Đêm dài một đời 1
Chương một
Tôi vừa hấp tấp chạy xuống đến lưng chừng cầu thang thì một
cái đầu nhỏ, cứng xông lên, lao vào bụng tôi. Cả hai cùng hét lên một tiếng.
Tuy suýt ngã bật ngửa về phía sau, tôi cũng cố quơ tay hy vọng túm được kẻ đối
diện. Nắm được cánh tay gầy gò, xương xẩu của bé Hùng. Nó đã ôm chặt cái tay vịn
cho khỏi lộn ngược xuống. Tôi kêu :
- Đi đâu mà vội thế? Sao không vỗ tay? Muốn ngã gẫy cổ hả?
Bé Hùng cãi :
- Anh có vỗ tay không chớ?
Tôi cười, nhớ lại sự hấp tấp của mình. Nắm cánh tay nó, tôi
kéo nó đứng thẳng dậy. Cũng may, tai nạn không xảy ra. Đã nhiều lần như thế rồi.
Lũ nhỏ nhanh tay lạ lùng. Chúng bám kịp một cách chắc chắn vào tay vịn dọc cầu
thang như bám vào cuộc sống. Hùng vừa bước tránh sang một bên để tiếp tục lên
thang, vừa hỏi :
- Thằng Vinh có trên lầu không anh?
- Chắc có. Hồi nãy tao nghe nó cười ở giường thằng Tấn.
Xuống hết cầu thang, tôi lần bước về phía "nhà
chơi". Trời đang nắng to. Hơi nắng đem theo mùi cỏ cháy làm khô mũi. Không
cần lên tiếng tôi cũng biết Hoan ngồi ở góc nhà chơi, gần phòng nhạc. Tiếng đàn
măng cầm của anh ta bao giờ cũng thế, chả trộn lẫn với ai được. Những nốt cao
anh thường gẩy thật nhẹ và luôn luôn kẹt ở nốt "Si". Tới nốt đó bỗng
dưng dòng nhạc như đứng sững lại, lúng túng và ngỡ ngàng. Tôi đến sát bên Hoan
:
- Bồ đậu rồi đó. Biết chưa?
- Biết rồi.
- Ai nói?
- Thầy Sáu.
Giọng Hoan thản nhiên, dửng dưng :
- Mấy đứa thi đỗ hết mà. Ối, coi như bỏ, ăn nhậu gì.
Hoan nắm tay tôi kéo xuống :
- Ngồi đây bồ.
Tôi ngồi cạnh Hoan, trên chiếc ghế xi-măng, tựa lưng vào tường.
Hoan ngồi một mình đang gẩy và lắng nghe âm thanh của một bản nhạc buồn. Hẳn
anh ta không vui. Tôi cũng ngồi im.
Câu chuyện thi đỗ của anh quả thực là buồn. Tin vui đó khi được
ông thầy học loan ra chỉ làm sung sướng mấy cậu bé. Các cậu vốn yêu đời và chưa
biết sợ ngày mai. "Các em đỗ hết rồi". Thầy Sáu đã nói câu đó với giọng
hân hoan và cảm động. Thầy đã tận tâm dạy chúng tôi, thầy có quyền sung sướng về
kết quả công việc của thầy. Nhất là ai cũng đồng ý nhiệm vụ của thầy thật khó
khăn. Nhưng lúc đó, một anh, tôi chịu không biết là ai, vì giọng nói lẫn trong
tiếng cười, hỏi thầy :
- Đỗ để làm gì thầy?
Thầy Sáu đâm lúng túng trong việc tìm câu trả lời. Mãi sau thầy
mới nói :
- Đi thi thì đỗ là mừng chớ.
Thằng Quỳnh nhỏ bỗng cười phá lên, châm chọc :
- Đậu thì được bằng cấp. Ít nữa, mình đeo cái bằng ở ngực để
đi bán bàn chải cho nó lẹ hơn.
Câu nói cố ý chế giễu nghề làm bàn chải, cái nghề độc nhất
nhà trường dạy để giúp chúng tôi kiếm sống. Thầy Sáu giận? Hay thầy buồn vì
chúng tôi? Không ai biết. Thầy im lặng và bỏ đi. Đợi cho tiếng chân thầy nhỏ,
xa dần, bọn "thi đậu" bắt đầu nhảy nhót, cười đùa. Tuy thích tỏ ra
cay đắng, chua chát, chúng tôi cũng không muốn bỏ lỡ một dịp nào có thể coi được
là vui.
Có tiếng Sinh, cậu bé nghịch ngợm và bướng bỉnh nổi tiếng
trong trường, hét to :
- Trời ơi! Anh Nô của tôi đâu rồi, đậu hạng nhứt lận! Văn
chương chữ nghĩa của anh hay quá mà! Giám khảo chấm gì nổi! Anh Nô cho tụi này
ăn mừng đi.
Nô cười sằng sặc có vẻ nghẹn thở. Chắc Sinh đã chồm lên bá cổ
anh ta. Nô kêu :
- Buông ra! Nghẹt thở mày, tao quật cho mày rơi xuống gẫy
xương sống bây giờ.
Niềm vui và tiếng cười lan ra. Bỗng chốc, hình như mọi người
lại quên được tất cả. Cũng như biết bao lần trong đời tôi đã quên được trong
giây phút, cái thế giới tăm tối mà chật hẹp, ít khi rộng quá tầm tay. Tôi bỏ
đám đông đi tìm Hoan.
Xưởng máy trước cửa trường vẫn phát ra tiếng máy điện chạy ầm
ầm. Ban ngày, lẫn trong tiếng động cơ xe cộ, cái âm thanh đều đều buồn nản đó
trở nên ào ào như tiếng gió lớn.
Hoan ngừng đàn, đặt một tay lên bàn tay tôi. Anh ta lần vuốt
từng ngón rồi bóp nhẹ ngón tay út. Tôi quàng tay qua vai anh và nói lên cái ý
nghĩ trong đầu cả hai đứa :
- Buồn ghê!
Hoan lại bóp nhẹ ngón tay tôi :
- Tôi còn bốn ngày, bồ còn bảy ngày nữa...
Hoan đã tốt nghiệp, đã ăn cơm của nhà trường đủ năm năm và kể
như đã học hết chữ của trường. Như thế, chỉ còn bốn ngày nữa là cuộc đời nội
trú của anh sẽ kết thúc. Năm năm ân huệ xã hội dành cho Hoan qua rồi. Tôi biết
Hoan không buồn vì chuyện học hỏi bị chấm dứt quá sớm. Hoan lo lắng cho cái
tương lai phải tự túc. Cũng như bao nhiêu người lớp trước, chúng tôi đến trường
khi còn dốt nát và ra trường với một vốn kiến thức, một trí khôn chẳng ai thèm
dùng. Và, tất cả thường dựa vào những điều đã học hỏi được để hiểu rõ về thân
phận của mình hơn. Mỗi lần lên lớp là một lần thấy nguồn sống của mình cứ ngắn
dần. Tương lai đó! Thật là "tương lai chan hòa trên mi mắt" như
Nô thường nói. Tốt nghiệp, nghĩa là không còn được ở trong trường nữa. Mình đã
ăn hết phần cơm năm năm của mình rồi còn đâu.
Ở khoảng hành lang giữa nhà chơi và phòng nhạc, mấy chú bé kiếm
đâu được cái ống bơ sữa bò, đang chia bên để đá bóng. Các chú còn đủ ngây thơ để
chưa biết nỗi khổ của mình. Tiếng chiếc ống bơ lăn trên nền xi-măng nghe thật
inh ỏi, khó chịu. Trái banh kỳ quặc này đi đến đâu cũng lên tiếng xác định chỗ
đứng của nó, không trốn chạy vào khoảng tối tăm mênh mông. Nếu tương lai của
chúng tôi cũng có thứ âm thanh dẫn dắt như thế!...
Bỗng Hoan hét lên :
- Thôi! Trưa rồi đó! Đừng làm ồn!
Lũ trẻ làm như không nghe thấy tiếng Hoan, vẫn tiếp tục trò
chơi ồn ào ấy. Sợ Hoan lấy mất "banh", chúng di chuyển dần về phía
phòng nhạc.
Chúng tôi im lặng. Hoan cầm đàn, co một chân đặt lên chân tôi
và vừa gẩy vừa áp tai vào sườn đàn để nghe. Tôi vuốt cho tóc Hoan bớt xù ra.
Anh gẩy từng tiếng một, nặng nề, chậm chạp. Bản nhạc buồn nghe quen, nhưng tôi
không nhớ là bản gì. Tôi đập chân khe khẽ làm nhịp và yên lặng cho tới khi nghe
tiếng chuông báo giờ ăn...
Buổi tối, câu chuyện "nghỉ hè" bỗng trở thành một đề
tài chính. Đến giờ ngủ, chúng tôi vẫn còn nói chuyện ồn ào. Các thầy đều tỏ ra
dễ dãi trong những ngày cuối. Giờ học chẳng đứa nào chịu thuộc bài và giờ ngủ tất
cả có thể thức để tán gẫu. Thỉnh thoảng, ông giám thị lên phòng ngủ kiểm soát.
Nhưng dù ông bước nhẹ đến thế nào chúng tôi vẫn nghe rõ tiếng chân ông lẹp xẹp
trên từng bậc thang.
Hôm qua anh Cung, cũng ổầ học hết năm năm và đang chờ giờ
phút từ giã nhà trường, bỗng nổi điên vừa hét vừa nhảy thình thình như muốn phá
sập cả ngôi trường. Thầy giám thị hấp tấp chạy lên, tất cả hoảng hồn. Cung trở
lại giường mình nằm tỉnh khô. Nhưng thầy chỉ mắng qua loa.
Cánh cửa chính của phòng ngủ vừa đóng lại, tôi rời khỏi giường
tiến đến giường Hoan :
- Ngủ rồi hả bồ?
Tiếng Hoan từ phía đầu giường sát bên cửa sổ :
- Chưa.
- Làm gì đó?
- Đang xếp lại hành lý để sửa soạn lên đường.
Hoan có một cái hộp gỗ nhỏ đựng quần áo và vài đồ dùng lặt vặt.
Những lúc buồn, không có việc làm, anh lại mở hộp ra, rờ rẫm, xếp lại từng thứ.
Vướng chân vào chiếc gậy của Hoan để ở bên giường, tôi dừng lại.
Một bàn tay ở giường bên phải nắm lấy vạt áo tôi, kéo xuống. Tôi đưa tay ra và
chạm vào khuôn mặt có nhiều nốt sần của Vĩnh.
- Ngồi đây.
Dòng nước mắt trên má Vĩnh làm ướt mấy đầu ngón tay tôi. Tôi
lướt ngón tay ngược lên gần đuôi mắt anh ta và kêu :
- Ê! Khóc hả?
Vĩnh ôm ngang lưng tôi khiến tôi ngả nghiêng trên ngực anh
ta. Vừa cười khanh khách, Vĩnh vừa nói :
- Khóc chứ. Khóc cho quên sự đời.
Trong bọn chúng tôi, Vĩnh mập mạp và vui tính nhất. Anh ta
thường hay gẩy đàn, đến độ xuống phòng ăn muộn và bị truất mất phần cơm. Vĩnh
có cái bụng phệ nên bị chúng tôi gán cho nhãn hiệu "thực dân". Nhưng
anh ta lại tin một cách nhiệt thành rằng đó chính là một quý tướng, có thể giúp
cho cuộc đời sau này của anh có đủ cơm ăn, áo mặc. Hồi mới vào trường, chưa
quen với cuộc sống kỷ luật, Vĩnh phạm lỗi luôn. Ban đêm, nhiều khi Vĩnh không
ngủ được, anh ta mò đến giường tôi, gãi chân hoặc dựng đầu tôi dậy. Nhiều lần
tôi nổi cáu, co giò đạp thẳng vào cái quý tướng của anh ta. Vĩnh chỉ cười,
không giận.
Vĩnh hỏi :
- Bồ có muốn nghe bức thư của mẹ tôi không? Tôi mới nhận được
sáng nay.
- Nhờ ai đọc chưa?
- Rồi. Mình nhờ chị bếp đọc để chép ra chữ nổi. Bây giờ tôi
thuộc lòng rồi. Đây cho bồ đọc.
Vĩnh xoay nghiêng người với lên đầu giường rồi đưa tôi một chiếc
phong bì đã xé, một tờ giấy mỏng và một tấm bìa dầy, thứ giấy đặc biệt của
chúng tôi. Tôi rờ qua bức thư thật rồi đặt xuống ngực Vĩnh. Co cả hai chân, ngồi
xếp chân bên cạnh Vĩnh, tôi lần ngón tay trên tấm giấy cứng, đọc thư của mẹ anh
ta.
"Vĩnh con,
Hồi này ở bên Lào lộn xộn lắm, đánh nhau luôn. Mẹ phải dẹp của
hàng để về ở với chị Tư rồi. Hàng hóa phần thì cháy phần thì hư hỏng hết cả. Mẹ
gần hết cả tiền vốn. Mùa hè này con ở bên đó tìm chỗ nào ở nhờ được ba tháng
thì là phần nhất, về Lào bây giờ đường đi khó khăn, lại phải ở nhờ nhà chị Tư.
Mẹ có gởi thêm cho con một chiếc nhẫn nữa. Tiền bán chiếc nhẫn trước đã tiêu hết
chưa? Con ăn tiêu hà tiện một chút, hồi này mẹ túng lắm. Chỗ nào cũng đánh
nhau, chả buôn bán gì được. Chị Tư gởi lời thăm con. Nếu con kiếm được chỗ ở
cho qua ba tháng hè thì nhờ người viết thư về báo cho mẹ biết, cho mẹ mừng...
"
Tôi ngừng đọc, hỏi Vĩnh :
- Thế năm nay bồ có về Lào không?
Vĩnh nhỏm dậy :
- Đọc xong rồi hả? Bồ thấy tội nghiệp mẹ tôi không? Tuy hết cả
tiền mà mẹ tôi vẫn gởi cho tôi cái nhẫn "phòng thân".
Vĩnh chỉ còn mẹ, sinh sống ở bên Lào. Anh ta thường nói đùa
là được mẹ cho "sang Việt Nam du học". Mỗi năm bà gửi cho Vĩnh một
cái nhẫn vàng nhỏ để anh bán lấy tiền tiêu vặt. Năm vừa rồi bà buôn bán thua lỗ,
Vĩnh giữ thật chắc cái nhẫn "phòng thân" nhất định không bán. Mỗi lần
nghe một tin về chiến tranh bên Lào, Vĩnh lại vừa cười, vừa khóc nhắc đến mẹ của
mình.
Vĩnh trao cả hai chiếc nhẫn cho tôi xem. Cả hai có cùng một
kích thước. Vĩnh hỏi :
- Tôi đố bồ biết cái nào cũ, cái nào mới?
- Chịu.
- Cái cũ có vết trầy lớn lắm.
- Sao vậy?
- Bồ không nhớ cái bữa tôi đâm đầu vào cánh cửa ở phòng nhạc
hả?
Tôi lần tìm được vết xước trên chiếc nhẫn cũ :
- Thế là bồ có những hai cái nhẫn. Giàu rồi còn gì.
Tôi đặt trả hai chiếc nhẫn vào bàn tay Vĩnh. Vĩnh nằm vật ra
giường. Cánh tay gạt nước mắt của anh ta chạm vào chân tôi. Vĩnh nói, giọng
nghiêm trang, nhẹ và buồn :
- Tôi đang định gởi lại cho mẹ tôi một cái.
Tiếng máy ở cơ xưởng trước trường bỗng nhiên ngừng. Gió đêm
lùa qua cửa sổ, vào phòng, thoáng qua tôi như một bóng người vội vã. Trời lạnh,
đêm khuya rồi. Bỗng Hoan lên tiếng :
- Gửi lại làm chi. Để đó tụi mình làm vốn lập một ban nhạc sống
lai rai qua ngày. Tôi với bồ Vĩnh đờn hay mà, lo gì. Tụi mình hát nghe cũng được
quá chớ.
Vĩnh vùng dậy, vội vàng hớn hở. Thoáng một cái anh ta đã ôm
trong tay chiếc tây ban cầm khua ầm ĩ :
- Ờ mùa hè này nhất định tôi với bồ Hoan sẽ lập ban nhạc. Tụi
mình tập dượt lại coi.
Ở giường bên, tiếng mãng cầm của Hoan vang lên, cao vút, vẫn
kẹt ở nốt "si". Âm thanh nhiều lúc nhảy nhót, tin tưởng. Vĩnh so lại
dây đàn. Sau đó, cả hai hăm hở chơi những bản nhạc vui, hùng. Vĩnh đập tay lên
mặt đàn và thỉnh thoảng cất tiếng hát nho nhỏ. Nhưng đến giữa bài thứ tư bỗng
tiếng măng cầm trở nên rời rạc và chán nản.
Từng nốt bật lên một cách bứt rứt, uể oải. Hình như bàn tay gẩy
đã trở nên hờ hững thất vọng và người gẩy đang từ từ ngả người nằm xuống giường.
Vĩnh hỏi :
- Sao vậy?
Tiếng lưng đàn chạm mạnh xuống sàn gác ở gậm giường của Hoan,
Hoan trả lời trong khi ngáp :
- Thôi cho ban nhạc nghỉ. Buồn ngủ rồi.
Vinh hỏi tôi :
- Thế nào? Ban nhạc của tụi tui chơi được không bồ? Liệu đã
vào rạp lớn được chưa, hay chỉ mới đáng làm ăn lai rai ở bến xe bến tàu...?
Có tiếng dép lẹp xẹp ở dưới chân thang, sợ ông giám thị lên,
tôi vội lần về giường nằm. Vĩnh nói với theo :
- Chúc bồ ngủ ngon. Còn tôi, đêm nay tôi phải thức trắng để
tính kế...
Làm sao có thể ngủ ngon được. Tôi không có một người mẹ ở bên
Lào, một con đường về nhà gập ghềnh nguy hiểm như Vĩnh, nhưng cũng có lý do để
thức suốt đêm, lo chuyện mùa hè. Từ ngày bóng tối trùm xuống đời, đã biết bao lần
tôi thức suốt đêm, thấm thía hơn cõi tù hãm mênh mông này. Đột nhiên thế giới
thu hẹp lại, các âm thanh thì xa vời và những cái mình nắm được trong tay cũng
chẳng có gì là chắc chắn.
Một buổi chiều thứ bảy, anh Phong vào chơi. Tôi hỏi anh về
mùa hè. Anh Phong tưởng là tôi đang vui vì sắp được nghỉ nên hăng hái giảng giải
:
- Mùa hè là mùa vui nhất của học sinh. Ở đây không có tiếng
ve kêu, nhưng cũng có hoa phượng đỏ.
Anh Phong lúng túng, ngừng lại. Anh vẫn cố tránh những mô tả
màu sắc trong câu chuyện. Nhưng thực ra, điều đó đối với chúng tôi nào có quan
trọng gì. Niềm vui anh mang đến. Cánh tay anh thành thật đưa ra cho tôi nắm đã
giúp cho tôi quên nỗi bơ vơ, là một ân huệ cho chúng tôi rồi. Mỗi lần thình
lình nghe tiếng anh gọi nhỏ ngay bên tai, tôi đã vùng reo lên hân hoan cùng cực.
Nhưng anh Phong thì lúc nào cũng sợ rằng sự lỡ lời của mình có thể làm tôi buồn.
Anh cố gắng tìm một cách diễn tả khác :
- Hoa phượng nở, không thơm, nhưng có một mùi đặc biệt lạ.
Cánh hoa mềm như nhung.
Tôi đề nghị :
- Hôm nào rảnh, anh đem vào cho em một bông hoa phượng. Em
cũng muốn thưởng thức mùi của mùa hè.
Anh đem hoa vào thật, cánh hoa còn tươi và ướt, thơm nồng.
Tôi đặt những bông hoa phượng trong lòng bàn tay, nâng niu. Tôi bắt anh tả
phong cảnh một ngôi trường đầy hoa phượng nở vào hè. Tôi định dựa vào lời anh để
gợi lại quá khứ, nhưng hoàn toàn thất vọng. Những cánh hoa êm như nhung, mùi
hoa thơm nồng cho tôi cảm giác bâng khuâng, dễ chịu. Còn tất cả mái ngói, tường
rêu chỉ là những góc cạnh hỗn độn, mơ hồ, tối tăm như những hình ảnh của một kiếp
xa xôi nào đó.
Anh Phong hỏi về những thú vui của tôi trong mùa hè. Tôi lắc
đầu cười và thành thật nói rằng tôi chẳng muốn rời nhà trường dù chỉ một tháng
hay một tuần. Anh ngạc nhiên lắm. ít nhất thì mùa hè người ta cũng có thú vui về
với gia đình, gặp gỡ người thân. Tôi có đầy đủ những thứ đó cơ mà. Tôi không thể
nói rõ điều gì được. Anh sẽ buồn bã cùng với tôi một cách vô ích. Tất cả chúng
tôi không đứa nào muốn kéo những người bạn thân vào ngồi chung trong bóng tối với
mình. Tôi nhất định xoay câu chuyện sang vấn đề ca nhạc và nài anh hát một bản
nhạc ngoại quốc. Anh không từ chối. Tôi vỗ tay làm nhịp và tìm được niềm vui
trong âm thanh.
Lúc anh Phong về, tôi nhớ đến bông hoa phượng. Nó rơi xuống gần
bàn khiến tôi mất một hồi lâu tìm kiếm. Bông hoa nằm trong tay có lẫn chút bụi
cát. Mùi hoa thơm nồng, cánh hoa mềm như nhung... Đó lại là những dấu hiệu báo
sự bắt đầu của một chuỗi ngày làm tôi kinh sợ.
Tôi đã xa lạ với gia đình tôi lắm rồi, cả cái tỉnh nhỏ đó nữa.
Chúng tôi chẳng còn gì để lưu luyến nhau. Một năm kể cả ngày lễ, tôi chỉ ở nhà
khoảng hơn ba tháng, không lần nào được nói chuyện với một người trong gia đình
lâu quá năm phút. Nhiều lắm thì những người hàng xóm chỉ thấy một lần tôi chống
gậy chậm chạp bước về, một lần tôi chậm chạp ra đi. Sau cái buổi ngồi hóng gió ở
trước cửa để cho lũ trẻ hàng xóm xúm lại giễu cợt, tôi bị thím tôi mắng. Trong
lúc quá nóng giận thím đã để lộ cho tôi biết thêm được nhiều điều. Ngoài nhiệm
vụ được trời sai xuống làm gánh nặng cho gia đình thím, tôi còn là lý do để bọn
hàng xóm coi thường thím.
Bây giờ, tôi vẫn có một chỗ kín đáo để nghỉ hè. Đó là chiếc
giường gỗ thấp kê ở một góc cái gác xép nóng như thiêu. Giường rộng nhưng ngắn.
Cái thế giới cỏn con đó còn bắt tôi phải co chân lại. Trong suốt ba tháng, ngày
nọ qua ngày kia, tôi quanh quẩn bên giường. Lúc rảnh rỗi, tôi có thể ngồi yên,
nằm hay ngủ để chờ giờ ăn cơm. Trước kia, tôi đã xin một việc làm để được đi lại,
khỏi phải ngồi lặng lẽ hàng ngày như một pho tượng. Nhưng chú thím không cần khả
năng làm việc của tôi bằng sự kín đáo.
Đời sống ở trường cũng chỉ là một chuỗi ngày giống nhau.
Nhưng tôi có bạn. Tôi được nói và được nghe nói. Những người bạn như anh Phong
đem đến cho tôi nguồn khích lệ tinh thần. Anh đã đọc cho tôi nghe câu chuyện tự
thuật của một người khiếm thị làm luật sư để tôi thấy rằng không phải chúng tôi
chỉ có thể làm được một nghề độc nhất là làm bàn chải, khả năng của tôi không
phải chỉ ngồi quanh quẩn bên chiếc giường gỗ thấp chờ giờ cơm.
Tôi chán và sợ ngày về. Trong mùa hè năm đầu mới xa nhà, tôi
đã trở về thành phố với niềm vui nặng hơn hành lý. Tôi khua chiếc gậy dò đường
trên những vỉa hè quen thuộc. Tôi chú ý đến cả những luồng gió nhẹ từ lòng mấy
ngõ hẻm lướt qua da thịt tôi. Và mỗi câu nói, dù chỉ là những tiếng mơ hồ, xa lạ
gặp ở dọc đường, tôi đều lắng nghe.
Niềm vui trong cuộc đời tôi, và nhiều người như tôi, là hồi hộp
chờ đợi một tiếng reo quen thuộc. Đột nhiên, tiếng reo nổi lên ở một hướng nào
đó. Nỗi vui mừng vụt ra giữa bóng tối mênh mông. Tôi bồi hồi cảm động, nhiều lần
run rẩy cả chân tay. Sự quen thuộc chỉ là một giọng nói và một bàn tay. Nhưng
tôi chẳng bao giờ quên được những bàn tay, ngón tay và cả những chiếc khuy áo
đã được nắm giữ. Tôi nhớ những đường gân và những cựa quậy mong manh của chúng.
Vả lại, những bàn tay mà tôi được nắm lấy để hân hoan tỏ tình thân mật nào có
nhiều gì.
Không hiểu sao, bây giờ, những bàn tay bè bạn cứ mất dần. Tỉnh
nhỏ đó chỉ còn một cái giường gỗ nồng mùi bụi đợi chờ tôi. Chỉ có nó với căn
gác xép nóng hổi là trung thành với tôi như bóng tối.
Một tiếng chân hơi nặng nề bỗng nổi lên ngay ở đầu giường.
Tôi hỏi khẽ :
- Tên nào đó?
- Vĩnh đây.
- Mò đi đâu?
- Đi uống nước.
Vĩnh lần đến tận đầu phòng, ông giám thị đã ra lệnh không cho
ai được quyền khát nước vào ban đêm. Vì thế, anh Bằng, lớn nhất bọn thường chịu
khó lén lút, mỗi tối, đem một bình nước cất giấu ở gần giường anh. Tên nào khát
cứ việc mò đến xin. Lúc Vĩnh trở lại, qua gần giường tôi, tôi hỏi :
- Khuya rồi nhỉ?
- Khuya lắm rồi. Ngủ đi. Sáng mai dậy đưa tiễn tụi nó.
Ở giường Thịnh vẫn có tiếng rì rầm nói chuyện và tiếng cười bị
kìm hãm. Hình như Thịnh và Vân đang coi bói cho nhau bằng cách rờ xem chỉ tay.
Tên nọ bảo tên kia sẽ giầu, sẽ sung sướng, sẽ lập được gia đình đàng hoàng. Cả
hai có thể không tin lời nhau. Những ảo vọng được nhắc đi nhắc lại mãi cũng trở
thành khả nghi. Nhưng chỉ còn cách đó để cười dễ dàng.
Những tiếng rì rầm biến đi một lúc lâu tôi mới cảm thấy buồn
ngủ...
Sáng hôm sau, người chị của Thịnh đến đón hắn về từ sớm. Mới
thoáng nghe tiếng chị ở phòng khách, hắn đã chạy ào xuống. Thịnh tốt số nhất
trong bọn chúng tôi. Hắn có gia đình và được thương yêu. Chị Thịnh học ở Sài
Gòn, thứ bảy nào cũng vào thăm hắn. Chị đọc thư nhà, chị nói chuyện về đời sống,
chị nói đùa cho cậu em vui cười. Lúc buồn Thịnh có thể khóc thả cửa để được an ủi.
Có một người chị nghe mình khóc như thế thật là sung sướng.
Ngày đầu tiên được đưa đến trường, Thịnh kêu gào ầm ĩ đòi về.
Hắn đinh ninh là người ta bỏ tù hắn, tù về tội không làm được việc gì có ích.
Các ông giám thị và cả ông hiệu trưởng xúm lại giảng giải, hắn càng sợ. Mới đầu
hắn van xin rồi hắn dọa lại: hoặc cho hắn về hoặc hắn tự tử. Cũng như chúng
tôi, lúc ấy, Thịnh nghi ngờ mọi người. Nhưng vì quen được cưng chiều, hắn dám tỏ
lộ sự nghi ngờ ấy ra. Còn chúng tôi, chúng tôi đã quen chịu đựng, quen được dắt
đi, được đẩy tới. Dù biết đang bị lừa lọc tôi vẫn cắn răng.
Ngay trong tình bạn, tôi sẵn sàng nhận chịu những chuyện dối
trá. Có người đã đưa tay cho tôi cầm, bằng lòng trở thành bạn tôi. Nhưng sau,
vì một cớ nào đó, người ấy không thèm gặp tôi nữa. Anh ta vẫn vào trường nói
chuyện với vài người khác. Tôi cố tình đi quanh quẩn ở chỗ anh đứng nói chuyện
và khắc khoải mong chờ một tiếng gọi để được reo lên, được nắm lại bàn tay, bóp
nhẹ từng thớ thịt trên cánh tay anh ta. Nhưng tiếng gọi đó không bao giờ có nữa.
Anh cố tình quên hẳn đứa bạn vô duyên. Và có lần anh đi qua mặt tôi với những
bước chậm đều đều, yên ổn. Chắc anh ta không thể ngờ rằng tôi đã lắng nghe từng
nhịp chân bước, từng hơi gió thoảng, và tôi đã cảm thấy rõ ràng hình bóng anh
ta lướt qua mặt mình.
Thịnh chưa quen chịu đựng nên lần ấy đã giẫy giụa khóc lóc.
Vài học trò lớn trong trường kéo đến phụ với chị Thịnh giảng giải cho hắn nghe.
Nhưng hắn vẫn gầm thét :
- Các người tưởng tôi không thấy đường thì gạt được tôi hả?
Tôi không mắc lừa mấy người đâu.
Sau đó người chị của Thịnh cũng bật khóc và không nói gì thêm
được nữa. Phải được đưa đến lần thứ hai, Thịnh mới chịu ở lại trường. Những
ngày đầu, chúng tôi thường đùa nghịch bằng cách vuốt mái tóc được uốn cẩn thận
của Thịnh. Khuôn mặt hắn tròn, trán cao, làn da mềm và trơn. Chúng tôi đặt cho
hắn cái tên quý hóa nhất "Hoàng Tử Đẹp Trai".
Thịnh đã sửa soạn xong hành lý từ hôm trước, hắn đi từ giã từng
đứa, chia gia tài cho mấy bạn thân. Vân được hộp thuốc đánh răng dở. Tôi và
Vinh mỗi đứa một cục xà phòng.
Năm sáu đứa khoác tay nhau, chúng tôi đi tiễn chân Thịnh. Chị
Thịnh chờ ở chân thang. Chị gọi tên từng đứa rồi hỏi :
- Chừng nào các chú mới về?
Vân trả lời thay cả bọn :
- Dạ, thưa chị, tụi em sẽ ở tới ngày cuối cùng, khỏi bỏ uổng
cơm nhà bếp. Hồi nào tụi em bỏ cơm là lũ heo nuôi trong trường lại kêu la dữ lắm.
Chúng nó sợ bội thực chị ạ!
Chị cười, tiếng cười kín đáo, ngắn, đứt đoạn, nghe không vui
nhưng thật dịu dàng dễ thương. Vĩnh hỏi :
- Chị có thấy hồi này Hoàng Tử Đẹp Trai mập ra không?
- Nó mập và trắng hơn trước nhiều, các chú cũng vậy.
Chúng tôi đưa tiễn chị em Thịnh ra tận cổng trường. Chị nhẹ
nhàng đặt tay lên vai từng đứa để từ biệt. Cánh cửa đóng lại rồi Vân còn nói với
theo :
- Mùa hè Thịnh gắng ăn cho thật mập, thật nặng ký nghe chưa.
Đầu niên học, tụi mình cùng mập, tụi mình sẽ giẫm sập lầu nhà trường. Chính phủ
phải xây cho mình ngôi trường khác ngon lành hơn.
Tiếng cười của Thịnh lẫn trong tiếng cánh cửa xe đóng lại, tiếng
xe xa dần...
Chuông điểm thời gian báo chín giờ được một lúc thì đến lượt
anh Tần sửa soạn lên đường. Cũng như Hoan, anh đã ở trường đủ năm năm, đã đỗ bằng
Tiểu Học, nên lần ra đi này được kể là vĩnh viễn. Chúng tôi xúm quanh anh nói
chuyện, đùa nghịch, vì biết có thể suốt đời chẳng có dịp gặp anh nữa. Đứng sát
bên nhau còn có lúc chẳng nhận được nhau, nói gì đến chuyện tái ngộ.
Anh Tần không có ai đến đón. Gia tài cũng chỉ gồm hai chiếc
va li không nặng lắm. Vĩnh nói :
- Theo thầy tướng Vân thì cái số bồ Tần về sau này thế nào
cũng làm ăn khá giả. Lúc đó đừng quên anh em đấy.
Vân bảo :
- Yên trí. Anh ấy không quên đâu. Khi thành triệu phú anh ấy
sẽ lập một cái trại nuôi tụi mình cho mà coi. Tụi mình chỉ việc ăn xong là rỡn,
lại có vợ con đàng hoàng.
Tần không nói gì. Có thể anh ta đang cười lặng lẽ, có thể anh
ta không thích những câu nói đùa của các bạn. Vân hỏi :
- Anh Tần chịu thế không?
Tần trả lời, giọng sốt sắng một cách giả tạo :
- Chịu chứ. Tớ sẽ đem bằng cấp đi rao bán, bao giờ đủ một triệu
thì sẽ bao các cậu.
Cả bọn reo lên. Bỗng Sinh nói một câu rất ngang :
- Ôi, bằng cấp của anh chỉ là đồ bỏ, cho tôi cũng không thèm
lấy. Muốn thành triệu phú thì lại đây tôi chỉ cho nghề coi bói gia truyền. Cam
đoan đoán vận mạng, công danh, ái tình đúng trăm phần trăm. Hành nghề vài năm
là có nhà lầu, xe hơi. Con gái tới bu đầy cửa, phải nhờ cảnh sát giải tán.
Tần cười to, cay đắng :
- Tớ về rồi mai mốt các cậu nghe tin có đứa ngực đeo bằng cấp,
vai gánh bàn chải, nằm chết vì đói thì đứa đó đúng là tớ.
Tần xách va-li. Chúng tôi, đứa nắm tay, đứa nắm áo anh ta
cùng đi tiễn chân. Được mấy bước, bỗng Sinh nảy ra một ý kỳ quặc. Hắn tiến lên
trước. Chúng tôi đâm vào hai cánh tay Sinh vừa dang ra để chặn cả bọn. Sinh nói
:
- Khoan đã các bồ. Tôi đề nghị cái này. Anh Tần rời khỏi nhà
trường vĩnh viễn, từ hôm nay không được chính phủ nuôi thì kể như anh ấy đã chết
rồi.
Vĩnh kêu lên :
- Ê! Đừng có ăn nói bậy bạ. Người ta đang sống nhăn mà bảo chết,
chết cái gì?
Giọng Tần hơi run, trầm, không hiểu vì giận dữ, xúc động hay
vì anh ta đang cố nín cười :
- Sinh nói đúng đó. Rời nhà trường mình thất nghiệp là chết
đói.
- Chết vì đói, vì không thấy đường mà lao xuống sông, bị xe
cán... thứ nào cũng được. Tụi tôi kể như bồ chết từ hôm nay.
vẫn dang tay chắn lối chúng tôi, Sinh nói to :
- Vậy tụi mình phải tổ chức đám tang cho bồ Tần. Phải có khóc
và có văn tế đàng hoàng.
Cả bọn yên lặng, sững sờ. Nhưng rồi hình như ai cũng thấy đề
nghị đó hay hay, là một cớ để vui đùa thêm. Khi Vĩnh lên tiếng đồng ý thì cả bọn
nhao nhao hưởng ứng. Tần bật cười ngỡ ngàng. Sinh vẫn giữ vai chủ động cái trò
"đưa đám" này. Nó nói :
- Phải có người làm vợ, người làm con của hồn ma ông Tần. Mấy
người này phải khóc thật lớn. Đứa nào khóc giả vờ ông Tần có quyền làm ma bóp cổ.
Một người sẽ đọc văn tế.
Vĩnh nói :
- Thôi, bỏ cái mục khóc đi, um xùm quá, mấy ông giám thị biết,
bị rầy chết.
Nô bảo :
- Khỏi lo, cứ khóc thả giàn đi, mấy ông giám thị không có dưới
phòng khách đâu.
Sinh ra lệnh :
- Anh Nô coi lại đi, cho chắc ăn.
Nô hăng hái bước ra cầu thang. Hắn giậm chân thình thình xuống
sàn gác ba bốn lần. Chúng tôi im lặng, lắng tai nghe ngóng, chờ đợi. Không có
gì lạ. Các ông giám thị đi vắng thật rồi. Được tự do, đám tang hẳn sẽ ly kỳ và
linh đình lắm. Vĩnh lên tiếng phân công rất dõng dạc :
- Nghĩa địa sẽ là cổng trường. Tụi mình chỉ được quyền đưa
anh Tần từ đây tới đó... Bồ Nô mới thi đậu, văn chương chữ nghĩa cùng mình, tôi
mời bồ đọc bài văn tế. Tôi giả làm vợ. Còn các bồ kia ai muốn làm con hay bạn
cũng được.
Nô không biết một bài văn tế phải viết thế nào. Nhưng hắn vốn
ăn nói lưu loát nên thoát được ngõ bí. Bằng một giọng chậm rãi, khề khà, quan
trọng, Nô đọc tên tuổi Tần và những thành tích của anh ta: đã đậu bằng Tiểu học,
đã từng nhiều lần đến muộn bị ông giám thị phạt không cho ăn cơm, đã từng lén
đem nước lên lầu uống đêm v.v... rồi hắn chúc cho Tần lên trời ở với Tiên, Phật.
Những người khác thì bắt đầu ỉ eo khóc lóc. Mới đầu đóng trò
còn lúng túng, sau, ai cũng khóc to, và rất thảm thiết...
Vĩnh cố bắt chước giọng khóc của đàn bà. Nhiều lúc hắn bị lạc
tiếng, khóc chẳng ra khóc, rên chẳng ra rên, nghe kỳ quái và khôi hài. Vài tên
bật cười, Sinh thường phải gầm gào lên để cứu vãn tình thế. Nô đọc văn tế xong
cũng khóc ông ổng. Hắn kể lể bằng những lời than tiếc, ai oán, thảm thương như
đang thực sự đi theo sau một cái quan tài.
Một lần tôi bật cười vì không chịu nổi trò kỳ quái này, Sinh
bóp mạnh vai tôi :
- Bồ rỡn hả?
Rồi hắn cầm bàn tay tôi đưa lên mắt hắn :
- Bồ xem tôi khóc thật đây này.
Mắt Sinh ướt thật. Một dòng nước làm ướt một bên sống mũi nó.
Tôi không hiểu đó là nước mắt thật hay chỉ là nước bọt nó bôi lên.
Anh Tần đâm ra lúng túng. Mới đầu anh cười sặc sụa. Anh quẳng
va li xuống sàn gác để cười. Nhưng rồi tiếng cười bắt đầu đứt khúc, nghèn nghẹn
và gượng gạo. Khi tất cả đã gào khóc quá hăng, Tần hét lên :
- Thôi đi các cha! Rỡn cái lối gì kỳ vậy.
Chắc cái lối vừa khóc vừa gọi tên anh của chúng tôi đã làm
anh bối rối, ngượng ngùng rồi bực mình. Có bao giờ một người được thiên hạ tỏ cảm
tình nồng nhiệt bằng hắn được đưa ra nghĩa địa. Nhưng Tần càng lúng túng thì
chúng tôi càng khoái chí, khóc lóc hết sức say sưa. Vĩnh kể lể khá tài tình, hắn
vẽ ra một cảnh gia đình rất đáng thương. Chúng tôi vừa gầm gào vừa chồm lên bám
lấy người Tần như bám lấy cái quan tài, giữ linh hồn người chết lại dương thế.
Tôi nắm được vai anh ta và cảm thấy đầu anh đang chúi xuống vì nhiều cánh tay.
Tôi bị Tần thúc một cùi chỏ vào giữa ngực đau điếng. Mấy đứa kia cũng tru tréo
lên vì bị Tần đẩy. Nhưng không đứa nào nản chí. Cả bọn cứ vây quanh Tần vừa đi
vừa khóc. Đến đầu cầu thang, Tần lại chợt bật cười. Và, từ lúc đó, anh để mặc
cho chúng tôi đưa đám anh.
Đám tang thật là vui vẻ và hấp dẫn. Trong mấy năm trời ở đây
quả thực chưa có trò đùa nào lại khiến tôi say mê đến thế. Suốt đời bị giam một
chỗ, quen thuộc với một không gian chật hẹp, mỗi lần bước vào nơi lạ là e ngại,
dè dặt như bước vào sự mênh mông. Chỉ xảy chân là có thể bước thẳng xuống ngôi
mộ của mình, chúng tôi luôn luôn được nhắc nhở như thế. Chúng tôi nghĩ đến cái
chết quá nhiều. Thế nên chúng tôi hăng say khóc lóc đưa ma một người sống.
Đi quá nửa sân gần tới cổng, Vĩnh thôi khóc và ra lệnh cho
anh em :
- Thôi tới cổng rồi. Cấm khóc. Những giây phút quý báu còn lại
là để mặc niệm. Người ngoài đường họ thấy kỳ lắm, tủi vong linh người chết.
Sinh và Tần đột nhiên gào thật to như nổi cơn điên. Vân vừa
khóc vừa nói :
- Thấy thì thấy. Kệ họ.
Rồi hai tên đó gạt chúng tôi ra, bảo nhau :
- Mình khênh anh Tần lên.
Đứa nhỏ ở nhà bếp được Tần nhờ đi gọi xe đã trở vào :
- Có xe rồi đó anh Tần.
Nó cười rú lên trước cảnh lạ. Ngoài cổng tiếng máy xe nổ đều
và giòn.
Tới cổng chúng tôi dừng lại nghiêm trang chào từ biệt Tần. Những
câu chúc tụng đầy ảo vọng lại vang lên. Tần ra xe. Chúng tôi đứng dựa cổng gỗ lắng
nghe tiếng máy xe xa dần. Lạy trời! Mong rằng cuộc đời không phải chỉ là năm
năm có cơm áo nhà trường, tốt nghiệp không phải là sự bắt đầu một cuộc đời kham
khổ, cay đắng hơn.
Chúng tôi vẫn phải tin tưởng, nhờ cậy ở cánh tay những con
người trời sinh ra toàn vẹn. Chúng tôi vẫn thường nắm chặt cánh tay họ để mạnh
bạo tiến lên. Cầu cho Tần, nếu không tìm được một nghề, một tấm lòng bác ái,
thì ít nhất anh cũng nắm được một cánh tay đưa đường không hờ hững, dửng
dưng...
° ° °
Hôm nay Hoan cũng về nốt rồi. Có người muốn tổ chức một đám
tang nữa, nhưng không ai cảm thấy hứng thú. Hoan nghiêm trang quá. Tình bạn của
anh đầy chân thành, thiết tha mà vẫn chừng mực. Hoan đến giường từng người để từ
biệt. Mỗi người anh khuyên một câu. Riêng với tôi, anh đưa tay lên xem lại mặt
tôi nhiều lần. Tôi cũng nắm chặt cánh tay gầy guộc của anh. Giọng nói Hoan gợn
lên những tiếng trầm thật khác lạ. Chưa bao giờ tôi nghe giọng anh ta bị lạc đi
đến thế. Hoan nói :
- Nếu một trong hai đứa còn thấy đường thì sau này...
Anh ta không nói hết câu. Tôi cũng chẳng hiểu anh muốn nói gì
với ba tiếng "còn thấy đường", nhưng không hỏi. Chúng tôi vẫn cố
tránh chạm vào nỗi tuyệt vọng của mình. Khi tuyệt vọng lên tiếng, nó nói rất
lâu và hành hạ chúng tôi một cách thật tàn bạo. Tôi nói gượng :
- Niên học tới, nếu rảnh, Hoan tới thăm trường, tụi mình lại
gặp nhau.
Hoan đặt tay lên vai tôi, lần dọc theo cánh tay, rồi vuốt nhẹ
từng ngón, anh ta vẫn bảo rất yêu ngón út của tôi vì nó tròn và thon nhỏ. Hoan
cười :
- Làm sao còn có dịp để tới thăm trường?
Câu than nhẹ nhàng như một tiếng thở dài. Dù có đủ can đảm để
vượt hàng trăm cây số đến thăm bạn, đời sống chắc sẽ chẳng cho phép anh làm việc
đó. Hoan đã biết gì về tương lai của mình đâu. Ra khỏi cổng trường là bước thẳng
vào sự bơ vơ. Còn đủ năm giác quan đã chắc gì tìm được một chỗ đứng yên ổn.
Hoan lại mới mất ánh sáng nên khó giữ được tâm trí bình thường. Được hưởng một
số năm có ân huệ của trời anh lại khổ vì nỗi chẳng quen chịu đựng thiệt thòi từ
thuở bé. Có chúng tôi, anh được an ủi và được quên. Trong cái thế giới nho nhỏ
này, mọi người cho và nhận đồng đều. Ra ngoài, mọi chuyện sẽ khác.
Đưa tiễn Hoan xong, tôi trở lên lầu, nằm dài trên giường, bỏ
bữa cơm trưa. Phải mất vĩnh viễn một người bạn thật khó chịu. Tôi bực bội, rồi
ý nghĩ co kéo nhau đến đầy đầu. Niềm chua xót cho thân phận xen lẫn những ước vọng
viển vông cứ dằn vặt mãi. Cuối cùng, nỗi tuyệt vọng tràn đến làm nóng đầu và
hơi nghẹt thở. Tôi bắt đầu thèm cái khoái cảm của anh chàng, một lần, đã liều
lĩnh giậm thình thình lên sàn gác và hò hét vang trời...
Tôi tỉnh dậy khi cảm thấy hai chân nóng ran. Ánh nắng chiều
xuyên qua cửa sổ đã làm rát một khoảng da từ cổ chân trở xuống. Nệm giường cũng
nóng hôi hổi. Trong phòng chả có đứa nào biết mà đóng giùm tôi hai cánh cửa sổ.
Vừa bước vào phòng rửa mặt, tôi đã nghe tiếng Vĩnh hỏi :
- Thương đấy hả?
- Tớ đây.
Tôi đến bên cạnh Vĩnh, lấy nước đổ lên hai bàn chân cho đỡ
khó chịu.
Vĩnh khoe :
- Mình khỏi về bên Lào. Mình kiếm được nơi nghỉ hè rồi.
- Ở đâu thế? Ô Cấp hay Đà Lạt?
- Ối, chỗ này sang hơn mấy nơi đó nhiều. Đoán coi.
- Chịu.
- Viện mồ côi.
Tôi kêu lên :
- Ai cho bồ nghỉ hè ở đó? Bồ đâu phải trẻ mồ côi.
Vĩnh đáp, kiêu hãnh :
- Thế tôi mới hay chớ. Tôi nhờ ông hiệu trưởng viết giấy giới
thiệu. Tôi sẽ đi với bọn thằng Thiệp nhỏ. Bồ nên nhớ, thằng Thiệp nhỏ là khách
quen của viện mồ côi. Mấy năm trời nay nó đều về nghỉ ba tháng hè trong đó.
Thiệp nhỏ làm quen và ăn cơm của viện mồ côi hồi mới lên năm
hay sáu tuổi. Nó được gởi sang đây học và năm nào cũng nhớ trở về viện nghỉ ba
tháng hè.
Thiệp mang trong lòng một nỗi tiếc hận ghê gớm.
Nó luôn nói về niềm tiếc hận đó với giọng lúc buồn rầu, lúc
hăm hở. Có dịp kể lể, tâm sự, Thiệp luôn quả quyết rằng nó không phải là đứa trẻ
mồ côi thực thụ, nó dám thề độc để bảo đảm cho điều nó nói. Nó nhớ mang máng rằng
gia đình nó cũng khá giả, có cửa hiệu bán tạp hóa hẳn hoi. Khi nó mới mất ánh
sáng, mẹ nó cho rằng đó là điều tiền oan nghiệp chướng. Bà nhất định đem cho nó
đi. Lần đầu người xin thấy nó khóc quá đem trả lại. Lần thứ hai Thiệp được đưa
vào viện mồ côi.
Nó bảo không thể quên được ngày hôm ấy. Nó được mẹ đặt trên cái
ghế trong một căn nhà lạ nào đó. Bà bảo nó ngồi chờ bà đi mua kẹo. Và nó chờ,
chờ mãi, rồi khóc lóc, được dỗ dành, tuyệt vọng và tập quen đời sống trong viện
mồ côi. Khó mà hiểu nổi nỗi kinh hoàng của một đứa bé, mới năm, sáu tuổi, khi
nó quờ quạng trong bóng tối, nghe vang bên tai những giọng nói lạ, và cảm thấy
mất bà mẹ thân yêu.
Bây giờ, Thiệp nhỏ đã quen chịu đựng và bình thản sống, nhưng
mỗi lần kể lại chuyện mình, nó kết luận bằng một câu than :
- Hồi đó mình còn nhỏ, ngu quá. Giá như bây giờ thì mẹ mình
làm sao đánh lừa và bỏ nổi mình. Mình cứ nắm chặt lấy áo mẹ là xong, nắm thật
chặt...
Rồi để chứng tỏ bây giờ nó đã khôn, đủ sức bám víu vào những
người thân yêu, Thiệp nhỏ chồm lên ôm chặt lấy người đối diện :
- Rồi, anh thử gỡ ra coi. Tôi ôm cứng thế này thì làm sao mà
gỡ cho nổi. Mẹ tôi chỉ có cách chặt tay tôi đi mới bỏ tôi được.
Quả thực, ai cũng công nhận Thiệp nhỏ bám chắc thật, tưởng
như muốn gỡ nó ra sức một người không đủ. Nhưng nó nghĩ rằng người ta chỉ có mỗi
một cách chặt tay để bó nó thì thật là ngây thơ. Hai bàn tay đâu đủ mạnh để bám
vào vạt áo những người đã quyết xa lánh mình. Không ai nỡ nói cho nó nghe điều
đó.
Bây giờ Thiệp còn ôm ảo vọng. Nó thích được đi lang thang đây
đó để may ra, một ngày nào đó, tình cờ, bước vào đúng tầm mắt của người thân,
được nghe lại tiếng nói, tiếng gọi mà nó khắc khoải mong chờ từ bao năm trong
viện mồ côi...
Tôi hỏi Vĩnh :
- Ở viện mồ côi có gì lạ không?
- Thì chắc cũng như ở đây, ngày nào mình cũng được ăn no.
Nhưng không được đi dạo trong một cái sân rộng, không được đứng bám vào cánh cửa
gỗ nghe tiếng động ở ngoài đường. Nhưng dù sao cũng được đổi không khí.
Tôi trở ra. Vĩnh còn nói với theo, tiếng hắn vang lên ong
óng, như phát ra từ tất cả các góc tường quanh tôi :
- Suốt đời ngồi tù trong bóng tối thì thay đổi một căn phòng
giam nào có nghĩa lý gì...
Tôi đã đi qua hết địa phận "nhà ngồi chơi" và nghe
những tiếng đàn hát từ các lớp học vọng lại. Chắc những người bạn của chúng tôi
vào thăm lần cuối cùng trước hè. Tôi phân biệt được tiếng cười giòn tan của anh
Trần, tiếng đàn dồn dập của anh Vinh và tiếng hát cao vút của chị Hằng. Chị Hằng
hay hát bản "Thu Vàng" chúng tôi đã nghe bao nhiêu lần rồi mà không
chán. Giọng chị ướt mềm như được gói trong một màn sương mỏng. Lời ca dẫn chúng
tôi đi trong gió thu, trong tiếng lá bay, và trong mùi thơm kỳ dị của loài cỏ
úa.
Chắc anh Phong và những người bạn tôi hôm nay không vào.
Trong lần gặp trước, anh nói là sẽ đi Cấp nghỉ mát. Tôi muốn biết anh đã đọc và
viết được chữ nổi chưa, nhưng không dám hỏi. Như thế là mùa hè này tôi sẽ không
nhận được một cái thư nào. Thiếu tiếng nói trên giấy của một người bạn phương
xa chắc cái giường và căn gác xép sẽ đáng chán hơn nhiều. Bây giờ, tôi lại tiếc
đã không thẳng thắn yêu cầu anh viết thư cho tôi. Những câu an ủi vượt hàng
ngàn cây số đến với mình, trong lúc mình ngồi ngơ ngẩn giữa phòng giam trá
hình, chắc chắn sẽ đáng yêu quý như những bà tiên hiền hậu.
Cảm thấy nao nức vì những tiếng cười, tôi bước vội vào phòng
khách. Tôi muốn nhập bọn và được vui vẻ. Nhưng đến chân thang thì e ngại, ngập
ngừng. Những người như anh Trần, anh Vinh, chị Hằng... chưa phải là bạn của
tôi. Hay nói đúng ra là họ chưa nhận tôi là bạn. Mặc dầu, tôi biết tên, phân biệt
được giọng nói và hiểu khá rõ về tính tình từng người. Ở đây, bạn bè là một món
hàng khan hiếm và quý giá, người ta không chịu chia sẻ cho nhau. Ai kiếm được một
người bạn thì tìm cách giữ lấy cho riêng mình, cùng lắm chỉ có vài người bạn
thân nhất là được "nhập bọn".
Tuy nhiên, tôi vẫn hy vọng, trong mấy ngày cuối cùng mọi người
đều dễ dãi. Tôi đi qua từng lớp. Đến mỗi lớp, tôi đứng dựa vào một bên cửa nghe
ngóng và chờ đợi. Chỉ có tiếng đàn, tiếng hát. Không có ai gọi tên tôi. Đi hết
năm lớp chưa nản lòng, tôi đi ngược lại. Lần này lên tiếng vờ hỏi xem Vĩnh có
trong lớp không, và đứng lại lâu hơn. Như thế chắc chắn mọi người có thể nhìn
hoặc nghe tiếng mình. Nhưng không có một tiếng reo chào đón nào.
Cuối cùng, không còn hy vọng, tôi lần bước trở lại sân sau. Sự
buồn chán và bực tức thình lình kéo đến khiến tôi cảm thấy tai ù lên và đầu nặng
trĩu. Tôi trở lại phòng tắm gọi Vĩnh, nhưng hắn đã đi đâu mất rồi.
Ngay lúc ấy, đột nhiên không muốn ở lại trường cho tới ngày
cuối cùng, tôi quyết định xin về với bọn Tấn và Hoành vào sáng hôm sau.
° ° °
Tối hôm trước, ông hiệu trưởng khuyên chúng tôi đi ngủ sớm.
Nhưng tôi và Vĩnh vẫn khoác tay nhau đi vòng quanh sân sau cho đến khi nghe tiếng
chuông reo cuối cùng. Lên giường cũng không ngủ ngay được. Ngày đẩy chúng tôi
vào tương lai, đêm lại kéo chúng tôi về quá khứ. Tôi thao thức mãi. Những người
thường phải nằm nghe tiếng động trong đêm là những người luôn được nghe sự buồn
khổ, tuyệt vọng của mình lên tiếng nói.
Qua một giấc ngủ thật ngắn, tôi tỉnh dậy vì những tiếng động
nhỏ. Tấn và Hoành đã thức từ lúc nào và đang thì thầm nói chuyện. Dưới nhà bếp
cũng có vài tiếng chậu thiếc chạm trên nền gạch. Âm thanh mỏng và sắc cạnh. Nhớ
là Hoành có đồng hồ, loại đồng hồ có thể mở mặt kính ra bất cứ lúc nào, tôi hỏi
:
- Mấy giờ rồi Hoành?
- Ba rưỡi rồi. Dậy sửa soạn là vừa.
Tôi chẳng có gì phải sửa soạn lâu. Chỉ cần đóng nắp chiếc
va-li rách lại là xong.
Khoảng gần bốn giờ sáng, ông hiệu trưởng và ông giám thị Toán
lên phòng đón chúng tôi. Ông hiệu trưởng cũng mò mẫm dậy từ ba giờ sáng và muốn
đưa chúng tôi ra tận nhà ga. Ông gõ nhẹ chiếc gậy vào chân giường tôi và hỏi :
- Thương, Hoành, Tấn dậy chưa?
Chúng tôi chào ông. Chắc hành lý của bọn Tấn, Hoành có vẻ cồng
kềnh lắm, ông giám thị cười bảo :
- Trời đất! Mấy em này đi đâu cũng mang đủ thứ. Đồ đạc không
thua gì mấy gánh hát.
Ông hiệu trưởng cũng cười, hỏi :
- Mấy cậu ấy có những thứ gì đó?
Ông giám thị đáp :
- Hai ba va-li quần áo đồ dùng. Rồi đờn guitare, đờn
mandoline, kèn, sáo...
Hoành bào chữa :
- Coi nhiều vậy mà chẳng có gì đâu ạ. Trong va-li của em chẳng
hề có một cái áo không vá.
Ông giám thị dắt ông hiệu trưởng đi trước, chúng tôi lặng lẽ
đi theo tiếng gậy khua trên nền gác.
Chiếc xe của nhà trường đưa chúng tôi qua các phố còn yên ngủ.
Rồi nó dừng lại trong tiếng ồn ào của nhà ga. Chúng tôi nắm cánh tay dẫn dắt của
ông giám thị và người tài xế để bước xuống. Lần trong mùi khói tàu khét lẹt tôi
ngửi thấy cả mùi thơm của những món quà buổi sáng. Ông giám thị dắt chúng tôi
vào ngồi chờ trên một chiếc ghế dài. Tôi lắng nghe những tiếng động xung quanh
một cách tò mò và cố tìm nguyên do của từng âm thanh. Có một lần, tôi nghe những
tiếng động sền sệt, kéo dài, giống như người ta kéo lê một vật nặng. Nhưng tiếng
động này bị ngắt khúc một cách khó hiểu. Tôi đưa tay định tìm Hoành thì lại chạm
vào cổ tay áo được là cứng của ông hiệu trưởng. Ông nắm nhẹ tay tôi :
- Thương hả?
-Dạ.
- Được về nghỉ hè có vui không?
- Dạ, thưa ông, vui.
- Ờ, về nghỉ hè cho khỏe rồi sang năm trở lại học. Gắng ăn
nhiều cho mập nghe.
Ông hỏi to :
- Có em nào đói chưa?
Chúng tôi chưa kịp trả lời, ông đã gọi người tài xế nhờ mua mấy
khúc bánh mì. Chúng tôi vừa nhai bánh mì vừa nghe ông nói. Toàn là những lời dặn
dò. Ở trường mấy năm tôi đã biết rõ tính ông. Những lúc thương chúng tôi là những
lúc ông nói nhiều, khuyên bảo nhiều :
- Về nhà, các em cần nhớ là lúc nào cũng ăn mặc thật cẩn thận
sạch sẽ. Đừng quên rằng người ta luôn luôn thấy mình. Tôi biết có nhiều em về với
gia đình không được tiếp đón đàng hoàng. Phải tập kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn
cảnh...
Tiếng ồn ào lấp dần tiếng nói của ông. Tàu sắp sửa chạy.
Chúng tôi được đưa vào ngồi trong một toa có những chiếc ghế dài. Ông hiệu trưởng
lên theo. Ông đi xoa đầu từng đứa. Tiếng gậy của ông đập nhẹ và rời rạc trên nền
toa xe. Ông nhờ ông giám thị soát lại quần áo, đầu tóc chúng tôi. Tấn nói :
- Đi xe lửa ớn quá.
Ông hiệu trưởng hỏi :
- Sao mà ớn?
- Con thấy người ta nói hồi này xe lửa hay bị giật mìn, trật
đường ray luôn.
Chúng tôi im lặng. Ông hiệu trưởng cũng im lặng lâu lắm, khi
ông cất tiếng nói, nghe giọng ông, tôi biết rằng ông đã lo lắng thật sự.
- Thì cũng cầu ở trời chứ biết sao.
Hành khách lên đã khá đông. Tàu sắp chạy. Ông lại đi nắm tay
từng đứa và dặn dò :
- Nếu chẳng may có việc gì xảy ra thì mấy em cứ chui nằm dưới
gầm ghế. Có cái gì rơi nó cũng không đè lên người. Nhớ kêu thật lớn cho người
ta biết người ta tới cứu... Thôi chúc các em may mắn.
Chúng tôi lên tiếng chào ông và ông giám thị. Tiếng gậy của
ông khua chậm chạp và xa dần ở cuối toa.
Tàu chuyển bánh trong tiếng xôn xao, trong bầu không khí còn
gây gây lạnh. Chuyến đi này đã được lo liệu đầy đủ mọi phí tổn. Chúng tôi chỉ
việc ngồi yên để được đưa đi, cũng như suốt đời chúng tôi đã quen phó mặc. Ngay
trong đời sống, chúng tôi cũng chỉ là những hành khách hiền lành và thiệt thòi,
lặng lẽ đi trên con đường nhỏ hẹp số mệnh đã ban cho.
Tôi không phân vân thắc mắc về chuyện những quả mìn nằm giữa
đường sắt rình chờ lật tung các toa tàu. Tôi muốn được ngồi thật yên tĩnh như
người ngủ. Gió bên ngoài đem cái lạnh ùa qua cửa sổ quấn lấy đầu, mặt tôi. Đặt
tay một cách hờ hững lên vai Hoành, tôi nhớ lại câu nói của Vĩnh :
- Suốt đời ngồi tù trong bóng tối thì thay một phòng giam nào
có nghĩa lý gì...
Chẳng hiểu sau ba tháng hè, không được trở lại trường, không
về Lào thì hắn sẽ đi đâu. Tiếng than của hắn vang vang dội vào bốn phía tường.
Dù sao, hắn còn muốn về một nơi nào đó.
Một tiếng ho bật lên ở cuối toa xe và biến ngay trong tiếng
gió. Tôi nghe vọng lại trong lòng nỗi cô đơn của tiếng đầu gậy dò đường khua chập
chờn trên một con đường hoang vắng...
Chương hai
Con tàu lướt êm ái trên đường sắt gây buồn ngủ. Nhịp rung động
đều đặn của nó hình như thấm cả vào lưng tôi. Bây giờ, không còn biết nó chạy
qua vùng nào. Phải chờ một người bạn đồng hành sáng mắt nào đó lên tiếng. Đối với
tôi khung cảnh rõ rệt bên ngoài chỉ là gió và ánh nắng. Chắc mặt trời đã lên
cao.
Bao nhiêu ngày tháng đã qua rồi kể từ ngày ấy. Cái ngày đã cắt
cuộc đời tôi ra làm hai. Tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả những ngày sắp tới để sống
lại một ngày, chỉ một ngày thôi, trong quãng đời còn ánh sáng. Ngày tháng đã
làm nhạt nhòa khung cảnh bên ngoài con tàu. Trí nhớ chỉ còn rời rạc hình ảnh
vài cây cau, cây dừa, những mái nhà tranh, một vùng đồi núi. Những hình ảnh đó
xáo trộn, chồng chất lên nhau và cứ nghèo nàn dần.
Nhưng hình ảnh trước phút gia đình tôi gặp tai nạn tôi nhớ rõ
như nhớ hình dạng năm ngón tay trên bàn tay mình. Bây giờ, thỉnh thoảng trong
giấc mơ, tôi còn gặp lại toa tàu ấy cùng cha mẹ. Trong hơn một năm nằm trên giường
bệnh, hình ảnh tôi nhớ đến ngay cả trong lúc mê sảng vẫn không ngoài những giây
phút ấy.
Định mệnh đã đẩy tôi từ ánh sáng qua bóng tối vào một buổi
sáng.
Cha tôi xin đổi vào Sài Gòn làm việc và được chấp thuận. Cả
nhà sửa soạn lên đường. Mẹ hy vọng vào Sài Gòn sẽ mở một hiệu tạp hóa nhỏ ở
vùng ngoại ô. Chắc hai người đã bàn tính với nhau thật nhiều, nhưng tôi chỉ biết
có thế. Cha đã mua một căn nhà ở ngoại ô. Căn nhà đó mẹ và tôi không bao giờ đặt
chân tới.
Không một triệu chứng, điềm gở nào báo trước gia đình tôi sẽ
gặp nạn. Chú thím tôi ra tận ga tiễn chân. Chỉ có mẹ và thím rơm rớm nước mắt.
Chú nhét vào tay tôi mấy tờ giấy bạc. Tôi còn nhớ chú bảo :
- Vào Sài Gòn phải học thật giỏi để viết thư về cho chú mừng.
Vậy mà đó là lần cuối cùng cả gia đình tôi trông thấy chú
thím, trông thấy những mái nhà thấp lè tè của cái tỉnh nhỏ, nơi tôi ra đời.
Đoàn tàu chạy được khá lâu mới gặp nạn. Tôi còn nhớ đã dựa
vào mẹ ngủ một giấc dài. Tỉnh dậy, tôi kêu đói, mẹ đưa cho khúc bánh mì. Tôi ăn
hết bánh, rồi quỳ hai chân lên ghế, nhìn phong cảnh qua cửa sổ. Cha tôi bảo :
- Đừng có thò đầu, thò tay ra ngoài.
Đó là lời khuyên cuối cùng của người.
Nhưng tai nạn không vào theo lối cửa sổ mà nằm chờ sẵn trên
đường sắt. Tôi không nghe tiếng nổ. Có lẽ trước lúc ngất đi tôi cảm thấy rùng
mình như gặp gió lạnh. Thật là êm ái, nhẹ nhàng. Giây phút khủng khiếp không phải
lúc đó, mà là lúc tỉnh dậy sau tai họa.
Thời gian nằm nhà thương là cơn ác mộng đáng sợ hơn cái chết.
Hình như sự rối loạn thần kinh và những ống thuốc ngủ đã giúp tôi sống sót.
Trong cơn đau đớn tột cùng tôi đã mất sự suy nghĩ sáng suốt, cũng là một điều
hay.
Khi biết rõ mình đã tỉnh dậy, nhưng chỉ tỉnh dậy có một nửa,
tôi vùng vẫy kêu la. Người ta phải buộc tay chân tôi vào giường để những vết
thương trên người khỏi chảy máu trở lại.
Câu nói đủ nghĩa và dài đầu tiên tôi nói với người y tá :
- Cô ơi! Sao cháu chẳng trông thấy gì cả? Sao cháu cứ bị bịt
mắt mãi thế?
Người y tá nói dối để an ủi tôi :
- Mai mốt cháu khỏi hẳn cô sẽ mở băng mắt cho cháu.
Cũng bằng phương pháp nói dối như thế người ta nói về cha mẹ
tôi để cho tôi đủ sức chịu đựng.
Mọi người ban phát cho tôi các chi tiết bi đát một cách thật
chậm chạp. Sự khéo léo tế nhị đó chỉ làm thời gian đau đớn kéo dài. Trong những
tuần đầu tôi chỉ kêu gào mà không khóc được. Mỗi lần khóc là mũi bị nghẹt, hai
mắt nhức nhối như xương sọ sắp nứt ra. Tôi gặp khó khăn, rắc rối ngay cả lúc muốn
bày tỏ sự đau đớn, khổ sở của mình.
Về sau, căn cứ vào những chi tiết do người này người kia kể,
tôi biết là đám tang cha mẹ đã được cử hành trong lúc tôi nửa sống, nửa chết.
Bàn tay định mệnh đã quá nhân đạo hay quá tàn ác khi cho tôi sống sót? Điều đó
có lẽ tôi chỉ biết khi sống hết cuộc đời mình.
Bóng tối vĩnh viễn vây quanh đã đột ngột đẩy tôi vào một thế
giới lạ, sống một cuộc đời khác.
Khi được chú thím đưa về nhà nuôi, tôi nằm ngồi quanh quẩn ở
giường và chưa nghĩ đến việc cố gắng sử dụng các giác quan còn lại. Thời gian
được săn sóc cẩn thận kéo dài hơn một năm. Họ hàng và bạn bè của cha mẹ tôi đến
thăm luôn. Tôi tìm lại sự tin tưởng, yên tĩnh của tâm hồn trong những lời vỗ về
an ủi.
Nhưng tình thương hình như cũng là một thứ chóng mòn. Sự xấu
số của một đứa trẻ lôi kéo sự chú ý của mọi người được hơn một năm trời đã là
nhiều rồi.
Mọi người quên nỗi khổ của tôi, tôi chỉ mất những lời thăm hỏi,
an ủi. Nhưng chú thím quên nỗi khổ của tôi, tôi mất dần sự che chở, săn sóc.
Thím nói xẵng với tôi lần đầu tiên khi tôi làm vỡ cái ấm nước.
Sau thời gian dài quanh quẩn bên giường, tôi bắt đầu khao khát
được ra khỏi căn buồng chật hẹp. Tôi thèm được rờ rẫm mọi thứ trong nhà. Mỗi
khi lần ra cửa chính đứng, tôi cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Tiếng động ngoài
phố làm bớt cảm thấy thế giới của mình nhỏ hẹp. Tôi vẫn hy vọng sẽ thấy được mờ
mờ khi trời nắng to. Một lần, tôi men theo vách tường lần mò xuống bếp. Lúc đó,
chú tôi đi làm và tôi tưởng thím tôi đi chợ. Thằng Khánh, em họ tôi, bỏ đi
chơi. Nó có nhiệm vụ dắt tôi đi lại trong nhà. Nhưng có lẽ đã chán ông anh nằm
lì một chỗ, không thể chơi chung với nó một trò chơi gì, nó luôn luôn đi với lũ
trẻ hàng xóm. Xuống tới bếp, tôi đụng phải cái bàn và quơ đổ ấm nước. Ấm nước
rơi xuống đất vỡ tan. Đúng lúc đó, tiếng thím tôi vang lên ở cửa bếp khiến tôi
giật mình thêm một lần.
- Mắt mũi đã thế còn hay đi! Sao không bảo thằng Khánh nó dắt?
Tôi không biết thím nghe tiếng cái ấm rơi chạy vào, hay đã đứng
đấy từ lâu để quan sát tôi. Tôi bào chữa :
- Thằng Khánh đi chơi.
- Thì đợi nó về một chút không được sao? Cần gì mà vội thế.
Tôi không biết trả lời thế nào cho thím khỏi giận, chỉ đáp nhỏ
:
- Cháu khát.
Thím không nói gì. Tôi nghe bước chân thím lại gần rồi có tiếng
những mảnh ấm vỡ được vơ lại, tiếng chổi quét. Tôi lần theo bờ tường lặng lẽ bỏ
lên nhà, vào buồng ngồi, vừa hối hận vừa buồn. Buổi trưa trong bữa cơm, thím
nói với chú :
- Mai phải mua cái ấm khác. Thương nó làm vỡ cái ấm kia rồi!
Câu nói cố làm ra vẻ thản nhiên, nhưng tôi thấy ngay giọng
thím phảng phất một ý tố cáo, trách cứ. Không hiểu sự bất hạnh đã khiến tôi hay
có những ý tưởng đen tối, hoặc giúp tôi tinh tế hơn trong việc suy đoán ý nghĩ
của người khác? Nhưng lúc đó tôi tin rằng thím đã bắt đầu khó chịu vì thằng
cháu rồi. Chú tôi nói, giọng khoan dung hơn :
- Cháu chưa quen đi lại, phải cẩn thận mới được.
Khi thím sinh em bé, tình thương và chỗ ở dành cho tôi thu hẹp
hơn nữa... Căn buồng được che màn gió, dành cho thím. Tôi ở trên căn gác xép.
Suốt một tháng trời tôi lên thang, xuống thang bằng cách bò. Buổi trưa, gác quá
nóng, tôi không dám lén xuống nhà vì sợ va chạm đồ vật làm chú tôi mất giấc ngủ
trưa. Đợi cho cái nóng dịu xuống, tôi bắt đầu ngủ. Giấc ngủ kéo dài, nặng nề, khi
thức dậy vào buổi chiều, tôi bỗng rơi vào tâm trạng hoang mang buồn khổ lạ
lùng. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu sao hồi ấy, sau giấc ngủ, lại cảm thấy
sợ hãi, buồn bã đến thế.
Thằng Khánh bị mẹ sai vặt nhiều quá, bắt đầu quên chuyện giúp
đỡ tôi. Nhiều khi, biết nó đứng gần, tôi lên tiếng nhờ nó một việc, nó không
thèm nói gì, im lặng lẻn đi chỗ khác.
Thính giác tôi phát triển mạnh, tinh tế hơn. Thằng Khánh ở gần,
dù bước nhẹ đến thế nào tôi cũng nghe được. Chính Khánh đã cho tôi những cảm
giác khổ sở đầu tiên khi bị hắt hủi. Thời gian này tôi khóc lóc nhiều nhất. Sau
mỗi giấc ngủ trưa tôi lại khóc như một người mê sảng, khóc không vì một lý do
nào rõ rệt.
Mới đầu thím tôi còn hỏi xẵng :
- Làm sao mày khóc?
Tôi không tìm được lý do để bào chữa cho những cơn khóc vô lý
của mình.
Về sau, thím chua chát :
- Trời ơi! Ma ám mày hay sao? Mày khóc như nhà có người chết!
Tao với chú mày có bỏ đói mày bữa nào đâu?
Tôi nghĩ mình bậy và cho rằng giấc ngủ trưa là nguyên nhân
chính. Tôi cố thức. Nhưng chính sự thức tỉnh này lại khiến tôi phạm thêm một lỗi
lầm nữa.
Một buổi trưa, tin rằng cả nhà đã ngủ hết, tôi lần xuống
thang mò mẫm thò tay vào gầm tủ. Gầm tủ là chỗ thằng Khánh tích trữ đồ chơi.
Tôi thích được ngồi cả giờ để sờ mó các món đó. Đồ chơi quý giá nhất của nó là
chiếc xe hơi bằng sắt, chỉ xiết mạnh hai bánh sau xe xuống nền nhà là kêu xè
lên một tiếng, rồi chạy theo vòng tròn.
Vừa quơ tay vào gầm tủ tôi vớ ngay được chiếc xe.
Tôi cố gắng trở lên gác mà không gây tiếng động. Có món đồ
chơi này trong tay, tôi quên cả nóng nực. Tôi đẩy cho nó chạy trên sàn gác. Tôi
quỳ xuống lắng tai nghe tiếng xe chạy và sung sướng, bồi hồi.
Một lát sau, thình lình có tiếng chân thằng Khánh chạy rầm rập
lên thang. Thoắt một cái nó đã đến cạnh tôi. Nó giật lấy cái xe và hét :
- Đồ ăn cắp.
Vì nó giật nhanh, tôi lại không thấy đường để buông tay ra kịp
thời, cái cạnh sắc của chiếc xe cứa vào ngón tay trỏ của tôi đau nhói. Cơn giận
kéo đến bất ngờ. Tôi túm ngay nó, đấm cho một cái. Thằng Khánh lăn đùng ra sàn
gác kêu la như cháy nhà. Hai chân nó vừa giẫy đành đạch vừa đạp túi bụi vào mặt
tôi.
Cả chú thím cùng chạy lên. Thằng Khánh khóc nức nở. Thím tôi
hét :
- Trời ơi! Thằng này nó khùng rồi, nó đánh thằng bé đỏ ửng cả
ngực kìa.
Cơn giận tan biến ngay, tôi bắt đầu run. Chú túm lấy cả hai đứa,
cho mỗi đứa một bạt tai. Theo chú, cả hai đều có lỗi. Nhưng thím quy hẳn lỗi về
tôi. Thím quát đuổi Khánh xuống nhà. Trong lúc khóc, tôi quên nghe tiếng động
xung quanh. Tôi giơ ngón tay chảy máu lên để thanh minh và chờ đợi. Đến lúc
nghe tiếng chú nói ở dưới nhà tôi mới biết là chỉ còn một mình mình trên gác.
Tôi nín khóc, đút ngón tay vào miệng và ngậm chặt cho máu thôi chảy.
Khi chú đi làm rồi thím mới tỏ rõ lập trường của mình. Thím
tin là tôi điên khùng và trở thành nguy hiểm rồi. Thím khuyên thằng Khánh đừng
có đến gần tôi mà có khi bị bóp cổ chết không ai biết. Tôi nằm ngậm ngón tay, hối
hận và kinh hãi.
Từ ngày đó, thằng Khánh tuyệt giao với tôi. Mất thằng bạn nhỏ
duy nhất, tôi trở nên ít nói vì không còn biết nói với ai. Chính vì thế mà sau
này, khi đã vào trường học, phải mất một thời gian dài mới nói năng rõ ràng,
trôi chảy được. Tôi cứ nằm lì trên gác xép, cố đè nén nỗi khát khao được ra
ngoài để sờ mó mọi vật và tìm nghe tiếng động lạ.
Thỉnh thoảng, tôi bất ngờ bị gọi xuống vào những dịp có người
bạn của chú hoặc bạn cũ của cha tôi đến thăm. Có người đặt tay lên đầu tôi và
nói mãi hai tiếng "Tội nghiệp!". Có người lại ấn nhẹ ngón tay lên mí
mắt tôi để thăm dò sự hư hỏng trống rỗng bên trong. Mới đầu, tôi thích những cuộc
thăm viếng đó vì có dịp nắm và rờ rẫm những bàn tay người lạ. Những ngón tay
đeo nhẫn và cổ tay đeo đồng hồ được tôi khoái nhất. Xúc giác trong lúc đòi hỏi
sự phát triển bắt tôi không được quyền bỏ qua những thứ đó. Một điều hấp dẫn nữa
là khách hay nhắc nhở đến những ngày cha mẹ tôi còn sống. Dựa vào lời khách,
tôi nhớ lại được nhiều hình ảnh đã quên hẳn.
Nhưng sau, chú tôi cho cái việc tôi mân mê từng ngón tay, cái
nhẫn, chiếc đồng hồ của khách là một điều vô lễ. Chú bắt tôi đứng khoanh tay
khi có khách và cấm khóc khi nghe khách nhắc đến cha mẹ mình. Thành ra những lần
khoanh tay đứng trình diện quá lâu tôi lại thèm được nằm yên ổn trên cái gác
xép. Những dịp được lên tiếng của tôi cứ hiếm hoi dần và chú thím thì cho rằng
tôi càng ngày càng có vẻ đần độn.
Trong lúc nói chuyện với khách chú để lộ quyết định về tương
lai tôi. Chú muốn đưa tôi đến nhà một ông thầy bói trong tỉnh để học nghề.
"Cái nghề đó nếu được thánh độ thì cũng dư giả" câu nói đó chú thường
dùng để đánh tan sự bi quan của khách, an ủi tôi.
Công việc học tập sẽ khởi sự khi tôi có vẻ bớt đần độn. Và
tôi được quanh quẩn một mình trên gác xép để chờ ngày khôn ngoan hơn.
Nhưng tôi không có số làm nghề tiên đoán tương lai cho thiên
hạ.
Chú tôi được một người bạn đồng nghiệp mách cho địa chỉ một
ngôi trường nuôi dạy người mù ở Sài Gòn. Lối thoát tốt đẹp mở ra cho tôi và cả
cho chú thím.
Một buổi sáng, tôi vừa khóc vừa nắm tay chú đi ra bến xe đò để
tìm cái lối thoát tốt đẹp đó.
Căn gác xép không phải là một thiên đường, vậy mà lần đầu
tiên phải rời bỏ nó tôi khổ sở quá. Bước chập chờn trên một con đường lạ, tôi bắt
đầu kinh hãi vì sự thiếu một giác quan của mình.
Chú nhờ một bà bán tạp hóa ở cùng phố đưa tôi vào Sài Gòn
nhân dịp đi mua hàng. Ở bến xe đò, chú hấp tấp dặn dò tôi vài câu rồi đi làm
ngay cho kịp giờ. Mất cánh tay chú, tôi vội bám chặt cánh tay bà bán tạp hóa :
- Bà đừng bỏ cháu lạc nhé!
Bà ta cười thành tiếng rồi dịu dàng nói :
- Không lạc được đâu.
- Chú cháu đi rồi phải không?
- Rồi.
- Vào Sài Gòn người ta không nuôi cháu, bà lại cho cháu về
nhé.
Suốt quãng đường dài mỗi lần xe ngừng, bà lại mua cho tôi những
món quà vặt. Đã lâu lắm tôi không được chiều chuộng như thế. Lúc đó, trí óc non
nớt của tôi chưa biết nhớ nhiều về quá khứ và nghĩ xa về tương lai. Những giây
phút được săn sóc trở thành những phút giây hạnh phúc.
Không có trái mìn nào nằm dọc đường để đón đợi, đưa tôi đi
theo cha mẹ. Chuyến, đi bình yên hoàn toàn.
Một bà ngồi ở băng trước tò mò hỏi về tôi. Bà bán tạp hóa giải
thích rõ ràng. Bà kia suýt xoa thương hại. Sau đó, bà kể về trường hợp một đứa
con hoang mà bà biết. Nó bị bỏ rơi ngay lúc vừa chào đời. Bà có ý so sánh sự bi
đát của hai thân phận. Tôi nghĩ là đứa trẻ đó dù sao cũng có chỗ đỡ khổ hơn
tôi. Nó không có những kỷ niệm về một gia đình ấm cúng với tình thương của cha
mẹ để mà nhớ tiếc.
° ° °
Không hiểu do sự lầm lẫn nào mà nơi tôi được đưa đến đầu tiên
lại là trường nữ sinh mù. Cũng may, hồi ấy nhà trường còn chịu nhận nam sinh nhỏ.
Trường do một bà hiệu trưởng và ba bà sơ trông nom. Số học sinh chưa đầy hai chục.
Đã có hai nam sinh ở đó và một trong hai người sau này trở thành bạn thân của
tôi.
Số chữ nghĩa tôi học được hồi còn sáng mắt đã tan biến theo
tai nạn. Tôi đến trường ngờ nghệch như đứa trẻ mới đến lớp học lần đầu. Sự lo sợ
và nỗi nhớ nhà hành hạ tôi hơn một tuần lễ. Sau đó là những ngày cố gắng làm
quen với hoàn cảnh mới. Trường có hai phòng học thật rộng dành cho nữ sinh.
Lĩnh, Vân và tôi ngồi học bên một cái bàn kê dưới chân cầu thang. Giờ học thật
yên tĩnh và nghiêm trang. Nữ sinh ngủ trên lầu, mỗi người có một cái giường, một
tủ nhỏ đựng quần áo và các món lặt vặt riêng. Ba chúng tôi ngủ trên ghế bố ở
phòng chứa đồ đạc.
Vân còn nhỏ và ít nói. Lĩnh thì lanh lợi và nghịch ngợm nhất
trường. Hắn mắc bệnh đậu mùa rồi bị mù. Thỉnh thoảng cha mẹ hoặc anh chị hắn
vào thăm. Chỉ những lúc đó Lĩnh mới có vẻ xúc động, yếu đuối đôi chút. Lĩnh cao
hơn tôi, thân hình gầy còm. Tôi thích mân mê cái mấu xương nhô ra ở cổ tay hắn.
Hắn mù từ hồi ba tuổi nên các giác quan khác của hắn tinh tế hơn tôi nhiều.
Đêm đầu, hắn thức thật khuya, bắt tôi thức theo để nói chuyện.
Đêm thứ hai, tôi vừa chợp ngủ, Lĩnh đã lay tôi dậy. Tôi hỏi :
- Gì đó?
- Đi chơi một vòng quanh nhà không?
- Khuya rồi mà.
- Khuya đi càng thích.
- Các sơ cấm ra khỏi giường.
- Mày nhát như thằng Vân. Các bà ấy ngủ rồi làm sao biết được.
Tôi nhất định nằm ì. Lĩnh lắc chân tôi :
- Đi mày.
- Tao chưa thuộc đường, đi là đụng liền.
- Tao dắt.
Tôi vẫn cương quyết từ chối. Lĩnh trở về cái ghế bố của hắn,
chắc hắn bực mình lắm.
Tuy vậy, hắn không giận tôi. Lúc rảnh, Lĩnh dẫn tôi đi quanh
trường, ngõ ngách nào hắn cũng biết. Hắn nhớ từng viên gạch vỡ ở sân. Dãy chậu
cây trồng sát tường bao quanh trường có bao nhiêu bông hoa hắn cũng biết rõ. Nhờ
vậy, chỉ sau nửa tháng, tôi đã có thể đi lại trong trường một cách tự nhiên. Khả
năng nhận biết sự vật của tôi cũng phát triển nhanh hơn. Trường rộng hơn nhà
chú thím. Bước chân của tôi không bị gò bó. Trường có nhiều người, tôi tập nhận
ra có người đang tiến về phía mình để tránh kịp thời. Thỉnh thoảng tôi mới vấp
phải một học sinh quá nhỏ thấp, hoặc một học sinh đang ngồi.
Buổi chiều, sau giờ cơm, Lĩnh thường dẫn tôi ra khoảng sân có
trải cát. Chúng tôi đứng tựa vào tường lắng nghe tiếng động ngoài đường. Lĩnh rất
khoái nghe tiếng còi của ông cảnh sát. Hắn nói: "Ông ta đứng gác ở góc đường
chỉ cách tụi mình chừng mười bước chân". Mỗi lần có tiếng còi ré lên, Lĩnh
cuống quýt vừa cười vừa lắc vai tôi :
- Đó, ông ấy thổi còi đó. Chắc có người nào đi ẩu rồi.
Lĩnh khoe với tôi là hắn đã từng được sờ súng của ông cảnh
sát. Súng để trong bao da. ông cảnh sát ăn mặc "oai" lắm. Tôi thắc mắc
:
- Mày thấy đường đâu mà biết ông ấy ăn mặc oai?
- Lính nào cũng ăn mặc oai hết.
Hắn còn tả cho tôi biết đây là một ngã tư. Góc đường bên kia
có trại lính. Khi tôi tỏ ý nghi ngờ về sự hiểu biết của hắn, hắn cáu :
- Tao đi lại ở đường đó cả năm trời mà không biết sao. Hồi
trước, trường đâu có cho mình ngủ lại, đến học rồi về. Có bữa không ai đưa tao
đi học, tao đi một mình. Chính ông cảnh sát dắt tao qua đường và cho tao rờ
súng. Có bữa tao xin thổi còi mà ông ấy không cho.
Bây giờ được ở luôn trong trường, Lĩnh đâm ra nhớ ông cảnh
sát.
Chúng tôi đi quanh quẩn ở chân tường cho đến lúc hết giờ nghỉ.
Các nữ sinh ngồi tụ tập trước hiên hát hoặc nói chuyện với nhau. Chúng tôi
không được tham dự vào sinh hoạt của họ. Nữ sinh ngoan, trọng kỷ luật và rất lễ
phép. Bà sơ dạy chúng tôi thường khuyên Lĩnh nên theo gương họ, bớt ngỗ nghịch
đi.
Nhưng có lẽ chẳng bao giờ Lĩnh ngoan được như các nữ sinh.
Một lần, vào nửa đêm, Lĩnh gọi tôi dậy, nhét vào tay tôi một
vật cứng hình bầu dục. Hắn thì thào :
- Tao tháo được cái tay nắm ở cửa ra rồi, mà giờ không biết
ráp lại làm sao.
Tôi nhổm dậy vì nghe giọng hắn có vẻ lo lắng, sợ hãi. Chúng
tôi đến cửa, loay hoay rờ rẫm một hồi. Tôi không làm sao giúp hắn ráp lại cái
tay nắm cửa vì một lý do dễ hiểu: hắn đã tháo ra bằng cách bẻ gẫy cái chốt sắt.
Cuối cùng, sợ gây tiếng động đánh thức mọi người, chúng tôi gài
lỏng lẻo cái tay nắm lên cửa rồi rút êm về giường. Sáng hôm sau, bà sơ lớn tuổi
nhất vừa chạm vào cửa, nó đã rơi xuống đất. Thủ phạm bị gọi đích danh lập tức.
Lĩnh đã có nhiều thành tích phá hoại đồ vật trong trường: ba lần làm tắc vòi nước,
hai lần làm hóc khóa cửa và đã nhiều lần tháo ráp tay nắm cửa.
Một đêm khác, tôi thức giấc và nghe những tiếng lách cách đều
đặn nổi lên ở chân cầu thang. Mới đầu, tôi tưởng trời sáng rồi. Nhưng nhận ngay
ra là mình lầm. Tiếng xe cộ ở ngoài đường rất thưa thớt. Ngoài tiếng lách cách
đó, trường không còn một tiếng động nào khác. Vả lại, đêm phủ trên người tôi một
cảm giác mát dịu đặc biệt. Chân thang ở rất gần cửa phòng chứa đồ đạc. Nghĩ đến
những chuyện ma quái tôi sợ lạnh người. Tôi muốn gọi Lĩnh hoặc Vân mà không dám.
Lát sau, có tiếng dép đi từ trên lầu xuống thang. Tiếng lách cách im bặt. Có tiếng
chân chạy và tiếng sơ già quát khẽ :
- Đứng đó.
Tới lúc ấy tôi mới hết sợ. Biết kẻ gây tiếng động không phải
là ma quái, tôi nghĩ ngay đến Lĩnh.
Buổi học hôm sau, hắn than với tôi là mỏi tay vì phải chép phạt
nhiều lần câu: "Tôi không được phá hư máy chữ".
Ngoài giờ học, các nữ sinh học đan thêu, máy vá... Khăn đan,
áo len, bao tay làm được để cả trong một cái tủ kính lớn. Lĩnh không dám đụng đến
các món đó. Thỉnh thoảng hắn chỉ rủ tôi đến đứng rờ mặt kính phẳng, mát và cái
chìa khóa tủ. Tủ luôn luôn đầy. Nhà trường lo việc bán áo len đồ thêu giùm nữ
sinh. Tiền thu được nhà trường giữ và trao lại họ khi họ rời khỏi trường. Nhờ
thế các nữ sinh chăm chỉ có thể ra trường với một món tiền hộ mệnh nho nhỏ.
Ba đứa con trai chúng tôi, ngoài giờ học, không làm được một
việc gì ra tiền. Vì thế, khi được gửi sang trường nam sinh, tôi và Vân vẫn chỉ
có cái túi rỗng. Lĩnh thì được về ở với gia đình.
Tôi đã đọc được chữ nổi. Thời gian ở trường nữ không tạo nhiều
kỷ niệm. Bầu không khí nơi đây quá trầm lặng, êm đềm.
Sang trường nam sinh, tôi va chạm ngay với một thế giới ồn
ào, phức tạp và vui nhộn. Ngay phút đầu tiên, bản năng phấn đấu của tôi đã được
dịp vùng dậy.
Khi tôi và Vân đứng chờ ở phòng trực, có đến năm sáu anh lớn
vây quanh hỏi han chúng tôi. Một người hỏi :
- Hai bồ ở đâu đến?
Sợ Vân trả lời thực thà, tôi bóp tay hắn và khai tên tỉnh lỵ,
nơi tôi sinh ra. Vân cũng khai quê hương của hắn. Như thế chúng tôi tránh được
những câu hỏi về "vụ trường nữ". Anh Thảo nói :
- Vào ở đây thế nào cũng cảm thấy buồn ít hôm vì nhớ nhà.
Nhưng đừng sợ, rồi quen hết. Tụi này có nhiều trò vui lắm, yên trí đi.
Lúc đó Sinh đã nói :
- Hai anh chàng này "tỉnh" thiệt.
Sau này tôi mới hiểu câu nói khen ngợi đó. Các học sinh nhỏ
lúc mới được đưa đến trường thường tỏ ra lo sợ hoặc buồn rầu, tuyệt vọng. Mấy học
sinh lớn phải xúm lại an ủi gợi chuyện, dẫn bạn mới đi quanh trường.
Sinh dọa :
- Hai bồ này chắc còn nhỏ, cho nằm ở khu "nước lụt"
là phải rồi.
Chưa hiểu khu "nước lụt" là thế nào, nhưng nghe giọng
Sinh, tôi đoán chỗ đó không phải là chỗ tốt. Tôi nói :
- Chúng tôi lớn rồi.
- Lớn cỡ nào?
Sinh vừa hỏi vừa tiến đến sát tôi. Tôi kiễng chân, đặt tay
lên vai hắn. Nhờ thế tôi cao hơn hắn nhiều. Vả lại, việc quyết định chỗ nằm cho
chúng tôi là ở ông giám thị. Tôi và Vân được chiếm hai giường ở khoảng giữa
phòng, rất xa khu "nước lụt". Đó là khu dành cho các cậu bé dưới mười
tuổi. Ban đêm, trong lúc mê ngủ, các cậu thường nhầm giường mình là cái cầu
tiêu. Công việc giặt giũ giường nệm, quần áo cho các cậu được thực hiện luôn
nhưng khu đó vẫn không hết mùi "nước lụt".
Thế giới mới của tôi luôn luôn ồn ào. Quanh tôi thường vang
lên những câu đùa cợt nhiều khi cay đắng. Anh chàng Lĩnh có tài tháo ráp đồ đạc,
phá phách, nghịch ngợm nếu vào đây chắc cũng khó lập được những thành tích xuất
sắc hơn một số học sinh cũ.
Tôi phải tập nói nhanh, hiểu nhanh để theo kịp các bạn. Các bạn
tôi đều có những nỗi khổ riêng và những kinh nghiệm chua xót. Họ truyền cho tôi
sự lo lắng về tương lai. Trong khi vui vẻ chỉ trích nhau, chúng tôi cứ vô tình
tìm ra những điểm bấp bênh nơi cuộc đời của bè bạn, cuộc đời mình. Các anh lớn
thường không còn bực bội, băn khoăn vì bóng tối nữa. Ngày tháng qua đi đã làm
cho họ quen dần. Vấn đề của họ là tìm cách phấn đấu làm sao để khỏi nghèo nàn,
đói rách.
Giường tôi ở giữa giường Hoan và giường anh San. Hoan thân với
tôi ngay. Những ngày đầu tôi không dám rời cánh tay Hoan mỗi khi ra khỏi phòng
học hay phòng ngủ. Hoan hiền lành ít nói về mình và có những ý tưởng thật bi
quan. Đôi khi tôi hỏi về gia đình anh, anh trả lời những câu ngắn, mơ hồ. Có
lúc Hoan bảo là cha mẹ còn cả, có lúc anh lại nhận mình là đứa trẻ mồ côi.
Ngoài cái thú đi quanh sân nói chuyện với tôi, Hoan chỉ còn
thích ngồi một mình trên ghế đá ở nhà chơi gẩy đàn. Hoan có thể ngồi như thế
ba, bốn giờ liền. Trong những ngày ở cạnh nhau, tôi dò dẫm tìm những câu gợi
chuyện có thể khiến Hoan vui vẻ kể lể. Nhưng tôi thất bại. Hoan chỉ thích nói
những câu buồn rồi im lặng thật lâu. Có lần anh bảo tôi :
- Nỗi khổ của chúng mình có lời an ủi nào làm vơi được. Khi
biết niềm hy vọng chỉ là ảo vọng, mình sống thật khó khăn.
- Hoan hy vọng gì?
- Tìm lại ánh sáng.
Có lẽ hy vọng quá to tát đó đã làm anh đau khổ. Tôi nghĩ mình
còn sung sướng hơn Hoan. Mỗi ngày qua đi giúp tôi trút bớt nỗi khổ vào quá khứ.
Không quên những ngày kinh hoàng, nhưng chẳng còn bối rối, đau đớn khi nhớ lại.
Mỗi khi có dịp để vui cười, tôi không bỏ phí.
Anh San cũng ít nói như Hoan, nhưng yêu đời hơn. San ăn, ngủ,
làm việc, nói chuyện rất điều độ. Thỉnh thoảng anh ném sang giường tôi vài cái
kẹo, cái bánh và nói gọn: "Ăn đi". San khuyên tôi: "Không biết
đàn biết hát như cậu thật dở. ít nhất cũng phải hát được vài bài để khi đói có
thể nghêu ngao kiếm tiền". Một buổi tối, tôi sang giường anh ngồi chơi.
San đặt tay tôi lên mép anh ta rồi hỏi :
- Cậu coi râu anh dài chưa?
- Trời! Anh này già ghê!
- Già gì. Cạo phăng đi lại trẻ ngay.
- Sao không cạo?
- Để ít bữa làm kỷ niệm!
Nhớ ngày mình lên đường, anh cao hứng kể :
- Hồi còn ở với gia đình, một hôm anh sờ lên cằm và chợt
nghĩ: "Nguy quá! Mình có râu mép cứng rồi, vậy mà cứ ở nhà ăn bám gia đình
mãi". Thế là anh quyết định lên đường. Gia đình anh đâu có chịu. Anh phải
trốn đi đấy chứ. Tinh thần anh cao, đâu có như các cậu, được đưa vào trường còn
khóc sướt mướt.
Từ quê anh lên đây phải qua "bắc" hai lần. Tới Sài
Gòn, xuống xe, anh còn đúng năm chục. Lão xích lô thả anh xuống đầu một cái ngõ
hẻm. Lão kiếm nhà cho anh một hồi không thấy thì lên xe dông luôn. Anh hoảng
quá đi quanh quẩn một hồi hỏi thăm vẫn không kiếm ra nhà ông bác. Túi còn ba chục,
bụng đói như cào mà không dám ăn cái gì. May có một ông trong xóm cho ngủ nhờ
qua đêm, lại cho ăn nữa.
Hôm sau, ông ấy dẫn anh đến giới thiệu với một vị linh mục.
Anh kể hoàn cảnh. Linh mục hỏi: "Nếu không tìm thấy ông bác thì trở lại
quê chứ?" Anh đáp: "Con không muốn trở về, con muốn được ở lại đây kiếm
việc làm sinh sống". Thế là buổi chiều anh được gửi lên một cái trại gì đó
ở gần Biên Hòa. Cậu biết trại gì không? Anh vừa vào cổng đã có người nói:
"Tội nghiệp! Đã mù còn bị lao nữa!" Anh cãi: "Tôi đâu có bị ho
lao". Lúc đó người ta mới giải thích cho mình biết đây là trại tiểu công
nghệ của các người già, người bệnh. Anh hoảng quá, không dám ăn cơm ở trại, xin
người tài xế cho về gấp. Vị linh mục có vẻ giận lắm, nhưng vẫn cho tá túc.
Khi được ông lo cho vào trường mù anh mừng quá. Anh lớn tuổi
nên cái vụ xin vào trường hơi trục trặc. Bây giờ, khỏi ăn bám gia đình, lại có
ít chữ nghĩa trong bụng. Chuyến ra đi của anh đâu có dở...
Anh San có vẻ hài lòng, tự tin. Trong trường hiếm có người
vui với hiện tại của mình như thế. Câu chuyện của anh có một chi tiết làm tôi
xúc động. Anh đã sờ râu để biết mình lớn. Tôi cũng đang lớn và tôi không biết
rõ thân thể tôi phát triển nhanh chậm như thế nào. Hồi trước, sự mau lớn của
tôi làm cho cha mẹ vui mừng, nhất là mẹ tôi. Tôi nhớ đến một buổi sáng ngày mồng
một Tết, mẹ vừa mở hàng cho tôi vừa chúc tôi chóng lớn. Một ngày tôi khỏe mạnh
là một niềm hân hoan của người. Bây giờ chẳng còn ai vui mừng vì tôi đang lớn.
Vân cũng làm quen với mọi người rất nhanh. Tự nhiên hắn sinh
ra ham mê các phương pháp đoán vận mệnh. Gặp ai Vân cũng muốn rờ chỉ tay để luận
về tương lai của người ta.
Sự đông đảo của trường làm cho bóng tối quanh tôi bớt vẻ trầm
lặng, lạnh lùng. Những câu chuyện của bạn bè cũng giúp quên thời gian buồn. Chỉ
có đôi khi, chợt thức giấc nửa đêm, lắng nghe tiếng xe cộ vọng lại từ những con
đường xa, tôi hoang mang, chới với. Trong đêm khuya tôi cố suy nghĩ, tìm hiểu về
những tiếng động phức tạp, bí mật. Và tôi khát khao, mơ tưởng nếp sống nhộn nhịp
bên ngoài.
° ° °
Những chiều thứ bảy, đột nhiên, chúng tôi như cùng sống lại.
Từ chốn tăm tối, cô đơn chúng tôi hân hoan trở về với cuộc đời.
Chúng tôi được sống qua một buổi chiều với rất nhiều bạn. Họ đến với những món
quà quý giá, những món quà hồi sinh cho cái thế giới chết chìm trong im lặng và
buồn rầu: nụ cười, lời ca, tiếng đàn, và những giây phút chuyện trò cởi mở.
Chúng tôi được nắm nhiều bàn tay để được tin rằng gia tài tình cảm của mình
không quá nghèo nàn.
Tất cả những giấc ngủ trưa trong ngày thứ bảy của chúng tôi đều
ngắn để góp thời gian vào buổi chiều vui. Riêng tôi, tôi hưởng thụ sự hồi sinh
từ sau buổi học sáng. Suốt buổi trưa dành để nghĩ về buổi chiều và để chờ đợi sửa
soạn.
Khoảng mới hơn một giờ trưa đã có nhiều đứa lục đục kéo nhau
xuống nhà. Vài tên ngồi yên lặng trong các lớp học. Vài tên khoác tay nhau; đi
đi lại lại trên hành lang hoặc quanh quẩn ở sân sau. Cánh cửa chính của nhà trường
được người lao công mở hé.
Niềm vui của cuộc đời sẽ từ phía đó tràn vào. Mỗi tiếng xe,
tiếng chân đi đều được chúng tôi đón đợi với sự hồi hộp, sung sướng. Người nào
đó? Đứa nào sẽ được nhảy lên reo mừng vì được gọi tên. Đứa nào sẽ được vừa cười
vừa nắm chặt cánh tay người mới tới? Rồi hỏi han, rồi nói chuyện, rồi hát cho
nhau nghe, nếu người bạn ấy lại là "của chung" của vài tên thì sự vui
mừng còn hồi hộp thở trong những tiếng gọi nhau hấp tấp: "Anh An đến Vinh
ơi! Sinh ơi! Nô ơi! Chị Hằng". Kẻ được gọi diễn tả sự sung sướng hân hoan
tuyệt vời bằng nụ cười, bằng đôi chân bước đến vội vàng, cuống quýt đến liều
lĩnh. Chỉ nghe tiếng gọi nhau đó tôi đã muốn mỉm cười vu vơ, góp vui.
Tiếng chân khách chạm trên sỏi ở sân trước nghe thật rỗ ràng.
Âm thanh khô khan, cứng nhắc mà sao kích thích lạ lùng. Nếu không sợ "lỡ
tàu" vì đón lầm, tất cả chúng tôi sẽ ào ra vây người khách để được chào hỏi
sớm hơn.
Các lớp học vang lên tiếng đàn, tiếng hát. Sân trước sân sau
tràn ngập tiếng chân bước, tiếng nói, cười. Sáng chủ nhật cũng lác đác có vài
người tới. Nhưng chỉ có chiều thứ bảy là đáng giá. Tôi muốn được ngủ cả tuần và
chỉ thức dậy vào một ngày thôi.
Ngày mới vào trường tôi không có bạn, không được chờ ai cả.
Thấy lũ bạn sửa soạn, bàn tán ầm ĩ tôi ngạc nhiên lắm. Gian
phòng ngủ dài ấm lại vì những tiếng cười nói hân hoan. Tất cả quên những câu
than, quên lời cay đắng, quên niềm tuyệt vọng! Vinh dành một bộ quần áo sạch sẽ,
đẹp đẽ nhất cho ngày thứ bảy và những dịp "đại lễ". Không được nhìn mặt
trong gương thì đỡ thấy tội nghiệp mình hơn, nhưng việc sửa soạn thật là khó
khăn. Hoan tập lại đàn để lát nữa tặng cho người bạn quý món quà âm thanh.
Khi cả bọn kéo xuống chờ đợi ở các lớp học, tôi cũng xuống
theo. Lúc ấy tôi mới biết rằng kiếm được một người bạn hằng tuần đến thăm mình
không phải việc dễ. Hoan, Nô, Vinh đột nhiên như quên hẳn tôi. Chả đứa nào chịu
giới thiệu tôi với ai hết. Họ giữ độc quyền việc tâm sự với khách. Tôi đi lang
thang qua đủ các phòng, cố góp một vài lời vu vơ vào một câu chuyện. Nhưng những
bài ca, những mẩu chuyện vui vui luôn luôn che lấp lời tôi nói.
Thỉnh thoảng có một đoàn người đến thăm trường an ủi và tặng
quà bánh. Họ từ những cơ quan từ thiện nào đó. Trước hết, họ tụ tập ở phòng ông
hiệu trưởng. Sau đó, chúng tôi được chia quà. Tôi chưa kịp ghi nhớ giọng nói của
ai thì họ đã cáo lui. Cũng có đôi khi, chúng tôi nắm chặt một vài bàn tay. Tất
cả những bàn tay ấy đều nắm lại chắc chắn và sau đó mở ra rất nhanh. Để bù cho
cái tình thân không dài quá gang tay đó, họ để lại thật nhiều kẹo bánh. Kẹo
bánh thật ngon. Nhưng khi ăn lại sượng sùng vì thật tình mình ước ao những thứ
khác. Vừa nhai vừa nhớ rõ cái cuộc đời luôn luôn cần ân huệ của mình. Miếng
ngon chưa trôi qua cổ, nỗi buồn đã ngập cả tâm hồn.
Có một lần tôi tưởng đã kiếm được một người bạn, anh ở trong
đoàn hướng đạo sinh tới thăm trường. Bàn tay anh dày, cánh tay rắn chắc. Anh có
tiếng cười to phóng túng, bao dung. Tôi ghi nhớ được giọng nói khàn khàn của
anh và cả cách anh đi. Tiếng bước chân anh bao giờ cũng dồn dập và mạnh mẽ hơn
người khác. Lúc anh đang đi thật dễ nhận ra. Tôi nói với anh :
- Chiều thứ bảy sau anh lại đến nhé!
Anh đặt một bàn tay lên vai tôi bóp nhẹ thân mật :
- Tôi sẽ cố gắng đến thăm Thương.
Câu nói đó khiến tôi sung sướng lai rai được cả tuần. Sau bốn
tuần lễ mất công sửa soạn, chờ đợi, hồi hộp, tôi mới hoàn toàn thất vọng. Thêm
một lần nữa, niềm vui biến vào trong bóng tối mịt mù. Nhưng tôi còn giữ được cảm
giác về bàn tay dầy, chắc và giọng nói khàn khàn. Những thứ nho nhỏ đó góp nhặt
lại đôi khi cũng giúp mình cảm thấy bớt cô đơn.
Đã quen với sự tuyệt vọng, sự hất hủi, lạnh nhạt, tôi cũng dần
dần làm quen được với những chiều thứ bảy không có bạn. Tôi ngại việc dự cuộc họp
mặt ở các lớp học. Mình bị coi như một cái bàn cái ghế! Nghe thiên hạ cười, tự
nhiên mình muốn khóc. Tôi xuống nhà chơi ngồi một mình. Nơi đây có những chiếc
ghế đá đặt sát tường. Thỉnh thoảng có một vài đứa nhỏ cũng không có bạn vì còn
bé quá, đi vơ vẩn đến gần tôi. Tôi gọi nó lại. Chúng tôi ngồi dựa vào nhau, dựa
vào tường ôm gối yên lặng. Lúc mệt có thể ngủ lơ mơ, không ngủ được thì nghe những
tiếng động quanh mình.
Tiếng đàn hát từ xa vọng lại, tiếng chân bước quanh sân. Tôi
lắng nghe cả những câu nói thật nhỏ để đoán xem người nói là ai. Có khi tôi cố
tìm tòi những tiếng động ở thật xa để đo lường chiều rộng cái thế giới tăm tối
của mình. Nhờ vậy, thỉnh thoảng tôi đón được vài tiếng cười trong trẻo vang lên
bất ngờ. Tiếng cười bật ra từ ngôi nhà bên cạnh trường như được treo lơ lửng giữa
lưng trời.
Có khi tiếng cười ngắn ngủi, hết ngay như không muốn chạm mạnh
vào sự lặng lẽ. Có khi chuỗi cười kéo dài ròn rã, hồn nhiên. Sau này anh Phong cho
biết chủ nhân những tiếng cười yêu đời đó là các nữ sinh ở lưu xá bên cạnh trường.
Họ đứng trên hành lang lầu hai, đôi khi tò mò nhìn chúng tôi. Anh Phong không cần
tả tôi cũng cảm thấy được tất cả sự vui tươi nhí nhảnh của họ. Vào những ngày
thuận chiều gió, tiếng họ lao xao bay phớt qua tôi. Tôi không thể nghe được từng
câu nói, nhưng các âm thanh pha trộn đó tràn đầy sức sống, bừng bừng niềm tin ở
tương lai. Có lẽ những cô gái đó cũng bị nhốt như chúng tôi. Nhưng chắc chắn
khi họ bước ra khỏi cổng lưu xá, cuộc đời sẽ dang rộng đôi tay trìu mến đón tiếp
họ. Tiếng cười, tiếng nói của họ bao giờ cũng tự tin, đắc thắng như một ca khúc
khải hoàn.
Bỗng vào một đêm Trung Thu, cả cái thế giới nữ sinh nhí nhảnh
yêu đời đó bước xuống thế giới lạnh lẽo của trường mù.
Trung Thu được gợi lên nhờ những miếng bánh dẻo, bánh nướng.
Đèn, trăng chỉ là những tiếng mơ hồ trừu tượng. Mọi năm, chúng tôi thấy Trung
Thu bất ngờ đến với những cái bánh thêm vào buổi ăn chiều. Tôi vẫn đi ngủ sớm
như thường lệ. Trăng, sao ở ngoài cuộc đời của chúng tôi. Trong khi đó, bên lưu
xá các cô họp mặt ca hát. Chúng tôi thường ngồi lặng lẽ trên ghế đá trong nhà
chơi, vui lây bằng cách mỉm cười theo những tiếng cười to, hồn nhiên nhất. Khi
sự ồn ào náo động đi ngủ theo họ, tôi chậm rãi lên thang lầu, lần mò trong bóng
tối, nghe thấm sự chớm lạnh của đêm trường.
Có lẽ ông giám thị trẻ gặp khó khăn trong việc bắt chúng tôi
đi ngủ sớm trong đêm Trung Thu nên ông muốn cho chúng tôi thức trong những phút
vui sống. Ông bàn với các anh lớn trong trường để tổ chức một đêm văn nghệ thật
xôm. Ông bảo :
- Trường lưu xá kỷ luật nghiêm khắc. Bà giám đốc chắc khó chịu
lắm. Nhưng vì các em, ta sẽ mạo hiểm một phen xem sao.
Ông đi nửa giờ mới về. Cả bọn đứng ở phòng khách hồi hộp chờ.
Nhiều đứa reo lên khi ông nói :
- Được rồi, năm nay hai trường sẽ ăn Trung Thu.
"Sơ" giám đốc cho phép.
Cùng lúc ấy, chúng tôi nghe tiếng dép bước lẹp xẹp trên sân sỏi
và vài tiếng cười khúc khích trong trẻo, ngượng nghịu. Ông giám thị giải thích
:
- Mấy chị bên trường mang quà bánh sang góp đó. Nhiều kẹo lắm.
Bữa nay trường giàu rồi.
Một giọng trong trẻo vang lên :
- Chào các anh. Năm nay cho chúng tôi ăn chung Trung Thu nhé!
Chúng tôi sững sờ kinh ngạc rồi chào lại, chỉ biết lễ phép
chào, không thể nói gì hơn, vui mừng quá sức. Có một đôi chân bước lại gần
chúng tôi. Đứa nào cũng hồi hộp, lo lắng. Hình như cô gái ngập ngừng đi chậm lại,
Hoan liều lĩnh lên tiếng :
- Chào chị!
- Chào anh em, tôi là Liên ở bên lưu xá.
Sinh nói to :
- Trời ơi! Chúng mình là hàng xóm mà bây giờ chị mới sang
chơi với tụi tui.
Cô gái có vẻ hơi lúng túng :
- Tại tôi không quen anh nào hết.
Sinh vội bô bô giới thiệu từng người với đầy đủ các biệt hiệu
ngộ nghĩnh. Cô bật cười. Sự thân mật cùng tiếng cười ấy lan ra khắp phòng.
Chúng tôi cười theo và thầm hiểu "Trong danh sách những người bạn thực thụ
của nhà trường lại có thêm tên chị Liên".
Chị Liên cáo từ, hẹn buổi tối trở lại. Chúng tôi lắng nghe tiếng
chân chị lẫn vào tiếng chân của mấy cô nữ sinh khác lao xao, xa dần. Âm thanh
rào rạo mà nghe rộn rã vui. Tôi thầm hy vọng và tin tưởng rằng tôi sắp có một
người bạn để được chờ đợi vào những chiều thứ bảy, một người bạn của riêng tôi.
Ý nghĩ đó khiến tôi rất hăng hái tiếp tay với các bạn kê bàn
ghế ở nhà chơi để mừng Trung Thu. Trường chỉ có một người lao công. Chúng tôi
nhất định không để ông ta phải làm việc một mình. Trong khi chờ đợi những giờ
vui, khuân vác nhọc nhằn cũng trở thành một cái thú. Đêm Trung Thu trong lòng tôi
bắt đầu bằng những tiếng bàn ghế kéo đi, xích lại, bằng cả mùi bụi bặm toát ra
từ những chiếc ghế dài tôi vác trên vai.
Bữa cơm chiều, chúng tôi ăn vội vàng... Vinh, Hoan và tôi chỉ
thích quanh quẩn ở nhà chơi. Nhiều chiếc bàn kê sát nhau thành một dãy dài chiếm
gần hết phòng. Ông giám thị bảo: "Phải chừa một đoạn làm sân khấu".
Chính ở khoảng trống đó, ông đặt micro và kê ghế cho ban nhạc ngồi.
Chúng tôi đặt một bàn tay trên mặt bàn rồi kéo lê ngón tay và
đi xung quanh. Vinh nói :
- Lát nữa chắc vui lắm.
Hoan tiếp :
- Các chị ấy hát thì hay không chê được.
- Sao bồ biết?
- Tôi nghe mấy chị ấy hát luôn mà!
- Nghe ở đâu? Dóc!
- Hờ. Giọng nói các chị ấy như vậy mà các chị ấy hát không
hay sao?
Tôi và Vinh im lặng, không phản đối. Một lời ca tụng khách,
dù sao, vẫn làm cho mấy giờ vui sắp tới thêm long trọng đậm đà...
Khoảng tám giờ tối, ông giám thị tập họp tất cả chúng tôi và
dặn dò :
- Hôm nay có cả Sơ giám đốc sang dự, vậy các em cố gắng tỏ ra
ngoan ngoãn và lễ phép để giữ danh tiếng cho nhà trường.
Ông hiệu trưởng vui vẻ bảo :
- Các em có bộ quần áo nào đẹp nhất thì mặc vô.
Ông nói với ông giám thị :
- Thầy nhớ coi sóc cách ăn mặc của các em. Chị em bên lưu xá
chẳng phải là những người có chức tước lớn trong xã hội nhưng thuộc loại khách
quý nhất của trường.
Không đợi ông giám thị giúp đỡ, chúng tôi tự lần mò soạn lại
quần áo, tóc tai.
Khi những tiếng guốc nổi lên lạo xạo ở sân trước xen với tiếng
cười nói, bỗng dưng, chúng tôi cùng yên lặng hồi hộp. Có lẽ các chị bên lưu xá
cũng đâm ra ngạc nhiên, bỡ ngỡ trước vẻ chờ đợi quá trịnh trọng của chúng tôi,
các chị yên lặng nốt. Phòng khách chỉ còn vang lên tiếng ông hiệu trưởng và ông
giám thị chào Sơ giám đốc. Tiếng Sơ giám đốc hòa nhã trả lời.
Ông giám thị vồn vã mở cánh cửa tươi vui thân mật cho khách đến
gần chúng tôi :
- Xin mời Sơ giám đốc ngồi. Xin mời các chị ngồi cùng hàng ghế
với các em trong trường. Mong các chị tự nhiên cho. Mấy em trong trường tuy là
chủ nhưng không thấy đường nên đành xin khách tự tìm chỗ ngồi vậy. Chúng ta hãy
ngồi xen kẽ để các em cảm thấy yên tâm vì có bạn.
Thế là ở đầu bàn phía gần cửa bắt đầu vang lên tiếng kéo ghế,
tiếng hỏi han thân mật líu ríu :
- Tên em là gì?
- Em bao nhiêu tuổi?
- Chị ngồi cạnh em nhé!
- Tên chị là gì?
Bầu không khí sống động với tiếng cười, tiếng nói, với mùi nước
hoa thơm ngát gây cảm giác nao nao sung sướng cứ lan dần ra, ùa qua tôi, rồi
như lấp kín cả gian phòng. Tưởng như nơi đây vừa biến thành một thế giới khác.
Thế giới có ánh sáng lóe lên giữa tối tăm.
Một bàn tay mềm nắm lấy cánh tay tôi. Một giọng nói, còn mềm
dịu hơn bàn tay, bay nhẹ nhàng bên tai tôi :
- Em ngồi xuống đây đi. Sao đứng ngẩn ra thế?
Tôi vội hướng về phía có tiếng nói, ngước lên và ấp úng :
- Chào chị!
Tôi quơ hai tay nắm được mép bàn, từ từ ngồi xuống.
- Tên em là gì?
- Dạ, em là Thương. Còn chị?
- Chị là Huyền.
- Đây là lần đầu chị vào trường chúng em phải không?
- Nhiều lần chị muốn sang nhưng...
- Chắc chị hát hay lắm.
- Đâu có.
- Chắc mà. Lát nữa chị hát nhé. Em muốn nghe chị hát.
Chị Huyền cười thành tiếng :
- Lỡ mọi người bịt tai bỏ đi hết thì sao?
Từ khoảng trống ở đầu phòng, nơi dùng làm sân khấu đã vang
lên tiếng so dây đàn, tiếng khua trống nhè nhẹ. Thoáng nghe tôi đã biết người bạn
nào đang sử dụng thứ nhạc khí gì và tất cả các nhạc công của trường đã tề tựu
đông đủ. Tôi nói tên họ để giới thiệu cho chị Huyền biết. Chị có vẻ ngạc nhiên
lắm.
Ong hiệu trưởng nói mấy câu cảm ơn khách. Giọng ông tự nhiên
nhưng luôn luôn trầm xuống vì xúc động. Ông hân hoan như người cha thấy lũ con
xấu số của mình được săn sóc, nuông chiều, số kẹo bánh các chị bên lưu xá đem
sang thật nhiều. Ông giám thị có sáng kiến là chia tất cả kẹo bánh thành từng
gói nhỏ rồi tổ chức một cuộc rút số. Mỗi người trúng sẽ được một gói để mời bạn
hữu xung quanh. Trò chơi này tạo nên không khí hồi hộp, chờ đợi vui vui. Xen
vào giữa cuộc rút số là mục trình diễn ca nhạc. Sáng kiến của ông được chúng
tôi vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Việc mời các "tài tử" bên lưu xá lên sân khấu mới đầu
có vẻ khó khăn vì chị nào cũng rụt rè, ngượng nghịu. Vài chị bị đề nghị lại vội
vàng làm bộ húng hắng ho. Bất ngờ, chị Liên hăng hái lên trình bày hai bài ca
liền. Một bài thật ngộ nghĩnh, lời ca tình cảm được đổi thành những câu hài hước.
Chúng tôi cười mãi.
Sự ngượng nghịu rụt rè tan hết. Chủ, khách lần lượt lên sân
khấu. Nhiều giọng ca lạ, hay tuyệt vời. Chúng tôi lạc từ thế giới nhộn nhịp của
những bản nhạc tươi trẻ đang thịnh hành qua thế giới buồn bâng khuâng của những
bản nhạc xưa. Âm thanh, biết bao nhiêu âm thanh reo vui, vây phủ chúng tôi,
nâng bổng chúng tôi bay ra ngoài vực sâu tối tăm. Ý nghĩ: "Mình sẽ có bạn
bè! Bao nhiêu người bạn đang ngồi quanh mình!" làm tôi vui sướng đến độ
không muốn nói năng gì.
Khoảng giữa cuộc vui, tôi trúng số. Ông giám thị hỏi to :
- Ai có số hai mươi?
Tôi giơ tay, chị Huyền nói :
- A! Thương gặp thần tài rồi.
Chị đứng dậy dẫn tôi lên sân khấu. Tôi nghe tiếng guốc của chị
gõ khoan thai trên nền gạch sát bên tôi. Cổ tay tôi nằm gọn gàng yên ổn trong
bàn tay mềm của chị. Bỗng dưng tôi cảm thấy nao nao muốn khóc. Tôi nhớ đến những
lần được đi giữa hai bàn tay dẫn dắt của cha mẹ xưa kia. Đi giữa hai người tôi
chả sợ gì cả. Đã lâu lắm rồi, bây giờ tôi mới được sống lại cảm giác thân yêu ấy.
Tôi cầm gói bánh kẹo và hân hoan đi bên tiếng guốc khoan thai
của chị Huyền, trở về chỗ ngồi. Tôi bắt tất cả mấy người xung quanh nhai nhóp
nhép một phần sự may mắn của tôi. Tôi đặt vào tay chị Huyền một nắm kẹo. Nhưng
chính chị lại bóc giấy bao ngoài đặt từng cái kẹo ngọt vào tay tôi. Một lần chợt
khám phá ra móng tay tôi quá dài, chị Huyền bắt tôi xòe bàn tay ra cho chị sửa
sang. Tôi cảm thấy mình nhỏ bé lắm, nhỏ bé đến nỗi có thể nằm trọn trong sự che
chở của chị, như một hài nhi nằm gọn trong nôi.
Bây giờ tôi chỉ nghe ca nhạc bằng một tai. Một tai tôi dành để
nghe chị Huyền cắt móng tay lách tách cho tôi và nghe chị nói chuyện. Chị nói về
nhiều chuyện ở bên ngoài. Có lúc tôi không hiểu gì, nhưng luôn luôn có những đoạn
thật vui khiến tôi bật cười lớn. Tôi hỏi chị :
- Chị có vui không?
- Vui lắm chứ!
- Mọi Tết Trung Thu chị làm gì?
- Chị ở nhà. Đâu còn nhỏ để mà đi rước đèn.
- Chị thấy mọi người có vui không?
- Vui lắm. Ai cũng tươi cười hết.
- Chắc các chị bên lưu xá ăn mặc sang lắm nhỉ?
- Đâu có. Các chị cũng mặc áo dài như lúc đi học thôi.
- Sơ giám đốc ngồi đâu chị?
- Sơ ngồi gần cửa sang phòng khách, cạnh ông hiệu trưởng.
- Sơ có cười không?
- Có.
Chị Huyền đã cắt xong móng tay một bàn tay tôi, tôi đưa bàn
tay kia ra :
- Chị thấy thằng Hoan không?
- Hoan nào?
- Thằng Hoan mập, tai to, có cài cái bút ở túi ngực, có cái sẹo
tròn lớn ở thái dương bên phải.
- À, có phải cậu mặc áo sơ mi màu... không, cậu hớt tóc cao,
đeo cái kính đen lớn?
- Nó đấy.
- Hoan ngồi trước mặt chị em mình này.
- Nó đang làm gì thế chị?
- Hoan đang nói chuyện với người bạn bên cạnh.
Để biết rõ quang cảnh gian phòng, tôi hỏi chị Huyền hết câu
này đến câu khác. Tôi muốn cho tiếng chị cứ vang mãi mãi bên tai tôi.
Hôm đó, cuộc vui kéo dài đến thật khuya. Ông giám thị kết
thúc chương trình bằng cách mời mọi người sang phòng ăn. Ở đây chúng tôi còn một
bữa tiệc bánh dẻo, bánh nướng nữa.
Tôi không rời chị Huyền nửa bước. Ra khỏi phòng ăn chúng tôi
vừa nhai bánh vừa đi quanh khoảng sân cỏ. Chị Huyền khe khẽ hát cho tôi nghe một
bài gợi nhớ quê hương. Tiếng hát trong trẻo bay trong mùi cỏ thơm, trong những
làn gió mát của trời đêm. Tiếng hát đưa trí óc tôi phiêu lưu trong muôn ngàn
xúc động êm ái.
- Chị hát hay quá. Em sẽ nhớ mãi tiếng hát của chị.
Chị Huyền nói :
- Khi nào nhớ, em cứ đập ống bơ rỉ cho kêu loong coong là tưởng
như đang được nghe chị hát ngay.
Luôn luôn, chị bắt tôi cười.
Tôi hỏi :
- Hôm nay có trăng không, chị Huyền?
- Không em ạ. Trời nhiều mây mù như sắp mưa.
- Thế thì Tết Trung Thu của chúng mình đều tối chị nhỉ?
Chị Huyền không nói, chỉ đặt một bàn tay lên vai tôi như an ủi.
Khi từ giã tôi, chị đặt cả hai bàn tay lên hai vai tôi. Mười ngón tay ấn nhẹ xuống
như muốn nói: "Từ nay em sẽ cảm thấy bớt bơ vơ trong cuộc đời".
Tôi cười :
- Chiều thứ bảy rảnh, chị lại vào trường với em nhé.
Chị Huyền hơi lưỡng lự :
- Hồi này chị bận lắm. Nhưng chị sẽ gắng vào thăm em.
Tôi đứng cho đến lúc không còn nghe tiếng guốc của chị mới lần
mò trở lại cầu thang lên phòng ngủ.
Đêm hôm ấy tôi đã thức thật khuya cho ngày dài thêm, một ngày
hoàn toàn sung sướng. Bánh kẹo đầy bụng và sự vui mừng đầy ý nghĩ.
Nhưng niềm vui chị Huyền cho tôi chỉ có ngần ấy.
Ngày thứ bảy tới, tôi hồi hộp suốt buổi sáng và chờ đợi suốt
buổi chiều.
Một vài chị bên lưu xá có sang nhưng chị Huyền không đến.
Tôi không nhớ là đã hồi hộp, lo lắng, chờ đợi qua bao nhiêu
chiều thứ bảy. Cho đến một lần, tôi đành phải hỏi thăm một chị ở bên lưu xá đến
thăm Sinh :
- Sao chị Huyền không sang trường mù nữa hả chị?
- Huyền nào? Huyền "hoa hậu lưu xá" ấy à?
- Dạ... em cũng không biết. Chị Huyền nói giọng Bắc.
- Đúng rồi. Huyền "hoa hậu" đó. Thứ bảy, chủ nhật
nào mấy người bạn trai của nó cũng đến mời nó đi coi xinê, làm sao có thì giờ
qua đây...
Tôi đứng lặng một lúc rồi lần xuống ngồi trên chiếc ghế ở góc
nhà chơi. May quá hóa không may! Quen một chị đẹp nhất nên mình phải giành giựt,
tranh đấu với cuộc đời ngoài kia. Ngoài kia gọi, mời chị Huyền bằng những chàng
trai chắc cũng đẹp và bằng muôn ngàn thứ hấp dẫn, vui tươi khác. Tôi mời gọi chị
Huyền bằng một thế giới buồn thảm lạnh lùng. Tôi chỉ có sự xấu số và những lời
than thở.
Tôi tựa đầu vào tường. Nghe tiếng chuông reo, nghe tiếng ông
giám thị gọi tất cả đi ăn cơm, tôi vẫn không muốn rời chiếc ghế lạnh. Sau bữa
cơm chiều, những người có bạn lại tụ tập ở phòng khách vì khách vẫn chưa về.
Chợt nghe tiếng chân lệt xệt đến gần, tôi ngạc nhiên vì tưởng
chỉ có một mình ở đây :
- Ai đó?
- Em. Hữu đây.
- Hữu hả? Lại đây ngồi với tao.
Hữu là một đứa nhỏ mười tuổi, cũng cô đơn, không có "bạn
sáng" như tôi. Chắc Hữu xấu xí lắm vì tất cả những đứa bé trạc tuổi nó đều
có người đến thăm chiều thứ bảy. Nó học rất dốt và lâu lâu lại nổi cơn khùng
nói những câu quái gở. "Em vừa thấy một con voi ở kẹt cửa". Sau lần
ông giám thị bắt gặp nó bứt cỏ ở sân ăn thì mọi người tin chắc rằng trí óc nó
không được bình thường. Nếu bệnh thần kinh tăng, nó sẽ bị đưa trở về viện mồ
côi.
Hữu đến ngồi cạnh tôi, tôi nắm bàn tay nó, bàn tay dính toàn
đất cát :
- Thằng khùng! Mày lại ăn cỏ hả?
- Không có. Em bắt dế.
- Được không?
- Nghe nó kêu mà kiếm không ra.
Hữu có vẻ sung sướng khi được nói với tôi. Chuyện nó tuy nhạt
nhẽo nhưng có thứ tự, chứng tỏ lúc này nó rất tỉnh táo.
Một lát sau Hữu mệt. Nó dựa đầu vào cánh tay tôi. Tôi co một
chân lên ghế. Hữu vòng hai tay ôm đầu gối tôi, im lặng như ngủ. Khi tôi đặt một
bàn tay lên đầu nó, tự dưng nó nói nhẹ, giọng cảm động :
- Tụi mình bồ nghe!
Không trả lời, tôi vuốt nhẹ mái tóc lởm chởm của nó. Tiếng
đàn hát trên phòng khách đã im bặt từ lâu. Tôi nghĩ đến những chiều thứ bảy tới,
những chiều nhạt nhẽo, tối tăm như cuộc đời mình.
° ° °
Tôi quen anh Phong nhân dịp vào chùa với anh Bằng. Bằng là học
sinh lớn nhất trường. Anh đã học hết bậc Tiểu Học từ lâu nhưng vẫn được giữ lại
để giúp đỡ ban giám đốc và làm một nhạc công trong ban nhạc nhà trường. Anh có
thể sử dụng măng cầm, đại hồ cầm và luôn luôn cố gắng để một ngày kia sẽ thi tốt
nghiệp ở trường Quốc Gia Âm Nhạc. Anh Bằng có nhiều bạn nhất, vì anh có tài và
nói chuyện khéo. Chiều thứ bảy, chúng tôi cùng với khách thường đứng vây quanh
anh để nghe anh và Thảo hòa đàn.
Bằng bình tĩnh ít nói. Chúng tôi có những sợi thần kinh không
vững vàng nên vui, buồn đột ngột, hay giận dỗi. Bằng khác hẳn. Khi anh ta đã
quyết định cái gì, thì anh ta theo đuổi cho đến cùng. Trong hàng ngũ những người
đứng trong bóng tối, tôi tin rằng anh là một trong những kẻ sáng suốt nhất.
Chiều thứ bảy, anh Bằng ôm đàn, đi đến một ngôi chùa. Anh ở lại
dạy hát và sinh hoạt với các em nhỏ trong gia đình Phật Tử. Tối chủ nhật anh về
trường.
Tôi không có gia đình bạn bè đến đón ra ngoài nên suốt ngày
chủ nhật chỉ biết đi quanh quẩn hoặc ngủ. Chủ nhật trở thành ngày nhạt nhẽo nhất
trong tuần.
Một buổi tối ngày thứ sáu, lúc chúng tôi sắp lên giường ngủ,
anh Bằng bỗng hỏi :
- Chiều mai cậu nào muốn theo tôi vào chùa?
Câu hỏi của anh làm tất cả những đứa chưa hề được ra ngoài
như tôi cùng nhao nhao lên.
- Em, em!
- Anh Bằng cho em theo với.
Anh Bằng đáp :
- Không được, tôi chỉ có thể lãnh cho một cậu ra khỏi trường
với tôi thôi. Và xin báo trước ngày mai tôi đem theo hai cây đàn. Ai muốn theo
tôi phải nhận vác giùm một.
Tất cả lại nhao nhao sốt sắng hẹn. Có đứa còn đòi vác luôn cả
hai cây đàn. Tôi biết cứ đứng một chỗ xin "xung phong" thì ít có kết
quả. Tôi đến sát anh Bằng :
- Anh cho em theo với. Em chưa được ra ngoài lần nào. Em lại
không có "bạn sáng".
Quả nhiên anh Bằng nói :
- Ờ. Cậu Thương có vẻ ngoan ngoãn hơn cả, đáng được đi.
Suốt đêm hôm đó, tôi ngủ rất ít. Sáng thứ bảy tôi kèm sát anh
Bằng, chỉ sợ anh nghe lời năn nỉ của đứa khác rồi đổi ý.
Buổi chiều, khoảng hơn ba giờ, tôi ôm đàn đi theo anh. Nắm
tay anh, tôi tin tưởng như nắm tay một người sáng. Đi ngoài phố mà anh đi đứng
dễ dàng, quen thuộc như ở trong sân nhà trường.
Tôi hỏi luôn miệng. Mỗi khi nghe một tiếng động lạ tôi lại
lên tiếng: "Cái gì đó anh?" Anh Bằng hơi bực mình. Khi lên xe buýt rồi,
anh nhất định không thèm trả lời nữa.
Gần đến trạm phải xuống, anh mới bảo tôi :
- Sắp xuống rồi đó.
Rồi anh hỏi to :
- Gần tới đường rẽ vào xóm Chùa phải không bác tài?
- Tới rồi, xuống xe đi lui một khúc, quẹo tay trái...
- Cám ơn bác. Tôi hỏi cho chắc vậy thôi. Tôi nhớ đường lắm.
Đường phố ồn ào, tiếng động nhiều quá khiến tôi mất hết ý niệm
về khoảng cách giữa tôi và nơi phát ra tiếng động. Đôi lúc có cảm tưởng là chỉ
bước thêm một bước sẽ va chạm ngay một cái gì. Tôi tiến lên một cách rụt rè
hơn. Anh Bằng bước đều theo chiếc gậy dò đường. Tôi muốn than "Anh đi
nhanh quá" mà không dám, sợ lần sau anh không cho đi theo.
Khi chúng tôi rẽ vào một con đường yên tĩnh hơn thì bỗng có
tiếng reo: "A, anh Bằng!", "Chúng em định ra bến xe buýt đón
đây". Giọng nói của hai cô gái. Anh Bằng hỏi :
- Sao lâu nay chị Kim không vào chùa?
- Dạ. Tại em bận học thi lục cá nguyệt.
- Thuộc bài "Đồi thông" chưa?
- Rồi anh.
- Thế còn Hương?
- Em cũng thuộc rồi... Anh đưa đàn em cầm cho.
Khi thấy cái đàn bị kéo ra khỏi tay mình tôi mới biết câu nói
của cô gái tên Hương dành cho tôi. Tôi nói nhỏ :
- Cám ơn cô Hương.
Anh Bằng bảo tôi :
- Hương cũng vào thăm trường mình luôn đó.
Giọng Hương trở nên nhí nhảnh, đùa cợt :
- Em biết anh Thương mà. Có phải anh hay dắt cậu bé Hữu đi
trong sân cỏ không?... À, Hữu đâu rồi anh?
Tôi cảm thấy ngượng nghịu :
- Hữu bị gửi trả về viện mồ côi rồi.
Hương nắm tay tôi dắt đi. Bây giờ, tôi bớt sợ những đoạn gập
ghềnh trên đường. Tiến thêm một bước là gặp thêm một điều lạ. Tôi nao nức nghĩ
đến thế giới vui nhộn mà tôi sắp được tham dự. Qua một chỗ có nhiều tiếng ồn ào
tôi hỏi :
- Ở đây có chợ sao?
- Không phải, đây là một khoảng đất rộng ở đầu ngõ dẫn vào
chùa. Người ta tụ họp bán thức ăn và các món quà lặt vặt.
Giọng nói của Hương rành mạch. Tôi muốn được giải đáp hết các
thắc mắc, muốn Hương cho biết chúng tôi đang đi trong một khung cảnh như thế
nào. Nhờ những lời tả cảnh của nàng, tôi tưởng như bóng tối đen đặc quanh mình
đã bớt vẻ bí mật. Những hình ảnh, tôi dựa vào âm thanh để tạo nên, bớt thiếu thốn.
Chúng tôi đi vào một cái ngõ lát gạch. Ngõ hẹp nên thỉnh thoảng tôi bị Hương
kéo tay đẩy nép về một bên, nàng giải thích "Mình tránh một bà gánh nước",
"Ông này đi xe đạp có vẻ nghênh ngang quá".
Gần tới cổng chùa chúng tôi đã nghe tiếng các em nhỏ ca hát.
Có lẽ đoán được sự thắc mắc của tôi, Hương tả rất cặn kẽ về ngôi chùa.
Sau này, khi đã đến chùa nhiều lần, tôi có thể tự mình đi từ
chánh điện xuống nhà ngang, biết chỗ nào có gốc cây dừa, chỗ nào có để các chậu
cảnh. Lúc ấy tôi chỉ biết là chùa rất đẹp lập bên bờ sông. Gió sông thổi lên
mát rượi. Những chi tiết khác Hương nói, tôi không chú ý vì còn mải nghe những
tiếng reo chào đón mình.
Có rất nhiều em nhỏ vây quanh nắm áo, nắm tay tôi và Bằng.
Anh Bằng quen với chuyện đó nên thản nhiên. Tôi thì cảm động quá. Tôi hỏi tên từng
em và cố ghi nhớ giọng nói của chúng.
Vài em đòi dạy hát ngay. Chị Kim nói :
- Khoan đã. Phải cho nhạc sĩ nghỉ mệt một lát.
Anh Bằng dẫn tôi đi chào tất cả các vị sư trong chùa.
Một lát sau, anh Thảo đến. Anh Bằng và anh Thảo bắt đầu hòa
đàn. Các em nhỏ vừa vỗ tay vừa hát theo. Tôi ngồi trên bậc gạch xây bên trụ cờ
sát bờ sông. Khi không nghe hát tôi chú ý đến những tiếng hò reo của lũ trẻ
đang tắm ở dưới nước. Bầu không khí quanh tôi lúc nào cũng được ướp mùi hoa
ngâu thơm phảng phất. Tôi thở những hơi dài khoan khoái.
Tôi có cảm tưởng thế giới vừa mở ra rất rộng quanh mình.
Các em nhỏ hợp ca toàn những bài ngắn, lời ca ngộ nghĩnh vui
tươi. Sau đó anh huynh trưởng tổ chức các trò chơi. Tôi không hiểu gì về các
trò chơi ấy. Nhưng, nghe tiếng cười của các em liên tiếp nổi lên, tôi cười
theo. Những âm thanh quanh tôi đều khiến tôi cảm thấy yêu đời. Tôi được gần gũi
với con người, với sự sống. Tôi đang đứng trong một xã hội nhỏ bé có nếp sinh
hoạt vui nhộn.
Trong chánh điện, tiếng tụng kinh gõ mõ bắt đầu nổi lên đều đều.
Tôi lắng nghe. Các âm thanh không hề chen lấn nhau. Tiếng trẻ cười đùa, tiếng tụng
kinh hình như đang đi trên hai con đường khác nhau trước khi đến tai tôi. Tôi
còn có thể nghe cả tiếng gió lùa xào xạc trong những tàu lá trên một cây dừa ở
bờ sông.
Có tiếng chân bước lại gần.
- Sao Thương ngồi có vẻ buồn thế?
Giọng nói trong trẻo nhưng nghiêm trang khác hẳn giọng Hương.
Tôi nhận ra chị Kim :
- Đâu có, em đang vui.
- Thương có khát nước không?
- Dạ không. Cảm ơn chị. Ở đây vui quá. Chị có vào đây luôn
không?
- Hồi này tôi hơi bận. Phải học. Là Phật tử mà lười thì Phật
cũng cho rớt như thường.
Tôi chưa kịp hỏi thêm thì từ phía cổng chùa vang lên tiếng cười,
tiếng chào hỏi. Chị Kim giải thích :
- Anh Phùng, anh Trần và chị Đoan đến.
Chị Kim cho biết thêm: Anh Phùng, chị Đoan là sinh viên trường
Luật, anh Trần là họa sĩ, cả ba đều là bạn của anh Bằng và gia đình Phật tử.
Chiều thứ bảy họ thường vào chùa sinh hoạt với mọi người.
Tôi vừa được giới thiệu với ba người xong thì có tiếng Hương
gọi to :
- Mời quý vị vào dùng cơm đã.
Anh Phùng nói :
- Hương giở giùm cái gói trong tay chị Đoan xem có món gì ăn
được không.
Chị Đoan :
- Các anh ấy mua nhiều món lắm.
Chị Kim vừa nắm tay tôi dắt đi vừa cười :
- A, mấy người này chê cơm chay của chùa nhé.
Hương đến gần chúng tôi :
- Trời ơi, các anh mua bánh dầy, bánh ếch lại cả kẹo mè xửng
nữa.
Anh Trần giải thích :
- Bọn này không có căn tu, lại vướng phải thói quen ăn trường
mặn, ăn cơm chay thôi thì mệt mỏi rồi sinh chán đời, xin phép quý vị cho chúng
tôi góp vài món phàm tục.
Chúng tôi bước vào căn nhà có kê ghế, bàn dài. Lúc này tôi mới
biết chị Kim là một cô gái lanh lợi, có tài điều khiển mọi người. Chị xếp chỗ
ngồi cho chúng tôi, phân chia công việc cho mấy cô bạn. Giọng dịu dàng mà vẫn
như hơi nghiêm khắc. Thỉnh thoảng chị lại nói đùa một câu, mọi người cười vui vẻ.
- Đáng lẽ vào chùa thì chỉ có ăn cơm chay. Nhưng hai anh Trần
và Phùng sợ ăn chay tịnh sẽ đam mê kinh kệ rồi có phen đòi ở lì trong chùa
không chịu về. Vì vậy, các anh ấy có hảo ý là tiếp tế thêm các món mặn. Bánh dầy
giò chả là món của miền Bắc. Bánh ếch, kẹo mè xửng là hai món đặc biệt của Nam,
Trung. Vậy qua bữa cơm chúng ta sẽ được du lịch từ Bắc vào Nam... Ấy khoan đã,
tôi xin tố cáo trước dư luận là có người muốn khởi hành quá sớm đó.
Tiếng anh Phùng :
- Tôi đói bụng rồi. Xin quý vị cho phép tôi được ngồi xổm lên
dư luận.
Tiếng anh Trần :
- Tôi cũng xin phép ngồi xổm theo, không có... chậm mất.
Chị Kim cười :
- Chúng ta không chờ anh Phong sao?
Anh Phùng nhấn mạnh vào từng tiếng trong câu nói của anh để tỏ
ý chế giễu :
- Sao chị lại có ý bắt chúng tôi chờ anh Phong?
Vài tiếng cười nổi lên. Tôi nghĩ là chị Kim lúng túng, nhưng
chị đáp ngay :
- Tôi tưởng các anh nên chờ để tỏ tinh thần đồng đội.
Chị Kim đến chỗ anh Bằng ngồi, gần tôi :
- Mời nhạc sĩ Bằng cầm đũa. Chắc bữa trưa của nhạc sĩ đã biến
thành các nốt nhạc hết rồi.
Tiếng anh Bằng nhỏ nhẹ :
- Cám ơn Kim.
Chị Kim đến sau lưng tôi. Tay trái tôi được nâng lên để đón
bát cơm. Chị ghé tai tôi :
- Tôi đã gắp thức ăn vào bát rồi đó.
- Cám ơn chị. Em có thể tự gắp được.
- Ăn thật no nhé.
Có tiếng một anh nào đó trong gia đình Phật tử tôi chưa biết
tên :
- Thôi, chị Kim, chị Đoan cũng ngồi vào chỗ đi chứ.
Anh Trần nói :
- Chúng mình ăn mặn trên đất nhà chùa sợ mang tội.
Hương phụ họa :
- Thế nào cuối năm Táo Công nhà chùa cũng báo cáo lên Trời.
Anh Phùng :
- Kể ra sự tích Táo Công cũng lạ. Bà Táo có thể tượng trưng
cho lòng tham của các bà. Có một mình mà đòi cho được hai ông chồng.
Chị Đoan :
- Anh Phùng nói xấu phái nữ nhé. Chị Kim để yên sao?
Giọng chị Kim nhỏ lại như một người nghiêm trang kể chuyện :
- Anh Phùng phê bình bà Táo là tại anh ấy không rành sự tích.
Theo chỗ tôi được biết thì tục truyền rằng: ngày xưa bà Táo rất đẹp. Hai Táo
cùng thương yêu bà. Hai ông thi tài thì kết quả cứ huề mãi. Ba người gặp vấn đề
nan giải. Hồi ấy lại chưa có báo chí để họ gửi thư thỉnh ý mục gỡ rối tơ lòng.
Họ kéo nhau lên thiên đình nhờ Trời phân xử. Trời vốn có bụng thương người,
không muốn để mếch lòng ai nên đặc cách cho phép bà Táo được đa phu. Trời lại
cho ba vợ chồng ông Táo ở bếp để khỏi lo vấn đề kinh tế...
Bỗng có tiếng reo :
- A, anh Phong!
Chị Kim ngừng nói. Anh Phùng vừa cười vừa nói to :
- Anh Phong đến vừa kịp, chị Kim đang xuyên tạc cổ tích để
bôi nhọ đàn ông đó.
Anh kể lại lời chị Kim. Nghe xong, anh Phong lên tiếng ngay.
Giọng nói anh trầm, hơi khàn, nhưng rất rõ ràng :
- Cô Kim kể chuyện xưa sai mất rồi. Chuyện gia đình Táo Công
thật ra như thế này: "Trời sai hai cặp vợ chồng Táo vào ở mỗi nhà để làm
báo cáo tổng kết tình hình cuối năm. Hai ông, hai bà, không có gì rắc rối. Chỉ
có một điều phiền là hai bà Táo đều mắc bệnh nói nhiều. Cuối năm, các bà giành
lấy bút của đức ông chồng để viết báo cáo. Các bà kể đủ thứ chuyện dây cà, dây
muống, nên sớ Táo Quân quá dài, nặng sơ sơ cũng năm, sáu chục ký. Hai ông Táo
phải khuân hai cuộn sớ quá nặng nề về Trời nên đi đứng không vững. Đến trước
thiên đình, họ mệt quá ngã lăn đùng ra. Trời hiểu chuyện vội ra chỉ thị rút bớt
ngay một bà Táo về. Còn lại một bà, dù bà ấy có cao hứng viết cuộn sớ nặng bảy
chục ký, hai ông Táo vẫn hiệp lực lại khuân được".
Mọi người cười. Tôi chờ đợi chị Kim trả lời. Nhưng từ lúc có
anh Phong, chị giữ im lặng. Chỉ nói những câu thật ngắn, thật nhỏ khi cần thiết.
Lúc mọi người ngồi uống nước, anh Trần đề nghị :
- Bây giờ, mỗi người phải hát một bài, theo thứ tự bắt đầu từ
chị Đoan.
Tất cả vỗ tay tán thành. Tôi chột dạ, hoảng hốt. Tính nhút
nhát, tự ti mặc cảm sống lại. Tôi không biết hát. Tới phiên mình, tôi phải xoay
sở làm sao? Tôi chỉ sợ không biết từ chối khéo làm mất lòng mọi người, anh Bằng
giận thì nguy. Tôi xin phép ra ngoài một lát cho mát. Vài người, chẳng hiểu có
cùng tâm trạng với tôi không, đi ra cửa theo.
Tôi men theo bờ tường lần ra phía sau nhà ăn, hy vọng nép được
vào một chỗ khuất. Lúc này trời tối rồi, sau nhà ăn chắc không có ánh đèn.
Gió sông thổi lên mạnh. Tôi vướng phải một đống củi cao. Một
thanh củi tròn lăn xuống lộc cộc. Sợ tiếng động khiến mọi người khám phá ra chỗ
trốn của mình, tôi càng cuống. Đã có tiếng hát vọng qua vách ván. Vừa tránh xa
đống củi được mấy bước, tôi ngã nhào xuống nước.
Lúc ấy, tưởng ngã xuống sông, tôi hét lên một tiếng lớn đến nỗi
bây giờ nhớ lại còn cảm thấy mắc cỡ. Chỗ tôi rơi xuống là một con lạch nhỏ ngắn,
đầy nước ăn thông ra sông. Tôi bám được vào bờ đất và kinh hãi tưởng sau lưng
mình là mặt sông rộng mênh mông. Mọi người rầm rập chạy đến.
Bàn tay kéo tôi lên là bàn tay rắn chắc của anh Phong. Tôi bị
ướt đến ngang ngực, đứng run lẩy bẩy không phải vì rét mà vì sợ. Anh Bằng bóp
cánh tay tôi hỏi dồn :
- Có sao không? Có sao không?
Giọng bình tĩnh của anh Phong cắt đứt câu hỏi của mọi người :
- Chỉ bị ướt thôi. Thay quần áo là xong. Để tôi đưa cậu về
nhà... Biết ngồi sau xe gắn máy chứ?
- Dạ được.
Anh dắt tôi đi về phía cổng chùa. Tôi ngồi xe chưa quen, phải
ôm chặt lưng anh cho khỏi ngã. Dọc đường, tôi thú thực :
- Em sợ phải hát nên tìm cách trốn, không ngờ rơi xuống nước...
Anh Phong bật cười :
- Sao lại sợ hát?
- Em không biết hát.
- Không thuộc một bài nào sao?
- Dạ chỉ có vài bài ngắn, hát lên mọi người cười chết.
- Không hát thì thôi, ai làm gì mà sợ.
- Em ngán anh Bằng giận, không cho em đi theo nữa.
Đến cổng nhà anh Phong, tôi bắt đầu lúng túng vì bộ quần áo ướt
của mình. Mùi nước hơi tanh khó chịu. Nhưng anh nắm cánh tay ướt của tôi dẫn
đi, không để cho tôi kịp tỏ ra ngượng nghịu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét