếng động lớn, do hai thanh gỗ đánh mạnh vào
nhau. Không có một tiếng chuông thanh nhẹ, dịu dàng báo hiệu giờ xả thiền.
Thông điệp ấy ở đây là sự cắt ngang - đã đến lúc chúng ta tiếp sang việc khác.
Nếu bạn đang mơ mộng gì đó khi tiếng gõ vang lên, dù một chút thôi, âm thanh ấy
sẽ làm bạn giật mình và giúp bạn thấy rằng mình đã không thật sự có mặt trong
giờ phút hiện tại. Nó nhắc nhở ta giờ phút ngồi thiền đã qua rồi, và bây giờ là
một giây phút mới, ta phải đối diện lại từ đầu.
Trong những truyền thống khác, một tiếng chuông êm nhẹ thường
được dùng để báo hiệu vào cuối giờ hành thiền. Âm thanh trầm ấm của tiếng
chuông cũng có khả năng mang ta trở về với hiện tại và nhắc nhở nếu ta đang sống
trong thất niệm. Vì vậy, vào cuối giờ ngồi thiển, một âm thanh êm nhỏ cũng tốt,
mạnh cũng tốt. Cái nào cũng chỉ để nhắc nhở ta phải có mặt trọn vẹn trong giây
phút chuyển tiếp này, sự chấm dứt nào cũng phải là một sự bắt đầu, điều đó mới
thật sự là quan trọng, như trong kinh Kim Cương có nói: "Giữ một tâm không
chấp trước vào bất cứ một cái gì hết" (Tâm vô sở trụ). Và chỉ đến chừng ấy,
chúng ta mới có thể thấy được chân tướng của mọi vật, và tiếp xúc với chúng bằng
một cảm xúc và một tuệ giác trọn vẹn.
Thị dĩ thánh nhân,
Xử vô vi chi sự.
Hành bất ngôn chi giáo,
Vạn vật tác yên nhi bất từ.
Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh
Xử vô vi chi sự.
Hành bất ngôn chi giáo,
Vạn vật tác yên nhi bất từ.
Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh
Dịch:
Vậy nên, thánh nhân,
Dùng vô vi mà xử sự.
Dùng bất ngôn mà dạy dỗ,
Ðể cho vạn vật nên mà không cản.
Dùng vô vi mà xử sự.
Dùng bất ngôn mà dạy dỗ,
Ðể cho vạn vật nên mà không cản.
Thực tập: Hãy giữ chánh niệm, chú ý đến việc bạn chấm dứt
giờ ngồi thiền của mình như thế nào. Dù trong bất cứ một tư thế nào - đi, đứng,
nằm, ngồi - "Ai là người xả thiền", bằng cách nào, ra sao và vì sao?
Ðừng bao giờ phán xét nó hoặc chính bạn - chỉ quan sát thôi và cố gắng tiếp xúc
với sự chuyển tiếp từ việc này sang việc khác.
7.- NÊN NGỒI THIỀN BAO LÂU?
Hỏi: Tôi nên ngồi thiền bao lâu?
Ðáp: Làm sao tôi biết được!
Ðáp: Làm sao tôi biết được!
Câu hỏi người ta hỏi tôi nhiều nhất là họ nên ngồi thiền
trong bao lâu! Lúc tôi mới khởi sự đem thiền tập áp dụng vào áp dụng cho những
bệnh nhân trong nhà thương, chúng tôi đã cảm thấy rằng, điều quan trọng là họ cần
phải được thực tập ngồi thiền trong một thời gian tương đối dài, ngay từ lúc mới
bắt đầu. Vì tôi tin vào nguyên tắc là, nếu bạn đòi hỏi nhiều ở người ta, hoặc
là yêu cầu họ tự đòi hỏi họ nhiều, thì bạn sẽ thu gặt được nhiều. Còn ngược lại,
nếu bạn đời hỏi một chút thôi, bạn sẽ chẳng thu lượm được bao nhiêu. Chúng tôi
yêu cầu mọi người phải thực tập khoảng bốn mươi lăm phút mỗi ngày ở nhà. Tôi
nghĩ là bốn mươi lăm phút lâu đủ để cho ta có thể tĩnh lặng xuống và giữ chánh
niệm, và có lẽ ít nhất cũng kinh nghiệm được mùi vị của một sự buông thả hoàn
toàn và một cảm giác lành mạnh. Và thời gian ấy cũng lâu đủ để cho ta có cơ hội
tiếp xúc lại với những cảm thọ mà ta muốn trốn tránh. Vì trong cuộc sống hàng
ngày, chúng thường khống chế đời ta và cướp đi khả năng tĩnh lặng và chánh niệm
của ta. Chúng là những sự buồn chán, bất an, nóng nảy, sợ hải, lo lắng, mơ mộng,
tưởng nhớ, đau đớn, mệt mỏi và đau khổ.
Và kết quả là quyết định ấy của chúng tôi rất đúng! Hầu hết
những người tham gia chương trình của chúng tôi đều sẵn sàng thay đổi nếp sống
của họ, và chuyện ấy không phải dễ, để ngồi thiền mỗi ngày bốn mươi lăm phút,
ít nhất là trong vòng tám tuần liên tiếp. Và đa số người vẫn còn tiếp tục giữ
được lối sống mới ấy. Sau một thời gian, không những nó trở nên dễ dàng hơn, mà
còn cần thiết hơn, nó trở thành một sợi dây cấp cứu của họ.
Những khuôn mẫu đó cũng có bề trái của nó. Những gì là thử
thách nhưng có thể thực hành được đối với một người vào giai đoạn này của cuộc
đời, có thể gần như là bất khả trong một giai đoạn khác, cũng cùng với một người
ấy. Ý niệm về "dài" và "ngắn", chúng tương đối vô cùng. Một
người mẹ với những đứa con nhỏ, chắc chắn là không thể nào có được bốn mươi lăm
phút để làm bất cứ một việc gì. Nhưng có phải là nó có nghĩa bà ta sẽ không thể
thực hành thiền được hay chăng?
Nếu cuộc đời bạn đang ở giữa một cơn khủng hoảng bất tận, hoặc
bạn đang sống trong một xáo trộn về xã hội và kinh tế, có lẽ bạn sẽ không có
tâm thần đâu mà ngồi thiền lâu, cho dù có thì giờ chăng nữa. Sẽ có chuyện này
chuyện nọ xảy ra làm ngăn trở, nhất là khi bạn nghĩ rằng mình phải bỏ bốn mươi
lăm phút mỗi ngày để không làm gì hết. Và sống trong một gian nhà chật chội,
đông người ở, cũng có thể là một chướng ngại cho sự tu tập hàng ngày của
mình.
Ta không thể hy vọng rằng các sinh viên y khoa có thể đều đặn
bỏ ra một khoảng thời gian dài nhàn rỗi mỗi ngày, cũng như những người phải làm
việc trong các hoàn cảnh hoặc tình trạng khẩn cấp. Và đối với những người chỉ
tò mò nhưng không hề cương quyết thực tập, không muốn hy sinh những tiện nghi,
an nhàn và thời giờ của mình, thì cũng vậy thôi.
Vì vậy, đối với những ai muốn đạt được một sự quân bình trong
đời sống, thì sự linh động không những là hữu ích mà còn rất cần thiết. Ta nên
nhớ rằng, thiền tập không có dính dáng gì đến thời giờ. Năm phút ngồi thiền cho
đúng đắn cũng có thể thâm sâu bằng hoặc hơn bốn mươi lăm phút. Sự tinh chuyên của
bạn quan trọng hơn vấn đề thời gian. Vì khi ngồi thiền là chúng ta bước ra khỏi
giờ phút thông thường và thể nhập vào giây phút hiện tại, nơi đó không có kích
thước của không gian và thời gian. Vì vậy, nếu bạn có ý muốn thực hành, dù một
chút thôi, việc đó cũng đủ là quan trọng. Ta cần phải nhen nhúm và nuôi dưỡng
chánh niệm cho thật cẩn thận. Nó cần phải được bảo vệ khỏi những ngọn gió lớn của
cuộc sống xô bồ, của một tâm hồn bất an và đau khổ. Cũng như là một ngọn lửa nhỏ
cần phải được che chở, trú tránh những cơn mưa to và gió lớn.
Nếu lúc đầu bạn có thể thực tập chánh niệm được trong năm
phút hoặc một phút thôi, cũng là tốt đẹp lắm rồi. Nó có nghĩa là bạn đã ý thức
được giá trị của sự dừng lại, của việc chuyển từ hoạt động sang sinh động.
Khi chúng tôi hướng dẫn thiền tập cho các sinh viên y khoa, để
giúp họ đối phó với sự căng thẳng và đôi khi là những thương tích gây ra bởi nền
giáo dục y khoa hiện đại, hoặc cho những thể thao gia muốn luyện tâm cũng như
thân để đạt được một thành quả cao, hoặc cho những bệnh nhân trong các y viện,
còn cần phải tập nhiều thứ khác ngoài thiền tập, hoặc cho những nhân viên trong
các lớp cấp tốc, chúng tôi không bao giờ nhấn mạnh về việc phải ngồi bốn mươi
lăm phút mỗi ngày. Chúng tôi chỉ đòi hỏi việc ấy với những bệnh nhân của mình,
hoặc những ai đã sẵn sàng thay đổi lối sống của họ vì một lý do riêng nào đó.
Vì vậy, chúng tôi chỉ khuyên họ thực tập mỗi ngày mười lăm phút, hoặc là mỗi
ngày hai ba lần nếu họ có điều kiện.
Nếu nhìn kỹ một chút ta sẽ thấy rằng, trong chúng ta rất ít
có ai - cho dù làm nghề gì hoặc đang ở trong hoàn cảnh nào - mà lại không thể bỏ
ra mười lăm phút mỗi ngày được. Nếu mười lăm phút không được thì mười phút, năm
phút.
Bạn nhớ không, trong toán học, một đường thẳng dài một thước
có vô số những điểm, và trong một đường dài một tấc cũng có vô số bấy nhiêu điểm.
Nếu vậy thì có bao nhiêu là những phút chốc trong khoảng thời gian mười lăm, hoặc
năm, mười hay bốn mươi lăm phút? Chúng ta sẽ có rất nhiều thời giờ, nếu ta chỉ
cần biết thực tập chánh niệm trong những phút chốc này thôi. Bạn hãy luôn duy
trì ý muốn thực tập và nắm lấy cơ hội - vào bất cứ thời điểm nào - và tiếp xúc
nó với thật trọn vẹn bằng một ý thức sáng tỏ. Thời gian thực tập dài hay ngắn
cũng đều tốt cả, nhưng đôi khi ngồi "lâu" cũng chẳng đem lại lợi ích
gì, nếu ta có những khó khăn hoặc sự bực bội lớn trong sự tu tập của mình. Tốt
hơn ta nên tiến bước một cách thật từ tốn theo khả năng của mình, còn hơn là sẽ
không bao giờ nếm được mùi vị của chánh niệm và tĩnh lặng, chỉ vì những chướng
ngại quá to tát. Hành trình ngàn dặm thật sự bắt đầu bằng một bước của ta. Khi
chúng ta quyết định cất bước đầu tiên ấy - hay trong trường hợp này là ngồi xuống
trong chốc lát - ta sẽ có thể tiếp xúc được với thời gian vô tận trong ngay
giây phút này đây. Mọi quả trái tu tập của ta bắt nguồn từ một hành động đó, và
chỉ từ đó mà thôi.
Khi người thật sự muốn tìm tôi, người sẽ thấy tôi ngay tức
thì - tôi hiện hữu trong căn nhà nhỏ bé nhất của thời gian. --
Kabir.
Thực tập: Bạn hãy thử ngồi trong những thời gian dài, ngắn
khác nhau. Xem chúng có ảnh hưởng gì đền sự thực tập của mình. Sự tập trung của
ta có bị suy giảm theo thời gian không? Bạn có bị mắt kẹt trong việc "phải"
còn cố gắng bao lâu nữa không? Sự bất an có bao giờ khởi lên không? Tâm ta có
phản ứng hoặc quan tâm quá đáng không? Ta có cảm thấy mệt mỏi? Lo âu? Buồn
chán? Thúc hối? Buồn ngủ? Nếu bạn mới tập ngồi, bạn có thấy những thắc mắc như
là "Cái này thiệt là vô ích" hoặc "Mình làm như vầy không biết
có đúng không đây?" hoặc là "Không biết mình có những cảm giác như vậy
là đúng không?"
Những cảm thọ ấy, chúng khởi lên ngay tức thì hay là sau khi
bạn ngồi một thời gian? Bạn có thể xem chúng như là những trạng thái khác nhau
của tâm thức không? Bạn có thể quan sát chúng mà không phán xét, không phản ứng,
cho dù chỉ trong một thời gian ngắn không? Nếu bạn có thể trải chiếu ra đón mời
chúng, quan sát chúng, để cho chúng được như là, bạn sẽ có thể học được những
gì là chân thật và không thay đổi trong bạn. Và những gì vững vàng sẽ càng thêm
vững vàng, khi chúng được nuôi dưỡng bằng sự bền vững và tĩnh lặng trong
ta.
8.- KHÔNG CÓ MỘT LỐI DUY NHẤT
Ði cấm trại với gia đình ở một vùng rừng núi Teton, trong khi
leo trèo lúc nào tôi cũng thấy khâm phục khả năng giữ thăng bằng của chúng ta.
Mỗi bước chân ta đặt xuống đều cần phải có một nơi nào đó để nương tựa. Khi
trèo lên hoặc leo xuống những tảng đá to, những triền dốc cao, những con đường
mòn khúc khuỷu, bàn chân ta lúc nào cũng phải lập tức quyết định cho ta về những
chi tiết như là phải bước xuống nơi đâu, bằng cách nào, ở góc cạnh nào, mạnh
hay nhẹ, bằng đầu hay gót chân, nghiêng hay thẳng. Mấy đứa con tôi không bao giờ
đứng lại hỏi: "Ba ơi! con phải đặt chân nơi đâu? Con nên bước lên tảng đá
này hay tảng đá kia?" Chúng nó chỉ cứ việc làm mà thôi. Và tôi nhận thấy
chúng khám phá ra lối riêng của chúng - chúng biết phải đặt chân xuống nơi nào
và không nhất thiết là phải giống hệt như tôi.
Ðiều ấy nói với tôi rằng, bàn chân của ta biết chọn lựa được
đường lối cho nó. Quan sát mỗi bước chân của mình, tôi khám phá ra rằng bàn
chân ta có thể đặt xuống theo không biết bao nhiêu là vị thế khác nhau và trong
giây phút ngắn ngủi ấy, nó quyết định chọn một vị thế duy nhất rồi chịu hết sức
nặng lên trên đó. Sau đó nó lập tức bỏ ngay, để cho bàn chân sau chọn lựa bước
kế tiếp và ta tiến tới. Những sự việc ấy xảy ra không cần đến sự suy nghĩ của
ta, ngoại trừ một vài địa điểm hiểm hóc, đòi hỏi chút kinh nghiệm và sự phán
xét. Cũng có lúc tôi phải đưa tay ra nâng đở đứa con gái út. Nhưng đó chỉ là những
trường hợp ngoại lệ, chứ không phải là luật chung. Thông thường, ta không bao
giờ cần phải nhìn xuống và suy nghĩ về mỗi bước chân của mình. Chúng ta chỉ cần
coi chừng, nhìn tới trước và đầu óc ta sẽ ghi nhận hết tất cả, nó quyết định
nhanh chóng, chỉ cho ta biết phải đặt chân xuống như thế nào để thích ứng với địa
thế bên dưới trong ngay lúc đó.
Nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ không có những bước sai trật.
Lúc nào ta cũng phải thật cẩn thận và cảm nhận sự thăng bằng của mình. Mắt và
óc ta rất tinh nhuệ, chúng có thể nhận định được tình hình trong nháy mắt và ra
chỉ thị chi tiết cho toàn thân, tứ chi và bàn chân ta, khiến cho quá trình đặt
một bước chân trên mặt đất lởm chởm là một cử động cân bằng vô cùng kỳ diệu, mặc
dù với chiếc ba lô nặng nề trên lưng cũng như đôi giày bốt dưới chân. Trong ta
lúc nào cũng sẵn có một năng lực của chánh niệm. Ðịa thế khó khăn đã khơi nó dậy
trong ta. Và nếu bạn có leo trên cùng một con đường vài chục lần đi chăng nữa,
mỗi lần những bước chân của bạn sẽ hoàn toàn khác biệt nhau. Mỗi bước chân của
bạn sẽ khai mở được cái tính chất duy nhất đặc biệt của giây phút hiện tại.
Thiền tập cũng tương tự như thế. Thật ra không có một
"phương pháp đúng" nào duy nhất hết, mặc dù trên con đường này cũng
có những địa thế nguy hiểm mà ta cần phải cẩn trọng. Ðiều hay nhất là ta nên đối
diện với mỗi giây phút bằng một sự tươi mới, vì sự phong phú của nó tùy thuộc
vào vào trình độ tỉnh thức của ta. Ta hãy nhìn cho thật sâu sắc và rồi buông bỏ,
bước sang giây phút kế tiếp, không hề bám víu những gì đã qua. Nhờ đó mỗi giây
phút đều có thể tinh khôi, mỗi hơi thở là một sự bắt đầu mới, một sự buông bỏ mới,
một thực tại mới. Cũng như khi ta bước qua một địa thế gập ghềnh, nơi đây không
hề có vấn đề ta "cần phải làm gì". Sự thật trên con đường tu tập này
có biết bao nhiêu chuyện cho ta quan sát và học hỏi, nhưng điều đó không thể ép
buộc được. Ta không thể bắt người khác phải tán thưởng cảnh mặt trời hoàng hôn
trên đồng lúa vàng, hay ánh trăng trên núi. Tốt nhất là trong những giây phút
đó ta không nên nói gì hết. Hãy thật sự có mặt trọn vẹn với sự to tát ấy, và hy
vọng rằng người khác cũng có thể nhìn thấy được trong sự tĩnh lặng của giây
phút hiện tại. Mặt trời hoàng hôn và ánh trăng non có thể tự chúng diễn tả được,
bằng một ngôn ngữ riêng, trên một tấm phong riêng. Sự thinh lặng đôi khi tạo
nên một khoảng không gian cho những gì sinh động được lên tiếng.
Cũng vậy, trong thiền tập, tốt nhất là ta cứ giữ gìn và tôn
trọng những kinh nghiệm trực tiếp của mình, và đừng lo nghĩ hoặc thắc mắc không
biết những gì ta cảm nhận, nhìn thấy hoặc suy nghĩ có đúng không! Sao bạn không
tự tin vào kinh nghiệm của mình trong giây phút này, như là bạn đã đặt niềm tin
nơi bàn chân có thể giữ cho mình được thăng bằng khi leo trên những tảng đá
cheo leo? Nếu bạn biết giữ một niềm tin khi đối diện với những hoàn cảnh bấp
bênh, cũng như cái thói quen muốn được một thẩm quyền nào khác chứng nhận cho
kinh nghiệm của mình, bạn sẽ thấy được một cái gì rất sâu sắc xảy ra trên con
đường tu tập. Bàn chân và hơi thở sẽ dạy cho bạn biết đặt những bước chân cẩn
trọng tiến tới trong chánh niệm, biết an trú trong mỗi giây phút, và dù đến một
nơi nào ta cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc. Còn một ơn phước nào cao quý hơn nữa phải
không bạn?
Thực tập: Khi ngồi thiền bạn hãy chú ý đến những ý nghĩ
khởi lên như là "Mình thực hành có đúng không?", "Không biết những
cảm thọ này là đúng hay sai?" "Không biết có phải mình sẽ có những
kinh nghiệm như vầy không?" Và thay vì tìm cách trả lời những câu hỏi ấy,
bạn hãy nhìn sâu hơn vào giây phút hiện tại. Hãy nới rộng ý thức của bạn ra
trong giây phút hiện tại này. Giữ câu hỏi của bạn dưới ánh sáng chánh niệm và
theo dõi hơi thở của mình. Tin tưởng ở giây phút này. "Chỉ có vậy
thôi" cho dù cái "như vậy" đó là bất cứ một sự kiện gì hoặc ở một
nơi nào. Trong giây phút hiện tại này, bạn hãy nhìn cái "như vậy" đó
cho thật sâu, và giữ được chánh niệm liên tục. Hãy để cho giây phút này khơi mở
sang giây phút khác mà không phân tích, không phán xét, ghét bỏ hoặc nghi ngờ.
Bạn chỉ cần theo dõi và ôm ấp nó, cởi mở ra, biết chấp nhận và để cho nó như
là. Ngay bây giờ đây. Chỉ có một bước này thôi. Chỉ có giây phút này
thôi.
Chúng ta thường bảo những đứa con của mình, không phải là lúc
nào nếu muốn gì là chúng sẽ được nấy, và đôi khi ta còn ngụ ý rằng việc chúng
đòi hỏi là sai quấy. Và khi chúng hỏi "Sao vậy má?" hoặc "Sao vậy
ba?", sau một hồi giải thích loanh quanh, có lẽ chúng ta sẽ đáp: "Con
không cần hiểu. Mai mốt chừng nào lớn lên con sẽ biết!"
Nhưng bạn có thấy việc đó là hơi bất công không? Vì người lớn
chúng ta nhiều khi cũng có một thái độ y hệt như những đứa con nít vậy! Ta có
khác gì với chúng đâu mà lắm khi lại còn ít thành thật và cởi mở hơn chúng nữa.
Giả sử ta có thể làm theo sở ý của mình thì sự việc sẽ ra sao? Bạn có nhớ những
chuyện cổ tích, trong đó nhân vật chánh được ba lời ước, bạn có nhớ cuối cùng họ
đã đau khổ vì chúng đến đâu không?
Những người dân ở tiểu bang Maine, Hoa Kỳ, nổi tiếng với câu
trả lời: "Bạn không thể nào đi đến chốn ấy từ nơi này được", mỗi khi
có ai hỏi đường. Nói về phương hướng của cuộc sống thì ta có thể đổi câu ấy
thành "Bạn chỉ có thể đi đến nơi ấy, nếu bạn đang thực sự có mặt ở nơi
này", thì có lẽ chính xác hơn. Có bao nhiêu người trong chúng ta ý thức được
sự thật ấy? Chúng ta có biết con đường của mình là gì không? Và giả sử ta có được
bất cứ những gì mình muốn, chúng ta sẽ giải quyết được một vấn đề nào không?
Hay chỉ là những ước muốn phát xuất từ thất niệm chỉ đem lại cho ta thêm những
rối rắm và đau khổ mà thôi.
Sự thật ở đây có một câu hỏi rất thú vị là: "Con đường của
ta đó là gì?", vì chúng ta ít khi chịu ngồi lại chiêm nghiệm đời mình cho
sâu xa. Có bao giờ bạn tự hởi mình: "Tôi là ai?", "Tôi đang đi về
đâu?". "Tôi đang đi trên con đường nào?", "Hướng tôi đi đây,
có đúng cho tôi không?", "Nếu bây giờ tôi có thể chọn một con đường
thì tôi sẽ đi về hướng nào?", "Sự khao khát, hoài mong của tôi là
gì?". "Tôi thật sự yêu thích những gì?"
Câu hỏi "Con đường của tôi là gì?" là một đề mục
thiền tập rất tuyệt hảo. Chúng ta không cần phải tìm câu trả lời, hoặc nghĩ rằng
phải có một câu trả lời duy nhất. Tốt nhất là đừng nên suy nghĩ gì hết. Thay vậy,
cứ bền bỉ nêu lên thắc mắc ấy, và để cho câu trả lời tự chúng đến rồi đi. Cũng
giống như mọi việc khác trong thiền tập, chúng ta chỉ cần theo dõi, lắng nghe,
ghi nhận, để yên,buông bỏ và tiếp tục tự hỏi "Con đường của tôi là
gì?". "Tôi là ai?"
Mục đích ở đây là cởi mở ra với những gì mình không biết, cho
phép mình được tự nhận rằng "Tôi không biết". Và thử hoà nhập vào cái
không biết đó một chút, từ tốn, thay vì đi tự trách móc mình. Dù sao đi nữa thì
ngay trong giây phút này, có thể đó là thực tại của ta, là mình không biết gì hết.
Những câu hỏi thuộc loại này, tự chúng sẽ dẫn dắt ta đến những
cánh cửa mới, đến những sự hiểu biết, viễn ảnh và hành động mới. Những thắc mắc
ấy, sau một thời gian tự chúng sẽ có một sức sống riêng. Nó thấm nhập vào da thịt
ta và thở ra một luồng sinh khí mới, nhiệt tình mới vào sự vô vị, nhàm chán và
lề lối thường ngày của ta. Và câu hỏi ấy sẽ "hành xử" ta, thay vì ngược
lại. Tôi nghĩ, đây là một phương cách rất hay để khám phá ra con đường nào thật
sự nằm gần trái tim ta nhất. Dù sao đi nữa thì cuộc sống này bao giờ cũng là một
hành trình của những bậc anh hùng, nhưng nó sẽ còn được cao thượng thêm bội phần
nếu ta biết sống trong chánh niệm và dám hỏi, dám liều. Là một con người, bạn
chính là nhân vật chánh, là vị anh hùng chánh cho hành trình huyền thoại của một
câu chuyện thần tiên. Nam hay nữ gì cũng vậy thôi, hành trình này là đường bay
giữa sanh và tử, là một kiếp người. Không ai có thể thoát ra khỏi cuộc mạo hiểm
này được bao giờ? Có chăng là chúng ta chỉ hành xử khác nhau mà thôi.
Chúng ta có thể tiếp xúc được với tiến trình khai mở của cuộc
sống mình không? Ta có dám đối diện với những thử thách trên con đường đi tìm
chúng để tự thử nghiệm mình, để trưởng thành, để hành động có trách nhiệm, để tự
phán, để khám phá ra con đường nào là của mình, và trên hết, quan trọng hơn cả,
là để thật sự sống.
10.- THIỀN NÚI
Là núi vững vàng. -- Nhất Hạnh.
Trong thiền tập, núi có thể dạy ta rất nhiều. Hình ảnh về ngọn
núi có một ảnh hưởng rất sâu đậm trong mọi truyền thống văn hóa. Những ngọn núi
là những nơi chốn thiêng liêng. Từ ngàn xưa người ta thường đi vào những ngọn
núi để tầm đạo, để tự nuôi dưỡng mình. Ngọn núi là một biểu tượng cho trục quay
chính của quả đất (núi Meru), cho nơi cư ngụ của các vị thần (núi Olympus), cho
nơi con người đã tiếp nhận những điều răn cũng như khế ước từ thượng đế (núi
Sinai). Những ngọn núi thường được coi là thiêng liêng, chúng là hiện thân của
một sự khiếp sợ và hòa hợp, khắc nghiệt và uy nghi. Nhô lên cao đồ sộ trên hành
tinh này, những ngọn núi mời gọi và áp đảo ta, chỉ bằng mỗi sự hiện diện của
chúng. Tự thể của núi vô cùng vững mạnh, cơ bản là đá. Ðá tảng, đá rắn chắc.
Núi là một nơì ta có thể nhìn thấy bao quát hết tất cả. Ta có thể tiếp xúc được
với sự rộng lớn của thế giới thiên nhiên, và giao điểm với cái gốc rễ, tuy mong
manh nhưng rất kiên trường, của sự sống. Những ngọn núi đã đóng một vai trò rất
quan trọng trong lịch sử, cũng như thời tiền sử của con người. Ðối với những
người dân lành, núi bao giờ cũng là mẹ cha, là thần bảo vệ, thần che chở và là
đồng minh của họ.
Trong thiền tập, đôi khi ta cũng có thể vay mượn những hình ảnh
có tính chất kỳ diệu này của núi và xử dụng chúng để tăng cường sự chú tâm của
ta, cũng như duy trì giây phút hiện tại trong một sự thanh thản và đơn sơ cơ bản.
Hình ảnh một ngọn núi giữ trong tâm và thân có thể làm tươi mới lại con người của
ta, nó nhắc nhở ta vì sao mình phải ngồi thiền, việc làm ấy có ý nghĩa gì, mỗi
khi ta ngồi xuống và an trú trong thế giới của sự vô hành (non-doing). Núi là một
biểu tượng tinh hoa cho một sự hiện hữu và tĩnh lặng vĩnh cửu.
Bạn có thể thực tập thiền quán về núi như sau, hoặc sửa đổi một
chút cho thích hợp với ý niệm cá nhân của bạn về núi và ý nghĩa của nó. Bài thiền
tập này bạn có thể thực hành trong bất cứ một tư thế nào, nhưng tôi thấy hiệu
quả nhất là khi tôi ngồi xếp bằng trên sàn nhà, lúc ấy thân tôi nhìn và cảm thấy
giống như một ngọn núi vững vàng, bên trong lẫn bên ngoài. Sống trên một ngọn
núi hoặc gần ngọn núi cũng hữu ích, nhưng không là cần thiết. Vì chính cái hình
ảnh trong nội tâm mới thật sự là nguồn năng lượng.
Hãy tưởng đến một ngón núi nào đẹp nhất mà bạn biết hoặc nghe
nói, hoặc có thể tưởng tượng ra được, một ngọn núi rất thân thiết với bạn.
Trong khi bạn tập trung vào hình ảnh hoặc cảm nhận về ngọn núi này trong tâm,
hãy ghi nhận vóc dáng của nó, đỉnh núi kiêu hảnh, chân núi ăn sâu vào gốc rễ đất
đá của mặt địa cầu, những triền núi thoai thoải hoặc có dốc cao. Bạn hãy ghi nhận
tính chất đồ sộ của nó, sự bất động của nó, vẻ đẹp của nó khi đứng gần hoặc
nhìn từ xa - một vẻ đẹp tỏa phát từ một dấu hiệu và hình tướng cá biệt, và cùng
một lúc biểu hiện được tính chất "núi" của nó, quá vượt lên trên mọi
hình tướng khác.
Có thể ngọn núi của bạn có tuyết phủ trên đỉnh và cây xanh mọc
trên những triền núi thấp. Có thể nó có một đỉnh nhô cao nổi bật, cũng có thể
là một dãy nhiều chóp núi, hoặc một vùng cao nguyên chót vót. Dù có hình dạng
nào cũng được, bạn hãy ngồi và thở với hình ảnh của ngọn núi ấy, quan sát nó và
ghi nhận những đặc tính của nó. Khi nào cảm thấy sẵn sàng, bạn hãy thử mang
thân bạn và hình ảnh ngọn núi trong tâm trở thành một. Ðầu của bạn là đỉnh núi
cao, vai và hai tay là triền núi và hai chân là chân núi, trụ vững vàng trên tọa
cụ. Bạn hãy kinh nghiệm trong thân một cảm giác nâng cao, cột trụ, sừng sững,
những đặc tính của núi, sâu xa trong đường xương sống của bạn. Hãy tự trở thành
một ngọn núi biết thở, không lay chuyển trong sự tĩnh lặng của mình, có mặt
hoàn toàn - vượt ra ngoài ngôn ngữ và tư tưởng, một sự hiện diện vững vàng, có
gốc rễ và an trụ.
Và bạn cũng ý thức rằng trong ngày khi mặt trời đi ngang qua
bầu trời, ngọn núi vẫn ngồi yên đấy. Ánh sáng, bóng tối và màu sắc thay đổi
theo từng giây phút, trong sự tĩnh lặng bất động của núi. Một người bình thường
cũng có thể nhận thấy được sự thay đổi ấy qua mỗi giờ. Sự kiện này đã tạo nên
những kiết tác của nhà danh họa Claude Monet. Ông đã có sáng kiến dựng nhiều
khung vải để vẽ và diễn tả sự sống của một tĩnh vật, theo mỗi giờ, từ khung vải
này sang khung vải khác, khi ánh sáng, bóng tối và màu sắc chuyển hóa thành những
ngôi thánh đường, dòng sông hoặc ngọn núi, đánh thức được cái nhìn của người
xem. Ánh sáng thay đổi, ngày chuyển sang đêm, đêm chuyển sang ngày, và ngọn núi
vẫn cứ ngồi yên đấy, đơn sơ hiện hữu. Nó giữ sự thinh lặng, bất động, trong khi
bốn mùa chuyển tiếp nhau, thời thiết thay đổi trong từng phút giây, từng ngày
tháng. Sự yên tĩnh bất chấp hết mọi đổi thay.
Vào mùa hè, núi không có tuyết, có chăng là trên đỉnh cao hoặc
bên những tảng đá lởm chởm che khuất ánh mặt trời. Vào mùa thu, núi phủ một chiếc
áo sặc sở đủ màu lá chín; vào mùa đông là một tấm mền của tuyết và băng đá. Ở
mùa nào cũng vậy, có nhiều lúc ngọn núi bị khuất trong mây và sương mù, hoặc có
những cơn mưa đá đổ trút xuống. Những khách du lịch ghé qua, đôi khi thất vọng
vì không nhìn thấy rõ được ngọn núi, nhưng đối với núi thì không có gì khác biệt
- dù thấy hay không thấy, nắng hay mưa, nóng cháy hay lạnh căm, nó vẫn ngồi yên
đó hiện hữu. Những ngày có trận bảo dữ kéo ngang qua, không gian bị vùi dập
trong tuyết, mưa và gió ở một cuồng độ kinh khiếp, dù vậy núi vẫn ngồi yên lặng
trải qua tất cả. Rồi mùa xuân về, chim lại hót vang trên cây, những cành khô trổ
màu xanh non, hoa nở rộ trên những đồng cỏ cao và bên triền núi, những dòng suối
ngập tràn nước mát từ những khối tuyết đang tan. Trải qua hết mọi biến cố, núi
vẫn tiếp tục ngồi yên, không hề lay chuyển bởi thời tiết, bởi những gì xảy ra
trên bề mặt, bởi thế giới bên ngoài.
Và khi ta ngồi yên với hình ảnh ấy trong tâm, chúng ta cũng sẽ
là hiện thân của cùng một sự tĩnh lặng và vững chãi bất lay động, giữa những biến
đổi của cuộc đời. Trong cuộc sống cũng như trong thiền tập, chúng ta sẽ luôn
luôn kinh nghiệm được bản chất thay đổi của thân tâm và của thế giới chung
quanh ta. Ta kinh nghiệm những giai đoạn sáng tỏ và tối tăm, cũng như những màu
sắc rực rỡ cùng sự tẻ nhạt vô vị. Chúng ta sẽ kinh nghiệm những cơn bảo dữ với
nhiều cường độ khác nhau, của thế giới bên ngoài cũng như trong đời sống và tâm
hồn ta. Trong sự vùi dập của cơn gió lớn, sự lạnh căm của những trận mưa ào ạt,
chúng ta sẽ chịu đựng những thời gian đen tối và đau đớn, cũng như sẽ nếm hưởng
những giây phút an lạc và nâng cao. Và biểu hiện bề ngoài của ta cũng thay đổi
luôn, cũng như một ngọn núi theo thời tiết của chính nó.
Khi ta thực tập như một ngọn núi trong khi ngồi thiền, ta có
thể nối liền được với sức mạnh và sự vững vàng của núi, cũng như tiếp nhận đó
làm của mình. Ta có thể xử dụng những năng lượng đó để trợ giúp cho công phu tu
tập, giúp ta tiếp xúc được mỗi giây phút bằng chánh niệm, tĩnh lặng và sáng tỏ.
Chúng ta nên nhớ rằng, những ý nghĩ, cảm thọ, những trận bảo cảm xúc và sự khủng
hoảng của mình, ngay cả bất cứ một biến cố nào xảy đến cho ta, chúng cũng chỉ
giống như là thời tiết trên núi. Chúng ta thường hay có khuynh hướng quan trọng
quá, nhận khổ đau là của mình, nhưng thật ra tự tính của chúng hoàn toàn không
của riêng một ai. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta nên xem thường hoặc chối bỏ
những thời tiết đổi thay trong cuộc sống. Chúng phải được đối diện tôn trọng, cảm
nhận, và được soi sáng dưới ngọn đèn chánh niệm, vì nếu không cẩn trọng chúng
có thể tiêu diệt ta. Ðược như vậy, ta sẽ có thể tiếp xúc được với một sự thinh
lặng, an tĩnh và trí tuệ rất sâu sắc, ngay giữa những cơn giông tố của cuộc đời.
Núi có thể dạy cho ta rất nhiều, nếu ta biết lắng nghe.
Nhưng dù sao đi nữa, bạn cũng nên nhớ rằng, thiền tập về núi
chỉ là phương tiện, là ngón tay chỉ hướng cho ta đi. Chúng ta cần phải nhìn, rồi
đi tới. Mặc dù hình ảnh một ngọn núi có thể giúp ta được trở nên vững vàng hơn,
nhưng con người bao giờ cũng phức tạp và thú vị hơn núi nhiều. Chúng ta là những
ngọn núi biết thở, biết di động, biết hát ca. Chúng ta có thể cùng một lúc vừa
cứng như đá, rắn chắc bất động, lại vừa mềm mại, dịu dàng và trôi chảy. Trong
ta có sẵn một tiềm năng rất rộng lớn. Chúng ta có thể nhìn và cảm nhận. Ta có
thể ý thức và hiểu. Ta có thể học hỏi, trưởng thành, và có thể chữa lành những
vết thương, nhất là khi ta biết học cách lắng nghe sự hòa điệu của mọi vật và
duy trì được tính chất vững vàng của núi qua mọi thăng trầm của cuộc sống.
Chúng điểu cao phi tận,
Cô vân độc xứ nhàn.
Tương khan lưỡng bất yếm,
Chỉ hữu Kính Ðình Sơn. -- Lý Bạch.
Cô vân độc xứ nhàn.
Tương khan lưỡng bất yếm,
Chỉ hữu Kính Ðình Sơn. -- Lý Bạch.
Bầy chim cao bay mất,
Thơ thẩn một áng mây
Ngồi một mình với núi
Chỉ còn Kính Ðình Sơn.
Thơ thẩn một áng mây
Ngồi một mình với núi
Chỉ còn Kính Ðình Sơn.
Thực tập: Trong khi bạn ngồi thiền, hãy giữ hình ảnh ngọn
núi này trong tâm. Thử khám phá công năng của nó, trong việc làm tăng gia khả
năng giúp ta an trú trong tĩnh lặng, cũng như giúp ta ngồi thiền lâu hơn, hoặc
có thể ngồi đối diện với những khó khăn, khổ đau, bảo tố hay sự tẻ nhạt trong
tâm. Bạn hãy tự hỏi, ta đã học được gì từ những kinh nghiệm thiền tập này. Bạn
có thể nhận thấy được một chút gì chuyển hóa nơi thái độ của bạn, đối với những
sự thay đổi trong cuộc sống không? Bạn có thể giữ được hình ảnh ngọn núi với
mình trong đời sống hằng ngày không? Bạn có nhận thấy được những ngọn núi nơi
người khác không và cho phép chúng có được một hình tướng riêng, vì mỗi ngọn
núi đều cá biệt.
11.- THIỀN MẶT HỒ
Nước tĩnh lặng chiếu. -- Nhất Hạnh.
Hình ảnh một ngọn núi chỉ là một trong nhiều phương tiện có
thể hỗ trợ cho sự tu tập của ta, và giúp cho nó được thêm sinh động và cơ bản.
Những hình ảnh về cây cối, sông nước, mây trời cũng có thể rất hữu dụng. Hình ảnh
ấy có thể làm nhận thức về sự tu tập của ta được thêm phần thâm sâu và rộng mở.
Có người kinh nghiệm rằng hình ảnh về mặt hồ tĩnh lặng có một
công dụng rất đặc biệt trong thiền tập. Bởi vì hồ là một khối nước mở rộng,
hình ảnh ấy có quan hệ với tư thế nằm, mặc dù ta có thể thực hiện trong khi ngồi
cũng được. Chúng ta biết rằng, nguyên lý của nước rất cơ bản như yếu tố đất đá,
và tự tánh của nước còn mạnh mẽ hơn, vì nó có thể làm mòn đá. Ngoài ra, nước
còn có một đặc tính tiếp thu rất kỳ diệu. Nó tự phân ra để tiếp nhận bất cứ một
vật gì, và rồi tự hòa nhập lại. Nếu bạn lấy một cây búa đập vào núi hoặc tảng
đá, dù chúng có cứng rắn đến đâu, thật ra vì sự rắn chắc ấy, đá sẽ bị mẻ hoặc vỡ
ra. Nhưng nếu bạn dùng búa để đập biển hoặc hồ, cuối cùng bạn chỉ đạt được một
cây búa rĩ sét. Ðức hạnh của nước biểu thị trong việc đó.
Bạn có thể xử dụng hình ảnh của một mặt hồ để thực hành thiền
tập. Hãy tưởng tượng trong tâm một mặt hồ, một vùng nước rộng nằm yên trong một
chỗ trũng lớn trên mặt đất. Bạn biết rằng nước bao giờ cũng chảy xuống chỗ thấp.
Nó luôn tìm nơi yên nghỉ và muốn được chứa đựng. Mặt hồ của bạn có thể cạn hoặc
sâu, xanh dương hoặc xanh lá cây, vẩn đục hoặc trong veo. Những khi không có gió,
mặt hồ hoàn toàn phẳng lì. Như một tấm gương nó phản ảnh cây cỏ, trời mây, đá
núi, trong một giây phút ngắn ngủi, nó tàng chứa hết mọi sự vật trong đó. Những
khi gió nổi lên, mặt hồ khởi sóng, từ những gợn lăn tăn đến những làn sóng nhấp
nhô. Lúc ấy sự phản ảnh rõ rệt không còn nữa. Nhưng ánh nắng vẫn có thể lấp
lánh và nhảy múa trên đầu những ngọn sóng, long lanh như những hạt ngọc châu.
Khi đêm đến, ánh trăng lại về khiêu vũ trên mặt hồ, và nếu nước tĩnh lặng, nó sẽ
phản chiếu những dáng dấp của cây cỏ trong bóng đêm. Mùa đông về, mặt hồ có thể
đông cứng, nhưng bên dưới sự sống và sinh động vẫn dẫy đầy.
Khi bạn thiết lập được một hình ảnh của mặt hồ trong tâm rồi,
bạn hãy cho phép mình trở thành là một với mặt hồ ấy, khi bạn nằm xuống hoặc ở
trong tư thế ngồi thiền. Bạn hãy duy trì năng lượng của mình bằng chánh niệm, bằng
một sự mở rộng và bằng tình thương đối với chính mình, cũng giống như nước
trong hồ được cất chứa bởi sự tiếp thu và chấp nhận của mặt đất. Bạn hãy thở với
hình ảnh của mặt hồ trong tâm, cảm nhận thân của nó là thân bạn, cho phép tâm bạn
được mở rộng và tiếp nhận, phản chiếu bất cứ một vật gì đến gần. Kinh nghiệm
giây phút hoàn toàn tĩnh lặng ấy, khi cả hai - vật phản chiếu và mặt nước -
hoàn toàn được rõ rệt, và những giây phút khi mặt hồn bị xao động, bập bềnh, vật
phản ảnh và đáy sâu bị mờ khuất. Trải qua mọi biến đổi, khi bạn an trú trong
thiền định, hãy đơn giản ghi nhận những trò chơi của các năng lượng khác nhau
trong tâm, như là tư tưởng, cảm thọ, sự thúc đẩy và phản ứng nhất thời, chúng đến
rồi đì như những ngọn sóng lăn tăn. Bạn hãy ghi nhận ảnh hưởng của chúng, như
khi bạn quan sát những năng lượng khác nhau thay phiên khiêu vũ trên mặt hồ:
gió, sóng, ánh sáng, bóng tối, màu sắc, mùi hương...
Những ý nghĩ và cảm thọ của bạn có làm mặt hồ chao động
không? Bạn có phiền việc ấy không? Bạn có chấp nhận những gợn sóng, những lao
xao là một phần nét tự nhiên của hồ nước, của sự kiện là ta có một bề mặt
không? Bạn có thể nào thấy rằng, mình không những chỉ là mặt hồ, mà còn là toàn
thể khối nước nữa? Vì vậy cho nên, bạn cũng là sự tĩnh lặng bên dưới mặt nước,
nó chỉ kinh nghiệm một chút chao động, cho dù mặt hồ bên trên có nhấp nhô sóng
gió đến đâu.
Cũng vậy, trong thiền tập cũng như trong cuộc sống hằng ngày,
bạn nên nhớ rằng, mình không phải chỉ là một nội dung của những tư tưởng và cảm
thọ, mà còn là khối chánh niệm mênh mông bất lay chuyển, nằm bên dưới bề mặt của
tâm thức nữa. Trong lúc thiền quán về mặt hồ, chúng ta ngồi với ý muốn giữ hết
mọi cá tính của tâm và thân trong chánh niệm và bằng sự chấp nhận. Cũng giống
như hồ nước được ôm ấp, gìn giữ và cất chứa bởi mặt đất, nó phản chiếu mặt trời,
ánh trăng, cây cỏ, mây trôi, bóng chim bay và được vuốt ve bởi những làn gió nhẹ,
làm khơi dậy một vẻ đẹp lóng lánh, nét sinh động và tinh túy của nó.
Vào những ngày của tháng chín hoặc tháng mười, hồ Walden là một
tấm gương toàn diện của rừng núi. Không có gì lại đẹp đến thế, thanh tịnh đến
thế, và lại cùng một lúc rộng lớn như thế, như là một hồ nước, ngẫu nhiên nằm
trên mặt địa cầu. Trời nước. Nó không cần đến hàng rào. Quốc gia thăng trầm
không làm nó ô uế. Nó là một tấm gương, không một viên đá nào có thể làm nứt vỡ
được, một vẻ trong sáng không bao giờ bị mờ tối, thiên nhiên lúc nào cũng trau
chuốt nó, không một cơn bảo, một bụi bặm nào có thể làm nhạt nhòa bề mặt tươi mới
của nó - một tấm gương mà mọi thứ bất tịnh rơi xuống đều bị chìm lắng, phủi
quét bởi chiếc chổi ánh nắng vàng chói, - là một tấm vải lau bụi - không giữ lại
một hơi thở nào thở lên trên ấy, nhưng lại gởi nó bay bổng lên như mây trôi
trên cao, và phản chiếu trong lòng hồ tĩnh lặng. -- Thoreau, Walden.
Thực tập: Bạn hãy dùng hình ảnh mặt hồ để trợ giúp lúc
ngồi hoặc nằm trong yên lặng, không đi đâu hết, được giữ gìn và ôm ấp trong
chánh niệm. Ghi nhận những khi tâm ta suy tư, hoặc khi bị dính mắc. Ghi nhận sự
tĩnh lặng bên dưới bề mặt. Hình ảnh này có nhắc nhở bạn một phương cách nào mới
để ứng xử trong những tình cảnh rối loạn không?
12.- THIỀN HÀNH
Từng bước gió mát dậy,
Từng bước nở hoa sen. -- Nhất Hạnh.
Từng bước nở hoa sen. -- Nhất Hạnh.
Tôi biết nhiều người có lúc cảm thấy khó ngồi thiền, nhưng họ
lại đạt được một tâm định rất sâu khi đi thiền hành, dù cho bạn là ai, bạn
không thể nào ngồi mãi được. Và có người nhận thấy rằng họ không thể nào ngồi
yên giữ chánh niệm, khi trong tâm có một sự đau đớn, bồn chồn và giận dữ lớn.
Nhưng họ lại có thể đi thiền hành với những cảm thọ ấy.
Trong truyền thống tu tập ở các thiện viện, thời gian ngồi
thiền và đi thiền hành được xen kẻ nhau. Ngồi hay đi gì cũng đều chung một
phương pháp thực tập. Ðiều quan trọng là ta phải biết cách giữ gìn tâm ý của
mình.
Khi đi thiền hành, ta chú ý chính tiến trình đi của mình. Bạn
có thể tập trung vào mỗi bước chân một cách trọn vẹn; hoặc bạn có chia nó ra
thành từng động tác như: nhấc, bước, đạp; hoặc là chú ý đến sự chuyển động của
toàn thân. Bạn cũng có thể dùng chánh niệm về hơi thở để đi kèm theo với mỗi bước
chân của mình.
Khi đi thiền hành, bạn không có một nơi nào để đến cả. Thường
thì ta đi tới lui trên cùng một con đường nhỏ, hoặc đi theo một vòng tròn trong
thiền đường. Thật vậy, khi ta không có một nơi nào để đến, ta sẽ dễ dàng có mặt
ở hiện tại hơn. Bạn nghĩ xem, ta mong mỏi một nơi nào khác trên con đường làm
gì, khi nó chỉ tới lui có vậy thôi! Vấn đề thử thách ở đây là bạn có thể thật sự
có mặt với bước chân này không, với hơi thở này không?
Bạn có thể thực tập đi thiền hành thật chậm hay nhanh cũng được.
Những bước chân nhanh chậm tùy thuộc vào vận tốc của bạn. Sự thực tập ở đây là
làm sao ta có thể tiếp nhận mỗi bước chân và có mặt trọn vẹn với nó. Việc ấy có
nghĩa là ta phải cảm nhận được cảm giác của mình - nơi bàn chân, nơi toàn thân,
nơi dáng đi, điệu bộ của ta, trong mỗi giây phút và trong trường hợp này, trong
mỗi bước chân. Bạn nên nhớ rằng khi ta theo dõi những bước chân, là ta đang
nhìn bằng tâm, chứ không phải là nhìn xuống đôi chân của mình.
Cũng giống như trong khi ngồi thiền, sẽ có việc này, việc kia
khởi lên để kéo sự chú ý của ta ra khỏi sự quan sát đơn thuần về những bước
chân của mình. Và ta cũng sẽ đối xử với những tư tưởng, cảm thọ, sự thúc đẩy,
ký ức và mong đợi, khởi lên trong khi đi thiền hành, giống y như khi ta đang ngồi
thiền vậy. Vì thiền hành là sự di động của tĩnh lặng, là dòng chánh niệm đang
lưu chuyển.
Hay nhất là khi thực tập thiền hành, bạn nên chọn một nơi mà
mình không phải thu hút sự chú ý của mọi người chung quanh nhiều quá, nhất là nếu
bạn đi thật chậm. Những nơi thích hợp là trong phòng thiền của bạn, ngoài đồng
cỏ, trên một con đường mòn trong rừng, hay ở bờ biển vắng cũng tốt. Khi bạn đẩy
xe trong một siêu thị, bạn cũng có thể thực tập thiền hành, lúc ấy bạn đi chậm
bao nhiêu cũng được.
Và ngoài những lúc thực tập thiền hành nghiêm túc, bạn cũng
có thể thực hành thoải mái nữa. Những lúc này không đòi hỏi bạn phải đi tới lui
trên cùng một con đường, hoặc đi quanh theo một vòng tròn, nhưng là bước đi
bình thường và tự nhiên. Bạn có thể đi trong chánh niệm trên hè phố, trong hành
lang ở sở làm, đi dạo với người bạn, với một em bé. Bạn chỉ cần tự nhắc nhở rằng
ta đang có mặt nơi thân của mình. Bạn tập cho mình có mặt trong giờ phút này,
tiếp nhận mỗi bước chân khi nó khởi lên, chấp nhận mỗi giây phút khi nó đến. Những
khi cảm thấy mình hơi vội vã hoặc trở nên thiếu kiên nhẫn, bạn đi chậm lại một
chút. Việc ấy có thể giúp bạn bớt vội vàng, và nhắc nhở rằng hiện tại ta đang ở
đây, khi nào ta đến một nơi nào khác thì ta sẽ có mặt ở đó. Nếu bạn bỏ lỡ nơi
này, thì rất có thể bạn sẽ bỏ lỡ luôn nơi kia. Nếu nơi đây tâm bạn không được
an ổn, thì khi bạn đã đến nơi kia rồi, lý do gì mà tâm bạn sẽ lại được an ổn.
Thực tập: Hãy có chánh niệm về động tác đi bộ của mình, ở
bất cứ một nơi nào. Bước chậm rãi lại một chút. Giữ ý thức nơi thân và trong giờ
phút hiện tại. Biết ơn sự kiện là mình vẫn còn có thể đi được, trong khi nhiều
người khác không có khả năng đó. Ý thức được rằng đó là một phép lạ và trong
giây phút này đừng xem thường những cử động mầu nhiệm ấy của thân ta. Biết rằng,
bạn đang đứng thẳng trên mặt của Mẹ đất. Bước đi trong tự tin và với nhân phảm,
như người Navaho thường nói "bước đi trong cái hay vẻ đẹp" ở bất cứ
nơi nào.
Bạn cũng nên tập đi kinh hành nghiêm trang. Trước hoặc sau giờ
ngồi thiền, bạn nên đi kinh hành. Duy trì một dòng chánh niệm liên tục giữa giờ
ngồi thiền và lúc đi kinh hành. Nửa giờ hoặc mười phút cũng tốt. Bạn nên nhớ rằng,
chúng ta không quan tâm đến thời giờ của đồng hồ. Nhưng bạn sẽ có thể học hỏi
nhiều hơn, hiểu về thiền hành sâu sắc hơn, nếu bạn tự thách thức mình đừng ngừng
lại khi vừa có một vài ý nghĩ đầu tiên muốn thôi!
13.- THIỀN TẬP ÐỨNG
Ta có thể học bài thiền tập đứng hay nhất là từ những cây cối
chung quanh ta. Bạn hãy đứng gần một thân cây, hay tốt hơn nữa, trong tư thế một
thân cây và nhìn chăm chú về một hướng nào đó. Cảm giác chân mình mọc rễ đâm
sâu trong lòng đất. Cảm giác thân ta đong đưa nhẹ nhàng, vì nó lúc nào cũng như
vậy, như cây trong gió mát. Ðứng yên một chỗ, tiếp xúc với hơi thở, uống vào những
gì trước mặt ta, hoặc nhắm mắt lại và cảm nhận môi trường chung quanh mình. Cảm
giác một thân cây nào gần với bạn nhất. Lắng nghe nó, cảm nhận sự hiện hữu của
nó, tiếp xúc với nó bằng tâm và thân của ta.
Bạn hãy xử dụng hơi thở để giúp mình có mặt với giây phút
này... cảm giác thân ta đang đứng yên, thở, sống, trong mỗi giây phút.
Khi thân và tâm ta bắt đầu báo hiệu có lẽ đã đến lúc nên bước
đi, bạn hãy ở với tư thế đứng ấy thêm một chút nữa. Bạn nên nhớ, những cội cây
có thể đứng yên nhiều năm, và đôi khi nếu may mắn, là nhiều đời. Thử xem ta có
thể tiếp nhận được bài học về sự tĩnh lặng và về cách biết tiếp xúc từ chúng.
Những thân cây lúc nào cũng xúc chạm với đất bằng thân và rễ, với không khí bằng
thân và cành, với nắng và gió bằng những chiếc lá xanh. Mọi yếu tố của một thân
cây đứng vững vàng đều biểu hiện được một sự tiếp xúc với môi trường chung
quanh. Bạn hãy tự kinh nghiệm lấy bài tập đứng như một thân cây này, dù chỉ
trong một thời gian ngắn. Cảm nhận sự tiếp xúc với không khí trên da ta, cảm
giác của đôi bàn chân chạm trên mặt đất, âm thanh của thế giới chung quanh, vũ
điệu của ánh sáng, của màu sắc và bóng dáng, vũ điệu của tâm ta.
Thực tập: Bạn hãy tập đứng như vậy ở bất cứ một nơi nào,trong
rừng, trên núi, bên bờ sông, trong phòng khách, hoặc khi đứng chờ xe buýt. Khi
chỉ có một mình, bạn có thể mở vươn cánh tay ra trong nhiều vị thế khác nhau,
như là cành và lá, rộng rãi, cởi mở, tiếp nhận và kiên nhẫn.
14.- THIỀN TẬP NẰM
Nằm xuống cũng là một phương pháp thiền tập rất hay, nếu bạn
có thể giữ cho mình đừng bị rơi vào giấc ngủ. Và nếu bạn có ngủ đi chăng nữa,
giấc ngủ của bạn sẽ yên nghỉ hơn. Bạn cũng có thể thức dậy theo cùng một lối
đó, mang ánh sáng chánh niệm chiếu soi vào những giây phút đầu tiên, khi ta vừa
tỉnh giấc.
Trong tư thế nằm, bạn có thể buông thư toàn thân dễ dàng hơn ở
bất cứ một tư thế nào khác. Hãy để cho thân bạn chìm lún xuống mặt giường, nệm,
sàn nhà, hoặc mặt đất, cho đến khi những bắp thịt thôi không còn một cố gắng nhỏ
nào để giữ thân bạn lại với nhau. Ðây là một trạng thái buông thư rất thâm sâu,
ở lãnh vực của các bắp thịt và những tế bào thần kinh vận động (motor neuron)
kiểm soát chúng. Và tâm bạn cũng sẽ lập tức trở nên tĩnh lặng theo, nếu bạn cho
phép nó được mở rộng ra và tỉnh thức.
Xử dụng thân để làm đối tượng quán chiếu trong thiền nằm là một
đặc ân lớn. Bạn có thể bắt đầu bằng cách cảm giác toàn thân, từ đầu cho đến
chân, thở và tỏa phát ra hơi ấm, ôm phủ lấy con người của mình. Trong khi toàn
thân ta thở, toàn thân ta sống. Và khi ta có chánh niệm về thân, ta sẽ thu hồi
lại chủ quyền của mình đối với cơ thể, như là một cứ điểm chánh và sức sống của
ta. Bạn hãy tự nhắc nhở rằng "ta", bất cứ ta là ai, không phải chỉ là
một nhân vật nào ở trong đầu mình.
Bạn cũng có thể tập trung vào những vùng khác nhau trên thân
theo một đường lối tự do hoặc theo một thứ tự có hệ thống, trong khi thực tập
thiền nằm. Trong bệnh viện, chúng tôi giới thiệu thiền nằm đền các bệnh nhân
qua phương pháp quán chiếu cơ thể (body scan) trong vòng bốn mươi lăm phút.
Không phải ai cũng có thể ngồi thiền bốn mươi lăm phút ngay được, nhưng bất cứ
ai cũng có thể thực hành phương pháp quán chiếu cơ thể được. Bạn chỉ cần nằm
yên đó và cảm giác những phần khác nhau trong thân, và buông thư chúng. Phương
pháp quán chiếu cơ thể theo một thứ tự, có nghĩa là chúng ta đi qua những phần
trên thân theo một trật tự rõ rệt. Nhưng không có một phương cách nào là duy nhất.
Bạn có thể bắt đầu quán từ đầu đến chân, hoặc từ chân đến đầu, hoặc từ bên này
sang bên kia, thế nào cũng được.
Một phương cách thực hành là bạn có thể tưởng tượng hơi thở của
mình ra vào từ những phần khác nhau trong thân, như là bạn có thể thở vào từ những
ngón chân, đầu gối, hoặc bàn tay của ta, và thở ra từ những nơi ấy. Khi nằm bạn
cảm thấy sẵn sàng, trong hơi thở bạn có thể buông thả vùng thân ấy, cho phép nó
tan biến trong tâm tưởng của mình và bạn rơi vào một sự tĩnh lặng với ý thức rộng
mở. Tiếp đó, bạn có thể bước sang một vùng kế tiếp trên thân và bắt đầu tiếp
xúc với nó bằng một hơi thở vào. Nếu được, càng nhiều càng tốt, bạn hãy để cho
mọi hơi thở ra vào đều bằng mũi.
Nhưng dù vậy, bạn không nhất thiết cần phải thực hành phương
pháp quán chiếu cơ thể theo một thứ tự nào hết. Bạn có thể chú tâm vào bất cứ một
vùng đặc biệt nào trên thân theo ý muốn, hoặc là khi chúng trở nên nổi bậc
trong ý thức ta, có thể vì đau đớn hoặc có một vấn đề gì đó. Khi ta tiếp xúc với
chúng bằng một sự cởi mở, chú tâm và chấp nhận, nó sẽ có một tác dụng chữa trị
rất lớn. Nhất là nếu ta biết thực hành đều đặn, nó sẽ đem lại một sự dinh dưỡng
sâu sắc cho những tế bào, những mô cơ, cũng như cho toàn thể thân tâm ta.
Thiền nằm cũng là một phương pháp rất tốt để giúp ta tiếp xúc
được với phần cơ thể cảm xúc của mình. Chúng ta có một trái tim tâm lý cũng như
một trái tim vật lý. Khi chúng ta tập trung nơi vùng trung tâm của con tim, ta
nên chú ý đến những cảm giác như là thắt chặt, nặng nề nơi ngực, và chú ý đến
những cảm xúc như buồn rầu, cô đơn, thất vọng, tự ti, hoặc giận dữ, chúng có thể
nằm bên dưới những cảm giác vật lý của thân. Chúng ta thường nói đến một con
tim rạn vỡ, nặng nề hoặc chai đá, vì trong văn hóa của ta, con tim được xem như
là trung tâm điểm của cảm xúc. Con tim cũng còn là một khơi điểm của tình yêu,
của hạnh phúc và lòng từ ái, những cảm xúc ấy cũng cần được ta chú ý và tôn trọng
như bất cứ một cảm xúc nào khác.
Có một số phương pháp thiền quán, như là quán tâm từ, đặc biệt
hướng về sự nuôi dưỡng một trạng thái cảm thọ đặc biệt trong tâm, để mở rộng và
phát triển con tim huyền thoại ấy. Những đức tính như chấp nhận, tha thứ, từ
bi, rộng lượng và đức tin sẽ được tăng trưởng và củng cố, bằng cách ta tập
trung và khơi dậy những cảm xúc ấy như một đề mục chính của thiền tập. Nhưng những
cảm xúc ấy cũng có thể được phát triển bằng sự nhận diện của ta, mỗi khi chúng
phát khởi lên tự nhiên trong giờ thiền tập, và bằng sự tiếp xúc với chúng trong
chánh niệm.
Và những vùng khác trong cơ thể ta cũng mang những ý nghĩa đặc
biệt, chúng có thể được quán chiếu trong khi thiền tập, trong tư thế nằm hoặc bất
cứ ở một tư thế nào khác. Vùng đan điền có một tính chất tỏa sáng như mặt trời,
có thể giúp ta tiếp xúc được với cảm giác yên ổn, vững vàng và sức sống, vì nó
nằm ngay trung tâm trọng lực của thân.
Vùng cổ họng phát âm lên được cảm xúc của ta, và nó có thể bị
co thắt lại hoặc được mở rộng ra. Cảm xúc của ta đôi khi có thể bị "nghẹn
lời", mặc dù con tim đang rộng mở. Khi chúng ta có chánh niệm về vùng cổ họng
của mình, ta có thể tiếp xúc được sâu xa hơn với lời nói và tính chất âm điệu của
nó - như tốc độ, âm hưởng, cường độ, nặng nề hoặc nhẹ nhàng, ảnh hưởng đến người
khác ra sao - cũng như nội dung của nó.
Mỗi vùng trên cơ thể vật lý của ta đều có một cùng cơ thể cảm
xúc tương tợ liên kết với nó. Chúng có một ý nghĩa rất sâu xa và thường thường
là hoàn toàn nằm dưới bình diện ý thức của mình. Muốn được tiếp xúc phát triển,
chúng ta cần phải liên tục khơi động, lắng nghe và học hỏi từ cơ thể cảm xúc
này. Và phương pháp thiền nằm có thể giúp ích ta rất nhiều trong công việc ấy.
Trong cuộc sống, chúng ta nằm xuống không biết bao nhiêu lần,
vì thế phương pháp thiền nằm có thể mở cho ta một cánh cổng bước vào một thế giới
mới của tâm thức. Trước khi ngủ, khì vừa thức dậy, trong lúc nghỉ ngơi hoặc nằm
chơi, thiền nằm có thể giúp ta thực tập chánh niệm, mang hơi thở và thân ta lại
với nhau thành một trong mỗi giây phút, làm tràn ngập thân ta với ý thức và sự
chấp nhận, biết lắng nghe, tăng trưởng và buông thư.
Thực tập: Trong khi nằm, bạn hãy chú ý đến hơi thở của
mình. Cảm giác được nó đang di chuyển trong toàn thân. Ở với hơi thở tại những
phần khác nhau trên cơ thể như bàn chân, cánh chân, đùi, bụng, ngực, lưng, vai,
cánh tay, cổ, đầu, mặt, đỉnh đầu... Lắng nghe thật cẩn thận. Cho phép bạn cảm
nhận bất cứ việc gì đang có mặt. Theo dõi những cảm giác trong cơ thể đang biến
động và thay đổi. Theo dõi cảm xúc của mình về những sự biến động và thay đổi ấy.
Bạn hãy thử thiền vào những lúc mình tự ý nằm xuống, chứ
không phải chỉ khi đi ngủ. Thực tập trong khi nằm trên sàn nhà, vào những thời
gian khác nhau. Thỉnh thoảng bạn thử thực tập trên những cánh đồng, ngoài bãi cỏ,
dưới gốc cây...
Hãy đặc biệt chú ý đến thân của mình khi bạn sắp rơi vào giấc
ngủ và khi vừa mới thức dậy. Dù chỉ trong một vài phút thôi, bạn hãy vươn thẳng
người, nằm trên lưng nếu có thể, và cảm giác toàn thân mình đang thở. Chú ý đặc
biệt đến những phần nào đang có vấn đề trên thân bạn, và sử dụng hơi thở để mời
chúng trở về hòa hợp và toàn vẹn với những bộ phận khác trên cơ thể. Luôn nhớ đến
cái cơ thể cảm xúc của ta. Tôn trọng những trực giác của mình.
15.- NẰM XUỐNG SÀN NHÀ MỖI NGÀY ÍT NHẤT MỘT LẦN
Mỗi khi nằm xuống sàn nhà, tôi thường có một cảm giác đặc biệt
như là thời gian tự nhiên dừng lại. Bạn có thể thực tập thiền nằm theo phương
pháp quán chiếu cơ thể hoặc tập Hatha Yoga (bộ môn Yoga thể dục) trong chánh niệm.
Chỉ cần nằm xuống trong một căn phòng, cũng có thể giúp tâm ta trở nên được
trong sáng. Có lẽ vì tư thế nằm xuống sàn nhà quá xa lạ đối với chúng ta, nên
nó phá vỡ những tập quán tâm thần khuôn mẫu của mình, và cho phép ta được bước
vào giây phút hiện tại này qua cánh cửa thân mới vừa rộng mở.
Trong môn Hatha Yoga, chúng ta được dạy phải tập có mặt trọn
vẹn với thân của mình, phải ý thức được cảm giác, tư tưởng, và cảm thọ khác
nhau khởi lên trong khi ta cử động, co giãn, hít thở, đứng yên trong một tư thế,
hoặc đưa nhấc tay, chân và toàn thân. Người ta nói rằng tổng cộng có đến tám
mươi ngàn tư thế Yoga căn bản khác nhau. Ta không bao giờ lo nghĩ đến chuyện hết
còn những động tác để tập. Nhưng tôi kinh nghiệm rằng, tôi chỉ cần tập đi tập lại
một số bài căn bản, độ chừng hai mươi tư thế khác nhau, sau một thời gian chừng
vài năm, những động tác này mỗi lúc càng giúp tôi tiếp xúc được thâm sâu hơn với
thân tôi và sự tĩnh lặng.
Phương pháp Yoga này hòa nhập sự di động và tĩnh lặng vào
nhau. Ðây là một phương pháp thực tập có tác dụng nuôi dưỡng rất lớn. Cũng như
mọi sự tu tập chánh niệm khác, ta không phải cố gắng đi về đâu cả. Nhưng bạn có
một chủ đích là mang cơ thể mình tới giới hạn cuối cùng của nó, trong giây phút
này. Bạn thám hiểm những vùng nào trong thân có những cảm giác khó chịu cao độ
nối liền với những động tác co giãn, đưa nhấc hoặc giữ thăng bằng, qua những vị
thế khác thường của tay chân, đầu và thân. Và bạn đứng yên trong tư thế đó,
trong một thời gian lâu hơn, trong khi ấy bạn chỉ cần thở và cảm giác thân
mình. Bạn không cần phải vượt qua một giới hạn nào hết. Bạn không tranh tài với
bất cứ một ai, và cũng không cần có mục đích cải tiến thân mình. Bạn cũng không
cần phê phán cái hay dỡ của thân. Bạn chỉ cần an trú trong tĩnh lặng, trong phạm
trù của mọi kinh nghiệm, nơi đó có những sự căng thẳng và khó chịu (thường thì
chúng vô hại, nếu bạn đừng bắt cơ thể đi quá giới hạn của nó), và bạn sẽ cảm nhận
được một sự bừng nở của giây phút hiện tại trong thân.
Ðối với một hành giả kiên trì, họ sẽ không tránh khỏi nhận thấy
rằng, cơ thể họ thích sự luyện tập đều đặn này và nó đang có một sự chuyển hóa.
Sự thực tập này bao giờ cũng vừa có một tính chất "đang tiến triển",
và cùng một lúc nó cũng "chỉ là như vầy" thôi! Thật ra, ta không cần
phải cố gắng gì hết, chúng ta chỉ làm những gì mình cần làm để có thể tiếp xúc
được với tất cả, và tự sắp xếp cho mình được ngay ngắn cùng với sự co giãn của
thân, tâm, sàn nhà và thế giới chung quanh.
Thực tập: Mỗi ngày bạn nên nằm xuống sàn nhà và co giãn
thân cũng như tâm trong chánh niệm. Dù chỉ ba hoặc bốn phút cũng được. Có mặt với
hơi thở của mình, lắng nghe cơ thể mình đang muốn nói gì. Tự nhắc nhở rằng, cơ
thể này là của ta trong ngày hôm nay. Bạn có thật sự tiếp xúc được với nó
không?
16.- KHÔNG THỰC TẬP CŨNG LÀ THỰC TẬP
Ðôi lúc tôi cũng muốn nói rằng, khi ta không thực hành Yoga,
nó cũng có một hiệu quả y như khi ta thực hành Yoga vậy. Nhưng tôi hy vọng bạn
sẽ không hiểu lầm và nghĩ tôi nói rằng, thực hành hay không thực hành gì cũng vậy.
Tôi chỉ muốn nói là mỗi khi bạn bỏ dở sự thực tập trong một thời gian, và bắt đầu
thực hành trở lại, bạn sẽ cảm thấy sự khó khăn của nó. Vì vậy, đôi khi ta học rất
nhiều qua sự trở lại thức tập, hơn là khi ta cứ tiếp tục làm thường
xuyên.
Lẽ dĩ nhiên, việc ấy chỉ đúng nếu bạn có thể nhận thấy những
vấn đề như cơ thể ta đã trở nên cứng ngắc như thế nào như thế nào, tập một tư
thế khó khăn ra sao, tâm ta trở nên bất an và đã không còn chịu ở với hơi thở
như thế nào. Thật ra những việc ấy không khó gì mà không nhận thấy được, nhất
là khi ta đang nằm trên sàn nhà, hai tay ôm chặt đầu gối, trong khi đầu nhấc
lên cố chạm vào chúng. Nhưng trong đời sống hàng ngày, ta rất dễ bị thiếu ý thức
về những khó khăn ấy. Yoga và sự sống là hai hình tướng khác nhau của cùng một
việc. Vì vậy, bị lạc trong quên lãng và thất niệm đôi khi lại có thể dạy ta rất
nhiều, hơn cả những khi ta lúc nào cũng giữ được chánh niệm. May mắn thay, đa số
chúng ta không phải lo gì chuyện ấy, vì khuynh hướng thất niệm của ta bao giờ
cũng mạnh mẽ vô cùng. Bạn nên nhớ rằng, chính ở chỗ ta biết tiếp xúc trở lại với
chánh niệm mà trí tuệ phát sinh.
Thực tập: Hãy ghi nhận sự khác biệt của cảm giác và cách
đối phó với những khó khăn của ta, trong thời gian ta chuyên cần tu tập và
trong thời gian ta dễ duôi, lơ là. Thử xem, nếu bạn có thể thấy được những hậu
quả của các hành động thất niệm và vô ý thức, nhất là khi chúng phát sinh từ sự
căng thẳng do công việc và đời sống hàng ngày. Bạn sống với thân mình ra sao,
trong thời gian có thực tập và không thực tập? Thái độ vô hành của bạn như thế
nào, bạn có nhớ gì về chúng không? Thiếu sự thực tập đều đặn đã ảnh hưởng gì đến
khái niệm của bạn về thời gian cũng như về sự mong đạt kết quả? Nó ảnh hưởng đến
những mối quan hệ của bạn như thế nào? Những thói quen vô ý thức của bạn, chúng
từ đâu đến? Cái gì khơi động chúng? Bạn có khả năng giữ chánh niệm khi chúng khống
chế bạn không, cho dù sự tu tập của bạn trong tuần này có mạnh hay yếu? Bạn có
nhận thấy rằng, không tu tập là một hình thức tu tập đầy gian khổ không?
17.- THIỀN QUÁN VỀ TÂM TỪ
Không ai có thể hoàn toàn là một ốc đảo;
Mỗi người là một phần của lục địa,
của một cái chánh.
Nếu một viên đất nhỏ li ti
có thể bị biển cuốn trôi đi.
Thì tất cả lục địa Âu Châu cũng sẽ bị thiếu sút,
cũng như những bãi cát ở ven biển.
Và những thuộc địa của bạn,
của tôi cũng như thế;
Bất cứ một cái chết nào
cũng làm cho tôi mất mát,
Vì tôi là một phần của loài người.
Thế cho nên,
đừng bao giờ bạn thắc mắc
là chuông gọi hồn ai;
Vì nó gọi linh hồn của chính bạn. -- John Donne, Meditation XVII
Mỗi người là một phần của lục địa,
của một cái chánh.
Nếu một viên đất nhỏ li ti
có thể bị biển cuốn trôi đi.
Thì tất cả lục địa Âu Châu cũng sẽ bị thiếu sút,
cũng như những bãi cát ở ven biển.
Và những thuộc địa của bạn,
của tôi cũng như thế;
Bất cứ một cái chết nào
cũng làm cho tôi mất mát,
Vì tôi là một phần của loài người.
Thế cho nên,
đừng bao giờ bạn thắc mắc
là chuông gọi hồn ai;
Vì nó gọi linh hồn của chính bạn. -- John Donne, Meditation XVII
Ta rung động trước những nỗi khổ đau của kẻ khác, vì giữa tất
cả chúng ta đều có một sự quan hệ. Chúng ta là hoàn toàn mà cũng vừa là một phần
tử của một cái hoàn toàn khác to lớn hơn. Và nhờ vậy, ta có thể thay đổi được
thế giới này bằng cách thay đổi chính mình. Nếu tôi trở thành một trung tâm điểm
của tình thương và từ ái, tuy nhỏ nhoi nhưng rất đáng kể, thì trong giây phút
này thế giới lại có thêm một hạt giống mới của tình thương và từ ái, mà nó đã
không có trong vài giây trước đó. Sự kiện ấy có lợi ích cho tôi và cũng lợi ích
cho người khác.
Có lẽ bạn cũng nhận thấy rằng, không phải lúc nào chúng ta
cũng là một trung tâm điểm của tình thương, ngay cả đối với chính mình. Sự thật,
trong xã hội nhất là ở Tây phương, chúng ta đang có một cơn dịch của chứng bệnh
tự ti mặc cảm, lúc nào cũng cho mình là thấp hèn và thua sút. Trong một buổi đối
thoại với đức Ðạt Lai Lạt Ma, ở một khóa họp được tổ chức tại Dharamsala năm
1990, ngài lộ vẻ khó hiểu khi có một nhà tâm lý học Tây phương nói về vấn đề tự
ti. Từ ngữ ấy phải được thông dịch sang tiếng Tây Tạng đôi ba lần, mặc dù ngài
rất giỏi tiếng Anh. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma không thể nào hiểu được ý niệm về tự ti.
Và lúc hiểu được rồi, gương mặt ngài lộ một vẻ buồn rõ rệt, khi nghe nói có rất
nhiều người Hoa Kỳ mang một mặc cảm thấp hèn và sút kém.
Cảm xúc ấy hầu như không hề nghe nới tới ở những người Tây Tạng.
Họ có đủ hết những khó khăn nghiêm trọng về các vấn đề tỵ nạn và bị đàn áp của
một quốc gia thuộc thế giới thứ ba, nhưng trong đó không hề có mặc cảm tự ti.
Nhưng mấy ai biết được việc gì sẽ xảy ra cho các thế hệ tương lai, khi họ được
tiếp xúc với cái mà chúng ta gọi là "thế giới tiến bộ". Có lẽ những
người Tây phương đã quá tiến bộ về phương diện bên ngoài, nhưng bên trong của họ
lại rất chậm tiến. Có thể chúng ta, những xã hội giàu có, lại đang sống trong sự
nghèo túng.
Nhưng bạn có thể hành động để cứu gỡ tình trạng nghèo khó này
bằng phương pháp thiền quán về tâm từ. Cũng như thường lệ, nơi bắt đầu phải là ở
chính ta. Bạn hãy mời gọi lòng từ ái,tính chấp nhận và thương yêu khơi hiện
trong trái tim mình. Biết không, bạn sẽ phải thực hành việc ấy thật nhiều lần,
nó cũng giống như khi ngồi thiền, bạn phải tiếp tục đem tâm mình trở về với hơi
thở. Tâm ta không dễ gì chịu tuân phục, vì đôi khi những vết thương trong lòng
rất sâu đậm. Nhưng bạn hãy cứ thử, như là một thí nghiệm trong khi thiền tập, một
lúc nào đó hãy ôm mình trong chánh niệm và sự chấp nhận, cũng như bà mẹ ôm ấp một
đứa con đang khóc, bằng một tình thương không bờ bến và vô điều kiện. Bạn có thể
nào nuôi dưỡng sự tha thứ cho chính mình không, nếu không thể là cho kẻ khác? Bạn
có thể nào cho phép mình được hạnh phúc trong giây phút hiện tại này không? Bạn
đang cảm thấy an vui, sự kiện ấy có làm bạn khó chịu không? Nền tảng của hạnh
phúc có hiện diện trong giờ phút này không?
Phương pháp quán tâm từ có thể được thực hành như sau, nhưng
bạn nên nhớ đừng bao giờ lầm lẫn chữ nghĩa với hành động.
Bắt đầu bằng cách ngồi cho yên ổn trong thân và trong hơi thở.
Kế tiếp,từ nơi com tim hoặc nơi bụng, mời gọi cảm xúc hoặc hình ảnh từ ái và
thương yêu tỏa chiếu ra, cho đến khi nào nó tràn ngập con người của bạn. Cho
phép bạn được ôm ấp bởi chánh niệm của chính mình. Bạn cũng xứng đáng được yêu
thương và cưng chìu như bất cứ một đứa bé nào khác. Hãy để cho ý thức của bạn
biểu lộ được cả hai năng lượng, lòng nhân từ của cha và lòng nhân từ của mẹ.
Trong giây phút này, bạn hãy ghi nhận và tôn trọng con người của chính mình và
ban cho ta một tình thương mà có lẽ ta đã thiếu khi còn thơ. Hãy để cho ta được
phơi ấm trong năng lượng của tâm từ, hít nó vào và thở nó ra, như là có một sợi
dây của sự sống, tuy bị hư hao lâu năm nhưng cuối cùng mang lại được cho ta một
sự dinh dưỡng mà ta hằng thiếu thốn.
Mời gọi cảm giác an lạc và chấp nhận đến khi có mặt trong bạn.
Có người cảm thấy rất hữu ích khi thỉnh thoảng tự niệm thầm những lời như:
"Cầu mong cho tôi không lo âu, không oán hận. Cầu mong cho tôi không phiền
não. Cầu mong cho tôi được khỏe mạnh và an tịnh". Nhưng bạn nên nhớ rằng,
những lời ấy chỉ để khởi động tâm từ trong ta. Chúng là một cái giếng mong ước
của ta - là những ý định muốn giải thoát ngay bây giờ, ít nhất là trong giây
phút này, ra khỏi những khổ đau do ta tự tạo lấy, hoặc đã huân tập vì sợ hãi và
thất niệm.
Một khi bạn trở thành là một hiện thân của tình thương và ánh
sáng từ ái tỏa chiếu suốt con người bạn, khi bạn có thể tự ôm ấp mình bằng lòng
từ bi và sự chấp nhận, chừng ấy bạn có thể an trú ở nơi này mãi mãi, uống nguồn
nước ngọt, tắm trong dòng suối mát, tự làm tươi mới thêm, tự nuôi dưỡng và vui
sống hơn. Nó có thể là một phương pháp tu tập có tác dụng chữa thương rất lớn
cho thân và tâm ta.
Và bạn cũng có thể tiến thêm một bước nữa xa hơn. Sau khi đã
thiết lập một trung tâm tươi mát trong ta, bạn có thể để cho sự thương yêu, từ
ái đó tỏa chiếu ra bên ngoài và hướng nó về bất cứ một nơi nào bạn muốn. Trước
hết, bạn có thể hướng nó đến những người ruột thịt trong gia đình. Nếu bạn có
con, hãy giữ hình ảnh của chúng trong tâm, cầu chúc cho chúng luôn được may mắn,
không bao giờ gặp những khổ đau không cần thiết, sẽ tìm được con đường đi của
chúng trong cuộc đời, rằng chúng sẽ kinh nghiệm được tình thương và sự chấp nhận
trong cuộc sống. Rồi kế đó, thực tập hướng tâm từ đến vợ hay chồng, anh em và
những người thân thích.
Bạn cũng có thể hướng tâm từ đến cha mẹ mình, dù các người đã
mất hay còn sống, cầu chúc cho họ được may mắn, cầu chúc cho họ không cảm thấy
cô đơn hoặc đau đớn, kính trọng họ. Nếu có thể và bạn cảm thấy nó lành mạnh và
khai phóng, bạn hãy tìm một chỗ trong tim mình để tha thứ cho bậc cha mẹ, về những
nỗi sợ hãi và khổ đau mà họ đã gây nên vì vô ý thức, vì những giới hạn của họ.
Và chúng ta cũng không cần phải dừng lại ở đây. Bạn có thể
phóng tiếp tâm từ đấn bất cứ một ai, đến những người mình biết và cả những người
không quen biết. Nó có thể hữu ích cho những người ấy, nhưng chắc chắc là sẽ
hũu ích cho ta, vì nó giúp ta trau luyện và mở rộng con người cảm xúc của mình.
Sự mở rộng ấy mỗi lúc sẽ được già dặn hơn, khi ta có thể hướng tâm từ đến những
người đang có khó khăn, đến những người đang có nhiều oan trái, và cả những ai
đã đe dọa hoặc làm khổ mình. Bạn cũng có thể tập hướng tâm từ đến một nhóm người
- như là những ai đang bị đàn áp, đang chịu khổ đau, cuộc sống đang bị kẹt giữa
chiến tranh, bạo động hay căm thù. Bạn biết rằng, những người ấy không khác gì
với mình, họ cũng có nhiều người thân yêu, cũng có hy vọng, cũng có một nhu cầu
muốn được chở che, no ấm và tự do. Và bạn cũng có thể mở rộng tâm từ của mình
ra để phủ trùm luôn cả trái đất này, đến sự huy hoàng cũng như nỗi đau thầm lặng
của nó, trong dòng suối, con sông, không khí, đại dương, rừng núi, cây cỏ, thú
vật, của chung hoặc riêng.
Thật ra phương pháp quán tâm từ, cũng giống như sự sống này,
nó không có một giới hạn tự nhiên nào hết. Vì đó là sự khai triển không ngừng của
một ý thức về sự tương duyên và liên hệ của vạn vật với nhau. Và nó cũng là hiện
thân của chính nó. Khi bạn có thể thương yêu một chiếc lá, một đóa hoa, một con
chó, một nơi chốn, một người nào đó hoặc chính bạn, trong một giây lát, bạn sẽ
tìm thấy được hết tất cả mọi người, mọi nơi chốn, mọi khổ đau, mọi hòa hợp
trong chính giây phút ấy. Phương pháp tu tập của ta không phải là để cố gắng
thay đổi một cái gì hoặc đạt đến một mục tiêu nào, mặc dù bề ngoài có vẻ như vậy.
Thật ra chuyện ta làm là vén mở cho thấy những gì luôn luôn có mặt. Tình thương
và lòng từ ái lúc nào cũng có mặt ở nơi đây, thật ra nó ở mọi nơi. Nhưng nhiều
khi khả năng tiếp xúc và được tiếp xúc của ta, lại bị chôn vùi bên dưới những sợ
hãi, khổ đau, những tham lam và sân hận, bên dưới một ý niệm sai lầm rằng ta là
một cá thể độc lập và cô đơn.
Khi ta khơi dây những cảm xúc từ ái ấy trong thiền tập, là
chúng ta đang tự nới giãn để vượt ra khỏi những giới hạn và sự si mê của mình,
cũng giống như trong Yoga, chúng ta nới giãn những sự chống cự của các bắp thịt,
dây chằng và gân cốt. Và trong sự nới giãn đó, đôi khi rất đau đớn, chúng ta sẽ
được mở rộng ra, trưởng thành, tự chuyển hóa mình và chuyển hóa được thế giới.
Tôn giáo của tôi là lòng từ ái. -- Ðạt Lai Lạt Ma.
Thực tập: Trong sự tu tập của bạn, đến một lúc nào đó, bạn
nên tiếp xúc với lòng từ ai bên trong mình. Thử xem bạn có thể nhìn xuyên qua
được những chống đối của mình đối với phương pháp này, nếu có, hoặc những lý do
về sự khó thương, khó được chấp nhận đối với mình. Bạn hãy xem chúng chỉ là những
ý nghĩ. Bạn hãy thử nghiệm, cho phép ta được tắm trong sự ấm áp và tính chấp nhận
của lòng từ ái, như một đứa trẻ thơ nằm êm ấm trong vòng tay của người mẹ hoặc
cha. Kế đó, thử hướng nó đến những người khác và ra thế giới chung quanh.
Phương pháp tu tập này không có giới hạn, và cũng như những phương pháp khác,
nó sẽ được tăng trưởng và sâu sắc hơn nhờ sự chăm sóc thường xuyên, cũng như những
cây lá trong một khu vườn được bón phân, tưới nước. Bạn nên nhớ rằng, ta không
cố gắng để cứu giúp bất cứ một ai khác trên trái đất này. Ta chỉ cần giữ họ
trong chánh niệm của mình, tôn trọng họ, cầu chúc họ được may mắn, mở rộng ra với
nỗi đau đớn của họ với lòng từ bi và chấp nhận của ta. Nếu trong quá trình ấy,
bạn cảm thấy sự tu tập đòi hỏi mình phải có một thái độ khác biệt trong cuộc sống,
thì những hành động ấy cũng phải thể hiện được lòng từ bi và chánh niệm.
PHẦN BA: TINH THẦN CHÁNH NIỆM
1.- NGỒI CẠNH ÁNH LỬA HỒNG
Ngày xưa, sau khi mặt trời lặn khuất, nguồn ánh sáng duy nhất
mà con người còn lại, ngoại trừ ánh trăng và những vì sao lấp lánh trên cao, là
lửa. Trải qua hàng triệu năm, loài người chúng ta đã ngồi quanh những đống lửa,
nhìn vào ánh lửa bập bùng cháy, màu đỏ than hồng, với bóng tối và không gian cô
lạnh phía sau lưng. Có lẽ những phương pháp thiền tập chính thức đã được phát
xuất từ đây chăng?
Lửa là một niềm an lạc của chúng ta, nó là nguồn gốc của nhiệt
lượng, của ánh sáng và sự bảo vệ - dù nguy hiểm, nhưng nếu cẩn trọng, nó có thể
kềm chế được. Ngồi cạnh đống lửa sau một ngày mệt nhọc, đem lại cho ta một sự
thoải mái. Trong vùng không gian ấm áp và ánh sáng bập bùng, chúng ta có thể kể
cho nhau nghe những câu chuyện và nói về ngày vừa qua. Hay ta cũng có thể ngồi
yên, nhìn hình ảnh trong tâm mình phản chiếu trong ngọn lửa biến đổi không ngừng,
một vùng tỏa sáng của thế giới mầu nhiệm. Lửa làm bóng tối trở nên bớt đáng sợ,
nó giúp ta cảm thấy an ổn và bảo đảm hơn. Lửa rất đáng được tín cẩn, nó có tác
dụng làm ta yên tâm, phục hồi, trầm tư và cũng rất thiết yếu cho sự sinh tồn của
ta.
Nhưng tiếc thay, trong cuộc sống ngày nay chúng ta đã đánh mất
đi sự thiết yếu đó, và cùng với nó là những cơ hội để tạo nên sự tĩnh lặng cho
ta. Trong thế giới xô bồ ngày nay, những đống lửa không còn là thực tiễn nữa.
Khi hoàng hôn buông xuống, ta chỉ cần đơn giản bật lên một công tắc đèn. Chúng
ta có thể thắp sáng thế giới này lên bao nhiêu cũng được, và rồi lại tiếp tục với
những sinh hoạt, với những bận rộn của mình. Cuộc sống ngày nay không còn cho
phép ta có thì giờ cho chính mình nữa, trừ khi ta biết cương quyết nắm bắt nó.
Chúng ta không còn bị bắt buộc phải tạm gát lại những gì đang làm, vì trời
không còn ánh sáng... chúng ta mất đi giờ phút mỗi tối ấy để sống chậm lại và
ngưng nghỉ những sinh hoạt ban ngày. Ngày nay, chúng ta rất hiếm còn được những
cơ hội quý báu để cho tâm mình tĩnh lặng xuống bên cạnh một đống lữa hồng.
Thay vào đó, vào mỗi cuối ngày chúng ta ngồi chung quanh một
chiếc máy truyền hình, một năng lượng điện tử xanh yết ớt, so với sự sáng ngời
của lửa. Chúng ta chịu khuất phục dưới sự oanh tạc tới tấp của những âm thanh
và hình ảnh, chúng phát xuất từ đầu óc của kẻ khác, và tràn ngập tâm ta bằng những
tin tức vớ vẩn, với những cuộc thám hiểm, náo động và tham vọng của kẻ khác.
Máy truyên hình cướp mất đi phần không gian ít ỏi còn lại trong ngày của ta, mà
có thể để dành cho sự tĩnh lặng. Nó nuốt hết thời gian, không gian và sự yên lặng
của ta, là một thứ thuốc mê đưa ta vào một trạng thái thụ động vô ý thức. Báo
chí hàng ngày cũng thế. Tự chúng không phải là xấu, nhưng vì ta thường cho phép
chúng cướp đi những giờ phút quý báu mà ta có thể xử dụng để sống trọn vẹn
hơn.
Nhưng sự thật thì ta không cần phải đầu hàng trước những mê
hoặc, cám dỗ của những thú vui và sự ồn ào bên ngoài như thế. Chúng ta có thể
phát triển những thói quen nào có thể giúp ta trở về tiếp xúc lại với niềm ao ước
sâu xa của mình, về một cái gì ấm áp, tĩnh lặng và an lạc. Khi ta ngồi với hơi
thở của mình, thí dụ thì đó cũng giống như là ngồi bên một đống lửa hồng vậy.
Và khi nhìn sâu vào hơi thở, ta cũng có thể thấy được ít nhất những gì trong
ánh lửa, những phản ảnh của các ý nghĩ đang nhảy múa trong tâm. Nó cũng tỏa ra
một sức ấm. Và nếu thật sự ta không cố gắng để đạt một điều gì hết, chỉ đơn giản
cho phép mình được có mặt nơi đây, trong giờ phút này, như nó là, chúng ta sẽ
có thể dễ dàng bắt gặp lại được một sự tĩnh lặng cổ xưa nào đó, người ta đã
kinh nghiệm được khi ngồi bên một ánh lửa hồng.
2.- HÒA ÐIỆU
Trong khi tôi vừa quẹo vào bãi đậu xe của bệnh viện, trên bầu
trời đã có hàng trăm con vịt trời bay ngang qua. Chúng bay thật cao, tôi không
hề nghe tiếng kêu gọi đàn của chúng. Ðiều đầu tiên tôi nhận thấy là rõ ràng
chúng biết chúng đang đi về đâu. Chúng bay về hướng Tây Bắc và nhiều đến nỗi đội
hình của chúng kéo dài đến tận phía trời Ðông, khi ánh sáng bình minh tháng mười
một rạng rỡ nơi chân trời. Nhìn con vịt trời đầu tiên bay ngang qua, cảm xúc vì
vẻ đẹp quý phái của chúng, tôi lấy đại giấy bút trong xe ra, vội vã ghi lại đội
hình của chúng bằng cái nhìn và nét vẽ vụng về của tôi. Vài nét bút vội vàng
cũng là đủ... chút nữa thôi chúng sẽ biến mất khỏi bầu trời.
Hàng trăm con vịt trời bay theo đội hình chữ V, nhưng có nhiều
con khác bay theo một sự sắp xếp phức tạp hơn. Ðường bay của chúng hạ xuống thấp
rồi lại cất cánh lên cao trong một sự hòa điệu rất duyên dáng, giống như một tấm
vải lụa uốn mình trong gió. Rõ ràng là những con vịt trời có truyền thông với
nhau. Vì hình như mỗi con đều biết rõ vị trí của nó, thuộc nơi đâu và phải ở
nơi nào trong đội hình phức tạp và biến đổi thường xuyên ấy.
Tôi cảm thấy mình rất có phước được chứng kiến hình ảnh ấy.
Giây phút này là một món quà rất quý báu. Tôi đã được phép nhìn thấy và được
chia xẻ một cái gì tôi biết rất là quan trọng, không phải là lúc nào ai cũng có
được. Một phần là sự hoang dã của chúng, một phần là sự hòa điệu, trật tự và vẻ
đẹp mà chúng biểu hiện.
Trong khi tôi chứng kiến hành trình ấy, kinh nghiệm thông thường
về thời gian của tôi chợt dừng lại. Cách sắp xếp của những con vịt trời, mà các
nhà khoa học gia thường gọi là "hỗn loạn", cũng giống như sự cấu tạo
của những khối mây hoặc hình dáng của cây cối. Nơi đó có một trật tự, và bên
trong tàng chứa một sự vô trật tự, nhưng cũng một cách rất là có trật tự. Ðối với
tôi thì hình ảnh đó là một món quà tặng ký diệu và nhiệm mầu. Ngày hôm nay,
trong khi đi đến sở làm, thiên nhiên đã biểu lộ cho tôi thấy tính tự nhiên của
vạn vật trong một lãnh vực nhỏ bé, nhắc cho tôi nhớ rằng cái biết của con người
không có là bao, và chúng ta ít khi biết tán thưởng sự hòa hợp trong vạn vật,
hoặc là có thể nhận diện được chúng.
Chiều nay, về nhà đọc tờ báo hàng ngày, tôi nhận thấy cái hậu
quả tàn khốc của việc đốn cây khai thác những khu rừng già trên vùng cao nguyên
ở miền nam nước Phi Luật Tân. Hậu quả ấy đã hiển lộ khi trận bảo dữ đi ngang
qua vào cuối năm 1991, khi vùng đất trơ trọi, không còn khả năng giữ nước lại,
đã để mặc cho một khối lượng nước lớn gấp bốn lần bình thường, đổ tràn ngập xuống
vùng đồng bằng, làm chết đuối hàng ngàn người dân nghèo. Bạn đừng bao giờ nói rằng:
"Tại nó xảy ra như vậy!" Vấn đề là nhiều khi chúng ta không dám chấp
nhận trách nhiệm của mình ở trong đó. Khinh thường sự hòa hợp của thiên nhiên
là một sự liều lĩnh lớn!
Tính chất hòa điệu của thiên nhiên bao giờ cũng có mặt ở
chung quanh ta và trong ta. Ý thức được việc ấy sẽ mang lại cho ta một hạnh
phúc lớn. Nhưng ta chỉ biết tán thưởng khi nó không còn nữa, hoặc trong ký ức
mà thôi. Như cơ thể ta chẳng hạn, nếu mọi việc đều bình thường, ta sẽ không bao
giờ để ý đến. Không nhức đầu, ít khi nào là một vấn đề để ta chú tâm đến. Những
khả năng như đi, đứng, nhìn, nghe, suy nghĩ... thường thì chúng ít cần đến sự
săn sóc của ta, vì vậy chúng hay bị nhòa lẫn vào vùng không gian của sự tự động
máy móc và vô ý thức. Chỉ có sự đau đớn, sợ hãi hoặc mất mát mới có thể đánh thức
ta dậy và mang thực tại trở về với sự chú tâm của ta. Nhưng đến chừng ấy thì
không dễ gì ta còn có thể nhận thấy được sự hòa hợp nữa! Không khéo ta còn lại
bị lôi cuốn theo sự động loạn, nó như một dòng suối chảy xiết, như một thác nước
đổ, một chặn đường gian nan trong dòng sông của cuộc sống. Cũng như một người
nào đó nói: "Bạn không biết những gì mình đang có, trừ khi bạn đã đánh mất
nó đi..."
Khi tôi bước xuống xe, trong lòng tôi cúi đầu cảm tạ những
người khách lữ hành trên cao ấy, vì đã mang lại cho vùng trời của một bệnh viện
văn minh và hiện đại này, một liều thuốc tươi mát của miền thiên nhiên hoang
dã.
Thực tập: Hãy vén lên tấm màn vô ý thức và cảm nhận một
sự hòa hợp trong giây phút hiện tại này. Bạn có thấy nó trong những áng mây,
trong bầu trời, con người, thời tiết, trong thực phẩm, trong thân ta, và trong
hơi thở này không? Hãy nhìn và nhìn vào cho thật kỹ đi, ngay ở đây và trong lúc
này!
3.- BUỔI SÁNG SỚM
Mặc dù ông không sở làm để đến, cũng không có con cái để săn
sóc và đưa đến trường, không có lý do nào bên ngoài bắt ông phải dậy sớm, nhưng
khi sống tại Walden, ông Thoreau có thói quen thức dật thật sớm để xuống tắm ở
hồ vào lúc mặt trời mọc. Ông làm vì những lý do nội tại, như là một giới luật
tâm linh: "Ðó là một sư tu tập và là một trong những việc mà tôi có khiếu
nhất".
Benjamin Franklin cũng đã từng ca tụng những đức tính như sức
khỏe,giàu có và sáng suốt mà ta có thể đạt được nhờ biết dậy sớm, trong câu
cách ngôn nổi tiếng của ông. Nhưng ông không chỉ nói suông mà còn thực hành nữa.
Việc dậy sớm không có nghĩa là ta sẽ có thêm thì giờ để dồn
nhét thêm những bận rộn, công việc vào một ngày của mình. Sự thật ngược lại như
thế. Ta sẽ có dịp để thưởng thức sự tĩnh lặng và cô tịch của giờ phút ấy, và có
thể xử dụng thời gian đó để mở rộng tâm thức, để quán niệm, để thật sự có mặt
và cố ý không làm gì hết. Sự an bình, bóng tối, bình minh và tĩnh lặng - tất cả
những điều đó giúp cho buổi sáng sớm là một thời gian đặc biệt cho sự thực tập
chánh niệm.
Hơn nữa, thức dậy sớm sẽ giúp cho ta có cơ hội làm chủ được một
ngày. Nếu bạn có thể bắt đầu một ngày với một chánh niệm vững vàng, thì khi bạn
cần phải đi đây đó làm việc, chắc chắn hành động của bạn sẽ được phát xuất từ
chính sự vững vàng và tĩnh lặng đó. Bạn sẽ có thể duy trì được một chánh niệm vững
chãi, một sự an lạc và quân bình trong nội tâm trọn cả ngày, cho dù công việc
và trách nhiệm có nặng nề đến đâu. Một ngày chắc chắn sẽ được tốt đẹp hơn, nhất
là khi bạn không phải vội vã nhảy ra khỏi giường và lao đầu ngay vào những đòi
hỏi của cuộc sống.
Việc thức dậy sớm mỗi buổi sáng có một năng lực rất to tác,
nó ảnh hưởng vô cùng sâu đậm tới cuộc sống của ta, cho dù ta có thực tập chánh
niệm hay không. Chỉ cần nhìn mặt trời bình minh mọc mỗi sáng tinh sương, tự nó
cũng là một tiếng chuông tĩnh thức cho ta rồi.
Nhưng tôi khám phá ra rằng, buỗi sáng sớm là một thời gian rất
kỳ diệu để thực hành thiền tập. Chưa có ai thức dậy hết. Sự nào nhiệt của thế
giới cũng chưa thật sự bắt đầu. Tôi bước ra khỏi giường và thường thường bỏ ra
chừng một giờ cho chính mình, để không làm gì hết. Sau hai mươi tám năm trời,
nó vẫn chưa mất đi sức quyến rũ đối với tôi. Thỉnh thoảng, cũng có lúc tôi cảm
thấy khó mà dậy sớm, thân hoặc tâm tôi bị dằn co. Nhưng giá trị ở chỗ tôi vẫn cứ
làm, cho dù mình có thích hay không.
Một trong những đức tính chánh của sự thực tập đều đặn là ta
sẽ đạt được một thái độ xả bỏ đối với những trạng thái nhất thời của tâm ý. Ta
cương quyết thức dậy sớm ngồi thiền mỗi ngày, cho dù mình cảm thấy muốn hay
không. Sự thực tập ấy giúp ta có một tiêu chuẩn cao hơn - nhắc nhở ta về sự
quan trọng của chánh niệm, và sự cám dỗ của thói quen sống trong thất niệm, vô
ý thức của mình. Việc dậy sớm để thực tập không làm gì hết, tự nó cũng là một
quá trình tôi luyện. Quá trình ấy phát ra một nhiệt lực đủ nóng để sắp xếp lại
những hạt nguyên tử trong con người của mình, tạo nên một hàng rào pha lê vững
chắc để bảo vệ thân tâm, một hàng rào giữ cho ta được thành thật và nhắc nhở rằng,
cuộc sống này còn nhiều việc to tát hơn là sự thành đạt của mình.
Kỷ luật ấy sẽ giữ cho ta được vững vàng, không bị lệ thuộc
vào phẩm chất của ngày hôm qua và những việc gì sẽ xảy ra trong ngày hôm nay.
Tôi luôn cố gắng bỏ ra chút thì giờ để thực hành thiền tập, cho dù chỉ trong
vài phút, vào những ngày có biến cố vui buồn lớn, khi tâm tôi và hoàn cảnh
chung quanh hoàn toàn bị náo động, khi có nhiều việc cần phải làm và cảm xúc
dâng cao. Ðược như thế, tôi mới có thể thật sự cảm nhận được ý nghĩa của những
giây phút ấy, và đôi khi có thể lèo lái vượt qua được.
Khi ta thực tập chánh niệm vào buổi sáng sớm, là ta tự nhắc
nhở mình rằng, mọi việc luôn luôn thay đổi, những điều tốt xấu sẽ đến rồi đi và
ta lúc nào cũng có khả năng biểu lộ được một bình diện bất biến, của trí tuệ và
an lạc, dù phải đối mặt với bất cứ một tình trạng nào. Mỗi sáng tinh sương ta
thức dây sớm để thực hành thiền tập là một biểu hiện của bình diện ấy. Ðôi khi
tôi nói về nó như là một cái gì rất "thông thường", nhưng sự thật thì
khác rất xa! Chánh niệm là những gì ngược hẳn lại với thói quen thường lệ của
mình.
Nếu bạn còn chần chư chưa muốn thức dậy sớm hơn một tiếng,
thì bạn có thể thử nửa tiếng, mười lăm phút, hoặc năm phút thôi cũng được. Tinh
thần mới là quan trọng. Năm phút thực tập chánh niện vào mỗi buổi sáng cũng có
thể rất giá trị. Và chỉ cần hy sinh năm phút của giấc ngủ thôi, cũng có thể
giúp ta thấy được cái tính mê ngủ của mình. Ta thấy rằng, mình phải cần bao
nhiêu là sự tự chủ và quyết tâm để có được một chút thì giờ, để tỉnh thức mà
không làm gì hết. Vì dù sao đi nữa, cái tâm suy nghĩ của ta có trăm ngàn lý do
chính đáng để khất lại ngày sau, như là ta đâu có thật sự đạt được cái gì, sáng
hôm nay cũng chẳng có gì quan trọng lắm, và có lẽ lý do thật sự hơn hết là, tại
sao mình không ngủ thêm một chút nữa cho khỏe rồi ngày mai hãy bắt đầu?
Muốn vượt qua những trở ngại trong tâm mà ta đã biết trước ấy,
ta cần phải tự quyết định vào đêm hôm trước rằng, mình sẽ thức dậy cho dù có
nghĩ gì đi chăng nữa. Ðó cũng là hương vị đặc biệt của đức tự chủ và thật sự có
chủ đích. Ta làm vì đã tự hứa với mình và ta sẽ làm vào giờ đã ấn định, cho dù
một phần của tâm ta có ưa thích hay không. Sau một thời gian, sự tu tập ấy sẽ
trở thành một phần của con người ta. Ðây chỉ đơn giản là một lối sống mới mà ta
đã chọn. Nhưng nó không có nghĩa là "phải làm", vì ta không hề bó buộc
mình. Những giá trị cũng như hành động của ta đã thay đổi, thế thôi.
Nếu bạn chưa sẵn sàng để thức dậy sớm, hoặc là có chăng đi nữa,
bạn bao giờ cũng có thể xử dụng giây phút vừa thức giấc của mình, bất cứ lúc
nào, như là giây phút của chánh niệm, giây phút đầu tiên của một ngày mới. Ngay
trước khi bạn cử động, hãy cố gắng tiếp xúc với hơi thở của mình. Cảm giác thân
mình đang nằm trên giường. Thẳng người ra. Và bạn hãy tự hỏi: "Tôi có tỉnh
chưa? Tôi có biết rằng tôi được ban tặng cho một ngày mới không? Tôi có tỉnh thức
để nhận lãnh nó không? Việc gì sẽ xảy ra trong ngày hôm nay? Ngay bây giờ tôi
cũng chẳng biết. Mặc dù tôi đang suy nghĩ về việc gì cần phải làm, tôi có thể
nào mở rộng ra với cái không biết này không? Tôi có thấy ngày hôm nay là một cuộc
khám phá mới không? Tôi có nhận thấy rằng thời gian này có đầy đủ hết mọi tiềm
năng không?"
Buổi sáng là những khi tôi tỉnh thức và bên trong tôi có một
bình minh... Chúng ta phải biết học cách tỉnh thức ấy và giữ cho mình được tỉnh
thức, không phải bằng những phương tiện máy móc, nhưng là bằng một sự mong đợi
bất tận vào một bình minh sẽ không hề bỏ quên ta, dù ta đang đắm chìm trong một
giấc ngủ say. Tôi không còn biết đến một sự kiện nào đáng khích lệ hơn là cái
khả năng chắc chắn của con người nâng cao sự sống của mình bằng một nỗ lực có ý
thức. Khả năng vẽ lên một bức tranh, tạc một bức tượng, tạo nên một vài đối tượng
mỹ thuật, là cao đẹp lắm. Nhưng nếu ta có thể tạc hoặc vẽ được cái bầu không
khí và môi trường mà ta nhìn xuyên qua, khả năng ấy còn tuyệt diệu hơn, vượt bực
nữa... Làm sao để ảnh hưởng được phẩm chất của một ngày, đó mới là một nghệ thuật
cao quý. -- Thoreau, Walden.
Thực tập: Bạn hãy tự hứa với mình và cương quyết thức dậy
sớm hơn thường lệ. Làm bấy nhiêu thôi cũng sẽ thay đổi được đời bạn. Hãy để thời
gian ấy, dù dài hay ngắn, là thời gian để sống, để tỉnh thức. Bạn không muốn bỏ
gì vào khoảng thời gian này hơn là chánh niệm và ý thức. Không cần phải lo nghĩ
về những việc cần phải làm trong ngày và sống "trước" hiện tại của
mình. Ðây là lúc của sự vô thời gian, của tĩnh lặng hiện tại, và có mặt với
chính mình.
Và khi vừa thức dậy, trước khi bước chân xuống giường, bạn
hãy tiếp xúc với hơi thở của mình, ý thức những cảm giác trong thân, ghi nhận mọi
ý nghĩ và cảm xúc đang có mặt, hãy dùng chánh niệm soi sáng giây phút này. Bạn
có cảm nhận được hơi thở của mình không? Bạn có ý thức được sự bình minh trong
mỗi hơi thở vào? Bạn có biết tán thưởng cảm giác hơi thở đang ra vào tự do nơi
thân trong giây phút này không? Tự hỏi mình: "Bây giờ, tôi có thật sự tỉnh
thức chưa?"
Chúng ta ai cũng mang theo mình những hình ảnh và ý niệm về
thực tại. Ða số chúng được thu thập từ người khác, từ những lớp học, từ sách đã
đọc, hoặc từ truyền hình, ra dô, báo chí, từ nền văn hóa nói chung. Chúng cho
ta một ấn tượng về những sự vật chung quanh mình và về việc gì đang xảy ra. Và
kết quả là chúng ta chỉ nhìn thấy tư tưởng của mình hoặc của kẻ khác, thay vì
là những gì đang thực sự hiện diện ngay trước mặt hoặc bên trong ta. Chúng ta
ít khi nào chịu tìm kiếm hoặc xét lại cảm nhận của mình, vì ta tự cho rằng mình
đã biết và hiểu hết tất cả. Và vì vậy ta tự đóng kín mình lại, không còn biết đến
sự kỳ diệu và sinh động của những cuộc gặp gỡ mới. Không khéo chúng ta có thể
quên rằng, sự tiếp xúc trực tiếp là một cái gì có thể được. Ta sẽ không còn tiếp
xúc được với những gì là cơ bản nhất, mà không hề hay biết Chúng ta có thể sống
trong một thực tại huyễn mộng do mình tạo nên, mà không hề ý thức được sự mất
mát, một hố sâu, khoảng cách không cần thiết ngăn cách ta với kinh nghiệm của
mình. Không ý thức được việc ấy, ta suốt đời sẽ là một kẻ nghèo nàn về tâm
linh. Và khi ta tiếp xúc trực tiếp được với thế giới chung quanh mình, sẽ có những
sự kiện nhiệm mầu xảy ra.
Viki Weisskopf, một người hướng dẫn và cũng là một người bạn
của tôi, một nhà vật lý học nổi tiếng, có kể lại một câu truyện rất sâu sắc về
sự tiếp xúc trực tiếp:
Vài năm trước đây, tôi có nhận được lời mời đến giảng thuyết
tại đại học đường Arizona ở Tucson. Tôi rất vui mừng và chấp nhận ngay, vì đây
là một cơ hội tốt để viếng thăm đài thiên văn trên đỉnh Kitts Peak, nơi đó có một
kính thiên văn rất mạnh, mà tôi từng mơ ước sẽ có dịp được xử dụng thử. Tôi yêu
cầu trường đại học sắp xếp cho tôi một buổi viếng thăm đài thiên văn này, để
tôi có thể quan sát những vì tinh tú qua chiếc kính viễn vọng ấy. Nhưng họ trả
lời rằng việc ấy không thể thực hiện được, vì chiếc kính viễn vọng lúc nào cũng
được xử dụng để chụp hình và cho những sinh hoạt nghiên cứu khác, không có thì
giờ cho việc quan sát khơi khơi như vậy. Nếu vậy, tôi viết thư trả lời, là tôi
sẽ không đến giảng thuyết được. Chừng vài ngày sau, tôi được báo tin cho hay rằng,
mọi việc đã được sắp xếp theo lời yêu cầu của tôi. Một buổi tối trời trong thật
đẹp, chúng tôi lái xe lên núi. Những vì sao và dãy Ngân hà sáng lóng lánh trên
cao, tôi có cảm tưởng gần đến nỗi mình có thể với tay lên bắt được. Tôi vào căn
nhà mái vòm của đài thiên văn và nói với người chuyên viên điều khiển chiếc
kính viễn vọng bằng máy điện tử, tôi muốn được quan sát Thổ tinh và một số
thiên hà khác. Thật là một niềm vui lớn khi được nhìn bằng chính đôi mắt mình,
với đầy đủ hết những chi tiết mà tôi chỉ có thể thấy trước đó qua hình ảnh.
Trong khi say mê quan sát, tôi chợt để ý rằng căn phòng bắt đầu có đông người tụ
tập, và họ chờ nhau để đến phiên được nhìn vào chiếc viễn vọng kính như tôi.
Tôi được kể rằng, những nhà thiên văn này làm việc nơi đây, nhưng họ chưa bao
giờ có cơ hội để trực tiếp nhìn vào đối tượng mà họ đang nghiên cứu. Tôi chỉ có
thể hy vọng rằng, lần gặp gỡ này, sẽ giúp họ ý thức được tầm quan trọng của những
tiếp xúc trực tiếp như thế.
Thực tập: Nhớ rằng cuộc sống của mình cũng thú vị và nhiệm
mầu như là mặt trăng và những vì tinh tú. Cái gì đứng giữa bạn và kinh nghiệm
trực tiếp với sự sống của bạn? Bạn có thể làm gì để thay đổi được khoảng cách ấy?
5.- BẠN CÒN MUỐN NÓI THÊM ÐIỀU GÌ VỚI TÔI KHÔNG?
Lẽ dĩ nhiên, sự tiếp xúc trực tiếp cũng rất là quan trọng
trong mối tương quan giữa bác sĩ và bệnh nhân. Chúng tôi cố gắng hết sức để
giúp các sinh viên y khoa hiểu được sự quan hệ này, để họ khỏi bỏ chạy trong
kinh hoàng vì nó có dính líu đến tình cảm cá nhân, cũng như đòi hỏi một khả
năng biết lắng nghe thật sâu sắc. Chúng tôi nhắc nhở các bác sĩ tập sự nên đối
xử với bệnh nhân của mình như là con người, chứ không phải là một bài toán về
chứng bệnh, hoặc cơ hội để họ thử nghiệm sự phán đoán và chữa trị của mình. Có
biết bao nhiêu chuyện có thể chen vào giữa sự tiếp xúc trực tiếp của ta. Và có
rất nhiều bác sĩ đã thiếu sự huấn luyện này trong lãnh vực y khoa của họ. Họ vẫn
không ý thức được tính chất quan trọng của một sự truyền thông hữu hiệu, cũng
như sự chăm sóc đối với bệnh nhân. Chúng ta thường nghĩ ràng mình lo cho sức khỏe
của bệnh nhân, nhưng thật ra là ta chỉ lo lắng cho bệnh tình của họ. Và dù ta
có chăm sóc gì chăng nữa, nó vẫn là một sự thiếu thốn lớn, nếu đối tượng của ta
bị loại bỏ ra ngoài chương trình.
Má tôi có kinh nghiệm này, về việc không tìm ra một bác sĩ
nào thật sự quan tâm về nỗi lo lắng của bà. Bà rất bực tức kể lại rằng, có một
lần bà bị giải phẩu xương hông, và được thay vào bằng hông nhân tạo. Sau một thời
gian, bà vẫn không thể đi đứng bình thường được và rất đau đớn. Má tôi đã gọi vị
bác sĩ giải phẩu của mình nhiều lần để than phiền. Cuối cùng bà được hẹn để vào
gặp ông ta. Vị bác sĩ sau khi nghiên cứu tấm ảnh quang tuyến X, bảo rằng mọi sự
đều rất tốt đẹp, và không hề nghĩ đến chuyện khám nghiệm lại cái hông và chân bằng
xương bằng thịt của bà, mặc dù bà than phiền rất nhiều lần. Tấm ảnh chụp bằng
quang tuyến X đủ để thuyết phục vị bác sĩ là má tôi không hề có lý do gì để đau
đớn hết, mặc dù bà rất là khổ sở.
Các bác sĩ có thể vô ý thức đi trốn phía sau những dụng cụ,
máy móc y khoa, hoặc những thử nghiệm và danh từ kỷ thuật chuyên môn của họ. Họ
rất ngại khi tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân như là một con người, một cá nhân
với đầy đủ lo âu và sợ hãi, nỗi quan tâm và thắc mắc, dù có nói ra hoặc thinh lặng.
Có thể họ nghi ngờ khả năng của mình, vì đây là một lãnh vực mới chưa từng được
thăm dò. Một phần cũng có thể vì họ không quen đối diện với những tư tưởng, sự
sợ hãi, nỗi quan tâm và nghi ngờ của chính họ, cho nên đối với những gì của người
khác, chúng cũng rất là đe dọa. Và cũng có thể họ cảm thấy mình không có thì giờ
để mở ngõ cho những chiếc đê sắp vỡ tuôn ấy, hoặc là tự ngờ khả năng đối phó
thích ứng của mình. Nhưng điều mà những bệnh nhân cần, rất đơn giản, là sự lắng
nghe và có mặt của ta, biết coi con người là quan trọng, chứ không phải chỉ có
căn bệnh mà thôi.
Với ý định đó, chúng tôi dạy những sinh viên y khoa của mình,
một trong nhiều điều khác, là hỏi câu khiêu gợi sự trả lời nơi người nghe:
"Ông hay bà còn có điều gì muốn nói thêm với tôi không?" sau mỗi cuối
giờ phỏng vấn. Chúng tôi khuyến khich họ nên ngừng lại, và im lặng một chút, hoặc
lâu hơn nữa nếu cần thiết, cho bệnh nhân có được một khoảng không gian tâm linh
để xét lại nhu cầu của mình, và cũng như họ thật sự nghĩ gì. Những điều này rất
ít khi nào các bệnh nhân chịu đề cập tới ngay lần đầu, lần thứ hai, hoặc có lẽ
là sẽ không bao giờ, nếu họ cảm thấy vị bác sĩ không biết lắng nghe hoặc quá vội
vã.
Trong một khóa huấn luyện các nhân viên chuyên khoa về phương
pháp phỏng vấn bệnh nhân, chúng tôi được chiếu cho xem một cuốn phim nói về những
cuộc phỏng vấn của các sinh viên y khoa với bệnh nhân của mình, được thu hình để
học hỏi. Cuốn phim gồm có nhiều cuộc phỏng vấn của các sinh viên y khoa khác
nhau, nhưng chỉ gom chiếu lại phần họ hỏi bệnh nhân mình câu chót: "Ông
hay bà còn có thêm điều gì muốn nói với tôi không?" Trước khi được cho xem
cuốn phim tài liệu này, chúng tôi được yêu cầu hãy cẩn thận ghi nhận việc gì thật
sự xảy ra.
Xem đến đoạn phim thứ ba, tôi phải cố gắng lắm mới khỏi lăn
ra đất mà cười. Hầu như trong tất cả đoạn phim, các sinh viên y khoa đều thực
hành đúng những gì mình đã được dạy, là chấm dứt buổi phỏng vấn với câu hỏi
chót: "Ông hay bà còn có thêm điều gì muốn nói với tôi không?", nhưng
chính họ lại lắc đầu trong khi đặt câu hỏi ấy, như gián tiếp nói với bệnh nhân
mình rằng: "Thôi đủ rồi, làm ơn đừng kể thêm gì nữa hết".
Vì vậy, ta không bao giờ có thể dấu diếm được bất cứ điều gì.
Ta phải thật sự biết lắng nghe.
6.- THẨM QUYỀN CỦA BẠN
Lúc mới vào làm việc tại bệnh viện, tôi được phát cho ba chiếc
áo khoác dài màu trắng, bên ngoài có hàng chữ "Dr. Kabat-Zinn/Phân khoa y
học" được thêu thật đẹp trên túi áo. Và chúng được treo phía sau cánh cửa
văn phòng tôi từ mười lăm năm nay, chưa bao giờ được dùng tới.
Ðối với tôi, những chiếc áo trắng này là một biểu tượng mà
tôi không bao giờ cần đến trong ngành của mình. Tôi đoán có lẽ chúng cần thiết
cho các vị bác sĩ, giúp làm gia tăng thêm cái hào quang thẩm quyền của họ và nhớ
đó tạo một ảnh hưởng tốt đối với các bệnh nhân. Và cái hào quang ấy lại càng
gia tăng bội phần, nếu họ có thêm một chiếc ống nghe (stethoscope) treo lủng lẳng
ngoài túi áo. Những vị bác sĩ trẻ tuổi đôi khi nghiên cứu nghệ thuật này rất kỹ,
họ cố đeo chiếc ống nghe làm sao cho thật tự nhiên trên cổ, và gác ra phiá sau
lưng ngang vai.
Nhưng trong một y viện chuyên khoa về ngành làm giảm sự căng
thẳng (stress reduction clinic), thì chiếc áo trắng là một chướng ngại rất lớn.
Tôi đã phải làm việc tối đa để phản ảnh những cái tên mà người ta đã đặt cho
tôi, như là "Ông Thoải Mái", hoặc "Bác sĩ Biết Hết Tất Cả",
hoặc là "Ông Tình Thương và Trí Tuệ". Một trong những điểm chính yếu
của việc xử dụng chánh niệm để giảm sự căng thẳng - là khuyến khích và thách thức
người ta trở thành nguồn thẩm quyền của chính họ, biết chịu trách nhiệm về cuộc
đời, về thân thể và hạnh phuc của mình. Thật ra mỗi người chúng ta bao giờ cũng
là nguồn thẩm quyền của chính mình, nếu ta biết ý thức được những gì đang xảy
ra trong ta và chung quanh ta. Vì vậy, ta cần phải học hỏi rất nhiều về con người
ấy - những gì ta cần biết để tăng trưởng, để chữa lành vết thương và để có thể
chọn lựa hữu hiệu trong cuộc sống. Và những gì ta cần học hỏi lúc nào cũng nằm
trong tầm tay ta, hay nói đúng hơn là nằm ngay nơi đây trong hơi thở của
mình.
Muốn có một sự sống lành mạnh và an lạc, ta cần phải biết lắng
nghe cẩn thận hơn và tin tưởng vào những gì mình nghe thấy. Bạn có nghe được những
thông điệp của cuộc đời bạn không? Chúng bao giờ cũng là những thành tố còn thiếu
sót trong khoa y học, Chúng tôi thường khuyên các bệnh nhân nên có niềm tin và
phải biết tự đóng góp vào cho sự lành mạnh của chính họ. Chúng tôi gọi đó là
"huy động nguồn nội lực của bệnh nhân", để giúp họ tự chữa thương, hoặc
để có thể đối phó thích ứng hơn, nhìn sáng tỏ hơn, cứng rắn hơn, dám đặt vấn đề
hơn và xử sự khôn khéo hơn. Lẽ dĩ nhiên, nó không thể hoàn toàn thay thế cho sự
chăm sóc của ngành y khoa chuyên môn được. Nhưng nó là một bổ sung rất cần thiết,
nếu bạn muốn sống một cuộc sống lành mạnh thật sự - nhất là trong một hệ thống
y tế còn rất nhiều khiềm khuyết này.
Phát triển được thái độ ấy có nghĩa là ta làm chủ được đời
mình, và từ đó ta sẽ chấp nhận thẩm quyền của mình hơn. Nó đòi hỏi một điều là
ta cần phải biết tin tưởng nơi ta. Mà buồn thay, nhìn cho sâu, đa số chúng ta lại
không có được sự tự tin đó.
Năng lực của chánh niệm có thể mang lại cho ta niềm tin ấy,
nó chữa lành được mặc cảm tự ti của ta. Vì thật ra tự ti chỉ là một đánh giá
sai lầm, một nhận thức không đúng về thực tại. Bạn có thể thấy được rất rõ điều
này khi nhìn sâu vào cơ thể mình, hoặc là theo dõi hơi thở trong khi thiền tập.
Bạn sẽ nhanh chóng khám phá ra rằng cơ thể mình cũng là một phép lạ. Trong mỗi
giây phút, nó thực hiện biết bao nhiêu là kỳ công, mà không cần đến sự cố gắng
của ta. Vấn đề tự ti phần lớn bắt nguồn từ những ý nghĩ đã bị tô màu bởi quá khứ.
Ta có thói quen đi tìm kiếm những khiếm khuyết của mình và phóng đại chúng lên
to tướng. Và cũng lúc ấy, ta lại xem thường những đức tính tốt của mình, hoặc
đôi khi không thèm biết gì đến chúng. Có lẽ chúng ta vẫn còn bị vướng kẹt trong
những vết thương sâu đậm của quá khứ, và vô tình quên đi hoặc không hề ý thức
được rằng mình cũng có nhiều đức tính rất hay, rất đẹp khác nữa. Vết thương xưa
tuy quan trọng, nhưng những tính tốt của ta cũng quan trọng không kém, như là
tình thương, lòng từ ái của ta đối với người khác, tuệ giác của cơ thể, khả
năng suy nghĩ và phân biệt của ta. Và chúng ta có một khả năng phân biệt, nhận
thức, thương yêu, cao thượng hơn là mình nghĩ. Dù vậy, thay vì có một cái nhìn
quân bình, chúng ta thường bị kẹt trong thói quen tạo ấn tượng rằng, người khác
bao giờ cũng hay ho và tốt đẹp, còn ta thì lúc nào cũng thua kém.
Tôi cảm thấy rất ngại ngùng khi người chung quanh đưa tôi lên
quá cao. Tôi cố gắng phản chiếu lại những ấn tượng đó về tôi, hy vọng rằng người
ta sẽ ý thức được việc làm ấy, để thấy rằng năng lượng tích cực của họ dành cho
tôi thật ra là của chinh họ. Sự tích cực ấy là của họ. Nó là năng lượng của họ,
và người ta nên giữ gìn lấy để xử dụng, cũng như nên biết ơn cái cội nguồn ấy.
Tại sao họ lại phải cho đi sức mạnh của mình? Thú thật tôi không cần thêm gì nữa,
tự tôi, tôi cũng đã có đủ vấn đề lắm rồi!
Người ta thường đo lường lòng kính trọng của nhau bằng những
gì kẻ khác có, mà không bằng những gì họ là... Không gì có thể đem lại cho bạn
sự an lạc ngoại trừ bạn. -- Ralph Valdo Emerson.
7.- NƠI BẠN ÐẾN LÀ BÂY GIỜ VÀ Ở ÐÂY
Có bao giờ bạn nhận thấy rằng, mình không thể nào trốn tránh
được bất cứ một vấn đề gì không? Rằng, không chóng thì chầy, những sự việc ta
không muốn đối phó, cố gắng tránh né, hoặc phủ đậy lại và giả vờ như là chúng
không hề có mặt, rồi một ngày kia sẽ bắt kịp ta - nhất là khi chúng có liên
quan đến những tập quán hoặc nỗi sợ của mình. Chúng ta thường có một ý niệm
lãng mạn rằng, nếu nơi này ta không vừa ý, ta chỉ cần đi sang nơi khác thì mọi
việc tức khắc sẽ thay đổi. Nếu việc làm của ta không tốt, đổi việc khác. Nếu
người bạn đời của ta không vừa ý, chọn người bạn đời khác. Nếu thành phố ta ở
không tốt, dọn đi nơi khác. Nếu con cái của ta là một vấn đề, giao chúng cho
người khác lo. Ta nghĩ rằng, cái lý do tạo nên sự đau khổ cho mình nằm ở bên
ngoài - như việc làm, nơi chốn. hoàn cảnh hoặc người khác. Chúng ta tưởng rằng,
khi ta đổi chỗ ở, thay hoàn cảnh, thì mọi việc sẽ tự động trở nên tốt đẹp hơn,
và ta có thể bắt đầu trở lại và lập một cuộc đời mới.
Nhưng quan niệm đó có một vấn đề mà ta quên, là lúc nào ta
cũng mang theo khối óc và con tìm mình, và cái mà người ta gọi là nghiệp quả, ở
bất cứ một nơi nào mà ta đến. Ta không bao giờ có thể trốn tránh được chính ta,
cho dù có cố gắng bao nhiêu. Lý do gì bạn lại nghĩ rằng, sự việc sẽ có thể khác
đi hoặc tốt đẹp hơn ở một nơi xa xôi nào đó? Sớm muộn gì những khó khăn xưa
cũng sẽ phát khởi lên, nhất là khi chúng bắt nguồn từ tập quán suy nghĩ, quan
sát và hành động của ta. Rất thường khi, cuộc sống của ta không còn sinh động,
vì ta không còn biết sống nữa, vì chúng ta không dám nhận lãnh trách nhiệm về
những việc xảy ra và đối phó với những khó khăn của mình. Chúng ta quên rằng,
mình thật sự có thể đạt được một sự trong sáng, hiểu biết và chuyển hóa ngay giữa
những gì là bây giờ và ở đây, cho dù chúng là bất cứ một vấn đề gì chăng nữa.
Nhưng dù sau khi ta đem những khó khăn, vấn đề của mình đi đổ cho hoàn cảnh và
kẻ khác, thì nó bao giờ cũng dễ dàng và ít đe dọa đối với cái tôi của mình
hơn.
Việc đi tìm lỗi, trách móc hoặc tin rằng ta cần một sự thay đổi
ở bên ngoài, ta cần giải thoát ra những lực lượng đã giữ, ngăn chận không cho
ta phát triển và có hạnh phúc, chuyện ấy rất là dễ. Ta cũng có thể tự trách
mình, và dùng nó như là một phương cách tối hậu để trốn tránh trách nhiệm, cho
rằng mình đã làm hư hao quá nhiều, và không có thể sửa chữa được nữa. Trong cả
hai trường hợp, ta đều tin rằng mình không có khả năng sửa đổi và phát triển và
ta cần phải thôi làm kẻ khác đau khổ bằng cách tự rút lui ra khỏi hoàn cảnh ấy.
Sự tổn thương gây nên bởi cái nhìn sai lầm đó, có mặt khắp
nơi trong cuộc sống. Hãy thử nhìn chung quanh mình, bạn có thấy những tình thân
thuộc bị gãy đổ, gia đình sứt mẻ, con người mất hết hy vọng, những kẻ lang
thang không gốc rễ, lạc loài, đi từ nơi này đến chốn nọ, từ công việc này sang
công việc khác, từ mối tương quan này đến mối liên hệ kia, từ quan niệm giải
thoát này đến quan niệm khác... với hy vọng mong manh rồi sẽ có một người nào
đó, một công việc, một nơi chốn hoặc một quyển sách nào đó sẽ làm cho mọi việc
trở nên tốt đẹp hơn.
Thật ra, thiền tập tự nó không ban cho ta khả năng thoát được
khỏi những thói quen ấy: đi tìm kiếm ở một nơi khác cho câu trả lời hoặc giải
đáp cho những khó khăn của ta. Trong sự tu tập, đôi khi người ta cũng hay theo
đuổi phương pháp này đến phương pháp nọ, hoặc từ một vị thầy này đến vị thầy
khác, truyền thống này đến truyền thống khác, mong tìm kiếm một cái gì đó đặc
biệt, một pháp môn tối thượng, một mối quan hệ cá biệt, một giây phút
"giác ngộ" tạm thời nào đó có thể mở tung được cánh cửa giác ngộ.
Nhưng việc ấy có thể trở thành một ảo vọng nguy hại, một cuộc đi tìm bất tận, để
ta trốn tránh khỏi phải đối diện với những vấn đề đau đớn nhất. Ðôi khi vì sự sợ
hãi và vì khao khác muốn có một vị tôn sư giúp đở, người ta thường bị vướng mắc
vào những mối tương quan không lành mạnh. Họ sẵn sàng chịu lệ thuộc vào vị thầy
của mình. Nhưng bạn nên nhớ rằng, dù cho một vị thầy tài giỏi đến đâu, cuối
cùng bạn vẫn phải tự mình tu tập lấy, và sự tu tập ấy phải bắt nguồn từ chính sự
sống của bạn.
Có một số người lạm dụng thời gian tu học của mình. Thay vì
xem đó như một cơ hội để tự quán chiếu, họ xem khóa tu như một thời gian để củng
cố lại những thói quen và tập quán thường ngày của mình. Vì trong khóa tu, mọi
việc có thể trở nên dễ dàng hơn. Những nhu yếu trong đời sống của ta đều được
người khác lo hết. Thế giới này thấy có ý nghĩa hơn. Tôi chỉ cần ngồi thiền, đi
thiền hành, giữ chánh niệm, sống trong hiện tại, được người khác lo cho miếng
ăn, thức uống, được lắng nghe những lời minh triết từ những bậc đã có một quá
trình tu tập dài lâu và một đời sống tuệ giác. Và rồi tôi sẽ được chuyển hóa,
biết sống với mình một cách trọn vẹn hơn, biết chấp nhận cuộc đời hơn và có một
cái nhìn sáng tỏ về những vấn đề của mình hơn.
Nói chung những việc ấy cũng không phải là sai. Một khóa tu học
nhiều ngày với một vị thầy giỏi, có một giá trị rất to tát và một tác dụng chữa
trị lớn lao, nếu ta chịu quán chiếu bất cứ những gì khởi lên trong khóa tu.
Nhưng ở đây cũng có một sự nguy hiểm mà ta cần phải cẩn thận. Những ngày tu học
của ta có thể trở thành một sự rút lui khỏi cuộc đời và xã hội, và sự
"chuyển hóa" của ta vì vậy rất là nông cạn. Nó có thể kéo dài được chừng
vài ngày, vài tuần, hoặc vài tháng sau khi khóa tu chấm dứt, và rồi mọi sự đâu
lại hoàn đó như xưa. Và ta lại chờ đợi đến một khóa tu kế, một vị thầy giỏi nào
đó, hoặc một chuyến hành hương sang Á Châu, hay là một ước mơ sẽ có một ngày ta
trở thành một người tốt hơn, mọi việc sẽ được sáng tỏ hơn.
Lối nhìn và suy nghĩ ấy là một cạm bẩy rất phổ thông. Trên
con đường dài, bạn không bao giờ có thể trốn thoát được chính bạn, chỉ có một sự
chuyển hóa mà thôi. Cho dù bạn có xử dụng bất cứ một phương tiện nào, dù đó là
thiền tập, ma túy, rượu, ly dị, đổi công ăn việc làm... không một biện pháp nào
có thể giúp bạn phát triển, trừ khi bạn dám hoàn toàn đối diện với hoàn cảnh hiện
tại và duy trì chánh niệm. Cho phép những sự gồ ghề của hoàn cảnh mài dũa đi những
góc cạnh còn gồ ghề của bạn. Nói một cách khác hơn, bạn phải dám để cho sự sống
này trở thành vị thầy của mình.
Ðây là con đường của sự tu tập trong bất cứ một tình cảnh nào
của ta với những gì đang xảy ra bây giờ và ở đây. Vì sự thật tất cả chỉ là vậy
thôi: nơi chốn này, mối tương quan này, nỗi khó khăn này, công việc này... Sự
thử thách của việc tu tập chánh niệm là làm sao đối phó với ngay tình cảnh mà
ta đang có mặt - dù cho nó có khó chịu, chán nản, giới hạn hoặc bất tận, và
dính mặc đếu đâu chăng nữa. Và ta phải biết cố gắng hết sức, hết năng lực của
mình, để tự chuyển hóa, trước khi quyết định buông bỏ để lên đường. Bạn nên nhớ
rằng, chỉ có bây giờ và ở đây, sự tu tập cũng như công phu của ta mới có hiệu
quả.
Thế cho nên nếu bạn nghĩ rằng, sự tu tập của mình quá nhàm
chán, không tiến bộ, rằng nơi này không có điều kiện thích hợp, và bạn đang ước
phải chi mình đang ở trong một hang động nào đó trên Hy mã lạp sơn, hoặc trong
một tu viện ở rừng sâu, hoặc một trung tâm tu học nào đó giữa thiên nhiên, thì
mọi việc sẽ được tốt đẹp hơn, sự tu tập của bạn sẽ được vững mạnh hơn... bạn
hãy nên suy nghĩ lại. Vì khi bạn đến được hang động ấy, tu viện ấy rồi, thì
cũng chỉ có bấy nhiêu thôi, cũng thân này, cũng tâm này, cũng cùng một hơi thở
này, mà bạn đã và đang có trong giây phút hiện tại này đây! Có lẽ sau chừng mười
lăm phút trong hang động bạn sẽ cảm thấy cô dơn, thèm ánh sáng, nóc nhà có thể
bị dột, trời có thể nóng quá hoặc lạnh quá. Nếu bạn đi tu học, có thể bạn sẽ
không thích vị thầy, thức ăn không hạp khẩu vị, phòng ngủ thiếu tiện nghi...
Bao giờ cũng sẽ có một cáigì đó làm bạn bất mãn. Như vậy sao bạn không buông bỏ
nó đi, và chấp nhận ràng có lẽ nơi mà ta đang ở đây là tốt nhất rồi? Và trong
giây phút ấy, bạn sẽ tiếp xúc được với chính mình và có thể mời gọi năng lực của
chánh niệm bước vào và chữa trị. Chừng nào hiểu được việc ấy, thì những hang động,
tu viện trong rừng, các trung tâm tu học... mới có thể thật sự giúp ích cho bạn.
Và dĩ nhiên là ở bất cứ một nơi chốn nào khác, thời điểm khác, tất cả cùng đều
là như vậy.
Chân tôi trượt trên một vách đá cao, ngay trong giây phút ấy,
tôi cảm thấy như những mũi kim đâm xuyên qua tim và thái dương mình, thời gian
vô tận tiếp xúc được với giây phút hiện tại. Tư tưởng và hành động không khác
gì nhau, và đá, không khí, tảng băng, mặt trời, nỗi sợ và tôi, tất cả chỉ là một.
Cái nhiệm mầu là làm sao để kéo dài giây phút ý thức sáng tỏ ấy vào những thời
gian tầm thường khác trong cuộc sống. Trong mỗi phút giây kinh nghiệm của một
con chim ưng, một con chó sói đang săn mồi, chúng là trung tâm của vạn vật,
không còn cần một bí quyết nào của sự sống chân thật nữa. Trong ngay hơi thở
này của chúng ta, có tàng chứa cái yếu chỉ mà những vị đại sư hằng cố gắng trao
truyền lại, mà một vị Lạt Ma gọi đó là "sự chính xác, mở rộng và tuệ giác
của giây phút hiện tại". Mục đích của thiền tập không phải là để giác ngộ,
mà là để biết chú tâm, dù trong những giây phút tầm thường nhất, thật sự có mặt,
thật sự hiện hữu và mang chánh niệm của giây phút hiện tại này vào trong mỗi sự
kiện của đời sống. -- Peter Matthiessen, "The Snow Leopard".
8.- LÊN THANG LẦU
Trong đời sống hàng ngày chúng ta có rất nhiều cơ hội để thực
tập chánh niệm. Ðối với tôi, việc đi lên thang lầu là một dịp rất tốt. Khi ở
nhà, tôi làm việc ấy có đến cả trăm lần. Tôi làm việc ở dưới lầu, nhưng thường
khi tôi cần phải lên lầu để lấy một cái gì đó, tìm một vật gì, hoặc nói chuyện
với ai, nên tôi cứ lên và xuống thang lầu rất thường xuyên.
Tôi khám phá ra rằng, tôi thường bị lôi kéo bởi ý muốn đi đến
một nơi khác, hoặc bởi một sự việc nào đó, tôi nghĩ rằng nó cần được xảy ra.
Khi tôi bắt gặp mình đang phóng nhanh lên lầu, từng hai nấc thang một, có lúc
tôi có chánh niệm đủ để nhận thức được sự vội vàng đó. Tôi ý thức được hơi thở
hào hển của mình, biết được tim mình đang đập nhanh cũng như là tâm ý. Tôi thấy
rằng con người tôi trong giây phút đó, đang bị thúc đẩy bởi một mục tiêu vội vã
nào đó, mà có khi tôi quên bẵng mất khi đã lên đến nơi.
Khi tôi ý thức được cơn sóng của năng lượng vội vã ấy trong
chánh niệm, lúc đang còn đứng dưới thang lầu hoặc khi mới vừa bước lên, tôi sẽ
cố ý đi chậm lại. Không những tôi chỉ bước từng nấc thang một, mà còn thật là
chậm, có lúc một hơi thở vào ra cho mỗi bước chân, tự nhắc nhở rằng mình không
có một nơi nào cần phải đến, và không có gì cần thiết đến nỗi mình không thể chờ
đợi được, để có thể thật sự sống trọn vẹn với một giây phút này mà thôi.
Tôi để ý thấy rằng khi tôi nhớ để làm việc ấy, tôi có thể tiếp
xúc được với quá trình lên thang lầu của mình và được vững vàng hơn khi lên đến
nơi. Tôi cũng khám phá ra được một điều này là không có một sự vội vã nào từ
bên ngoài hết. Chỉ có trong tâm ta, nó bị thúc đẩy bởi sự thiếu kiên nhẫn hoặc
những sự lo lắng vô ý thức. Những sự vội vã trong tâm rất là tinh tế, tôi phải
lắng nghe thật kỹ mới có thể nhận diện được và chúng cũng mạnh mẽ lắm, không có
thể làm lay chuyển nổi. Nhưng dù vậy, ta bao giờ cũng có thể có chánh niệm về
chúng cũng như những hậu quả của chúng, việc ấy sẽ giúp ta khỏi bị hoàn toàn
lôi cuốn theo. Và lẽ dĩ nhiên, tôi cũng có thể thực tập trong khi đi xuống
thang lầu nữa. Trong khi đi xuống ta sẽ dễ bị đi nhanh hơn, và cố ý đi chậm lại
sẽ là một sự thử thách.
Thực tập: Hãy xử dụng những việc làm hàng ngày nào có tánh
cách đều đặn trong nhà, để làm cơ hội cho ta thực tập chánh niệm. Khi ta đi ra
cửa, trả lời điện thoại, tìm kiếm ai, đi vào nhà tắm, giặt đồ... đều là những
cơ hội để ta có thể chậm rãi lại và tiếp xúc với giây phút hiện tại. Ghi nhận sự
thúc đẩy trong tâm mỗi khi ta nghe tiếng chuông điện thoại hoặc chuông cửa reo.
Tại sao bạn cần phải vội vàng trả lời nó ngay, cho phép nó lôi kéo bạn ra khởi
sự sống mà bạn đang có mặt trong giây phút trước đó? Sự chuyển tiếp ấy có thể
nào được làm từ tốn hơn không? Bạn có thể thật sự có mặt với những gì mình đang
sống không?
Và bạn cũng nên tập có mặt với những công việc như tắm rửa hoặc
ăn uống. Khi bạn tắm, bạn có thật sự là đang tắm không? Bạn có cảm giác được nước
đang chảy trên da, hay là bạn đang phiêu du ở một nơi nào khác, trôi dạt trong
sự quên lãng, mà không hề biết là mình đang tắm. Ăn uống cũng là một cơ hội rất
tốt để thực tập chánh niệm. Bạn có nếm được mùi vị của thức ăn không? Bạn có ý
thức được mình đang ăn nhanh hay chậm, nhiều hay ít, lúc nào, ở đâu và ăn những
gì không? Bạn có thể nào biến trọn một ngày thành những cơ hội để sống trong hiện
tại, hoặc mang ta trở về với phút giây hiện tại không?
9.- CÔNG VIỆC CỦA TÔI TRÊN TRÁI ÐẤT NÀY LÀ GÌ?
Công việc của tôi trên trái đất này là gì? Ðó có lẽ là một câu
hỏi ta nên tự hỏi đi hỏi lại nhiều lần. Bằng không, có thể chúng ta đang làm một
công việc của người khác mà không hề hay biết. Và có lẽ người khác chỉ là một sự
tưởng tượng của ta hoặc cũng đang bị giam cầm như ta.
Là một loài vật biết suy nghĩ, được gói ghém trong một đơn vị
sinh vật mà ta gọi là cơ thể, và cùng một lúc được sáp nhập vào sự biến đổi
không ngừng của sự sống, chúng ta có một khả năng duy nhất là chịu trách nhiệm
về chính sự sống của mình. Nhưng chúng ta cũng có một khả năng khác có thể để
cho sự suy nghĩ làm che lấp hành trình của mình trong cuộc sống ấy. Chúng ta sẽ
không bao giờ nhận được tính chất cá biệt của cuộc sống mình - nếu ta vẫn cứ sống
trong bóng tối của tập quán suy nghĩ và bị chi phối bởi những điều kiện chung
quanh.
Buckminster Fuller, người đã phát minh ra mái nhà hình vòm cầu
bằng toán học, vào năm ba mươi hai tuổi, một đêm bên bờ hồ Michigan, ông đã
nghĩ đến việc tự tử. Chuyện kể rằng, sau những thất bại liên tiếp khiến ông
nghĩ rằng mình đã làm hư hao cuộc đời mình quá nhiều, cách hay nhất là giả từ hết
tất cả, để vợ và đứa con gái còn nằm nôi khỏi phải chịu khổ đau thêm nữa. Trong
những năm qua, bất cứ một công việc nào ông nhận lãnh hoặc dính líu tới đều bị
đổ bể và tan thành cát bụi, mặc dù ông có một sức tưởng tượng và sáng tạo rất mạnh.
Tài năng đó của ông chỉ được công nhận sau này. Nhưng cuối cùng, thay vì tự chấm
dứt đời mình, ông Fuller quyết định rằng từ đêm đó ông sẽ tiếp tục sống, nhưng
coi như là mình đã chết rồi.
Xem như là đã chết rồi, ông không còn phải lo lắng về chuyện
thành bại của mình nữa. Từ đó ông có thể đem hết tâm lực ra để sống như một đại
biểu của vũ trụ. Cuộc đời còn lại, ông xem như là một món quà. Thay vì sống cho
chính mình, ông lúc nào cũng tự hỏi: "Quả đất này đang cần điều gì mà chỉ
có tôi mới có thể thực hiện được? Và chúng sẽ không bao giờ xảy ra, nếu tôi
không nhận lãnh trách nhiệm ấy?" Suốt cuộc đời còn lại, lúc nào ông cũng tự
hỏi câu ấy và tiếp nhận những gì đến với ông. Khi ta có thể sống theo lối đó,
phục vụ nhân quần như là một công nhân của vũ trụ, ta có thể tu sửa và đóng góp
cho mọi người bằng chính con người của ta, sự sống của ta. Nhưng nó không còn
có tính cách cá nhân nữa, mà chỉ là một phần của toàn thể vũ trụ rộng lớn đang
tự biểu lộ chính nó.
Chúng ta thường ít khi nào tự hỏi và suy ngẫm một cách nghiêm
chỉnh về những gì con tim mình thật sự muốn. Tôi muốn đặt nó trong hình thức của
một câu hỏi: "Công việc của tôi trên trái đất này là gì?" hoăc là:
"Tôi yêu thích công viêc nào tôi sẵn sàng trả tiền để làm?" Nếu tôi
không tìm được một câu trả lời nào khác hơn là: "Tôi không biết", thì
tôi sẽ tiếp tục tự hỏi. Nếu bạn bắt đầu suy ngẫm về câu hỏi đó vào năm hai mươi
tuổi, thì khi bạn được bốn mươi, năm mươi hoặc sáu mươi, có lẽ sự suy tư ấy đã
dẫn dắt bạn đến những nơi mà bạn không bao giờ bước chân tới, nếu bạn sống một
cuộc đời bình thường, hoặc chỉ biết theo kỳ vọng của cha mẹ mình.
Bạn có thể đặt câu hỏi đó vào bất cứ lúc nào và ở b1ất cứ một
lứa tuổi nào. Dù ở vào một thời điểm nào trong cuộc đời, câu hỏi ấy sẽ có một ảnh
hưởng rất sâu xa đến những quan điểm của bạn về sự việc cũng như sự lựa chọn của
bạn. Việc ấy không có nghĩa là những gì bạn làm sẽ thay đổi, nhưng rất có thể bạn
sẽ thay đổi cách nhìn của mình, sự nắm bắt của mình, và có lẽ đường lối làm của
mình. Một khi ông chủ của bạn là vũ trụ này thì sẽ có nhiều việc lý thú xảy ra,
cho dù bạn có bị ai đó cúp lương đi chăng nữa. Nhưng bạn phải biết thật kiên nhẫn.
Lối sống mới này đòi hỏi một thời gian để phát triển. Nhưng lẽ dĩ nhiên, trước
hết ta phải bắt đầu đi cái đã. Khi nào và ở đâu? Bây giờ và ở đây bao giờ cũng
là thời gian và không gian tốt nhất.
Chúng ta không bao giờ có thể đoán được sự quán xét này sẽ dẫn
ta tới đâu. Ông fuller hay nói rằng, những gì có vẻ dường như đang xảy ra trong
giờ phút này, thường thường không bao giờ là toàn thể câu chuyện. Ông lấy thí dụ
về một con ong chẳng hạn, đối với nó việc đi lấy mật là chuyện quan trọng nhất.
Nhưng cùng một lúc, con ong cũng là một phương tiện mà thiên nhiên xử dụng để
chuyên chở phấn hoa đến những nhụy bông. Mọi sự vật trên vũ trụ này đều có liên
hệ mật thiết với nhau, đó là một nguyên lý thiên nhiên cơ bản. Không có một sự
vật nào trên đời này là đơn độc hết. Mọi việc luôn luôn biểu lộ trên nhiều lãnh
vực khác nhau. Chúng ta phải cố gắng hết sức mình để nhận diện được sự thăng trầm
và phức tạp ấy của cuộc sống, và tập đi theo những con đường nào là chân thật
và vững vàng.
Ông Fuller tin vào một nền tảng cấu trúc của thiên nhiên, nơi
đó mọi hình thái và chức năng của sự vật đều có một liên hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Ông tin rằng, bản đồ thiết kế của thiên nhiên rất bổ ích và có một liên hệ
cụ thể đến cuộc sống của chúng ta trong nhiều lãnh vực. Trước khi ông qua đời,
khoa tinh thể học (Crystallographic) xử dụng quang tuyến X đã chứng minh được rằng,
nhiều loại siêu vi khuẩn đã được kết cấu theo cùng một nguyên lý đo đạt vị trí
(geodesy), mà ông đã khám phá được khi tìm tòi trong môn toán thuộc về hình khối
đa diện (Polyhedron).
Rất tiếc ông đã không sống lâu để chứng kiến, nhưng ngoài những
khám phá và phát minh có tác động lớn của ông, một lãnh vực mới trong ngành hóa
học đã được mở ra, nhờ sự khám phá bất ngờ của một hợp chất giống như quả banh
túc cầu, tương tự như thán tố. Nó mang những tính chất quan trọng đặc biệt mà
sau này được gọi là Buckminsterfullernes, tên của ông. Ðùa chơi với sự tò mò,
đi theo con đường mình chọn, sự suy tư của ông đã đưa đến những khám phá và thế
giới mà ông không bao giờ có thể ngờ tới. Bạn cũng thế. Ông Fuller không bao giờ
cho mình là đặc biệt, chỉ là một người thích đùa chơi với những ý kiến và hình
tướng mà thôi. Câu châm ngôn của ông là: "Nếu tôi có thể hiểu được, thì bất
cứ ai cũng có thể hiểu được".
Hãy tự tin nơi mình, đừng bao giờ bắt chước một ai cả. Bạn có
thể dễ dàng tặng cho mỗi giây phút của cuộc sống này, cái năng lượng tích tụ mà
bạn đã nuôi dưỡng cả một đời mình. Nhưng nếu bạn bắt chuớc tài năng của kẻ khác
bạn chỉ đóng góp được phân nữa những gì mình có... Hãy làm những gì được giao
phó cho mình, bạn sẽ không bao giờ có thể nào hy vọng hoặc liều lĩnh quá mức được. --
Ralph Waldo Ermersom, "Self-Reliance ".
10.- NGỌN NÚI ANALOGUE
Có những ngọn núi bên ngoài ta và cũng có những ngọn núi bên
trong ta. Chỉ mỗi sự hiện diên của chúng thôi cũng đã đủ vẫy tay mời gọi thử
thách ta rồi. Có lẽ bài học trọn vẹn mà núi dạy cho ta là chúng ta mang trọn cả
một ngọn núi bên trong mình, núi ở trong lẫn ở ngoài. Có lúc ta cố công tìm kiếm
nhưng không bao giờ gặp, khi nào ta có đầy đủ nghị lực và sự chuẩn bị để đi tìm
một con đường, trước là đến chân núi, sau là đỉnh cao. Hình ảnh leo núi là một ẩn
dụ rất sâu sắc cho những hành trình đi tìm trong cuộc sống, một hành trình tâm
linh, một con đường phát triển, chuyển hóa và hiểu biết. Những cam go gian khổ
mà ta gặp phải trên đường là những thử thách cần thiết, chúng giúp ta tự cởi mở
ra và từ đó nới rộng biên giới của mình hơn. Cuối cùng thì chính cuộc sống này
là một ngọn núi, một vị thầy, cung hiến cho ta những cơ hội tuyệt vời để giúp
ta tu sửa, để phát triển trong năng lực và tuệ giác. Chúng ta sẽ học hỏi và trưởng
thành rất nhiều một khi ta đã chọn đặt chân vào hành trình này. Ở đây, sự rủi
ro rất cao, sự hy sinh rất lớn, mà kết quả thì không có gì chắc chắn. Cuối cùng
thì chính quá trình leo núi tự nó là một sự khám phá, chớ không phải chỉ là khi
nào ta đã đứng trên đỉnh núi cao.
Trước hết chúng ta cần phải quan sát xem chân núi như thế nào
và sau đó ta mới phải đối diện với những dốc cao, và cuối cùng, hy vọng là đỉnh
núi. Nhưng không ai có thể ở trên đỉnh mãi được. Hành trình đi lên sẽ không
hoàn toàn nếu không có đi xuống, khi ta bước lùi lại để có thể nhìn được toàn
thể ngọn núi từ xa. Khi đã đứng trên đỉnh núi cao, ta sẽ tiếp nhận được một
quan điểm mới, và nó có thể sẽ thay thế cái nhìn của ta mãi mãi.
Trong một câu chuyện còn dở dang có tên là Núi Analogue, René
Daumal có diễn tả lại một phần cho cuộc hành trình nội tâm này. Phần mà tôi còn
nhớ thật rõ về câu chuyện là những điều luật mà người leo núi Analogue cần phải
tuân theo. Ví dụ, trước khi tiếp tục leo lên một địa điểm trại cao hơn, ta phải
bổ sung lại cho đầy đủ căn trại mà ta sắp rời bỏ, để cho người đến sau. Và ta
phải tìm cách chia xẻ kiến thức của mình về những gì biết được từ trên cao, để
những người bên dưới có thể được lợi lộc từ những điều ta đã học hỏi được trong
hành trình của mình.
Tôi nghĩ chuyện ấy cũng giống như những điều chúng ta làm khi
đi dạy vậy. Ta cố hết sức để chỉ cho người khác những gì mình đã biết cho đến
bây giờ. Thật ra đó chỉ là một tờ báo cáo, một bản đồ kinh nghiệm của ta, nó
không hề là chân lý tuyệt đối. Và từ đó hành trình thám hiểm rộng mở. chúng ta
đều cùng đang leo trên ngọn Analogue. Và chúng ta rất cần đến sự giúp đở của
nhau.
11.- SỰ LIÊN HỆ MẬT THIẾT
Dường như từ tuổi thơ chúng ta cũng đã biết rõ rằng, mọi việc
trên cuộc đời này đều có một liên hệ, gắn bó rất chặt chẻ với nhau. Rằng cái
này xảy ra vì cái kia xảy ra, muốn cái này xảy ra thì cái kia phải xảy ra. Ở
Tây phương có một câu chuyện cổ tích nói lên được sự kiện này. Có con chồn nọ
lén uống hết sữa trong thùng của một bà lão, trong khi bà bận đi lượm củi. Khi
khám phá ra, bà ta giận dữ bắt con chồn và cắt đứt đuôi nó. Con chồn khóc lóc
xin lại cái đuôi, bà nói sẽ khâu lại cho sau khi nó trả sữa lại cho bà. Nghe vậy
con chồn chạy đến gặp một con bò và xin chút sữa, con bò nói đem về cho nó cỏ
thì nó sẽ cho sữa. Con chồn chạy ra cánh đồng xin chút cỏ, cánh đồng nói hãy
đem cho ta chút nước. Con chồn vội đến bên một dòng suối để xin, dòng suối nói
hãy đem bình đến đây lấy. Câu chuyện lại tiếp diễn cho đến khi có một bác nông
phu, vì thương hại, cho con chồn những hạt lúa để đem cho con gà, đánh đổi lấy
những quả trứng đem cho người bán hàng rong, anh bán hàng rong đổi cho một sợi
dây chuyền đem về đưa cho một cô con gái để lấy chiếc bình... và cuối cùng con
chồn lấy lại được cái đuôi và sung sướng chạy đi. Cái này phải xảy ra thì cái
kia mới có thể xảy ra. Không có cái gì phát xuất từ khơi khơi được. Mọi việc đều
có một quá khứ, lai lịch của nó. Ngay cả lòng thương của bác nông phu trong câu
chuyện cũng phải có một phát xuất từ đâu.
Khi ta nhìn sâu vào bất cứ một quá trình nào, ta cũng sẽ thấy
được sự thật ấy. Không có ánh sáng mặt trời sẽ không có sự sống. Không có nước
sẽ không có sự sống. Không có thực vật sẽ không có sự quang hợp
(photosynthesis), không có sự quang hợp sẽ không có dưỡng khí. Không có cha mẹ
sẽ không có ta. Không có xe cộ sẽ không có thực phẩm cho thành phố. Không có hảng
xe sẽ không có xe. Không có nhân công sẽ không có sắt thép cho hảng xe. Không
có quặng mỏ sẽ không có sắt thép cho nhân công. Không có thực phẩm sẽ không có
nhân công. Không có mưa sẽ không có thực phẩm. Không có mặt trời sẽ không có
mưa. Không có những điều kiện cho sự sắp xếp của các vì tinh tú, những hành
tinh trong vũ trụ, sẽ không có mặt trời, không có trái đất. Nhưng những mối
liên hệ này không phải lúc nào cũng giản dị và nằm trên một đường thẳng. Thường
thường thì chúng dính líu với nhau như một màng nhện chằng chịt và vô cùng vi tế.
Vì vậy sự sống của ta là một màng lưới tương quan gắn bó rất mật thiết, mà
không có một nơi nào là điểm khởi đầu, hoặc điểm chấm dứt tuyệt đối cả.
Vì vậy, chúng ta có thể thấy được sự vô lý cũng như nguy hiểm,
khi ta để cho tư tưởng của mình biến một sự việc hoặc hoàn cảnh nào đó thành một
cá thể cô lập, không ý thức gì về sự tương quan chằng chịt cũng như tính cách
biến đổi của chúng. Bất cứ một việc gì cũng có dính líu đến bất cứ một việc nào
khác, và nó cũng tàng chứa hết, cũng như được tàng chứa bởi mọi vật khác. Còn
gì hơn nữa, vì mọi vật đều đang chuyển dịch. Những vì tinh tú sinh ra, trải qua
các thời kỳ rồi diệt đi. Các hành tinh cũng có một nhịp điệu hình thành và hoại
diệt riêng của chúng. Những chiếc xe mới chưa ra khỏi xưởng mà cũng đã đang
trên đường đi đến chỗ phế thải rồi. Ý thức này sẽ làm gia tăng sự tán thưởng của
ta đối với luật biến đổi của vạn vật, nó giúp ta bớt xem thường sự vật, hoàn cảnh
cũng như tình tương thân, và biết quý trọng chúng hơn. Chúng ta sẽ tôn quý cuộc
đời này hơn, con người, ý kiến và mỗi giây phút hơn, nếu ta có thể nhìn sâu và
thấy được rằng, bất cứ những gì mình tiếp xúc đều có thể nối liền ta với toàn
thể vũ trụ, và tất cả mọi việc, con người, nơi chốn, hoàn cảnh đều chỉ có mặt
nơi đây trong chốc lát mà thôi. Nó biến giây phút này trở thành vô cùng lý thú.
Mà thật ra, nó khiến cho giây phút này là tất cả.
Chánh niệm về hơi thở là một sợi dây, trên đó những hạt chuỗi
kinh nghiệm, tư tưởng, cảm thọ, hiểu biết và ý thức của ta được xỏ qua. Xâu chuỗi
ấy là một cái gì mới đối với ta - nói cho đúng thì nó là một cách nhìn mới, một
lối sống mới, lối kinh nghiệm mới giúp cho ta có được cách hành xử mới trong cuộc
đời. Ðường lối mới ấy của ta dường như có thể nối liền lại tất cả những sự kiện
gì có vẻ như là cô lập. Nhưng thật ra, trong cuộc sống này không có gì là cô lập
mà cần phải được nối liền lại hết. Chính cái nhìn sai lầm của ta đã tạo nên và
duy trì sự cách biệt phân chia ấy.
Cái nhìn và lối sống mới này sẽ giúp ta ráp lại những mảnh vụn
của cuộc sống vào đúng vị trí của chúng. Mỗi giây phút sẽ được tôn trọng với sự
trọn vẹn của nó, nằm trong một sự trọn vẹn khác to tát hơn. Sự tu tập chánh niệm
chỉ đơn giản là một cuộc đi tìm, khám phá cho ra đường mối của màng lưới nối liền
mọi việc ấy lại với nhau. Rồi đến một lúc nào đó ta sẽ thấy rằng, thật ra mình
không cần phải tìm kiếm gì hết. Chúng ta chỉ ý thức được một sự tương quan mà
nó bao giờ cũng có mặt. Ta đã leo lên đến một cao điểm giúp mình có thể thấy được
toàn diện cảnh vật, và từ đó có thể ôm giữ giây phút hiện tại này trong chánh
niệm. Hơi thở và giây phút hiện tại tương nhập vào nhau, như sợi dây và hạt chuỗi,
chúng tạo nên một cái gì to tát hơn.
Cái này sáp nhập vào cái kia, những nhóm tan chảy nhập thành
các nhóm sinh môi, cho đến một lúc những gì ta nghĩ là sự sống gặp gỡ và đi vào
những gì ta cho rằng không phải là sự sống: ốc hến và đá, đá và đất, đất và cây
cối, cây cối và mưa và không khí... Và điều lạ lùng là hầu hết những cảm giác
mà ta gọi là tôn giáo, hầu hết những sự phản đối huyền bí mà ta cho là những phản
ứng cao thượng và mơ ước của loài người chúng ta, thật ra chính là một sự hiểu
biết và cố gắng nói lên rằng, con người có liên hệ với tất cả vạn vật, nó gắn
bó chặt chẽ với mọi loài, biết tới hoặc không biết tới. Việc ấy nói thì nghe rất
giản dị, nhưng cảm thọ sâu sắc của nó đã làm nên một Jesus, một St. Angustine,
một St. Francis, một Roger Bacon, một Charles Darwin và một Einstein. Mỗi người,
tùy theo nhịp điệu và giọng nói của mình, đã khám phá và tái xác nhận với một
kiến thức kỳ diệu rằng, tất cả chỉ là một và một là tất cả - một phiêu sinh vật
(plankton), một động vật nhỏ li ti sống trôi nổi theo dòng nước trong đại
dương, và một hành tinh đang xoay và một vũ trụ đang mở rộng, tất cả đều được cột
chặt lại với nhau bằng sợi dây vô cùng của thời gian. -- John Steinbeck và
Edward F. Ricketts, "Sea of Cortez".
12.- BẤT BẠO ÐỘNG - AHIMSA
Một người bạn của tôi trở về, sau mấy năm sống ở Nepal và Ấn
Ðộ, vào năm 1973, đã nói như sau: "Nếu tôi không thể làm gì hữu ích cho cuộc
đời, thì ít ra tôi cũng sẽ cố gắng bớt gây tổn hại chừng nào tốt chừng ấy".
Tôi đã bị truyền lây bởi ý niệm về bất hại, Ahimsa, ngay lúc ấy
tại nơi phòng khách của tôi. Và tôi không bao giờ quên được giây phút đó. Mặc
dù tôi đã từng được nghe nói về thuyết bất bạo động trước đó. Thái độ bất hại
này nằm ngay nơi trái tim của pháp môn Yoga và cũng là lời tuyên thệ của các
sinh viên y khoa trước khi họ trở thành bác sĩ thực thụ (Hippocratic Oath). Nó
cũng là nguyên tắc nền tảng cho cuộc cách mạng của thánh Gandhi và sự tu tập của
cá nhân ông. Nhưng hình như vì sự chân thành trong lời nói của người bạn tôi,
cùng với một cái gì đó không phù hợp từ một con người mà tôi nghĩ là tôi biết,
đã gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh. Tôi chợt thấy rằng đó là một lối sống rất
đẹp đối với thế giới chung quanh cũng như cho chính bản thân tôi. Tại sao ta
không thử cố sống sao để ít gây tổn thương cũng như khổ đau được chừng nào tốt
chừng ấy? Nếu chúng ta có thể sống theo nguyên tắc đó, thì có lẽ mức độ bạo động
và điên rồ trong tư tưởng cũng như trong cuộc sống của ta, đâu có đến nỗi tệ hại
như ngày hôm nay. Và chúng ta cũng sẽ biết thương yêu mình hơn, trên tọa cụ
cũng như trong cuộc đời.
Cũng như mọi quan niệm khác, bất bạo động và bất hại có thể
là một nguyên tắc rất tuyệt diệu, nhưng chính việc sống đúng theo nó mới thật sự
có giá trị. Bạn có thể thực tập sự từ ái của nguyên tắc bất bạo động đối với
chính bạn và đối với những người chung quanh bất cứ lúc nào.
Có bao giờ bạn cảm thấy mình khó khăn với chính mình và khinh
thường mình quá không? Hãy nhớ đến Ahimsa trong giây phút ấy. Ghi nhận nó rồi
buông bỏ đi.
Bạn có bao giờ nói về một người nào đó sau lưng họ không?
Ahimsa.
Bạn có cảm thấy rằng mình tự thúc đẩy quá mức, chẳng chú ý gì
đến sức khỏe cũng như hạnh phúc của mình không? Ahimsa.
Bạn có làm cho một người nào đó khổ đau không? Ahimsa. Ðem áp
dụng lý thuyết bất bạo động với những người không có gì là nguy hại đối với ta
bao giờ cũng dễ. Nhưng khi đối diện với những người hoặc hoàn cảnh nào có vẻ đe
dọa, ta sẽ phản ứng ra sao, đó mới thật sự là bài thử nghiệm.
Ý muốn làm khổ hoặc làm hại kẻ khác được phát xuất từ một nỗi
sợ trong ta. Muốn thực hành sự bất bạo động, ta cần phải nhìn thấy rõ nỗi sợ của
mình, để hiểu và làm chủ nó. Làm chủ nó có nghĩa là ta dám nhận lãnh trách nhiệm.
Nhận lãnh trách nhiệm có nghĩa là ta không để cho nỗi sợ hoàn toàn sai xử hành
động và quan điểm của mình. Chỉ có chánh niệm về sự dính mắc và ghét bỏ của
chính ta, và ý muốn đối diện với những trạng thái này trong tâm, dù có đau đớn
đến đâu, mới có thể giải thoát ta ra khỏi vòng khổ đau này. Nếu ta không biết
duy trì sự tu tập hàng ngày, những ý tưởng dù tốt lành đến đâu cũng rất là mong
manh, chúng rồi sẽ bị lòng tư lợi đè bẹp mất.
Bất bạo động, Ahimsa, là một phẩm chất của linh hồn, và vì vậy
nó cần phải được thực hành bởi mọi người trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Nếu
nó không thể được thực thi trong tất cả mọi khoa, thì nó không có một giá trị
thực dụng nào.
Nếu bạn không thể thương yêu được vua George đệ ngủ, hoặc thủ
tướng Winston Churchill, thì bạn có thể bắt đầu nơi vọ, chồng, hoặc con của
mình. Hãy đặt hạnh phúc của họ trước hạnh phúc của bạn trong mỗi giây phút của
cuộc sống, và từ đó để cho vòng thương yêu ấy mở rộng ra. Khi bạn đã cố gắng hết
sức mình, sẽ không có chuyện thất bại.
Mahatma Gandhi
Mahatma Gandhi
Tôi có lần nghe các thiền sư dạy rằng, sự tu tập thiền quán
hàng ngày có thể chuyển được những nghiệp quả xấu của mình thành những nghiệp
quả tốt. Tôi luôn xem lời tuyên bố ấy như là một lời quảng cáo rất kỳ quặc. Và
phải mất nhiều năm trời, tôi mới thật sự hiểu được lời nói ấy. Chắc có lẽ nghiệp
của tôi là vậy!
Nghiệp quả, Karma có nghĩa là cái này xảy ra vì cái kia xảy
ra. B có một liên hệ nào đó đối với A. Bất cứ một hậu quả nào cũng có nguyên do
đi trước. Và mỗi nguyên do sẽ gây nên một hậu quả có một kích thước tương xứng
với nó, ít nhất là ở trình độ phi lượng tử (non-quantum). Nói chung khi ta nói
về nghiệp quả của một người nào đó, nó có nghĩa là tổng số của đường hướng sống
của họ, cùng với những yếu tố quan trọng xảy ra chung quanh, gây nên bởi những
điều kiện sẵn có như hành động, ý nghĩ, cảm xúc, cảm nhận và lòng ham muốn. Nhiều
khi người ta lại hay lầm lẫn nghiệp quả với ý niệm về số mạng. Nghiệp quả giống
như sự huân tập của một số xu hướng, chúng giam cầm ta trong một số thói quen
nhất định nào đó, và các thói quen này lại tiếp tay vào việc làm tăng gia sự
huân tập của những xu hướng ấy. Thế nên, rất dễ cho ta bị kềm hãm bởi nghiệp quả
của mình, và ta cho rằng nguyên nhân là do ở một cái gì đó bên ngoài như vì người
khác, hoặc vì hoàn cảnh ngoài tầm kiểm soát của ta. Ta không bao giờ chịu nhận
là do nơi mình. Nhưng chúng ta đâu cần phải làm tù nhân của những nghiệp quả
xưa! Vì nghiệp quả có thể thay đổi được. Ta lúc nào cũng có thể tạo nên những
nghiệp quả mới. Nhưng chỉ có một thời gian duy nhất để bạn có thể thực hiện được
việc đó mà thôi. Bạn có thể đoán được thời gian đó là khi nào không?
Chánh niệm có thể thay đổi được nghiệp quả. Khi ta ngồi yên,
ta không cho phép những ý nghĩ của mình biến đổi trở thành hành động. Trong
giây phút ấy, ta chỉ theo dõi chúng mà thôi. Nếu quan sát ta sẽ thấy rằng, những
ý nghĩ thúc đẩy trong tâm ta sinh ra rồi sẽ diệt đi, chúng có một sự sống
riêng, chúng không phải là ta mà chỉ là tư tưởng, và ta không phải chịu sự sai
xử của chúng. Khi ta không còn cung cấp và phản ứng theo những sự thúc đẩy ấy,
mình sẽ có cơ hội thấy được trực tiếp rằng tự tánh của chúng chỉ là tư tưởng.
Quá trình này sẽ thiêu hủy hết những ý nghĩ tiêu cực bằng ngọn lửa định lực, an
tĩnh và vô hành. Và cùng một lúc ấy, những tuệ giác và tư tưởng tích cực sẽ được
nuôi dưỡng và bảo vệ bằng chánh niệm. Chánh niệm vì thế có thể sắp xếp lại những
mắt xích trong sợi dây nhân quả, và từ đó có thể cởi trói ta, giải thoát ta, và
mở ra những đường hướng mới trong mỗi giây phút của cuộc sống. Thiếu chánh niệm,
chúng ta sẽ dễ dàng bị đà tiến của quá khứ xô đẩy vào hiện tại, không hề ý thức
được sự dính mắc của mình,và không có một lối thoát. Ta cho rằng những khổ đau
của mình đều do lỗi lầm của kẻ khác, hoặc của cuộc đời, và vì thế mà quan điểm
và cảm thọ của ta bao giờ cũng hợp lý. Và giây phút hiện tại không bao giờ có
thể là một sự bắt đầu mới, vì ta không cho phép!
Cuối cùng, chính sự thất niệm của ta đã giam cầm ta. Chúng ta
mỗi lúc càng cách xa những tiềm năng chân thật của mình, và mỗi lúc lại càng bồi
đắp thêm cho tập quán trọn đời là "vô minh" ấy, không nhìn thấy, chỉ
biết phản ứng và trách móc mà thôi.
Làm việc với những tội phạm trong các nhàn tù, tôi được dịp
chứng kiến những hậu quả của các nghiệp "xấu" rất rõ. Mặc dù trong
nhà tù cũng chẳng khác gì với bên ngoài bao nhiêu. Mỗi tù nhân đều có một câu
truyện, mà bao giờ cũng là cái này dẫn đến cái kia. Mà truyện thì bao giờ cũng
phải vậy! Cái này dẫn tới cái kia. Nhiều người vẫn không hiểu được việc gì đã xảy
đến với họ, họ đã lầm lỡ chỗ nào! Thường thường đó là một chuỗi biến có rất
dài, bắt đầu từ cha mẹ và gia đinh, rồi đến luật đường phố, nghèo khó và bạo động,
tin vào người mà ta không nên tin, muốn kiếm tiến mau, uống rượu, hút ma túy để
trốn tránh khổ đau, sự trống vắng... Chúng làm mờ mịt và sai lạc tư tưởng của họ,
cũng như cảm giác, hành động và giá trị, từ đó họ không còn nhận thức được những
ý nghĩ nào là khổ đau, tàn ác, tiêu cực và tự huỷ hoại mình.
Và rồi trong một giây phút, đã được dẫn tới bởi những giây
phút trước đó, họ đột nhiên "không còn biết gì hết", phạm vào một tội
lớn, để rồi kinh nghiệm biết bao là những hậu quả ảnh hưởng đến tương lai của
mình. Bất cứ việc làm nào của ta cũng mang đến hậu quả, cho dù ta có ý thức được
hay không, cho dù ta có bị bắt gặp hay không. Thật ra lúc nào ta cũng bị bắt. Bị
bắt bởi nghiệp quả của chính mình. Chúng ta tự xây dựng nhà tù cho mình mỗi
ngày. Ta có thể nói rằng, những người tôi gặp trong tù, họ đã tự chọn cho mình
con đường ấy. Và chúng ta cũng có thể nói rằng, họ đã không có một sự lựa chọn
nào khác hơn. Họ không hề ý thức rằng họ có được một sự chọn lựa. Những sự kiện
ấy trong đạo Phật gọi là thiếu chánh niệm, hay là vô minh. chính vì ta thiếu
chánh niệm nên không ý thức được rằng, những ý nghĩ của mình, nhất là khi chúng
bị nhuốm màu sắc tham lam và sân hận, dù cho chánh đáng đến đâu, cũng có thể
làm sai lệch tâm ta cũng như cuộc đời ta. Những trạng thái tâm thức ấy sẽ ảnh
hưởng đến tất cả mọi người, đôi khi to tát mạnh mẽ, nhưng thường khi rất tinh tế.
Chúng ta có thể đang bị giam cầm bởi một tâm thức bị những mây mù của ý kiến và
khái niệm che phủ, mà ta lại bám chặt vào chúng như là chân lý.
Muốn thay đổi nghiệp quả của mình, ta cần phải thôi để làm
cho những gì làm mờ mịt thân tâm, cũng như tô màu mọi hành động của mình, đừng
xảy ra nữa. Việc ấy không có nghĩa là ta phải làm những việc tốt. Nó có nghĩa
là ta biết được mình là ai và ta không phải là nghiệp quả của mình, dù đó có là
gì chăng nữa trong giây phút này. Nó cũng có nghĩa là ta ý thức được những gì
thật sự xảy ra. Có nghĩa là thấy rõ được thực tại.
Chúng ta nên bắt đầu nơi nào? Sao bạn không chọn nơi tâm
mình? Vì dù sao chính nơi đó là môi trường của mọi tư tưởng, cảm thọ, sự thúc đẩy
và tri giác của ta được chuyển sang hành động trong cuộc đời. Mỗi khi bạn ngưng
lại những hành động của mình và thực tập dừng lại, ngay trong giây phút này và ở
đây, với một ý định ngồi xuống, là ta đã bẻ gẫy được dòng luân lưu của nghiệp
quả cũ, và từ đó ta tạo nên một nghiệp quả mới lành mạnh hơn. Gốc rễ của sự
chuyển hóa nằm ngay nơi đó, một khúc quanh quan trọng trong cuộc đời.
Chính hành động dừng lại ấy, giây phút của sự vô hành, của một
sự quan sát thuần túy, giúp cho bước chân ta đứng thật vững vàng đối với tương
lai. Vì sao? Vì chỉ khi nào ta thật sự có mặt trọn vẹn trong hiện tai, thì
tương lai của ta mới có thể được trong sáng, rõ ràng và từ ái, và nó cũng bớt bị
chi phối bởi sự sợ hãi, đau đớn, cũng như có thêm nhân phẩm và sự chấp nhận. Chỉ
có những gì xảy ra trong bây giờ mới sẽ xảy ra sau này. Nếu bây giờ ta không có
chánh niệm, tĩnh lặng và từ ái, khi ta đang có cơ hội tốt để bồi dưỡng, thì làm
sao ta lại có thể có được chúng, khi ta bị căng thẳng hoặc gặp những khó
khăn?
Ý nghĩ rằng linh hồn ta sẽ hòa nhập với niềm hạnh phúc lớn chỉ
vì cơ thể ta tan rã là một ảo vọng. Những gì ta tìm thấy bây giờ, ta sẽ tìm thấy
trong lúc ấy. -- Kabir
14.- TẤT CẢ LÀ MỘT
Khi chúng ta tiếp xúc được với sự nguyên vẹn, ta sẽ cảm thấy
mình là một với tất cả. Khi ta cảm thấy mình là một với tất cả, ta sẽ cảm thấy
nguyên vẹn.
Khi ta ngồi hoặc nằm yên, bất cứ lúc nào ta cũng có thể tiếp
xúc và siêu vượt được thân thể này, hòa nhập với hơi thở và vũ trụ, kinh nghiệm
được mình trọn vẹn và có thể nhập vào một cái nguyện vẹn khác to lớn hơn. Nếm
được tính chất tuơng quan chặt chẻ của mọi vật với nhau, sẽ đem lại cho ta một
ý thức sâu xa về tính lệ thuộc, một cảm nhận ta là một phần rất thân thiết với
tất cả và thấy được nơi đâu ta đến cũng là nhà. Chúng ta có thể sẽ tìm thấy và
bỡ ngỡ trước thời gian vô tận ngàn đời vượt ra ngoài sanh tử, và cùng một lúc kinh
nghiệm được tính chất ngắn ngủi của cuộc đời, sự mong manh của tấm thân này,
giây phút này và của mỗi người chúng ta. Khi ta tiếp xúc được với sự nguyên vẹn
của mình trực tiếp qua thiền tập, ta có thể chấp nhận được thực tại chung
quanh, có được một sự hiểu biết và tình thương sâu sắc, và bớt đi những nỗi thống
khổ và lo âu hơn.
Sự nguyện vẹn là nguồn gốc của tất cả. Khi nhận thức được tự
tánh nguyên vẹn của mình rồi, ta sẽ thấy rằng mình không cần phải đi đâu hoặc
làm gì cả. Ta hoàn toàn có tự do để chọn con đường nào của mình. Sự tĩnh lặng
luôn luôn có mặt trong hành động cũng như sự vô hành của ta. Chúng ta thấy nó
lúc nào cũng nằm nơi đây, và mỗi khi ta tiếp xúc với nó, nếm được nó, lắng nghe
nó, thì thân ta cũng sẽ tiếp xúc, cùng nếm và lắng nghe với ta. Tâm ta cũng sẽ
lắng nghe và giây phút ấy ta biết được thế nào là an lạc. Trong sự cởi mở và tiếp
nhận ấy, ta tìm thấy được một sự quân bình và hòa hợp đang hiện diện ngay ở
đây, và thời gian vô tận đang hiển lộ trong giây phút hiện tại.
Siddhartha lắng nghe. Chàng bắt đầu chú tâm lắng nghe, miệt
mài trong thinh lặng, hoàn toàn hấp thụ, tiếp nhận tất cả. Chàng cảm thấy rằng,
mình bây giờ đã thật sự học được nghệ thuật lắng nghe. Những âm thanh này,
chàng đã nghe chúng nhiều lần trong quá khứ, những giọng nói khác nhau của dòng
sông, nhưng hôm nay chúng có vẻ khác biệt. Chàng không còn phân biệt đuợc những
giọng nói khác nhau nữa - tiếng vui ca với tiếng than thở, tiếng trẻ thơ với tiếng
trưởng thanh. Tất cả đều lệ thuộc vào nhau: tiếng than vãn của những ai sầu khổ,
tiếng cười vang của bậc minh triết, tiếng khóc la của kẻ phẫn uất, tiếng rên rĩ
của người đang hấp hối. Tất cả đều nương tựa vào nhau, quấn quýt, đan dệt vào
nhau trong ngàn đường lối. Và tấ cả những giọng nói, những mục đích, những lạc
thú, những cái tốt đẹp và xấu xa, tất cả những cái đó nhập lại thành thế giới
này. Chúng là dòng biến cố, là âm nhạc của sự sống. Khi Siddhartha miệt mài lắng
nghe dòng sông, theo bài ca của muôn ngàn tiếng hát, khi chàng không chỉ lắng
nghe theo tiếng khóc hay tiếng cười, khi chàng không chỉ lắng nghe một âm thanh
duy nhất nào, nhưng là lắng nghe hết tất cả, trọn vẹn, đồng nhất, khi ấy bài ca
của ngàn giọng hát chỉ gồm có mỗi một chữ mà thôi. -- Herman Hesse,
"Siddhartha".
Ðiều ta cần biết học lại, là quan sát và tự mình khám phá,
cái ý nghĩa của sự nguyên vẹn. --
David Bohm, "Wholeness and the Implicate Order".
David Bohm, "Wholeness and the Implicate Order".
Tôi rộng lớn. Tôi chứa đựng hết tất cả. -- Walt Whitman,
"Leaves of Grass".
15.- TỰ TÍNH CỦA MỖI VẬT
Sự nguyên vẹn không thể nào kinh nghiệm một cách chuyên chế
được, vì nó đa dạng vô cùng, nó phản chiếu và tàng chứa hết tất cả. Như chiếc
màn của trời Ðế Thích là một biểu tượng cho vũ trụ này. Chiếc màn ấy làm bằng
trân châu, mỗi hạt châu lại phản chiếu và tàng chứa hết tất cả những hạt châu
khác trong tấm màn. Có người muốn chúng ta phải tôn kính, thật đồng đều, trước
bàn thờ của sự duy nhất. Họ xử dụng ý niệm đồng nhất như một chiếc xe hủ lô cán
dẹp hết tất cả những sự khác nhau của mọi vật. Nhưng chính từ những tính chất đặc
biệt của cái này và cái kia, từ những thuộc tính cá biệt của chúng - trong đạo
Phật, ta gọi đó là tự tính của mỗi vật - mà tất cả là nền văn hóa, thơ phú, nghệ
thuật, khoa học và sự sống, sự nhiệm mầu cũng như sự phong phú, có thể hiện hữu.
Tất cả mọi khuôn mặt đều giống nhau, nhưng dù vậy ta vẫn có
thể nhận diện dễ dàng tính chất duy nhất, cá biệt của mỗi cá nhân. Và chúng ta
cũng rất quý trọng sự khác biệt này. Ðại dương là một cá thể nguyên vẹn, nhưng
nó có vô số những con sông nhỏ, mỗi mỗi đều khác nhau; nó có những dòng nước, độc
lập, luôn luôn thay đổi; đáy biển là một phong cảnh riêng biệt không nơi nào giống
nơi nào; và bờ biển cũng thế. Bầu khí quyển này là nguyên vẹn, nhưng nó có những
dòng lưu chuyển rất đặc biệt, mặc dù chúng ta chỉ cảm thấy chúng như là những
làn gió. Sự sống trên quả đất này là nguyên vẹn, nhưng nó được biểu hiện trong
những cơ thể giới hạn bởi thời gian và không gian, nhỏ vi tế hoặc hiển lộ, cây
cỏ hoặc cầm thú, đã tuyệt chủng hoặc vẫn còn sinh tồn. Vì vậy không có một nơi
nào là duy nhất. Sẽ không một đường lối nào là duy nhất, sự tu tập nào là duy
nhất, phương pháp học nào là duy nhất, cách thương yêu nào là duy nhất, đường lối
phát triển nào là duy nhất, cách sống nào là duy nhất, cách cảm nhận nào là duy
nhất, cũng như một cái biết nào là duy nhất. Chính sự cá biệt ấy, ta gọi là tự
tính của sự vật, mới là quan trọng.
Con chim bạc má,
Nhảy nhót lại kề bên tôi. -- Thoreau
Nhảy nhót lại kề bên tôi. -- Thoreau
Người đàn ông đang hái củ cải
chỉ đường
bằng một củ cải -- Issa
chỉ đường
bằng một củ cải -- Issa
Ao cổ
Cóc nhảy vào
Tỏm! -- Basho
Cóc nhảy vào
Tỏm! -- Basho
Nửa đêm. Không sóng,
không gió, chiếc thuyền không
chở đầy ánh trăng. -- Ðạo Nguyên
không gió, chiếc thuyền không
chở đầy ánh trăng. -- Ðạo Nguyên
Chắc bạn đã hiểu rồi chứ gì?
16.- CÁI GÌ ÐÂY?
Tinh thần quan sát là nền tảng của một lối sống chánh niệm.
Nhưng sự quan sát không chỉ là một phương cách để giải quyết vấn đề. Nó là một
phương tiện giúp ta tiếp xúc được với sự bí mật của sống và sự có mặt của ta ở
nơi này. Ta thật sự là ai? Ta đang đi về đâu? Nó có nghĩa lý gì? Thế nào là người...
đàn ông, đàn bà, trẻ thơ, cha mẹ, một người học trò, một công nhân, một ông chủ,
một tội nhân, một kẻ không nhà? Nghiệp quả của tôi là gì? Tôi đang ở đâu. Con
đường nào là của tôi? Công việc của tôi trên trái đất này là gì?
Quán sát không có nghĩa là ta đi tìm một câu trả lời, nhất là
những câu trả lời hời hợt có được từ một suy tư nghèo nàn. Nó có nghĩa là hỏi
mà không cần được giải đáp, chỉ cần suy nghẫm và cân nhắc, cưu mang sự thắc mắc
đó trong ta, để cho nó được thấn nhuần, sủi bọt, nấu chín và soi sáng bởi chánh
niệm, như mọiviệc khác.
Bạn không nhất thiết cần phải ngồi yên mới có thể quán sát được.
Sự quán sát và chánh niệm có thể xảy ra cùng một lúc trong cuộc sống thường
ngày của ta. Thật ra,sự quán sát và chánh niệm chỉ là một, chúng tùy theo góc cạnh
nhìn của ta. Bạn có thể suy ngẫm về những câu hỏi như là "Tôi là
ai?", "Cái này thật sự là gì đây?", "Tôi đang đi về
đâu?", hoặc là "Công việc nào là của tôi?" trong khi bạn đang sửa
xe, đi dạo, rửa chén, đi xin việc làm, ngồi xem những đứa con của mình đùa giởn
trong một buổi tối sáng trăng.
Trong cuộc sống ta sẽ phải đối diện với mọi thứ vấn đề: lớn
nhỏ, tròn méo... Chúng có từ những việc rất nhỏ nhen cho đến lớn lao, và vĩ đại
có thể đàn áp ta. Sự tu tập là làm sao ta có thể đối diện với chúng bằng sự
quan sát, trong chánh niệm. Nó có nghĩa là ta cần đặt những câu hỏi như:
"Ý nghĩ này, cảm thọ này, khó khăn này, thật sự là gì?", "Tôi sẽ
đối phó với nó ra sao?" hoặc là tôi có dám đối diện với nó không hay là chấp
nhận nó không?"
Bước đầu tiên là chấp nhận rằng ta có sự khó khăn, có nghĩa
là ta đang có một sự căng thẳng hoặc bất an nào đó. Có khi phải mất đến bốn
mươi năm, năm mươi năm ta mới có thể tạm công nhận được một vài vấn đề mà mình
đang cưu mang. Sự quán sát không có một thờigian nhất định. Nó cũng giống như một
cái nồi đang để trên ngăn giá. Nó sẵn sàng để xử dụng khi nào bạn cần mang nó
xuống, bỏ đồ vào và nấu lên.
Quán sát có nghĩa là ta đặt câu hỏi và lập đi lập lại nhiều lần.
Ta có can đảm để đối diện với vấn đề không, bất cứ đó là một việc gì, và đặt
câu hỏi nó thật sự là gì? Việc gì đang thật sự xảy ra? Nó đòi hỏi ta phải biết
nhìn cho thật sâu sắc và duy trì sự quán chiếu ấy trong một thời gian, với
chánh niệm. Nó sai lầm chỗ nào? Gốc rễ của vấn đề nằm ở đâu? Bằng chứng đâu?
Chúng liên hệ nhau ra sao? Thế nào là một giải pháp tốt đẹp? Ta hãy tiếp tục
quán sát, quán sát và quán sát.
Nhưng bạn nên nhớ quán sát không phải là suy nghĩ để tìm tòi
một sự giải đáp, mặc dù nó sẽ khơi lên rất nhiều ý nghĩ có thể giống như những
câu trả lời. Quán sát có nghĩa là ta biết lắng nghe những tư tưởng của mình, mà
câu hỏi ta đã khơi dậy. Việc ấy cũng giống như ta đang ngồi bên cạnh dòng suối
tư tưởng của mình, lắng nghe tiếng nước chảy qua những khe đá, lắng nghe, lắng
nghe và theo dõi, thỉnh thoảng có một vài chiếc lá hoặc cành khô nhỏ trôi
qua.
17.- LẬP NÊN MỘT CÁI NGÃ
Giá trị thật sự của một con người, được xác định bằng sự đo
lường và cảm nhận nơi người ấy, đã giải thoát ra khỏi được cái Tôi của mình bao
nhiêu? - Albert Einstein, "The World As I See It".
"Tôi" và "của Tôi" là những sản phẩm của
tư tưởng chúng ta. Larry Rosenberg, một người bạn của tôi tại thiền viện
Cambridge Insight Meditation Center, gọi đó lập Ngã. Ông ta nói rằng, chúng ta
có một khuynh hướng không thoát được cũng không thay đổi được, là từ bất cứ một
sự việc gì, một hoàn cảnh gì, ta cũng có thể lập nên từ đó một cái
"Tôi" và "của Tôi", và ta sinh hoạt trong cuộc đời với ý niệm
hạn hẹp ấy, phần lớn chỉ là mộng tưởng, và sự tự vệ. Không có một giây phút
trôi qua nào lại không có việc đó xảy ra. Nhưng vì quá thông thường, nó đã trở
thành một phần của cơ cấu cuộc đời, hoàn toàn không ai để ý đến, cũng như một
con cá không hề biết tới nước, mặc dù nó đang chìm đắm trong đó. Bạn cũng có thể
tự mình nhận xét được việc này, dù bạn đang ngồi thiền trong yên lặng hay là sống
trong cuộc đời chừng dăm ba phút. Bất cứ trong một giây phút nào, một kinh nghiệm
nào, tư tưởng của ta sẽ xây dựng từ đó thành một giây phút "của tôi",
kinh nghiệm "của tôi", con "của tôi", ước muốn "của
tôi", ý kiến "của tôi", đường lối "của tôi", thẩm quyền
"của tôi", tương lai "của tôi", kiến thức "của
tôi", thân "của tôi", tâm "của tôi", nhà "của
tôi", đất "của tôi", cảm thọ "của tôi", xe "của
tôi", hoặc vấn đề "của tôi".
Nếu bạn quan sát quá trình lập ngã ấy trong chánh niệm, bạn sẽ
thấy rằng cái mà ta gọi là Ngã, là Tôi, thật ra chỉ là một cấu tạo của tâm, và
nó không thường hằng. Nếu bạn nhìn cho sâu thử tìm kiếm một cái Tôi vững vàng,
không thể phân chia, một cái "Tôi" đứng sau những kinh nghiệm "của
Tôi", bạn sẽ khám phá ra rằng chúng chỉ là những tư tưởng. Bạn có thể cho
rằng ta là cái tên gọi của mình, nhưng việc ấy cũng không đúng. Tên của ta chỉ
là một nhãn hiệu. Và tuổi tác, ý kiến của ta, nam hay nữ... thì cũng chỉ có thế
thôi. Không có cái nào có thể làm nền tảng cho cái Tôi.
Khi bạn quán sát cho thật sâu sắc, dò theo những đường mối dẫn
và để thử xem ta là ai hoặc là gì, chắc chắn bạn sẽ khám phá ra rằng không có một
nơi nào thật sự là vững chắc. Giả sử bạn đặt câu hỏi: "Ai là người hỏi tôi
là ai?", cuối cùng câu hỏi ấy sẽ dẫn đến câu trả lời là : "Tôi không
biết". Cái Tôi ấy dường như là một cấu trúc được biết đến bằng những thuộc
tính của nó, mà không có một thuộc tính nào, dù riêng rẽ hoặc cùng chung lại với
nhau, lại có thể cấu tạo nên một con người. Hơn nữa, cái cấu trúc
"Tôi" ấy lại có một khuynh hướng tan rã và kết tụ lại hầu như trong mỗi
giây mỗi phút. Ngoài ra nó cũng còn có một khuynh hướng cảm thấy mình thua sút,
nhỏ bé, bất an và bất định, vì tự chính hiện hữu của nó đã quá mong manh. Việc ấy
tạo nên những khổ đau cho ta, vì thiếu chánh niệm ta không ý thức được rằng
mình đang bị dính mắc vào cái "Tôi" và "của Tôi" sâu đậm đến
chừng nào.
Và rồi lại có những vấn đề của các sư việc xảy ra chung quanh
ta nữa. Cái "Tôi" của ta sẽ cảm thấy sung sướng khi hoàn cảnh chung
quanh ủng hộ cho một niềm tin rằng nó là tốt, và cảm thấy chán nản khi bị chỉ
trích, gặp khó khăn, cản trở hoặc thất bại. Có lẽ đây cũng là một nguyên do
chánh cho những thương tích trong lòng tự trọng của nhiều người. Thật ra chúng
ta không quen với quá trình cấu tạo này của sự lập ngã. Vì thế ta rất dễ bị mất
quân bình và cảm thấy bị tổn thương, thua sút, khi nhu cầu được chấp thuận, được
cảm thấy quan trọng của ta, không được cung cấp hoặc ủng hộ đầy đủ. Và ta lại
đi tìm sự an ổn của nội tâm qua những phần thưởng ở bên ngoài, qua sự chiếm hữu
vật chất và nương tựa vào những người thương. Thế nhưng, dù bận rộn cố gắng để
thực hiện những việc ấy, ta vẫn không bao giờ cảm thấy được thật sự yên ổn
trong lòng. Ðạo Phật dạy rằng, thật ra không có một cái Tôi nào riêng rẽ và cô
lập hết, chỉ có một tiến trinh xây dựng cái Tôi đang tiếp diễn liên tục mà
thôi. Nếu ta ý thức được rằng, quá trình lập ngã ấy là một tập quán thâm căn cố
đế và ta tự cho mình một ngày nghỉ, thôi cố gắng trở thành một nhân vật nào đó,
chỉ cần giản dị kinh nghiệm, những gì đang thật sự xảy ra, thì có lẽ ta sẽ trở
nên hạnh phúc hơn và thảnh thơi hơn.
Trong thời đại mới này ở Tây phương, người ta thường hay nói
"Trước hết bạn phải là một người nào đó (somebody), rồi bạn mới có thể trở
thành không là ai hết (nobody) được", đó là một quan niệm theo tôi nghĩ là
hết sức sai lầm. Nó có hàm ý là ta cần phải có một cảm nhận vững vàng về một
cái ngã, rồi ta mới có thể khám phá được tính chất trống vắng của "vô
ngã". Nhưng vô ngã không hề có nghĩa là "không là ai hết". Nó chỉ
có nghĩa là mọi việc trên cuộc sống này đều có tương quan liên hệ mật thiết với
nhau và không có một cái "Tôi" nào riêng biệt và độc lập. Tôi chỉ có
thể là tôi trong sự tương quan với những sự việc và biến cố khác trong đời sống
- như cha mẹ, tuổi thơ, tư tưởng, cảm thọ, những sự kiện bên ngoài, thời
gian... Hơn thế nữa, ta bao giờ cũng là một nhân vật nào đó rồi, bất cứ là gì
đi nữa. Ta là người mà ta đang là. Những người ấy không phải là tên gọi của ta,
tuổi tác của ta, tuổi thơ của ta, niềm tin của ta, nỗi sợ của ta. Những sự kiện
ấy chỉ là một phần nhỏ, chứ không toàn vẹn.
Vì vậy, khi ta nói rằng mình không nên cố sức để trở thành một
nhân vật nào đó, mà chỉ cần kinh nghiệm trực tiếp những gì đang thật sự xảy ra,
có nghĩa là ta nên bắt đầu bây giờ và ở đây, với những gì mình đang có. Thiền tập
không có nghĩa là ta cố gắng để trở thành một nhân vật nào khác, và cũng không
phải là để biến ta trở nên một xác chết vô tri, không có khả năng sống trong cuộc
đời và đối phó với những khó khăn của cuộc sống. Thiền tập là để nhìn thấy được
thực tại như nó là, không bị bóp méo bởi ý niệm và tư tưởng của ta. Một phần của
quá trình đó là ta nhận thấy rằng, mọi vật đều có một sự liên hệ mật thiết với
nhau, và mặc dù cảm nhận về cái Tôi cũng không phải là thật, là bền vững và thường
hằng. Vì vậy, nếu ta thôi không cố gắng bắt mình trở thành những gi mình không
phải, vì một nỗi sợ thua sút nào đó, thì con người của ta sẽ được nhẹ nhàng
hơn, an lạc hơn và dễ thở hơn.
Phương cách xử sự của chúng ta sẽ ít có tính cách cá nhân
hơn. Khi có việc gì xảy ra, cố đừng nhìn nó dưới ánh mắt của một cái tôi, thử
xem sao. Có thể là nó chỉ xảy ra, thế thôi. Có thể nó không hề nhắm gì tới ta hết.
Hãy quan sát tâm ta trong những lúc ấy. Nó có dính mắc gì đến những cái
"Tôi" và "của Tôi" không? Hãy tự hỏi mình "Tôi là
ai?" hoặc "Cái Tôi cho là của mình đó, nó thật sự là gì?"
Chánh niệm có thể giúp ta quân bình được quá trình lập ngã và
làm giảm ảnh hưởng của nó. Bạn hãy nhớ rằng, cái Tôi cũng vô thường như mọi thứ
khác. Bất cứ một cái gì ta cố nắm bắt mà có dính líu đến cái tôi, sẽ vuột khỏi
bàn tay ta. Ta không thể nào bắt được vì nó luôn luôn thay đổi, tan hoại rồi
sinh hợp trở lại, nhưng lúc nào cũng khác đi một chút, tùy theo hoàn cảnh của
giây phút ấy. Nó cũng giống như trong thuyết hỗn loạn (Chaos theory), có diễn tả
một tình trạng mà trong đó có tàng chứa một trật tự, nhưng chính nó lại không
theo một trật tự nào. Và nó không bao giờ tái lập lần thứ hai. Bất cứ khi nào
ta nhìn, nó cũng sẽ có một chút khác biệt.
Tự tánh của cái Tôi là vô thường, luôn biến đổi và không bền
vững. Nhưng nhờ vậy, nó đem lại cho ta một niềm hy vọng. Nó có nghĩa là ta
không cần phải quan trọng hóa mình quá đáng, và biết rằng, những tiểu tiết
trong đời sống cá nhân của ta, không nhất thiết phải là trung tâm vận hành của
vũ trụ. Khi ta nhìn nhận và buông bỏ những ý tưởng chấp ngã ấy, là ta ban cho
vũ trụ này thêm một chút không gian để cho sự việc có thể xảy ra. Và cũng vì ta
thể nhập vào vũ trụ và tham dự vào sự biểu lộ của nó, nên những hành động tự kỷ,
tự hoại, bất an, lo lắng quá mức của ta, cũng có thể làm trì trệ sự biểu lộ ấy,
và khiến cho thế giới mộng tưởng của một cái Tôi có thể được nhìn thấy và cảm
nhận như là thật.
18.- GIẬN DỮ
Cái nhìn tuyệt vọng và sự im lặng van xin tôi đừng nổi giận,
hiện rõ trên gương mặt mười một tuổi của đứa con gái tôi, khi tôi bước xuống xe
tại nhà đứa bạn nó, một buổi sáng sớm chúa nhật. Lời van xin thầm lặng ấy thấm
sâu qua ý thức của tôi, nhưng không hoàn toàn chế ngự được sự bực dọc và tức giận,
mà nó nhận thấy đang bộc phát trong tôi. Ðứa con gái sợ tôi sẽ làm một trận và
làm xấu hổ trước mặt bạn bè nó. Trong lúc ấy, tôi cảm thấy có một sức đẩy quá mạnh
để có thể hoàn toàn dừng lại, mặc dù sau này tôi ước gì đã làm được việc đó.
Tôi ước gì mình đã để cho cái nhìn của đứa con gái trong giây phút ấy xúc chạm
và chuyển hướng cho tôi thấy được cái gì thật sự quan trọng - là cảm thấy rằng
nó có thể nương tựa vào tôi và tin ở tôi, thay vì phải lo sợ tôi sẽ phản bội hoặc
đe dọa mối giao du của nó. Nhưng lúc ấy tôi quá bực tức vì cảm thấy mình bị lợi
dụng bởi đứa bạn gái của nó, đã hẹn trước nhưng lại không sửa soạn có mặt đúng
giờ. Tôi không còn đếm xỉa gì đến hoàn cảnh khó xử của đứa con gái mình.
Tôi bị cuốn xoay trong cơn lốc của sự tức giận, cho rằng mình
đã bị khinh thường. Cái "Tôi" của tôi không thích bị bắt chờ đợi hoặc
bị lợi dụng. Tôi bảo nó là tôi sẽ không làm trận gì với ai cả, nhưng tôi muốn
nói chuyện cho ra lẽ ngay bây giờ, vì tôi cảm thấy mình đã bị lạm dụng. Ngay buổi
sáng sớm ấy, tôi bực tức hỏi má của đứa bạn con tôi về sự trễ nải, trong khi
cơn giận đang sôi sục. Thế nhưng, thì ra má của nó đã ngủ quên, và cơn giận của
tôi cũng tan biến thật mau chóng.
Và từ đó vấn đề cũng đã được giải tỏa theo. Nhưng trong ký ức
của tôi thì không, nó vẫn còn gìn giữ, và hy vọng rằng sẽ là mãi mãi, cái nhìn ấy
trên gương mặt của đứa con mình, mà tôi không thể đọc kịp để có thể có mặt trọn
vẹn trong giây phút ấy. Phải chi tôi có thể làm được việc đó thì có lẽ cơn giận
đã chấm dứt ngay khi ấy và ở đó rồi.
Chúng ta thường phải trả một giá rất đắt cho quan điểm nhỏ hẹp
của mình, cho rằng mình là "phải". Nỗi bực tức tạm thời của tôi thật
ra đâu có gì quan trọng so với lòng tín cẩn của con gái tôi. Nhưng trong giây
phút ấy sự kỳ vọng của nó cũng vẫn bị dẫm đạp lên như thường. Thiếu sự chăm sóc
và chánh niệm, những cảm thọ của một tâm ý nhỏ nhen sẽ hoàn toàn khống chế giây
phút hiện tại. Việc ấy xảy ra luôn luôn. Nỗi đau mà ta tạo nên cho chính chúng
ta. Mặc dù ta ít khi nào chịu chấp nhận, nhất là về mình, nhưng buồn thay, những
cơn giận nhỏ nhặt lại thường là những việc ta hay dễ duôi và bị lôi cuốn theo rất
dễ dàng.
19.- MỘT BÀI HỌC VỀ ÐỒ ĂN CỦA MÈO
Nhà tôi có nuôi những con mèo. Và tôi rất ghét nhìn thấy dĩa
đồ ăn của chúng nằm trong bồn rửa chén, chung với đám chén bát của chúng tôi.
Tôi không hiểu vì lý do gì chuyện ấy đối với tôi rất là quan trọng. Có lẽ vì
tôi không quen nuôi thú vật trong nhà từ nhỏ. Hoặc tôi nghĩ đó là một vấn đề vệ
sinh tối thiểu cần phải có. Khi nào tôi phải rửa dĩa đồ ăn của chúng thì bao giờ
tôi cũng rửa hết chén, dĩa, ly, tách của chúng tôi trong bồn, rồi sau đó mới tới
phiên chúng. Dù sau đi nữa, mỗi khi tôi bắt gặp dĩa đồ ăn của chúng trong bồn
là tôi rất bực mình, và tôi phản ứng ngay.
Trước hết là tôi nổi giận. Rồi sau đó cơn giận trở nên có
tính cách cá nhân hơn, tôi chỉa hướng nó về bất cứ ai mà tôi nghĩ là thủ phạm,
thường thường là vợ tôi. Tôi cảm thấy bị tổn thương vì nhà tôi không tôn trọng
ý muốn của tôi. Tôi bảo nhà tôi biết bao nhiêu lần và yêu cầu thật nhẹ nhàng,
nhưng chuyện ấy vẫn xảy ra. Vợ tôi nghĩ rằng hành động của tôi tức cười và hơi
quá lố, và khi nhà tôi xin thêm chút thì giờ để giải quyết, thì nàng cứ để cho
dĩa đồ ăn của mèo nằm ngâm trong bồn rửa chén.
Mỗi khi tôi bắt gặp đồ ăn của mèo trong bồn là cuộc tranh luận
leo thanh nhanh chóng thành một cuộc cãi vã dữ dội. Phần lớn vì tôi cảm thấy tức
giận và tổn thương, và trên hết cơn giận "của tôi" và cái đau "của
tôi" rất là chánh đáng, vì tôi biết rằng "tôi" đúng. Ðồ ăn của
mèo không thể nào để chung trong bồn rửa chén được! Mỗi khi việc ấy xảy ra, cái
Ngã ở trong tôi trở nên mạnh vô cùng.
Lúc sau này tôi để ý thấy ràng, vấn đề ấy không còn chi phối
tôi nhiều như xưa nữa. Mặc dù tôi không hề cố gắng thay đổi cách xử sự của mình
đối với việc ấy. Tôi vẫn có cùng một cảm nghĩ đó đối với đồ ăn của mèo, nhưng
tôi cũng đã nhìn sự việc dưới một ánh mắt khác, với một ý thức rộng lớn hơn và
một tinh thần cởi mở hơn. Bây giờ mỗi khi nó xảy ra, vẫn còn làm tôi bực mình,
nhưng tôi thấy có chánh niệm về phản ứng của mình trong giây phút ấy và theo
dõi nó. "Thì chỉ có vậy thôi", tôi tự nhắc nhở mình!
Tôi quan sát cơn giận mỗi khi nó bắt đầu khởi lên trong tôi.
Tôi thấy rằng thường thường nó bắt đầu bằng một cảm giác bất mãn nhẹ. Sau đó
tôi nhận thấy có một cảm tưởng bị phản bội khuấy động lên khá mạnh. Người trong
gia đình đã không tôn trọng lời yêu cầu của tôi, và tôi thấy cá nhân mình bị
xúc phạm. Dù sau đi nữa tình cảm của tôi phải được người trong gia đình để ý đến
chứ, phải không?
Tôi đã thử nghiệm với những phản ứng của mình lúc đứng bên chậu
rửa chén, bằng cách theo dõi chúng cẩn thận, mà không để bị sai xử. Tôi có thể
nói rằng, cảm giác bất mãn ban đầu không đến nỗi tệ lắm và nếu tôi ở với nó, thở
với nó, và cho phép mình thật sự cảm nhận, nó sẽ biến mất trong vòng đôi ba
phút. Tôi cũng ghi nhận rằng, chính cảm giác bị phản bội, và ước muốn của tôi bị
ngăn trở, những việc ấy đã làm tôi tức giận hơn là chuyện đồ ăn của mèo. Vì vậy,
tôi khám phá là thật ra không phải đồ ăn mèo là nguồn gốc của cơn giận. Vì tôi
cảm thấy mình không được người khác lắng nghe và tôn trọng. Buồn cười thay, nó
không có liên hệ gì đến đồ ăn của mèo như tôi nghĩ!
Và tôi nhớ rằng vợ con tôi nhìn vấn đề này dưới một ánh mắt rất
khác. Họ cho là tôi chỉ làm lớn chuyện chẳng ra gì. Họ sẽ có gắng tôn trọng ước
muốn của tôi khi nào họ cảm thấy nó hợp lý, còn những khi khác họ cứ việc làm
theo ý họ, có lẽ chẳng nghĩ gì đến tôi.
Và tôi cũng thôi xem đó là một việc có tính cách cá nhân. Khi
nào tôi thật sự không muốn thấy đồ ăn của mèo trong bồn, thì tôi xắn tay áo lên
và rửa hết chén bát ngay lúc ấy. Còn bằng không tôi cứ bỏ đó và đi nơi khác.
chúng tôi không còn phải cãi lẫy về vấn đế ấy nữa. Sự thật là nhiều khi tôi còn
mỉm cười mỗi khi bắt gặp chuyện ấy xảy ra. Dù sao đi nữa, nó cũng đã dạy tôi rất
nhiều.
Thực tập: Hãy quan sát phản ứng của bạn trong những trường
hợp làm bạn bực mình hoặc nổi cơn giận. Ghi nhận rằng, ngay cả khi ta nói về một
việc gì có thể làm mình nổi giận, là ta đã giao quyền hành của mình cho kẻ
khác. Những trường hợp đó là một cơ hội rất tốt để ta kinh nghiệm chánh niệm
như là một cái nồi, ta có thể bỏ mọi cảm tình của mình vào và có mặt với chúng,
để cho chúng được nấu từ từ, tự nhắc nhở là ta được chín hơn, dễ tiêu hóa hơn,
dễ hiểu hơn, ta chỉ cần giữ yên chúng trong chiếc nồi của chánh niệm.
Quan sát những trường hợp mà cảm thọ ta là sản phẩm của quan
điểm của mình về sự vật, và rất nhiều khi quan điểm ấy lại không được trọn vẹn.
Bạn có thể nào để cho một vấn đề được tự nhiên, không cần bắt buộc mình phải là
đúng hoặc sai? Bạn có kiên nhẫn và can đảm đủ để thử bỏ những cảm thọ mạnh hơn
rồi mạnh hơn nữa vào nồi, giữ chúng yên trong đó và nấu cho chin, thay vì phóng
chiếu chúng ra bên ngoài và bắt thế giới này phải giống như là mình muốn bây giờ?
Bạn có thấy rằng sự tu tập này có thể giúp bạn tự hiểu mình qua những lối khác
nhau, và giải thoát ta ra được khỏi những quan điểm nhỏ hẹp và cũ kỹ?
20.- LÀM CHA MẸ LÀ MỘT SỰ TU TẬP
A.- Tôi bắt đầu học thiền vào năm mình được hai mươi mấy tuổi.
Những ngày ấy tôi có nhiều thời giờ, tôi có thể tham dự đều đặn những khóa tu
thiền kéo dài mười ngày hoặc hai tuần. Trong những khóa tu này, mỗi ngày các
thiền sinh chỉ biết lo ngồi thiền và đi kinh hành trong chánh niệm, xen vào bằng
những buổi ăn chay, hoàn toàn trong thinh lặng. Chúng tôi được hướng dẫn bởi những
vị thiền sư nhiều kinh nghiệm, mỗi tối các ngài ban cho những bài pháp thoại,
giúp thiền sinh đào sâu và mở rộng thêm sự tu tập của mình. Và thỉnh thoảng các
vị ấy cũng gặp gở riêng mỗi người để xem sự tu tập của chúng tôi tiến triển ra
sao?
Tôi rất yêu thích những khóa tu này, vì nó giúp tôi gác lại hết
những việc khác trong đời sống, đi đến một nơi tươi mát và thanh tịnh ngoài miền
quê, được chăm sóc, và sống một cuộc đời vô cùng giản dị và trầm lặng. Nơi đây
chương trình chánh của tôi chỉ có tu tập, tu tập và tu tập.
Nhưng bạn đừng nghĩ rằng nó là dễ. Thường thì tôi phải chịu đựng
nhiều cơn đau ở thân vì phải ngồi yên trong nhiều giờ, và không có gì có thể so
sánh được với cái đau tinh thần mà đôi khi khởi lên những lúc tâm và thân mình
trở nên yên lặng và ít bận rộn.
Khi chúng tôi quyết định có con, tôi biết rằng tôi phải gác
chuyện đi tu tập lại, ít nhất là trong một thời gian. Tôi tự dặn lòng, lúc nào
tôi cũng có thể trở lại khung cảnh thanh tịnh tu học ấy, khi con tôi trưởng
thành đủ để không cần đến mình nữa. Hình ảnh một ông già trở về đời sống tu viện
bao giờ cũng mang một nét rất thơ mộng. Viễn tượng là mình sẽ từ giả những khóa
tu, hay ít nhất cũng sẽ phải bớt lại nhiều, không làm tôi phiền muộn gì, mặc dù
tôi rất yêu quý chúng. Tôi quyết định rằng mình có thể xem việc có con như là một
khóa tu thiền vậy, mà thật ra thì nó có đủ hết những yếu tố của một khóa tu, trừ
ra sự thinh lặng và giản dị.
Ðối với tôi thì như thế này: Ta có thể xem mỗi đứa bé như là
một em bé Phật hay một vị thiền sư, một vị thầy chánh niệm dạy riêng cho mình.
Vị thầy ấy xuất hiện vào cuộc đời ta, mà sự hiện diện và hành động của ngài bảo
đảm sẽ thử thách cũng như thử thách hết mọi niềm tin và giới hạn của ta, mang lại
những cơ hội giúp ta thấy được những vướng mắc của mình để buông bỏ. Mỗi đứa bé
sẽ ban cho ta một khóa tu kéo dài ít nhất là mười tám năm, mà không thể nào bỏ
về ngang được. Chương trình của khóa tu thì rất là nghiêm khắc và luôn luôn đòi
hỏi ở ta một thái độ hy sinh và từ ái. Cuộc đời của tôi trước khi có con chỉ cần
lo cho những nhu cầu và ước muốn cá nhân, hoàn toàn bình thường đối với một
thanh niên. Trở thành bậc cha mẹ rõ ràng là một thay đổi lớn lao nhất trong cuộc
đời tôi cho đến ngày hôm nay. Làm tròn bổn phận cha mẹ của mình đòi hỏi một cái
thấy sáng suốt nhất, biết để cho những sự việc như - là, cũng như một sự buông
bỏ lớn lao nhất mà tôi chưa bao giờ bị thử thách.
Ví dụ, những đứa bé lúc nào cũng cần và đòi hỏi sự chăm sóc của
ta. Những nhu cầu của chúng phải được thỏa mãn đúng theo chương trình của
chúng, không phải của ta, và mỗi ngày, chứ không phải chỉ khi nào ta cảm thấy
thích. Quan trọng hơn hết, những đứa bé và trẻ thơ rất cần sự có mặt trọn vẹn của
ta để có thể phát triển và lớn lên mạnh mẽ. Chúng cần sự bồng ẵm càng nhiều
càng tốt, ru hát, đùa giởn, vỗ về của ta, đôi khi trong những đêm khuya khoắt
hay sáng sớm, khi ta cảm thấy mệt nhoài, kiệt sức chỉ muốn ngả lưng xuống giường,
hoặc khi ta có những bổn phận, công việc gấp rút và quan trọng khác cần đến sự
chú ý của mình. Những nhu cầu sâu xa và luôn thay đổi của đứa bé là những cơ hội
tuyệt vời để cho bậc cha mẹ tập có mặt trọn vẹn trong chánh niệm, thay vì hoạt
động như một người máy. Chúng ta phải biết cảm nhận được sự sống của mỗi đứa
bé, và để cho sự linh hoạt, sống động và ngây thơ của chúng khơi dậy những điều
ấy ở nơi ta. Tôi cảm thấy rằng, làm cha mẹ là một cơ hội tuyệt vời để tu tập
chánh niệm thâm sâu, nếu tôi có thể cho phép gia đình và con cái tôi trở thành
những vị thầy của mình, cũng như biết học hỏi và lắng nghe cẩn thận những bài học
của cuộc sống, mà chúng sẽ đến rất nhanh và rất mãnh liệt.
Cũng như những khóa tu nhiều ngày, ta sẽ có những thời gian thoải
mái và những thời gian khó khăn, những giây phút kỳ diệu và những giây phút đau
đớn. Cuối cùng, cái nguyên lý đem đời sống làm cha mẹ như một khóa tu, và tôn
trọng những đứa bé và hoàn cảnh gia đình như là vị thầy của mình đã tự chứng
minh được giá trị cũng như địa vị của nó, hết lần này đến lần khác. Làm cha mẹ
là một công việc rất cực nhọc. Ngày xưa, đó là một công việc đủ cho mười người
làm, mà thường thì chỉ có hai người, hoặc nhiều khi chỉ có một để cáng đáng mà
thôi, và không có sách vở nào kèm theo với đứa bé để hướng dẫn ta cách săn sóc.
Ðây là một công việc khó nhất trên trái đất này, để ta có thể làm cho đúng, cho
hay. Mà phần nhiều ta cũng không biết mình có làm đúng không, hoặc làm đúng,
làm hay có nghĩa là thế nào! Và chúng ta cũng không có một ai được chuẩn bị trước
hoặc huấn luyện để làm cha mẹ hết, chỉ có sự tự học trong khi thực hành, khi phải
đối diện với chuyện này chuyện kia xảy ra.
Ban đầu chúng ta cũng còn có được một vài cơ hội quý báu để tạm
nghỉ ngơi trong chốc lát. Nhưng rồi công việc sẽ đòi hỏi sự đối phó thường
xuyên của ta. Những đứa bé lúc nào cũng thử thách mức giới hạn của ta, để học hỏi,
tìm hiểu thế giới chung quanh cũng như về chính nó. Và còn thêm nữa, khi những
đứa bé phát triển và tăng trưởng, chúng sẽ thay đổi. Khi ta vừa tìm ra phương
cách tốt đẹp để đối phó với một hoàn cảnh nào đó, thì chúng cũng đã thay đổi,
chuyển sang một trường hợp mới mà ta chưa từng gặp bao giờ. Vì vậy lúc nào ta
cũng phải giữ chánh niệm và có mặt để tránh khỏi bám víu vào một quan điểm đã không
còn thích hợp nữa. Và dĩ nhiên, không có một quy tắc hay công thức đơn giản nào
là duy nhất để xử sự cho "đúng" trong thế giới làm cha mẹ. Nó có
nghĩa là lúc nào ta cũng phải đối diện với những hoàn cảnh thử thách và hoàn
toàn mới lạ, và cùng một lúc, ta cũng sẽ đối diện với những việc làm lập đi lập
lại hết lần này sang lần khác.
Công việc làm cha mẹ sẽ còn nhiều thử thách hơn nữa, khi những
đứa bé trưởng thành và phát triển ý kiến cũng như ý muốn riêng của chúng. Chăm
sóc cho những nhu cầu của đứa bé là một chuyện rất là đơn giản, nhất là khi
chúng chưa biết nói và thật dễ thương đáng yêu. Còn đối phó với những đứa lớn
hơn một chút, không còn mấy dễ thương và đáng yêu, là một chuyện khác hẵn.
Trong trường hợp này ta phải biết nhìn cho rõ và đáp ứng bằng một sự thông
minh, vì dù sau đi nữa ta cũng là người lớn, và lúc nào cũng sẽ có một sự va chạm
giữa hai ý muốn, chúng có thể tranh luận loanh quanh, chọc ghẹo nhau, đánh lộn,
chống đối, cãi lời, đối phó với những hoàn cảnh cần sự hướng dẫn của ta, mặc dù
có thể chúng sẽ không thèm nghe theo. Nói tóm lại, nó cần một sự đối phó thường
xuyên mà ta sẽ không còn thì giờ cho chính mình nữa. Những trường hợp ta cảm thấy
sự điềm tĩnh cũng như sự sáng suốt của mình bị "đảo lộn" thì nhiều vô
số. Không có một lối thoát nào, một chỗ trốn nào, một sự che dấu nào có thể
giúp ích cho mình hoặc cho chúng được. Những đứa con sẽ nhìn thấy hết tất cả những
gì là của ta, từ sát bên trong và rất cận kề, như là những nhược điểm, cách cư
xử, lỗi lầm, mâu thuẫn và những thất bại của ta.
Nhưng những khó khăn ấy không phải là chướng ngại cho việc
làm cha mẹ hoặc sự tu tập chánh niệm của ta. Chúng chính là sự tu tập chánh niệm,
nếu ý thức được điều đó. Bằng không, đời sống làm cha mẹ có thể trở nên một
gánh nặng mệt mỏi, và vì thiếu sức mạnh và mục tiêu rõ rệt, ta có thể không thấy
được và tôn trọng những cái hay đẹp trong con cái mình cũng như là trong ta. Những
đứa trẻ có thể dễ bị thương tích và mất đi tuổi thơ, nếu nhu cầu và tâm hồn
đáng yêu của chúng bị chối bỏ liên tục và không được biết đến. Những thương
tích ấy sẽ tạo thêm vấn đề cho chúng và cho cả gia đình, như là sự thiếu tự
tin, thiếu tự trọng, không có khả năng truyền thông và tranh đua. Những khó
khăn ấy sẽ không biến mất khi chúng lớn lên mà nhiều khi lại còn gia tăng thêm.
Và là bậc cha mẹ, chúng ta lại không biết cởi mở để thấy những dấu hiệu của sự
thương tích ấy, và vì vậy ta không thể nào chữa lành những vết thương xuất phát
từ hành động thiếu ý thức của ta. Cũng có khi nó rất là tinh tế, ta có thể dễ
dàng trốn tránh và đổ thừa cho một nguyên do khác, rồi từ đó không chịu nhận
lãnh những trách nhiệm thật sự là của mình.
Rõ ràng là khi bấy nhiêu năng lượng của ta tuôn ra bên ngoài,
chắc chắn phải có một nguồn năng lượng nào đó thỉnh thoảng đổ vào bên trong,
thì mới có thể nuôi dưỡng và làm hồi sinh lại những bậc cha mẹ. Nếu không thì
quá trình ấy sẽ không thể nào duy trì lâu dài được. Nhưng nguồn năng lượng ấy
phát xuất từ đâu? Tôi nghĩ nó đến từ hai nơi: nhờ sự giúp đở ở bên ngoài từ người
thân, bạn bè, nhà giữ trẻ và thỉnh thoảng từ những việc làm mà mình ưa thích;
và nguồn năng lượng từ bên trong mà ta có thể có được nhờ thực hành thiền tập,
nếu ta có thể bỏ ra chút thì giờ trong cuộc sống để giữ thanh tĩnh, để có mặt,
để ngồi lại, hoặc tập Yoga, để tự nuôi dưỡng mình.
Tôi ngồi thiền vào mỗi sáng sớm, vì đây là thời gian tất cả
nhà đều yên tĩnh và tôi không bị ai quấy rầy, và cũng vì nếu tôi không ngồi thiền
lúc ấy, thì có thể tôi vì quá bận rộn hoặc mệt mỏi mà sẽ không muốn ngồi nữa.
Tôi cũng còn khám phá ra rằng, ngồi thiền vào buổi sáng sớm sẽ quyết định cho
phẩm chất của trọn ngày. Nó sẽ là một sự nhắc nhở cũng như một sự xác nhận cho
những gì thật sự quan trọng trong đời sống, và nó sắp đặt cho chánh niệm có thể
lan rộng sang những lãnh vực khác trong ngày.
Nhưng khi chúng ta có con nhỏ trong nhà thì buổi sáng sớm
cũng chỉ như mọi thời gian khác mà thôi. Ta không thể cố chấp vào bất cứ một
chuyện gì, vì việc nào ta muốn làm dù đã sắp đặt chu đáo đến mấy, cũng sẽ bị
gián đoạn và đôi khi còn phải hoàn toàn bị bỏ dỡ. Những đứa con nhỏ của tôi ngủ
rất ít. Dường như lúc nào nó cũng thức rất khuya và lại dậy thật sớm, nhất là nếu
hôm ấy tôi quyết định sẽ ngồi thiền. Hình như chúng rình xem nếu tôi dậy thì
chúng cũng sẽ thức dậy theo. Có ngày tôi phải thức dậy vào bốn giờ sáng mới có
thể yên ổn ngồi thiền hoặc tập Yoga. Có những hôm tôi quá mệt mỏi, bỏ hết và thấy
rằng chỉ có giấc ngủ mới quan trọng hơn cả. Và cũng có khi tôi ngồi thiền với đứa
con trong lòng mình, và để cho chúng quyết định tôi sẽ ngồi được bao lâu. Chúng
nó rất thích được quấn mình trong chiếc mền ngồi thiền, chỉ có cái đầu nhỏ lú
ra, nhiều khi chúng ngồi yên rất lâu, trong khi tôi theo dõi hơi thở vào ra
không phải của riêng tôi mà là của cả hai đứa.
Ngày ấy tôi tin rằng, và bây giờ cũng thế, sự chánh niệm về
thân và hơi thở của tôi, và sự xúc chạm trong khi ôm đứa con trong lòng, giúp
nó cảm nhận được sự an ổn, cũng như khám phá được sự tĩnh lặng và một cảm giác
được chấp nhận. Và sự thanh thản của chúng, chắc chắn là trong sạch và chân thật
hơn tôi nhiều, vì tâm chúng chưa bị bận rộn bởi những ý nghĩ, lo lắng của người
lớn, giúp tôi trở nên an ổn hơn, thanh thản hơn và có mặt hơn. Khi chúng lớn
hơn một chút, tôi có thể tập Yoga trong khi chúng cởi trên lưng, leo lên vai hoặc
đu đưa trên tay tôi. Có khi đùa giởn trên sàn nhà, chúng tôi tình cờ khám phá
ra thêm những tư thế Yoga mới cho cả hai cùng tập. Sự đùa giởn thực tập không
ngôn từ và trong chánh niệm này là một nguồn vui và hạnh phúc lớn cho tôi, một
người cha, và là một mối liên hệ sâu sắc mà chúng tôi cùng chia xẻ.
Khi những đứa con của mình càng lớn bao nhiêu, chúng ta lại
càng quên đi rằng chúng là những vị thiền sư bấy nhiêu. Sự thực tập giữ chánh
niệm, không phản ứng, và thấy rõ phản ứng của mình, sẽ càng lúc càng trở nên
khó khăn hơn, khi ta dần dà mất đi tiếng nói của mình trong cuộc đời của chúng.
Những thói quen, tập quán xa xưa lại bừng sống dậy thật mạnh mẽ, trước khi tôi
kịp có ý thức về chúng. Kiểu mẫu về một người đàn ông trong gia đình,về thẩm
quyền, làm sao thể hiện được quyền hành của mình, hạnh phúc của tôi trong gia
đình ra sao, những mối tương quan giữa mọi người của mọi lứa tuổi và nhu cầu của
họ... Mỗi ngày là một sự thử thách mới. Có lúc tôi cảm thấy mình bị tràn ngập,
nhưng cũng có lúc rất là cô đơn. Chúng ta cảm thấy có một hố sâu càng lúc càng
mở rộng. Dù biết rằng sự cách biệt ấy là cần thiết cho sự trưởng thành và khám
phá của đứa bé, dù biết rằng sự kiện ấy là lành mạnh, nhưng ta vẫn cảm thấy đau
đớn. Ðôi khi tôi quên rằng mình là người lớn và hành động như một đứa con nít.
Mấy đứa con của tôi đã nhắc nhở và đánh thức tôi dậy rất nhanh, những khi chánh
niệm của mình bị lơ là.
Làm cha mẹ và đời sống gia đình là một môi trường tuyệt vời
cho sự thực tập chánh niệm. Nhưng nó không phải dành cho những người yếu đuối,
ích kỷ, lười biếng hoặc mơ mộng không thực tế. Làm cha mẹ là một tấm gương bắt
ta phải tự soi lấy chính mình. Nếu bạn có thể học được từ những gì mình thấy, bạn
sẽ có một cơ hội rất tốt để tiến triển.
Một khi ta đã hiểu và chấp nhận rằng dù giữa hai người gần
gũi nhau nhất cũng đang có mặt những khoảng cách vô tận, chúng ta sẽ có thể có
một cuộc sống kỳ diệu bên nhau, nếu ta biết yêu quý cái khoảng cách giữa hai
người ấy, vì nó giúp mỗi người có thể nhìn thấy được người kia một cách toàn vẹn
trên nền trời. -- Rainer Maria Rilke, Letters
Muốn đạt được một sự trọn vẹn đòi hỏi ta phải bỏ ra cả con
người của mình. Không có thể ít hơn thế được, không có một điều kiện nào dễ
hơn, không có một sự thay thế nào, cũng không có thể mặc cả được C. G.
Jung
Thực tập: Nếu bạn là bậc cha mẹ, hoặc ông bà, hãy thử tập
xem con cháu mình như là những vị thầy. Ðôi khi nên quan sát chúng trong thinh
lặng. Lắng nghe chúng cẩn thận hơn. Ðọc những tác động của chúng.Ðánh giá tính
tự trọng của chúng bằng cách theo dõi thái độ của chúng, chúng vẽ những hình ảnh
gì, nhìn thấy gì, xử sự như thế nào. Nhu cầu của chúng trong giây phút này là
những gì? Trong thời gian này trong ngày là gì? Ở giai đoạn này của cuộc đời
chúng là những gì? Hãy tự hỏi: "Ta có thể giúp ích gì cho chúng được?".
Rồi theo sự hướng dẫn của con tim mình. Và bạn nên nhớ rằng, lời khuyên răn của
bạn là điều cuối cùng mà chúng muốn nghe, trừ khi đúng lúc, đúng thời và nếu bạn
khéo léo. Bạn hãy lúc nào cũng có mặt trọn vẹn, cởi mở và có mặt, những điều đó
là món quà rất lớn cho chúng. Và ôm chúng trong chánh niệm cũng rất là bổ
ích.
B.- Lẽ dĩ nhiên, ta cũng là một vị thầy rất quan trọng
trong cuộc đời của những đứa con mình như chúng là thầy của ta vậy. Và ta nhận
lãnh trách nhiệm này bằng cách nào sẽ ảnh hưởng rất lớn cho cuộc đời của chúng,
cũng như là của chính ta. Tôi nghĩ rằng làm cha mẹ là làm một người giám hộ,
theo nghĩa rộng, nhưng chỉ tạm thời mà thôi. Khi ta xem con cái như là "của
mình", và hành xử chúng như là những sở hữu, để kiểm soát và uốn nắn theo
nhu cầu của ta, thì tôi tin rằng chúng ta đang có một vấn để rất lớn. Dù muốn
dù không thì những đứa trẻ bao giờ cũng vẫn chính là chúng, mặc dù chúng cần
tình thương và sự hướng dẫn của ta để có thể trở thành một con người toàn vẹn.
Một người giám hộ hoặc người hướng dẫn giỏi cần rất nhiều trí tuệ và kiên nhẫn
để có thể trao lại cho thế hệ kế tiếp những gì thật sự là quan trọng. Có một số
người - trong đó có tôi - cần phải có một chánh niệm liên tục và sự thương yêu,
để có thể bảo vệ và nuôi dưỡng những đứa bé trong khi chúng phát triển sức mạnh,
quan điểm và tài năng của chúng, trên một con đường mà sau này tự chúng có thể
khám phá thêm thâm sâu hơn.
Có những người rất ham thích phương pháp thiền tập, và họ rất
muốn dạy cho con mình cách ngồi thiền. Ðiều này cũng có thể là một lỗi lầm lớn.
Ðối với tôi thì phương pháp hay nhất để truyền trao tuệ giác, phương pháp thiền
tập, hay bất cứ cái gì cho con mình, nhất là khi chúng còn bé thơ, là tự mình
phải sống đúng như thế: tự thể hiện những gì mình muốn truyền trao và im miệng
lại. Vì khi ta càng nói về thiền tập bao nhiêu, càng ca tụng bao nhiêu, hoặc là
khăng khăng bắt chúng phải làm theo, là ta càng khiến cho chúng ghét bỏ nó bấy
nhiêu, có khi là trọn đời. Những đứa trẻ sẽ cảm nhận được sự vướng mắc của ta,
một thái độ ép buộc và muốn thực hiện những niềm tin của riêng ta, chứ không phải
là của chúng. Chúng biết con đường ấy là của ta chứ không dính dáng gì đến
chúng. Và khi lớn lên, chúng có thể sẽ nhận thấy nơi đó một sự giả tạo, một khoảng
cách rất xa giữa những gì ta nói và những gì ta làm.
Nếu bạn thật sự thực hành thiền tập, chúng sẽ ý thức và nhận
thấy điều ấy, và sẽ chấp nhận đó như là một phần của cuộc sống, như một sinh hoạt
thường ngày. Ðôi khi những đứa bé cũng sẽ tập tành và bắt chước những hành động
khác của cha mẹ mình. Ðiều quan trọng là sự ham muốn học hỏi và thực hành thiền
tập phải được bắt đầu phần lớn từ nơi chúng, và được thực hiện theo mức độ ưa
thích của chúng.
Một sự truyền dạy chân thật thường thường không cần đến ngôn
ngữ. Những đứa con tôi đôi khi tập Yoga chung, vì chúng thấy tôi tập đều đặn.
Nhưng nhiều khi chúng có những công chuyện khác quan trọng hơn và cũng chẳng
thèm ngó ngàng gì đến. Chuyện ngồi thiền cũng thế. Nhưng chúng biết về thiền tập.
Chúng có ý niệm thế nào là thiền tập. Chúng cũng biết tôi tôn trọng và chính
mình thực hành việc ấy. Và khi nào muốn, chúng cũng sẽ biết cách ngồi thiền vì
đã từng ngồi với tôi từ thuở còn bé.
Nếu thật sự tu tập, bạn sẽ khám phá ra rằng, đôi khi cũng có
những lúc thích hợp để ta khuyên dạy con mình về chuyện thiền tập. Những lời
khuyên ấy có thể có hiệu quả, cũng có thể là không, nhưng chúng sẽ gieo trồng
những hạt giống cho sự đâm hoa kết trái sau này. Một trong những trường hợp tốt
là khi con chúng ta đang gặp chuyện sợ hãi hoặc cảm thấy khó ngủ. Ðừng bao giờ
làm quá lố, nhưng bạn có thể dạy cho chúng quan sát hơi thở, chậm lại một chút,
tưởng tượng như đang thả trên một chiếc thuyền nhỏ trôi trên những ngọn sóng,
theo dõi nỗi sợ hoặc cái đau, dùng trí tưởng tượng để "đùa chơi" với
hoàn cảnh, rồi nhắc nhở chúng rằng đó chỉ là những hình ảnh trong đầu mà thôi,
cũng giống như một cuộn phim vậy. Và chúng có thể thay đổi truyện phim, ý nghĩ,
hình ảnh, màu sắc, và có thể sẽ cảm thấy vui vẻ trở lại nhanh chóng hơn và tự
tin hơn.
Ðôi khi phương pháp này có hiệu quả đối với những đứa trẻ
chưa đến tuổi đi học, đến lúc năm, sáu hoặc bảy tuổi, có thể chúng sẽ cảm thấy
mắc cở hoặc cho đó là vớ vẩn. Nhưng giai đoạn ấy cũng sẽ qua, và rồi có lúc
chúng sẽ cảm thấy thích hợp trở lại. Dù sau đi nữa thì những hạt giống cũng đã
được gieo trồng, dạy cho chúng biết rằng có những con đường nội tâm để đối phó
với sự sợ hãi và đau đớn, và thường khi chúng sẽ trở lại với sự hiểu biết này
sau khi đã lớn lên. Chúng học được từ một kinh nghiệm trực tiếp là mình không
phải chỉ là ý nghĩ và cảm thọ mà thôi. Và điều ấy sẽ giúp cho chúng có được
thêm nhiều sự chọn lựa, để tham dự và ảnh hưởng đến kết quả của những hoàn cảnh
khác nhau. Chúng hiểu rằng, vì tâm người khác náo động, nó không có nghĩa là
tâm của ta cũng sẽ phải giống như thế.
21.- MỘT VÀI CẠM BẪY TRÊN ÐƯỜNG
Nếu bạn đi theo con đường tu tập chánh niệm, trở ngại lớn lao
nhất trên đường hành trình ấy chắc chắn sẽ là cái tâm suy nghĩ của bạn.
Ví dụ, sẽ có những lúc bạn nghĩ rằng mình đã đạt đến một
trình độ nào đó, nhất là khi bạn có được những giây phút an lạc, có thể đã vượt
quá những kinh nghiệm thông thường. Bạn có thể mang trong đầu ý nghĩ, hoặc đôi
khi phát biểu rằng, mình đã đạt được cái gì rồi, rằng phương pháp thiền tập đã
có hiệu quả. Cái Tôi của ta bao giờ cũng cũng muốn xác nhận và tuyên dương những
cảm giác đặc biệt và sự hiểu biết mới ấy, bất cứ chúng là gì. Khi việc ấy xảy
ra,ta không còn thực hành thiền tập nữa, mà ta đang trưng bày, quảng cáo. Chúng
ta rất dễ bị dính mắc vào nơi đây lắm, xử dụng thiền tập để nuôi dưỡng cái tánh
tự kiêu của mình.
Một khi bị vướng mắc, ta sẽ không còn nhìn thấy sự vật được
rõ ràng. Dù là một tuệ giác trong sáng, một khi đã bị ảnh hưởng bởi thứ suy
nghĩ tự kỷ này, nó sẽ bị lu mờ thật mau chóng và mất đi tính chân thật. Thế cho
nên, ta lúc nào cũng phải tự nhắc nhở rằng, mọi thứ tô màu cho cái
"Tôi" và "của Tôi" chỉ là những dòng nước lũ của tư tưởng,
chúng có thể cuốn ta trôi xa con tim mình và sự tinh khiết của một kinh nghiệm
trực tiếp. Sự nhắc nhở này sẽ giữ cho chánh niệm luôn có mặt với ta, vào nhất
lúc ta cần đến nó và có thể đang sống trong quên lãng. Nó giữ cho ta nhìn thật
sâu, với một tinh thần quán xét và tò mò chân thật, lúc nào cũng tự hỏi:
"Ðây có nghĩa là gì?"
Và cũng có thể đôi khi ta nghĩ rằng, sự tu tập của mình chẳng
đi đến đâu. Không có việc gì ta mong muốn xảy ra, mà lại xảy ra. Nó có một cảm
giác vô vị và chán chường. Và ở đây cũng thế, vấn đề là ở sự suy nghĩ của ta.
Thật ra không có gì là sai với chuyện ta cảm thấy vô vị, chán chường hoặc chẳng
đi đâu hết. Cũng như không có gì sai với cảm nghỉ là ta đã đạt được một cái gì,
mà thật ra có thể là sự tu tập của ta đã có những dấu hiệu vững vàng và thâm
sâu hơn. Cạm bẫy là ở chỗ khi ta đem thổi phồng những kinh nghiệm và ý nghỉ ấy
lên, và bắt đầu tin chúng là đặc biệt. Chỉ khi nào ta bị vướng mắc vào kinh
nghiệm của mình thì sự tu tập của ta mới bị đứng dừng lại và sự sống của ta
cũng sẽ bị khô cứng theo.
Thực tập: Khi nào bạn nghĩ rằng mình đang tiến bộ hoặc
mình chẳng đi đến đâu, bạn có thể tự hỏi những điều này: "Tôi phải đạt được
đến đâu?", "Ai là người phải đạt được một điều gì?", "Tại
sao lại có những trạng thái tâm thức mà ta khó có thể chấp nhận và có mặt hơn
những trạng thái tâm thức khác?", "Tôi có thật sự thực tập chánh niệm
trong giây phút hiện tại không, hay chỉ là bị dính mắc trong hình thức tu tập,
rồi nhận lầm hình tướng với thực chất của nó?". "Tôi có xử dụng thiền
tập như một phương tiện không?"
Những câu hỏi này có thể giúp bạn cắt xuyên qua được những trạng
thái bị dính mắc ấy, những thói quen vô ích, và những cảm xúc mạnh khống chế sự
tu tập của ta. Chúng có thể đem ta trở lại với sự tươi mát và cái đẹp chân thật
của mỗi giây phút. Có lẽ bạn đã quên hoặc không hiểu được rằng, thiền tập là một
hoạt động của con người mà trong đó ta không cần phải đạt đến một nơi nào hết,
chỉ đơn giản cho phép ta được có mặt ở tại đây và như ta đang là. Ðây là một liều
thuốc đắng, nhất là khi bạn không hài lòng với những gì đang xảy ra hoặc nơi chốn
mình đang có mặt. Nhưng đôi khi ta cần phải uống toa thuốc đắng ấy.
22.- CHÁNH NIỆM CÓ PHẢI LÀ TÂM LINH KHÔNG
Nếu bạn tra chữ tâm linh (spirit) trong tự điển, bạn sẽ thấy
nó bắt nguồn từ tiếng Latin, Spirare, có nghĩa là thở. Hơi thở vào là sự khởi đầu
và hơi thở ra là sự chấm dứt. Từ đó chúng ta có vô số những hình ảnh liên kết
tâm linh với hơi thở, như là năng lượng chủ yếu, tâm thức, linh hồn, ơn phước bề
trên, một cái gì thần thánh, thiêng liêng và không thể diễn tả được. Nhưng
chúng ta đã nhận thấy, sự quý giá và to tát của món quà ấy có thể sẽ không bao
giờ được biết tới, nếu sự chú tâm của ta bị lôi kéo đến một nơi chốn nào khác.
Tác dụng của chánh niệm là để đánh thức ta dậy với tính chất linh động của sự sống
trong mỗi phút giây mà ta đang có. Với chánh niệm, mọi việc khởi đầu. Thật ra
không có một việc nào lại không nằm trong lãnh vực của tâm linh.
Tôi luôn tránh xử dụng danh từ tâm linh được chừng nào tốt chừng
ấy. Tôithấy nó không cần thiết và cũng chẳng thích hợp trong công việc của mình
ở nhà thương, đem sự thực tập chánh niệm vào môn y khoa và sự trị liệu, cũng
như trong những môi trường hoạt động khác của tôi, như là với các cộng đồng thiểu
số, ở nhà tù, trương học và với những tổ chức chuyên nghiệp, thể thao gia...
Tôi cũng không thấy danh từ tâm linh thích hợp gì lắm đối với dường lối tu tập,
phát triển và đào sâu của chính tôi.
Nhưng ta cũng không hề chối bỏ rằng, thiền tập có thể được
xem như là nền tảng của một phương pháp "tu tập tâm linh". Chỉ có điều
tôi không hài lòng với sự thiếu chính xác, không hoàn toàn, và nhiều khi là lối
giải nghĩa sai lầm của danh từ ấy. Thiền tập có thể là một con đường uyên thâm
để tự phát triển, để tinh luyện quan điểm, cũng như tri giác và tâm thức của
mình. Nhưng theo tôi thấy, danh từ tâm linh đã tạo nên nhiều vấn đề hơn là nó
có thể giải quyết.
Có người nói về thiền tập như một "kỷ luật của tâm thức".
Tôi thích lối diễn tả đó hơn là tu tập tâm linh, vì danh từ tâm linh có thể
khơi dậy những ý niệm khác nhau tùy theo mỗi người. Những ý niệm này dù muốn dù
không, cũng đã quấn bện vào trong niềm tin và những ước muốn nằm sâu trong tâm
thức của mình, ít khi nào ta chịu khảo sát chúng cho kỹ. Ta đã để cho chúng
ngăn cản không cho mình phát triển hoặc tin rằng rằng mình thật sự có khả năng ấy.
Thỉnh thoảng cũng có những người đến gặp tôi trong nhà
thương, họ nói rằng thời gian ở trong bệnh viện chuyên khoa về làm giảm sự căng
thẳng, là một kinh nghiệm tâm linh lớn nhất mà họ đã từng có. Tôi rất mừng khi
họ cảm thấy như vậy, vì nó xuất phát trực tiếp từ kinh nghiệm của chính họ về
thiền tập, chứ không phải từ một lý thuyết, niềm tin hoặc một hệ thống tư tưởng
nào. Tôi cho rằng mình hiểu người ấy muốn nói gì, nhưng tôi cũng biết rằng họ
đang cố gắng diễn tả bằng ngôn từ những kinh nghiệm nội tâm vượt ra ngoài mọi
nhãn hiệu. Và tôi cũng mong ước rằng bất cứ một kinh nghiệm hoặc tuệ giác nào,
nó sẽ tiếp tục sống, mọc rễ và tăng trưởng trong họ. Hy vọng họ ý thức được sự
tu tập không phải là để ta đi đâu hết, dù dó là những kinh nghiệm tâm linh an lạc
và thâm sâu chăng nữa. Hy vọng họ sẽ hiểu rằng chánh niệm vượt ra ngoài mọi ý
thức, mong ước và ghét bỏ, rằng bây giờ và ở đây là một sân khấu mà sự việc
đang khai triển không ngừng nghỉ.
Ý niệm về tâm linh có thể giới hạn tư tưởng của ta thay vì mở
rộng nó ra. Chuyện ấy rất thông thường, vì từ đó ta sẽ phân biệt cái này là tâm
linh còn cái kia thì không. Khoa họa có thuộc về tâm linh không? Làm cha mẹ có
là tâm linh không? Con chó có tâm linh không? Thân ta có tâm linh không? Tâm ta
có tâm linh không? Sanh con thì sao? Chuyện ăn uống có tâm linh không? Vẽ, chơi
nhạc, đi dạo, nhìn một đóa hoa thì sao? Thở có thuộc về tâm linh không, hay là
leo núi? Câu trả lời rõ ràng là nó hoàn toàn tùy thuộc vào phương cách tiếp xúc
của ta, có chánh niệm và ý thức hay không!
Chánh niệm cho phép mọi vật chiếu tỏa sáng như là danh từ
"tâm linh" đã gọi lên. Einstein có nói về một "cảm giác vũ trụ
tôn giáo" mà ông đã kinh nghiệm được, khi suy tư về sự kết cấu cơ bản của
thế giới vật lý. Nhà di truyền học nổi tiếng Barbara McClintock, công trình của
bà đã từng bị khinh thường và bỏ qua trong nhiều năm, cho đến khi bà được công
nhận bằng giải thưởng Nobel vào tuổi tám mươi,có nói về "một cảm giác đối
với các sinh vật" trong một cố gắng khám phá và tìm hiểu sự phức tạp của
tính di truyền trong cây bắp. Tôi nghĩ, cuối cùng thì tâm linh có nghĩa là kinh
nghiệm được trực tiếp sự toàn vẹn và sự liên hệ mật thiết của mọi vật, thấy được
cái một và tất cả thể nhập vào nhau, không có một cái nào là riêng rẽ và dư thừa.
Nếu bạn có thể thấy được điều ấy thì mọi việc đều là tâm linh theo nghĩa sâu xa
nhất. Phát triển khoa học cũng là tâm linh. Sự rửa chén cũng vậy. Chính kinh
nghiệm nội tâm mới đáng kể và bạn phải thật sự có mặt. Những cái khác chỉ là tư
tưởng mà thôi.
Nhưng cùng một lúc bạn cũng phải cẩn thận, coi chừng khuynh
hướng tự dối lừa, tự mê hoặc, tự kiêu của mình, và những sự thúc đẩy đi lợi dụng
và sự tàn nhẫn đối với kẻ khác. Thời đại nào cũng đã có quá nhiều khổ đau gây
nên bởi những kẻ bị dính mắc vào một quan điểm duy nhất về cái "chân
lý" tâm linh. Và còn bao nhiêu nữa được gây ra bởi những kẻ núp sau tấm áo
choàng tâm linh, sẵn sàng hại người khác cho tham vọng của mình.
Hơn thế nữa, ý hướng về tâm linh của ta thường bao giờ cũng
mang một màu sắc thiêng liêng hơn mọi điều khác. Những quan điểm nhỏ nhoi còn kẹt
trong chữ nghĩa này, lại hay đặt để tâm linh lên trên những tính chất "thô
lậu", "ô nhiễm", "mê lầm" của thân, tâm và vật chất. Bị
rơi vào quan điểm ấy, người ta có thể lợi dụng danh nghĩa của tâm linh để đi trốn
tránh cuộc đời.
Trong lãnh vực thần thoại, ý niệm về tâm linh có mang một đặc
tính hướng thượng và bốc lên, như James Hilmman và các nhà đề xướng môn
Archetypal Psychology có đề cập đến. Năng lượng của tâm linh thăng hoa, vượt
lên trên những tính chất trần tục của thế giới này, để tiến tới một thế giới vô
sắc, đầy ánh sáng và tỏa chiếu, một thế giới không có nhị nguyên, nơi đó mọi vật
thể nhập lại làm một, thành một vũ trụ đồng nhất. Nhưng vì sự đồng nhất không
phải là một kinh nghiệm thông thường của con người, nên câu chuyện không hề chấm
dứt ở đó. Thường thì đó gồm có chín phần là mơ tưởng và chỉ có một phần là kinh
nghiệm trực tiếp mà thôi. Hoài bảo của một sự đồng nhất về tâm linh, đạc biệt
là ở tuổi trẻ, thường bị thúc đẩy bởi sự ngây thơ và mơ mộng, một khao khát muốn
thoát khỏi mọi khổ đau và trách nhiệm của cuộc đời, mà trong đó có cả sự ẩm thấp
và tối tăm.
Ý tưởng về sự siêu việt (transcendence) có thể là một sự vượt
thoát rất lớn. Ðó là lý do trong nhà Phật, đặc biệt là Thiền tông, có nhấn mạnh
về sự trở về với đời sống thường ngày, hoàn tất một vòng tròn, hay còn được gọi
là "thỏng tay vào chợ". Nó có nghĩa là ta đứng vững vàng ở bất cứ một
nơi nào, trong một hoàn cảnh nào, không trên cũng chẳng dưới, chỉ đơn giản có mặt
nhưng thật trọn vẹn. Trong nhà thiền có câu "Phùng Phật sát Phật, phùng Tổ
sát Tổ", là nếu ta có gặp Phật hay Tổ trên đường thì cứ thẳng tay giết các
ngài. Nó có nghĩa là bất cứ một sự dính mắc nào trong khái niệm về Phật, về
giác ngôi cũng đều còn cách xa mục tiêu. Bạn còn nhớ bài tập về thiền núi
không? Hình ảnh ngọn núi mà ta xử dụng không phải chỉ là một đỉnh cao cách xa mọi
nền tảng của sự sống. Nhưng nó ăn sâu vào nền tảng, đâm rễ vào đất đá, một thái
độ sẵn sàng ngồi yên và chịu đựng mọi tình trạng thời tiết, sương mù, mưa gió,
nóng, lạnh, tuyết đá, hoặc nói theo từ ngữ của nội tâm là sự thất vọng, buồn
lo, giận dữ, bối rối và đau khổ.
Theo tôi nghĩ, đất đá là một biểu tượng cho linh hồn (soul)
hơn là cho tâm linh (spirit). Chiều hướng của nó là đi xuống, và hành trình của
linh hồn là một biểu tượng trở xuống, đi vào lòng đất. Nước cũng thế, là một biểu
tượng của linh hồn, thể hiện yếu tố hướng hạ như trong bài thiền tập về mặt hồ,
nước tích chứa ở những chỗ trũng thấp, có tính cách tiếp nhận, thường là lạnh lẽo
và ẩm thấp.
Cảm nhận của linh hồn được mọc rễ trong cái nhiều hơn là
trong cái một, nó phát xuất từ một tự thể phức tạp và mơ hồ. Nhưng câu truyện về
linh hồn là những câu truyện của một hoài bảo, của sự liều chết, của sự chịu đựng
tăm tối và đối diện với bóng đêm, của sự bị chôn vùi dưới lòng đất hoặc đáy nước,
của sự lạc lõng và đôi khi hoàn toàn bối rối, nhưng lúc nào cũng kiên trì và bền
gan. Và chính nhờ sự bền gan ấy, cuối cùng ta cũng tiếp xúc lại được với tự thể
châu báu của mình, ta bước ra từ bóng đêm và lòng đất tối tăm mà ta rất sợ hãi,
nhưng phải đối diện. Tự thể quý báu ấy của ta lúc nào cũng có mặt ở đây, nhưng
nó phải được khám phá lại một lần nữa, mới tinh, qua sự trầm mình trong bóng tối
và khổ đau. Thật ra nó bao giờ cũng là của ta, cho dù người khác hoặc chính ta
có nhận thấy được hay không.
Những câu truyện thần tiên trong mọi nền văn hóa phần nhiều
là truyện về linh hồn hơn là về tâm linh. Như người lùn trong câu truyện
"Dòng nước của sự sống" là một hình ảnh của linh hồn. Câu truyện Cô
Bé Lọ Lem cũng là truyện về linh hồn. Trong suốt câu truyện, có một sự chuyển
hóa diễn biến trong nội tâm của nhân vật chánh, một sự trưởng thành, một sự tôi
luyện và sau đó một con người mới toàn vẹn hơn xuất hiện. Ðó là một con người
đã được phát triển hoàn toàn, thể hiện được sự đồng nhất của linh hồn và tâm
linh, của thăng và trầm, sắc và vô sắc.
Thực hành thiền tập tự nó là một tấm gương phản chiếu hành
trình tiến hóa và phát triển này. Nó phải trải qua biết bao nhiêu những thăng
trầm. Không những bắt ta đối diện mà phải còn ôm chặt lấy nỗi đau và bóng tối,
cũng như hạnh phúc và ánh sáng. Nó nhắc nhở chúng ta nên sử dụng bất cứ những
gì xảy đến trong bất cứ một trường hợp nào, như là một cơ hội để quán chiếu, để
mở rộng, để phát triển trong sức mạnh và tuệ giác, và để đi theo con đường của
chính mình.
Ðối với tôi, những danh từ "linh hồn" và "tâm
linh" là những cố gắng để diễn tả kinh nghiệm làm người của mình, trong
khi ta cố tự tìm hiểu và đi tìm một chỗ đứng cho mình trong cái thế giới kỳ lạ
này. Không có một công trình tâm linh chân thật nào lại có thể thiếu phần linh
hồn, cũng như không một công trình linh hồn nào lại không có phần tâm linh. Những
con quỷ dữ, con rồng hung tợn, người lùn, bà phù thủy, hoàng tử và công chúa,
ông vua, bà hoàng... trong truyện thần tiên, tất cả những nhân vật ấy, đều đang
có mặt nơi đây, trong giờ phút này, để sẵn sàng chỉ dạy ta. Nhưng chúng ta phải
biết lắng nghe, và phải có thái độ của bậc anh hùng, dám mang một hoài bão lớn.
Nhưng thật ra, dù ta có ý thức được hay không, nó cũng đã thâm nhập sâu xa vào
trong cơ cấu của cuộc đời này, vì đó là sự sống của một con người toàn vẹn. Có
lẽ một việc làm tâm linh nhất mà mỗi người chúng ta có thể làm, là nhìn bằng
chính con mắt của mình, thấy được sự toàn vẹn và hành động với một nhân phẩm và
lòng từ ái.
Nguyên tác: Wherever You Go, There You Are
Tác giả: Jon Kabat-Zinn - Dịch giả: Nguyễn duy Nhiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét