Đuổi theo vệt nắng 1
Chương 1
Tâm không hiểu sao nàng lại có thể chấp nhận được cuộc sống bề
ngoài cùng những sự nổ bậy của Thành từ ngày này sang tháng khác mà vẫn không
có thái độ hay cảm thấy bất cứ sự phiền hà nào. Phải chăng bao năm Tâm cũng đã
sống giả dối hình thức, cũng đã từng khổ sở và lo lắng che đậy như thế nên mặc
dầu muốn tránh thoát mà vẫn không sao từ bỏ được. Nhiều lúc Tâm có cảm tưởng
hình như những cơn mộng hão, những danh tiếng hờ có ma lực khiến nàng thích thú
đắm mình vào và hình như cái bóng bẩy sang giàu bên ngoài vẫn lôi cuốn, vẫn làm
nàng lao đao chạy theo hơn là tự lột trần sự thực không đẹp đẽ cũng chẳng ra gì
như người vũ nữ già nua hết thời đứng trước gương nhìn bóng hình mình để tự thấy
chán chê ghê sợ. Bao tháng ngày Tâm đã cố gắng dùng che đậy này chồng chất lên
che đậy khác mà vẫn không dám sống thật với mình vì cái thật của Tâm nó tầm thường
bé nhỏ và kém cỏi so với tất cả mọi người. Tâm nghĩ người mang mặc cảm xấu nên
mới cố chưng diện, cười nói sao cho duyên dáng tạo sự lôi cuốn trong khi Tâm chẳng
ra gì thì tại sao không dùng những hào nhoáng bên ngoài dát vào người cho bớt
khuyết điểm? Có thể vì nghĩ vậy và không sao tự thoát ra được nên biết chồng dối
trá mà đôi khi Tâm còn a dua, cổ võ để khích động với hy vọng Thành sẽ tiến
thân bằng con đường tắt cho mau chóng bởi tuổi Thành cũng đã về chiều. Tâm cho
rằng nhiều người nổi danh vì thực tài nhưng cũng nhiều kẻ nổi danh vì biết nắm
giữ cơ hội. Giữa ngàn hoa, người ngắm sẽ ngộp mắt không hoa nào đẹp nhưng một
cánh hoa vươn cao vẫn được chú ý hơn. Thành cũng thế. Chàng muốn là cánh hoa đập
vào mắt mọi người mà không cần hương sắc. Chung quanh bạn bè gọi lén chồng nàng
là Thành Nổ. Cái tên không hiểu bắt đầu lúc nào nhưng với Tâm, có lẽ nó khởi
nguồn từ bữa tiệc tất niên, sau đám cưới hai người được một tuần. Chẳng biết
men rượu làm ngà ngà say hay vì muốn nổ luôn với vợ mà giọng Thành oang oang:
- Sống ở Cali dân nào không biết nổ là dại.
Lúc ấy Tâm nhìn chồng ngơ ngác. Chẳng ai nổ mà ong óng cái miệng
như vậy nhưng nếu thằng ăn cắp dám vỗ ngực xưng mình ăn cắp hẳn phải là kẻ phi
thường. Tâm chú ý lắng nghe chồng tiếp tục:
- Làm người ai lại chẳng nổ. Không nổ ít thì nổ nhiều, không
nổ nhanh thì nổ chậm. Có điều nổ phải nghệ thuật và có căn. Nổ nghệ thuật là tạo
tiếng cười, tạo niềm vui cho mọi người. Còn nổ có căn là dựa vào cội nguồn gốc
gác. Không phải ai cũng nổ được mà phải thuộc giòng dõi con ông cháu cha. Ông
bành tổ tôi khi xưa là trạng Ngẫm, bạn thân với bành tổ trạng Quỳnh. Sở dĩ con
cháu trạng Quỳnh tuyệt giống là vì lúc chôn không để ông nằm úp như lời ông
trăn trối. Khi lính Pháp đi ngang đạp lên mộ, mọi xác chết bị lật lại hết chỉ
có ông bành tổ tôi ung dung ngửa mặt nhìn đời...
Từ thuở nào đến giờ Tâm chưa hề nghe nói đến trạng Ngẫm. Nay
bỗng dưng Thành lại gắn kèm trạng Ngẫm vào để nổ khiến Tâm lại thấy buồn cười.
Có điều Thành mang mình ra làm trò cười nên chẳng ai bắt lỗi mà trái lại còn lắng
tai thú vị.
- Hồi còn trẻ chung quanh bạn bè tôi đi học võ nhu đạo, còn
tôi chẳng có võ gì cả mà cứ phóng lên nóc nhà vèo vèo như Batman. Với tài đó
làm nghề đạo chích rất dễ dàng nhưng trời sinh mình ra đâu phải đầu trộm đuôi
cướp nên cái tài đành bỏ xó.
- Sao anh không đi lính biệt kích đột nhập qua Bắc làm anh
hùng độ thế? Một người nghe Thành nổ quá nóng mặt châm biếm.
- Đi lính thì giết được bao nhiêu giặc trong khi tôi đang làm
giáo sư đào tạo cả ngàn sinh viên thành người hữu dụng sau này.
- Qua đây anh còn nhảy nóc nhà nữa hết? Coi bộ nghề này đi bắt
ghen mướn ở các motel đã lắm à nghe, khỏi bị chó cắn.
Mọi người cười ồ lên vì Hải đá hậu khá hay ai ngờ Thành gỡ
tài tình. Đúng là nổ có căn.
- Xưa kia ăn rau cá nên nhẹ mình chứ bây giờ nhậu bữa một
toàn dê và bò làm gì có cánh mà bay nổi.
Nổ... Nổ... Nổ... Mọi người chết chìm trong những cơn nổ mang
tiếng cười dòn dã vô hại. Được thể Thành càng làm già:
- Tôi dặn bà xã tôi phải gấp có thằng con nối giòng vì thứ nổ
rất dễ bị tuyệt tự nên khi chết phải chôn tôi đứng thì xuống âm phủ mới thành
tướng.
- Thôi ông ơi trên này làm dân nổ nghe đã nhức óc còn đòi xuống
âm phủ làm tướng nổ nữa có nước điếc tai quỷ thần.
Lúc đó Thành nổ mới chậm câu chuyện lại để gắp thức ăn. Tâm ngồi
bên cạnh thấy nhột nhạt vì một số coi thường Thành ra mặt nhưng lại có kẻ tỏ vẻ
khâm phục. Riêng Tâm cưới nhau rồi, mặt trái của Thành cứ từ từ lòi ra như chiếc
kim bọc trong vải. Ngoài đời Thành nổ những cái vô hại nhưng với Tâm, Thành đã
nổ cú khá lớn mà cả hai cái nổ đụng nhau lại còn quyết sống chết vì nhau kể
cũng lạ. Đúng là duyên nợ.
Quê Thành ở Nam Định nhưng Thành luôn cho rằng những kẻ vào
nam trước năm di cư tập thể năm mươi tư là thành phần buôn bán giàu có và khôn
ngoan. Qua Mỹ thêm một phen Thành nhắc lại cái quá khứ oai hùng của mình và
luôn luôn tự hào với cái chức giáo sư dù rằng đã có nhiều người sang sau này nhận
ra chàng chỉ dạy về môn thể dục ở một trường nhỏ khiêm tốn nằm trên đường
Trương Minh Giảng. Thời gian đầu, chẳng ai biết Thành sinh sống bằng nghề gì
nhưng đến năm tám mươi chàng đã có được một tiệm tạp hóa và một nhà rửa xe. Chẳng
hiểu cái tên ông chủ tiệm đã khoác cho Thành vẻ trịch thượng khinh người hay tại
xưa nay Thành nhìn đời bằng cái nắp vung nên gặp ai cũng coi họ như những giọt
nước vương đọng trên nắp vung đó.
Thời gian ấy Tâm hay lại nhà Thủy nấu nướng, ăn uống, chè
cháo đến khuya mới về. Thủy là bạn cùng hãng may với Tâm còn Đức, chồng Thủy, lại
là bạn của Thành. Thủy không đẹp và người gầy đét, suông đuột như đàn ông. Trái
với vợ, Đức điềm đạm, thâm trầm hơn và hay ngồi ở bàn xem báo để có cơ hội nhìn
lén Tâm. Nhan sắc Tâm không hơn gì Thủy mà có thể tệ hơn nữa vì đôi chân quá ngắn
nhưng được nước da mịn màmg và khuôn ngực no đầy, bằng đó đủ để những tên háo dục
thèm thuồng. Tâm biết được cả ưu lẫn khuyết điểm của mình nên hay mặc quần ống
rộng che đôi "sa bô" tấc rưỡi khiến đôi chân dài thêm ra và luôn mặc
áo chẽn ngực ôm sát phần trên cho tăng vẻ lôi cuốn. Vài lần Thủy bắt được chồng
nhìn trộm Tâm với ánh mắt thèm thuồng nhưng nếu nói ra thì lại không có bằng cớ
chính đáng nên chỉ nuôi trong lòng những hờn ghen. Cũng may vài tuần sau Thành
lớ ngớ từ dưới Los Angeles xuống Orange county dự đám cưới bạn và gặp cả hai vợ
chồng Đức ở đó. Cơ hội bằng vàng, Thủy dùng môi mép mồi chài kéo Thành về nhà
mình giới thiệu Tâm cho bằng được.
Hôm đầu tiên gặp Tâm, dù đã được Thủy dặn dò từ trước, Thành
vẫn ngồi thản nhiên, ung dung trước thái độ niềm nở, vồn vã của hai người. Bữa
ăn chẳng có gì ngon lành nhưng vẻ săn đón thái quá của Tâm cho Thành có cảm tưởng
mình sáng giá. Lăn lộn khắp nước Mỹ, Thành chỉ thấy đàn ông phục dịch, hầu hạ
đàn bà chứ chưa bao giờ thấy trường hợp trái ngược xảy ra nên lòng cũng hơi
chút nao núng...
Thực tình Tâm không thủ đoạn và khôn lanh như Thủy nhưng nàng
tin ở bạn có những bí quyết chinh phục đàn ông. Cứ nhìn Đức thì biết, người to
lớn, tướng tá oai vệ như thế mà chẳng hiểu sao Đức lại cứ sợ Thủy vành vành.
Tâm không mong sẽ được giống như bạn nhưng ít ra nhờ Thủy cố vấn cũng kiếm được
tấm chồng khấm khá. Có điều tuổi tác của Tâm khá cao mà đa số những người cùng
tuổi đã có gia đình, còn những thành phần lăng nhăng thất nghiệp thì Tâm đâu
thèm để ý. Gặp Thành, Tâm thấy lòng xao xuyến ngay. Cái già không còn nằm trong
vấn đề chọn lựa dù Thành đã có một đời vợ và hơn nàng bẩy tuổi. Điều làm Tâm
điên đảo vì Thành đang mang một sản nghiệp to lớn và tiếng "giáo sư
Thành" nghe thật trí thức mỗi khi có ai nhắc đến tên càng tăng thêm phần
trịnh trọng. Xưa nay những người nhà quê như nàng nghe tiếng giáo sư, chẳng cần
biết giáo sư đệ nhất hay đệ nhị cấp là đã sợ phát sốt. Từ xa vừa trông thấy
giáo sư đã vội vàng ngả nón ra chào huống hồ gì Tâm chỉ học hết lớp nhất rồi ở
nhà trông coi heo gà, rau rợ, cá mú.
Tâm vượt biên năm tám mươi ba và ở Sikiew hai năm. Nhờ ăn
không ngồi rồi Tâm trở nên trắng trẻo, lại được quần áo trợ cấp nên váy dài váy
ngắn cứ như đầm thứ thiệt, những vết chai sần ở tay chân theo ngày tháng ăn trắng
mặc trơn cũng được bào mòn. Nàng lại dễ thích ứng hoàn cảnh, thích chưng diện,
se sua nên khi sang đến Mỹ nàng đã cởi bỏ lốt lọ lem hoàn toàn.
Quen nhau chưa đầy một tháng thì hai người lấy nhau. Nhờ sự
đánh bóng của Thủy mà Tâm bỗng nhiên trở thành con gái ông chủ đồn điền trà ở Bảo
Lộc. Vậy mới môn đăng hộ đối, Thủy bảo thế, con gái ông triệu phú dẫu có xấu
như ma lem mà lấy được ông chủ tiệm thực phẩm thì không còn ai dám đàm tiếu.
Nào ngờ vừa rước nhau về, một sớm một chiều Thành đã lộ ngay bản tính keo kiệt
bủn xỉn và nhất là cái mác ông chủ chỉ là mác giả vì Thành chỉ phụ làm công cho
ông chủ, một tên bạn thân muốn ẩn tông tích vì còn ăn tiền giấy. Tâm uất ức
nhưng không dám nói huỵch toẹt ra vì chính nàng cũng chẳng ra gì nên đã toa rập
với Thủy để thổi phồng gia đình mình lên nhưng Tâm sợ tức nước vỡ bờ, biết đâu
Thành tự ái lại chẳng làm liều bỏ đi thì còn gì danh giá cả hai. Thôi thì đã
trót đành phải trét, đã phóng lao thì phải theo lao.
Dĩ vãng của nàng Thành không hề biết bởi vì Tâm khôn khéo che
đậy còn dĩ vãng Thành, người ở thế trên, thế vững, biết vợ yêu và phục tùng
mình nên Thành chẳng cần gì phải dấu. Khổ nỗi tuy không che dấu vợ nhưng lại muốn
che dấu mọi người nên mới tội cho Tâm. Chung quanh ai chẳng nghĩ Thành chỉ có
cái miệng nổ bậy bạ nhưng cái bụng rỗng tuếch. Thực tế đâu phải vậy. Những điều
cần dấu chàng không hề hé môi nhưng lại bày vẽ tận tường cho Tâm làm, không làm
thì lo chạy tiền, không chạy tiền thì cũng phải khích động tinh thần cho chàng
hăng say trong công việc.
- Em nhé! Mượn cho anh...
- Mượn cho anh rồi kẻ trả nợ lại vẫn là em?
- Cha mẹ sắp sang rồi, chúng mình nên giữ thể diện một chút
chứ!
- Thể diện gì với cái nền gạch khốn kiếp ấy.
- Nhưng không thay cũng không được vì lớp thảm nhà mình vừa
hôi lại vừa cũ quá. Đây cũng là dịp để chúng mình rửa mặt với gia đình.
Lần nào mua sắm sửa chữa gì thì Thành cũng dùng tiếng rửa mặt
để cổ động vợ và lần này Thành tin chắc mình sẽ toàn thắng. Rồi mặc vợ lải nhải,
Thành cứ gọi đám Mễ về làm. Tính ra tiền gạch hết hai ngàn đồng. Tiền công cho
hai người thợ phụ chưa hết một trăm bạc. Rẻ chán, nếu không khôn ngoan chạy bạy
nhờ chỗ này móc nối chỗ kia để mua vật liệu rẻ thì mọi chi phí phải tăng lên gấp
hai. Chỉ tội nghiệp cho Tâm lại thêm một phen chạy đôn chạy đáo mượn chỗ này vá
chỗ nọ...
Dù biết cái nền gạch màu rượu chát và dù Tâm đã cố tưởng tượng
ra vẻ rực rỡ của nó, nhưng buổi chiều ở sở nhận được điện thoại Thành gọi về thẳng,
khỏi phải ghé nhà người em ăn nhờ ngủ đậu như mấy ngày qua, Tâm vẫn lặng người.
Suốt từ trong ra đến ngoài trải toàn những viên đá cẩn bóng ngời, màu đỏ đậm
làm mọi đồ vật trong nhà như sáng rực hẳn ra. Ngay lối cửa Thành trải miếng
chùi chân màu xanh thẫm và góc bên phải đặt cái kệ cao treo giày dép. Tâm tuột
giày máng lên và lột luôn đôi pantyhose cầm ở tay để tìm cảm giác trung thật nhất,
hơi mát lạnh thấm vào lòng bàn chân.
- Mùa hè khỏi bật máy lạnh anh nhỉ!
Tâm nói hơi thừa vì nhà làm gì có máy lạnh để mở.
- Không ngờ ý kiến của anh thế mà hay. Chỉ ba mùa hè không bật
máy lạnh là đủ tiền làm nền gạch hoa này rồi.
Vẫn không nghe Thành nói gì, Tâm ngồi bệt xuống đất mân mê từng
ô vuông một.
- Tối nào oi bức em kéo gối nằm ngay xuống đây là ngủ được liền.
Không như vợ, Thành thực tế hơn vì khi có ý định thay thảm
chàng đã nghĩ đến mùa đông sắp tới. Gạch có khác chi đá, vừa lạnh vừa buốt để
nó thấm vào lòng bàn chân còn hơn ngâm dưới nước. Nhưng đâu hề gì, Thành to lớn
mập mạp lại đang trong tình trạng cần nhịn ăn cho gầy bớt nên hàng ngày phải chạy
bộ cả chục cây số cho bớt mập, gồng lên chống lạnh cũng là một hình thức chạy bộ.
Chỉ tội cho Tâm đã nhỏ lại nhỏ thêm nhưng luật lệ cấm đi dép trong nhà chính
Thành đã ban hành ngay từ lúc vừa rước dâu về đến nhà, bây giờ vì nó mà phá lệ
thì Thành đâu còn được tôn trọng ở những luật lệ kế tiếp nữa...
Từ khi có cái nền gạch mới thì những vật dụng trong nhà trông
cũ hẳn ra. Thành bàn với vợ mượn ít tiền sắm sửa cho khang trang mát mắt hơn.
- Em xem, đã rửa mặt thì phải rửa luôn cả chân. Không lẽ
thiên hạ nhắc ghế vạch xem nhãn hiệu của nó? Bây giờ chỉ cần lái xe lên Los mua
vài chục thước ren may viền bốn chung quanh là y chang đồ bán ở Gayfer. Rẻ được
cả trăm đồng một bộ màn cửa chứ ít sao.
Tuy bực vì Thành chỉ thích vẽ chuyện ra mà làm nhưng Tâm
không khỏi không phục về những sáng kiến độc đáo đó. Thói đời ai chẳng thích
giàu có sang trọng để được sự nể vì hoặc những lời trầm trồ khen ngợi? Nhất là
theo Tâm xã hội bây giờ con người được đánh giá trị qua công việc làm, bằng cấp,
nhà, xe cho nên muốn bước vào giới thượng lưu phải có chút đỉnh kiến thức hay
tài sản. Muốn quen với những ông tai to mặt lớn thì phải có nhà cửa đàng hoàng.
Bên Mỹ cái nhà là giá trị tài sản. Tài sản rỗng tuếch khó có bạn thuộc giai cấp
cao. Các ông các bà bây giờ khó phân biệt vì ai ra đường cũng đi xe mới, ăn mặc
sang trọng, xách cặp da, bóp đầm thời trang, hột xoàn đeo lủng lẳng nhưng thật
hay giả, giàu hay nghèo phải về nhà mới rõ được. Nhà ở năm mười người dồn trong
một cái phòng hoặc ngăn năm sáu phòng cho mướn thuộc loại nghèo dù lợi tức thâu
vào dư giả hàng tháng, chốn đô hội nào ai biết đấy là đâu. Bởi vậy chết sống, nợ
nần không cần biết, những người có máu mặt xưa nay dẫu không có tiền cũng cố
bóp chắt nhịn ăn nhịn uống để dồn hết cho căn nhà.
- Hết rửa mặt đến rửa chân rồi còn rửa gì nữa cho em biết
luôn một thể để còn mượn nợ. Anh làm như bạn em là kho bạc dễ rút ra lắm đấy.
Thành biết tâm lý những người nghèo khi đi sắm đồ mà bàn tính
đủ thứ thì chỉ có nước sắm hàm thụ cho nên chàng chỉ cười:
- Có vậy thôi chứ còn mua gì nữa bây giờ?
Được vài bữa, vừa may xong ba bộ màn cửa, chưa có dịp nằm ngắm
tác phẩm độc đáo của mình thì Thành lại đưa thêm một sáng kiến mới:
- Mình dám sắm nhà, sắm xe mà không dám sắm một bộ salon thì
bậy thật.
Kể ra Thành cũng khôn không mang bộ salon ra ví với màn cửa
mà lại lôi những giá trị to tát hơn để so sánh. Quả nhiên Tâm thấy lời bàn của
chồng hoàn toàn có lý nên chống đối rất yếu ớt:
- Nhưng mà...
- Trước sau gì cũng phải mua thôi. Mình không ngồi lên, không
dày xéo thì nó vẫn mới tinh khác nào đồ chưng trong tiệm, ngừng một lát cho vợ
thấm ý, Thành bắt đầu thủ thỉ, anh nghĩ em mượn đỡ bạn bè vài trăm rồi từ mai
tiếp tục nhận hàng thêm về nhà may như dạo nọ thì trả mấy hồi.
- Anh không nhớ bác sĩ bắt em phải ngủ sớm? Giọng Tâm đầy hờn
trách.
- Ngủ một, hai giờ sáng đã chết chóc ai. Giá như ngày xưa em
chưa từng thức khuya thì còn có thể tạm tin. Mấy tên bác sĩ bày ra nói láo nói
lếu để nuốt tiền cho dễ ấy mà!
- Nhưng thức khuya dậy sớm mệt lắm, em luôn ngáp vặt ở sở may
làm thằng manager cứ lừ đôi mắt ngó chừng chỉ sợ em lủi vào góc nào đó để ngủ.
- Không thì thôi vậy, Thành giận dỗi, mai kiếm cái mền cũ phủ
lên sẽ không ai nhìn thấy và cũng đừng hội đừng họp gì ở nhà này nữa.
- Mình là chủ hụi mà không cho người ta khui ở đây thì khui ở
đâu? Vậy chứ những tháng vừa qua cũng ngồi trên bộ salon cũ đã có sao?
- Nhưng lúc đó chưa có cái nền gạch...
Lại cái nền gạch! Không ngờ nó rắc rối đến như thế, mới có
hai tuần mà toi hết mấy ngàn bạc, nợ này chưa xong đã đeo thêm nợ khác.
- Hay là thế này... Tâm ngần ngừ... chiều mai tan sở em ghé
tiệm vải mua ít thước về bọc lại, cũng mới và đẹp như ai.
- Thôi bà ơi, bà may đẹp lắm ấy, thợ không ra thợ, thầy không
ra thầy. Nhìn mấy cái lưng quần em sửa cho khách mà anh xây xẩm mặt mày!
Tâm nguýt chồng, giọng chảy ra:
- Vậy chứ ai may những tấm màn ren kia?
- Ai mà chẳng may được, bốn lằn dài chạy vài đường là xong.
Còn cái ghế em nhìn lại xem, phải tỉ mỉ khéo léo lắm nhất là những góc cạnh...
- Hay mình mang ra tiệm cho nó bọc...
Thành xua tay:
- Còn mắc hơn mua mới. Phần nhiều chỉ có những bộ ghế cổ đắt
tiền họ mới bọc lại để lưu giữ.
- Em không tin, có mắc cách mấy cũng chỉ vài trăm bạc trong
khi ghế mới tốn cả ngàn.
- Ai bảo vào tiệm cho tụi nó chém?
- Không mua ở đó thì mua ở đâu? Em không bằng lòng vào good
will hay salvation army đâu.
- Mình đi chợ Mễ mua một bộ.
- Lại chợ trời! Cả một đống ghế thô kệch và cứng ngắc dòm là
biết liền.
- Ngốc. Chẳng ai chú trọng vẻ thô sơ của nó nếu trên ghế có
chừng chục cái gối nhỏ cùng màu đặt một hàng dọc.
- Nhưng gối ở đâu mà có?
Tâm tròn mắt ngó chồng nhưng đầu óc lại hình dung ra những bộ
bàn ghế cực kỳ lộng lẫy chưng ở Sears với những chiếc gối ôm nằm một hàng dài
thẳng tắp.
- Anh lại bắt chước ghế ở Sears, loại đó gần hai ngàn bạc.
- Chớ còn gì nữa. Mình lựa ghế màu xanh cỏ đậm, gối vừa xanh
vừa rượu chát xen kẽ, đẹp chết người.
- Gối kiếm đâu ra mà đòi xanh với đỏ. Anh vào Sears nó chém
hai mươi đồng một cái, mười cái hết hơn hai trăm. Toi tiền.
- Em không biết may à?
Tâm lại nghệt mặt ra và có lẽ Thành chỉ yêu vợ nhất lúc đó.
- Lại em nữa? Sáng dậy năm giờ cơm nước gói gém mang theo vội
vàng cho kịp tới sở. Chiều ghé lại tiệm lấy đồ sửa về đến nhà sớm lắm cũng phải
sáu giờ. Ăn uống tắm táp xong ngồi vào bàn may tháo tháo gỡ gỡ... Anh tưởng ăn
được vài đồng của lũ dân nghèo không có tiền mua mới, phải nới ra bóp vào những
cái quần cũ mèm dễ lắm sao?
- Thì có lúc này lúc khác. Bù lại...
- Bù lại anh nằm ngủ khò khò.
- Bậy bạ, Thành cười chống chế, lâu lâu lỡ ngủ quên có một lần
mà em cứ hờn trách mãi.
- Không ngủ thì cũng nằm xem báo, xem ti vi. Sao anh sung sướng
dư giả thời giờ còn em cứ đầu tắt mặt tối chẳng biết sau này có con rồi công việc
sẽ còn khổ đến đâu.
- Mình chỉ ráng thêm thời gian ngắn nữa thôi. Lúc trước tự ý
em may vì muốn có ít tiền gửi về cho cha mẹ chứ đâu phải do anh. Bây giờ ông bà
già đã sắp qua thì tiền đó mình sắm sửa trong nhà. Sắm xong, số còn lại cũng
hoàn toàn về em, lúc đó tha hồ mua cẩm thạch hột xoàn.
- Chẳng ham, Tâm lườm yêu chồng, ba cái nữ trang nghe anh dụ
hoài mà có thấy đâu. Nay má anh hỏi xin cái này, mai mẹ em đòi thùng thuốc tây,
chắc rồi cũng chết sớm thôi.
Thành cười hề hề ôm lấy vợ:
- Chết rồi đâu còn ai để anh bồng anh yêu...
Thành nhấc bổng vợ lên, nhẹ nhàng như nhấc một con búp bê đi
vào trong phòng. Thế là Tâm quên hết nhọc nhằn, quên luôn bắt đầu từ mai trở lại
tiệm may sau hơn hai tháng nghỉ việc và quên những buổi sáng mắt nhắm mắt mở vừa
tuột xuống giường đã ba chân bốn cẳng lao đầu vào bếp nấu nướng, lồng phần cơm
cho mình vẫn chưa đủ còn dọn sẵn cho chồng bữa điểm tâm trước khi đi làm...
Bộ salon mang về nhà được hơn ba tuần thì sở di trú gọi báo
tin cha mẹ Tâm đã qua tới Thái Lan và đang chờ chuyến bay sang Mỹ. Tâm mừng
nhưng cũng rối cả ruột gan vì nhà chỉ có hai phòng, một cho hai vợ chồng còn một
cho khách. Phòng cho khách kê mỗi cái giường "một" mua ở garage sale
từ ba năm về trước. Tâm bàn với chồng mua thêm một cái nữa cho đủ cặp để ông bà
cụ ngủ trông thanh lịch một tí thì bị Thành gạt phăng:
- Biết ông bà già ở đây lâu mau mà mua cho tốn tiền.
- Không ở với mình thì ở với ai?
- Sao hôm nọ em bảo dì Nụ đã sắm sẵn giường chiếu nơi ăn chốn
ở cho ông bà già rồi? Thành ngạc nhiên nhìn vợ.
- Anh tin cái con bụi đời, khố rách áo ôm đó hay sao. Dù nó
có ôm một đống vàng, dù nhà nước có nuôi nó suốt một đời cũng vẫn là con tật
nguyền. Cùng là phận gái nhưng em là chị chính ra phải...
Tâm bỏ lửng câu nói thở hắt ra rồi mới nhìn chồng trách móc. Thành
tránh vội đôi mắt của vợ bằng cách đảo mắt một lượt quanh phòng:
- Cái phòng nhỏ quá, đổi giường đôi cũng không đủ chỗ nhét
vào.
Tâm ngắt lời:
- Nhưng mà cha mẹ em già rồi đâu thể nằm chung một giường kỳ
chết.
- Kỳ là cái chắc, Thành đốc thêm, tạm thời cứ để y như vậy,
biết đâu nơi này không phải là tổ ấm của ông bà.
- Già rồi còn tổ chim tổ cò gì nữa. Tâm gắt khẽ.
- Hay tạm thời mình mua thêm cái sleeping bag để bu nằm kế
bên?
- Ý sao được, Tâm hoảng hốt kêu lên, mẹ em bị phong thấp nặng
nề, nằm đất có nước đi luôn.
- Không bà nằm thì ông nằm, ba cái chuyện lăng nhăng đó cứ
nói hoài. Tóm lại, anh không muốn kê hai giường, cũng không muốn bất cứ ai nằm ở
ngoài phòng khách.
Mọi lần bàn để mua sắm thì Thành mềm mỏng nhưng khi hạ lệnh
thì nghiêm nghị và giọng lạnh như thép. Cái mệnh lệnh mỗi khi được ban ra là
trái tim Tâm đập liên hồi. Hôm mang bộ salon về nhà nàng đã nghĩ ngay đến điều
đó. Ít ra cũng là chỗ để ông bà cụ nghỉ trưa hay buổi tối có lỡ xem ti vi mệt mỏi
lăn ra ngủ cũng chẳng sao. Ai ngờ bây giờ Thành lại ra điều lệ quái ác như vậy.
- Em cứ nghĩ ghế thay giường?
Thành vẫn khăng khăng một mực và lôi luận điệu tiết kiệm ra để
thuyết phục:
- Hồi chưa mua mình đã tính là chỉ để chưng thôi, càng ít người
ngồi thì càng giữ được lâu.
- Hay là em phủ thêm cái khăn...
- Đã nói không là không. Ghế chỉ để ngồi, muốn nằm ngủ phải
đi vào phòng.
Tâm không tranh luận nữa vì đầu óc còn muôn ngàn điều cần phải
lo lắng. Nào những đồ dùng lỉnh kỉnh, quần áo, giày dép, khăn mặt, bàn chải
đánh răng và cả những thứ không đáng sắm vẫn cần phải có như bộ bình tích cũng
làm Tâm bận lòng. Hôm nọ đi chợ Việt Nam, Tâm đáo qua đáo lại cả chục lần ở
hàng đồ sành đồ gốm để ngắm nghía cái bình tích kềnh càng tráng bằng lớp men sứ
vẽ vài hình con công con phượng "made in China" và cái vỏ để ủ với
giá ba chục đồng. Cái giá quá mắc trong khi ở chợ Mỹ cả bộ trà cũng chỉ có mười
lăm đồng bạc nhưng khốn nỗi bình của Mỹ không có vỏ ủ thì sao hợp mắt các cụ.
Mà cái vỏ có đẹp gì đâu, được đan bằng những sợi nilon nhỏ như sợi cói, bên trong
dồn bông goòng bọc vải vừa vặn để cái bình tích vào. Không mua thì sợ cha mẹ
mình buồn vì gia đình Thành vừa qua Mỹ tháng trước cũng có một cái mà mua thì
biết sao cho vừa lòng. Nhìn thì biết, các cụ đua nhau mua sắm, thích gì là đòi
cho bằng được, từ bộ tranh sơn mài cho đến những thứ lẩm cẩm thật vô dụng như
cái lồng bàn, cái nón lá v.v... Quần áo mua sẵn ở tiệm không chịu, cứ đòi phải
may theo lối Việt Nam vừa mắc, vừa mất thời giờ. Cũng may Thành không phải đón
về nhà nuôi chỉ vì ông bà già chồng sợ lạnh, không chịu nổi cảnh đi chân đất
trên cái nền tráng men nên ở với người con trai thứ hai. Hai vợ chồng người em
chỉ là technician nhưng làm việc lâu năm nên lương cũng khá. Tâm không phân bì
với Thu nhưng nó là dâu mà dám sắm bộ bình tích cho cha mẹ chồng trong khi mình
là con ruột lại tính toán từng ly từng tí...
Thế là hai hôm sau Tâm quyết định trở lại nhưng khi móc tiền
ra trả thấy đau thế nào. Ba mươi đồng đối với Tâm không to lớn nhưng mua một thứ
vô dụng và xấu xí để trong nhà thật uổng phí. Nhớ dạo còn ở Việt Nam, Tâm mua
được chiếc bình thủy cũ của Mỹ, nàng cứ thắc mắc tại sao chiếc bình mỏ vịt lại
bị ố vàng ở miệng rót, về sau mới biết người ta chứa nước trà trong đó. Bình thủy
Mỹ tiện dụng là vừa xài lạnh và nóng, ngược lại cha mẹ Tâm lại cho rằng sức
nóng của nó làm cho bã trà nở toét ra uống hết cả ngon. Tâm không nghĩ như thế
nhưng ý thích của các cụ thì có trời hiểu nổi vì các cụ nói một đàng nhưng lại
làm một nẻo. Thích uống trà nóng mà lại phải kiểu cách, màu mè trong bình tích
vì như vậy mới diễn tả được vẻ thanh lịch của thú tiêu khiển. Nhớ hồi còn ở nhà
mỗi lần uống trà với khách, cha nàng trịnh trọng giở nắp ủ lên, miệng xít xoa
kêu nóng và rất thong thả, ông giơ cao bình rót ngay vào cái tách nhỏ nằm phía
dưới. Độ cao làm tiếng nước chảy xuống kêu ròng rọc nhưng không văng ra ngoài tới
một giọt. Cha mẹ nàng nghiền trà thì dẫu đi đến đâu, ngoài trừ chết, vẫn không
quên được chiếc bình tích.
Tâm thở dài, nàng không tiếc tiền khi mua bộ bình trà mà chỉ
vì không muốn cha mẹ mình ở chung. Nàng sợ cảnh đoàn tụ sẽ cười ra nước mắt và
sẽ ăn nói thế nào với Thành về ông chủ đồn điền Bảo Lộc? Dù ông chủ đã bị kiểm
kê và tịch thu trọn bộ tài sản sau năm bẩy mươi lăm, dù đã phải bỏ hết về Hốc
Môn sống kham khổ vất vả thì vẫn còn lại cái cốt cách chứ làm sao có thể mất?
Trong khi thực tế, từ ngày di cư vào trong nam ông bà Cửu sống chết với xứ
Trung Chánh đã gần bốn mươi năm trời.
Tâm ái ngại và đâm ra ngượng với chồng, nàng nhớ lại bốn năm
trước ngày đám hỏi, hai người cùng đồng lòng viết thư về gia đình để hai bên
xui gia được gặp mặt. Gia đình Thành giàu có nên hôm đám hỏi, ngoài đồ dẫn lễ gồm
có hai con heo quay, ba gánh xôi gấc, một mâm cau, một mâm trà, một mâm rượu và
nhãn, xoài, cam, ổi xá lỵ đội từng thúng đầy lại còn trình diện họ hàng tông ti
toàn bác sĩ kỹ sư v.v... Đàng trai kéo đến, dẫu đã thông báo trước, vẫn làm
đàng gái méo mặt dù Tâm gửi về một ngàn dollars để cha mẹ nàng làm cho nở mày nở
mặt với bà con lối xóm. Khốn nỗi họ hàng đã đông lại toàn thứ ăn bám nên khi được
tin nhà ông Cửu có con gái gả chồng bên Mỹ thì dù không được thiệp mời, bà con
xa gần vẫn cứ lục đục kéo đến từ hai tuần trước.
Tội nghiệp bà Cửu, già cả mệt nhọc nhưng vẫn cố giữ phong
cách của một người có con ở nước ngoại nên ngày nào cũng lặn lội từ đầu trên
xóm dưới vơ vét từng con heo đến con gà. Bên chợ cũng được một phen đắt hàng vì
một ngàn đô chứ đâu phải ít. Lũ con cháu đói khát mười mấy năm liền nên những
ngày đầu được bữa cơm trắng cá kho kéo ở ao về là đã thấy đời sung sướng hạnh
phúc nhưng sau vài ngày ăn uống no nê, sức khỏe đã phục hồi thì đám gà qué nhốt
trong chuồng mới là mục tiêu chính cho họ mỗi bữa ăn. Bà Cửu chẳng hiểu sao gà
cứ lăn cổ ra chết, mà chết toàn những con mái tơ mập mạp để dành cho đàng trai
thế mới kỳ! Ngày đầu ngả hai ba con rồi cứ thế tăng dần, gà dịch chết toi mà lũ
quỷ ăn vào cứ mập mạp béo tốt, đã vậy tới bữa dọn ra chỉ toàn xương với cổ, làm
ba con cũng xương với cổ, năm con cũng cổ với xương. Hai ông bà bảo nhau rình
nguyên ngày thì khám phá chẳng có toi có dịch nào mà hễ cứ đến giờ trưa, sau
vài tiếng kêu quang quác là cả chục con dãy đành đạch. "Chúng vặn cổ nó tại
chỗ mà." Ông Cửu hét lên rồi vơ khúc cây đập lia lịa trên đầu thằng Võ, thằng
cháu ruột gọi ông bằng chú "Sư bố nó, bố nó mà sống ông quật cả hai."
Ông Cửu vừa quật vừa thở dốc còn bà thì bới trong đống rơm sau nhà toàn những
đùi gà luộc béo ngậy, lại có cả xị đế và chén muối tiêu chanh. Tiếc của, bà đào
ông bới cha lũ cháu đốn mạt khốn kiếp nhưng rồi đâu cũng vào đó, của thiên trả
địa vì Tâm đã muốn nở mặt họ hàng. Con cháu tức là họ hàng, chúng được ăn thì mới
sợ và nể phục ông bà. Và có như vậy mới khóa mồm cả lũ xưa nay vẫn lén lút dè bỉu
con bà ế. "Đấy cho chúng mày biết, ngày xưa đứa nào bảo con bà ế! Ế mà lấy
được chồng chủ tiệm, con nhà danh giá giàu có!"
Vì ăn trước như vậy nên ngày đàng trai đến đón dâu chỉ còn được vài chục đĩa
nem trộn thính, vài chục đĩa thịt gà luộc và hơn một thúng xôi, giò thủ trong
khi đàng trai nối đuôi nhau, người lớn kẻ nhỏ, lễ mễ gánh đội đi một hàng dài đến
cả trăm thước. Họ hàng khách khứa, bà con lối xóm cộng lại trên dưới vài trăm
người. Cũng may đồ sính lễ quá nhiều, bà "lại phần" một ít còn bao
nhiêu cho mang hết xuống bếp chặt nhỏ xếp ra dĩa. Quang cảnh ngày cưới tấp nập
nhộn nhịp như đám hội lớn. Bên cạnh, bà Lý cho mượn nguyên căn nhà gạch xây làm
đám. Nhà lại có lầu nên khi bà Cửu gửi cuộn băng video sang Tâm cũng cảm thấy
mát mặt với chồng. Ông Cửu hôm đó trông cũng ra phết với cái áo sơ mi trắng và
cà vạt to bản bông sặc sỡ, bên ngoài khoác bộ vét màu sữa nhạt, tướng tá oai vệ
như tổng giám đốc ngân hàng. Bà Cửu cũng đâu kém, bà mặc áo dài bông bằng nhung
màu xanh đậm, bên trong là bộ bà ba trắng với hai ống quần rộng thùng thình, đầu
không chít khăn mỏ quạ như thường ngày mà lại vấn tròn bằng chiếc khăn nhung
cũng màu xanh làm lũ con nít mất nết bu theo chọc:
- Cô "râu" già đội rế hoàng hậu.
Nhìn lối ăn mặc dị kỳ xí xọn, già không ra già, trẻ chẳng ra
trẻ nhưng Tâm vẫn thấy thinh thích. Thà dị kỳ còn hơn để lộ sự quê mùa ra. Thà
xí xọn còn hơn phơi bày cảnh khó nghèo của muôn thuở trước...
Tâm ngại ngùng vì cái bình tích nhưng lại tự an ủi khi nghĩ
gia đình Thành giàu có mà còn xài nó huống hồ gì cha mẹ nàng. Khốn nỗi người ta
ở Mỹ Tho giàu cách mấy cũng là nhà quê còn cha mẹ nàng giàu nứt đất đổ vách ở Bảo
Lộc. Dân Bảo Lộc, Đà Lạt đâu thua gì dân Sài Gòn... Nhưng thôi, lo quá cũng đến
chết vì không còn cách nào nữa bây giờ. Cả năm nay Tâm đã tốn phí biết bao
nhiêu tiền để cho cha mẹ cởi lốt. Nàng gửi những mẫu áo thời trang về cho chị
dâu để dẫn ông bà đi tiệm may. Nàng gửi giày gửi dép, mua những xấp vải sặc sỡ
và dặn đi dặn lại không được mặc quần đen, viện cớ màu đen là màu xui xẻo, tụi
Mỹ rất kỵ màu đen, nhất là nó lại nằm ở phân nửa dưới của người đàn bà.
Dặn dò là thế mà hôm đi đón ở phi trường, bà Cửu mặc ngay cái
quần đen chân què từ Thái Lan sang tới Mỹ, cũng may có hai vạt áo dài nhung tím
phủ che phần trên nên đỡ được phần nào vẻ thô kệch. Ông Cửu tân tiến hơn trong
bộ vét màu mỡ gà, tay xách cặp da đen của tụi con nít lớp ba nhưng cũng oai ra
phết. Trong lúc Tâm lăng xăng xách cái nọ cầm cái kia thì Thành đứng khoanh tay
lạnh nhạt, ánh mắt có vẻ ngỡ ngàng nhiều hơn là khinh thị. Họ như từ một hành
tinh nào tới, líu nhíu tiếng bắc rặc khó nghe, đã vậy lại còn lùn hơn bất cứ
người lùn nào và nhỏ thó hơn bất cứ ai nhỏ thó. Nhìn đàng sau người ta chỉ nghĩ
là đứa con nít chín, mười tuổi trịnh trọng áo quần của buổi đại hội. Nhưng thôi
Thành nào hy vọng họ khá hơn vì Tâm cũng đâu có cao chi nếu không đi vào đôi giầy
tấc rưỡi. Ngày xưa Thành khoái mỗi lần hôn môi Tâm vì nàng hay bước cả đôi giầy
gót nhọn lên giầy mình rồi nghến cao cổ lên... Được đàng nọ mất đàng kia vì muốn
có những đặc biệt khác người, muốn được thiên hạ bàn tán xì xào như cái rốn của
vũ trụ thì cũng phải chịu ít nhiều thiệt thòi, mà những thiệt thòi đó lại ở
trong phòng kín nào mấy ai để ý.
- Anh ra lấy xe là vừa vì chỉ vài phút nữa người ta sẽ đẩy đồ
xuống.
Thành cũng muốn đi ra ngoài cho thoải mái và nhẹ đầu óc vì
cũng người bắc sao Tâm ăn nói ngọt ngào dễ nghe dễ hiểu mà ông bà Cửu nói cái
gì đâu. Đã vậy bà cụ lại cứ nhào tới nắm tay Thành, bàn tay xương xẩu và nháp
như giấy nhám.
- Bu mừng lắm, được thằng con rể như mày có chết cũng nhắm mắt.
Thành chỉ biết gật đầu cười trừ trong khi bà cụ ra chiều còn
thích nói, bà cố nghến cái cổ ngắn cụt gào lớn giữa tiếng máy phóng thanh và tiếng
ồn ào chung quanh:
- Cái máy bay lớn quá, suốt mấy ngày liền cứ kêu u u làm nhức
cả đầu. Giá mang theo cái khăn vuông mà bum tai thì đỡ phải điếc.
Khi Thành ra ngoài, Tâm mới dám cằn nhằn về cách ăn mặc của
ông bà Cửu. Nàng giằng cái cặp ông đang xách trên tay:
- Thầy vác cái giống quỷ này theo làm gì?
Ông Cửu cười gượng gạo:
- Thì mày bảo tao phải bắt chước y hệt còn gì nữa. Con vợ Chẩn
đi khắp chợ Huỳnh Thúc Kháng cũng chẳng tìm ra thứ ấy, có một cái trông cũng tợ
tợ nhưng mắc như ma mà có khác cái này là bao. Hàng quốc nội bao giờ cũng rẻ.
- Cứ quốc nội quốc ngoại mãi mà chẳng bỏ, thầy vào trong nam
gần bốn mươi năm rồi mà vẫn không thể gột rửa được sự quê mùa của mình.
Ông Cửu nhìn Tâm bằng đôi mắt ngỡ ngàng vì không tin rằng xã
hội văn minh đã biến đổi tính tình con ông mau như thế. Ngày xưa còn ở nhà dù
Tâm đỡ đần trong ngoài và dù đi bỏ rau ở chợ mỗi sáng mang về cả đống tiền
nhưng bố ra bố con ra con, nhiều khi giận ông còn vác cây đuổi đánh thế mà bây
giờ mới tiếng tây tiếng u trọ trẹ vài ba chữ đã khinh tiếng mẹ đẻ. Tuy nhiên
ông cũng gượng làm vui, chân ướt chân ráo sang đây không nhờ nó thì còn nhờ vào
ai. Ông lấy giọng bình thường hỏi Tâm trong khi đảo mắt nhìn quanh:
- Chẳng ai đón thầy bu hết à?
- Thiếu có mỗi cái Nụ thôi, nó đi ăn đám cưới bạn bè mãi bên
Canada, hai tuần nữa mới về.
- Rồi tối nay tao với bu mày ngủ ở đâu?
- Thì ngủ đỡ trên con cho đến khi nào nó về.
- Biết tao sang mà nó còn đi. Bạn thì bạn, tao với bu mày
không hơn chúng nó hay sao?
Tuy ông lầm bầm trong cổ họng nhưng bà Cửu vẫn nghe được. Thường
người già nếu mắt đã sáng thì tai rất thính. Bà bấu nhẹ vào tay ông, giọng nhẹ
nhàng:
- Qua Mỹ rồi ông đừng chấp nhất như ở Việt Nam.
Ông Cửu lại không nghĩ như vậy. Không khó khăn, không chấp nhất
làm sao đám con ông được trở thành ông nọ bà kia. Trừ vợ chồng Chẩn còn kẹt lại
không nói, mặc dù nó giầu nhất xóm vì làm chủ cả một xí nghiệp heo "đi
tơ", còn thì con ông ba đứa đang ở bên Mỹ đứa nào cũng khá cả, duy có thằng
Phước thì hơi tệ. Ai đời qua Mỹ được hơn một năm mới gửi về duy nhất một thùng
quà, con vợ nó véo von dặn đi dặn lại:
- Thầy để dành xài, đừng bán vì toàn những loại hàng tốt.
Ông Cửu nghĩ nó dặn mánh mung gì đó nên đống quần áo tuy thơm
nực mùi vải mới nhưng ông chẳng dám bán và cũng không dám mặc. Cái quần có đến
năm bẩy túi nặng chình chịch, trên rộng dưới túm chặt như quần thằng phỗng. Đôi
giầy không nhọn mũi mà lại bè bè cái đầu bọc mủ mà lũ nhóc hàng xóm gọi là
"ten nít su". Ông chẳng cần biết tennis là cái gì chỉ biết rằng nó
quá vô dụng. Ông già rồi, quanh năm ngày tháng lam lũ với vườn tược, sáng cũng
như chiều lúc nào quần cũng xắn cao, bùn ngập tới đầu gối mà đôi giầy thì trắng
bóc, lại cũng không hợp nếu mỗi sáng chỉ dùng để đi lễ vì con đường đất tứ thời
nhớp nháp, không vì mưa dầm cũng là đất bùn từ các ruộng rau kéo về. Cả làng
ông ở đều trồng rau bán vùng Hốc Môn, Trung Chánh. Đứa lớn đứa bé vừa nứt mắt
ra đã ăn rau, rau thay cơm, rau thay thịt cá. Mà rau có ngon chi cho cam, mọi
thứ tươi tốt đều mang đi bán để được khá tiền, còn lại những thứ xấu hay quá lứa
mới để ăn hoặc nấu cho heo gà.
Nhìn đống quần áo, ông thấy giá trị có mỗi khúc hàng soir đen
may quần cho vợ, còn bao nhiêu thì đáng giá gì mà con dâu bảo để dành xài vì
toàn loại tốt? Chính vì nghĩ như thế nên suốt ngày ông như người bị ma hành, cứ
xăm soi thư dưới ánh sáng mặt trời rồi lại vào phòng tối đốt đèn lên mà rọi cũng
chẳng thấy gì hết. Cho rằng nó tuy khôn khéo nhưng lại quá nhút nhát không dám
viết chỗ dấu tiền đô. Chắc chắn như thế nên ông cứ từ từ lần lượt gỡ từng cái
quần cái áo, rạch hằng chục mảnh ở cổ áo, túi quần để tìm tiền, ngay đến đôi
giày mới tinh cũng bị đâm thủng tứ phía.
Vừa mất thì giờ lại vừa toi cả bao nhiêu hy vọng, ông bực tức
sai thằng cháu nội viết một trang thơ dày đặc gửi sang chửi vợ chồng con cái
nhà Phước. Ai ngờ con vợ đáo để đã chẳng xin lỗi hoặc gửi thùng khác tạ tội
cùng cha mẹ chồng mà ngay đến thư từ cũng lờ luôn. Tuy giận lắm nhưng có chửi từ
ngày này sang ngày khác cũng không hả, vả lại tiền cò tem đâu phải rẻ, vì thế
thỉnh thoảng có viết cho con gái, ông kèm mấy giòng nhắn chửi vợ chồng Phước. Dần
dần chuyện giận hờn cũng phai nhạt nhưng chắc chắn không phải tại vì mỗi năm vợ
chồng nó vẫn thường xuyên gửi tiền về biếu ông tiêu tết. Tình cảm ông vẫn dửng
dưng lạnh nhạt bởi vì có vài lần ông hỏi xin ít ngàn thì Phước tra gạn nào là
thầy cần làm gì, tiêu những gì phải cho nó hay. Biết không thể dấu được ông
đành xì ra:
- Tao cho người đóng hai cỗ hòm.
- Thầy đóng hòm làm gì? Sắp sang rồi mà!
Phước viết thư đối thoại như đang nói chuyện làm ông nổi cáu:
- Sắp sang là một chuyện, hòm sắm là một chuyện.
- Nhưng còn bộ hòm hồi xưa chúng con đóng tặng thầy bu đâu?
- Cái thằng ngu, trước kia mày nào đã là công dân Mỹ. Tao
cũng nào có những đứa con sống vinh quang ở nước ngoại. Hơn nữa đồ quốc nội đâu
bằng quốc ngoại nên tao cho bác Cả Phùng rồi, tội nghiệp chết chẳng có miếng
ván.
Chương 2
Thư đi thư về đến hơn nửa năm thằng khốn gửi cho được sáu
trăm bạc bảo là biếu tiền tiêu tết chứ hòm nó nhất định không cho. Thoạt đầu
ông còn giận vì nghĩ nó chi chiết tính toán từng xu với bố mẹ, nhưng sau ông chắc
chắn tại vợ chồng chúng nghèo. Vì chỉ có nghèo mới để thua thằng đánh heo cho vợ
Chẩn. Thọ đi chui sau Phước ba năm bây giờ đã có vợ Mỹ. Hôm đám cưới nó gửi
hình về làm cha mẹ nó nở mặt nở mày nhưng lại làm xấu hổ mặt ông. Trong hình
nhìn Thọ phúng pha phúng phính và cái bụng to ễnh như Tàu phù. Nó đeo đôi mắt
kiếng râm trông thật sang trọng, đã vậy con vợ Mỹ béo tốt bá cổ một bên. Vợ nó
cao hơn chồng một cái đầu và được thằng đánh heo ôm bằng hai tay. Chỉ nhìn hình
không cũng biết là chúng giầu có vì theo ông có tiền mới có ăn, mà đã ăn những
của ngon vật lạ thì sao lại không mập?
Còn vợ chồng thằng Phước cả năm mới gửi về một tấm. Con vợ ốm đét mặt mày xương
xẩu vêu ra, thằng chồng trông cũng chẳng khá hơn xưa. Ông nản, ông buồn rồi đâm
ra thẹn với xóm làng mỗi khi có ai nhắc đến thằng con trai. Ở Việt Nam cùng lứa
tuổi thì nó chẳng nhì cũng nhất và gia đình ông cũng đâu kém cỏi. Tuy làm rau
làm vườn nhưng ông có nhiều ruộng đất, lại chịu khó làm việc. Hơn nữa vợ Chẩn
khôn khéo kiếm về cho ông những đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc chết cha chết mẹ làm những
công việc ngoài vườn nên chung quanh ai có khổ thì khổ chứ nhà ông vẫn có cơm
ngày hai bữa. Bây giờ chẳng những thua mẹ con Thọ lại còn thua luôn cả những
người có con ở xóm trên đi Mỹ, nhìn xem nhà nào chẳng có truyền hình màu, máy
chiếu phim tại nhà. Còn ông gào rát cổ bỏng họng, vợ Tâm mới gửi về cho được
cái ti vi màu sau khi cằn nhằn nghe đến nhức cả đầu.
Xem ra ba đứa con ông chỉ có mỗi cái Nụ là khá. Tuy tàn tật nhưng nó có nhà, có
xe riêng, mỗi tháng chính phủ còn phải trả cho sáu trăm bạc tiền "hen đi
cép" thì xài sao cho hết. Những sáu trăm bạc. Chao ôi! Ông đâu có ngờ con
út tật nguyền hôm nào bây giờ lại giàu sụ và quyền cao như vậy. Chắc chắn nó phải
làm lớn lắm nên chính phủ mới phải trả tiền cho đến suốt đời mà chẳng đòi hỏi bất
cứ điều kiện gì. Tính Nụ lại dễ dãi, ông xin gì là nó cho ngay, radio cassette
âm thanh tám chiều mười chiều cũng ở nó mà ra, rồi tiền bạc xây cất nhà thờ đền
đài cho ông nở mặt với xóm làng cũng ở nó mà ra, ngày tư ngày giỗ đình đám kéo
dài cả tuần cũng ở nó mà ra. Tính như vậy hàng năm nó chu cấp cho ông bà gần một
ngàn chứ ít ỏi gì.
Qua Mỹ ông chỉ còn kỳ vọng ở Nụ và ông cũng nghĩ rằng sẽ ở chung với nó trong một
căn nhà quá rộng mà theo nó kể cứ phải kéo bạn bè về cho đỡ buồn. Cái con chưa
có gia đình nên ăn xài hoang phí, đúng là tiền chùa nên nuôi một đám cô hồn các
đẳng. Qua đây ông sẽ ép nó vào khuôn phép thì số tiền dư hàng tháng còn lên cao
tới độ nào. Và qua đây ông sẽ phải cho nó biết rằng ở đời phải đối xử trên ra
trên, dưới ra dưới chứ không thể coi bạn hơn cha mẹ... Ông Cửu không bực bội
lâu với sự vắng mặt của Nụ vì hành lý đang được máy đẩy xuống và xoay tròn trước
mặt ông.
- Cái nào của thầy đâu? Tâm quay nghiêng hỏi ông Cửu, chỉ cho con biết trước,
hoặc khi nó đến gần phải chụp ngay không thì vuột mất phải chờ đến
"tua" khác lâu lắm.
- Được rồi, chưa gì đã rộn.
Lúc đó bà Cửu đang thích thú nhìn những chiếc va li xanh đỏ sặc sỡ xoay tròn
theo vòng quay. Chúng giống như đoàn xe lửa chạy trên đường rầy mà ông bà vẫn
thường thấy con ông chánh Đại, nhà bên cạnh, bày chơi dưới nền nhà trải đá hoa.
Cái thằng có người chú thật là quý báu, hết gửi xe hơi, xe tăng chạy bằng pin
kêu rè rè rồi lại gửi đến cả xe lửa. Vòng đường rầy rộng gần nửa gian nhà làm
đoàn tàu cứ xình xịch tha hồ bò, thỉnh thoảng hú lên những hồi còi lanh lảnh.
Những lúc nhàn rỗi, ông bà hay sang dụ thằng bé vài viên kẹo chanh. Nó vừa ngậm
kẹo vừa bật nút cho tàu chạy nhưng bao giờ cũng vậy, tàu chỉ chạy được hơn nửa
vòng là nó vội vàng tắt máy viện cớ sợ hết pin. Cái thằng đáo để, nhỏ tí tẹo mà
đã biết mánh mung. Bây giờ chẳng cần dụ kẹo bà cũng vẫn có được những trò chơi
thú vị vì trò chơi của trẻ nít đâu thể so sánh với trò chơi của người lớn. Đoàn
xe lửa chạy pin đâu thích bằng nhìn những chiếc va li đang tành tạch nảy lên vì
độ rung. Cái xanh cái đỏ, cái nằm dọc cái nằm ngang xoay quanh theo vòng bầu dục
vĩ đại thế mà có cả đến hơn trăm người đứng nhìn. Ai nấy chăm chú dán chặt mắt
như bị thôi miên và tai lắng nghe những tiếng bịch bịch phát ra từ một ô vuông
đẩy thêm những chiếc túi xách rớt xuống vòng quay.
Thật có đi ra ngoài mới nhìn thấy cái hay cái lạ. Nhớ hồi tới phi trường Thái
Lan, thấy mấy cô tiếp viên hàng không thanh lịch trong bộ đồ vét mầu xanh đậm,
cái áo ngoài bó chẽn lấy eo và rộng ở vai, cái váy ôm sát mông vừa chấm đầu gối
để hở đôi chân thon dài. Họ đi qua đi lại, đi lên đi xuống làm bà nhìn say mê.
Hồi xưa mấy người đi ngoại quốc về cứ bảo vòng quanh thế giới chẳng thấy gái
nào đẹp bằng gái Việt Nam. Chưa đi nên bà tin chắc như vậy nhưng khi ra nước
ngoài, cái đẹp của người Việt Nam không còn mang cho bà những tự mãn vì cùng
người Á đông sao mấy cô tiếp viên này trông nhàn hạ, sung sướng quá, không tất
ta tất tưởi, không vất vả lo lắng như những tiếp viên ở Việt Nam. Rồi đến hành
khách ngoại quốc cũng vậy, ai cũng điểm trên môi nụ cười hoặc nét mặt thơ thới
phè phỡn. Bà để ý một vài người xách cặp da, ăn mặc đóng bộ cũng như ông Cửu
nhưng phong thái họ khác hẳn, nhất là dáng đi thong thả, ngực ưỡn ra và mặt hếch
cao như chưa hề biết đói khổ hoặc lo lắng là gì. Còn chồng bà và những người Việt
Nam đi cùng chuyến thì tất ta tất tưởi bên những túi xách, mắt dáo da dáo dác
như sợ chung quanh sẽ có ai giựt mất sắc tay hay lột bộ đồ vía của mình. Đôi giầy
da cũng không đem cho họ dáng dấp oai vệ mà trái lại tiếng lộp cộp vang lên tự
dưới đế giày mang cho họ mặc cảm bị người ta chú ý, dòm ngó. Đôi khi bà còn cảm
thấy người bị co rúm lại lúc thoáng có người khách ngoại quốc định cười với
mình.
Hôm rời phi trường Tân Sơn Nhất để qua Thái chỉ non kém hai tiếng đường bay
nhưng bà vẫn lễ mễ cơm nước mang theo như mỗi lần từ Sài Gòn xuống thăm người
em dâu ở Cái Sắn. Nguyên một sắc tay lớn bà oằn vai đeo theo gồm đồ ăn, chén
đũa lỉnh kỉnh, cơm nắm, thịt kho, ruốc, muối tiêu và một hũ dưa muối. Khi những
người tiếp viên hàng không phát cho ít xôi với chả lụa thì ông bà hí hửng giở
cơm nắm ra ăn làm mùi thịt nạc kho nước mắm theo nắp guigor vừa mở bay tứ phía.
Nhiều người hít hà rồi dáo dác tìm kiếm trong khi ông bà thản nhiên từ chối phần
ăn của mình trước những đôi mắt nhìn tiếc rẻ. Bà Cửu lấy khay để lên đùi rồi
đưa lưỡi dao nhỏ cắt xuống bịch cơm nắm gói bằng nilon. Cơm gạo thơm nắm khi
còn nóng, dẻo và dính như bánh dầy.
- Ông ăn dưa muối không?
- Để dành đấy ai ăn mất mà vội.
Ông Cửu cầm khoanh cơm đưa lên miệng, vị ngọt của gạo mới như quyện lấy đầu lưỡi
làm ông nuốt hết nửa phần rồi mới đưa tay nhón miếng thịt kho bỏ vào miệng:
- Ăn đi bà, ăn cho đã. Vài hôm nữa qua Mỹ chẳng có mà ăn.
Cũng chính vì sợ không có mà ăn nên nguyên một cái "sắc ma ranh" bà
mang theo cất đầy hột giống. Nhiều người đi trước viết thư về dặn dò nên gói lại
thành từng bịch nhỏ dấu lẫn lộn trong quần áo chẳng ai xét hỏi mà rộn. Có điều
đừng để những gì có chất sắt, đồng, kim khí thì khi qua máy dò sẽ không kêu,
còn tụi hải quan có xét cũng qua loa đâu giở tung từng cái áo. Vì được báo trước
như thế nên bà gói ghém mang theo không thiếu một thứ gì nhưng nhiều nhất vẫn
là cải xanh, cải ngọt, xu hào, ngò, xà lách rồi đến húng chũi, húng quế, kinh
giới, tía tô cho tới hột bầu, hột mướp...
- Khiếp đảm. Thầy vác cái của quỷ này đi làm gì? Tâm kêu lên khi thấy ông Cửu gần
như bò dài ra để lấy cái túi xách nhà binh ngày xưa đã được nhuộm nâu.
- Sư mày, không có nó thì vãi ra đấy.
- Thầy đựng gì mà sợ nó vãi với chả vãi? Trời ơi!
- Giời ơi cái gì, ông Cửu gắt ầm lên, không có nó lấy cứt mà ăn.
Tâm không nói nữa, nàng khom lưng kéo phụ cái túi xách xuống bên dưới rồi phủi
hai tay vào nhau:
- Vừa dơ lại vừa hôi muốn ói, cái mùi nhuộm hay vải bố gì mà ghê sợ.
- Mùi thằng bố mày chứ còn ai vào đấy!
Ông Cửu quen thói mắng con, dù mắng thật hay yêu thương cũng thế, nhưng bà Cửu
thì không chấp nhận được điều này, bà khẽ khều ông:
- Vừa thôi, mình đang ở "Ờ mé ri cà" chứ không phải Việt Nam đâu.
- Có ở trên trời thì chúng vẫn là con tôi. Bà cứ vớ vẩn khều với khoèo mà tôi lộn
tiết lên đạp cho mấy đạp bây giờ.
Chẳng hiểu ông có đủ sức đạp cho bà té nổi không vì dù ốm o bà cũng còn có tí
da tí thịt hơn ông. Lần này bà cấu ông một cái đau điếng:
- Ăn với nói, có cháu có chắt rồi mà không giữ gìn ý tứ để chúng khinh cho.
Ông Cửu bực vì thấy vợ cứ đứng lải nhải lại cấu với bẹo nhưng ông cũng ráng làm
thinh vì thấy một vài người Mỹ to lớn đứng gần đấy quay lại nhìn.
- Lấy đi. Nó đấy! Đấy!
Giọng ông lớn và kéo dài. Vài tiếng cười rộ làm mặt Tâm đỏ bừng. Quên cả giữ gìn,
nàng kéo mạnh cái va li giọng hơi lớn:
- Còn nữa không thầy?
- Còn một cái nữa.
Bà Cửu nhanh nhẩu trả lời đồng thời chồm người cố kéo cái túi vải vừa trờ tới
nhưng cả người bà mất đà lăn theo, đôi chân bị giở hỏng theo vòng xoay. Cũng
may Tâm nhanh tay kéo được bà đứng lên, nàng cằn nhằn:
- Nó đã chạy quá tầm tay bu còn với theo làm gì? Chờ vòng sau con lấy cho, bu đứng
ra ngoài coi hành lý. Thật khổ ơi là khổ.
Bà vuốt lại vạt áo và lùi hẳn ra sau ai ngờ ông Cửu đã đứng ngay đó tự lúc nào.
Hai chân ông khuỳnh ra như cái hàng rào chặn những phường đá cá lăn dưa và hai
tay chống nạnh như thể thách thức kẻ nào dám "lương" đồ của mình. Bà
nhìn quanh:
- Đồ đạc xuống một lần cả trăm cái mà không xảy ra cướp giựt, hay thật ông nhỉ!
Không trả lời ngay, ông Cửu cúi xuống lẩm bẩm đếm hành lý thêm một lần nữa cho
chắc chắn rồi mới cất cao giọng:
- Ở Mỹ ai cũng giàu có cướp làm gì vài cái túi xách. Bà không nhớ hôm nọ đọc
trong thư vợ chồng nó bảo tối ngủ không phải đóng cửa cơ à!
- Nó bảo là thế nhưng ai ngờ có thể trật tự đến như vậy.
Đám đông mỗi lúc một thưa dần với hành lý tản mát mọi chỗ. Phải đến mươi phút
sau ông bà mới theo Tâm khệ nệ ôm những túi đồ ra ngoài cửa chờ Thành. Bà Cửu vừa
lôi vừa kéo vừa cằn nhằn:
- Nặng thế này mà lưng tôi đau thì khiêng làm sao! Giá ông đỡ nó cho tôi đội
lên đầu thì có đi mấy cây số cũng chẳng ngại.
Bà Cửu nói chẳng ngoa, thuở còn con gái bà chiếm giải nhất trong làng về đội.
Người tuy nhỏ thó và đôi tay yếu ớt nhưng nếu có ai đỡ phụ để lên đầu, cả tạ gạo
bà đội chạy bon bon như không. Bà vẫn tự hào về thành tích đội gạo của mình
trong khi mọi người chung quanh tuy cảm phục nhưng chẳng một ai mơ ước địa vị
vô địch ấy bởi vì họ có cảm tưởng đầu bà bị trì nặng không thể nào cất cao lên
được. Giá bà có mặc áo dài cổ lưới, miếng lưới vẫn bị đè xuống vì không đủ sức
chống trả với cả khối xương hàm đè xuống.
Vừa bước ra khỏi cánh cửa tự động, ông Cửu đã bị choán ngộp bởi từng đoàn xe nối
đuôi nhau hàng bốn, đông đặc và chậm chạp bò như đoàn kiến di chuyển chỗ ở khi
trời sắp chuyển mưa. Đèn xe, đèn đường và đèn từ phi trường sáng rực như ban
ngày. Đi đôi với ánh sáng, mùi khói xăng, khói thuốc, dầu cặn từ các ống khói
đua nhau phun ra khiến mũi ông ngột ngạt. Đã vậy tiếng động cơ, tiếng còi, tiếng
thắng xe hoặc rú mạnh chân ga cho xe vọt đi khiến tim ông đập liên hồi.
Thần kinh bị căng thẳng làm đôi mắt ông mở to nên không bỏ sót bất cứ một người
nào lái ngang qua. Nào tóc đen, tóc đỏ, tóc vàng bên những quần áo hoa hòe sặc
sỡ. Nào là Mỹ đen, Mỹ đỏ, Mỹ trắng, Mỹ vàng, Mỹ lai căng cũng đều đủ cả. Ai nấy
vui vẻ, hớn hở làm như thành phố về đêm mới là cuộc sống hưởng thụ của họ. Ông
cảm thấy vui lây với niềm vui mới mặc dù đang hít thở những ô uế của dầu cặn và
cơ thể mệt mỏi vì vượt một chuyến bay quá dài.
Bà Cửu trái lại không có lối nhìn như chồng. Cảnh vật tuy lôi cuốn thật nhưng
nó dễ mờ nhạt để thay vào sự cô đơn và những dấu hỏi len lỏi. Bà mơ màng với cảm
giác hình như cái tình người nơi xứ Mỹ không có. Mười sáu năm xa cách con cái,
bà cứ nghĩ ngày hội ngộ sẽ là ngày vô cùng trọng đại đánh dấu một cuộc đời đổi
mới. Các con bà chẳng than thở thiếu tình mẫu tử và các cháu nội, cháu ngoại vẫn
thường xuyên gửi thư từ hình ảnh nói rằng đã xụt xùi rơi lệ với nỗi thương nhớ
nên chỉ cầu mong ngày đêm ông bà chóng sang đoàn tụ là gì? Ai ngờ tất cả chỉ là
những môi miếng, giả tạo, dối trá, hoàn toàn trái ngược với sự thật. Chúng nào
có nghĩ đến ông bà! Ngay đến con dâu, con trai, con gái, thằng lớn, thằng bé đều
mất mặt.
Bà cố nén tiếng thở dài che dấu nỗi ngao ngán để rồi tưởng nhớ lại buổi tiễn
đưa ông bà sang đây, con cái cháu chắt tại Việt Nam đã bày tiệc lớn tiệc nhỏ ăn
mừng cả hơn tuần lễ. Ao cá chép sau nhà bà cho tát sạch để làm cho những bữa cỗ
thêm linh đình. Vườn dừa và những cây thu đủ rộ trái cũng được lần lượt ngả xuống
cho món tráng miệng. Cờ xí, câu vè, câu đối, thơ phú treo quanh vách tường
không hết nên treo luôn ở đầu ngõ, toàn những lời chúc tụng tốt đẹp, toàn những
thương nhớ tiếc nuối đã đeo dính lấy bà như gắn vào khúc ruột. Ngay đến căn nhà
vôi to lớn, tuy không nhất làng nhưng đó là công lao mồ hôi và nước mắt của hai
ông bà tạo dựng gần bốn mươi năm trời, từ ngày di cư vào trong Nam tha hương lập
nghiệp, công của hơn nửa đời người bươn chải vậy mà ông bà mỉm cười vui vẻ giao
cả cho vợ chồng Chẩn. Mai kia nó cũng đi rồi thì gia tài đó chẳng biết sẽ về
tay ai? Tuy nhiên dẫu có mười lần như thế bà cũng dốc cạn mà ban phát hết.
Không nghèo tiền, tình cảm lại quá dư thừa nên ngày đi bà còn những hơn tạ gạo
cũng mang ra phân phát hết cho con cháu. Quần áo, khăn nhung, khăn mỏ quạ mới
chỉ xài vài lượt cũng bị các anh các em nội ngoại tước sạch từ hồi năm ngoái.
- Chị ạ! qua đấy quần là áo lượt, đồ gấm đồ nhung đầy chị còn tiếc với chúng em
làm gì mấy thứ này?
Bà cảm động khi nhìn những giọt nước mắt chảy dài, nghe những giọng mếu máo hoặc
nức nở của người thân. Chúng nó thật lòng quá có sao nói vậy:
- Bà ơi, bà đi rồi con thiếu bát cơm chén gạo biết chạy nhờ ai.
- Bà ơi, bà đi rồi con chó con mèo cũng còn phải khóc nói chi chúng con.
Toàn là những câu nói đầy thân tình nhờ vả trông cậy những lúc túng quẩn nhưng
vẫn làm bà mủi lòng nước mắt rưng rưng.
- Qua bên ấy vài tháng rồi tôi sẽ trở lại thăm các ông các bà chứ nào đã đi
luôn.
Bà bóp tay từng người với đôi mắt ngấn lệ nhưng trong khuôn mặt ấy một niềm hân
hoan và kiêu hãnh tột cùng. Vài ngày nữa đặt chân lên đất Mỹ là ông bà như con
sâu thoát xác, nó không còn nằm trong tổ kén chịu mãi kiếp tằm mà hóa bướm với
đôi cánh mỏng bay khắp vùng trời đất Mỹ. Rồi bà sẽ có những tấm hình màu thật đẹp
gửi về. Rồi bà sẽ gửi tiền giúp xứ xây lại nhà thờ, gửi giúp những đứa cháu
nghèo nàn đang cần sự nương tựa. Ra đi bà tự cho mình mang một trọng trách lớn
về sự yên vui no ấm của con cháu và những người còn ở lại. Bà nhớ ngày xưa di
cư từ Bắc vào Nam bỏ của cải ruộng vườn nhưng trốn chui, trốn nhủi, ngay đến họ
hàng thân thích cũng dấu đút vì sợ thưa báo. Còn bây giờ với hai bàn tay trắng,
cũng rời bỏ quê hương nhưng sự ra đi này đối với bà thật là vinh quang vì được
vào đất Mỹ như vào cửa thiên đàng và là khát vọng thèm muốn của bao lớp trẻ, những
người còn ở lại. Tại sao họ thèm khát ra đi? Điều đó bà chẳng cần biết. Chỉ biết
rằng cả một đời bà làm lụng vất vả, giờ buông tay chấp nhận mất hết mà không hề
tiếc nuối chỉ vì ước vọng bà cao hơn. Bà đặt tất cả niềm mơ ước hưởng thụ khi vừa
đặt chân sang đất Mỹ, một nước phồn thịnh văn minh đang chờ đón, cái địa vị,
danh vọng đó mới đáng kể. Bởi thế bà làm mâm ngon, cỗ đầy cũng chính là một
hình thức khoe khoang tương lai sáng ngời của vợ chồng bà cho xóm ngõ biết. Đáp
lại, mọi người đã quý hóa, tâng bốc ông bà lên tới mây xanh. Thế mà giờ đây,
ngày đón tiếp bà, ngày đón tiếp của con cháu, của những kẻ văn minh giàu có lại
không một chút tình người.
Bà thở dài nhớ lại lúc xuống phi cơ đã xụt xùi giọt ngắn giọt dài trong khi con
gái mình lại vung tay vung chân như thể muốn cản ngăn những giọt nước mắt đó.
Bà tủi thân nhưng cầm lòng được ngay vì nghĩ đó chỉ là ảo giác, và cũng có thể
tại bà đòi hỏi quá đáng khi đang ở chỗ xa lạ đông đúc người...
- Xe đến rồi kìa bu, nhanh lên để anh ấy chờ.
Chiếc Chevrolet màu huyết dụ đời tám mươi lăm, sáu máy vừa trờ tới đậu sát bên
lề. Thành lẹ làng chui ra, vòng về phía sau mở cốp rồi đến bên vợ khuân đồ chất
lên xe.
- Thầy bu vào xe ngồi để đó chúng con khiêng cho. Tâm vừa nói vừa đẩy mẹ về
phía trước.
Bà Cửu như quên hết mọi ý tưởng vừa nảy sinh trong đầu. Ôi chiếc xe mới đẹp làm
sao! Nó bóng loáng và rực rỡ hơn cả xe đám cưới cô dâu xứ bà với những vành
nhôm ở bốn bánh xe sáng ngời, đưa tay rờ nước sơn mà bà thấy tim mình đập rộn
ràng. Bà cứ nghĩ xe hơi giống như những chiếc xe đò, xe lô nhỏ, Pegout bốn lẻ bốn
hoặc có tân tiến lắm cũng là năm lẻ bốn, ai ngờ... Bà run rẩy đưa tay kéo cánh
cửa ra. Đúng là tân kỳ, nào có khe hở hoặc phải cột giây kẽm như những chiếc xe
hàng vẫn đi ngang nhà bà mà đàng này nó cứng ngắc, chặt chẽ đến nỗi một chút
gió cũng không thể lùa vào.
- Thơm quá ông ạ! Tôi có cảm tưởng như đang lạc vào động đào tiên.
- Đào với mận gì, ông Cửu càu nhàu, vào để chúng nó chờ.
Bà Cửu lần mò bò vào, miệng nói lảm nhảm như đang mơ:
- Cái nệm êm quá lại in kiểu này tốn công biết chừng nào.
- Nó may bọc nệm chứ in đâu mà in, rồi ông tặc lưỡi, bà im mồm giùm tôi một cái
có được không, cứ rộn lên cho chúng nó cười mình quê mùa.
Chẳng cần cãi thì bà cũng im lặng vì phía trước vợ chồng Thành đang mở cửa bước
vào.
- Thầy bu đói không, trên đường về ghé vào restaurant nhé!
Con khỉ, tiệm ăn thì cứ nói tiệm ăn, bà ngẫm nghĩ, cũng may dạo này ở Việt Nam
phong trào học và nói tiếng Mỹ đang thịnh hành nên những chữ nào nghe nhiều bà
cũng hiểu đôi phần.
- Chẳng đói đâu, trong túi xách còn một cóng ruốc, về thổi thêm tí cơm nóng nữa
là xong.
- Đâu được, Thành cắt ngang, đón thầy bu chúng con phải làm cho ra phép chớ ăn
cơm ở nhà coi sao được.
Bà Cửu cảm động, vậy là chúng tiếp đãi tận nhà hàng cơ mà!
- Thầy bu định ăn gì? Thành quay hẳn xuống hỏi như thể muốn nghe ngay câu trả lời.
- Thôi con ạ! Bày vẽ làm gì cho tốn tiền. Để dành đấy giúp đỡ kẻ nghèo khó, cho
thầy bu chén cơm nóng thôi!
Tâm đang gài dây thắt lưng an toàn, nghe thấy mẹ bày, sợ về phải lọc cọc nấu
cơm thì biết khi nào mới đi ngủ nên vội xen vào:
- Thầy bu muốn ăn cơm có cơm, phở tái phở chín, bánh canh bún ốc gì đều có hết.
Không tin ở tai mình, ông Cửu chồm lên hỏi lớn như vừa khám phá một chuyện lạ:
- Bên Mỹ mà cũng bán những thứ này nữa sao? Vậy mà thầy cứ tưởng qua đây phải
ăn đồ như Mỹ nên bu mày mang cả gạo.
- Thầy cứ vớ vẩn thế, Tâm càu nhàu, con đã dặn bao nhiêu lần rồi mà ở nhà có ai
thèm nghe, ngay đến mẻ, mắm tôm, mắm sặt, tương, chao còn có nói chi là gạo. Thầy
bu ăn gì cho con biết để còn xuống đúng exit.
Từ thuở lấy nhau đến giờ ông bà ít có dịp đi vào tiệm sang trọng ăn uống, lý do
chỉ vì không được tự nhiên thoải mái như ở nhà. Thỉnh thoảng ông bà sang chợ
mua phân hóa học hoặc bỏ mối rau tươi cũng hay ngồi xì xụp tô bún riêu, hoặc
sang hơn ghé vào quán cóc ăn tô phở hay dĩa gỏi gà, bây giờ bảo vào nhà hàng Mỹ
thì có sợ không. Nghĩ như thế nhưng khi nhìn xuống áo quần mình tươm tất, ông
quên ngay những cực khổ đã qua:
- Con ăn gì cho thầy bu ăn nấy.
Nghe ông vội vã trả lời như không muốn phải nói thêm, Tâm thở dài. Sở dĩ nàng cố
hỏi chỉ vì muốn dành cho ông toàn quyền quyết định thay chồng. Lâu lâu được vợ
bao ăn chẳng khi nào Thành ngu dại không vào Pagoda kêu bò bẩy món. Bốn người
kêu ba phần rồi bia, nước ngọt tệ lắm cũng cả trăm bạc. Tiền của đâu mà hoang
phí như vậy? Hơn nữa trong gia đình nàng có ai biết bò bẩy món là gì ngoài món
bò xào rau muống, bò nấu khoai môn với rau ngót, bò kho gừng hoặc chân bò luộc
chấm tương Cự Đà. Tuy thất vọng nhưng Tâm nhất định không để Thành chiếm ưu thế,
nàng bày ý:
- Thầy bu đang mệt, bao tử lại yếu, con nghĩ nên ăn chén cháo thịt hay tô phở
cho nhẹ bụng. Giờ cũng khuya rồi.
Đúng như Tâm dự đoán, Thành ném cái nhìn bực bội, khó chịu sang vợ phản đối
ngay:
- Em nhớ từ chập tối đến giờ mình chưa ăn gì hết nghe.
Tâm điềm tĩnh:
- Em có nói anh đâu. Vào tiệm anh kêu gì chả được.
- Nhưng tiệm nào mới được chứ! Vào Hiền Vương thì chỉ phở chứ có quái gì mà chọn?
- Không phở thì ăn cơm phần, anh tưởng rẻ lắm sao?
Tâm nhăn mặt làm Thành cụt hứng. Từ hồi Thành thất nghiệp nằm một chỗ đến giờ
Tâm lên mặt quá chừng. Anh nhà giáo không ngờ đời mình lại xuống dốc thê thảm
như thế. Chẳng những nàng không còn nể phục, mắt sáng rỡ kính cẩn nhìn chồng
như lúc đầu mà động một chút là hờn trách, đay nghiến. Thành chỉ lờ mờ đoán đồng
tiền đã làm cho con người có thế lực hơn lên nên cũng thường nín nhịn để được
ăn không ngồi rồi vì cả ba năm qua nằm một chỗ như tằm ăn dâu Thành cũng thấy
áy náy lắm. Hơn nữa hôm nay cha mẹ vợ mới sang, không chừng lải nhải một hồi nó
nổi sùng về nhà nhắc nồi cơm lên ăn với chà bông thì thiệt là mệt. Nghĩ thế nên
Thành im lặng, tuy lòng tức anh ách nhưng vẫn phải bật đèn signal để nhập vào
đoàn xe đang đi về xa lộ năm...
Không khí tự dưng tẻ nhạt và chùng hẳn xuống, ông Cửu cố tình đánh tan sự ngột
ngạt đó:
- Đông quá! Thấy xe rầm rộ qua lại mà nhức cả mắt.
Lời nói trống khơi mào câu chuyện nhưng mọi người vẫn im lặng chỉ có mỗi bà Cửu
đáp ứng âm thầm bằng cách ngồi quay nghiêng và dí sát mặt vào cửa kiếng nhìn ra
ngoài. Hình như xe mỗi lúc một chạy mau nên khoảng cách giữa hai xe dài thêm
ra. Bên kia đường, chắn ngang bởi bức tường thấp nhưng dài vô tận, xe vun vút
lao nhanh như tên lửa. Từng đôi đèn tròn sáng lòa nối tiếp vụt qua, cứ thế từng
đôi rồi từng đôi như những con ma trơi chạy đua trong ngày hội lớn hoặc ví von
hơn, trông chẳng khác gì giòng thác vàng từ một phương xa vô tận chảy xuống miền
hạ giới. Trước mặt bà cũng đẹp rực rỡ không gì sánh bằng, song song với thác
vàng là suối máu. Cả một màu đỏ rực tỏa sáng từ sau đuôi xe cuồn cuộn, nhào lộn
trên những vùng lồi lõm của đồi cao. Thoai thoải hai bên dốc là rừng rậm đen đặc
làm nổi bật thứ ánh sáng ma quái huyền bí. Xa hơn nữa, trải rộng vào đến đất bằng,
nhà cửa, phố xá, cao ốc ngập tràn ánh điện màu làm màn đêm tự dưng có giá trị
thêm lên. Bà buột miệng:
- Đây là đâu vậy?
Tâm nhìn thoáng ra ngoài, khi vừa trông thấy những hàng chữ lớn bằng bóng điện
neon đỏ rực trên đồi cao chót vót, nàng khẽ trả lời:
- Hollywood.
- Hô Ly Út? Bà Cửu hỏi lẩm nhẩm trong miệng.
- Hồ ly Vọng đấy mà!
- Hèn gì, bà Cửu gật gù và quay sang chồng, ra mình đang ở Hồ Ly Vọng, ông nhớ
mà viết về báo cho họ hàng biết là mình đã đi ngang đây, nơi những tài tử Mỹ
đóng phim.
Bà Cửu không biết nhiều nhưng điều vừa nói ra bà cho rằng chắc chắn phải đúng
vì những người ở Mỹ viết thư về nhà vẫn tán dương chỗ họ ở như thế.
- Từ đây đến nhà còn xa không?
- Khoảng sáu chục miles nữa thầy ạ! Nếu không kẹt xe thì chừng gần một tiếng sẽ
tới nhà. Buổi tối đường xa lộ vắng nên chạy lẹ.
Vắng vẻ gì, ông Cửu ngẫm nghĩ, cái vắng ở đây còn náo nhiệt hơn ngày hội lớn ở
quê hương ông. Cả đời ông... Phải, cả đời ông có bao giờ được nhìn cảnh đẹp của
thành phố về đêm như thế này. Nhìn ánh đèn ngập trời, ông thấy mình như con sâu
con đang sắp sửa hóa bướm.
Nửa đêm chợt thức giấc vì tiếng động cơ chạy ầm ầm ngoài đường, bà Cửu lồm cồm
bò dậy như mọi lần vẫn đi lễ sáng. Nhìn qua từng ô chéo của tấm màn cửa cột hời
hợt, đèn đường vẫn sáng và nền trời đen như mực, chẳng hiểu bà thiếp đi được mấy
phút mà mắt vẫn còn cay xé, thêm vào cái bụng dưới nặng như bị trì xuống. Đang
đêm lần mò đi giải quyết vấn đề vệ sinh cũng khổ, chẳng biết ngõ ngách nào mà
mò. Chợt nhớ lời Thành dặn "cửa phòng có treo giỏ hoa" bà lồm cồm bò
dậy, cả một bên mình đau rần như bị vẹo xương sống. Bên cạnh, tiếng ngáy của chồng
vang đều, chứng tỏ ông quá mệt mỏi sau cuộc hành trình dài. Chập choạng làm
quen với bóng tối, bà lần mò tìm lối ra cửa. Cũng may căn nhà không đến nỗi quá
rộng nên dù sợ gây ra tiếng động làm mọi người thức giấc, bà vẫn rờ thấy cái giỏ
treo một cách dễ dàng.
Bây giờ lần thứ hai bước vào đây nhưng hình như đã quá trưa nên bà khỏi cần lần
mò tìm công tắc đèn vì phòng tắm sáng trưng. Bà xúc miệng rửa mặt rồi lấy khăn
kỳ cọ toàn thân cho khỏi rít, xong đâu đó mới rón rén đi tham quan một vòng.
Nhà chẳng còn ai, sở dĩ bà biết chắc như vậy vì không thấy đôi giầy của vợ chồng
Tâm máng trên kệ. Nền nhà lạnh buốt khiến bà bước nhanh và co hai chân lên ghế
salon. Hồi tối than lạnh chân mà vợ Tâm đâu có nhớ lấy vớ đưa cho bà. Ngồi lên
chiếc ghế êm ái và thơm mùi vải mới nhưng không hiểu sao bà cảm thấy lòng mênh
mang buồn. Hình như những lúc nhàn rỗi bà hay tưởng nhớ về những tháng ngày ở
quê nhà một cách thèm khát. Cuộc sống tuy vất vả nhưng hình ảnh đơn sơ mộc mạc,
âm thanh quen thuộc và ngay cả đến mùi vị đượm tình quê đã tan loãng vào không
khí và tạo thành một chất sâm để bà ngậm, hít vào. Nói chi đâu xa, ngay bây giờ
ngồi đây, trên chiếc ghế bọc nhung êm ái mà bà vẫn liên tưởng đến bộ sa lông cũ
kỹ ở nhà. Tuy nó đã bị cào xước và rách nhiều chỗ, tuy nó đặc nghẹt mùi nước
đái của thằng chắt ba tuổi nhưng bà vẫn thấy ấm cúng và đầy không khí gia đình.
Nhà vợ chồng Thành tuy cao sang rộng rãi, sạch sẽ trong ngoài nhưng cái hoang vắng
cho bà thấy rõ ràng là không có tình người.
Bà đảo mắt một vòng nhìn quanh phòng khách, ngoài bộ ghế và cái bàn nhỏ ra thì
cặp đèn chưng ở kệ là tương đối sáng giá. Nó xanh biếc màu ngọc và hai cái chụp
bằng vải trắng kết những viền ren nhung chung quanh thật công phu, còn thì tất
cả cũng thường, thường như nhiều nhà ở trên Sài Gòn. Bà Cửu đâu biết rằng nơi
Tâm ở chỉ là một thành phố nhỏ, một tiểu bang trong năm mươi hai tiểu bang của
nước Mỹ. Gia đình Tâm thuộc loại không mấy khấm khá nên nhà cửa đồ đạc chỉ sắm
tượng trưng. Nghĩ cũng tội, cả đời bà đã đi đến đâu mà biết để có cái nhìn
chính xác rõ ràng.
Bà ngồi buồn, từ buồn đâm ra nhớ, hết nhớ rồi lại đến tiếc... Giờ này ba tuần
trước nhà bà như một đám hội. Lũ con cháu mượn được ở đâu cái đầu lân và bộ trống,
thế là chúng đánh tùng phèng cả ngày. Thằng ông địa mới tức cười, mặt nó nhăn
nhẳn lại to bành, quần thì ống cao ống thấp, chiếc áo chật và ngắn để hở khoảng
bụng độn mo cau phễnh tướng. Thỉnh thoảng nó đưa bàn tay xoa xoa cái bụng, tay
kia phe phẩy chiếc quạt ra chiều nhàn hạ. Trong đoàn múa lân, bà thích mỗi thằng
ông địa vì nó chính là thằng cháu ngoại của bà. Năm nay Lài vừa tròn mười bốn.
Anh chị nó vượt biên từ năm tám mươi ba nên thằng Lài tha hồ ăn kẹo Mỹ do đó
xác nó to lớn như trâu chương.
Lài tuy lười học nhưng lại siêng làm, có nó công việc vườn tược cũng đỡ đần cho
gia đình bà nhiều lắm. Bây giờ bà đi rồi, chẳng còn những trưa ngồi dưới gốc
xoài nhờ nó bắt chấy. Đầu bà ít tóc lại bạc trắng nên có chấy đực chấy cái là
biết ngay. Tay thằng Lài mập và thô như nải chuối hột, vừa đụng vào chấy đã lẩn
mất nhưng bà vẫn thích gọi cháu lại để cho năm đầu ngón tay nó bò nhẹ trên vùng
da đầu tạo những cảm giác vô cùng dễ chịu.
- Chẳng có con nào đâu bà ơi.
Thằng Lài rờ rẫm một hồi rồi thở dài thất vọng nhưng cái giá bà trả cho mỗi một
con chấy là một chén đậu hũ đường quá quyến rũ. Nó cố quên đi từng miếng đậu hũ
màu trắng đục sóng sánh dưới lớp đường ngà vàng lẫn vị gừng thơm ngào ngạt bán
ngay đầu ngõ nhưng cứ nuốt nước miếng ừng ực cho nên hai bàn tay Lài vẫn bò
nhanh như vẽ nhột trên vùng da khô. Từng lớp gầu dính theo chân tóc được dịp
bung ra nằm hớ hênh bên trên lẫn lộn trong đám trứng lép. Chán nản, bàn tay Lài
buông lơi. Nó nhắc lại:
- Chẳng có con nào đâu bà ơi.
- Thằng chó, không có chấy sao có trứng?
- Trứng lép không hà, thôi con không bắt nữa đâu.
Bà Cửu đưa tay gãi đầu sồn sột, những đám gầu theo vết cào tróc ra rơi nhẹ xuống
vai áo.
- Bà ngứa tại gầu rồi.
- Không, bà biết mà. Con cứ bắt đi được hay không bà vẫn mua cho chén đậu hũ.
Và rồi trưa nào hai bà cháu cũng ngồi rù rì với nhau cả giờ. Sau đó nó cầm đồng
bạc bà cho chạy bay ra ngoài và chỉ một thoáng đã bưng về chén đậu hũ còn nghi
ngút khói. Ngồi đối diện với bà, Lài xì xụp húp từng muỗng nhưng mắt nó vẫn lén
liếc ngang và lần nào cũng thấy bà đang nhìn nó say sưa, thích thú như chính bà
được ăn.
Mẹ Lài làm ở xưởng heo mãi chiều tối mới về, cơm nước ngày ba bữa do bà lo cho
nên đôi khi nó có cảm tưởng bà nội còn là mẹ của nó nữa. Giá nội mà biến thành
mẹ thì sướng biết chừng nào. mỗi khi xin xỏ điều gì, bà nó sẽ quyết định luôn
chứ không phải trả lời quanh co:
- Để chờ mẹ mày về bà hỏi xem sao.
Bố Lài năm nay xấp xỉ năm mươi lăm, hơn mẹ nó một tuổi nhưng trông khoẻ mạnh và
phong trần lắm. Khi xưa còn nghèo, ông hay đánh heo thả nọc. Sau năm bẩy mươi
lăm, bỏ nghề một thời gian dài để buôn hàng chuyến nhưng quá vất vả và bị tịch
thu nhiều lần nên vốn lẫn lời tiêu hao. May nhờ mẹ nó lanh lẹ, đút lót và móc nối
với công an phường, nhà nó tiếp tục trở lại nghề cũ.
Cái nghề thả heo không hiểu có huông hay bị khinh miệt mà chẳng ai cạnh tranh
ra nghề khiến mẹ nó tha hồ tung hoành với bốn con heo đực. Khắp vùng Hóc Môn mà
chỉ có mình gia đình nó được vinh hạnh độc quyền. Mỗi chuyến đi tơ, mẹ nó lấy
trọn tiền chẳng phải chia cho xã phường nhưng thỉnh thoảng dăm ba lần trong
tháng vẫn đánh xe mang heo đến tổ hợp cho mượn thả đực. Lài không thích cái nghề
này, nghề gì mà lúc nào tay cũng dẫn con heo đực hôi hám với cái "vật"
đàng sau lòng thòng to tướng, bọt rãi ở mép xùi ra trắng xóa như người lên kinh
giật. Đẩy con heo lên xe lam đã là một chuyện khó, mà khi đến nhà người gọi heo
lại còn khó hơn. Thanh gỗ chặn sau xe không còn là vật cản trở; từ trên cao con
heo chồm cao người phóng ra ngoài, hai chân trước qụy xuống và cả khối thịt đổ
kềnh. Tưởng nó không tài nào dậy nổi thế mà chẳng hiểu cái "mùi" hay
tiếng rên ư ử của chị heo đang tới cữ trong chuồng mà khối thịt khổng lồ kia vụt
bật dậy xô giạt mọi người đứng xem chung quanh, hộc vài tiếng đáp lại rồi xông
xáo chạy vào... Vừa nghĩ tới đó, mặt Lài đã đỏ bừng. Không hiểu cái nghề xấu
hay ý tưởng xấu mà mỗi lần mẹ nó sai người đánh heo đi là Lài cảm thấy trong
lòng bất an. Nếu vì chuyện "đi tơ" mà có thêm đàn heo con, rồi từ heo
con thành heo thịt để bán lấy tiền thì mọi người trong xóm đã chẳng nhìn gia
đình nó bằng cặp mắt khác. Ngay hồi các chị nó còn ở đây, tuy tuổi còn nhỏ
nhưng ai cũng bảo làm nghề này khó lấy chồng. Lài bực dọc lắm vì nó nghĩ lấy chồng
thì ở với chồng chứ có ở với heo đâu mà phải bàn ra tán vào. Lài đã từng cãi
nhau, đánh nhau với chúng bạn và nghỉ luôn khi vừa hết bậc tiểu học chỉ vì cái
nghề của cha mẹ nó. Tuy biết rằng "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh"
nhưng nó vẫn mang mặc cảm.
- Mẹ ạ, sao con thấy những người nuôi heo nọc ai cũng chột mắt hết mà bố mẹ thì
không?
Cũng may câu hỏi khi nó vừa lên chín nên chỉ bị hai cái tát nảy lửa in đậm hai
vệt nơi má trái. Từ đó ai làm gì thì làm, có giết chết nó cũng không bao giờ
thèm rờ tới sợi dây cột ở cổ con heo nọc.
Chương 3
Gần tối Tâm mới đi làm về. Vai đeo bóp, tay ôm bịch quần áo về
sửa. Nàng tất tả bước nhưng vẫn không quên liếc nhanh trên bàn ăn hỏi với giọng
ngạc nhiên:
- Thầy bu chưa ăn cơm à!
Hỏi nhưng không chờ câu trả lời Tâm thoăn thoắt bước về phòng bỏ bịch đồ trên
giường rồi mới thay quần áo trở ra bếp, nơi ông bà Cửu đang ngồi.
- Cơm hồi trưa không ăn hay sao mà còn nhiều thế hả bu? Cả thịt nữa, sao không
động đậy thế này?
- Thì cũng ăn vớ vẩn chút đỉnh cho đỡ đói để chờ chúng mày về ăn chung cho vui.
- Bên xứ này ai có công việc của người ấy, hơi đâu mà chờ với đợi.
Tâm ngồi xuống gỡ những miếng nilon đậy bên trên thức ăn rồi vo tròn ném vào
thùng rác:
- Qua đây thầy bu phải chịu khó ăn vào mới mập được.
Vừa nói Tâm vừa bới cơm ra chén. Nồi cơm được nấu từ sáng sớm, loại nồi của Nhật
có thể giữ độ ấm được cả ngày. Nhìn làn khói yếu ớt tỏa nhẹ, bà Cửu buột miệng:
- Cơm vừa chín tới bao giờ cũng ngon hơn.
- Thì nhất rồi nhưng thời giờ đâu cạo nồi vét cơm. Ngày nào con cũng nấu một nồi
đầy ăn từ sáng cho đến tối. Thôi thầy bu ăn cơm đi chứ!
Bà Cửu nhìn mâm cơm ngấy lên tới tận cổ. Cũng thịt thà cá mú sao trông không
ngon lành. Sáu cái đùi gà bự tướng, chẳng chặt chẳng xé mà lá chanh hành tây
cũng chẳng có, nằm giơ còng giơ gọng trên chiếc dĩa sành. Chén muối tiêu chanh
chênh vênh không gừng không ớt được đặt bên cạnh tô canh khoai cà rốt váng những
mỡ và cuối cùng là đĩa cá kho còn lõng bõng nước. Cá hồi trưa bà có thử nhưng
nó tanh vèn vẹt vì chưa kho kỹ, lại không có gừng tỏi khử mùi hôi.
Ông Cửu nhìn Tâm bốc cái đùi gà xé đôi hỏi bằng giọng thảng thốt:
- Không chặt ra à?
- Ở đây tụi Mỹ ăn cả con, khỏi mất công chặt vì trước sau cũng vào bụng. Như
anh Thành nhiều khi có chút rượu vào ăn đến ba cái. Tâm trả lời thoáng chút
hãnh diện.
- Ăn vậy ớn chết được.
Bà Cửu ngán ngẫm lắc đầu đứng dậy mở những cánh cửa tủ trên cao tìm tòi, lục lạo
như hồi trưa.
- Nước mắm để ở đâu vậy tao kiếm hoài không ra?
- Không mua lấy đâu mà có.
- Ở đây họ không bán sao? Bà Cửu nhìn con chưng hửng.
- Có đầy nhưng hôi hám nhà cửa lắm.
- Không có nó chắc tao với thầy mày nhịn luôn. Hồi trưa ăn vốc cơm với muối mà
mặn chát. Có tí ruốc mang theo cũng phải đổ đi vì đã có mùi. Nói xong bà thở hắt
ra chiều buồn bã.
- Giê Su! Tâm buông đũa xuống bàn nhìn bà. Vậy chứ thầy bu thích ăn gì phải nói
cho con biết để mà đi mua. Không ăn thì sống làm sao được.
- Tao thèm một đĩa rau luộc.
Bà đến bên tủ lạnh mở ra lấy miếng bắp cải đã cắt dở.
- Mày luộc hộ bu một tí. Chỉ cần nó với chút nước mắm là cũng xong bữa, vậy mà
cũng không kiếm được cái bếp để nấu.
Tâm uể oải đứng dậy lấy chiếc nồi nhỏ vặn chút nước để lên bếp. Gọi là bếp cho
tiện chứ trông nó không giống bất cứ cái bếp dầu hay bếp than ở Việt Nam, nó to
không thua cái máy giặt và sạch bóng, bên trên bốn lỗ tròn có ngàm sắt để đỡ
đáy nồi.
- Bu coi con làm để mai mốt còn biết lối xài với người ta.
Tâm mồi que diêm để gần vào lò, tay kia khẽ vặn bếp. Ánh lửa xanh bùng lên làm
bà giật mình:
- Khiếp thế sao tao dám làm! Hồi trưa thầy mày cũng lần mò bật hết một lượt mà
có thấy cái nào cháy đâu.
Tâm thấy chân tay mình rụng rời, giọng nàng hốt hoảng:
- Cái nào cũng bật hết? Rồi máy giặt máy sấy... Thôi chết con rồi.
Cũng may ông cụ khôn ngoan, bật lên không thấy gì lại tắt đi ngay. Kiểm soát hết
một lượt, Tâm đè tay lên ngực như giữ lấy hơi thở:
- Bếp ga mà thầy làm kiểu này có bữa nổ tung nhà. Thôi từ mai con nấu sẵn chứ lỡ
có gì cứ ra đường mà ở.
Bà Cửu ngao ngán nhìn cái bếp sạch bóng và những món ăn tanh tưởi trên bàn thở
dài. Cũng may chỉ một loáng nồi nước đã sôi sùng sục, Tâm bỏ rau và rắc thêm ít
muối đảo nhanh.
- Có cái trứng gà này Tâm, sẵn luộc cho bu một quả.
Bà Cửu đưa cho con rồi đứng nhìn quả trứng đang lạnh gặp nước sôi nứt đôi, một
giây sau lằn nứt lồi ra chất nhờn màu trắng và từ từ cứng lại. Tuy nhiên một ít
lòng đỏ cũng chảy ra tới ngoài làm nước luộc đục ngầu, bà nuốt nước miếng:
- Bắp cải luộc chấm với nước mắm dằm trứng thì tao với thầy mày phải ăn đến hai
miệng chén cơm.
- Thầy bu không ăn thịt gà à?
- Có ăn được đâu mà ăn, tao bị phong phải kiêng cữ từ hồi chúng mày còn ở nhà.
- Bu cữ đã đành nhưng còn thầy?
- Bao tử thầy mày cũng yếu lắm thành ra cứ cho thầy bu tí rau với quả trứng là
xong.
- Ăn như vậy mắc bệnh cam tích chết.
- Một vài ngày ăn thua gì. Mai mốt con Nụ đến đón về trên ấy tha hồ mà nấu nướng.
- Vâng, Tâm tiếp lời, ở đó nấu bếp điện nên cũng dễ. Với lại nhà housing chẳng
sợ hôi.
Thực ra ông bà cũng chỉ mong thế. Ở với con gái bao giờ cũng hơn con rể vì cha
mẹ vợ nào ra cái thể thống gì. Biết vậy nên tuy định ở đây vài ngày ông bà vẫn
cố giữ kẽ như khách.
- Chồng mày nó cũng hiền lành đấy.
Bà Cửu gợi chuyện khi bưng dĩa rau ra ngoài bàn.
- Vâng, hiền và ít nói. Phải mỗi cái tội sạch sẽ, quá sạch sẽ thì đúng hơn. Hễ
đi thì thôi mà về đến nhà là quét dọn lau chùi cả ngày.
- Nó làm gì mà sáng đi tới tối mịt mới về? Chắc lương khá lắm nhỉ!
Tâm chột dạ vì ngày xưa viết thư về nhà, nàng không tiếc lời khoe khoang chồng
mình là giáo sư, là ông chủ tiệm, là thương gia buôn bán tài giỏi và giàu có
khét tiếng. Tuy nhiên Tâm vẫn đáp "vâng" nho nhỏ.
Từ khi lấy Thành và khám phá ra chồng mình chỉ là người phụ tá cho ông chủ chợ
Việt Nam thì lòng Tâm giảm bớt ngưỡng mộ tôn vinh nhưng bên ngoài vẫn niềm nở
săn sóc. Có tật giật mình vì che đậy tật xấu của Thành cũng chính là che đậy
luôn cho mình. Cưới nhau mãi hơn một năm sau Tâm mới có thai nhưng lại ngoài tử
cung nên chín phần mười không thể có con. Vì lẽ đó Tâm luôn phập phồng lo sợ
Thành bỏ mình nên hết mực hầu hạ nuông chiều. Có thể cũng vì thế mà dù Thành bị
thất nghiệp cả đời nàng cũng không nghĩ rằng đó là niềm đại bất hạnh của mình.
- Hai vợ chồng làm quần quật mà lại không con thì tiền để đâu cho hết?
- Thì chúng con ráng làm được ngày nào hay ngày đó.
- Tham bô làm gì, bà Cửu chép miệng, người ta bảo giầu con giầu cái chứ ai bảo
giầu bạc giầu tiền. Hồi còn ở Việt Nam mỗi lần nói chuyện với vợ Chẩn về mày
tao lại buồn đứt cả ruột. Tại sao phải kiêng khem thuốc men trong khi đã ba
mươi sáu tuổi chứ nhỏ nhít gì mà bảo còn ham vui? Giờ này có con cũng đã trễ lắm
rồi. Thầy bu qua đây chỉ ước ao sao nhìn thấy chúng mày hạnh phúc và có tí cháu
ngoại để bồng là đủ trả hiếu.
Tâm không thích nghe chuyện đó vì đã từ lâu lắm rồi mỗi lần Thành nhắc đến con
cái là nàng lại khóc ròng:
- Anh biết không phải lỗi tại em mà! Còn xẩy thai thì đó là sự thiệt thòi của
hai đứa chúng mình chứ đâu phải dành cho riêng em.
Tâm cố cột Thành vào chung nỗi đau của nàng để được chia sẻ. Thành biết được điều
đó nên càng ì ra để vợ một mình đi làm cáng đáng trong ngoài. Tình cảnh nàng
đau khổ là thế nhưng đối với bạn bè và ngay cả gia đình Tâm vẫn dấu viện cớ vì
công chuyện làm ăn nên không thể có con trong lúc này. Ai mà chẳng bảo Tâm tham
bô lo kiếm tiền đến nỗi lạm dụng thuốc ngừa thai. Bây giờ nghe mẹ trách nàng chỉ
muốn gạt cho qua:
- Chắc cũng nay mai thôi bu ạ! Hiện tại cuộc sống chúng con tương đối khá nên
chẳng còn gì phải lo.
Tâm lùa từng mảng cơm vào miệng, vội vàng hấp tấp chỉ chực đứng lên để tránh những
câu hỏi đầy dò xét của mẹ. Chưa buông đũa, nàng chồm người lấy cây tăm xỉa răng
trong khi miệng vẫn còn nhồm nhoàm nhai:
- Thầy bu ăn xong cứ để đấy vì con phải vào phòng may đồ cho kịp giao sáng mai.
Tối qua con không may nên công việc bề bộn...
O O O
Ông Cửu buồn bã nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời xâm xẩm tối, ánh nắng không còn
nhưng sức nóng vẫn âm ỉ nung những hòn gạch quanh phòng khiến lòng ông bồn chồn
xốn xang. Ông nhìn những con chim đứng ủ rũ trên cành kêu ai oán sau ngày dài
bay nhảy như tiếng kêu buồn bã của loài chim cuốc mà chợt nhớ cố hương quay quắt.
Giờ này vợ chồng Chẩn cùng bà con cô bác hàng xóm láng giềng đang tưởng tượng
ông ngụp lặn trong hạnh phúc trùng phùng, trong nhung lụa giàu sang, trong chăn
êm nệm ấm chứ đâu ngờ đang bị lũ con xâu xé cạo rửa cái lốt nghèo nàn, cố bắt
ông gột rửa ngôn ngữ quê mùa để khoác vào lớp hào nhoáng giả tạo trong khi tâm
tình trống rỗng cô đơn. Ông cô đơn thật, còn hơn con đường hoang vắng trước mặt,
dù hai bên cỏ non mọc xanh mướt nổi bật những căn nhà được xây cất với khoảng
cách thật đều nhưng cửa nẻo im ỉm đóng, một biểu hiệu của tình cảm con người
cũng đóng kín theo! Trong nhà, ngoài đường không một bóng người qua lại, tất cả
lặng lẽ như những ngôi nhà vô chủ nếu không có những luống hoa đủ màu sắc trồng
vòng quanh sân tựa như một che đậy thô thiển. Ngay đến màu hoa dẫu đã dịu xuống
với nền trời tranh tối tranh sáng nhưng vẫn cứng còng chẳng khác gì một thứ hoa
nhựa. Hoa thật và giả chỉ khác nhau ở hương thơm và sự mềm mại của nó. Con người
chỉ thông cảm, hiểu biết nhau qua sự giao tiếp, đi lại.
Ông cảm thấy buồn. Con chim tuy ủ rũ về đêm nhưng ban ngày còn biết nhảy nhót
trên cành líu lo hót. Con chó tuy được chủ nuôi để coi nhà nhưng còn biết vượt
rào chạy rông gặp lũ chó khác trửng giỡn nô đùa; còn như ông đây, có chân cũng
như què, có miệng như câm, bạn bè đâu để nói chuyện vãn. Lạc vào một nước ngoại
chủng khác màu da đã là một cách biệt, lại còn kèm thêm tiếng nói, phong tục, tập
quán và những văn minh tân tiến khó theo kịp. Biết đến thuở nào ông mới có cuộc
sống hòa đồng như họ...? Ngồi trầm ngâm nhìn khung cảnh im lìm giống bãi tha ma
chôn người chết, ông thở dài từng chập.
Bóng tối trùm xuống thật lẹ làm nổi bật những ngọn đèn nằm cách khoảng song
song suốt hai bên đường. Cũng nhờ thế khi hắt nghiêng qua cửa sổ, đúng vào chỗ
ông ngồi trông khắc khổ nhưng linh động như bức tượng khéo tạc. Ngồi chán ông uể
oải đi vào phòng tắm lấy khăn mặt thấm nước lau trên thân thể. Đó là thói quen
ông vẫn làm khi thấy người mỏi mệt và tinh thần xuống dốc. Mà quả đúng vậy, dạo
này ông xuống dốc thật sự, chẳng những tinh thần mà ngay cả thể xác cũng bị coi
rẻ chà đạp. Vợ Tâm cho rằng ông bà mang vi trùng quê mùa sang đây làm xấu hổ mặt
chồng nó nên không chừa một ngôn ngữ nào: "Chúng con không muốn những người
Mỹ họ nhìn mình như nhìn một lũ mọi". Nó sợ Mỹ hay sợ chồng nó? Rõ ràng
ông như là trái banh mặc cho vợ Tâm vo tròn bóp méo.
Hơn một tuần sống với vợ chồng Tâm đón nhận bao ê chề cay đắng ông không còn
chút sức lực nào nữa để tranh cãi về những phô trương đua đòi mà ông cho là ngu
xuẩn. Nhớ vài hôm trước ông bà đang soạn quần áo, Tâm vừa đi làm về đã chạy vào
ngồi chễm chệ trên giường mặt mày nhăn nhó khổ sở:
- Con đã dặn đừng mang gì cả ngoài vài bộ đồ thật đẹp mặc trong người, nào ngờ
cả những giẻ rách chổi cùn cũng không thiếu.
Tâm lật từ trên xuống dưới và rồi bực dọc hất tung xấp áo cánh của mẹ:
- Hàng họ bông hoa con gửi về đâu hết rồi mà toàn thứ vải đen vải nâu dầy cộm
như dọn nhà đi kinh tế mới vậy?
Ông Cửu ngượng chín người, cũng may thằng chồng nó chưa về chứ nếu không ông
cũng chẳng biết trả lời sao. Còn bà thì nín lặng nhưng ra chiều buồn bã. Nó còn
trẻ nên đâu biết lối ăn mặc của những người già cả. Ai mà chẳng muốn đẹp muốn
văn minh tân tiến nhưng nó phải phù hợp với dáng dấp và phong cách của mỗi con
người. Nhất là ông bà đã hơn bẩy mươi tuổi rồi, cả đời có biết váy ngắn váy dài
là gì, có biết quần tây bó mông bó chân ra sao mà nó cứ một hai bắt phải mặc
cho bằng được.
- Ở với con là phải quăng những thứ này vào thùng rác hết.
Bà Cửu sợ con vứt đi vội vàng vơ ngay lấy dồn vào va li:
- Chúng mày không cho mặc thì tao cũng giữ đấy mai kia đóng thùng gửi về Việt
Nam. Con ranh cứ làm như giàu có lắm.
Bà tiếc của nên vơ vét lại chứ riêng ông thì mặc kệ. Quần áo đấy xấu cứ việc giục
bỏ, hôi cứ việc đốt và quê mùa cứ việc làm giẻ lau. Có giỏi có giàu thì cứ việc
mua sắm, bắt mặc gì ông mặc đấy để xem mặt nó có đẹp thêm hay mèo vẫn hoàn mèo.
Buồn bã là thế nhưng tay ông vẫn nhanh nhẹn và thoăn thoắt lau đều. Lau xong thấy
khoẻ khoắn đôi phần, ông ra bật ti vi lên coi thì Thành về tới. Không thấy vợ ở
nhà, Thành có vẻ ngạc nhiên, nhất là khi liếc trên bàn thức ăn vẫn còn nguyên:
- Ủa sao không ai ăn hết vầy nè. Vợ con chưa về tới hả thầy?
- Nó ăn cơm rồi hai mẹ con chở nhau đi ra chợ mua ba thứ vặt vãnh gì đó mà.
Nhìn mâm cơm ngày nào cũng như ngày nào Thành bực bội nhưng bụng đói nên ngồi
ngay vào bàn. Ông Cửu cũng đứng lên tắt ti vi rồi ngồi kế bên Thành.
- Sao thầy, thấy ở đây như thế nào?
Câu hỏi rộng lớn quá, chẳng hiểu ở đây là bên Mỹ hay ở nhà này, ông dè dặt:
- Mới quá nên chưa thấy gì.
Thành cầm chiếc đùi gà chấm nhẹ trong dĩa muối tiêu đưa lên miệng.
- Ăn xong con chở thầy đi một vòng cho biết đó biết đây, ở nhà buồn chết đi được.
Ông Cửu không buồn nhưng cô độc và cảm tưởng như bị tách rời giữa đám con cháu.
Mấy ngày rồi mà chẳng có đứa nào thăm nom han hỏi ngoài trừ vợ chồng Phước nói
qua điện thoại ba chớp ba nhoáng mấy câu rồi cúp. Ông thở dài:
- Thầy muốn đi thăm một vòng xem nhà cửa và công việc làm ăn của mấy đứa con
anh Chẩn ra sao.
- Ủa! Nhà con không nói gì với thầy hết sao?
Ánh mắt Thành ngạc nhiên làm ông giật mình và tim bắt đầu nhảy mạnh. Lại chuyện
gì nữa đây, tại sao mọi sự việc cứ tuần tự diễn ra trái ngược với điều ông
nghĩ?
- Nghĩa là sao thầy không hiểu? Ông hỏi với thoáng chút nghi ngờ.
- Không, chẳng có gì hết nhưng có điều muốn đi thăm đâu phải chuyện dễ.
Chút nữa ông đã để lộ bất bình nếu không kịp thời ngăn chặn lời nói. Thì ra nó
sợ tốn thì giờ, tốn tiền quà cáp xăng nhớt và cũng có thể tình cảm của nó đối với
đám kia hời hợt nên đã không lui tới. Ở Việt Nam có xa xôi cách mấy cũng chỉ một
ngày dài từ Sài Gòn xuống lục tỉnh mà ông không ngại chuyện đi lại, chẳng ngại
công của thời giờ và những vất vả chờ chực đón xe, vậy mà bên đây xe cộ có sẵn,
chỉ việc leo lên ngồi vài mươi phút là tới nơi mà nó còn bạc bẽo tính toán. Ông
Cửu thở hắt một hơi dài thay câu trả lời rồi đăm chiêu nhìn ra ngoài cửa sổ. Cửa
sổ hơi cao mà ông lại thấp nên chỉ thấy nền trời xám đen chìm khuất trong màu
lá xanh thẫm. Cuộc đời ông rồi cũng chẳng khác cái màu trời u tối kia, nó chỉ nổi
bật mầu sắc vào ban ngày và khi có những đám mây trắng lơ lửng, còn không
thì... Ông bỗng buột miệng:
- Thầy cũng chẳng muốn phiền con phải khó nhọc chở đi, nên chừng nào ăn xong nhớ
viết số điện thoại của chúng để khi nào rảnh rỗi thầy gọi lại hỏi thăm kẻo tội
nghiệp. Qua đây mẹ cha không có, còn chú dì...
Thành ngắt lời ông:
- Chúng con chẳng có thời giờ lui tới mà điện thoại cũng hiếm khi. Nhiều lúc thấy
vô bổ.
Từ hôm đón ông bà Cửu về đến giờ Thành khó chịu ra mặt. Tưởng chủ đồn điền trà
sang giàu thế nào chứ còn như ông Cửu chỉ đáng là người làm công trong đồn điền.
Chính vì vậy mà Thành có lối nói chuyện khinh thị và vắn tắt chẳng cần giải
thích khiến ông Cửu không theo kịp nên mọi ấn tượng xấu về Thành được dịp bùng
lên. Gật gù ra điều hiểu biết, giọng ông đầy châm biếm:
- Hồi thầy bu còn ở nhà cứ nghe người ta kể xứ văn minh dễ biến con người thành
máy móc, không biết cảm xúc thương yêu, giờ mới biết sự thực còn hơn thế nữa.
Không nghĩ là ông cố tình khơi ngòi nổ, Thành nhún vai:
- Qua đây mỗi người một công việc, giờ rảnh của chúng con có thể là giờ học hoặc
giờ nghỉ ngơi của tụi nó. Hơn nữa sau một ngày làm việc ai cũng muốn đầu óc được
thảnh thơi. Thầy coi tụi nó đâu có ở gần đây, mỗi lần gọi tiền điện thoại chết
luôn.
- Sao cái Nụ viết thư về bảo là liên lạc với mấy đứa hàng ngày. Vậy nó không phải
trả tiền hở?
Nghe nhắc tên Nụ, Thành bật cười nửa thương hại nửa tỏ vẻ bực dọc:
- Con tưởng đem so sánh với ai chứ còn với dì ấy thì nói làm gì. Học hành không
học, lêu lổng cả ngày, cứ tưởng ba cái tiền tàn tật là vinh quang cả đời nên
không lo nghĩ gì đến tương lai, suốt ngày đứng ở đầu đường xó chợ ôm cái điện
thoại công cộng...
Mặt ông Cửu đỏ bừng, con gái ông như thế mà nó dám miệt thị nặng nề. Ra cái thằng
này không kiêng nể gì ai, ngay bố cái Nụ ngồi đây mà nó dám tuyên bố tiền tàn tật
chẳng vinh quang. Giận trong lòng nhưng vốn là người thâm trầm nên mặt ông tỉnh
bơ.
- Đâu dễ gì ai cũng xin được tiền ấy. Ngồi chơi không đầu tháng họ mang tiền tới
cung phụng như bà hoàng. Nhà ở lại không mất tiền, hỏi trên đời mấy ai được như
nó?
Ngừng một lát như để cho Thành thấm thía ông mới gằn giọng:
- Ở đời trâu buộc ghét trâu ăn. Con người ta tốt xấu đều lộ ra từ đấy!
Thành chỉ được tài nổ và bắt nạt vợ chứ còn hơn thua tranh luận chẳng bằng ai.
Mà đâu phải người nổ gặp ai cũng nổ. Nổ với người chịu nghe hoặc được cổ võ
khâm phục mới có hứng thú nổ tiếp, cũng như nhậu đâu phải chỉ cần rượu ngon, mồi
tuyệt mà chính là bạn nhậu có ăn rơ với nhau.
- Anh nghĩ xem, ngày đi nó đâu mang hình tượng con người thế mà qua đây lại quá
vinh quang. Đó cũng là nhờ trời xui khiến cho nó gặp được ông bác sĩ
"chính cống". Mọi tật nguyền biến mất, bây giờ trông nó đâu thua gì
chị nó.
Thành há hốc miệng nhìn ông Cửu thao thao bất tuyệt tuyên dương Nụ một cách cuồng
dại mà không thể thốt thành lời.
- Nếu không nhờ cái "dĩ vãng tật nguyền" như thế thì sao nó được
chính phủ nuôi cả đời? Tôi hỏi anh nếu anh có nhà, có xe, có tiền cung phụng
hàng tháng thì anh có ngồi chơi không hay còn hơn thế nữa? Anh xem, gái Việt
Nam bên đây quý như vàng mà người ăn không ngồi rồi như nó càng quý hơn. Cuộc đời
như thế thì cần gì nữa mà phải học với hành? Bằng cấp làm gì, bà nọ ông kia làm
gì khi từ tối đến sáng cứ phải làm quần quật? Ngay như chúng mày đấy, cả hai vợ
chồng cùng làm mà chắc gì đã được bằng nó chưa?
Ông Cửu nói theo những lời Nụ viết từ trong thư với giọng hãnh diện tột cùng.
Ít ra cũng phải cho Thành biết ông là người hiểu rộng, xét đoán rất trúng chứ
không phải dễ bắt nạt. Riêng Thành thấy mình như đang ở một thế giới khác, toàn
là những chuyện lạ kỳ mà từ trước đến giờ chưa lần nào được nghe. Chẳng lẽ ông
già vợ nổ cừ như thế sao? Còn nếu không thì ai đã đầu độc ông một cách mù quáng
tai hại như vậy?
- Nhưng... mà...
- Tôi biết, ông Cửu ngắt lời, tệ lắm thì nó cũng là sinh viên đại học. Dù gì
cũng ở "co lét" một năm chứ có thua ai đâu.
Đã đến nước này Thành không còn giữ gìn ý tứ nữa:
- Trời ơi, ba mươi bốn tuổi đầu không chồng không con, không sự nghiệp tài sản,
học chưa hết trung học, nghề nghiệp cũng không mà thầy còn bênh vực cho nó nữa.
Ông Cửu thở dài ngẫm nghĩ: Có nói lắm cũng mỏi mồm, một khi nó đã ghen ghét với
em vợ thì chỉ toàn những lời nói chê bai. Ngay đến chuyện gọi điện thoại mà nó
còn dùng tiếng đầu đường xó chợ thì thật là quá đáng. Dằn không nổi sự khinh miệt,
ông buột miệng:
- Tôi thiết nghĩ điện thoại phải nhà giàu mới dám xài, nó mắc chứ nào rẻ mà ai
lại ngu dại mang ra đường gắn cho mọi người chọc phá?
Giọng ông gần như lạc, có lẽ vì dồn nén cơn giận quá lâu. Bây giờ Thành mới vỡ
lẽ là ông già vợ giận thật vì nổ không ai có thái độ đó bao giờ. Môi Thành điểm
nụ cười, nụ cười chẳng hiểu châm chọc hay vuốt giận:
- Điện thoại công cộng là do nhiều công ty gắn ở khắp mọi nơi, trong các chợ,
shopping, trường học hoặc ngoài đường để những người lỡ bộ hoặc nghèo ra đó mà
gọi. Sở dĩ con nói dì Nụ cả ngày la cà chỉ vì nó có số điện thoại chùa nếu gọi ở
nhà sẽ bị dính ngay.
Cái gì mà phôn chùa rồi lại dính? Thằng này nói toàn những tiếng khó hiểu quá.
Càng nghe càng bực, ông tức mình đứng lên dõng dạc nói như hạ lệnh:
- Tôi vào phòng thay quần áo sẵn. Anh ăn xong rồi chở tôi đi xuống mấy đứa.
- Ngày mai sao được. Để rảnh rỗi vài tháng nữa con chở thầy đi.
Đúng là cái thằng muốn hoạnh họe, mặt ông đỏ bừng và giọng trở nên gay gắt:
- Tôi yêu cầu anh chở tối nay chứ có bảo ngày mai đâu.
Cơn bực từ từ tan. Thành thấy tội nghiệp cho ông hơn bao giờ hết. Đúng là cái mộng
tưởng giết hại tất cả mọi người chứ không phải riêng gì Thành. Bao nhiêu lần thổi,
bao nhiêu lần nổ để rồi bây giờ ngồi đây nhìn ông chủ đồn điền Bảo Lộc nghèo
đói lộ cái dốt nát ra khiến Thành hết còn muốn nổ.
- Thôi để con cố gắng thu xếp cuối tuần này chở thầy đi.
- Vậy thì thôi, ông thở dài, tôi hiểu rồi. Anh làm ơn cho tôi số phôn của cái Nụ
và đám kia.
- Thầy tính gọi bây giờ hả? Dì Nụ đi ăn đám cưới chưa về, còn đám kia có gọi
cũng phải đợi thứ bảy hoặc chủ nhật cho đỡ tốn tiền.
- Lại tiền bạc. Lúc nào tôi cũng nghe anh nói tới nó, làm người mà trở thành nô
lệ của đồng tiền là vứt đi.
Đã đến lúc này Thành thấy cần phải giải thích cho ông hiểu:
- Nhưng thầy đâu cần gì gấp. Gọi giờ này một tiếng nó tính mình mười mấy đồng.
Mà thầy đâu chỉ hỏi thăm có một đứa, gọi tất cả một lượt như thế cả hơn trăm bạc.
Ông Cửu ngẩn người, lần đầu tiên nghe nói gọi điện thoại trong nhà phải trả tiền.
- Tôi tưởng mình có điện thoại gọi đi đến đâu mà chả được?
- Đúng vậy nhưng gần quanh đây thì chỉ mất một số tiền cố định phải trả hàng
tháng. Còn ở xa hay tiểu bang khác thì trả mắc lắm.
- Vậy chứ chị em con Hạnh ở đâu?
- Đám con chị Chẩn ở Texas.
- "Tếch Xịt" là ở đâu?
- Con có nói tọa độ của nó chắc thầy cũng không hiểu, có điều cách đây gần hai
mươi bốn tiếng xe hơi.
- Chúa ơi, ông Cửu kêu lên, vậy mà tao cứ tưởng ở gần cả đây, có xa lắm cũng chỉ
một vài cây số.
Ông Cửu chết lặng người. Cảm giác chao đảo hụt hẫng như vừa rơi xuống hố. Im lặng
đến vài giây ông chợt bước nhanh về phòng để lại đàng sau nụ cười thương hại của
thằng con rể. Vào đến phòng ông nằm vật xuống giường rồi để mặc nước mắt trào
ra... Thế là hết, mọi mơ ước đều bỗng chốc tiêu tan. Cả trăm lá thơ của bà con
hàng xóm và những lời nhờ nhắn gửi đã hứa với họ trước khi qua đây giờ không thể
hoàn thành. Làm sao đến nhà từng đứa một giao thơ tận tay cũng như tìm hiểu
công việc làm ăn của chúng mà tường thuật? Làm sao có thể khuyên nhủ qua điện
thoại khi biết rằng mỗi phút lại tốn một số tiền không phải nhỏ? Rồi còn cái Nụ
nữa, đứa con ông đã đặt tất cả mọi kỳ vọng và qua đây cũng chỉ vì nó, không lẽ
cũng lại tệ hại như thằng con rể ông vừa nói?
Tuy không muốn tin nhưng vẫn phải tin vì hiện tại rõ ràng ông thấy mình đang cô
độc, giống như con cá nằm trong rọ, như người mù mò mẫm giữa ánh nắng ban mai với
ngàn hoa đua nở, như kẻ què quặt giữa ngàn vạn tay bơi lội và như kẻ câm giữa
muôn ngàn giọng nói ríu rít... Ông buồn, buồn và thất vọng vì thực tế không như
ông nghĩ. Những mơ ước không tuần tự diễn ra mà lại đảo ngược. Không ngờ bằng
này tuổi đời ông còn lắm thăng trầm...
Chương 4
- Mày ở đây hở Nụ? Ông Cửu hơi ngỡ ngàng khi vừa bước chân
qua ngưỡng cửa.
- Ở đây là nhất rồi.
Có lẽ vì mang mặc cảm nên ngay câu đầu Nụ đã dấm dẳn nói trống
không lại còn khỏa lấp bằng cách chỉ những dãy nhà lầu cao lớn chung quanh:
- Nơi con ở là trung tâm thành phố Santa Anna còn được gọi là
Little Saigon. Bước xuống cầu thang vài bước là hàng quán, chợ búa, vải vóc
chưng bày đặc nghẹt to gấp mấy trăm lần thành phố Sài Gòn...
Trong đôi mắt long lanh ngời sáng ấy chứa đựng một sự tự mãn
chưa từng thấy nhưng phố xá vui vẻ tấp nập cũng chỉ hiện ra trong đôi mắt Nụ chứ
theo ngón tay chỉ ông Cửu có thấy gì ngoài những mái nhà mọc lên san sát, khô
khan, cằn cỗi và lạnh như những đùn cát ngoài sa mạc. May lúc ấy trời đang lem
nhem tranh tối tranh sáng nên khó phô bày hết tất cả sự tả tơi nghèo nàn của một
chung cư. Ông nhìn sang dãy đối diện, dọc theo hành lang vài người già ngồi vò
võ trên chiếc ghế dựa nhìn về cõi hư vô. Dưới mặt đất, thành hồ tắm còn đọng
vài vũng nước loang lổ và chỏng trơ chiếc phao đã bị xẹp hơi. Xa hơn, ngoài cổng,
vài đứa bé đạp xe đạp lùi lũi không tiếng cười. Cảnh như thế thì lòng mừng vui
sao nổi, ông không trả lời cũng chẳng cần góp ý với Nụ mà lẳng lặng theo chân
con bước vào phòng ngủ.
- Thầy bu nằm trong này cho kín đáo, con ra phòng khách ngủ
cũng được.
- Nhà có một phòng thôi à?
- Chứ còn mấy nữa. Hôm nọ con xin được hai phòng nhưng tốn điện
quá, lại phải dọn dẹp mỗi ngày vì lũ bạn cứ ăn dầm ngủ dề nên tức mình con xin
đổi ngay nhà khác.
Tuy đã được Thành và Tâm kể sơ qua về Nụ nhưng ông vẫn thấy
nghèn nghẹn vì nắm được cái tẩy nghèo của Nụ rồi mà nó cứ còn vờ vịt huênh
hoang. Nụ tưởng muốn vẽ voi sẽ thành voi, muốn vẽ chuột sẽ thành chuột nhưng có
điều rõ ràng và hiển hiện ngay trước mặt là trong phòng có mỗi chiếc giường mà
ông bà chẳng bao giờ nằm chung đã gần mười năm nay. Thất vọng não nề, ông bỏ
túi quần áo xuống cố lấy giọng thản nhiên.
- Thôi con cứ ngủ trong này khỏi dọn ra dọn vô cho mất thời
giờ. Thầy già cả nằm ở đâu chả được.
Ông lại thẫn thờ bước theo con và tiếp tục nghe nó phách tướng
dẫn sang phòng bếp, phòng tắm và mọi kẹt tủ như người mộng du, một giấc mộng
hãi hùng đã đánh tan nát tất cả hy vọng của tương lai và sự sống. Lúc Nụ vào
phòng nghỉ ngơi, ông đổ người xuống chiếc ghế sa lông cũ mặc cho hai dòng nước
mắt thi nhau chảy. Cũng may bà Cửu còn đang đứng ở dưới đường bịn rịn với vợ
Tâm vì nó không muốn vào. Tâm viện cớ bận rộn công chuyện phải đi ngay nhưng
ông biết chắc nó sợ nhìn thấy bộ mặt thất vọng và đau khổ của bố mẹ mình.
Vừa về tối qua, ngay gần trưa Nụ đã thuê taxi xuống nhà Tâm mừng
đón ông bà. Kể ra nó cũng chí tình chứ còn đi xa về nào ai đã vội thức sớm mà
chạy ngay xuống. Có điều nhìn Nụ và những phỏng đoán cả gần tháng nay ông thấy
chẳng những đúng như lời Thành nói mà còn có thể tệ hại hơn. Ngay như dung mạo
Nụ, cái Nụ mà ông vẫn nghĩ con Cám được cởi lốt mới thê thảm. Mười sáu năm trời
nó không có gì thay đổi ngoài trừ cằn cỗi theo tuổi tác. Trời nóng, nó chỉ mặc
mỗi cái áo thung rộng thùng thình để lộ hai cánh tay gầy guộc và chiếc quần
thung ống túm bó chịt lấy đôi chân khẳng khiu teo bóp. Trông nó ốm yếu đến thê
thảm. Ở quê ông, những kẻ tật nguyền lam lũ không thiếu nên Nụ không bị tách biệt.
Bên này ai nấy lượt là sang trọng vì thế cái xấu xí trên khuôn mặt và đôi chân
tật càng rõ nét.
Nghĩ cũng tội, khi bà Cửu mang thai Nụ, trong chuyến về thăm
người em gái ở Cái Sắn thì xe đò bị lật xuống ruộng. Cũng may ruộng lõng bõng
nước nên kẻ bị thương nhẹ, người bị nặng chứ không ai chết. Bà Cửu tuy chỉ xầy
xuộc sơ sơ nhưng vẫn được đưa vào nhà thương vì cái thai bị động mạnh. Vài giờ
sau Nụ ra đời nhưng chỉ nhỏ bằng cái bình thủy một lít. Nó yếu quá, không chết
là may vì chỉ được nằm vỏn vẹn trong bụng mẹ có tám tháng. Sau khi sanh, nó phải
nằm trong bình dưỡng khí suốt một tháng mới được mang về nhà. Thương con yếu đuối
nhưng giá nó chết liền lúc lọt lòng thì ông bà đỡ ân hận, đàng này thân nó đã
còi cọt, bệnh hoạn lại còn bị sứt môi. Ngày mang Nụ về nhà lối xóm viện cớ thăm
hỏi đến xem đông nghẹt. Kẻ bảo tại bà ăn thịt thỏ, người bảo tại điềm trời, lại
cũng có người vẽ chuyện bày ra kiếp trước kiếp sau khiến ông rối cả ruột gan.
Chẳng hiểu tại những lời trù ẻo của họ làm cho có huông hay tại mọi đau đớn bệnh
tật trong nhà bắt nó phải một mình gánh hết mà Nụ rất khó nuôi. Mỗi ngày ngoài
hai bữa chính bằng nước thịt bò hầm với khoai và cà rốt, bà Cửu còn dậm sữa
Similac với nước cháo cho nó uống nhưng con bé vẫn èo uột bệnh lên bệnh xuống.
Ông trách bà tại không cho nó bú sữa mẹ, không ẵm nó cho có hơi người nên khó
nuôi. Vợ ông cũng nghĩ như thế nhưng khốn nỗi sữa đâu cho nó bú vì phải gián đoạn
suốt thời gian một tháng Nụ nằm trong phòng kiếng.
Gần hai tuổi Nụ mới chỉ bò lết chứ chưa biết đi. Đôi ống chân
nó teo bóp và đôi mông dúm dó khó coi, lại nữa vết bớt xanh dưới cổ càng tạo
cho Nụ vẻ xanh xao gầy guộc. Đúng là những khốn khó dồn dập xảy tới cho những kẻ
bất hạnh. Bước chập chững đầu tiên khi Nụ được ba tuổi cũng là bước chập chững
của cả đời. Cái Nụ bị tật ở chân... Bà Cửu ôm con đau đớn còn ông đay nghiến
"phúc đức tại mẫu". Lớn lên Nụ đi đứng khó khăn lại tính nết ương dở
nên mãi mười tuổi nó mới chịu đến trường và cố gắng theo đuổi lắm cũng chỉ hết
bậc tiểu học. Nụ luôn mang mặc cảm thua sút bạn bè nên ít đi đến đâu, có đi
cũng không dám xài nạng vì sợ chứng tích tật nguyền mà vứt nạng thì chân nam đá
chân xiêu, đâm xấp dập ngửa. Có điều không hiểu sao ông luôn nghĩ rằng nếu vứt
nạng và đứng giữa đám đông trông Nụ cũng lành lặn như mọi đứa cùng lứa nhưng bộ
mặt... bộ mặt rỗ chằng chịt, một chứng tích thê thảm sau trận đậu mùa và vết thẹo
sứt môi đã được dính liền vào cuộc đời bất hạnh của nó. Bây giờ nhìn tận tường
sự thật ông cảm thấy hối hận vì khi xưa đã cho Nụ đi. Giá nó cứ tiếp tục ở Việt
Nam và dựa vào danh vọng của ông thì ít ra cũng kiếm được tấm chồng còn qua đây
có lẽ phải ở vậy cho đến muôn đời. Đàn bà bên này hiếm nhưng chỉ hiếm nết, hiếm
tài, hiếm sắc, hiếm những kẻ khôn ngoan hoạt bát chứ còn con ông chẳng ra hồn
người có rước về cũng là của nợ. Từ lúc thấy Nụ hồn ông như bị ai lấy mất. Ai hỏi
gì, nói gì ông cũng gật đầu gượng cười cho có lệ vì biết chắc rằng ông sẽ cần
giữ sức để cầm cự đợt khám phá thứ hai, thứ ba, những sự thật mà ông muốn chạy
trốn cũng không được.
Chiều hôm đó, bà Cửu soạn trong tủ tìm kiếm những thứ vặt vạnh
liệu chừng có thể xài được trong việc bếp núc. Tủ nẻo trống trơn, đồ khô đồ
tươi cũng chẳng có như ở nhà vợ chồng Tâm, ngay đến cái thùng đựng gạo cũng
không. Tuy mệt mỏi nhưng trong lòng bà vẫn muốn phấn đấu vì nghĩ rằng có ông bà
thì chắc chắn cuộc sống sẽ đổi khác, nhất là vấn đề ăn uống ngủ nghỉ của Nụ. Bà
sục sạo tìm trong tủ lạnh được vài quả cà chua chín, nửa chục trứng gà, một
khoanh chả lụa và vài ổ bánh mì. Thương hại con nên đầu óc bà chỉ luẩn quẩn
nghĩ đến bữa ăn, cố nấu thế nào cho thật ngon, cho thật vừa miệng Nụ vì có đến
cả mười năm nó thiếu vắng sự chăm sóc của người mẹ. Bà mở bịch tôm khô vợ Tâm vừa
mua lấy ra một ít rửa cho sạch mùi hôi rồi mới ngâm nước nóng. Bà thích nấu
canh tôm khô cà chua và đập vào quả trứng đánh sợi như nấu riêu ăn với chả kho
nước mắm. Chỉ nghĩ tới đó thôi bụng bà đã cồn cào. Cũng may vợ Tâm chu đáo mua
cho bao gạo, nếu không lại phải ăn với bánh mì hoặc cái "hem bơ gơ"
như lúc trưa thì đành nhịn thêm bữa nữa. Nồi cơm không có nắp, bà phải lấy cái
đĩa sành úp lại cho cơm khỏi sống. Nấu canh cũng lẹ, phải mỗi cái tội không
chày không cối, cuối cùng bà đành bỏ tôm trong nồi và lấy lon đồ hộp giã mạnh
xuống cho mau nát.
Đang nằm trong phòng, nghe tiếng nện ầm ầm dưới nền nhà bằng
gỗ, Nụ hấp tấp chạy ra và khi thấy mẹ mình ngồi xổm còng lưng giã con tôm khô
hôi hám, Nụ nhăn nhó:
- Nhà có máy xay sinh tố sao bu không xài?
Bà Cửu cười cởi mở:
- Ai mà biết đâu, thôi để bữa khác.
Tuy nói vậy nhưng bà vẫn đứng lên chờ Nụ cắm điện và để cái
ly khổng lồ vào máy. Công việc nhẹ nhàng nhưng phải mất đến vài phút chỉ vì bàn
tay Nụ dài hơn thước tấc, quờ qua quờ lại đến mấy lần mới cắm đúng vào chấu điện.
Bà sốt ruột:
- Đứng bên chỉ cách thức cho bu làm.
- Bu làm sao được, lạng quạng điện giựt chết tươi.
Nhìn cái chấu cắm bé xíu mà sợi dây lại mới tinh nhưng nghe
con dọa bà cũng cảm thấy ngan ngán, thôi thì chịu khó chờ một chút cũng chẳng
sao. Tuy nó làm trông gượng gạo khó khăn nhưng điện đâu ăn được nó, bằng chứng
là nó vẫn sống sờ sờ ra đó suốt mười năm trời.
- Xong rồi đấy, bây giờ bu bỏ tôm khô vào và nhớ cho thêm
chút nước không thôi cháy máy.
Nụ nhấn nút đầu tiên, bốn lưỡi dao nằm dưới cùng xoay nhè nhẹ
nhưng chỉ đủ cứa đứt đôi con tôm khô ngâm vội chưa kịp mềm.
- Bu muốn mạnh hơn nhấn nút kế tiếp nữa. Đây này, nhìn theo
con làm cho biết...
Nụ có vẻ hãnh diện vì công việc chỉ dẫn tỉ mỉ này, giống như
một cô giáo non nớt chỉ bảo cho cụ học trò:
- Sống ở Mỹ phải như thế chứ! Ai mà cứ ngồi bệt xuống bếp đâm
với giã nhìn chán cả ra.
Bà Cửu dễ dãi và vô tư hơn ông. Ngay từ lúc gặp Nụ lòng bà mừng
như mở hội, tình mẫu tử lâu nay lắng đọng giờ đảo lộn trong hạnh phúc trùng
phùng. Bà nhìn con đầy ắp thương yêu.
- Bu nấu gì vậy?
- Canh riêu tôm với cà chua.
Nụ chun mũi lại rồi đưa mắt nhìn quanh:
- Ảm hết vào màn cửa, thảm thùa. Sao không nấu canh thịt nạc
có phải ngon hơn không?
- Thịt nạc ai mua?
Nụ cười hề hề:
- Ừ nhỉ! Bu thích thì con đạp xe ra chợ chỉ vài phút là có
ngay.
Nghe đến chợ búa gần nhà, mắt bà chợt sáng và giọng liến thoắng
như vừa tiêm được mũi thuốc khoẻ:
- Ngày mai dẫn bu ra chợ mua ít rau rợ cá mú về ăn. Bu bảo thật,
cả mấy tuần nay ở trên nhà vợ Tâm thèm rau chết đi được mà không dám há mồm
kêu.
- Thì ăn cơm xong lát nữa con chở đi.
Nghĩ đến cái xe đạp cũ kỹ bánh đi đàng bánh, khung đi đàng khung
dựng ở góc phòng bà lắc đầu:
- Thôi chả thèm vào, vừa mới sang đây tao chưa muốn chết đâu.
Nghe mẹ nói trúng ý Nụ cười hềnh hệch. Quả thật nếu Nụ chở bà
đi chỉ có nước hai mẹ con đánh vật với chiếc xe đạp. Nụ nhìn nồi nước vừa sôi tới
nhắc chừng. Bà Cửu bỏ vội những khoanh cà chua đã thái mỏng chung với tôm khô
cùng một lượt:
- Nhà không có bột ngọt hở Nụ?
- Ở đây ít ai xài thứ ấy lắm, ba cái chất hóa học làm lủng
bao tử. Lần sau muốn canh ngon bu cho vào lon soup gà là ngọt ngay.
- "Xúp" gà có "cà rốt" á!
- Nó là nước thịt gà hầm sẵn đổ vào lon đóng hộp lại. Nước
trong vắt như nước lạnh lại có vị thịt gà thơm ngon.
- Thế thì đánh át mùi tôm khô còn gì?
Biết mẹ mình vẫn có tật thích nói chuyện kể lể dài giòng như
ngày xưa, Nụ lửng thửng bỏ ra ngoài phòng khách xem ti vi. Tuy thương mẹ nhưng
quá khứ nghèo hèn luôn ám ảnh, vì thế tình thương bị mặc cảm lấn át, Nụ luôn
mang trong đầu ý tưởng phải gột rửa ông bà cụ thành một người mới để khỏi xấu hổ
với bạn bè. Ra đến phòng khách, Nụ ngả người trên ghế. Đối diện, ông Cửu ngồi
ngủ gà ngủ gật vì vẫn chưa quen giờ giấc thay đổi nơi đất mới.
- Thầy không dậy tắm rửa rồi ăn cơm à?
Tội nhiệp, ông cụ đang ngủ ngon lại thêm tật lãng tai nên nói
đến lần thứ ba mới nghe thấy.
- Gì vậy? Ông giật mình nhưng đôi con mắt lờ đờ khép kín.
- Cơm sắp chín rồi, thầy dậy tắm cho khoẻ rồi còn ăn cơm.
- Tắm gì giờ này? Mà thầy có làm gì đâu phải tắm?
- Thì thầy vào rửa mặt cho tỉnh táo. Tập thức khi trời còn
đang sáng cho quen.
- Tập làm sao được, từ khi sang đây đến nay chẳng đêm nào tao
chợp mắt, ông thủ thỉ như muốn tâm sự với con, hôm nọ vợ Tâm chở đi mua cho một
vỉ thuốc ngủ nhưng rõ là thuốc giả vì chẳng thấy công hiệu gì cả chỉ làm mệt mỏi
thêm.
Nụ nhìn thầy mình thương hại vì thấy ông khác xưa quá nhiều.
Vẻ mặt lúc nào cũng ủ rũ buồn bã và tư tưởng yếm thế nên kiếm lời an ủi.
- Ngày thầy ngủ đêm thức thì đâu gọi là mất ngủ.
- Nhưng nãy giờ tao đã ngủ được mấy phút?
Đã có sẵn thành kiến và lại cho là cái mặt Nụ nhăn nhẳn trêu
chọc nên tự dưng ông nóng cả người lớn tiếng:
- Hết tiếng khua gõ ầm ầm lại tới mày ra đây phá đám.
- Thầy lúc nào cũng bẳn gắt cho nó khổ thân. Thượng đế sinh
ra con người phải hơn cây cỏ lá hoa, phải hơn muôn loài cầm thú mà sao hoa biết
xòe cánh tỏa hương sắc, chim biết líu lo ca hát, vượn đua nhau chuyền trên
cành...
- Chuyền cái con khỉ già. Ngữ mày học hành tới đâu mà giờ giọng
văn chương với tao. Tao bảo thật...
- Tao bảo thật... là tao chỉ biết chửi thôi...
Nụ tiếp lời ông rồi cười hề hề. Ông Cửu không thể hiểu nổi.
Ngày xưa nó mặc cảm vô cùng, hễ ai nói động đến là tủi thân rúc vào một xó
khóc, hễ ai trêu ghẹo gương mặt xấu xí là bù lu bù loa vừa gào vừa kể vừa trách
hờn thân phận thế mà bây giờ mới mười sáu năm tính tình nó hoàn toàn khác.
- Tao đã nói gì mà mày bảo là chửi hở con xẽo kia?
- Thì con xẽo... con kia... con ranh... Thầy vẫn không bỏ được
những tiếng nhà quê đó. Mình nghe quen nhưng thiên hạ sẽ cho là lời thô lỗ tục
tằn. Cũng như có nhiều người mẹ ngắt yêu con mà tím cả mặt mày. Cái gì quá độ, quá
lời, quá tay cũng không tốt.
- Phải, ông Cửu gật gù, bây giờ mày hay mày giỏi nên dạy cả
thằng bố mày.
- Con thấy ở Việt Nam nhiều bậc cha mẹ thương con quá cũng khổ
mà khắc nghiệt với chúng quá lại càng khổ thêm. Con cái vô tình làm rớt cái
chén đôi đũa cũng bị đánh túi bụi, quên không cho con gà con chim uống nước là
bị đá dập đá dụi. Có người lại còn thả con vô ổ kiến lửa hoặc đánh chúng bằng củi
tạ cho đổ máu rồi giã muối ớt xát vào vết trầy cho đau rát đến nỗi phải la
làng. Cha mẹ gì mà tra tấn con cái dã man hơn kẻ thù, tội phạm. Qua đây nhiều
người vẫn còn tật cũ không bỏ bị lũ con gọi điện thoại số chín một một báo về tội
bị cha mẹ hành hung. Dĩ nhiên những người tàn ác như thế bị còng ngay tại chỗ.
Ông Cửu nhìn con, không hiểu nó có ám chỉ gì không vì vụ xát
muối hay thả vào ổ kiến lửa tuy ông không làm nhưng dồn bao trấn nước Nụ thì đã
có một lần.
- Con người qua đây mới thực sự được coi là một con người.
Ngay những tên ăn trộm, ăn cắp bị bắt tại trận cũng không được quyền hành hung
đánh đập nó. Có lần bạn con bị giật bóp, chụp vuột tay nên nó thoát chạy mà có
súng cũng không dám bắn chỉ vì luật không cho bắn người đàng sau lưng. Súng chỉ
để tự vệ chứ không phải dùng để giết người nhất là một khi nó đã sợ và quay
lưng bỏ chạy...
Nụ nói và nói nhiều lắm như đang phô bày, khoe khoang mười
sáu năm học hỏi nơi xứ tự do. Ông nghe nhưng tai bên này để lọt sang tai bên
kia rồi chui tọt ra ngoài vì luôn cho rằng ý ông mới là đúng.
- Mày mới nứt mắt ra mà đã bày đặt dạy đời.
- Con đâu dám nhưng sống giữa xã hội văn minh mình không thể
cứ mãi ăn lông ở lỗ, cũng không thể ăn mắm chuột, mắm tôm...
- Con xẽo lại nói nữa cho mẹ mày nghe thấy đào ông bới cha
mày lên. Đã ngu thì ngậm cái mồm vào. Còn tao chẳng thà nhịn đói chết nhăn răng
chứ không bao giờ ăn cái "hem bơ gơ" béo bổ hồi trưa của mày.
- Nhưng nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục. Bên xứ Mỹ nhà
cao cửa rộng, máy lạnh máy nóng thổi ì ì mà nấu ba cái mắm thối cho nó ảm vào
quần áo, vào thảm, vào màn cửa thì chịu sao cho nổi...
Buổi trưa sau bữa ăn, bà Cửu ra chiếc ghế salon cũ nằm ngủ say sưa như một đứa
trẻ thơ dù đầu bà đã ngoẹo hẳn sang một bên. Nhìn bà ngủ mà thèm trong khi bụng
ông lưng lửng những nỗi buồn phiền. Ông đưa tay kéo hẳn miếng màn cửa sổ nhìn
ra ngoài. Trời nắng gay gắt nổi rõ từng cụm mây trắng đục lơ lửng lưng trời che
lấp mọi cảnh vật như cách ngăn hẳn thế giới loài người. Cái nắng cho ông cảm
giác mây được nắng nung nóng rực lên như lòng ông bây giờ, trông vĩ đại, hùng
dũng, cao dầy như những vách núi khổng lồ vẫn bị gió xuyên thủng. Lòng ông đã từng
bị những mũi nhọn lần lượt đâm nát bấy, như kẻ đói khát còn bị thêm đòn roi vọt.
Ông cứ nghĩ thức ăn sẽ ấm lòng con người nhưng không thể ấm được lòng ông. Những
lúc ngồi một mình ông thấy lòng trống trải vô nghĩa. Ông nhớ ngày nào từ Bắc vô
Nam, dù có vất vả cực khổ trong bước đầu tạo dựng cũng không cay đắng và tủi nhục
như thế này. Thật vậy, những ngày sống với Nụ ông mới thấy cả một nền luân lý tự
thuở nào bị sụp đổ. Nó chẳng coi ông ra gì. Ông nói một nó cãi mười, đôi khi
còn cố tỏ ra hiểu biết để dạy khôn ông. Vẫn biết "tre già măng mọc và vẫn
biết rằng "con hơn cha là nhà có phúc" nhưng nó đã được cái khôn
ngoan gì ở ngoài đời? Có chăng chỉ là khôn vặt, láu cá và hỗn láo. Ông uất ức
khi nhìn thấy nó dằn mạnh đống nồi niêu chén đũa mẹ nó rửa sẵn úp trên rổ:
- Có cái sponge ngay đó sao bu không lấy rửa mà lại tha miếng
giẻ hôi thối ở đâu về thế này! Bởi vậy mấy bà già Việt Nam đi đến đâu cũng bị
người Mỹ coi thường và chê dơ bẩn đến đó. Tại sao không dùng dishwashing liquid
mà lại để mỡ nhẫy nhầy, thật là khủng khiếp!
Nó quăng cái nọ, ném cái kia lăn lông lốc dưới mặt thảm:
- Thầy bu vác của quỷ này từ đâu về cho bẩn nhà.
Bà Cửu ngu ngơ sợ con vất thật vơ vội mấy cái chai bằng thủy
tinh cất vào chỗ cũ không dám mắng lại mà chỉ cười hiền hòa:
- Sư con khỉ. Nước cam nước táo uống hết, tao giữ mấy cái
chai cái lọ để đựng ba cái vớ vẩn, khỏi mua bán cho tốn tiền.
- Ối trời ơi, Nụ trề môi, ở đây chứ nào phải Việt Nam mà bu
giữ lấy để bán ve chai lông vịt. Thứ quỷ này có vất đi cũng chả ai thèm nhặt.
Ông Cửu tức lắm, bây giờ nó ra cái chuyện cha mẹ nghèo nàn thất
học, đến một chữ tiếng Tây tiếng Mỹ cũng chả có, lại còn tham bô vơ vét những của
thừa thãi rác rến làm dơ nhà bẩn cửa. Nó có biết đâu rằng không để dành làm sao
có chai kẹo đắng, chai tôm khô, lọ bột ngọt, lọ gia vị nấu nướng, không nhặt nhạnh
sao có hũ dưa, hũ củ cải muối?
Có lẽ ở nhà buồn, theo ông nghĩ, mặc cảm thì đúng hơn, ngay
sáng sớm, vừa banh mắt Nụ đã leo lên xe đạp đi khắp cùng đường phố ra chuyện
"ét xơ xai" cho người khoẻ mạnh. Đến đúng bữa trưa nó trở về với ba
miếng bánh mì vừa tròn vừa dẹp, ở giữa kẹp một miếng thịt băm nướng khắm khói
mà nó gọi là "hem bơ gơ" cùng với sáu lon "RC strawberry" nằm
ngạo nghễ trên chiếc bàn vuông bốn chân èo ọt xiêu vẹo. Hành động của nó có
khác nào dằn mặt ông bà đừng nấu nướng vì sợ bẩn nhà.
Hôm nọ bà hàng xóm biếu đến cả rổ cải bẹ xanh. Ăn không hết
bà Cửu cắt ra phơi nắng và muối chua. Nhìn hũ dưa vàng rệu trông đến thích mắt
thế mà chẳng biết mới đi đâu về Nụ chun cái mũi lại rồi huỳnh huỵch chạy xuống
nhà bếp tìm tòi lục lọi. Cuối cùng khám phá ra, chẳng những nó đổ hũ dưa mà còn
lôi được hũ mẻ ông dấu kỹ trong kẹt tủ dồn hết vào thùng rác với lý do mất vệ
sinh và hôi cửa nhà. Trong thoáng chốc, bà Cửu thấy bao công lao của mình đi
vào trong cái thùng hôi thối kia. Tức quá bà tru tréo cho hả cơn giận:
- Sư bố mày láo lếu, đền tao ngay hũ mẻ.
- Con không đền, bu còn mang nó về con đập vỡ ngay. Nụ trả
treo.
- Mày tưởng xin dễ lắm à! Nói năm lần bảy lượt bà hàng xóm mới
cho một muôi để gây. Công tao nấu nồi cháo suốt buổi trưa, mày nghĩ xem làm như
thế mà coi được hở? Có mẻ nấu tí canh, tí giả cầy, cái gì mà chẳng được.
- Bu biết con mẻ là con gì không? Là con dòi. Con dòi ăn phân
người. Nụ gục gặc cái đầu ra chiều bực bội.
Đúng là thứ ngu độn, bà Cửu không thèm chấp với Nụ vì dòi
trong mẻ mà đi so sánh với dòi trong phân. Có điều bà cũng phải cho nó biết thế
nào là cội nguồn:
- Hồi xưa sang đây mày đã mười tám. Mười tám năm trời đứa nào
rúc ở nhà tao ăn canh cá củ chuối nấu mẻ? Đứa nào ăn cá hãm thủy với mẻ? Đứa
nào ăn lươn nấu hoa chuối với mẻ? Đứa nào...
Nụ ngắt lời:
- Mười tám năm trời không lẽ con người không thay đổi? Hơn nữa,
thịt gà thịt heo ê hề bổ dưỡng như vậy thầy bu không ăn lại đi ăn ba thứ vớ vẩn.
- Nhưng khốn nỗi tao ăn không được những thứ mày gọi là bồi bổ
đó, ông Cửu xen vào, cũng như tao không tin được những gì mày đã nói. Mày bảo
mày có xe, bây giờ xe đâu hay vẫn chiếc xe đạp thổ tả nghèo nàn nhất nước Mỹ.
Mày bảo mày lành lặn, đẹp đẽ ai ngờ nào có khác gì xưa. Rồi mày bảo mày giầu có
nên sắm sẵn áo quần mền gối và phòng riêng, ai ngờ qua đây phải nằm đất. Nhà
cũng chẳng phải của mày, nay nó tới xét nhà, mai nó cho người theo dõi rình rập.
Sống thế thì sống sao được...
Bà Cửu nghe chồng tố khổ Nụ cũng tru lên gào khóc, kể lể nghe
thật thảm thiết mặc cho Nụ đứng nghệt mặt ra. Còn thương gì được nữa mà thương
quân lừa dối. Sự dối trá hành hạ ông thì ít nhưng sự tin tưởng đến nỗi cuồng dại
lại hành hạ ông quá nhiều. Ngày nào qua đây ông chỉ nuôi hy vọng ở một mình nó.
Nó đã làm cho ông nở mặt nở mày với xóm ngõ láng giềng và đi đến đâu người ta
chẳng nhắc nhở hỏi han cô Út. Cô Út được coi như một thần tượng của các thiếu nữ
đang xuân, được coi như thần tài của những gia đình túng thiếu và với ông là cả
một hãnh diện tột cùng. Nào ngờ qua đây mới biết nó lại là thứ nghèo đói khố
ránh áo ôm nhất nước. Số tiền tàn tật mà ông cho là của trời cho, là một sự may
mắn nào ngờ chính là niềm bất hạnh, mất mát của con mình.
Chương 5
Ông Cửu buồn lắm, ông nhớ lại những bữa lễ giỗ dai dẳng kéo
dài cả tuần lễ. Song song với việc giỗ chạp là nghe những lời tâng bốc con ông
cho xứng đáng với bữa cơm thịt cá thịnh soạn. Việc đó làm ông hãnh diện và vui
sướng tột cùng, niềm hãnh diện của một ông bố có con gái giàu sang phú quý, như
vua của một cõi mà chung quanh ông là đám quần thần tung hô chúc tụng. Ông tưởng
qua đây, bà con láng giềng và những người nào đã từng quen biết ông sẽ phải
kính nể, khúm núm, nào ngờ con ông còn nghèo hơn bất cứ đứa nào trong xóm. Thằng
con ông Tá, cả năm mới gửi về nhà có mỗi thùng đồ. Ở nhà gia đình nó xúm lại
chia năm xẻ bẩy, bóp chắt cũng chỉ đủ ngày hai bữa cơm độn thì nói chi đến việc
đình đám thế mà bên đây nó vẫn còn có một chiếc xe hơi cũ làm phương tiện di
chuyển, vẫn còn mướn được cái "ờ pá tơ mân" ở thoải mái với vợ con, vẫn
còn có công việc để làm chứ không lang thang vất vưởng như con ông.
Ông buồn vì niềm hy vọng hoàn toàn sụp đổ nhưng vẫn còn gượng gạo lây lất sống
qua ngày. Điều ông cảm thấy bất lực và buông tay thua cuộc là những bữa cơm khô
khan mãi tiếp diễn như loài người phải ăn cỏ khô. Mấy ngày liên tiếp chịu không
nổi ông đành than phiền với Tâm. Hôm sau, vợ chồng Tâm mang đến một bao gạo nhỏ,
một bịch tôm khô, một chai nước mắm, một hũ mắm tôm và vài cái nồi cũ. Tâm xếp
cả lên bàn và bằng giọng trịnh trọng cô con gái rơm rớm nước mắt:
- Chính ra thầy bu phải ở với chúng con, vì dù sao chúng con cũng khá giả tươm
tất hơn nhưng cái Nụ côi cút ở một mình cũng buồn. Hơn nữa nó cứ ăn rông ăn
rài, học hành chẳng lo học, tính tình cũng quái đản nên có thầy bu ở bên cạnh
ép nó vào khuôn phép, ăn uống có chừng có bữa hẳn hòi thì con nghĩ chỉ vài tuần
sau là đổi khác ngay.
Nghe Tâm nói thế ai chẳng mủi lòng nhưng thực ra Nụ đâu cần sự săn sóc của ông
bà mà trái lại Nụ còn muốn dậy khôn, làm thầy đời.
- Cái Nụ có trở chứng với thầy bu chưa vậy?
- Tao chẳng hiểu ra làm sao cả. Đứa nào qua đây cũng muốn nhà sạch nhà thơm
trong khi ăn uống khô khan nguội lạnh. Ăn như thế thì làm sao sống nổi.
- Bên Mỹ khác bên mình thầy ơi. Khổ lắm có nói ra thì bị coi là mất gốc mà ăn uống
bày biện ra như thé thời giờ đâu để nấu? Thời giờ đâu mà giặt thảm?
- Nhà giàu mới sợ thảm hôi chứ còn nghèo thì sợ gì ai?
- Cứ như thầy thì mình khác nào mọi.
Ông Cửu nhìn Tâm hậm hực. Ông tưởng than thở với Tâm cho vơi bớt những uất ức
chán nản trong lòng ai ngờ Tâm lại cũng cùng một luận điệu như Nụ. Ức mình ông
chỉ vào đống nồi niêu cũ và vài món đồ khô Tâm vừa mang tới cất giọng sang sảng
với vợ như thuở nào:
- Bà vào cầm cuốn sổ để tôi ghi xem hết bao nhiêu sau này trả lại cho vợ chồng
nó.
Quay sang Thành đứng xớ rớ gần đó ông nói tiếp:
- Để lãnh được tiền già thầy sẽ trả cả lời lẫn vốn.
Tâm khẽ cười, nụ cười đầy ngượng ngùng nhưng không phải với ông mà với chồng.
- Còn lâu lắm thầy ơi, phải ba năm nữa. Mà có đáng là bao mà thầy phải bận tâm.
Hơn ba tuần sống trong giả dối, hết che đậy cho chồng lại đến cha mẹ, Tâm tưởng
là thoát ách khi ông bà dọn sang nhà Nụ, nào ngờ thấy ông lúc nào cũng bổn cũ
soạn lại, vừa dở lại vừa ương. Nàng phân vân không biết nói gì để bớt ngượng với
chồng thì Nụ đã nhét ba mươi đồng vào túi Thành:
- Từ bây giờ mọi chuyện ăn ở của thầy bu để em lo. Anh chị còn nhà cửa nợ nần,
riêng em đã có chính phủ nuôi không, chẳng đói đâu mà phải sợ. Có điều em không
thích thầy mẹ ăn mắm sặc mắm ngóe nên đừng tha xuống nữa.
Tâm giật mình nhìn ông Cửu và đoán chắc cứ luận điệu này trong nhà sẽ xảy ra
chuyện lớn. Nàng vội nắm tay mẹ để từ giã nhưng còn làm bộ ra chiều bịn rịn:
- Bu giữ số phone này. Sau năm giờ chiều là con có mặt ở nhà, bu gọi lúc nào
cũng được.
Xa Tâm mới có vài ngày nhưng thiếu người trò chuyện bà Cửu mủi lòng oà lên khóc
như cuộc chia tay vĩ đại từ Bắc vào Nam:
- Con ở xa thế làm sao đến với thầy bu thường xuyên được.
- Đâu bao xa, Thành chen vào, chỉ mười lăm phút lái xe thôi. Thầy bu yên chí,
chúng con sẽ đến đây mỗi tuần chở thầy bu đi lễ nữa chứ!
Ông Cửu giật mình, hôm nọ ở nhà vợ chồng nó đi lễ đã phải mất hơn nửa tiếng mới
tới nơi, bây giờ thêm mười lăm phút nữa. Đi về mất tiếng rưỡi cộng với giờ xem
lễ là mất toi buổi chiều Chủ Nhật. Ông thở dài:
- Sao chúng mày không kiếm chỗ nào gần nhà thờ mà ở? Xa thế này sáng tối lễ lậy
làm sao?
Tâm nhún vai:
- Có sát vách cũng hơi sức nào đi lễ mỗi ngày. Thầy coi làm quần quật từ sáng
cho tới đêm, giờ ngủ không đủ lấy đâu mà lễ với lạy.
Ông Cửu bực lắm, nếu ở Việt Nam mà nói với ông những lời lếu láo như thế thì đã
bị chửi cho một trận nhưng bên này chúng được tự do ăn nói nên ông cố giữ lời
trách thật nhẹ nhàng:
- Chúa ban cho của ăn hàng ngày thì con cố gắng sốt sắng kinh hạt, đi lễ sớm tối
tạ ơn Người mới đúng.
- Đi như vậy lấy tiền đâu trả bills hàng tháng? Thầy làm cứ như đang còn ở Việt
Nam nằm chơi dài dài khỏi lo lắng gì hết. Bên này nội tiền nhà trả đến mãn đời
cũng chưa hết nợ.
- Tao tưởng nhà cửa đó là của chúng mày? Ông ngạc nhiên.
- Thì của chúng con chứ sao! Nhưng tiền đâu mà trả một lúc mấy trăm ngàn trong
khi mỗi tháng làm chỉ dư vài trăm bạc cho nên phải ra ngân hàng mượn, như thế
tính ra trả ba mươi năm mới hết nợ. Nợ xong cũng đâu có yên, nào thuế đất, thuế
county, city, bảo hiểm cháy, bão, động đất... Ôi bằng đó thứ cũng muốn khùng,
thầy có tin rằng nhà đã trả xong rồi mà không có tiền trả thuế đất cũng mất nhà
luôn?
Ông Cửu nghe lùng bùng ở lỗ tai, cái gì nhà mình rồi không phải nhà mình. Cái
gì nợ đến ba mươi năm cũng chưa xong mà còn có thể mất luôn nếu không trả thuế?
Thuế là cái quái gì mà chúng nó phải sợ đến thế! Nhà ông đã từng nợ thuế đất đến
hai chục năm mà có ai làm gì được đâu. Nếu không phải sang tên cho vợ chồng thằng
Chẩn trước khi đi Mỹ thì chắc gì chúng lấy của ông được một xu. Ông định mang
kinh nghiệm của mình ra kể cho thằng Thành sáng mắt nhưng mấy lần định mở lời
là mấy lần vợ Tâm cố tình gạt đi. Chán nản ông đưa mắt nhìn sang vợ...
Lúc ấy bà Cửu đang nhìn ra cửa sổ và dừng lại thật lâu ở những dãy lầu san sát
bọc vòng cái hồ tắm vĩ đại với màu nước xanh biếc. Trong hồ, một đám trẻ đang
đùa giỡn với những chiếc phao nổi đủ màu sắc làm bắn nước tung tóe. Mặt chúng đỏ
au vì say nắng pha lẫn tiếng cười nói rổn rảng. Chung quanh hồ, loang lổ vài
đám cỏ khô trơ đất. Bà chép miệng:
- Giá được miếng đất kia trồng thì có vô số rau mà ăn.
Tâm nhìn theo tầm mắt mẹ, nàng lắc đầu:
- Thảm cỏ xanh tươi đẹp như thế mà bu đòi trồng rau. Thật đúng là...
- Là... là cái gì hở khỉ? Bà quay lại mắng yêu con. Tao chẳng thấy đẹp một khi
nhìn nó vô dụng.
- Người ta phá cả vườn cây ăn trái để trồng cỏ cho đẹp cho sang, còn đây có sẵn
bu lại đòi phá đi. Nhớ hôm nọ bu ươm trên con mấy hột mướp, sáng nay anh Thành
nhổ tiệt.
Tâm giật mình ngưng lại khi biết mình lỡ lời. Quả nhiên bà Cửu quay phắt sang nhìn
Thành:
- Hôm đi tôi dặn kỹ là đừng có mở lớp lá khô che bên trên vì nó mới nhú non, nắng
gắt quá sợ sẽ chết. Tại sao chưa được vài ngày anh đã nhổ đi?
Tâm nháy mắt nhìn chồng cầu cứu. Nếu bà biết được chính tay Thành hất tung lớp
lá khô, cào nát những mầm non mướt như người ta diệt chết một loại cây độc thì
bà sẽ tiếc biết chừng nào. Mảnh đất nhỏ bằng chiếc nón khó có thể làm xấu mảnh
vườn sau nhưng nếu để lớn lên nó sẽ bò ra cỏ vì không có giàn. Nhà nàng chắc chắn
chẳng bao giờ có giàn mướp vì Thành đang cần ánh sáng mặt trời rọi qua khung cửa
kính mỗi chiều để làm ấm áp đôi phần cái nền nhà lạnh toát. Hơn nữa, ánh nắng sẽ
giết chết vi trùng, khử bớt mùi hôi hám trong nhà. Buổi sáng cào nát cây đâu đã
yên, Thành lái xe vào nursery mua bốn miếng cỏ vuông đắp vào khoảng trống mà
ông Cửu cuốc lên để trồng cây tuần trước. Thế là xong, từ bây giờ trở đi Thành
sẽ không còn ấm ức mỗi khi nhìn thấy nó.
- Tao gieo cả ba mươi hạt, định vài ngày nữa đánh ra cho mỗi nhà ít cây mà trồng.
Thật đúng công toi!
Bà Cửu tiếc công trình chăm dẵm lại kèm thêm sự bực dọc khi khám phá rằng đất
cát ở đây còn mắc hơn vàng. Chính vợ chồng Thành có nhà cửa rộng rãi mà còn tiếc
cả nắm đất nói gì đến những nơi khác, như nhà cái Nụ, giọng bà gay gắt:
- Biết chúng mày nhổ đi thì tao đã mang hết xuống đây mà trồng.
Ông Cửu cũng ấm ức nãy giờ nhưng vẫn nhỏ nhẹ:
- Bà nhổ lên nó động rễ trồng sang năm cũng chẳng có trái. Mà thôi tiếc làm gì,
bây giờ ươm lại cũng đâu có muộn. Mình còn cả bao hạt giống cơ mà!
Bà còn đang ngẩn người ra ngẫm nghĩ thì Nụ giọng nửa đùa nửa thật:
- Ở đây đất đâu có mà bu trồng? Còn nếu cứ ngoan cố trồng trong chậu cho nó bò
trên tường thì con chỉ tặng cho ly nước sôi là xong ngay.
Nhìn dáng điệu ngông nghênh của Nụ, bà lườm yêu nó một cái thật dài:
- Ngoan cố cái thằng bố mày. Lớn tồng ngồng mà ăn nói không phép tắc thì liệu
cái phần hồn mày.
Nụ cười hề hề, tiếng cười dễ dãi của ngày xưa nhưng bây giờ đối với ông Cửu
hình như đang pha trộn cả sự khiêu khích lẫn thách đố. Nụ không còn im lặng
khoanh tay cúi đầu nhận lỗi mỗi lần ông quở trách dù đúng hay sai mà luôn luôn
dùng lý lẽ để biện hộ cho mình. Ngay vấn đề ăn uống tắm rửa vệ sinh của ông nó
cũng chen vào khích bác và chống trả kịch liệt dành phần đúng về nó. Nụ luôn kết
luận bằng một câu nói mà ông ghét cay ghét đắng: "Ở nước Mỹ mà thầy làm
như đang ở với mọi Rha Đê".
Bảo vợ chồng Tâm tệ bạc chứ suy ra Nụ còn tệ hơn nhiều. Cái tình cảm cha con mặn
nồng khi xưa giờ như chỉ còn liên hệ bởi những câu thưa gọi thầy bu, ngoài ra
cách đối xử không thua người dưng nước lã. Chính ra ông về đây Nụ phải vồn vã,
mừng rỡ, đàng này lại dửng dưng ra chuyện chấp nhận như rước của nợ. Hễ đi đâu
thì thôi mà về đến nhà là nó chun mũi hửi chỗ này, hít chỗ kia. Hôm nọ bà Cửu
đang kho chả với nước mắm. Từ ngoài vào nó chun cái mũi rồi nhảy lên như bị
phong giật và hấp tấp lao đầu về phía trước.
- Chúa ơi! Bu nấu cái gì mà thối tha như thế!
Thấy Nụ về nhưng ông Cửu vẫn giật mình vì tiếng hét của nó. Mùi đồ ăn thoang
thoảng, đúng là mùi chả kho nước mắm, cái mùi khăm khẳm quen thuộc làm các tế
bào trong ông chỗi dậy và buồng phổi nở to ra. Ông thấy bụng cồn cào đói và bước
nhanh theo Nụ xem nó định dở trò gì. Dưới bếp, bà Cửu đang lui cui đổ chả ra
dĩa và trên bàn đã bày sẵn hai tô canh bí đao. Sau lưng bà, Nụ đứng chống nạnh
mặt sưng lên.
- Bà làm gì mà ngon thế! Vừa nói để đánh trống lảng ông vừa kéo ghế ngồi xuống.
- Ngon với chẳng ngon, Nụ gắt khá lớn, mình đâu phải là mọi Rha Đê mà đòi ăn mắm
chuột. Sang đến xứ sở này mà còn ăn kiểu hôi hám đó.
- Sư mày, không ăn thì xéo đi chỗ khác.
Bà Cửu lườm con nhưng vẫn dọn ba cái chén trên bàn.
- Con không ăn đâu, nuốt gì nổi mà nuốt. Nhà Mỹ mà bu nấu nước mắm tanh như chuột
chết.
Hình như mỗi lần trước mâm cơm vừa chín tới, ông bà quên tất cả mọi chuyện đang
diễn tiến chung quanh. Có thể cả hai cùng áp dụng câu trời đánh còn tránh miếng
ăn nên cố nín nhịn nhưng thái độ tảng lờ của ông bà càng khiến Nụ thêm bực dọc.
Mặt đằng đằng sát khí, mắt Nụ bất chợt dừng lại ở cửa sổ, nơi treo tấm màn bằng
voan đã cũ. Phải làm một cái gì đó để biểu tỏ sự tức giận hơn là la hét. Không
chần chờ, Nụ với tay lên và giựt mạnh xuống, lớp bụi phủ theo đà rơi bay tứ tán
trong lúc bà đang lấy cơm ra đĩa. Ông Cửu tuy kẻm nhẻm nhưng cũng nhìn thấy tận
tường. Ông cố vuốt giận cho chính mình:
- Một nháng là mùi hôi bay đi hết ấy mà. Nấu món ăn Việt Nam mà không bốc mùi
ăn làm sao ngon.
Quả tình ông muốn nhịn Nụ thực sự vì nấu được lần này sẽ có lần khác. Ông sợ những
bữa cơm lạt lẽo mùi vị, ông sợ những cái "hot dog" Nụ mang về
- Ngon cái miệng mà chết cái nhà, Nụ vẫn cứ gân cổ, khách khứa bạn bè ra vô
chúng khinh cho.
- Nhà có phải của mày đâu mà giữ như mả tổ?
- Nhà ai thì cũng phải ăn ở cho vệ sinh sạch sẽ chứ! Chẳng thấy ai như mấy bà
già Việt Nam dơ bẩn...
Bà Cửu cảm thấy bực bội vì Nụ cứ càu nhàu những chuyện không đáng, bà dằn mạnh
nắm đũa lên bàn:
- Chúng khinh là khinh thứ lêu lỏng chơi bời, không tiền không bạc chứ khinh
mùi nước mắm kho chả à!
Bị va chạm tự ái, Nụ nói như hét:
- Nhưng con không bằng lòng nấu nước mắm trong nhà. Rồi bu xem, thằng chủ nhà
tí nữa bò lên đây nó sẽ cho một tràng vệ sinh thường thức. Nào là văn hóa dân tộc,
nào là tiến bộ của loài người. Thầy bu có tai đâu mà nghe, chỉ tội cho con mà
thôi.
Gì chứ nói đến chủ nhà là bà Cửu ngậm tăm. Tuy không rành nhưng nghe vợ Tâm bảo
ở nhà housing tụi nó rất khó nhất là tụ họp ăn uống đông đảo, ngay như Nụ tật
nguyền thế mà động một chút là chúng "đì" bắt dọn tới dọn lui. Bà Cửu
không sợ phiền đến Nụ nhưng sợ bị đuổi ra khỏi nhà. Thân ông bà đã ăn đậu ở nhờ
lại bám cả vào Nụ cũng đang ăn nhờ ở đậu nốt. Vừa giận lại vừa tủi, tay bà run
lên khi bới cơm ra chén:
- Dù gì cũng lỡ rồi, để nuốt cho trôi bữa nay rồi từ mai tao chỉ luộc tí rau chấm
với nước mắm. Thôi ngồi xuống đi đừng hùng hổ nữa Nụ ạ!
Chuyện chẳng có gì đáng để làm to nhất là đang trong bữa ăn nhưng khốn nỗi Nụ vẫn
bực mình vì chẳng hiểu tại sao ông Cửu lại cứ lời nặng lời nhẹ với mình. Thêm
vào đó Nụ muốn chứng tỏ mình văn minh tân tiến nên vùng vằng mở tủ tìm chai nước
khử mùi hôi và cứ để như vậy vung vẩy đi từ nhà trên xuống nhà dưới xịt nước
bay mù. Bà Cửu nhìn theo lắc đầu:
- Nhà có thua gì cái ổ chó. Bộ ghế nệm cũ ảm toàn mồ hôi, thảm cũng đen cáu
toàn những đất mà ra bộ quý hoá trưởng giả. Mà cũng tại ông viết thư sang tán
dương sự giàu có sang trọng làm nó được thể càng thêm hống hách.
Nãy giờ cố nín nhịn với con, bao nhiêu tức giận bị dồn nén ông Cửu quay ra gay
gắt với vợ:
- Phải, lỗi tại tôi cả mọi đàng. Ấy thế mà lại có người đứng ngay kế bên cổ võ
mới lạ.
- Tôi mù chữ biết đọc đâu mà cổ với đầu.
- Không biết đọc nhưng bà có tai nghe chứ!
- Thì ông đọc chứ còn ai vào đó nữa.
- Có đọc cũng nhìn trong thơ chứ chẳng lẽ bịa ra à!
- Vậy chứ ai đi khoe từ đầu trên xuống xóm dưới?
- Tôi khoe thì nào đã mất mát gì?
Những ấm ức đang xảy ra từ Nụ không ngờ hai ông bà lại quay đầu lại la ó nhau
như hai đứa trẻ nít. Bà Cửu cảm thấy mặt nóng bừng và cơn giận từ đâu kéo tới,
bà nói hơi lớn tiếng:
- Ai bày tiệc lớn tiệc nhỏ? Ai bảo nó gửi máy này máy nọ về nhà? Rồi ai viết
thư xin hết vải "suýt" đến vải gân cho cả giòng họ? Ai...
- Ra bà kể tội tôi đấy nhỉ! Nó bảo nó giàu, tiền của xài không hết phải gửi cho
các hội từ thiện để giúp đỡ trẻ em bệnh tật bên Phi Châu hoặc những thuyền nhân
còn đang tạm trú bên đảo. Bà nghĩ xem giòng họ mình không nghèo hơn những người
đó hay sao?
Mỗi khi tranh luận, bao giờ ông Cửu cũng thắng, chả thế mà cả một đời lúc nào
bà cũng cung cúc nghe theo chồng. Hơn năm mươi năm làm vợ và làm dâu bà nhận thấy
những khó khăn, độc đoán bên gia đình chồng hầu như đã trở thành chuyện bình
thường và một người yếu đuối không lập trường như bà thì cũng dễ dàng chấp nhận.
Thoạt đầu là nhượng bộ những quá trớn của chồng, sau nữa vì yêu thương và vì muốn
gia đình êm thắm cho nên bà luôn tâm niệm "một câu nhịn là chín câu
lành." Dần dần từ "nhịn" chuyển sang "sợ" không mấy
khó, lúc nào bà cũng ở cạnh ông như một kẻ đầy tớ hiền lành và trung thành nhất.
Ông bảo sao bà nghe vậy, ngay đến quyền làm mẹ cũng chẳng có, thương đứa này bỏ
đứa kia cũng từ ông mà ra. Những khi ông la mắng con cái, bà cũng len lén trốn
một chỗ cho qua cơn sóng gió hoặc mẹ con ôm nhau ngậm ngùi.
Ông oai phong là thế, ông uy quyền là thế mà bây giờ bà dám trả treo một đối một
là sự chẳng vừa. Cái lý do để bà được quyền bình đẳng, ngang hàng với chồng chỉ
vì ông không dám đánh bà nữa sau lần đuổi bà chạy từ nhà ra vườn. Dù chuyện xảy
ra cách đây tám năm nhưng bà nhớ rõ như in là chiều đó sau khi la cà ở nhà hàng
xóm đến gần nửa ngày mà không xin phép ông trước Biết tội, bà lấm la lấm lét lẩn
về đến đầu ngõ, lòng mừng khấp khởi vì nghĩ ông đi đâu chưa về. Ai ngờ rình sẵn
từ lúc nào nên bà vừa bước chân vào nhà ông đã giơ cao chiếc gậy phạng vào
lưng. Nhanh như cắt, bà tránh được và quay ngược lại phóng bay ra ngoài. Thế là
hai mái đầu bạc trắng nhấp nhô theo đôi chân nhỏ thó đuổi nhau trước sự thích
thú reo hò của đám con nít. Bà tuy bé người nhưng chạy thật khoẻ, cũng có thể
vì sợ khúc gậy quá to đang gần kề nên bà quên hết nhức lưng phong thấp, quên
luôn bờ ruộng ướt và trơn tuột. Bà thoăn thoắt băng ngang những vườn rau xanh lá,
đạp lên cả luống su hào vừa gieo hột tuần trước. Hấp tấp thế nào mà khi chạy dọc
theo bờ ao bà ngã sõng xoài và lăn tỏm ngay xuống.
Ở dưới ao nước lạnh cắt da, bà quên buốt giá quơ mạnh chân tay lội bì bõm. Cũng
may ông Cửu vừa tới nơi thò vội cán gậy cho bà bám lấy để trèo lên. Trông bà
nhanh nhẹn khỏe khoắn nhưng khi vừa bò lên tới bờ ao đã nằm ngất xỉu làm ông tủm
tỉm cười. Ông cho rằng bà mưu mô nên cố giả đò để vừa tránh cảnh bị đòn lại vừa
được chồng thí dỗ năn nỉ. Ai ngờ gọi đến năm lần bẩy lượt cũng không nhúc
nhích, lại thấy mặt bà càng lúc càng tái mét, ông hốt hoảng la to cho mọi người
đến giúp.
Lúc đó, những người làm vườn còn ở đủ cả nên họ xúm lại kẻ thoa dầu người cạo
gió. Vần qua vật lại, đến lúc cạo trúng ngay đốt xương sống bà oằn người và kêu
thét lên. Thế là kẻ đoán gẫy lưng người cho là bị trật xương sống bèn gọi xe
đưa bà vào ngay bệnh viện. Thuốc men cả tháng trời nhưng khi xuất viện bà vẫn
khập khễnh chống cái nạng gỗ vì hai dĩa sụn bị bẹt ra theo thời gian gồng gánh
nặng nề nay có cơ hội phát chứng.
Từ hôm bị ngã ao, bà chỉ loanh quanh trong nhà làm những việc nhẹ. Ngoài vườn
không người phụ giúp, có mỗi thằng con nuôi còn nhỏ lại ham chơi hễ ra tới vườn
là xuống ao mò cua bắt ốc. Ông bảo cách nào cũng không được. Vắng một chút đã
thấy nó biến mất nhưng bù lại có những buổi tối nó mang về cả rổ ốc mít. Ông Cửu
thích ăn ốc nấu chuối xanh với mẻ, bỏ thêm vài lát bì heo hầm cho nhừ, chút mắm
tôm và rắc vài cộng tía tô hoặc lá lốt. Nghĩ đến món canh ốc, ông quên mình
đang gầm gừ với vợ con nên múc muôi canh đổ vào chén xì xụp húp:
- Giá có ốc nấu chuối bà nhỉ?
Hương vị quê nhà bốc lên khí quản làm bà nuốt nước bọt ừng ực và cũng quên luôn
câu chuyện vừa xảy ra. Bà nghiêng chén sát bên đĩa cơm rồi lấy đũa gạt vào, cơm
dẻo trắng tinh không chút mùi thơm nhưng bà vẫn lấy đũa gẩy một bểu cho vào miệng
nuốt trửng như mọi lần rồi mắng yêu chồng:
- Có voi đòi tiên, hơn nửa tháng nay ở nhà vợ Tâm bó buộc, cố mơ ước có ngày được
tự do xào nấu, bây giờ vừa bữa đầu tiên đã đòi ốc với chuối. Bên này đào đâu ra
thứ ấy.
- Cứ để yên rồi bà xem, vừa gắp miếng chả kho ông vừa rung đùi làm chiếc ghế èo
ọt lại được dịp lắc lư, chỗ nào có Việt Nam là có tiết canh, dồi chó. Mắm tôm họ
còn đóng chai được, không lẽ lươn, ốc, hoa chuối lại không? Một vài ngày cho
quen nước quen cái, tôi đảo khắp một vòng quanh đây thể nào chả kiếm ra.
- Ông thì chỉ cứ giở giọng khoác lác, hồi trưa dọn nhà vào đây tôi nào có nhìn
thấy ai là Việt Nam đâu.
- Bà không thấy nhưng tôi ngửi thấy.
Bà Cửu hom hem cười, hình như đã lâu, từ ngày rời Việt Nam bà không có được nụ
cười nào cả.
- Làm như là chó.
Biết vợ hết giận ông cũng cười đồng tình coi như chuyện cãi nhau vừa xong chỉ
là món canh nấu mặn, khó nuốt nên ông không chấp nhất những lời đùa giỡn của vợ.
- Còn giỏi hơn cả chó nữa, nếu không sao tôi ngửi thấy mùi trứng chưng mắm tôm.
Mai bà làm một bữa mà ăn, món nào mà cứ hôi um lên là tôi chịu.
Nghĩ đến đĩa trứng chưng mắm tôm màu nâu đất vừa đặc vừa sệt bốc vị thơm ngào
ngạt, bà chợt nhớ đến Nụ và những tức giận của nó nên nhỏ giọng:
- Thôi đừng chọc cho nó nổi điên lên nữa. Bớt mồm ăn bớt miệng nói lại là yên ấm
cửa nhà. Nó cũng tròm trèm băm tư chứ còn nhỏ nhít gì, nay mai lỡ đứa nào phải
lòng lấy nó là thành mẹ, thành bà mấy hồi.
Ông Cửu nhìn vợ, không hiểu bà dùng sai chữ hay vì lý do gì
mà lại nói "phải lòng". Thường thường hai tiếng phải lòng để ám chỉ
những gì không mấy tốt đẹp xảy ra. Tuy nhiên bữa cơm hợp khẩu vị nên ông cười dễ
dãi và cùng a dua với vợ:
- Bà nói thế mà hay. Chỉ có đứa nào lầm lỡ nên mới phải lấy nó mà thôi.
Thực ra bà Cửu dùng tiếng lỡ cũng hơi quá đáng. Nụ tuy xấu và tật nguyền nhưng
dưới đôi mắt của những người Mỹ, những người có lòng nhân từ bác ái thì lại là
kẻ đáng thương. Ngay vài tuần đặt chân sang Mỹ, nàng đã được bác sĩ Tim McCabe
đề nghị mổ để đặt lại sợi dây gân cho thẳng, may ra có thể trở lại bình thường
như mọi người. Lúc đó còn trẻ, còn hy vọng nên Nụ vui vẻ yêu đời lắm. Nàng viết
thư cho bạn bè ở khắp mọi nơi, nhất là thơ về Việt Nam tường thuật mỗi biến
chuyển của căn bệnh. Mổ xong, Nụ chỉ được nằm nhà thương vài ngày làm nàng thấy
ngỡ ngàng. Tụi Mỹ dùng tiếng surgery nghe có vẻ to lớn vĩ đại chứ thật ra chỉ rạch
mỗi một đường dài khoảng hai phân ở hai cổ chân. Nụ thở hắt ra khi ngày đầu
tiên y tá lại thay băng và nhìn tận tường vết cắt:
- Tại sao không mổ dài thêm tí nữa hoặc rạch hết cả ống chân?
Nụ nằm vật vã trên giường sắt với thất vọng tột độ làm bình nước suối nối dài bằng
vòi cao su nhựa chao động mạnh. Cô y tá hiểu lầm sự đau đớn của Nụ nên vỗ về:
- Không sao đâu, vết thẹo rồi sẽ biến mất.
- Tôi muốn có thẹo, thật nhiều thẹo cô nghe rõ chưa?
Nụ khóc lên rưng rức y như nhiều thẹo thì sẽ được lành bệnh và bằng thái độ trẻ
con, nàng phân trần:
- Chỉ rạch một chút như vầy thì cần gì đến thuốc mê, cần gì người đến ký giấy tờ?
Tôi tự rạch cũng được vậy.
Giờ thì vỡ lẽ, cô y tá ái ngại:
- Không phải vậy, bác sĩ chỉ giải phẩu những chỗ cần thiết thôi. Bệnh của cô khả
quan lắm mà.
Chương 6
Nụ để mặc nước mắt nhỏ xuống từng giọt dài không cần dấu diếm.
Bao nhiêu hy vọng đều tùy thuộc vào vết khâu, vết khâu càng dài, càng đau đớn
nhức nhối thì sự thành công càng cao thế mà lý do gì bác sĩ chỉ mổ lấy vì? Tuy
buồn nhưng cũng chưa hẳn là Nụ đã hoàn toàn tuyệt vọng vì bác sĩ chưa cho biết
kết quả thì mọi phỏng đoán chỉ là tưởng tượng. Nụ cố lấy buồn làm vui nên hôm
xuất viện nàng gọi thằng Peter, bạn học cùng lớp, mang máy chụp hình và nhờ cô
y tá chụp dùm. Peter tướng tá cao ráo, mắt xanh, tóc vàng lại khá đẹp trai và rất
tự nhiên. Nó đứng đàng sau vòng cả hai tay quanh vai Nụ, mặt cúi thật thấp và
thật sát. Mắt nó cười mơ màng như đang chụp với người yêu mặc dù nhiều lúc đùa
cợt nó hay gọi Nụ là "little sister". Đôi khi thân mật hơn nó ôm lấy
cổ Nụ kêu "Oh! my baby". Mặc kệ, gọi gì thì gọi. Việc trước tiên là
phải gởi những tấm hình "như là tình yêu" này đi tứ xứ để "giựt
le" với bạn bè, nhất là với cha mẹ mình để ông bà phải la hoảng. Quả
nhiên, vừa trông thấy hình ông bà nhảy dựng lên như điện giựt nhưng sự hốt hoảng
chứa đựng đầy vẻ hãnh diện nên chỉ vài phút sau ông bà hân hoan đi từ đầu trên
xóm dưới khoe thành tích "vinh quang" của con mình. Qua Mỹ lấy được
chồng Mỹ mới ngon, vì nếu không nói được tiếng của họ thì ai mà cưới. Ông bà chỉ
đơn giản hiểu như thế, cũng như mọi người trong xứ ai cũng quan niệm nếu nói được
tiếng Mỹ là đã thành công trong tất cả mọi mặt kể cả kinh tế vì tụi Mỹ tuy lớn
xác nhưng đầu óc không hơn gì một đứa con nít.
Xuất viện về Nụ ở nhà thêm một tháng để tập cử động, tập đi và tập đứng. Chẳng
có gì khác biệt hơn ngoài cây gậy chống cho khỏi ngã. Tuy nhiên, gậy làm Nụ coi
bộ chững chạc và có vẻ bà cụ hơn, dáng đi cũng khoan thai chứ không vung vẩy,
loạn xạ như trước. Tóm lại Nụ cố giả vờ tự tin một cách ngu xuẩn, bám víu vào
những vết thẹo như một bằng chứng hiện hữu để đánh lừa những cay đắng của mình
vì một tháng trôi qua vẫn không xóa được một phần nhỏ của bệnh tật, có chăng
thêm được hai vết thẹo con đã liền da non.
Lúc đó Tâm chưa lấy chồng, chưa xin được housing ngoài welfare, foodstamp nên
hai chị em ở chung phòng với một số bạn bè khác. Thỉnh thoảng những lúc vắng
người, Nụ ném gậy thử đi một mình. Lại y như xưa, có nghĩa là lúc nào cũng như
vồ như ôm chầm lấy người khác. Là con gái nên lắm nước mắt, nhiều lúc khóc chưa
đủ, Nụ chống nạng thất thểu ra ngoài park rồi thừa lúc nhìn quanh quất không thấy
ai, Nụ vung gậy quất vun vút vào những đám cỏ non mướt khiến rễ, đất cát tung
bay vùn vụt. Từ đó chiếc gậy không còn là điểm tựa cho Nụ dùng để đi mà dùng để
biểu lộ những uất hờn đã che dấu một tâm trạng vô cùng đau khổ. Chiếc nạng bị sứt
sẹo cào nát nhiều chỗ thì cơn buồn giận của Nụ càng vơi đi.
Lâu dần cũng nguôi ngoai, Nụ đã tập cho mình một thói quen che đậy, cứ nghĩ như
đã khỏi bệnh hẳn và cố quên buồn bằng cách bỏ học dù mới chỉ lớp mười. Tiền tàn
tật được hơn sáu trăm mỗi tháng, sau này lại xin được housing nên vật chất
tương đối thoải mái. Hơn nữa Nụ ăn uống dễ dãi, nhiều khi buổi trưa chỉ cần một
ly nước lạnh và gói potatoes chip hai mươi lăm cents cũng xong. Tối nào vui
trong lòng hoặc bụng cồn cào đói thì đi bộ ra đầu đường kiếm cái Big Mac, tiện
tặn chút nữa thì cái hamburger cho nên Nụ cũng dư khá tiền dù đã gởi hàng tháng
về nhà.
Một lần Nụ đi ra nước ngoài thăm bạn bè. Cái phút cảm động và sung sướng nhất đời
là lúc Nụ chống nạng từng bước một từ hành lang nối liền máy bay đến tận phòng
đợi giữa tiếng reo của cái Xu, cái Hào, giữa tiếng "Oh, my God" rất Mỹ
và những cái bắt tay nồng nàn, những vòng ôm cứng ngắc không khác một bà tổng
thống đi kinh lý. Nụ hãnh diện với cái nhãn hiệu "công dân Mỹ" và bộ
quần áo "Mỹ" trên người mặc dù hai con bạn đến đón trông nó cũng
"hơi văn minh" giống Nụ. "Mặc kệ, diện thế nào thì diện chứ Thụy
Sĩ sao bằng Mỹ, đem so sánh chẳng khác nào lấy đá phân bì với cẩm thạch.
Hai con bạn thân từ hồi còn ở quê nhà, chung trường tiểu học, chung lớp, chung
mâm và đôi khi còn chung cả giường nên ra chiều vui vẻ thân mật lắm. Chúng đón
Nụ bằng chiếc xe Pinto cà rịch cà tàng. Tuy nhiên tiếng nổ lớn lại làm Nụ vui
vì có bao giờ nàng được ai đưa đón bằng xe hơi ngoài vợ chồng Tâm. Tâm thì màu
mè kiểu cách, mỗi lần bỏ Nụ xuống y như rằng vội vã phủi bụi, đất cát ở miếng
thảm con để chân. Đã vậy những giấy kẹo ăn xong lỡ có rơi xuống cũng không
thoát khỏi đôi mắt cú vọ của ông anh rể.
Xe loanh quanh trước một sân parking rộng lớn nhưng khó tìm được chỗ đậu sau
sáu giờ chiều. Đeo túi xách trên vai, Nụ khệnh khạng chống gậy theo chân bạn
lên cầu thang vào một trong những building nghèo nàn cũ kỹ ngay trung tâm thành
phố. Đám bạn khố rách áo ôm lẫn lộn sáu đứa trong một phòng, tưởng đón được
"bà Mỹ con" từ xứ văn minh giầu có để được chia chác chút đỉnh. Nào
ngờ trong túi xách Nụ mang theo chỉ vỏn vẹn vài bộ quần áo đã qua mùa, vài chục
tấm hình với những "thằng kép" Mỹ mập phục phịch nhỏ hơn Nụ đến cả mười
lăm tuổi và chiếc máy ảnh "thổ tả" không đáng giá mười đồng bạc. Ngày
đầu chúng còn mong ngóng may ra Nụ mang theo chút đỉnh tiền bao đi uống cà phê
hay ăn tô phở. Nào ngờ Nụ quen tính tằn tiện bóp chắt cho nên suốt từ sáng,
trưa đến chiều tối chúng chỉ thấy Nụ mò vào tủ lạnh lục lọi kiếm vài khoanh
bánh mì kẹp vào miếng cheese, hoặc nấu chén mì gói trông thật thê thảm. Thế là
cả đám đứa thì cáo bệnh, đứa phải đi học, đi làm thành ra Nụ trơ trọi một mình.
Một hai ngày đầu Nụ không để ý nhưng lâu ngày thấy sự lơ là của chúng bạn, Nụ
chột dạ vội gọi điện thoại mượn Tâm năm trăm đồng để tiêu xài và góp thêm phần
ăn của mình chờ cho hết tháng và chờ cho chóng tới ngày về.
Sau chuyến đi Thụy Sĩ kèm theo những kinh nghiệm đã có, Nụ chỉ loanh quanh
trong nước và rút ngắn thời gian thăm nom vừa tiện túi tiền vừa đỡ vất vả cho bạn
bè. Mười năm, Nụ tổ chức bốn cuộc du lịch. Chính vì thế mà làm xóm ngõ xì xào
bàn tán và làm cha mẹ Nụ mang cái hãnh diện lầm lẫn. Con bé tật nguyền đã biến
mất chỉ còn nàng Cám vớ được chiếc hài tiên đã thoát xác với những ăn xài vung
vít, rộng rãi giàu có và ngay đến vấn đề chồng con ai cũng cho là Nụ kén chọn
chứ nào ngờ...
Giận con, ông châm biếm cho hả cơn tức nhưng thực ra tâm can lại thấy nhói đau.
Dù gì nó cũng là con ông, là máu mủ ruột thịt, là công vợ ông mang nặng đẻ đau
và cũng là công dưỡng dục mười mấy năm trời. Bệnh tật ai chẳng ương dở. Người
ta bệnh một hai ngày đã khổ sở rên la, còn con ông hơn ba mươi năm chịu tàn tật...
Ông thở dài, miếng cơm cuối cùng chợt nghẹn:
- Bà không gọi cho nó ăn đi à!
- Nó đi ra ngoài ngay từ lúc nãy. Tôi nghe tiếng đóng cửa cái rầm. Gớm, điếc gì
điếc nặng thế không biết.
Nền đất khô cứng lún phún những ngọn cỏ vàng èo ọt, thỉnh thoảng bị khuất lẫn
trong đám cỏ dại vượt cao hơn. Khoảng sân sau của dãy nhà hội bô lão không rộng
nhưng bị bao bọc bằng hàng rào kẽm ngăn cách những nhà chung quanh nên ông bà Cửu
chỉ đi được vài mươi thước đã phải quay trở lại. Giữa sân, rải rác vài nhóm ngồi
tụm năm, tụm ba nhìn trời, nhìn đất hoặc nói những chuyện riêng tư. Ông Cửu thọc
hai tay vào túi áo. Chẳng hiểu sao ông lại cứ thích mặc bộ pyjama khi đi ra
ngoài. Bộ đồ bằng teteron màu xanh lạt mà ông cho là trẻ trung, mang dáng dấp
thanh lịch thế mà Nụ thấy ông mặc cứ dãy đay đảy:
- Con nói thầy bao nhiêu lần rồi, pyjama chỉ mặc buổi tối khi leo lên giường
thôi. Nó là đồ ngủ.
Kệ cái giống ương dở muốn nói gì thì nói, ở Việt Nam ông vẫn mặc đi ra đường có
chết ai đâu.
- Ai lại ăn mặc thế này, Nụ tiếp tục cằn nhằn, người ta cười bảo là chúng con
có học mà để ông già ăn mặc kỳ dị. Hay thầy thay áo thung và lấy cái quần jean
của con mà mặc vào.
Ông Cửu nhìn Nụ chằm chằm. Đời thuở nào cha lại mặc quần áo của con, đàn ông lại
mặc quần áo của đàn bà? Nghèo thì nghèo chứ nào đã rách rưới khốn khổ như thế!
Thấy ông không trả lời, Nụ cũng đâm ngượng nên vội bào chữa:
- Hay để con dẫn thầy ra ngoài K. Mart mua vài cái quần jean mà mặc.
- Già rồi mặc cao bồi ai coi cho được. Hơn nữa cái quần cứng như hồ lại bó chịt
hai ống chân trông chẳng khác thằng đánh gậy. Thôi tao chẳng muốn làm trò nỡm.
- Nếu thầy muốn rộng rãi thì mua quần tây với áo chemise.
- Mặc nó lại phải đi giày, trời nóng như đổ lửa mà đóng bộ vào. Ối giời ơi, ông
thở hắt rồi lên giọng, đừng bày vẽ nữa, đẹp gì cái vỏ bề ngoài. Đời mà, tốt
danh hơn lành áo.
Hình như đã biết không thể thay đổi được tính ông nên Nụ chẳng buồn nói thêm. Từ
đó ông muốn làm gì thì làm, ngay đến chuyện vác cái dù theo giữa trời nắng gắt
Nụ cũng không hề há miệng vì cho rằng ông càng già thì càng ương dở giống con
nít.
- Ông làm gì cứ thừ người ra thế?
Bà Cửu thấy chồng đi dạo mà cứ thừ mặt suy nghĩ, tâm trí để tận đâu đâu nên hỏi
đột ngột khiến ông giật mình:
- Thừ đâu mà thừ. Tôi đang nghĩ hay tôi với bà theo cuộc sống mới, cứ quẳng
gánh lo đi là xong hết. Bắt đầu từ mai cứ ăn cơm tối xong là mình dắt nhau đi dạo.
Mọi chuyện để ngoài tai, mọi uy quyền danh lợi để sang một bên. Tuổi mình gần đất
xa trời rồi chẳng còn gì để mà đáng phải lo nữa...
Tuy nói thế nhưng chiều đến ngồi bên mâm cơm ông lại buồn rầu, có đến hai tuần
các món ăn không đổi. Vẫn dĩa bắp cải luộc, hai quả trứng chưng mắm tôm và chén
nước mắm mặn gắt những muối.
- Sao ngày nào cũng có mỗi món này vậy bà?
- Thì ông đi chợ đi.
- Có xa xôi là bao mà phải dừa cho tôi?
- Không dừa nhưng chợ búa phải có tiền chứ!
- Cái Nụ không đưa tiền cho bà à?
- Chuyện, ông cầm cả nắm tiền còn không dám xài thì nó có vài trăm bạc thấm
thía vào đâu.
Bà trách ông là phải vì từ hôm vợ chồng Phước ký ngân phiếu năm ngàn biếu ông
bà đến giờ, sau khi nhờ vợ Tâm đổi ra tiền mặt, ông gói kỹ trong bao ni lông dấu
tiệt, chớ hề dám lấy ra một đồng.
- Bà phải nói tôi mới biết chứ. Mai bà đổi cho tôi trăm bạc mà tiêu dần.
Hôm sau, ông bà rủ nhau đi bộ sang chợ. Từ nhà đến chợ khoảng hơn hai trăm thước
nhưng xe cộ đông như nêm. Tiếng động cơ, tiếng còi xe cộng thêm sức nóng hừng hực
từ dưới đường xi măng bốc lên lẫn mùi xăng, khói xe làm ông bà cảm thấy ngột ngạt.
Ông nắm tay bà dắt ngang qua đường, qua là qua đại chứ còn dù đèn đường đã bật
xanh mà bên kia chỉ muốn nhào tới nghiến nát khách bộ hành. Ánh nắng vẫn xoay
xoáy xuyên qua lớp vải mỏng của chiếc dù che đổ xuống đỉnh đầu dừng lại ở những
mảng da hói.
Ông bà bước nhanh như chạy đua làm cánh dù mỏng được dịp chao đảo. Đến chợ hết
độ mươi phút mà người vã đầy mồ hôi, ông đứng bên lề cụp dù xuống cầm gọn gàng
trong tay rồi mới bước vào. Gọi là chợ chứ thực ra bán đủ thứ đồ dùng. Từ thực
phẩm tươi, khô cho người, chó, mèo đến thuốc tây, thuốc trừ sâu bọ. Từ lọ sơn
móng tay, hộp phấn đến cái chổi hoặc đồ chơi trẻ em xếp đặt thứ tự trên những
dãy kệ dài bốn tầng đầy kín mặt hàng. Chợ chứa được cả ngàn người thế mà đồ chất
cao chỉ chừa vỏn vẹn những lối ra vào cho khách hàng, đủ biết chủ chợ giầu cỡ
nào.
Ông Cửu tối tăm mắt mũi với những món đồ bày ngộp mắt trong khi bà Cửu tần ngần
đứng bên dãy hàng rau. Rau đủ loại xếp từng hàng dài trên kệ cao vừa tầm lấy, từng
vòi nước từ bên trong thỉnh thoảng tẽ cao rắc đều trên những cánh rau non, bên
dưới trải lớp đá vụn giữ cho rau khỏi hư thối. Đến dãy hàng thịt hơi lạnh tỏa
ra khá mạnh vì tất cả những freezer đều mở, bà so vai, hai tay vòng ngang bụng
giữ độ ấm trong người rồi nhìn vào giá tiền và so sánh với giá mua ở Việt Nam,
món nào cũng vài chục ngàn, nhiều thứ mắc gấp mấy lần. Dạo qua dạo lại đến mấy
lượt, rốt cuộc ông bà xót của lại thẫn thờ về tay không. Ra đến ngoài ông chép
miệng than thở:
- Tiền đô quý thật bà nhỉ, hay tại bây giờ bất tài không kiếm ra tiền nên cái
gì đối với tôi cũng là xa xỉ phẩm.
- Không quý thì cũng chẳng thèm khát gì ba miếng thịt vàng bạc đó. Ăn xong để sống
thọ đến trăm tuổi à!
Những bữa cơm kế tiếp cứ thế diễn ra thật đạm bạc, còn đạm bạc hơn ở Việt Nam.
Cả tuần không được miếng thịt, ông bắt đầu thèm một bữa cơm giỗ thật thịnh soạn,
thịt cá ê hề hoặc ít ra cũng phải là bữa cơm do vợ thằng Phước nấu. Ông nhớ đến
những con cá lóc vừa bắt ở dưới ruộng lên còn dãy đành đạch mang vào lò than đỏ
hồng. Dĩ nhiên, dù miệng đã bị tọng vào thanh sắt đâm sâu vào bụng, con cá vẫn
có thể văng ra ngoài vì sự vùng vẫy quá mạnh khi bị nướng sống như thế.
Ông thích ăn cá nướng. Mùi thơm khen khét của lớp vảy đặt sát vỉ than hồng bắt
vào mũi làm nước miếng ông cứ trôi xuống cổ họng ừng ực, nhất là khi liên tưởng
đến tô mắm nêm pha chế thật đặc biệt của Cảnh. Tô mắm nêm màu hồng nâu, sền sệt
những miếng khóm bằm nhuyễn, những mảnh ớt, tỏi, xả nhỏ li ti trộn đều để chễm
chệ ngay giữa mặt bàn. Chung quanh Cảnh xếp bốn dĩa rau bốn góc có cả chuối
chát, khế chua, đôi lúc không có khế Cảnh thay vào xoài xanh, nhiều nhất vẫn là
dấp cá, ngò gai, tía tô, húng quế. Con cá được để lên chiếc dĩa hình bầu dục
cái miệng hả ra thật lớn. Thân hình nó cong vòng theo khuôn dĩa với lớp vảy xém
đen, một lằn nứt chạy dọc theo sống lưng hở những mảng trắng như thịt gà đang
nghi ngút bốc khói. Đặt đĩa trước mặt từng người, Cảnh múc mắm nêm ra chén, trải
bánh tráng sẵn cho ông bà rồi nhẹ nhàng ngắt những cọng rau thơm bỏ vào, cũng
không quên bỏ vài miếng củ cải muối chua, vài khoanh xả bào thật mỏng. Xong đâu
đó, Cảnh mới lấy đũa khẽ dích mảng da cá xuống, thế là nguyên nửa phần thịt lộ
ra và dĩ nhiên, miếng ngon nhất, bự nhất được cuốn gọn trong hai cái cuốn đầu
tiên dành cho ông bà. Ông không quen ăn những món của người nam nhưng vợ Phước
có lắm tài lại khéo bày ăn nên món nào cũng ngon miệng.
Cảnh cũng hay nấu canh chua với đầu cá lóc. Nội hai cái má đầy những thịt, lại
còn cái hàm dưới rồi còn cái đuôi, bộ lòng, bao tử. Bao tử cá ăn dòn dòn sựt sựt,
lá gan lại bùi làm sao. Phần giữa, bao giờ Cảnh cũng dành riêng để kho tộ. Nhà
có cái nồi đất nhỏ xíu mặc sức cho Cảnh bày trò. Có bữa, ông thấy nó vùi nguyên
cái nồi xuống đống than đỏ, tưởng có mùi khói ám ai ngờ lại ngon vì chất nước sền
sệt màu nâu vàng làm khứa cá trông bóng bẩy hấp dẫn thêm lên. Cơm gạo tám thơm
ăn với canh chua cá kho tộ thì còn gì ngon bằng chỉ phải mỗi tội Cảnh cho nhiều
ớt quá, vừa ăn ông phải vừa uống bia mới bớt cay.
Tất cả mọi thứ vợ Phước nấu ông đều thích hết nhưng món cá rô chiên dằm nước mắm
ớt vẫn hấp dẫn ông hơn cả. Con nào con nấy có lớn chi cho cam, chỉ cỡ ngón chân
cái nên mỗi lần Cảnh mua về phải cả rổ. Có hôm gặp cá ngon, vừa bước chân vào
nhà Cảnh đã ném vội cái giỏ chạy sang hàng xóm xin mớ lá tre rồi cứ thế bắt đứa
ở sóc cho sạch nhớt. Mỗi lần nhìn rổ cá là con bé ở sa sầm nét mặt vì nghĩ đến
lúc phải móc mang, móc ruột. Xong đâu đó, Cảnh đổ vào cả lít mỡ, lửa để riu riu
như chiên chả giò. Con cá mang ra dòn rụm từ trong ra ngoài và còn đang nóng hổi,
Cảnh rưới từng muỗng nước mắm cay vào...
- Lâu rồi bà nhỉ! Dễ đến mười sáu năm.
Ông buột miệng trong khi bà Cửu nhìn ngơ ngác:
- Chuyện gì mà mười năm với lại năm năm?
- Thì vợ Phước ấy!
- Vợ Phước làm sao mới được chứ!
- Từ ngày nó đi mình chẳng còn được ăn những món đặc biệt của nó.
- Ông chỉ lẩn thẩn. Thích thì xuống nó mà ăn chứ có gì khó đâu.
- Thèm vào ngữ ấy.
Giận hờn ông nói vậy chứ lòng vẫn thấy nao nao. Ngày xưa khi vợ Phước vừa sanh
con Dung là ông đi khoe cùng xóm ngõ. Trong vòng một giờ đồng hồ mà từ đầu trên
xóm dưới không ai không biết nhà ông Cửu có tin mừng. Họ mừng dùm ông thì ít mà
mừng cho họ thì nhiều vì sắp được bữa cỗ no. Cỗ mừng đâu phải chỉ một lần, rồi
còn tiệc đầy tháng, thôi nôi, sinh nhật, rồi còn cháu trai, cháu gái... Ôi thôi
cứ tha hồ mà ăn vì đâu ai xót của dùm ông, chỉ có mỗi vợ Phước là tỏ ý chống đối
việc ông làm. Chẳng hiểu nó sợ cực nhọc hay tiếc của thực sự:
- Thầy ạ! Mỗi lần tiệc tùng cũng phải hơn trăm người ăn, tiền đó gom lại cả năm
cũng dư mười mấy cây. Con nghĩ mình dành dụm vài năm mua căn nhà lầu ở ngoài phố
sống cho nhàn hạ thoải mái. Thầy bu già rồi, làm lụng vất vả quá...
- Không làm lấy cứt mà nuôi cái nhà này à!
- Nhà này thầy đâu phải nuôi ai, vợ Phước nhỏ nhẹ, anh Chẩn đã có gia đình
riêng, con cái đủ ăn đủ mặc. Cô Tâm và cô Nụ thì ăn uống có là bao. Chúng con ở
với thầy bu để lo hiếu đễ chứ đâu phải ăn bám hoặc nhờ vả.
Ông Cửu ngắt lời:
- Biết rồi, nào tôi có dám nói là nhờ vả đâu. Nuôi "anh ấy" tới ngày
này, dựng vợ gả chồng là tôi hết trách nhiệm.
- Con không có ý phủi bỏ công ơn dưỡng dục của thầy bu đối với nhà con nhưng
con thấy gia đình mình cũng có tiền ra tiền vào rủng rỉnh mà anh Phước học hành
chữ nghĩa chẳng thua ai. Tại sao không dọn về Công Lý hay Hồng Thập Tự?
- Thì chị dọn riêng ra mà ở, ông nói lẫy, gia đình tôi xưa nay cha ở đâu thì
con phải ở đấy.
- Con nghĩ có dời đi đâu chăng nữa thì cũng cả nhà mình, no đói có nhau chứ con
nào có ý định ra riêng..., vợ Phước ngập ngừng, hay là mình mua căn nhà ba tầng
trên Phú Nhuận, hai tầng trên ở còn tầng dưới mở tiệm bán thuốc tây.
- Bán thuốc tây? Ông dè bỉu kêu lên. Cứ tưởng bịp được tôi? Chị học tới đâu ai
chẳng biết mà rộn.
- Thưa thầy, đâu phải cứ có bằng cấp mới được mở pharmacy. Bây giờ người ta nhờ
dược sĩ đứng tên đầy. Còn không thì bán bàn ghế, giường tủ, tệ hơn nữa cũng
hàng xén, chạp phô...
- Thôi thôi... ông Cửu xua tay, tôi chẳng vô công rỗi nghề mà bàn tính những
chuyện "đại sự" như chị. Bán chạp phô một tháng lời được bao nhiêu,
liệu một năm được mấy bữa giỗ?
- Đó chính là điểm con muốn nói. Tại sao mình lại quá cực khổ trong khi mọi người
ai cũng sung sướng tận hưởng cuộc sống? Tại sao một người còng lưng làm nuôi
cho bằng đó người ăn? Họ hàng đến đây đâu chắc vì tưởng nhớ tổ tiên hay đến chỉ
vì bữa ăn? Ở chơi không, ăn xong lại còn được dồn quà cáp tiền bạc cho về xe ai
mà chẳng ham hố.
Ngừng một lát như thể nghe ngóng phản ứng của ông, vợ Phước nhắm mắt lại gồng
mình nói điều khổ ải đã phải chịu đựng quá lâu:
- Mỗi lần giỗ chạp xong con thấy nhà cửa như muốn tan hoang, đồ đạc mất mát, đã
vậy gạo, than củi, dầu ăn nước mắm cạn xuống tới đáy. Tội cho bu lại lùi lũi sắm
sửa, bòn nhặt từ đầu.
- Vậy tao hỏi mày, tiền của làm ra để làm gì? Mặt ông bắt đầu bừng nóng.
Vợ Phước không dám trả lời câu ông hỏi, đầu cúi gầm xuống:
- Thầy xem, trời tháng hè nóng như đổ lửa mà nhà thì không có máy lạnh. Có mỗi
cái tủ làm đá thầy cũng rút ra sợ hao điện. Bếp điện không dám xài để nằm một
xó, bếp dầu không dám nấu sợ nó hư, quanh ra quẩn vào cũng chỉ củi với rơm, nhiều
khi nấu tí nước pha sữa cho cháu cũng phải thổi hết hơi bỏng cổ.
- Mày có phải nấu đâu mà nhắng lên thế! Ông Cửu trừng mắt nhìn con dâu.
- Thưa thầy, theo con nghĩ mình trả tiền mướn người giúp việc không lẽ nuôi họ
chơi không?
Vợ Phước cố dằn lòng để đừng có thái độ khó chịu nhưng vẫn không qua được đôi mắt
tinh tường của ông:
- Nhà này xưa nay không có thói trưởng giả, đầy tớ chỉ phụ việc ruộng vườn, còn
cơm nước không mẹ thì con. Mày về nhà này làm xáo trộn lung tung còn láo lếu chỉ
dậy. Làm gì có thứ trứng đòi khôn hơn rận.
Ông phải quát phủ đầu như thế Cảnh mới chịu im. Nhà có bốn đứa mà chẳng có đứa
nào giống đứa nào. Thằng Chẩn tính tình rộng rãi, ăn xài giống ông nhưng phải
cái tội thích khoe khoang và nói hơi nhiều, trong nhà có gì mới mẻ là đầu trên
đầu dưới biết hết. Thằng Phước kín đáo hơn nhưng lại lười, bảo cái gì cũng gật
nhưng gật rồi để đó chứ không chịu làm. Đã vậy còn thêm cái tội sợ vợ, cái tội
mà ông ghét nhất, có nhằn có chửi thì nó chỉ cười:
- Thời buổi tân tiến chứ đâu phải như ngày xưa mà chèn ép được vợ con. Hơn nữa,
chung quanh người ta đánh phấn đầy, đâu phải chỉ có mình nó. Chính thời của bà
nội mà còn có người sơn móng tay móng chân đỏ chót.
Nói như thế nhưng mắt Phước vẫn láo liên nhìn trước nhìn sau và khi không thấy
Tâm, bèn chỉa mũi dùi sang cô em:
- Thầy thấy không, ngay con Tâm mà cũng son phấn loè loẹt.
- Mày nói cái gì thế thằng kia? Ông quắm mắt nhìn Phước. Con Tâm là gái chưa chồng.
Chưa chồng thì muốn đi ngược đi xuôi, đi ngang về tắt thế nào cũng được.
- Gần thế kỷ hai mươi rồi mà thầy nói những gì đâu đâu.
Biết mình nói thế là sai nhưng vốn không ưa con dâu nên ông chẳng cần chữa thẹn
chi cho mệt. Con Tâm ngoài tật nói nhiều lại còn thích màu mè, khách sáo và hay
ganh tị. Được mỗi cái Nụ nhưng nó lại dở người, nhất là hay tấn công ông bà,
nhưng ông nào có chấp vì cho rằng bệnh tật hay sinh ra quẩn tính.
Nhưng nói gì thì nói, cả một lũ con như thế mà vẫn không thể kiếm được đứa nào
tốt lành bằng vợ Chẩn, đứa dâu đầu của ông. Vợ Chẩn làm dâu suốt hai mươi năm,
đến khi lấy vợ cho thằng Phước mới dám xin ông ra ở riêng. Kể cũng tội, lấy chồng
từ năm mười sáu thì nào đã biết gì, ông bảo sao nó nghe vậy. Hơn nữa, thằng chồng
cũng quá quắt lắm, hơn vợ nó có một tuổi mà xeo xẽo chửi con kia cả ngày. Khi
thằng Chẩn lấy vợ thì thằng Phước mới được mười một. Hai anh em cách nhau sáu
năm nhưng thằng Phước kén cá chọn canh mãi đến năm hai mươi chín mới chịu lấy vợ.
Cảnh là người do ông bà tự chọn lựa nên Phước vật mình vật mẩy nhất định không
chịu lấy, viện cớ nào là mập như heo chỉ tốn tiền quà vặt, nào là diện quá chỉ
chết tiền quần áo. Thấy con mình đã lớn tuổi mà còn kén cá chọn canh đến nỗi ít
nói như bà Cửu cũng phải gắt lên:
- Cưới đứa khoẻ về cho nó coi sóc ruộng vườn, đỡ tiền thuốc men, còn ăn uống có
là bao. Hơn nữa tao đã chọn kỹ, tướng nó là phải cả tá con, cái lưng chữ ngũ cứ
kể như đẻ năm một.
Phước chê là để mà chê cho sau này ông bà khỏi trách cứ, chứ thực ra ngày đầu tới
coi mắt anh chàng đã quay cuồng như bị sét ái tình đánh. Phước có học, tính
tình lại phóng khoáng dễ dãi nhưng vốn biết gia đình khó khăn nên chàng vẫn giả
đò lấp lửng:
- Thầy bu thích thì cứ lấy về cho nó hầu.
- Ơ hay thằng này ăn nói hay nhỉ. Tao lấy về để cúng tế à?
- Chứ thầy bu khó như vầy nó chẳng ở nổi đâu.
Ông cười dễ dãi:
- Muốn ở đâu thì ở, cứ tưởng béo bở lắm mà tao phải hầu cơm. Chỉ mong mày gật đầu
để tao lo liệu. Đừng để cha già con mọn mà tao khổ tâm lắm.
Nhập nhằng mãi rồi cũng xong. Có điều Phước thua cơ ông là cái chắc. Muốn bắt
dâu, chỉ cần giữ con trai mình lấy cớ cha con không thể rời nhau. Phước là trai
út thì phải ở đây thừa hưởng di sản của ông cha để lại và phải cúng bái tiên
nhân nếu chẳng may thằng Chẩn qua đời. Thế mà đến lúc nói chuyện với vợ Phước
ông mới thấy rằng không thể nào lấy uy quyền mà ép nó được. Con này ngoài cái tật
cãi nó còn lý sự phải biết. Chính nó đã mấy lần xin ra ở riêng viện cớ cho gần
chỗ sở chồng làm để dễ bề đi về bớt được tiền xăng nhớt và thời giờ. Chỉ có một
lý do duy nhất ấy được nhai đi nhai lại, nó nói mãi không chán và ông nghe mãi
cũng không mềm lòng. Kể ra nó cũng mưu lược chứ bất cứ lý do nào khác là ông
cũng bắt bẻ được ngay. Thời nào thì thời, lấy chồng là phải theo chồng, dù có
là bà thánh bà tướng mà đã lấy con ông là phải ở trong cái nhà này. Nó cũng
khôn ngoan chẳng dám xin đi làm cho nhàn nhã tấm thân vì công việc gia đình ngập
lên tới đầu, việc nhà chưa xong mà mở miệng xin đi làm chỗ khác là chết với
ông. Thằng Phước thương vợ và cũng chịu khó nghe lời vợ nên nó đi rước ở đâu về
một con giúp việc, lấy cớ đỡ đần cho cha mẹ. Ôi, chúng dư tiền dư bạc muốn làm
gì thì làm nhưng nhà ông đâu thể nuôi thêm miệng ăn để hầu hạ riêng cho vợ Phước.
Cho nên được bữa trước, bữa sau ông bắt con Hai, đứa ở, ra làm ngoài vườn.
Không hiểu con Hai sợ làm vườn hay thương chủ bầu bì mệt nhọc mà nó hay lén về
đúng vào giờ lo cơm nước để đỡ đần cho chủ. Vài lần ông làm dữ đòi đuổi nhưng
nó đâu có lãnh tiền của ông nên cứ tỉnh bơ. Bực quá, ông xoay qua Phước:
- Quần áo chúng mày thay ra phải tự giặt ủi lấy. Vợ mày không làm được vườn tược
thì phải lo cho heo gà và cơm nước.
Thực ra từ ngày Cảnh về làm dâu, tuy chưa hề làm lầm lỗi một
điều gì nhưng cứ nhìn cái dáng khoan thai nhàn nhã, nhìn khuôn mặt tươi tắn môi
son má phấn và tay chân sạch sẽ trắng trẻo là ông lại lộn ruột. Sự có mặt của Cảnh
trong nhà là cả một đối nghịch của hai lớp người và hai cuộc sống. Cảnh không đẹp
nhưng có chút ít học thức lại quen thói trưởng giả sai bảo, việc gì cũng dùng đồng
tiền giải quyết trong khi ông Cửu là người nhà quê chân lấm tay bùn, tiền kiếm được
hoàn toàn do sức lao động, bằng sự cần cù và bằng mồ hôi nước mắt. Ông bon chen
trong xã hội xô bồ vàng thau lẫn lộn từ khi còn ở ngoài Bắc. Chức tiên chỉ cho
đến xã trưởng ông cũng phải mua bằng tiền nên khi vào Nam mọi thứ đều lạ lẫm.
Người ta không mua chức tước trắng trợn như ở Bắc nhưng muốn làm phó, chánh
trương trong một xứ họ đạo phải tốn kém thời giờ, lập phe nhóm và hao tổn tiền
bạc chè chén hội họp. Chính vì thế nên ông quan niệm không có gì lớn và quyền
thế bằng đồng tiền, có tiền là có tất cả. Thay vì học hỏi để mở mang kiến thức,
để đổi mới con người cho cuộc sống vươn cao sung sướng hơn lên, ông chỉ lo cặm
cụi làm và khư khư ôm lấy tư tưởng phong kiến, tạo dựng một mái gia đình mà người
cha, người chồng chính là một ông vua có toàn quyền ban phát tất cả mọi luật, kể
cả những luật khắt khe và vô lý. Tự ông cho ông cái uy quyền đó để rồi chỉ vì sợ
giảm hoặc mất đi ông đã dùng tiền bạc, mưu chước để khống chế tất cả mọi người.
Phước là người có học nhưng vì ở nột trú, xa gia đình từ nhỏ
nên rất thương và sợ ông Cửu, thêm vào đó ảnh hưởng không ít thì nhiều tính phô
trương di truyền nên mặc kệ ông muốn làm gì thì làm. Đôi khi thấy ông quá đáng
Phước cũng chỉ nhỏ nhẹ phê bình chứ không dám công kích trước mặt. Ngay đến việc
bắt đứa ở phải làm việc ngoài vườn hoặc nhìn vợ vác bụng bầu to tướng ngồi giặt
thau quần áo chàng cũng không dám lên tiếng. Hình như cảnh làm dâu của thời xưa
vẫn còn ảnh hưởng trong đầu Phước.
Dẫu biết trong nhà từ trên xuống dưới không ai dám chống đối
mình nhưng ông Cửu vẫn e dè. Hình như lúc nào Cảnh cũng là cái đinh, cái gai nhọn
trước mắt ông, Ông có cảm tưởng như mọi hành động, công việc cũng như tư tưởng
của ông đều bị Cảnh đọc thấu. Tuy ghét con dâu nhưng chỉ trong ngấm ngầm vì ông
sợ ép quá Cảnh sẽ cuốn gói đi thì mất cả dâu lẫn cháu. Dù gì ông cũng cố nhẫn nại
chờ đến khi đứa bé ra đời cho ông bà ở nhà trông cháu thì đứa nào dám bỏ đi nữa.
Ở đời phải khôn ngoan, muốn giữ bò mẹ chỉ cần bắt bò con. Cháu nội ông sẽ là những
con bê con, là những sợi dây vô hình xiết cổ con bò mẹ nghênh ngang ngu dốt...
Chương 7
- Sao mỗi lần ra đây dạo mát là ông cứ thừ người ra thế?
Ông Cửu giật mình. Thật là mất vui khi nghĩ đến vợ Phước, đứa
con dâu mà ông cho là khốn kiếp đã bắt mất con trai của ông.
- Mẻ nhà mình chua chưa bà nhỉ? Ông đột ngột hỏi như đã quên
hết mọi sự ưu phiền.
- Sao vừa rồi nhắc đến vợ Phước, tôi thấy ông đăm chiêu tư lự
mà bây giờ lại hỏi mẻ? Bà cố tình khơi chuyện để ông nói.
- Ôi, tôi đã nói rồi mà. Kể như không đẻ ra thằng mất dậy ấy.
- Con nào chẳng là con mà đứa ông thương, đứa ông lại ghét.
Hơn nữa tôi đâu thấy nó làm gì đến nỗi ông phải từ bỏ. Qua đến đây rồi mọi chuyện
đều trông cậy vào chúng nó. Hay là...
- Tôi cấm bà, ông quát lên giận dữ, có đói khát tôi cũng đi
ăn mày, ăn xin chứ không bao giờ thèm đặt chân đến ngưỡng của nhà chúng nó. Vả
lại, ông hạ thấp giọng, ngữ ấy có hơn gì cái Nụ nhà này, cùng phường khố rách
áo ôm.
- Khố rách mà nó cho ông những năm ngàn?
- Chúng khoe mẽ mà bà còn lạ gì. Mà chắc gì chúng cho để ăn
xài hay lại nghĩ rằng giữ lấy để lo phần ma chay. Đồ bội bạc, phản phúc. Bà xem
suốt bao nhiêu năm trời nó đối xử với mình thế nào? Qua đây mới biết cái Nụ
nghèo, vậy mà mỗi năm còn gửi quà cáp, tiền bạc phụng dưỡng cha mẹ.
- Thì vợ chồng nó cũng gửi ấy thôi.
- Chỉ là hình thức, tôi hỏi bà nó gửi hay nó bố thí?
- Chúa tôi! Bà Cửu thở dài, ông cứ buộc tội như vậy chẳng mấy
chốc mà xuống hỏa ngục.
Trong đời những người già cả, nhất là người đi đạo tối sớm đọc
kinh xem lễ mà nghe đến hỏa ngục là lạnh cả gáy nhưng đang bực, ông nói liều:
- Đi đến đâu tôi cũng đi, xuống hỏa ngục tôi cũng xuống nhưng
bảo tôi đến nhà chúng nó thì không bao giờ. Bà nghe rõ lời tôi nói đây: không
bao giờ tôi bước chân vào nhà chúng cho đến đời đời kiếp kiếp...
Biết sự giận hờn của mình là vô lý và không có nguyên do
chính đáng nhưng không hiểu sao mỗi khi hình dung ra bộ mặt nhăn nhẳn của vợ
Phước là ông lại thấy lên ruột. Làm dâu mười năm, nó đúng là thứ quỷ ám trong
nhà. Nay nó đòi tân trang cái này, mai nó đòi cải cách cái kia. Ruộng vườn thẳng
cánh cò bay nhìn muốn mát mắt mà nó cứ quanh ra quẩn vào bắt chồng xúi ông bà
bán đi lấy cớ già cả rồi, nghỉ ngơi ở nhà trông cháu cho nhàn nhã. Ở nhà chơi
không ai mà chẳng muốn nhưng tiền đâu lễ giỗ đình đám, bảo nó đưa tiền làm đám
giỗ thì nó chối dài rằng không hơi sức nuôi cả họ.
Nhà có mấy con heo con gà nuôi cho nó ăn bèo, rau rợ như bỏ vặt
lấy trột, như lấy tiền cắc bỏ ống thế mà Cảnh cũng giở sổ sách ghi chép ra chuyện
ta đây có học. Tới kỳ bán heo gà, Cảnh hô ầm lên là nuôi những thứ ấy lỗ, chẳng
những lỗ công mà còn lỗ cả của. Nào là tiền cám, tiền gạo lứt, tiền thuốc men
chưa đủ lấy về chứ đừng nói chi đến chết hay bệnh dịch.
- Nếu lỗ thiên hạ nuôi làm gì? Mà đâu phải chỉ một xóm này, cả
quận cả tỉnh nuôi không lẽ lỗ hết hở?
Ông giận ném mạnh cái ống trúc đang cầm định rít vài hơi thuốc
lào văng ra xa trong lúc cả nhà đang quây quần bên chiếc chiếu hoa định ngủ
trưa. Con vợ Phước vẫn khăng khăng:
- Họ nuôi có công thức, thuốc men, pha trộn chất hóa học hẳn
hoi, cứ đúng tháng là bán. Hơn nữa, đã là công ty thì được thầu đồ ăn thừa, được
mua theo giá sỉ, thứ gì cũng rẻ hơn bên ngoài.
- Im đi, đã không biết thì đừng có khoe mẽ. Nuôi heo lỗ mà
tao còn có nhà có cửa cho chúng mày ở à? Ba cái chữ nghĩa dốt nát tưởng mang ra
loè thằng bố mày.
Tuy vợ Phước không dám cãi nhưng vị thế của ông mỗi ngày một
xuống thấy rõ. Bà Cửu đã cắt một phần đất đi bán viện cớ không còn đủ sức làm,
heo gà cũng bớt dần viện cớ không người đi lấy lá rau. Ông hiểu con vợ Phước nằm
tay trong xúi dục mẹ chồng. Ông cũng hiểu rằng vợ ông đã thấm thía câu
"làm cho lắm tắm cũng ở truồng" nên nhất định ì ra đấy. Mỗi lần đình
đám tiệc tùng, vợ Phước cắt đặt việc làm trên dưới y như nó là chủ gia đình. Nó
sai bảo mọi người, ngay cả chị em chồng cũng chẳng từ:
- Cô cứ bắc ghế ngồi ngay ở cửa sau, ai ra vô bưng cái gì là
biết liền.
A! Thì ra nó canh ăn cắp. Nó nghi ngờ họ hàng giòng tộc nhà
ông có người ăn cắp. Đã có tiếng xầm xì to nhỏ đến tai ông, nửa khen nửa dè bỉu:
- Ông được bà dâu út biết giữ của thì chẳng mấy chốc mà giàu.
Hàng xóm đến phụ làm đám chẳng hiểu vì tự ái hay ghét nó nên
mỗi lúc một thưa dần, vậy mà nó lại ra chiều thích thú:
- Con biết ngay mà. Họ đến giúp chỉ là cái cớ để dễ dàng ăn cắp
mà thôi.
Bà Cửu dễ dãi hơn:
- Thì họ phải kiếm chác được chút đỉnh mới đến giúp mình chứ!
Ai mà vô công rỗi nghề phụ không như thế!
Vợ Phước làm dâu được mười năm mà họ hàng, xóm ngõ thưa hẳn.
Thật đúng như người xưa nói "Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng."
Nó không dữ nhưng chặt chẽ, riết róng, tính toán từng li từng tí thì ai còn muốn
đến. Nhiều khi giận ông cầm cây quật, nó cứ đứng ì chịu đòn chứ không chạy trốn
như vợ Chẩn, thế có trêu ngươi không. Quật vài lần ông thấy rợn tay. Gặp thứ lỳ
là ông phải tránh chứ không, lỡ nó lăn cổ ra chết thì cho đến mười đời sau vẫn
không hết tiếng ác...
Tưởng chuyện như thế là yên không ngờ cuối tuần Nụ cố tình
lôi ở đâu về một đám bạn cô hồn để tỏ thái độ chống đối khiến ông Cửu giận tím
cả ruột gan. Đứa nào đứa nấy tóc tai như tuồng ra dại bù xù bờm xờm dài quá
vai, quần áo banh ngang xẻ dọc giống những đứa hành khất. Chúng nằm ngả nghiêng
ngoài phòng khách, đứa trên ghế, đứa dưới thảm và trên mặt bàn bày la liệt những
nước ngọt, bánh trái, nếu ông không lầm thì hình như chúng xách đến mỗi đứa một
phần. Còn cái Nụ, con gái quý của ông luống ca luống cuống mở tủ lạnh cạy đá bỏ
vào cái thùng nhỏ bưng ra ngoài. Ăn uống có thế nhưng xem chừng chúng vui vẻ lắm,
đứa ngâm thơ, đứa hát, đứa rên ư ử chẳng khác gì một lũ chó điên. Ông ngồi ngay
bếp mà Nụ đi lên đi xuống không thèm nói đến một lời, cũng chẳng dám mời ông lấy
một lon nước ngọt sợ hao tổn. Ông nào thèm khát gì cái của đó nhưng nó đã không
biết trên dưới trước sau thì phải đập vào mặt cho nó biết. Nghĩ vậy, ông bước
theo Nụ bén gót. Lũ bạn thấy ông ra vội lồm cồm bò dậy:
- Hi bác!
Ông giật mình. Bà Cửu đi chơi bên hàng xóm sao chúng chào những
hai bác, mà chào kiểu mất dậy mất nết nào đó chứ không cúi đầu khoanh tay trước
người già cả. Máu nóng bốc lên mặt nhưng ông cố gắng thong thả ngồi xuống khoảng
ghế trống với khuôn mặt nghiêm nghị nhìn thẳng vào mặt từng đứa một, đứa nhỏ nhất
cũng phải hai mươi lăm tuổi, như vậy toàn một lũ già với nhau mà lại vô ý thức
hết sức. Ông hắng giọng:
- Các cô không đi làm à!
- Hôm nay weekend mà bác.
- Nói chuyện với người già cả đừng lôi tiếng tây tiếng u ra
mà lòe, các cô biết tôi mới ở Việt Nam sang mà!
Nụ cười nở trên môi con tóc ngắn, nụ cười mà ông nghĩ là châm
chọc:
- Sorry bác.
Tiên sư nhà nó, rõ ràng là chúng chơi xỏ ông đây mà. Quay qua
Nụ, mọi tức giận ông trút lên đầu nàng:
- Tiền bạc đâu mà mày phí phạm như vậy? Nuôi con chó nó còn
biết giữ nhà, nuôi con mèo nó còn biết bắt chuột...
Nụ đỏ mặt. Có lẽ vì tự ái, nên không chờ ông nói hết câu nàng
đã cắt ngang:
- Đâu có đáng gì vài đồng bạc mà thầy rầy la. Chỉ có cuối tuần
chúng con mới tụ họp chơi đùa...
- Chơi, chơi cái thằng bố mày. Mày bảo nhà "hao
dinh" khó khăn, làm ồn ào sẽ bị đuổi bây giờ lôi lũ cô hồn về để ra đường ở
à?
- Xin bác bớt giận, chúng con đâu có làm gì quá đáng đâu.
- Vâng, phải đó bác.
Cả nhóm bắt đầu nhao nhao trong khi Nụ lặng yên nhìn ông. Tia
mắt nó hằn lên những nét đau khổ lẫn trách móc, hai cánh mũi phập phồng như ngọn
đèn sắp hết dầu khiến ông chột dạ. Chẳng lẽ chỉ vì một lon nước mà mình lại khe
khắt với nó thế sao? Lòng ông xót xa thương con khiến nước mắt rưng rưng, mọi uất
ức được phơi bày:
- Thú thực với các cô tôi không khó khăn với ai cả nhưng có
điều tại sao nó cười với các cô từ giờ nọ sang giờ kia mà không thể cười với
cha mẹ nó được một tiếng? Có bao giờ nó ngọt nhạt được một lời? Hễ mở miệng ra
là càu nhàu trách móc, hở miệng ra là chê hủ lậu với chả văn minh.
Ông ngừng lại vài giây nhìn sang Nụ nhưng khi thấy mặt nàng
nghệt ra như một đứa trẻ vô tội vạ thì ông tủi thân khóc oà lên:
- Tao chỉ cần mày đối với thầy bu như với bạn mày mà thôi con
ơi...
Chưa hết câu ông ôm mặt khóc hu hu đi vào trong.
Bên ngoài, có lẽ mất vui nên cả bọn từ từ rút êm. Tiếng lào
xào mỗi lúc một thưa và đến khi im hẳn tiếng thì Nụ huỳnh huỵch đi vào giọng giận
dỗi:
- Họ về hết rồi cho vừa lòng thầy.
Đang ngồi bệt đầu gục trên đầu gối, nghe con trách móc ông
ngước lên hai mắt đỏ hoe:
- Họ, họ cái gì? Cả một đám mất dậy, một đám trôi sông lạc chợ.
Nụ mệt mỏi thả rơi người xuống giường:
- Bạn con đứa nào thầy cũng cho là trôi sông hết ráo.
- Không trôi sông mà ăn mặc như thế!
- Modern tân thời mà!
- Hừ! Tân thời. Tao bảo thật, đứa nào tốt tới đâu mà chui vào
đây ăn uống nhờ vả hoặc chơi với mày đều là những đứa chẳng ra gì.
Nụ xanh mặt nhìn sững:
- Tại sao thầy lại có thành kiến với con như vậy chứ?
- Vì mày là đứa xảo trá, giả dối. Nếu mày đừng lừa dối thì
tao đâu đến nỗi bán tống bán táng đồ đạc, nhà cửa, ruộng vườn mà khăn gói quả
mướp ra đi để rồi bây giờ lạc lõng bơ vơ như thế này?
Có lẽ giữa ông và Nụ chỉ có mỗi điều này để mà nói vì từ hôm
gặp Nụ đến giờ, mọi buồn bực, thất vọng ông đều trút hết lên đầu con. Nụ khó chịu:
- Như vậy là thầy cố tình trách móc con? Sao ngày xưa thầy bảo
là: Tao chỉ cần gặp mày thì có chết cũng an lòng nhắm mắt? Nào là có mắm ăn mắm,
có muối ăn muối? Nào là sẽ lo dựng vợ gả chồng cho chúng mày? Nào là cháu nội
cháu ngoại...?
Giọng Nụ chì chiết khi nhắc lại làm ông Cửu đỏ bừng mặt:
- Vậy chứ đứa nào bảo con trai bám theo đầy mà không thèm? Từ
hồi sang đây tao có thấy đứa nào?
Tưởng cái bất hạnh của mình chỉ có cha mẹ mới là người xoa dịu,
nào ngờ lại là người chọc vào đúng nỗi đau. Nụ hét lên:
- Con đã không trách thầy bu thì thôi sao thầy bu lại trách
con? Vì ai con phải mang tấm thân khổ sở như thế này? Vì ai con phải dối trá để
cho thầy bu sang đây hầu hy vọng có cuộc sống sung sướng hơn? Thầy như vầy còn
hơn chán vạn người ở Việt Nam mà. Mới sang ai lại chẳng phải chật vật lúc đầu
nhưng sau này thầy sẽ được trợ cấp tiền già ăn cả đời cũng chẳng hết.
Ông Cửu chẳng vừa. Nỗi đau của ông cũng được dịp bung ra:
- Dù có đắp lên người tao lụa là châu báu mà cầm tù như thế
này thì tao cũng chả sướng. Mày xem tao có khác gì kẻ câm điếc giữa đám người
mũi lõ mắt xanh, và rồi ngay đến bữa ăn cũng bị bóp cổ bóp họng...
Mặc ông Cửu lải nhải, Nụ bỏ đi ra ngoài. Ngày nào mà ông chẳng
đốc chứng lên như thế, ở với người chuyên trở chứng chỉ có nước nổi điên mà chết.
Vài hớp wine cooler chưa đủ say nhưng hơi men và sức nóng làm Nụ chấp choáng.
Phải gắng gượng lắm Nụ mới xuống hết được những bậc cầu thang thẳng và dốc. Tiếng
dép lẹp xẹp kéo lê kèm theo đôi tay vung vẩy phản chiếu dưới mặt hồ đập vào mắt
Nụ làm nàng tái tê. Cuộc đời mình có khác nào cái bóng di động kia? Bao tháng
ngày đi về nơi này, gian phòng và khung cảnh tưởng như đã quá quen thuộc không
ngờ chẳng còn là mái ấm từ khi cha mẹ về ở chung. Mọi dĩ vãng bị khơi quật dù bằng
tình thương và sự diễn tả ngọt ngào của bà Cửu vẫn làm Nụ nhói đau.
- Sao hồi đó bu không bóp mũi để con chết cho rồi?
- Sư mày, nói thế mà nghe được à! Bóp mũi thì giờ đây đâu còn
thấy mày nữa hở con khỉ.
- Giá bộ óc con người cũng tật nguyền theo chân tay thì đời
con đỡ khổ biết bao, chẳng phải suy nghĩ, chẳng phải so sánh.
- Mày lại nghĩ vớ vẩn nữa đấy. Thôi thì ưng đám nào tao đi hỏi
cho để rồi cứ ì ỏ mãi.
- Ưng đám nào? Bu nói chuyện trên mây, trong thế gian này có
ai mà dám lấy con?
- Lấy Việt không được thì lấy Mỹ. Bà Cửu cười gượng gạo chống
chế.
- Chồng Mỹ? Được vài ngày cũng bỏ còn không cũng là chỉ để
bám vào tiền trợ cấp của con chứ thương yêu gì. Mà thôi, bu đừng nói đến chuyện
đó nữa không thôi con nổi điên lên bây giờ.
Nụ muốn nổi điên thật. Con chó con mèo còn biết chuyện làm
tình, còn mơ chuyện vợ chồng huống hồ gì là người. Nụ tật nguyền nhưng quả tim
không tật, trái lại nó dễ dàng co thắt và dễ xúc động hơn mọi người. Trong đời
Nụ đã yêu bao nhiêu người và đã sầu khổ vì bao nhiêu người? Nếu mười ngón tay
không thể đếm xuể thì Nụ cũng chẳng còn đủ trí để mà nhớ. Chỉ biết rằng dẫu một
ánh mắt nụ cười của bất cứ ai vừa mới gặp cũng có thể làm Nụ rúng động và dệt mộng
thương yêu. Tình yêu Nụ trải rộng khắp nơi, khắp chốn, từ những chàng trai trẻ
cho đến kẻ tật nguyền hoặc góa vợ nhưng chỉ là thứ tình một chiều. Chưa bao giờ
Nụ dám thố lộ tâm tình mình cũng như chưa bao giờ dám mơ sẽ được làm vợ vì Nụ
luôn cho rằng mình chỉ đáng để người ta thương hại. Nụ sợ cuộc sống gia đình bởi
vì hôn nhân không được tạo bằng tình yêu sẽ chóng đi đến đổ vỡ. Cho nên trước mặt
mọi người tuy tình cảm Nụ trông dửng dưng lạnh nhạt nhưng tự thâm tâm lại là những
ngọn sóng. Nó có thể tràn dâng và tàn phá tất cả.
- Sao ngày xưa bu không chọc mù hai mắt của con?
Bà Cửu nhìn sững con, sợ đến nỗi mặt tái lại:
- Cái con hết khôn dồn đến dại, ai mà lại ăn nói như thế bao
giờ? Giàu con mắt, khốn khó hai bàn tay...
- Khốn khó hai bàn tay và cả hai bàn chân nữa. Bu ơi sao bu đẻ
con ra làm gì...?
Nụ muốn khóc lắm, khóc như hồi xưa vừa lọt lòng mẹ Nụ đã gào,
đã hét to hơn mọi đứa trẻ để giành quyền sống.
- Có phải tại hồi xưa bu uống thuốc ngừa thai nên con mới bị
tàn tật?
Bà Cửu lại giật mình. Cái con này rồi cũng làm khổ bà mất
thôi. Bà nhà quê, nhà mùa làm gì biết cữ với ngừa.
- Còn không thì bu uống rượu. Đúng rồi, cả thầy cũng nghiện
rượu nên con mới phải mang hình dạng này.
Nỗi đau khổ vỡ oà, Nụ ôm mặt khóc rưng rức. Nàng không cần biết
bà Cửu đang há hốc miệng vì bị đổ oan vào người. Bây giờ bất cứ có ai để nàng
có thể trút uất ức, tủi nhục và để gánh chịu phần nào trách nhiệm về những thiệt
thòi là Nụ không ngần ngại đổ vào. Bà Cửu xót xa nhìn con:
- Đừng nói thế mà thầy mày buồn. Người ta bảo giàu con út mà
khốn khó cũng con út. Thầy bu qua đây chẳng còn gì ngoài tình thương nên tất cả
đã dồn hết cho con. Nụ, con phải hãnh diện vì nhờ con mà các anh chị đều lành lặn,
nếu không có con, mọi sự bất hạnh này sẽ đổ sang những người đó. Gia đình nào
chẳng có người như vậy. Âu cũng là có số cả.
Bà Cửu đang dùng tình cảm để lung lạc Nụ với những chấp nhận
và chịu đựng.
- Cái số? Con không tin con người ta có số mệnh, cũng không
tin vớ tin vẩn mỗi vì sao rụng là một sinh mạng vừa lìa đời. Con cũng không tin
Trời phạt hay Chúa phạt. Vì nếu phạt thì phạt ngay kẻ có tội chứ còn con vừa mở
mắt chào đời đã biết làm gì sai trái? Con nghĩ thầy bu phải có trách nhiệm với
thân thể tật nguyền này và một phần tương lai của con.
Bà Cửu ôm mặt khóc ngất. Những lời trách móc buộc tội của Nụ
như một án phạt phủ chụp xuống cuộc đời bà. Bà là người sinh ra Nụ, mang nặng đẻ
đau, banh da xé thịt rồi bây giờ lại bị lời đay nghiến có khác nào đang cắt thẻo
thêm tim gan bà.
- Đừng nói dại vậy tội cho bu lắm Nụ ơi. Cha mẹ nào chẳng
thương con, chẳng mong cho nó lành lặn nên người. Con đâu biết rằng cái bất hạnh
của bu còn to lớn gấp mười lần cái bất hạnh của con. Con đau một nhưng bu đau
những mười, con thiệt thòi một nhưng bu thiệt thòi những trăm. Nụ ơi, nhìn xem
nước mắt chảy xuôi cứ có bao giờ chảy ngược...
Bà Cửu ôm lấy con khóc lóc, dỗ dành, chia sẻ, an ủi. Nụ bé nhỏ,
chấp nhận của ngày nào không còn nữa mà là những cay đắng, là chứng tích của lỗi
lầm mơ hồ. Bà nghĩ con người ta ai chẳng lầm lỗi, có thể một sự vô tình nào đó
để giờ này con bà phải gánh chịu. Tuy bất lực nhưng bà tự hứa với lương tâm của
người mẹ, ngày nào bà còn sống thì bà phải có trách nhiệm tinh thần với Nụ...
Buổi trưa trời nắng, Nụ thất thểu đi dọc theo bờ cỏ mọc hai
bên đường. Cuối Xuân hoa phượng nở đầy, loại phượng vàng với những lá nhỏ li ti
thỉnh thoảng đuổi nhau trên cây kêu lào xào mỗi khi có cơn gió mạnh. Tự dưng Nụ
thấy buồn, nỗi buồn có thể bắt nguồn từ sự vô cớ trách móc của ông Cửu. Giá Nụ
có chồng thì ông đâu thể coi nàng như con nít mà cứ mãi chửi mắng. Giá Nụ có chồng...
Nụ cười cay đắng. Ai dám lấy nàng? Lấy một con xấu xí, tật nguyền đã lỡ thời,
không có cuộc sống vươn lên. Ai? Ai? Nụ hỏi lòng nhưng lại ai oán ngước mặt
nhìn trời chờ đợi câu trả lời. Ánh nắng như cùng đồng lõa với màu hoa vàng sáng
rực rỡ. Khung cảnh sao tươi đẹp quá, cỏ hoa sao dễ thương quá, gió cũng nhẹ
nhàng mát dịu quá mà lòng Nụ lại sôi sục. Nụ muốn vung tay múa chân la hét quay
cuồng như kẻ điên, kẻ bị phong giựt rồi nằm ngã vật xuống thẳng chân trợn mắt,
rãi rớt xùi ra đầy mép để mọi người nhờm gớm sợ hãi, để cuộc sống rút ngắn lại,
để trái tim không còn thoi thóp vì những cơn giật kinh hồn, để khối óc tê lịm
đi sau cơn tàn phá của thể xác và những viên thuốc làm thần kinh êm dịu.
Tại sao Nụ không là con chó dại chạy rông để mọi người xúm lại
đánh cho đến chết vì sợ cắn lây sang họ? Tại sao Nụ không là con rắn trườn rúc
trong bụi rậm, trong bóng tối để đừng thấy ánh sáng mặt trời, để đừng nhìn thấy
hạnh phúc của loài người? Tại sao Nụ không là con chim, con gà lành lặn chạy nhảy
ríu rít trong bầy, cùng cất tiếng hót líu lo hoặc được nghe tiếng kêu yêu
thương tỏ tình của chú chim trống? Tại sao Nụ không là con mèo hoang được lũ
mèo đực tới kỳ kích thích gào gọi cả đêm mong được thỏa mãn thể xác?
Nếu Nụ là loài vật thì sẽ sung sướng biết bao, loài vật đâu
có trí óc, đâu phân định được phải trái, đâu có mặc cảm, đâu sợ xấu hổ, đâu đòi
điều kiện phải có nhà, có xe khi tạo dựng cuộc sống gia đình. Nếu Nụ là loài vật...?
Nụ cười khan. Nếu là vật, Nụ xin được làm con khỉ vì chỉ có khỉ mới mang hình
dáng loài người, chỉ có khỉ mới có đôi tay dài và đôi chân khập khễnh. Thầy
ơi... Nụ gào lên trong tận cùng đau khổ và khóc rưng rức. Nàng ngã ngồi trên thảm
cỏ xác xơ mặc cho nước mắt chạy quanh, mặc những người đi ngang nhìn ái ngại...
Ba mươi bốn tuổi đầu... Ba mươi bốn năm đón nhận biết bao những tia mắt thương
hại... Ba mươi bốn năm dại khờ phí bỏ. Bây giờ tôi phải làm gì đây để mọi người
đừng khinh khi, để thầy tôi khỏi chửi rủa? Phải làm gì đây?
- Darling, what's matter?
Nụ giật mình ngước lên thấy thằng manager đứng ở đó tự lúc
nào. Cái thằng Mễ già người to lớn bụng phệ như khỉ dã nhân mà thường ngày gặp
lúc nào cũng nhăn nhở cười. Nụ cười nàng vẫn cho là đĩ thõa dâm dật nhưng hôm
nay cũng nụ cười đó, cũng khuôn mặt đó, trên lề cỏ ít người qua lại, giữa khung
cảnh thiên nhiên gần đất gần trời, giữa một tâm hồn đang khủng hoảng tột độ và
nhất là hơi men vẫn còn làm nàng ngầy ngật thì nụ cười có một sức mạnh vô hình
đẩy nàng tới gần hắn hơn.
- Baby, tell me what's going on?
Bộ môi dầy thâm xì to hơn hai con đỉa trâu tiếp tục nhúc nhích trông phát tởm
nhưng lại thốt ra những lời thăm hỏi nồng nàn. Đôi mắt ti hí vẩn lên mầu dục vọng
nhưng qua men say Nụ thấy có sức quyến rũ thu hút tận cùng. Người Nụ run lên,
như hai luồng điện cao thế vừa chạm nhau, như ngấm ngầm chấp nhận thỏa ước mà
bao tháng ngày nàng đã cố công chống chọi sự tán tỉnh nham nhở của nó. Nụ biết
đàn ông tán gái có nhiều loại khác nhau. Tán vì thích chinh phục, vì yêu, vì muốn
thỏa mãn tự ái, vì trả thù cũng có nhưng với thằng Mễ già này nó tán để đổi
chác, như ông đi qua bà đi lại, như rồng rắn lên mây nắm đuôi nhau chạy nhông
nhông, sướng mày thì cũng sướng tao. Có nghĩa là không hứa hẹn, không giao kèo,
không trách nhiệm, không tiền bạc, thể xác cho không biếu không để tận hưởng một
chút gì đó.
Đã nhiều lần thằng khốn tán Nụ sỗ sàng như thế. Nụ biết thằng dâm dật ló đuôi
dê cho thật bự muốn bách chiến bách thắng chỉ vì Nụ xấu xí, chỉ vì Nụ tật nguyền
và như lời ông Cửu vừa chửi là những đứa quen nàng toàn là thứ chẳng ra gì. Ông
nói đúng, như thằng Mễ này chính vì nó không ra gì nên mới tán Nụ. Như mẹ nàng
đã nói mày lấy Việt Nam không được thì lấy Mỹ cho rồi. Ba mươi bốn tuổi không
người thương yêu thì Mỹ, Việt hay Mễ cũng thế. Đã không thương thì suốt đời
không thương cần gì phải lôi Mỹ, Mễ vào làm gì cho nàng thêm nhục.
- Darling, get to my room. I'll make you happy...
Không thấy Nụ lườm nguýt như thường ngày, thằng nham nhở sỗ sàng hơn.
- I'll lick all your face... I'll give you a big smile...
Mày thương tao thật hay dối vậy? Nụ ngước khuôn mặt rỗ chằng chịt lên nhìn nó
thêm một lần nữa. Mày thương tao thật hay dối vậy? Có khinh bỉ mắng chửi như
cha tao vừa chửi tao không? Cổ họng Nụ đặc nghẹn. Lời nói không thoát ra được
nên tiếng khóc vỡ òa cũng vừa lúc thằng Mễ đưa tay kéo nàng đứng dậy.
- Khốn khổ thân mày. Nín đi... nín đi... đời có bao nhiêu ngày tháng mà buồn.
Hãy vui lên, hãy tận hưởng những gì mình đang có. Đi theo tao baby... baby...
Thằng Mễ già vỗ về nhưng bốc hốt hơi kỹ. Bàn tay lông lá lỗ mãng của nó luồn cả
vào trong áo Nụ thoa nắn. Thân thể con gái chưa một lần gần đàn ông cứ thế run
bần bật. Đúng. Có còi cụt, có tật nguyền, có xấu xí cũng phải biết rung động.
Trái tim còn đập là còn biết cảm giác. Bộ óc còn hoạt động là còn biết suy nghĩ
những lời mắng chửi của cha nàng. Mày bảo mày nhiều bạn trai mà qua đây tao có
thấy đứa nào đâu? Bạn trai... Bạn trai... Đây này, con sẽ dẫn thằng Mễ này vào
nhà để cho thầy biết nó là thằng thứ nhất, thằng đầu tiên đi vào cơ thể con, đi
vào cuộc đời buông thả của con. Từ bấy lâu nay con cố sống đẹp, sống tốt lành
cho chính bản thân mình nhưng có ai thấy sự cố gắng của một đứa tật nguyền, của
một đứa gái già lỡ thời hay chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của nó. Người đời
chỉ muốn nhìn nước mắt của kẻ nghèo đói hơn là thấy nụ cười trước khi động lòng
nhân. Người đời chỉ thương hại những kẻ bị ruồng rẫy hơn là những người được ưu
đãi. Cha nàng chỉ nhìn thấy cái kém cỏi của Nụ hơn là sự chịu đựng của con
mình.
- Đừng... đừng...
Nụ quờ quạng đôi tay dài quá thước tấc ra chống đỡ, che đậy nhưng lại là một
hình thức mời gọi nồng nhiệt vì đôi mắt khao khát đờ đẫn của Nụ đã nói lên được
điều đó.
- Theo tao về phòng mau lên baby...
Như cái máy, Nụ loạng choạng bước nhanh theo sức dìu của nó. Thằng này táo gan
thật, dám dẫn gái về phòng giữa ban ngày ban nhật. Gan nhưng khôn vì ở tuổi Nụ
đi thưa kiện bị dụ dỗ người ta còn cười vào mặt. Nếu bị hãm hiếp thì tại sao
không la lên lại hấp tấp bước theo nó về phòng? La lên Nụ. La lên chắc chắn sẽ có
nhiều người chạy ra vì chung quanh đây bao giờ cũng có những đôi mắt lấp ló sau
cửa sổ. La lên chắc chắn nó sẽ phải thả mày ra. Đôi chân Nụ chợt nặng và kéo
trì. Biết bàn tay mình chưa đủ kích thích đứa con gái, thằng Mễ đưa cả đôi môi
dầy phà hơi đàn ông nồng nặc xuống sát gáy Nụ. Những sợi râu tua tủa chưa kịp cạo
vô trật tự mọc suốt từ mang tai xuống tận dưới cằm đâm vào gáy làm Nụ nhột cong
người.
- Darling. I'll make you happy.
Thằng khốn, gần lúc toàn thắng rồi mà vẫn không rên lên được tiếng anh yêu em.
Ngay lúc này Nụ thèm khát được nghe có người nói tiếng yêu mình... và ngay lúc
này Nụ biết nàng đang muốn trở thành đàn bà, thành người lớn để tránh được đôi
mắt khinh khi của cha nàng...
Từ hôm trở thành người lớn đến giờ Nụ không cằn nhằn gì về việc nấu nướng nữa.
Để trở thành đàn bà không quá khó như Nụ nghĩ. Chỉ một vài phút giây, sau khi
cái rung động của thể xác lắng dần thì bộ óc Nụ tự động làm việc để nhận thức
đâu là đúng, đâu là sai, đâu là ê chề đâu là thất vọng. Như bà Ave ăn trái cấm thuở
nào, Nụ đã đạt được tất cả những mơ ước để rồi khi nhận thức trái cấm không ngọt
không thơm như mình nghĩ mà trái lại thấy thân thể trần truồng ô nhục. Nụ chấp
nhận hậu quả việc mình làm nhưng có điều nằm trong vòng tay lông lá của người
mình không yêu, không thương, không kính trọng, không tin tưởng mà chỉ vì muốn
thỏa mãn một chút tự ái, muốn trả thù cha mẹ đã khinh bỉ miệt thị nàng thì có
khác nào những con thú mà đã có lần Nụ nghĩ đến. Nhưng loài thú đâu biết mắc cở,
lũ chó chạy nhông dính lẹo giữa đường bị đám con nít đánh cho hộc máu tháo tiết
mà lần sau vẫn thế, vẫn đứng giữa đường và có tởn đâu. Nó không tởn bởi vì nó
không nhớ đến cơn đau, nó không mặt chai mày đá. Lũ khỉ làm tình xong đưa tay
lên mũi ngửi rồi khẹt khẹt cười trước mặt mọi người chứ nào trốn chui trốn nhủi
trong bụi, trong xó, trong phòng như Nụ và thằng Mễ đã làm. Nếu Nụ không biết xấu,
nếu thằng Mễ không sợ người ta xúm lại coi như con quái vật thì đâu đến nỗi
nhìn trước nhìn sau rồi mới khóa chặt cửa lại.
- Darling, I'll give you a baby today.
Thằng khốn quá điêu luyện. Nó làm Nụ háo hức chờ đợi quên cả sợ hãi. Cũng có thể
con người Nụ dâm đãng xưa nay nhưng chưa có cơ hội bộc phát.
- Take time baby, don't hurry.
Thằng khốn... Thằng khốn... Nước mắt Nụ trào ra nửa kích thích nửa tủi nhục.
Cái giá nhục nhã phải trả là nằm trong vòng tay của người mình đã từng ghê tởm.
Khôn ba năm dại một giờ. Nụ không dại một giờ mà trái lại nàng muốn có giờ đó.
Một giờ đủ làm túi khôn trong nàng vỡ ra. Chính vì túi khôn vỡ ra nên Nụ mới biết
nhục và dấu diếm. Biết nhục nên dấu diếm nhưng vẫn vụng trộm vì có ai ăn một lần
mà nhịn luôn được. Nụ cũng chẳng đắn đo lựa chọn vì còn ai nữa để mà chọn? Từ
buổi đó, cứ đúng giờ cơm là Nụ bỏ xuống nhà thằng Mễ để ngủ với nó và cũng để
ăn. Ăn với thằng môi dầy dâm đãng thú vị hơn với cha mẹ mình bởi vì ông bà luôn
hầm hừ với con gái. Cũng từ bữa đó Nụ không còn chú ý tới mùi vị đặc biệt trong
nhà. Ngược lại hành động của Nụ làm ông bà buồn bực gấp bội vì nàng gỡ và cất hết
những miếng màn treo trên cửa sổ nên ở ngoài nhìn vào là thấy thông suốt từ nhà
trên xuống nhà dưới. Bộ ghế cũ được phủ vải kỹ càng và trong tủ quần áo Nụ mua
thêm những túi nhựa có zipper treo hết vào đó kéo lại. Cửa sổ phòng bếp cũng
luôn mở, ruồi muỗi được dịp bay vào vì không có cửa lưới. Thế là ở nhà chỉ còn
lủi thủi hai ông bà già, hết ăn rồi lại nằm, hết nằm rồi lại ăn. Ông buồn tủi,
bà thở than, đôi khi bực quá gọi Tâm trải bày tâm sự nhưng nàng chỉ ừ hử như chẳng
muốn nghe.
Một buổi chiều Nụ hấp tấp chạy vào nhà và bằng giọng chững chạc nàng nhấn mạnh
từng chữ một:
- Con đã ghi tên cho thầy bu gia nhập hội bô lão. Mỗi năm đóng có hơn trăm bạc
tiền chuyên chở xe cộ, xăng dầu. Cơm trưa chính phủ đài thọ, thỉnh thoảng lại
còn được lãnh bột, sữa, bơ.
Không hỏi nhưng ông bà cũng hiểu bô lão là dành cho những người già cả, mất sức
lao động, sống bám nhờ vào xã hội, con cái. Ông gật gù cay đắng:
- Như vậy là đỡ tốn tiền ăn trưa ở đây. Thôi thì thầy bu cũng mừng, cất được
gánh nặng cho mày lúc nào là tao yên tâm lúc nấy.
Nụ lắc đầu vờ ra dáng thiểu não, cái thiểu não khéo che đậy vì một khi vướng
vào đường tình thì dễ khép hẳn tình thương.
- Thầy hiểu lầm ý con rồi. Không phải con phủi trách nhiệm để đưa thầy bu đến
đó, sở dĩ...
- Khỏi cần phải giải thích quanh co, ông ngắt lời Nụ, tóm lại sáng xách gói đi,
tối xách gói về để khỏi làm vướng mắt mày?
- Nếu thầy nghĩ như thế thì ngày mai con sẽ đến gạch tên thầy bu ra.
Tuy nói vậy nhưng hôm sau ông bà cũng ra ngõ chờ xe đến rước. Trong xe khá đông
người, họ ở rải rác trên nhiều con đường gần đó. Vài câu thăm hỏi, vài câu xã
giao thế mà chỉ một loáng ông đã nhớ tên hết một lượt.
Hội bô lão đúng là trung tâm thông tin nhanh chóng nhất, mới
có hơn tuần lễ ông đã biết gia cảnh của mỗi người. Nào là ông Sáng có bốn thằng
con trai giàu kếch xù, có tiệm tùng, nhà cửa, xe cộ mà không hề giúp đỡ cha mẹ
già. Ông Tư đầu bạc có cô con gái tậu được căn "đúp lếch" ở gần nhà
nhưng lại đi mướn "ờ pá tơ mân" cho ông ở xa. Lại cũng có kẻ quá quắt,
bắt cha mẹ nuôi cả đàn cháu mà chẳng cho tiền ăn trầu hút thuốc... Ngược lại,
trong những bô lão ấy cũng có người ung dung ra vào đủng đỉnh, thỉnh thoảng rít
vài hơi thuốc lào bàn chuyện gẫu và cho rằng cuộc đời ấy thế mà thi vị... Ông
lão tám mươi ngồi bên cạnh bà Cửu trong đám vòng tròn gần ba mươi người, hội khá
đông nên chia thành nhiều phe nhóm, giai cấp nhưng đa số đều có tinh thần tương
thân tương ái, chẳng là vì cũng gần đất xa trời, còn sức nào bon chen với thế sự
nên thường thường mở đầu cho những câu chuyện chỉ xoay quanh vấn đề con cái, trộm
đạo v.v...
- Bà có đứa con dâu nào chưa nhỉ? Ông lão quay lại gợi chuyện
bà ngồi bên cạnh đang bỏm bẻm nhai trầu.
- Chẳng nói dấu gì cụ, "con" được một cháu.
- Thế thì cũng may vì bà chỉ có mỗi một "mẹ dâu".
Mọi người cười ồ, ông lão vẫn thủng thẳng:
- Qua đây đảo lộn hết, chồng thành vợ, vợ thành chồng. Con dâu thành mẹ dâu, mẹ
chồng thành nàng dâu. Bà khôn hồn thì ăn ở cho đẹp lòng nó còn có miếng cơm miếng
cháo mà ăn. Tối đến bệnh hoạn nó còn thương tình gọi "em bu lân" chở
vào nhà thương mà tuổi thọ tăng thêm được vài năm. Lộn xộn...
- Ôi, nói làm gì ngữ đó. Như tôi đây này..., một bà mập mạp xen vào, hôm mới
qua Mỹ nó trốn mất mặt. Họ hàng ai cũng tới thăm hỏi còn con "nỡm" giả
vờ nay ốm mai đau. Tôi giận gọi điện thoại chửi cho một trận, nào ngờ "nỡm"
thâu băng mang ra tòa đòi bồi thường danh dự. Thứ "nỡm" làm gì có
danh dự mà đòi với chẳng đòi nhưng luật pháp ở cái xứ khốn kiếp này lại bênh những
hạng dơ dáng trơ truốc như thế. Rốt cuộc rồi cũng phải chịu thua nó. Mà danh dự
của nó có là bao, một đồng thì cũng chỉ đủ mua nửa cục xà phòng tắm cho bớt nhục.
- Bà không phải trả tiền luật sư à? Một người tò mò hỏi.
- Vì trả nên mới tức.
- Rồi tiền đâu bà trả?
- Thì moi trong túi thằng chồng nó chứ ai. Thằng khốn không dám đưa trước mặt vợ,
dấu dấu đút đút như ăn trộm nên tôi đâu thèm lấy. Năn nỉ tôi mãi không được nó
đi nộp tiền tòa một mình. Thứ ấy mà về Việt Nam thì tôi banh thây xé xác chứ đừng
tưởng qua đây rồi cứ quen thói úp rế lên trên nồi.
Câu chuyện bỗng dưng xoay qua mẹ chồng con dâu làm bà Cửu lúng túng khi nhiều
người hỏi về gia cảnh bà:
- Bà đang ở với con dâu chứ?
- Không, cháu ở xa lắm bà ạ!
- Vậy chứ "mẹ dâu" của bà không gọi phôn hỏi thăm hay phán xét gì hết
à?
Bà ú ớ, gọi thì có gọi nhưng lạt lẽo thế nào. Mỗi lần nghe tiếng Cảnh là bà bù
lu bù loa khóc nửa mừng nửa tủi, chẳng những không vỗ về an ủi, Cảnh gạt phăng
đi lại còn ngạo bà: "Làm gì bu phải khóc cho nhọc, mai mốt con về thăm thầy
bu mà! Vài giờ bay chứ mấy." Vài phút Cảnh còn không dám hy sinh nói chi đến
vài giờ. Tuần lễ may ra nó gọi được một lần, trợn trạo mấy câu rồi vội vàng
cúp.
- Vậy chứ dâu mới hay dâu cũ vậy bà?
Không thấy bà trả lời, một người ngồi đàng sau hỏi với lên. Bà quay lại nắm lấy
tay kẻ đồng cảnh ngộ với mình.
- Chúng nó lấy nhau từ hồi bẩy mươi. Hăm mấy năm rồi còn gì.
- Nếu nó trở mặt láo lếu thì mình hãy tức còn không thì cứ lờ phéng đi cho xong
tội, chẳng nhờ cậy gì được đâu bà ạ! Ngày xưa chồng nó cầm quyền thì mình mới
được làm mẹ chứ còn bây giờ đã đổi đời thì cứ gọi nó là mẹ cho xong tội. Bà ta
vừa nói vừa chép miệng chán nản cứ y như phong hóa suy đồi đã đến độ khiến mọi
người tán tận lương tâm.
Bà Cửu tuy mang tiếng mẹ chồng nhưng với con dâu bà lại thương như con đẻ và đối
với bà Cảnh cũng một lòng cung kính. Hồi còn ở với nhau, mẹ con chẳng bao giờ
than trách đến một câu nhưng thời gian đã làm phôi phai tình nghĩa. Người ta bảo
xa mặt chứ đâu xa lòng, còn Cảnh thì vừa xa đã vội cách vì một năm chỉ viết về
vài lá thơ thăm hỏi. Có trách sao không viết thơ cho cậu Bảo, dì Vân, thím
Quách, thím Bồng và họ hàng xa gần thì thư nào Cảnh cũng gom chung vào một lá,
được người này thì mất người kia. Họ trách Cảnh chẳng biết kẻ trên người dưới,
vậy chứ ai cũng bằng vai vế với những đứa cháu hay sao mà viết chung một giòng?
Có lần bà dặn Cảnh phải viết thơ riêng thăm hỏi từng người nhưng chỉ được hơn
năm rồi thì lờ luôn viện cớ càng viết thì càng bị bắt bẻ trách hờn. Cuối năm
vào những dịp tết Cảnh dồn chục dồn trăm vào mà hỏi thăm báo hại bà phải đi từng
nhà vừa đưa thơ vừa nghe những bà con trách cứ. "Ừ, thì dâu tôi như thế
đó." Bà buồn bã nhận bừa để khỏi phải nghe thêm tiếng chì tiếng bấc.
Chương 8
Tuy giận nhưng bà không để bụng còn ông thì lại để tận trong
ruột trong gan. Đi đến đâu hễ nghe người ta tâng bốc Nụ thì ông lại nhân cơ hội
dùng đòn độc phỉ nhổ con dâu. Ông đã tốn biết bao nhiêu tiền của rước Cảnh về
không lẽ để lên đầu thờ, để phủ lạy tung hô. Chết thì chết chứ chẳng bao giờ
ông lại ngửa tay xin nó dù chỉ đồng bạc. Tết năm rồi chẳng hiểu nghĩ ngợi sao vợ
chồng Phước gửi về một ngàn đô. Một ngàn đối với công sức dưỡng nuôi của ông có
nghĩa lý gì. Ngày xưa, ông nuôi Phước tốn biết bao nhiêu tiền của đến khi học
thành tài đủ lông đủ cánh thì bạc như vôi. Giá biết trước có ngày này ông đã để
nó ở nhà trồng rau xem con vợ Phước dám vác mặt vênh váo với ai.
- Qua đây ông thấy dâu và rể như thế nào?
Đám người tò mò không khai thác được bà liền quay sang ông.
Bà Cửu sợ ông vui miệng thố lộ nên gạt phắt đi:
- Ông mà cứ vớ vẩn luận điệu cũ là tôi về ngay.
Bà nói cho oai thế chứ biết lối đâu mà về, dù cho có lần mò
ra tới đường cũng sợ chó đuổi chạy xoạc chân. Chó Mỹ con nào con nấy to lớn như
trâu mộng, lại hung dữ bạo ngược chẳng khác gì giống chó săn thời quân đội Mỹ
kéo quân sang miền Nam. Bà nhớ mỗi lần di chuyển chúng trên xe cam nhông là bao
giờ cũng rào chung quanh bằng cọc sắt còn kiên cố hơn di chuyển tội phạm chính
trị. Đám chó bị nhốt nào chịu đứng yên mà chồm cao nhe những chiếc răng nanh sắc
nhọn như đe dọa tất cả mọi người. Mỗi lần xe dừng vì kẹt đường là đám chó nhảy
dựng cào cấu tìm lối ra, đôi mắt đầy sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống khách bộ
hành. Cứ nhìn sức mạnh và sự hung hãn cũng biết một con chó có thể vật chết một
lúc mười người là bà lại thấy sợ hãi đến độ lạnh gai cả sống lưng.
Hôm nọ ở nhà Nụ, bà ra ngoài dạo một vòng cho khỏi cuồng
chân. Khi đi ngang căn nhà có vẽ cái đầu chó dữ dằn, bà còn đang ung dung ngắm
nét bút của nhà "họa sĩ" chuyên nghiệp đại tài thì một con chó to lớn
từ trong nhà xồng xộc chạy ra. Cái cổng cao lớn vững chắc là thế mà nó tung cả
một khối thịt nặng nề vào làm những thanh sắt cứng rung lên bần bật khiến bà sợ
đến vỡ mật. Ba hồn chín vía bà cắm cổ chạy nhưng con chó không buông tha, nó
hùng hổ đuổi theo đến hết vòng rào. Cũng may còn có hàng rào cản trở chứ nếu
không giờ này bà đâu còn ngồi đây.
Ông Cửu có lẽ cũng không mấy hứng thú khi kể tội con dâu, nhất
là "trái nổ" vừa rồi như một kết án nặng nề thì dù dâu ông có xấu xa
cách nào cũng chỉ có thể lên tới chức "mẹ" là cùng.
- Cụ có cháu nội cháu ngoại gì không? Sợ không khí loãng, một
người khơi mào.
- Tôi có vài đứa cháu ngoại đã gả chồng, còn cháu nội tám đứa.
Ông Cửu uể oải trả lời.
- Vậy cũng may, tôi có mỗi đứa con gái mà đến sáu đứa cháu
ngoại. Chúng sanh ở bên đây mà chẳng kiêng khem cứ tò tò năm một. Mả bố chúng
nó, bố nó không biết dậy để đàn con một lũ toàn xí xa xí xô tiếng Mỹ với nhau.
Hễ sai nhờ việc gì là chúng giả vờ đớ người ra, đôi khi còn vô phép liếc trộm
mình. Hỏi chúng nói gì thì chúng lắc đầu quầy quậy "nothing." Ná
thinh cái thằng bố nó ấy chứ!
- Giời ơi, ông còn phước đức chán, một người xen vào, tôi chỉ
có mỗi thằng chắt mà vô vàn hư đốn. Bố mẹ nó xeo xẽo tiếng Mỹ nên ông con bắt
chước, gặp người lớn kẻ bé cứ "ai" với "du" hết ráo. Cả đến
ông cố nội nó cũng không từ. Mỗi lần bố mẹ nó dẫn ông con tới là tôi chỉ muốn
giơ cao chân cho nó ngay một đạp...
Ở hội, gặp nhau chỉ để giết thời giờ chứ thực ra những người mang tâm trạng và
hoàn cảnh như ông Cửu không thấy vui vẻ hay sáng sủa hơn tí nào. Qua Mỹ được
hơn hai tháng, mấy đứa cháu ngoại ở xa gọi xuống thăm ông được vài lần. Vợ chồng
Phước cũng hời hợt nên chẳng nói gì đến chuyện ăn ở của ông ngoài duy nhất một
lần gửi vài ngàn xuống gọi là sắm sửa quần áo và trả tiền ăn uống cho ông bà.
Có lẽ Phước cũng sợ ông bà mang tiếng phải nhờ vả vào con gái, cũng có thể muốn
chuộc lại lỗi lầm xưa nên lấy năm ngàn đồng bịt miệng. Tiền Phước cho thì tội
gì không lấy nhưng có dịp ông vẫn phải cho nó biết rằng đồng tiền đôi lúc cũng
không thể mua chuộc được tình nghĩa con người.
Vợ chồng Tâm ra chuyện số tiền đó lớn lắm nên bàn bỏ vào
"sê vinh", mỗi năm tiền lời cũng đẻ thêm năm, ba trăm bạc. Chúng đâu
hiểu mức tiêu tiền của ông rộng rãi và lẹ làng đến độ nào. Ngày xưa còn hái ra
tiền, mỗi mùa rau ông có dư cả đến chục cây vàng nếu không xài rộng thì tiền của
bó đâu cho hết? Người chết có mang theo được không hay lại để cho người sống hưởng
thụ kèm theo sự chê cười? Cả đời ông làm ra tiền với mỗi mục đích dâng cúng và
giúp đỡ kẻ đói khổ vậy mà có một số châm biếm cho là ông háo danh, là không có
danh nên cần phải mua danh. Mặc kệ, "Ở sao cho được lòng người. Ở rộng người
cười, ở hẹp người chê" người ta thấy ông có của ăn của dư nên ganh ghét đặt
điều là lẽ đương nhiên. Hơn nữa, ông đã bỏ công sức ra làm lụng vất vả chứ có
ăn cắp ăn trộm của ai mà sợ dư luận. Ông nghĩ chỉ có Chúa mới hiểu được lòng
ông chứ còn loài người và nhất là đám con ông ra chiều xót của, trách ông nhịn
mồm nhịn miệng không dám ăn chỉ gom góp tiền cho vay mượn. Ngay chính vợ ông
đôi khi cũng còn phải la lên:
- Ông cứ mang của mà đổ. Vợ Hưởng mượn có khi nào trả? Nợ trước
chưa nhắc đến bây giờ lại rước thêm cái nợ này nữa.
- Ôi, đời này chúng không trả thì trả đời sau, của thế gian
mà bà lo gì không biết!
- Mình làm ăn cực khổ, chắt chiu từng đồng bạc còn chúng ngồi
chơi không chỉ lo rình mò vay mượn.
- Thì nó nghèo nên mới phải vay mượn, có hãnh diện gì khi phải
xuống nước năn nỉ. Thôi thì mình cứ làm phước sẽ được thưởng công hậu ở nước trời.
Thế là xong, bất cứ điều gì thuộc về nước trời là bà chấp nhận
ngay. Y như rằng Chúa bắt con người phải tự đày đọa tấm thân, làm lụng cực khổ
để nuôi những miệng ăn chơi không. Y như rằng Chúa dậy phải thương yêu người ta
như thương yêu mình cho nên có bao nhiêu tiền của trong nhà phải có bổn phận
mang ra cho họ tiêu xài hộ. Ông bà Cửu cứ dựa theo những câu kinh hạt, những mười
bốn mối phúc thật trong nhà thờ mỗi ngày đọc mà đem ra ứng dụng ngoài đời. Tiếc
rằng ông bà không được đọc thêm sách và những giảng dạy riêng về phúc âm để hiểu
những thâm thúy của lẽ đạo. Theo đạo và tin đạo tự trong tâm hồn mỗi người chứ
nào phải đi lễ mỗi ngày mới là người có đạo, đâu phải chỉ khấn nguyện trong đền
thờ thì Chúa mới nghe thấy...
Ông bà Cửu sáng chiều đi lễ. Lễ sáng ông bà tương đối tỉnh
táo hơn sau một giấc ngủ dài nhưng hồn xác chia trí vì bụng cồn cào đói, chỉ
mong sao cho chóng đến lúc được rước Mình Thánh Chúa, lẩm nhẩm cho xong chuỗi hạt
và những kinh cầu là ba chân bốn cẳng rảo lẹ về để ăn điểm tâm. Lễ tối vất vả
hơn vì sau bữa cơm chiều, mọi đồ ăn tích tụ và sau một ngày làm việc nặng nhọc
vất vả đã khiến ông bà buồn ngủ đến díu cả mắt. Ngáp vặt vài cái là nước mắt
ông chảy cả ra, cố lấy thế ngồi cho thật thẳng, thật nghiêm trang, ông bấu vào
đùi từng cái đau điếng cho tỉnh ngủ nhưng chỉ được một phút, người ông lại rù
xuống và bắt đầu gật lấy gật để. Bà Cửu thì cũng không hơn gì, tuy đau lưng chỉ
quanh quẩn ở nhà nhưng như bị ma quỷ cám dỗ, hễ cứ lúc cha đang dâng mình thánh
là bà ngáy khò khò đến nỗi nhiều lần bà hàng xóm bên cạnh phải lay dậy để lên
rước lễ.
Thời gian sau này con cháu đi nước ngoài hết, ông bà chẳng phạm
tội gì ngoài tội nói hành con dâu và ngủ gật trong nhà thờ. Riết rồi mỗi lần giải
tội, hễ nghe tiếng ông bà thì thầm trong tòa là y như rằng Cha xứ biết trước sẽ
cho hai người đọc kinh gì để đền vì tội...
- Thôi thì không đến chúng nữa. Ông ăn cơm đi kẻo rữa hết rồi.
Bà Cửu đứng dậy mở nồi gắp con tôm kho lớn nhất bỏ vào chén cơm ông rồi chép miệng.
Tôi thấy ông cứ rầu rĩ hoài mà cũng buồn lây.
- Tôm ở đâu mà có thế?
- Của vợ Tâm ghé biếu lúc nãy. Tôi kho trước cho nó tươi rồi
muốn ăn chừng nào thì ăn. Những bốn đồng một "pao" chưa được nửa ký
lô ở Việt Nam. Thật còn mắc hơn vàng.
Nhìn con tôm còn nguyên vỏ cong vòng với lớp muối trắng bọc
chung quanh, ông gật gù:
- Kho như thế này ăn với nước rau muống vắt chanh mới ngon.
Con tôm cắn dòn sừn sựt, vừa ý tôi với bà nhưng cái Nụ lại không thích, nội lớp
muối bên ngoài đã làm nó bất mãn. Nó thích ăn những món vợ Phước làm, kho tôm
mà cho đường, tỏi, hành với mỡ vào thì tôi chịu thật. À! Mà bà có chừa một ít
bóc nõn kho cho nó không? Để như lần trước nó càu nhàu đến nhức cả đầu.
- Có cả rồi, ông cứ ăn đi.
Bà Cửu đứng lên dọn dẹp phần của mình bỏ vào sink rửa chén.
- Vợ Tâm bảo tôm luộc chấm muối tiêu chanh ngon không thua gì
cua nên tôi để nguyên cho nó vài con trong tủ lạnh.
- Sư con ranh rẽo đâu cả ngày tới bữa cơm cũng mất mặt?
- Thì nó có muốn nhìn mặt mình đâu. Nó sợ ông như mèo sợ chó.
- Ăn với nói, ông nhai lụng bụng miếng cơm trong miệng, cứ thế
lờn mặt cho quen.
Bà Cửu cười, cả khuôn mặt nhăn nhúm như quả trám khô:
- Không lờn mà dám nghĩ rằng ông sẽ quỵt luôn buổi dạo mát tối
nay.
Ông nghệt mặt nhìn vợ vì không hiểu tại sao lúc nào bà cũng
có thể nghĩ chuyện đi dạo trong khi cuộc sống chung quanh đen đủi hơn mõm chó.
- Bà chỉ bày với vẽ. Tôi hứa lúc nào mà bảo là quỵt với chả
quỵt?
- Cách đây nửa tháng ở trên hội, lúc mình đi dạo chung quanh
bờ cỏ ông chẳng nói là gì?
Nửa tháng trôi qua là chuyện cần phải quên, thêm vào đó sống
với nhau đã lâu sao bà chẳng biết là ông chỉ bông đùa?
- Ơ cái bà này, tôi cứ ngỡ nói chơi cho vui.
- Chơi gì mà chơi, thời buổi văn minh không hưởng thụ lỡ chết
thì tiếc.
- Bà lại sắp bày ra nữa đó. Thôi tôi chẳng nghe đâu.
Ông Cửu ngượng ngập lùa mau miếng cơm vào trong miệng để khỏi
nói những chuyện mà ông cho là chỉ có thể nghe trong phòng kín. Bà Cửu được thể
càng tấn công mạnh:
- Vậy ông chưa phải là Mỹ rồi.
- Thì tôi có nói tôi là Mỹ đâu.
- Nhưng ông bảo phải sống như Mỹ, phải biết hưởng thụ, phải
biết quẳng gánh lo đi để mà sống trong khi lúc nào tôi cũng thấy ông đăm chiêu
buồn rầu.
- Tôi buồn là vì ngày xưa mình còn làm ra tiền thì khối vạn
người cầu cạnh qụy lụy, đến bây giờ trắng tay có gặp chúng cũng chẳng thèm gật
đầu chứ đừng nói gì há miệng chào.
- Ông đã gặp ai đâu mà rộn thế! Thôi ăn lẹ lên rồi còn đi
hóng gió.
Dạo này bà Cửu bỗng dưng vui vẻ trẻ trung một cách lạ kỳ. Mới
nhập hội bô lão có vài tuần mà trông bà khác đi thấy rõ. Đúng là đàn bà! Chỉ
ham vui... Ông ngồi cười trong bụng nhưng miếng cơm cuối cùng chưa kịp nuốt
trôi khỏi cổ thì Nụ ở đâu xớn xa xớn xác chạy về.
- Báo động thầy ơi. Tối nay tụi housing tới xét nhà.
Được đàng chân, lân đàng đầu, ỷ y cha mẹ già ngu dốt không biết
nên càng lúc Nụ càng làm tới. Bất cứ điều gì để có thể tống khứ ông bà Cửu ra
khỏi nhà là Nụ không từ. Dạo này thằng Mễ lơ là với Nụ vì nó sợ trách nhiệm dù
trước cũng như sau vẫn chơi luật sòng phẳng giang hồ. Nhưng ái tình lậm vào làm
sao biết? Lỡ Nụ ghiền nó quá làm phiền phức sanh tội nên hắn lờ lững con cá
vàng cứ trưa hẹn tối, tối hẹn sáng mai quần Nụ như quần ngựa và thê thảm hơn
còn lôi cha mẹ Nụ ra bảo là kỳ đà cản mũi. Tội nghiệp Nụ và tội nghiệp những
người liên hệ với nàng.
- Xét thì xét chứ ăn thua gì tới mình?
- Nhưng thầy bu ở lậu mà!
Ông bà Cửu giật mình nhìn con trân trối trong khi Nụ nói như
một giải thích:
- Người bảo lãnh giấy tờ cho thầy bu là anh chị Tâm nhưng phải
có anh Phước cosign họ mới chịu cho qua. Theo nguyên tắc, nếu anh chị Tâm không
nuôi nổi thầy bu thì anh Phước phải có bổn phận.
- Tao tưởng nhà "hao dinh" đã cho thì mình muốn làm
gì cũng được?
- Đúng như thế nhưng chỉ mình con được xử dụng thôi. Như nhà
này một phòng thì chỉ một người ở.
- Thì mày cứ bảo là thầy bu tao ở tạm vài ngày.
- Ai mà chẳng biết nói thế nhưng cái thằng manager ở lầu dưới
nó báo thành ra housing mới đi xét đêm. Có chứng cớ rành rành nó sẽ lấy lại
nhà.
Ông bà lạnh cả người, nửa thương thân mình, nửa sầu giận đời.
Đúng là ở chầu ở chực nhà con như cá mắc rọ, càng giãy càng chết. Thôi thì đành
phó thác cho cuộc đời. Ấp úng mãi ông mới nói được một câu:
- Vậy... con... tính sao?
- Thì gọi chị Tâm đón xuống dưới đó vài hôm cho yên rồi trở lại
đây.
Nghĩ đến cái nền gạch bông và gương mặt khó đăm đăm của
Thành, ông buồn bã:
- Hay để thầy bu trốn ra ngoài hè khi chúng gõ cửa.
Nụ cau mày khó chịu:
- Làm gì phải khổ sở như vậy chứ! Thầy bu xuống đó chơi vài
ngày cho thoải mái như đổi gió.
- Nhưng tao không muốn đổi gió. Nó xài cái bếp quỷ gì mà vặn
hoài không được, lấy giấy mồi thì lại phun lửa phì phì thấy mà sợ. Thêm vào đó,
chúng đâu có cho bu mày nấu nướng, cứ ngồi như tù chờ vợ Tâm về.
- Ông nói làm gì đến điện đóm bếp núc cho lằng nhằng rắc rối
mà sao không nói thẳng là ở trên đó như bị nhốt tù. Dù nhà cửa sạch sẽ mát mẻ,
dù đồ đạc đầy đủ tiện nghi và dù cơm bưng nước rót nhưng tao với thầy mày nuốt
không vô. Bà Cửu chen vào.
- Không vô thì cũng phải cố nhét cho vô chứ con đã bảo ở đây
không được là không được.
Nụ đã có thái độ gắt gỏng làm ông Cửu cảm thấy bực bội và tự
ái, mắt cay cay:
- Theo tao nghĩ, chắc mày muốn đuổi đi nên bày ra nói thế phải
không con?
Vừa hỏi ông vừa kéo vạt áo chậm giọt nước mắt sắp sửa rơi.
- Giờ này thầy còn vặn vẹo như thế thì ai mà chịu được. Thôi
thì cứ để họ tới rồi thầy ra năn nỉ với họ, con lại nhà bạn ở cho khỏi bẽ mặt.
Nụ vùng vằng định dợm bước đi thì ông đã đứng dậy khóc bù lu
bù loa:
- Thôi để thầy bu đi cho con nở mày nở mặt với người ta. Nhục
ơi là nhục, tưởng sang đây đoàn tụ ai ngờ đi đến đâu chúng cũng xua đuổi như giống
chó. Nào tao đã ăn hết tiền bạc của mày mà mày nhẫn tâm thế hở con kia. Một
tháng trời ở đây ăn tiêu bao nhiêu mày ghi vào sổ. Ít ra tao cũng còn năm ngàn,
chẳng lẽ không đủ trả cho mày à?
Nãy giờ bà Cửu ngồi im, thấy chồng làm quá phải gạt đi:
- Sao ông bày ra đủ thứ? Nó chỉ bảo đi đỡ vài tối thôi. Nếu
ông không thích thì cứ tối chúng đón mình xuống ngủ, sáng sớm hôm sau trước khi
vợ Tâm đi làm sẽ chở mình xuống đây.
- Vâng, con cũng nghĩ như vậy, Nụ phân trần, ở đây đi hay ở
là chuyện quá thường như người ta thay một cái áo. Nếu không có vụ xét nhà thầy
bu cũng nên bảo chị Tâm chở đi chỗ nọ chỗ kia chứ ai đời qua Mỹ chỉ ru rú một
xó thì thật là uổng.
- Rú một xó mà cũng chẳng yên đấy con bạc bẽo ạ! Giọng ông Cửu
nặng nề chì chiết, chỉ khi nào tao nhắm mắt hai tay buông xuôi chúng mày mới
nghĩ lại là đã đối xử tệ bạc thì cũng đã muộn rồi.
- Thầy nhắc lại những lời cay đắng y hệt như khi xưa ông nội
đã phiền trách thầy như vậy.
Ông Cửu đứng phắt lên nhìn Nụ chết sững, làn da đang xanh
cũng đổi sang tái xạm. Bà Cửu hoảng kinh vì thái độ chống đối quá đáng của con
nên vội vàng đứng ngay vào giữa và đẩy Nụ ra cửa.
- Chúa tôi, sao mày chọc giận thầy làm gì vậy con? Đi ra
ngoài để tao năn nỉ xin lỗi ông ấy cho.
Nụ vùng vằng vì bị đẩy ngược, chân bước không vững:
- Con làm gì mà bu phải xin lỗi? Bu cứ để thầy chửi phủ đầu
cho quen riết ra đường không dám ngước mặt nhìn ai.
Nụ không dám ngước mặt nhìn ai thật bởi chính vì bị chửi mà
nàng chống đối bằng cách hủy hoại trinh tiết. Bây giờ thân xác đã tanh tưởi,
nàng đã trở thành đàn bà hẳn hòi mà cũng vẫn bị chửi, bị chà đạp là thế nào? Nhớ
lại hôm ngồi khóc ở lề đường, Nụ vung vẩy hai tay như muốn xông trở vào. Bà Cửu
sợ quá nói như khóc:
- Con nghe bu đi đừng làm lớn chuyện lối xóm cười chê là nhà
mình vô phúc.
- Vô phúc hay có phúc cũng mặc kệ. Con chẳng hiểu đã làm gì
nên tội mà thầy cứ mỉa mai trách móc mãi như thế. Thầy bảo con bạc là bạc cái
gì?
Ầm! Chiếc ghế gần ngay đó bị ông Cửu đá văng vô tường. Cũng
may ông còn đủ bình tĩnh không ném ra cửa vì nếu ném thể nào không trúng mẹ
cũng trúng con. Bà Cửu hoảng kinh khóc thét lên:
- Mày giết bu đi Nụ à! Thầy mày già cả chẳng còn sống bao lâu
nữa để cho mày trả treo đâu.
Nụ mím chặt môi, nỗi uất ức không thể trào ra mà chận ngang
nơi ngực:
- Bu chính là nấc thang để thầy trèo lên tác yêu tác quái và
xưa nay bao nhiêu năm trời cả nhà đều phải khuất phục trước sự hẹp hòi ích kỷ của
thầy bởi sự bao che của bu.
- Mày... Mày...
Bà Cửu đẩy mạnh Nụ ra ngoài đóng cửa lại rồi ngồi phệt xuống
khóc rống lên. Tiếng khóc lớn mạnh hơn bao giờ hết vì bà cố gào to lấn áp cả
hai cha con để ông đừng làm tới và cũng để đè sự uất giận của Nụ. Lần này, thêm
một lần nữa bà đã thắng...
Từ lúc đá chiếc ghế bay vào tường và từ lúc nghe tiếng gào
khóc của vợ, ông Cửu lảo đảo bước ra phòng khách ngồi như xác chết trên chiếc
ghế phủ khăn trắng nhưng lắng nghe mọi sự biến chuyển quanh mình. Ông nghe rõ
tiếng bà gào, thoạt đầu còn lớn, còn mạnh nhưng chỉ vài phút sau không thấy động
tĩnh gì bèn hạ giọng xuống và trước khi đứng lên mở cửa cho Nụ, bà còn lén quay
lại nhìn ông. Cái Nụ được mở cửa hầm hầm một mạch đi thẳng vô phòng. Tuy không
nói gì nhưng ông biết chắc chắn nó đã chịu một phép vì ngay sau đó bà Cửu chạy
theo bén gót khuyên lơn như mọi lần.
Quả đúng như vậy. Xưa nay bà là người giúp ông tỏ uy quyền một
cách đắc lực nhất mà có bao giờ bà biết được điều đó. Chính thái độ sợ hãi, nhỏ
nhẹ van xin của bà mà các con ông đều chịu im trong khuôn khổ. Sau đó nếu chúng
không quỳ trước mặt ông xin lỗi thì cũng không bao giờ dám tái phạm đến lần thứ
hai. Ông Cửu đâu biết rằng trong đám con ông chẳng có đứa nào nể sợ ông cả mà
chỉ vì tình thương mẹ nên chúng đã để những bất bình nằm xuống bên dưới tình mẫu
tử. Mười tiếng quát mắng của ông chúng không sợ bằng một tiếng khóc của bà. Nụ
thấy lòng đau như cắt:
- Vâng, bu già chẳng còn sống được bao lâu nữa nhưng thầy cứ
lấy thịt đè người.
- Thôi con ạ! Chiều thầy đi con, người già đổi tính khó chịu
có khác nào đứa con nít...
Bà Cửu dỗ Nụ như dỗ đứa bé ba tuổi chưa biết gì. Hết dỗ con
xong lại chạy đến với chồng, bà vuốt ve, năn nỉ ông như năn nỉ thế hộ cho Nụ.
Như vậy bà vừa là người giúp ông rất đắc lực lại cũng hại ông không phải là ít.
Bà đâu có ngờ những lời ngọt ngào đó làm ông cảm thấy ông hoàn toàn có lý. Ôi
những người đàn bà nhà quê, những người vợ chất phác thật thà, họ có ngờ đâu
tình thương và sự chiều chuộng không đúng chỗ đã làm cho chồng mỗi ngày mỗi khe
khắt thêm lên.
Nghe vợ năn nỉ ông Cửu vui thầm trong bụng nhưng vẫn ngồi im
làm nư. Những lúc này ông mới thấy bà là người hiền hậu tốt lành. Gặp người
khác chắc chắn ông đã bị hàng loạt câu chì chiết. Nào là sao ông lại thế này,
sao ông lại thế kia hoặc ít ra cũng vạch những sai lầm để ông sửa đổi bớt tính
khó khăn độc đoán. Thực ra ông cũng biết mình quá đáng. Chính ra ông nên coi Nụ
như một người bạn trong cách xử sự, dùng tâm tình cởi mở và lối sống hoà mình để
đi sát cạnh con mới có thể giúp đỡ hoặc chia sẻ những lúc đau khổ bởi số phận
kém may mắn của nó. Không phải qua Mỹ ông mới nghĩ đến điều này, ông nhớ khi
xưa mỗi lần đánh mắng con vợ Chẩn, thấy nó phủ phục đầu xuống để cho ông trừng
trị, tay ông đã muốn chùn lại. Có một cái gì tàn nhẫn độc ác dù rằng ông đánh
chỉ với mục đích răn dậy hoặc trừng trị sự hỗn láo nhưng hình ảnh khiếp sợ, đôi
mắt van lơn của nó như của con chó già vừa thoáng thấy bóng dáng tử thần. Ông
thấy ông đáng tởm, đáng khinh quá nhưng tham vọng uy quyền bao giờ cũng mãnh liệt
hơn đã thúc đẩy ông giơ cao cán roi...
Gần tối, Nụ gọi điện thoại sang cho Tâm đến đón trong khi ông bà Cửu lui cui dồn
mấy cái mền vào xách tay và mang theo bộ đồ ngủ để mặc thay đổi. Khi Tâm đến, mặt
nàng không mấy được vui vẻ:
- Thôi ra xe đi. Thầy bu còn lục đục gì trong đó hoài vậy?
Lúc này ông Cửu đang vui, vui vì còn có bà hiểu được ông và
vui vì Nụ đã e dè lánh mặt nên không để ý đến bộ mặt khó đăm đăm của Tâm.
- Chờ tao kiếm đôi vớ mà xỏ vào chứ xuống đó buốt chân lắm chịu
không được.
Bà Cửu ngước lên trả lời trong khi người vẫn lom khom mò trong
thùng giấy để dưới gầm giường.
- Đã sắp qua xuân rồi mà bu còn sợ lạnh. Đừng tìm nữa, trên
con thiếu gì.
- Của thằng Thành ấy hả? Nó sạch như ranh. Mượn rồi khi trả
nó quăng vào sọt rác như hôm nào. Ông Cửu xen vào.
- Ai bảo thầy trả làm gì những thứ hôi hám đó.
Ông Cửu tìm được ba đôi vớ sạch nhét vào bên hông túi xách.
Cái túi được dịp phình to trước đôi mắt dò xét của Tâm:
- Trời ơi đi ngủ có một đêm mà sao thầy mang dữ chừng thế
này?
- Không mang lấy gì mà đắp?
- Thì mền gối hôm trước con vẫn còn để ở garage chứ đã vứt đi
đâu.
- Kệ tao, nằm mền này đã quen hơi rồi.
- Nhưng..., Tâm ngập ngừng, ở đây dán nhiều lắm! Thầy có xách
tới anh Thành cũng không cho mang vào nhà cơ mà!
- Dán thì đã có sao đâu! Bà Cửu xen vào. Đêm nào mà tao chả
giết được cả chục con. Cứ để đèn ngủ mờ mờ là nó bắt đầu chui ra từ những khe cửa.
Mắt tao tinh lắm, vừa thấy lú hai sợi râu con, tao nắm chặt kéo ra bóp chết
tươi.
Tâm rùng mình:
- Khiếp! Ghê quá mà bu còn kể ra. Thôi đi cho nhanh kẻo lỡ họ
đến.
Bà Cửu nhìn đồng hồ:
- Còn sớm, chưa đến bẩy giờ mà!
- Nhưng con phải về vì đã cơm nước gì đâu.
Ông Cửu khệ nệ xách cái túi bự xuống thang lầu mặc dù Tâm lải
nhải đi theo ngăn cản. Thực ra, việc cản ngăn của Tâm không phải là không có
lý. Nàng chỉ sợ đồ đạc lồng cồng ông bà sẽ ở lâu, thêm vào lũ dán đi theo hộ tống
thể nào Thành cũng bắt để ngay ngoài sân mà xịt thuốc, còn không thì cũng phải
tống xuống garage chứ không thể nào vác qua được ngưỡng cửa nếu không có sự kiểm
soát vệ sinh của Thành.
Quả nhiên lúc đến nhà, dù ông Cửu cương quyết cách mấy cũng
phải thua lý thằng con rể. Thế là đống mền hôm nào ông bà còn ở đây được mang
lên thay thế. Cũng từ garage mà cái được coi trọng, cái không, có suy nghĩ lắm
ông cũng chả hiểu được. Nhưng thôi, Thành là chủ thì muốn vẽ voi vẽ chuột thế
nào mà chẳng được, còn ông là khách bảo sao cứ nghe vậy.
Theo chân con vào phòng ăn, ông bà Cửu ngồi xuống ghế đưa mắt
nhìn quanh, vẫn khung cảnh cũ và sạch đến lạnh người. Trên mặt bàn kiếng trống
trơn không bám một hạt bụi nhưng cái ông bà lo ngại nhất là bếp núc lạnh tanh
chưa thổi nấu. Trong khi Tâm mở tủ lạnh lấy thức ăn ra thì Thành đã mang ra hai
đôi vớ mới tinh đưa cho ông bà không quên dặn dò:
- Tối đến thầy bu đừng lấy muối xúc miệng nữa làm sao sạch được.
Hai bàn chải hôm trước con vẫn còn để trong phòng tắm.
Quay sang vợ, Thành tiếp lời:
- Em chỉ thầy bu cách nặn kem và xài bàn chải...
Suốt cả buổi chiều gây gỗ với chồng về chuyện ông bà Cửu đến
đây ngủ nhờ vài bữa, Tâm vẫn còn ức lòng nên dù Thành nói vô tình thì nàng vẫn
cho là mai mỉa. Còn đang tìm thức ăn trong tủ lạnh, Tâm đã đóng mạnh cửa gằn giọng:
- Anh nói cái gì vậy? Thầy bu em không biết xài những thứ ấy
hay sao?
- Ơ hay, anh đã nói động đến ai mà em phải rắc rối như thế!
Thấy Thành phản ứng yếu ớt, có thể vì trước mặt cha mẹ vợ,
cho nên Tâm dựa vào lẽ ấy bắt đầu chỉ trích:
- Tại sao nhiều cái anh lại hà tiện một cách cuồng điên như vậy?
Bàn chải đánh răng mà anh mua thứ vài chục cents, cứng ngắc làm sao thầy bu
thèm đánh?
Tâm không phải tay vừa, một tay đánh ngã chồng, một tay kéo
ông bà Cửu đứng lên. Quả nhiên bị đánh trúng nhược điểm Thành đâm ra ú ớ:
- Cứng mà sao anh xài được?
- Anh khác, em khác, thầy bu khác. Xưa rày em vẫn gửi thứ tốt
về nhà nên xài quen rồi.
- Như vậy đâu phải lỗi ở anh? Em đã biết thứ nào thầy bu hay
xài tại sao lại bắt anh đi mua?
- Em mà dám bắt anh? Chứ không phải hà tiện muốn mua thứ rẻ
nên dành sắm một mình?
Thấy vợ càng lúc càng làm quá nên Thành nạt lớn:
- Đừng có nói cái giọng điệu móc họng đó. Bằng nào thì bằng,
lát em mua dùm cái đi. Anh không muốn mang tiếng keo kiệt vài ba đồng bạc.
Bà Cửu nghe hai vợ chồng cãi qua cãi lại mà bắt rùng mình,
không phải vì những kể lể tính toán ti tiện mà chính vì sợ phải xài kem với cái
mùi nồng cay như xà bông, chưa cho vào miệng đã sực lên mũi. Thêm vào đó còn phải
khạc khạc nhổ nhổ, vừa mất thời giờ vừa tốn kém trong khi chỉ cần dúm muối quệt
vào đầu ngón tay trỏ, cho nó đi sâu vào các chân răng thì dẫu có đang bị sưng
nướu cũng vẫn phải khỏi. Hồi xưa không có kem chẳng nhẽ ai cũng hôi miệng hết
sao? Theo kinh nghiệm nấu ăn của bà thì muối khử mùi hôi, bằng chứng lòng bò,
lòng gà chứa cứt đái thối tha mà bóp vài lần muối là sạch ngay.
Lúc ấy cũng cùng một câu phán lệnh của Thành nhưng ông Cửu
thì lại nghĩ khác. Ông thích mùi kem đánh răng vì nó có vẻ Mỹ quốc nhưng lại sợ
cái bàn chải vì vừa đụng vào chân răng kêu rồn rột là bao nhiêu da gà trong người
ông nổi lên hết và cứ thế hơi lạnh từ sống lưng chạy lên đến gáy. Mỗi lần đánh
răng cứ như là một lần cạo gió thì sống sao nổi.
Còn Tâm tuy không biết nguyên do tại sao ông bà Cửu không xài
bàn chải đánh răng nhưng thấy chồng công kích và tỏ vẻ coi thường cha mẹ mình
thì nàng tức tối vô cùng. Người ta bảo một câu nhịn là chín câu lành, hơn nữa
có cha mẹ ở đấy Tâm không muốn đôi co vì sợ phần thua sẽ về mình nhưng nghĩ
Thành đã cố tình châm chọc, gây chiến. Nếu im lặng ra điều xưa nay nàng sợ chồng
và im lặng tức là để cha mẹ rước cái nhục vào người nên Tâm phải tìm cách bới
chuyện dù Thành đã nín nhịn gạt đi.
- Thầy bu em đâu có văn minh xúc miệng bằng nước hứng trong
tay như anh mà cái ly vừa mang vào xài anh đã xách ngay ra ngoài làm như bị vướng
mắt.
Thành đâu phải tay vừa, đang bực dọc vì đống mền gối kềnh
càng dơ bẩn phải ôm vào, giờ lại bị vợ ỷ thế đông lên chân nên chàng trả đũa:
- Anh đâu biết mang ly vô xúc miệng hay làm cái gì khác?
Biết Thành cố tình châm ngòi, mặt Tâm bừng bừng:
- Anh nói cái gì khác nghĩa là sao?
Thành thản nhiên:
- Thí dụ như tắm, gội đầu chẳng hạn.
- Anh đã làm như thế hay sao mà biết?
- Tại không biết nên mới cầm ra. Người mang vào không giải
thích thì có trời hiểu.
- Trong nhà xài cái ly mà cũng phải tìm anh giải thích, bày tỏ
nữa hay sao? Anh là gì trong cái nhà này mà mọi người phải sợ hãi, khép nép như
vậy?
Biết vợ sắp sửa kể lể dài giòng về việc nuôi báo cô mình,
Thành đấu dịu bằng cách quay ra phân bua với cha mẹ vợ:
- Thầy bu xem, vợ con bây giờ ương dở chịu không được. Tính
con thiệt thà có sao nói vậy mà nhà con cứ hay bẻ quẹo, gán ghép trăm điều tội
lỗi.
Nãy giờ ông Cửu cay đắng trong lòng vì bài học vệ sinh của thằng
con rể nhưng không tài nào xen vào câu chuyện đôi co của chúng. Bây giờ bất chợt
Thành khơi mào, không nhân cơ hội này mà quất roi vào mặt thì nó đâu coi ông ra
gì. Ông ra điều nhỏ nhẹ:
- Con ạ! Ngày xưa tao cứ mong ngóng cầu xin đêm ngày cho vợ
chồng chúng mày sớm có con để tao có cháu ẵm bồng. Nay mới thấy rằng thầy bu
đang làm một chuyện vô ích vì những kẻ quá sạch sẽ như mày sẽ muôn đời không
bao giờ có con.
Ông tưởng Thành sẽ tái xám mặt mày vì giận ai ngờ câu trả lời
đi ra ngoài sự tưởng tượng của ông.
- Thà không con mà sạch sẽ còn hơn sống dơ bẩn lúc nhúc như một
đàn heo. Với lại cổ nhân bảo "cây khô không lộc, gái độc không con."
Nhà con mang số sát tử nên sanh ra đứa nào là đứa đó chết nhăn răng.
Thành quá lời chứ Tâm bị xảy thai ở tháng thứ ba thì làm gì gọi
là sát con sát cháu. Vả lại chuyện này cả hai vợ chồng cùng đồng lòng dấu tất cả
mọi người cớ sao bỗng dưng lại lôi ra đôi co với cha mẹ vợ. Đúng là Thành điên
dại châm ngòi nổ, không hiểu hắn muốn giở trò gì đây. Tâm tái mét mặt nhìn chồng,
chân tay run lẩy bẩy như bị trúng gió, miệng lắp bắp:
- Anh... Anh...
Bà Cửu nghĩ là Thành quá giận mất khôn nói càn nói gỡ cho nên
không để ý những khúc mắc bên trong. Bà đến bên thằng con rể nắm chặt tay nó
nghẹn ngào:
- Đến chơi mà thấy chúng mày cãi nhau tao buồn lắm. Thôi con ạ!
Thí dỗ nó đi, vợ chồng có khi này khi khác, làm sao bỏ nhau được mà nặng lời với
nhau như thế! Các con cố gắng nhân nhượng nhau, thầy bu có sống thêm được cũng
là nhờ chúng mày vui vẻ hạnh phúc.
Tiếng khóc của Tâm vỡ lớn khi nghe mẹ mình giọng thấp giọng
cao. Thật ra Thành cũng không quá tệ nhưng đàn ông nóng tính, một khi bị vợ vặn
vẹo và bị bố vợ châm chọc thì hiền cách mấy cũng không thể giữ được lời cộc cằn.
Nhất là đang trong tình trạng thất nghiệp nên cái mặc cảm dễ bị méo mó. Riêng đối
với vợ, Thành biết mình quá nặng lời. Đâu ai muốn bóp mắt bóp mũi cho con mình
chết để nhận chịu tiếng gái độc không con. Nghĩ thế, Thành vòng tay qua vai vợ
và nói với ông bà:
- Thầy bu vào phòng nghỉ ngơi cho khoẻ, tụi con nấu nướng, dọn
dẹp một chút rồi mình ăn cơm.
Nãy giờ ông Cửu giận run. Giá như xưa kia có lẽ ông cũng quyết
làm một trận tan hoang cho thằng rể biết ông không phải là người dễ bắt nạt
nhưng tiếng khóc của Tâm và gương mặt đau khổ của vợ làm lòng ông chùng hẳn xuống.
Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, ông với thằng con rể choảng nhau thì chỉ vợ
con ông khổ. Thôi thì một câu nhịn là chín câu lành, ông gượng gạo:
- Thôi liệu mà thí dỗ nó con nhé!
Chỉ nói được có thế ông bước nhanh vào phòng, nơi mà cách đây
hơn hai tháng đã cho ông bà biết bao kỷ niệm đau buồn, khủng hoảng và thất vọng.
Ông Cửu đặt bao mền xuống giường rồi với tay kéo tấm phủ thẳng tắp không một vết
nhăn. Chiếc gối nằm ngay ngắn ở giữa, bộ drap mới giặt nên còn thơm mùi giấy
"Bounce." Bà Cửu nhìn ông cằn nhằn:
- Chúng sạch sẽ được như vậy là điều đúng chứ sao ông lại chê
trách kỳ vậy? Đi đến đâu ông cũng chỉ muốn kiếm chuyện hoặc ngồi trên đầu trên
cổ người ta. Hôm nọ bác Sáu bảo con dâu là mẹ dâu, vậy con rể là gì? Cũng là bố
rể vậy.
Ông Cửu ngồi xuống mép giường chua chát:
- Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Đàn bà
bên đây có giá chỉ vì lũ khốn coi trọng phụ nữ, kế đến là con chó, thứ ba mới
là thằng đàn ông. Đàn ông còn thua con chó!
TTT
Nửa đêm ông Cửu giật mình thức giấc vì tiếng Thành oang oang.
Tim ông đập mạnh như bất chợt nghe tin cướp đến nhà.
- Em đừng có nhiều lời, anh nói không là không.
- Dù không hay có cũng ngủ đi rồi mai tính, tiếng Tâm tuy nhỏ
nhưng cương quyết không kém, có mỗi chuyện đó mà cứ nói hoài.
- Đúng rồi, có mỗi chuyện đó mà cứ nói hoài. Thành nhắc lại vợ
nhưng đã hạ bớt giọng xuống.
- Để mai em cho một liều thuốc chuột là xong ngay.
- Anh không có đùa nghe chưa? Nếu em còn giữ giọng điệu đó là
anh gây lớn cho mà xem.
- Thì nãy giờ chưa đủ bể nhà sao? Anh biết bây giờ là mấy giờ
rồi không? Có khùng điên cũng phải cho người khác ngủ chứ!
Ông Cửu trở nhẹ mình, không hiểu chuyện gì mà chúng phải lớn
tiếng giữa đêm khuya như vậy. Ông mắc bệnh lãng tai nên nghe tiếng được tiếng mất,
thêm phần chúng tránh đề cập thẳng vào vấn đề nên khó lòng suy đoán. Mà thôi, vợ
chồng cãi nhau là chuyện thường, con người cũng phải có lúc này lúc khác chứ
không lẽ ai cũng là thánh cả.
Ông nhắm mắt cố giỗ lại giấc ngủ nhưng tuổi tác khá cao nên đến
cả mười lăm phút sau vẫn thấy tỉnh như sáo. Khát nước, ông ngồi dậy mò tay dưới
gầm giường tìm bình trà dã chiến pha lúc tối. Bà Cửu nằm gần chỗ đèn ngủ nên nổi
rõ cái dáng co rút trên ghế như con tôm khô. Chiếc mền được đắp tận lên cổ nên
hơi thở bà vẫn đều đều nhẹ nhàng. Ông mở nắp bình đưa lên miệng tu một hơi dài.
Nước trà lạnh ngắt lại ảm mùi nilon nên tanh tanh khó chịu nhưng ông vẫn nín
hơi ngửa cổ tu tới lần thứ hai, thứ ba rồi mới ngừng lại để thở. Bụng đói, dòng
nước chảy thẳng xuống ruột kêu ùng ục và chảy đến đâu, bụng căng ra đến đó. Thế
là như thói quen của mỗi đêm, ông rón rén mở cửa phòng lần mò về lối nhà vệ
sinh. Đang đi, ông chợt khựng lại vì tiếng Thành rõ rành rành:
- Anh không chấp nhận sống trong một căn nhà tràn ngập mùi nước
tiểu.
- Nội nghe không cũng hết chịu nổi, người gì mà nhây quá, có
một chuyện cứ bới ra nói hoài.
- Chỉ có nghe mà còn chịu không nổi, vậy chớ ngửi thì sao? Ngửi
ngày một ngày hai, vừa bước chân vô trong nhà đã mắc ói.
- Nhưng em đã lau rồi.
- Hừ, lau chỉ sạch ở trên bồn. Còn bốn chung quanh và những vệt
dài chảy xuống? Rồi nền nhà? Rồi khe cửa? Em lau hay thằng này phải xấp mặt xuống
mà chùi rửa?
Bản tính tò mò, ông nhẹ gót đi về phía phòng Tâm và ghé tai
sát vào khe cửa. Tiếng Tâm vẫn nhẫn nhịn:
- Thì đâu còn bao lâu nữa, một vài ngày thôi mà! Đã chịu đựng
được từ hồi nào đến giờ, không lẽ thêm vài ngày thiệt thòi cho anh lắm sao?
- Em đi làm từ sáng cho đến tối, tối về rúc chết trong phòng.
Hơn nữa cái mũi của em nó bị đặc rồi, nhưng cũng có thể..., Thành hạ thấp kèm
theo giọng cười chế diễu, cũng có thể em quen mùi nên đâu còn ngửi thấy.
Nhịn hết nổi, Tâm hét lớn:
- Em cấm anh nhục mạ em.
- Ai biểu cứ nói không sao. Anh nói thật, nước tiểu nhà này nặng
mùi đến nỗi bám trong tận cùng hốc mũi nên đi đến đâu anh cũng thấy cái hơi hám
đó. Nhức đầu muốn điên lên.
- Anh nói riết em nghe cũng muốn điên luôn. Thôi thì mai bảo
thầy bu về bên ấy rồi muốn ra sao thì ra. Cùng lắm chỉ trách thằng con rể bạc bẽo.
- Anh không có ý đó, giọng Thành hạ xuống thật thấp, tại sao
có một điều dễ dàng em không chịu làm là nói thẳng cho thầy bu biết cách ngồi
đi tiểu như thế nào.
- Em nói nhiều lần nhưng mắt thầy đâu có nhìn thấy rõ.
- Đừng nói chuyện sáng với tối, cái lỗ toilet bự như đầu con
bò mà văng ra ngoài thì anh không hiểu sao.
- Muốn hiểu thì cứ việc đứng rình. Giọng Tâm đầy bực dọc.
- Đừng có hỗn ẩu nha!
Thành quát lên làm ông Cửu giật nẩy mình và tim đập loạn xạ.
Loạng quạng, ông ngã ngồi xuống đất ôm ngực thở dốc. Bên trong tiếng Tâm oang
oang:
- Em hỗn hay anh hỗn? Ngày xưa, thầy bu cũng nuôi em cứt đái
tùm lum sao không ghê? Bây giờ thầy bu xin ở nhờ một vài ngày anh đã kể lể ỉ
ôi.
- Nhưng thầy bu đã liệt đâu? Bằng chứng còn cuốc đất nhổ cỏ
được mà! Nếu đứng mà văng ra thì em bảo ngồi xuống.
- Ngồi xuống? Anh nói cái gì? Đàn ông ngồi tiểu cho nó vọt
lên trần nhà? Không ngờ em lại lấy trúng con người bần tiện như anh. Trời ơi!
- Trời ơi cái gì? Thành rống lên như bò bị thọc tiết. Em xem
bồn cầu ướt như thế làm sao bu dám ngồi, rồi lại cũng đứng.
- Câm ngay, Tâm hét lên theo tiếng khóc, anh là thằng con rể
tồi bại, là một con người nhỏ mọn...
Tiếng Tâm đuổi theo từng bước chân run rẩy mà ông Cửu đang cố
kéo lết về phòng. Thật là bỉ ổi ghê tởm, cả cuộc đời từ Bắc vào Nam suốt mấy chục
năm chưa một người nào dù giàu sang uy quyền đến đâu cũng không dám nhục mạ ông
như thế, mà lại nhục mạ về sự dơ bẩn thiếu vệ sinh của bậc cha mẹ. Nỗi nhục trì
nặng đôi chân gầy, chận đứng đường gân cử động và phủ chụp xuống cả tấm thân yếu
đuối. Ông gập người bên chân giường, mồ hôi nhỏ hột và nỗi tức giận trong lòng
ông sùng sục sôi như muốn nấu chín cả tai mắt, luộc khối óc ông khiến nó căng
phồng với độ nở khủng khiếp tạo áp lực làm xây xẩm mặt mày.
Co rúm người lại trong tư thế chống đỡ dù không bị ai đánh,
ông vòng hai tay qua đầu và gục xuống, cố ép thân xác để miệng khỏi bật thành lời
than giải tỏa nỗi đau nhức nơi tâm tư, nhưng đôi mắt... đôi mắt vẫn mở trừng trừng,
quét từng vệt lửa bỏng rát xuyên qua cánh cửa phòng khắc nghiệt tuồng như muốn
đốt cháy thằng con rể đốn mạt đã dám buông lời xúc phạm danh dự cuộc đời ông...
dẫu chỉ là niềm hãnh diện thừa của những ngày còn sót lại...
Chương 9
- Excuse me, sir.
- Excuse me, sir.
Giấc ngủ tuy không được trong tư thế thoải mái, nhưng đang
ngáy khò khò mà bị đánh thức bởi tiếng léo nhéo bên tai cùng sự lay động mạnh vẫn
làm ông Cửu giật mình mở đôi mắt ngơ ngác lẫn mệt mỏi ra nhìn. Chiếc mũ nỉ đội
hơi xụp rớt xuống khi ông quay nghiêng về phía vợ:
- Đang ngủ không thấy hay sao mà lay với gọi.
Bà Cửu suỵt khẽ:
- Tới giờ ăn người ta gọi kìa.
Ông giật mình quay lại nhìn cô chiêu đãi viên hàng không đang
lép nhép chiếc miệng màu đỏ thắm với mình. Mặt ông đỏ bừng và lúc này thật sự
ông đã quên hẳn cuốn sổ nơi ngực áo, đã vậy cô tiếp viên vẫn chờ ông trả lời một
cách kiên nhẫn. Tự dưng ông cảm thấy bực mình quá, cứ cái điệu nghe tiếng Mỹ
như vịt nghe sấm trong khi mọi con mắt đều đổ dồn về phía ông thì làm sao chịu
nổi. Dù gì ông cũng đã già, đáng tuổi ông nội ông ngoại nó mà cứ nghệt mặt như
đứa trẻ lên hai chẳng biết một sự gì thì thật tủi hổ. Ngay lúc ông vừa định xua
tay ra chiều không muốn nghe cũng là lúc người Mỹ bên cạnh hạ dùm chiếc bàn
ngay trước mặt ông được nối liền với lưng ghế trước. Bà Cửu lanh lẹ không kém,
vừa thoáng nhìn thấy đã làm y hệt như người đàn bà tốt bụng vừa làm cho chồng
mình. Cùng một lúc hai khay thức ăn được đặt xuống, lúc đó ông mới tỉnh hồn và
thầm trách sự chậm chạp tối dạ của mình. Giá ông đừng ngủ thì mọi diễn tiến xảy
ra tốt đẹp chứ đâu đến nỗi "quê xệ" thế này. Nhìn khay đồ ăn rồi liếc
nhìn sang bên cạnh, bây giờ ông đã học được cái khôn là nên bắt chước những gì
người chung quanh làm...
Miếng khăn giấy được nhét vào cổ để che phần ngực, con dao cầm
bên tay phải, cái xiên và cái muỗng cầm bên tay trái, ông quay sang chỉ dẫn cho
vợ cách xử dụng theo lối Mỹ và thật ngượng nghịu khi mở miếng giấy bạc phủ trên
dĩa của mình còn hâm hấp nóng. Mùi thịt gà tỏa ra thơm phức nhưng ông thấy váng
vất vì ngoài ba cái gia vị khó ngửi lại còn tẩm bơ tẩm dầu ớn tới tận cổ. Hai
dĩa giấy nhỏ nằm kế bên trông khá hơn với vài miếng bông cải luộc, nửa củ khoai
tây nướng, một phong bánh tây lạt và một lát bánh mì mỏng. Ông ngán ngẩm nhìn
sang vợ rồi lại nhìn sang bà Mỹ khi nãy. Bà ta đang cắm cúi cắn miếng cá tẩm bột
trắng phau to gần bằng bàn tay còn bốc khói nghi ngút. Ông Cửu nuốt nước miếng,
thật xui xẻo, lúc nãy nó hỏi ăn gì mà ông không biết nên cứ gật đại làm cả ông
lẫn bà đều bị hai miếng thịt gà to tướng.
Thịt gà ông đâu ăn được. Chẳng hiểu sao ít năm gần đây hầu
như ông đã quên hẳn mùi vị của những loài động vật có cánh vì sợ ho. Có dạo
thèm ăn cháo bồ câu nên hàng xóm nghe tin biếu ông vài con mới ra ràng. Bà Cửu
làm theo lời chồng vật chết, vặt lông rồi đốt cho xém những lông tơ còn sót lại
và mổ moi hết bộ đồ lòng lại còn cẩn thận gỡ bỏ hai lá phổi, ấy thế mà ông vẫn
ho như cuốc rũ. Cơn ho kéo dài cả tháng làm ông vốn đã ốm lại càng ốm thêm. Nay
ông đi bác sĩ này, mai đi bác sĩ kia cũng chẳng khỏi, may mà Nụ cấp thời gửi về
thùng thuốc tây cơn ho mới dứt hẳn. Tuy có thuốc sẵn nhưng ông vẫn rờn rợn mỗi
khi định gắp miếng thịt gà. Nhà có đình đám không làm thịt gà coi sao được, mà
làm ra ông chỉ dám đưa mắt nhìn rồi lặng lẽ gắp vài miếng rau ăn cho có lệ. Đôi
lúc vợ Chẩn rảnh cũng chiên cho ông con cá chép vàng ngậy, loại cá không khó kiếm
nhưng lại tốn công làm, chẳng lẽ chỉ để riêng một chỗ ngay trước mặt ông? Mà
chiên cho cả khách thì công sức nào...
Bà Cửu có vẻ dễ ăn hơn ông nên nửa củ khoai tây và miếng bánh
mì mềm với confiture đã sạch nhẵn nhưng phải tội ăn bằng cái xiên nên vất vả
quá, cứ như đánh vật. Giá ở nhà, bà đã tự cầm tay bóc vỏ và đưa lên miệng ngồm
ngoàm cắn mới đã miệng.
- Ông không ăn đi à! Ở trên kia người ta đang đi thu dọn rồi
đấy!
- Mẹ sư nó. Vừa bưng đến chưa kịp ăn đã bưng đi. Ở Việt Nam
mà láo thế tôi chỉ có đạp đổ.
Bụng đói nhưng nhìn thức ăn nuốt không vào, ông tức mình lụng
bụng trong miệng làm bà mỉm cười trêu chọc:
- Ai sao mình vậy, ông giỏi tiếng Mỹ thì chửi nó đi.
- Đã vậy tôi không ăn nữa.
- Đừng có con nít. Dỗi không ăn nó còn mừng.
Bà chồm sang nhón mấy cái bánh tây lạt có bọc giấy bóng kiếng
và khoanh bánh mì gói vào chiếc khăn giấy:
- Tôi cất phần này cho ông, giờ thì ăn rau với củ khoai đi, vẫn
còn kịp chán.
Biết không ăn là thiệt phần mình nên nhìn miếng thịt gà ông
tiếc rẻ:
- Hay bà cất cả cục thịt này đi cho cái Dung ăn kẻo hoài.
- Chúng chẳng thiếu thốn gì đâu ông ạ! Mang đến chỉ làm trò
cười.
Giọng bà tuy ngọt ngào và lời nói chân thành nhưng lại khiến
ông nghĩ ngợi. Chẳng còn gì đau đớn bằng bị người khác nhất là con cái nhìn bằng
đôi mắt thương hại hoặc coi thường. Ông đi đến đâu mà lại chẳng chắt chiu tằn
tiện, không thế sao có của hơn những người khác nhưng đám con ông lại tỏ ra khó
chịu, nhất là cái Nụ, tính tình nó giống Mỹ đến độ ông không ngờ...
- Ông cố ăn một chút đi, mình còn đi lâu lắm coi chừng đói đấy.
Như một đứa trẻ ngoan ngoãn, ông chậm rãi bỏ từng miếng rau
lên miệng, rau luộc quá mềm nên mất cả hương vị. Vừa ăn ông vừa đưa mắt nhìn vợ.
Bà Cửu hôm nay trông thật khác lạ. Có thể vì lớp phấn hồng trên má nên trông bà
bớt cằn cỗi khô héo hơn. Ông nhìn đôi môi dính vết son đỏ như ăn trầu trêu vợ:
- Tưởng lúc nãy ăn xong bà đã chùi hết son rồi, ai ngờ...
- Ai ngờ cái gì? Ông còn về hùa với mấy đứa ngạo tôi nữa đấy.
Không đánh phấn mà được với con vợ Tâm à! Nó chẳng đè ngửa ra.
- Bà không xí xọn đứa nào đụng vào mặt bà được?
Bà Cửu mỉm cười, nụ cười thật duyên dáng mà từ lâu thiếu hẳn
trên môi. Không hiểu vì ông trêu ghẹo hay phấn son đã cho bà niềm tự tin mãnh
liệt. Bà nhớ trước khi đánh lớp phấn trên mặt, vợ Tâm đã cố năn nỉ cho bằng được:
- Bu ạ! Tụi Mỹ da nó trắng lắm. Mà ngay đến Việt Nam bây giờ
cũng vậy, chỉ nhìn màu da cũng có thể biết được qua đây lâu hay mau. Da bu vừa
đen vừa nhăn lại trứng quốc hơi nhiều, để con đánh một chút, một chút thôi.
- Nhưng mà, bà nói thật khẽ như sợ đánh thức con rể dù đã hơn
bẩy giờ sáng, tao già rồi, ra đường có ai thèm dòm ngó mà phải rộn. Hơn nữa qua
Mỹ lâu hay mau thì có phiền hà gì đến ai đâu.
- Phiền hà? Không phiền hà đến thiên hạ nhưng xuống dưới đó
anh chị Phước sẽ cười chúng con keo kiệt.
- Không đánh phấn mà bảo keo kiệt à! Sang giàu gì lũ chúng nó
mà phải bày vẽ.
- Dù không khá nhưng cuộc sống đã hoàn toàn theo Mỹ rồi. Bu
xem ở đây hầu hết là Việt Nam mà còn thay đổi như vầy trong khi vùng anh ấy ở
không có tới một mống thử hỏi khi thầy bu xuất hiện khác nào làm hề cho tụi Mỹ
nó cười?
Tội nghiệp bà Cửu, từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ có biết môi
son má phấn là gì mà qua đây bỗng chốc phải đổi đời. Bà cảm thấy khó chịu và
lòng bất an với gương mặt nhầy nhụa những bệt phấn lỏng ướt nhưng lại thấy háo
hức khi nhìn bóng mình trong gương. Mớ tóc bạc trắng rụng gần hết được bới lên
tới tận chỏm và gài gọn trong chiếc trâm cài bằng đồi mồi. Đến khi bà mặc xong
bộ vét màu cà phê sữa lợt, Tâm mới gật gù:
- Bu đổi lốt thành Japenese rồi. Như thế mới gọi là đi du lịch
chứ!
Đứng trước gương mặt bà đỏ ửng. Thật đúng như lời vợ Tâm nói.
Trông bà hoàn toàn xa lạ, không còn là bà Cửu với gánh rau nặng trĩu trên vai,
cũng không còn là bà Cửu mấy tháng trước ngồi băm rau heo còng xương sống. Con
người ta có chút son phấn, diện quần áo vào thì dẫu nghèo khổ xấu xí đến đâu
cũng biến thành người khác ngay.
Tâm thấy mẹ cứ thộn mặt nhìn bóng hình xa lạ trong gương,
nàng quay đi dấu nụ cười cho mẹ khỏi ngượng ngập rồi gỡ trên tay chiếc đồng hồ
đã cũ đeo cho bà:
- Bu đòi đi gấp quá chứ nếu không chờ con đánh chiếc nhẫn
vàng nữa là đủ bộ.
Tâm nói hơi quá vì đòi đi là một chuyện mà chờ mua vé on sale
lại là chuyện khác. Từ hôm đó đến nay cũng cả hơn tuần thì làm gì có chuyện
không kịp mua một chiếc nhẫn. Tuy nhiên vốn tính dễ dãi và không để ý, bà đưa
cao tay ngắm nghía chiếc đồng hồ với giọng cảm động:
- Thôi con ạ, mua sắm làm gì. Tay chân tao như vầy đeo vào
người ta cười cho.
Nói thế nhưng trên đời có người đàn bà nào lại không thích
đeo vòng vàng, nữ trang? Nhớ lại vài tháng trước hôm đi còn vài cây vàng lá ông
tặng riêng cho bà để sắm sửa. Lúc ấy bà cứ ngơ ngẩn vì không tin là sự thật. Ngày
xưa đám cưới bà là ngày quan trọng nhất trong đời mà ông Cửu chỉ dám mua cho bà
mỗi đôi bông hột bẹt với chiếc nhẫn trơn đeo đến ngày nay. Bây giờ lại dám tặng
bà những hơn hai lạng vàng để đánh đồ trang sức thì đủ biết chuyến đi với những
dự tính tương lai vĩ đại như thế nào. Bà đem sang chợ cho họ đánh sợi dây chuyền
nửa lạng, tấm lắc một lạng, đôi bông tai nặng trĩu nhận cẩm thạch và chiếc nhẫn
với mặt ngọc hình bầu dục. Đeo được mấy hôm còn đang sung sướng như lên cơn sốt
vì sự quá rộng rãi của chồng thì ông mở bữa tiệc chia ly. Đám con cháu xúm lại
đứa rờ sợi dây cổ, đứa vuốt ve đôi bông tai. Lại còn có đứa táo gan tự cởi ra
làm bà phải hét lên mà chúng nào có sợ cứ lăn xả vào. Đôi bông tai chia cho vợ
Chẩn, sợi dây chuyền cho dì, chiếc nhẫn cho mợ rồi còn tấm lắc với lũ cháu ruột
mười đứa hau háu mắt chầu chực. Đâu đành lòng để làm thất vọng cho bằng đó người
nên cực chẳng đã bà lấy kìm cắt đều cho mỗi vợ chồng chúng một khúc làm vốn
sinh sống. Thôi thì từ nay hết trách nhiệm.
Chiếc kìm cắt răng heo thuở nào ai thấy cũng không muốn nhìn
vì rỉ sét và dơ bẩn thế mà hôm đó bằng ấy con mắt đổ dồn như thể muốn nuốt trửng
từng nhát bấm của bà. Ông Cửu ngồi gần cũng không tránh được sự lôi cuốn nhưng
có điều mỗi tiếng tạch vang lên, tim ông lại thót đau như có ai bấu chặt vào da
thịt. Ông xót của nhưng không thể thốt thành lời vì chẳng những bà mà ngay
chính ông cũng đồng tình để bước lên cái bẫy vinh quang ca tụng mà vào giờ phút
chót ông nghĩ là sẽ thoát. Bà Cửu vô tư hơn, dù gì của cải đâu thể bằng máu mủ
ruột thịt cho nên mỗi tiếng tách, nhịp tim bà lại đập mạnh theo tình cảm đang
dâng ngút ngàn và nước mắt chỉ chực trào ra. Không ngờ đã đến giờ chia tay mà
bà còn được cái vinh dự ấy...
- Tiếc quá chẳng còn vật gì mà đeo trong người ngoài cái đồng
hồ chết tiệt này.
- Thấy chưa tôi đã bảo là bà thích đỏm dáng mà còn cứ cãi.
Ông Cửu đã quên hẳn số nữ trang của bà nên mới nói lạc đi như
thế. Thôi của đã cho có tiếc cũng không lấy lại được vì tình thương yêu bà con
còn nặng gấp mấy ngàn lần. Biết ông đang vui bà cũng vui lây nên cớt nhả:
- Còn ông thì sao? Nếu không xí xọn cũng đâu ai đóng bộ vào
người ông được.
Giật mình, ông Cửu nhìn xuống bộ đồ đang mặc. Bộ vét màu xám
lợt, áo sơ mi trắng có những sọc nhỏ màu xám. Chiếc cà vạt đậm hơn một chút tiệp
với đôi giầy da mũi nhọn và chiếc mũ dạ trên đầu. Đâu ai biết được những thứ
đó, ngoài trừ chiếc mũ dạ, đều là của Nụ mua sẵn cho ông cách đây bẩy năm về
trước. Cái quần hơi dài và rộng phải nhờ vợ Tâm sửa lại, còn thì y như may ở tiệm
mới lấy về, chẳng tốn đồng xu cắc bạc. Ông ấp úng chữa thẹn:
- Bà khéo vẽ bộ. Chung quanh người ta mặc đầy chứ đâu phải
mình tôi.
- Thì biết là chung quanh mặc đầy nhưng có ai đội mũ đâu.
- Ừ nhỉ!
Ông buột miệng nhưng rồi giữ lại được ngay. Ngày xưa, chỉ có
chánh tổng trong làng mới oai vệ trong chiếc áo dài gấm xanh, khăn đội và chiếc
gậy trúc nâu. Sau này tân thời hơn, họ mặc theo tây nhưng ít có ai đội mũ ngoài
trừ những ông bộ trưởng đi kinh lý miền xa. Thoáng chút hãnh diện về cách ăn mặc
của mình nhưng ông vẫn bào chữa:
- Mặc thế thì đã chết ai đâu.
- Qua đây không ăn vận đúng kiểu người ta cười.
- Ai bảo bà? Chính tay con vợ Tâm dẫn tôi vào "Sia"
lựa mãi mới được. Mũ dạ chứ giỡn sao.
Giống như Tâm, ông Cửu nghĩ rằng bất cứ món hàng nào từ chợ
Sears ra đều quý giá sang trọng, có thể biến đổi được diện mạo của con người.
Ông thò tay vào túi áo lấy ra cặp kính trắng mà vợ Tâm sắm cho khi vừa có
"mê đi keo".
- Cái ông này, người ta nhìn kìa!
- Kệ họ chứ, tôi ngần này tuổi đầu không đeo kính lão được
sao?
- Nhưng ông có đọc báo đâu nào.
- Cần gì đọc báo. Tôi nhìn bà không được à?
Hai gò má nhăn nheo tóp bọp bỗng chốc đỏ hồng, bà nhích người
ra cách một ghế lườm chồng:
- Rõ nỡm, chẳng còn son trẻ gì nữa mà ăn no rửng mỡ. Ăn đi
còn cho người khác dọn dẹp...
Hai nữ tiếp viên hàng không trở về ghế ngồi sau khi kiểm soát
hết một lượt dây cột bụng an toàn của hành khách. Tiếng tít tít vang lên trong
máy và những đèn chớp đỏ báo động mọi người trong tư thế sẵng sàng trước khi
phi cơ đáp xuống. Người nữ tiếp viên đã ngừng nói trên máy phóng thanh. Chỉ vài
phút sau, tiếng động cơ nhỏ hẳn và đột ngột ngưng lại như bị chết máy giữa chừng,
cả khối sắt khổng lồ, nặng nề tuột hẳn xuống rớt vào khoảng chân không. Ông Cửu
thấy ruột gan lộn lạo và máu chạy rần rật. Hai màng tai như bị ai bóp chặt
không cho không khí đi vào nhưng tiếng u u lại vang lên, nhọn và xoáy sâu trong
óc đến nỗi tưởng máu trong người đặc lại không còn chỗ lưu thông.
Bà Cửu thì tương đối dễ chịu hơn ngoài trừ bao nhiêu thức ăn
được dịp ào ào tuôn ra. Bà đưa cả miệng vào trong bịch giấy rồi cứ thế mửa thốc
mửa tháo cho đến khi bao tử trống rỗng chỉ còn chứa lại chất nước đắng màu
vàng. Đã tới mật thì đâu còn gì nữa mà ra, nghĩ như vậy nên bà túm vội túi giấy
bỏ xuống dưới chân rồi rút chiếc khăn trong túi áo cánh chậm nước mắt nước mũi
dầm dề trên mặt. Ai ngờ chưa kịp cất khăn bà đã gập người xuống, không kịp mở bịch
giấy, bà lấy khăn bụm ngay vào miệng và co quắp người lại. Lần này thì mật xanh,
mật vàng cũng theo nhau ra cho bằng hết.
Biết vợ cần mình trong lúc này nhưng ông Cửu cũng chẳng hơn
gì. Mắt ông nhắm nghiền, cố hít một hơi thật dài như sắp sửa lặn xuống nước rồi
ông thở ra rất chậm, chậm như khỏi tiếc nuối những phút đã phải nín hơi rất lâu
để hít vào. Người ông cứng đơ nhưng tai lại nghe rất rõ. Ông nghe tiếng thở gấp
rút của vợ, rồi thì tiếng khịt mũi, tiếng ọ oẹ. Phải cầm lòng lắm ông mới đè nổi
những đồ ăn chưa kịp tiêu hóa đang chực trào ra theo điệp khúc thôi thúc của vợ
mình. Thật khổ cho ông bà và cũng khổ cho tất cả những người già cả lăn lội đi
thăm con cháu ở nơi xa.
Cũng may, phi cơ đáp xuống nhẹ nhàng và mau lẹ như khi cất cánh lên. Tiếng cụp
vang lên vì bánh trớn đụng mạnh xuống mặt đường và cứ theo đà lăn nhanh trên phi
đạo. Mọi người thở ra cùng lúc máy phóng thanh vang lên, tiếng mở khóa bụng kêu
lách cách, tiếng ồn ào hòa lẫn tiếng động cơ tạo một âm thanh vui rộn rã. Tất cả
mọi người vẫn trong tư thế chờ đợi tốc độ giảm dần để rồi dừng bánh hẳn là đứng
bật dậy đổ xô về phía trước. Biết là không còn gì dập dềnh, chóng mặt nữa nhưng
ông vẫn lấy dầu bôi lên mũi và hai bên thái dương trước khi đưa qua cho bà. Lọ
dầu khuynh diệp như một loại amoniac, thoa đến đâu là từng thớ thịt sống lại.
- Lúc nãy tưởng ngất đi ai ngờ mửa ra được lại thấy nhẹ người.
Mà ông này, vợ Tâm có gọi cho vợ chồng thằng Phước ra đón mình không?
- Dặn rồi, việc đó bà đừng có lo cho nhọc. Cả một cuốn sổ điện
thoại tôi mang theo, không gọi cho đứa này thì cũng gọi cho đứa khác.
- Mà ông có biết gọi không? Bà hỏi với giọng đầy lo ngại.
- Có khó gì mà chẳng biết.
Ông nói cứng vì trong cuốn sổ vợ Tâm đã dặn kỹ ở trang thứ
sáu. Muốn gọi chỉ cần đưa cho bất cứ ai, nhìn vào đó họ sẽ hiểu ông muốn gọi
collect và họ sẽ giúp dùm. Bên kia đầu dây, khi nhận ra tên ông, con cái sẽ lên
tiếng tiếng trước và lúc đó ông chỉ phải nói tiếng Việt mà thôi. Bà Cửu trái lại
chẳng tin ông chút nào vì qua những gì đã xảy ra cho bà thấy rõ chẳng những ông
không nói, không hiểu mà lại còn hay đoán ẩu, đoán mò. Bà nhìn đám đông đi hàng
hai, vai đeo bóp, tay mang áo lũ lượt ra cửa.
- Mình theo họ ra thôi.
- Khoan đã, chưa chi đã vội cái bà này. Vợ Tâm bảo cứ chờ cho
họ ra hết hãy mở trang số bốn và đưa cho tụi tiếp viên coi. Họ có bổn phận gọi
máy cho người đến đưa mình đi.
- Còn đồ đạc thì sao?
- Cứ kệ họ. Bà ôm chặt cái ví tiền là được rồi...
Ông Cửu nhìn người khách cuối cùng đeo hai túi hành lý trên vai, nặng nề từng
bước và mất hút sau cánh cửa ra vào rồi nhìn xuống chân mình, cũng lình kình
hành lý mà thở dài. Mọi sôi động ồn ào chung quanh lắng xuống, có chăng chỉ còn
một vài tiếng chân khua động của những người làm việc có phận sự phải đi ngang.
Qua lớp kính trong vắt, thành phố đã lên đèn, ngàn vạn ánh đèn vàng hòa lẫn ánh
sáng tím, xanh ngoài phi đạo tạo thêm vẻ rực rỡ xa hoa của một đô thị sầm uất.
- Dễ cũng tám giờ rồi bà nhỉ?
Bà Cửu ngước mặt nhìn quanh quất trên tường cao, chẳng thấy
gì ngoài những máy ti vi trắng đen hiện đầy những chữ Mỹ.
- Ông có đồng hồ sao còn hỏi tôi?
- Mắt mũi thế này còn trông thấy gì?
Bà Cửu vén tay áo lên, chiếc đồng hồ sáng lấp lánh dưới muôn
ngàn ánh điện gắn trên trần:
- Tám giờ thiếu mười lăm phút.
- Sao chúng chưa đến bà nhỉ! Mình chờ đã có hơn nửa tiếng,
hay là vợ Tâm báo lộn ngày? Ông có vẻ sốt ruột.
- Thì chờ một tí đã sao.
- Hôm nọ...
- Hôm nọ khác, hôm nay khác. Vợ Tâm là vợ Tâm, thằng Phước là
thằng Phước. Nếu vợ Tâm là thằng Phước thì mình đâu phải vất vả lên xuống thế
này.
Ông Cửu ngạc nhiên khi nhìn vẻ quyết liệt và đầy tin tưởng của
vợ vì sự hân hoan trong ông đã hoàn toàn biến mất để thay vào nỗi hoang mang lo
lắng. Đầu ông xoay tròn với muôn ngàn dấu hỏi, nếu chúng không đến và nếu chúng
thay lòng đổi dạ? Ngay như cái Nụ tốt lành đến thế mà còn đối đãi với cha mẹ bạc
hơn vôi thì nói gì đến thằng Phước. Biết đi thăm con là dại, là hèn, là ngu ngốc,
là con chó rúc vào gầm chạn chực miếng ăn nhưng không chui vào đó thì biết đi về
đâu? Hai con đường cam go khổ nhục ông đã đi qua thì không lẽ con đường cuối
cùng ông lại sợ? Mùi vị cuộc đời ông đã nếm đủ, sự hiếu đáp của con cái ông
cũng đã tận tường, có nghèo nàn tệ bạc lắm cũng không thể hơn cái Nụ.
Nhớ lại lúc nghe lén vợ chồng thằng Tâm cãi nhau, cả đêm ông
trằn trọc không ngủ. Bên cạnh, bà cũng chẳng hơn gì vì vốn dĩ thính tai nên chỉ
nằm tại chỗ cũng nghe được tiếng vợ chồng Tâm cắn cấu nhau rõ mồn một. Có người
chia sẻ cảnh khổ nhưng lòng ông vẫn không vơi đau. Ông suy ngẫm lời vợ nói hôm
nào là con gái không phải con mình thế mà đúng. Dù thằng chồng có tốt lành, dù
cho con vợ có thương yêu cha mẹ một lòng cũng khó mà công khai tỏ tình thương
nhất là qua vật chất, có chăng chỉ là lén lút để trốn tránh sự khinh thị của
gia đình chồng và miệng lưỡi người đời.
Miệng đời thì ghê gớm vô cùng, có ít xít ra nhiều, có một nói
mười, nhiều khi còn dựng đứng câu chuyện để mà nói. Miệng đời là muôn ngàn mũi
dao phóng đến cắm ngay vào tim những bậc cha mẹ phải sống nhờ vả vào con gái.
Con mình, mình đẻ đứt ruột, nuôi cho tới ngày dựng vợ gả chồng thì lại thuộc về
gia đình người ta. Của cải, tài sản chúng làm ra đương nhiên được coi như thuộc
về giòng họ nội. Đời sao mà có lắm cảnh bất công trái ngược. Ấy là từ hôm xuống
đến nay chưa phải ngửa tay xin thằng con rể một đồng nào mà nó còn khinh bỉ, miệt
thị như vậy. Ông ấm ức thương cho thân mình rồi lại chợt nhớ đến dâu và thằng
con trai. Ý tưởng chôn dấu từ lâu bỗng vùng lên mãnh liệt. Phải trở về với
nó... Nếu con gái không phải là con mình thì con dâu là gì? Nếu con rể không ra
hồn thì tại sao không ở với con đẻ của mình? Tại sao đến giờ này ông bà vẫn u
mê, vẫn chỉ vì một chút tự ái cỏn con? Phải nói cho bà biết sự thay đổi của
ông... Chắc chắn phải báo cho bà biết...
Sáng hôm sau khi Tâm vừa thức dậy thì ông bà Cửu đã quần áo
chỉnh tề nằng nặc đòi trở lại nhà Nụ. Tâm tránh nhìn ông bà vì mắt nàng sưng mọng
nhưng cũng không hỏi nguyên do hoặc an ủi lời gì. Nàng nghe rõ tiếng cha mẹ
mình thở dài mà lòng xót xa.
- Thầy bu mang hết cả mùng mền về luôn à!
Ra tới nhà xe Tâm chỉ hỏi được có vậy rồi vội vàng phụ nhét
vào cốp sau cho thật lẹ như trốn chạy đôi mắt rình mò của Thành ẩn nấp đâu đây.
Về tới khu nhà Nụ trời vẫn chưa sáng rõ. Dọc theo chung cư im ắng như tờ, vài
con quạ đậu sừng sững như những oan hồn trên cột điện thoại kêu từng hai tiếng
một:
- Bạc bạc. Bạc bạc.
Trời thanh vắng nên tiếng kêu lạnh lẽo như buốt xoáy vào óc
làm Tâm ngơ ngác nhìn quanh.
- Con quạ kêu thế mà hay. Ông lẩm bẩm.
- Lại có điềm gì đây. Bà Cửu buột miệng.
- Bu chỉ nói gỡ.
- Không có gỡ đâu. Tuổi già sống nay chết mai biết đâu mà
tính. Thầy bu còn sống được ngày giờ nào con gắng mà trả hiếu.
Nói được có thế, bà mủi lòng khóc lên rưng rức. Tâm thấy lòng
xót xa, đau nhói. Trước cảnh này nàng chỉ biết bó tay, bên tình bên hiếu khó mà
chu toàn. Người ta bảo mất chồng còn kiếm được chồng khác, mất cha mẹ làm sao
kiếm được nhưng đối với thời xưa chứ bây giờ nhất là đối với riêng Tâm, mất chồng
là mất tất cả. Dẫu về vật chất Thành không giúp hoặc không đỡ đần gì cho Tâm
nhưng về tinh thần, tình yêu, Thành chính là cột trụ trong nhà chống đỡ từ mái,
tường cho đến những cơn mưa lớn hoặc giông tố. Đời nàng còn quá dài trong cuộc
sống gắn bó vợ chồng không lẽ vì cha mẹ mà đâm ra hục hặc cãi nhau cho mất hạnh
phúc? Cha mẹ già còn sống được bao lâu? Chẳng lẽ chỉ vì một thời gian ngắn ngủi
ấy mà phải chối bỏ cuộc đời của mình? Với ý nghĩ hẹp hòi, ích kỷ, chỉ biết sống
riêng cho mình, Tâm đã quên đi những cay đắng, chua xót của người sinh đẻ nuôi
dưỡng mình. Nàng xách hộ bao mền đến chân cầu thang lên chung cư thì đứng lại ở
đó.
- Còn sớm quá mà giầy cao gót thì kêu còng cọc sợ hàng xóm thức
dậy mở cửa mắng vốn. Thôi thì thầy bu ráng bảo trọng sức khoẻ con phải đi làm
cho kịp giờ...
Nói có thế Tâm quay ngoắt lại và bước nhanh. Ông Cửu nhìn
theo cho đến khi Tâm mất hút ở khúc quanh mới lặng lẽ như một xác chết vác túi
mền đầy mùi thuốc dán trên vai lê từng bước chân nặng nề lên từng bậc cầu thang
với gương mặt thất thần. Một đêm không ngủ mắt ông sâu hoắm, hai hố sâu quầng
đen như hai nấm đất vừa đào từ dưới ruộng. Ông rùng mình... Vợ chồng ông phải
xuống thằng Phước chứ không thể chôn xác nơi đây...
- Không khéo mình lạc mất rồi. Bà Cửu lo lắng vì trong phòng
lấy hành lý không còn một ai.
- Rõ cái bà này vớ vẩn, vậy chứ đây không phải là hành lý của
mình à!
Nói thế chứ lòng ông nóng như lửa đốt. Nếu thực sự chúng
không đến đón thì thân ông bà khác nào kẻ trôi sông lạc chợ. Quay trở về với
cái Nụ hoặc vợ chồng thằng Thành thì chắc chắn là không, mà về với mấy đứa cháu
ở Texas thì biết lối nào mà lần đến? Trong khi ông Cửu ngồi buồn rầu thì trái lại
bà lơ đãng nhìn ra ngoài đường. Qua ô kính khổng lồ bằng thủy tinh chắn ngang
ngăn cách giữa trong và ngoài, từng chiếc xe táp vào đón những thân nhân đứng
chờ sẵn, ánh đèn vàng cứ di động đến rồi đi chập chờn như đôi ma trơi trong
bóng đêm. Đã vậy đèn sau mỗi lần thắng lại đỏ rực khiến khung cảnh bên ngoài
như lộng lẫy mời gọi thêm. Lòng bà cũng rực đỏ và nóng hừng hực với bao nhớ
nhung chất đầy, hết tưởng tượng ra đứa cháu nội rồi lại đến vợ chồng Phước với
nụ cười rộn ràng và háo hức tưởng như trong đời chưa bao giờ có. Ngay lúc ấy một
đám người lố nhố, thấp có cao có, bước vào và xăm xăm đi về phía bà. Bà nhìn chằm
chằm vào khuôn mặt của người đàn ông lớn tuổi rồi hét lên:
- Ông ơi, thằng Phước...
Tiếng kêu vụt tắt, bà đứng bật dậy làm chiếc bóp đang để trên
đùi phóng xuống sàn. Những trái táo tàu trong bịch đã bị xé miệng khá lớn theo
đà văng tứ tung; bà khom người vơ vội vàng đến nỗi đạp cả lên chúng. Lúc đó Phước
chạy lại ôm lấy ông còn vợ Phước đứng sớ rớ bên bà:
- Bỏ đi bu ạ, không khéo lại dơ tay. Để con bảo cháu nó lượm
bỏ vào thùng rác.
Bà Cửu đứng lên nhìn người vừa thốt ra những tiếng nói quen
thuộc, vợ Phước, "Trời ơi" tiếng bà òa vỡ lớn, nửa mừng nửa tủi:
- Con ơi là con, bu cứ ngỡ đến ngày chết cũng không gặp được
chúng mày...
- Chúng con bất hiếu để thầy bu lặn lội đường xa cực khổ thăm
nom. Tiếng Phước oang oang.
Cảnh ôm lấy bà giọng bùi ngùi:
- Bu ốm yếu quá, cái lưng có bớt chút nào không bu?
- Chẳng đỡ đâu con ạ. Phải vác sự khó trọn đời mà thôi.
Mọi sự ồn ào sôi động chỉ xảy ra trong chớp nhoáng khi bất chợt
bà thấy có một cái máy quay phim cứ chỉa về phía mình.
- Họ làm gì thế kia?
- Bu ơi, cháu Dung đấy mà! Cảnh đưa tay ngoắc con:
- Chào ông bà đi con.
- Dạ, cháu chào ông chào bà.
- Con ơi, bà mừng quá. Thôi đừng quay nữa con, nghỉ cho khoẻ
rồi đưa ông bà về thăm nhà.
Lúc đó ông Cửu mới như người tỉnh mộng, ông buông Phước ra mà
nước mắt vẫn còn ngấn hai hàng:
- Cháu nội của ông. Cháu ơi...
- Thầy đừng khóc làm cháu nó sợ. Phước nắm tay ông như ngăn
chận sự xúc động.
- Không, ông đâu có khóc. Ông chỉ mừng cháu Dung thôi mà! Còn
vợ Phước đâu?
- Ối cái ông này, mắt với mũi. Đây, dâu ông đây.
Bà Cửu vẫn nắm chặt tay con dâu không muốn bỏ ra. Cảnh chào
ông thêm lần nữa:
- Con chào thầy.
- Thầy mày điếc đấy con. Ông ơi, nãy giờ con nó chào ông ba lần
rồi đấy! Giọng bà kéo dài ra.
Ông Cửu nhìn dâu, mặt gượng vui:
- Mẹ con chúng mày mà tao cứ tưởng bạn bè. Cái Dung lớn quá,
giá có gặp ở ngoài đường thì chịu chết thôi.
Bà cười sung sướng ôm Dung vào lòng:
- Cái con cháu cưng của bà có nhớ ông không? Con học tới đâu
rồi? Khi nào thì cho ông bà uống rượu đây?
Ngày đi Dung đã lớn, mọi hình ảnh quê nhà khắc sâu vào óc con
bé tám tuổi. Nó nhớ cây lựu đỏ rực hoa và những trái nặng trĩu cành ngay hàng dậu
tre, nhớ cạnh bờ ao có hai cây đu đủ xum xuê những quả và nhớ nhất là con chó
Bo to lớn sủa vang mỗi khi có ai đến chơi nhà. Dung cũng nhớ bà nội hay ngồi ôm
nó sau mỗi bữa cơm trưa bên cửa sổ nhìn lên cây vú sữa trắng bóng những trái.
Nó thèm vú sữa hơn thèm cơm nhưng bao giờ bà nội cũng bắt ăn hết hai chén cơm đầy
rồi mới bảo chị ở trèo lên hái. Hai chén cơm đầy với cái bụng bé xíu như nó thì
đâu thể nhét thêm bất cứ cái gì khác, vậy mà bà nó vẫn dụ ngon dụ ngọt. Lúc ấy
trái vú sữa không còn hấp lực vì chén cơm đã nguội lạnh và ngấy lên tới cổ.
Có hôm con bé ngồi vọc chén cơm gần tiếng đồng hồ. Cuối cùng
bà phải đổ cho chó rồi bắt cháu uống thay bằng ly sữa bò. Dung không thích uống
sữa con chim nhất là pha với nước nóng nhưng nếu không uống lát đi học sẽ đói bụng
vì ngày nào mẹ nó cũng chỉ cho có mỗi hai đồng đủ ăn ly chè đậu đỏ. Chè đậu đỏ
bánh loọc cũng không ngon nhưng mẹ nó cứ bắt ăn bởi mát bụng và no lâu. Vài lần
đầu Dung nghe lời, về sau hàng cà rem trông hấp dẫn hơn nhất là được quay sổ xố.
Cái đĩa tròn bằng gỗ sơn đen có những vạch nhỏ như mặt kim đồng hồ, trên đĩa vẽ
đậm mỗi hai số 2 và 4, còn bao nhiêu toàn là những vạch trắng. Bên hông đặt một
thanh gỗ có gắn miếng ruột xe cắt theo hình mũi tên. Dung tì cả người vào chiếc
xe cà rem lấy thế xoay vòng tròn thật mạnh rồi nín thở chờ đợi. Tim nó đập
nhanh khi mũi tên bằng cao su nảy tưng tưng trên những thân đinh đóng theo từng
vạch nhỏ, nhất là lúc vòng quay từ từ chậm lại rồi rề rề lửng lơ giữa cây đinh.
Những lần đó được quay lại, năm thì mười họa mới trúng hai cây nhưng cả người
mua lẫn người bán đều vui bụng vì dẫu không trúng nó vẫn được an ủi bằng một
cây cà rem vuông nhỏ hơn nửa lòng bàn tay. Lúc đó tay con bé đỡ cây kem một
cách trịnh trọng chỉ sợ rớt dù đã được ghim bằng hai cây que cứng. Dung tìm chỗ
khuất và đứng mút mát một cách ngon lành như muốn tránh tất cả những con mắt
thèm thuồng của những đứa nhà nghèo...
Hình ảnh đó đã qua mười năm nhưng vẫn còn in đậm đặc trong
trí nhớ, Dung ôm cánh tay bà reo khe khẽ:
- Cháu chào bà nội mạnh giỏi.
Bà Cửu thấy người mình run lên. Con bé nói đặc sõi tiếng Việt
lại thưa gửi chứ đâu có Mỹ như vợ Tâm vẫn thường nói.
- Bu hỏi chừng nào uống rượu thì cháu Dung không hiểu đâu, Cảnh
xen vào và kéo con gái lại gần ông Cửu, thầy xem cháu lớn như thổi. Mới ngày
nào thầy nhỉ!
Ông xúc động nắm chặt tay cháu gái cùng hòa trong niềm vui hạnh
phúc trùng phùng. Bà Cửu thấy ông khư khư ôm mãi con cháu bèn trêu:
- Về nhà mà ôm, người ta nhìn kìa!
- Cái bà này, ông cười với nét mặt hân hoan, hở một chút là
đe dọa. Chúng mày xem từ ngày qua Mỹ bu mày cứ bắt nạt tao hoài.
- Thì đã có sao đâu, lâu lâu cũng nên để bu lên tinh thần một
chút, vừa nói Phước vừa cúi xuống cầm hai xách tay kềnh càng nhất, bu đi đâu
cũng không bỏ cái tật gồng gánh.
- Có gì đâu, chỉ vài ba cái áo vợ Tâm sắm cho bảo dưới này lạnh
lắm không khéo lại chết cóng.
Phước chép miệng:
- Ôi, cả đời chúng nó có đi đến đâu mà biết nóng với lạnh.
Thôi mình ra lấy xe rồi về nhà ăn uống, lúc đó tha hồ trò chuyện.
Bà Cửu say sưa nhìn hai hàng cây trồng thẳng tắp từ chỗ đậu
xe đến hết con đường nhỏ dẫn lên tới bậc thềm. Những cánh lá xanh thẫm được cắt
tỉa theo vòng tròn như trái banh khổng lồ chạy suốt hai hàng dài. Dọc theo nó,
cách khoảng, từng cột đèn tỏa ánh sáng vàng mơ. Dưới ánh đèn, lớp lá óng ánh mịn
màng như pha trộn thêm lớp nhung tơ. Bà chợt cảm thấy lòng mình an bình và êm
ái không khác gì đám lá mềm mại kia, như những mầm sống vừa nhú lên. Đúng, nó vừa
hồi sinh trong một thân xác còm cõi khô héo.
- Ở đây khí hậu tốt nhỉ! Bà hít mạnh khí trời vào tận lồng ngực
rồi như chỉ muốn giữ yên ở đấy.
- Tháng này tiểu bang nào khí hậu cũng tương đối dễ chịu, còn
đang cuối xuân mà bu.
Từ chỗ mọi người đứng chờ ra chỗ lấy xe không xa nên chỉ năm
phút sau Cảnh đã lái xe đến. Phước đỡ mẹ lên trong khi ông Cửu đứng đàng sau
nên đủ thời giờ ngắm chiếc xe tuy to nhưng trông rất ngộ ngĩnh. Nó bóng loáng
và kẻ nhiều sọc ngang khác màu viền vòng quanh, đã vậy đầu xe lại nhọn và chúc
xuống như đầu con chuột chù. Ông buột miệng:
- Xe tốt quá, ở Việt Nam chỉ công ty du lịch mới có xe này.
Chắc là khối tiền?
- Đâu có là bao, chưa tới mười tám ngàn. Phước trả lời khi
quay lại đỡ ông bước lên xe.
Ông Cửu lạnh người, mười tám ngàn mà nó bảo không có là bao.
Không lẽ thằng này lại học thêm được thói khoe khoang? Từ hôm qua Mỹ, ông không
biết thêm gì về Phước cả, ngay đến vợ chồng Tâm và Nụ cũng ú ớ khi ông hỏi. Cứ
theo sự suy ngẫm từ trước đến nay thì Phước được ông liệt vào loại nghèo nhất
nước Mỹ. Thế mà từ lúc gặp cho đến bây giờ ông cảm thấy cứ như người đi trên
mây. Bao lo ngại e sợ chúng không thể nuôi ông không còn nữa mà thay vào đó những
sự so sánh ngấm ngầm...
- Thầy vào hẳn bên trong để con đóng cửa.
Ông Cửu theo đà kéo của Phước bước lên xe, mùi vải nhung và
thảm mới thơm nồng mũi.
- Xe mới mua hay sao mà thơm quá vậy? Ông ghé sát tai Dung hỏi
nhỏ vì nó ngồi chung ghế ở băng sau.
- Dạ, mua được một năm nhưng ít đi vì bố mẹ và con mỗi người
đều có một xe riêng.
Ông không tin ở tai mình nên cố gắng nhìn lên phía trên. Qua
hàng ghế chỗ bà Cửu ngồi, Phước ung dung dựa lưng ra sau để vợ lái. Bây giờ ông
mới có dịp chú ý đến vợ Phước. Tóc nó cắt cao như đám con gái choai choai trên
Cali, để hở cái cổ dài oằng với ba ngấn tròn mà ngày xưa mỗi lần giận nó, ông cứ
chửi là thứ ma cà rồng, ma lai rút ruột. Tay chân Cảnh đeo đầy kim cương, dù
trong đêm tối vẫn cứ sáng loé mỗi khi xe chạy ngang những cột đèn đường. Còn quần
áo thì... Ông nhớ ra rồi, lúc cả đám ùa vào ông thấy chúng ăn mặc sàn sàn như
nhau và nhìn con Dung chỉ như em của vợ Phước. Hèn gì thằng này riết róng với
cha mẹ. Vợ như thế thì tiền của nào còn? Ngay đến con vợ Tâm ăn chơi sang trọng
là thế mà có khi nào dám mặc cái váy chật cứng ngắc trên đầu gối dù phần trên
có kín đáo thế nào mặc lòng. Sang trọng gì với lối ăn mặc hở hang như mấy con
chiêu đãi, giàu có gì với nữ trang khoe đầy người không chừa kẽ hở? Con gái phải
ra con gái, đàn bà phải ra đàn bà, đâu có lối ăn mặc lố lăng con chẳng ra con,
bà chẳng ra bà, đã vậy má phấn môi son trét vào cứ như phường tuồng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét