Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Đuổi theo vệt nắng 1

Đuổi theo vệt nắng 1

Chương 1

Tâm không hiểu sao nàng lại có thể chấp nhận được cuộc sống bề ngoài cùng những sự nổ bậy của Thành từ ngày này sang tháng khác mà vẫn không có thái độ hay cảm thấy bất cứ sự phiền hà nào. Phải chăng bao năm Tâm cũng đã sống giả dối hình thức, cũng đã từng khổ sở và lo lắng che đậy như thế nên mặc dầu muốn tránh thoát mà vẫn không sao từ bỏ được. Nhiều lúc Tâm có cảm tưởng hình như những cơn mộng hão, những danh tiếng hờ có ma lực khiến nàng thích thú đắm mình vào và hình như cái bóng bẩy sang giàu bên ngoài vẫn lôi cuốn, vẫn làm nàng lao đao chạy theo hơn là tự lột trần sự thực không đẹp đẽ cũng chẳng ra gì như người vũ nữ già nua hết thời đứng trước gương nhìn bóng hình mình để tự thấy chán chê ghê sợ. Bao tháng ngày Tâm đã cố gắng dùng che đậy này chồng chất lên che đậy khác mà vẫn không dám sống thật với mình vì cái thật của Tâm nó tầm thường bé nhỏ và kém cỏi so với tất cả mọi người. Tâm nghĩ người mang mặc cảm xấu nên mới cố chưng diện, cười nói sao cho duyên dáng tạo sự lôi cuốn trong khi Tâm chẳng ra gì thì tại sao không dùng những hào nhoáng bên ngoài dát vào người cho bớt khuyết điểm? Có thể vì nghĩ vậy và không sao tự thoát ra được nên biết chồng dối trá mà đôi khi Tâm còn a dua, cổ võ để khích động với hy vọng Thành sẽ tiến thân bằng con đường tắt cho mau chóng bởi tuổi Thành cũng đã về chiều. Tâm cho rằng nhiều người nổi danh vì thực tài nhưng cũng nhiều kẻ nổi danh vì biết nắm giữ cơ hội. Giữa ngàn hoa, người ngắm sẽ ngộp mắt không hoa nào đẹp nhưng một cánh hoa vươn cao vẫn được chú ý hơn. Thành cũng thế. Chàng muốn là cánh hoa đập vào mắt mọi người mà không cần hương sắc. Chung quanh bạn bè gọi lén chồng nàng là Thành Nổ. Cái tên không hiểu bắt đầu lúc nào nhưng với Tâm, có lẽ nó khởi nguồn từ bữa tiệc tất niên, sau đám cưới hai người được một tuần. Chẳng biết men rượu làm ngà ngà say hay vì muốn nổ luôn với vợ mà giọng Thành oang oang:

- Sống ở Cali dân nào không biết nổ là dại.

Lúc ấy Tâm nhìn chồng ngơ ngác. Chẳng ai nổ mà ong óng cái miệng như vậy nhưng nếu thằng ăn cắp dám vỗ ngực xưng mình ăn cắp hẳn phải là kẻ phi thường. Tâm chú ý lắng nghe chồng tiếp tục:

- Làm người ai lại chẳng nổ. Không nổ ít thì nổ nhiều, không nổ nhanh thì nổ chậm. Có điều nổ phải nghệ thuật và có căn. Nổ nghệ thuật là tạo tiếng cười, tạo niềm vui cho mọi người. Còn nổ có căn là dựa vào cội nguồn gốc gác. Không phải ai cũng nổ được mà phải thuộc giòng dõi con ông cháu cha. Ông bành tổ tôi khi xưa là trạng Ngẫm, bạn thân với bành tổ trạng Quỳnh. Sở dĩ con cháu trạng Quỳnh tuyệt giống là vì lúc chôn không để ông nằm úp như lời ông trăn trối. Khi lính Pháp đi ngang đạp lên mộ, mọi xác chết bị lật lại hết chỉ có ông bành tổ tôi ung dung ngửa mặt nhìn đời...

Từ thuở nào đến giờ Tâm chưa hề nghe nói đến trạng Ngẫm. Nay bỗng dưng Thành lại gắn kèm trạng Ngẫm vào để nổ khiến Tâm lại thấy buồn cười. Có điều Thành mang mình ra làm trò cười nên chẳng ai bắt lỗi mà trái lại còn lắng tai thú vị.

- Hồi còn trẻ chung quanh bạn bè tôi đi học võ nhu đạo, còn tôi chẳng có võ gì cả mà cứ phóng lên nóc nhà vèo vèo như Batman. Với tài đó làm nghề đạo chích rất dễ dàng nhưng trời sinh mình ra đâu phải đầu trộm đuôi cướp nên cái tài đành bỏ xó.

- Sao anh không đi lính biệt kích đột nhập qua Bắc làm anh hùng độ thế? Một người nghe Thành nổ quá nóng mặt châm biếm.

- Đi lính thì giết được bao nhiêu giặc trong khi tôi đang làm giáo sư đào tạo cả ngàn sinh viên thành người hữu dụng sau này.

- Qua đây anh còn nhảy nóc nhà nữa hết? Coi bộ nghề này đi bắt ghen mướn ở các motel đã lắm à nghe, khỏi bị chó cắn.

Mọi người cười ồ lên vì Hải đá hậu khá hay ai ngờ Thành gỡ tài tình. Đúng là nổ có căn.

- Xưa kia ăn rau cá nên nhẹ mình chứ bây giờ nhậu bữa một toàn dê và bò làm gì có cánh mà bay nổi.

Nổ... Nổ... Nổ... Mọi người chết chìm trong những cơn nổ mang tiếng cười dòn dã vô hại. Được thể Thành càng làm già:

- Tôi dặn bà xã tôi phải gấp có thằng con nối giòng vì thứ nổ rất dễ bị tuyệt tự nên khi chết phải chôn tôi đứng thì xuống âm phủ mới thành tướng.

- Thôi ông ơi trên này làm dân nổ nghe đã nhức óc còn đòi xuống âm phủ làm tướng nổ nữa có nước điếc tai quỷ thần.

Lúc đó Thành nổ mới chậm câu chuyện lại để gắp thức ăn. Tâm ngồi bên cạnh thấy nhột nhạt vì một số coi thường Thành ra mặt nhưng lại có kẻ tỏ vẻ khâm phục. Riêng Tâm cưới nhau rồi, mặt trái của Thành cứ từ từ lòi ra như chiếc kim bọc trong vải. Ngoài đời Thành nổ những cái vô hại nhưng với Tâm, Thành đã nổ cú khá lớn mà cả hai cái nổ đụng nhau lại còn quyết sống chết vì nhau kể cũng lạ. Đúng là duyên nợ.

Quê Thành ở Nam Định nhưng Thành luôn cho rằng những kẻ vào nam trước năm di cư tập thể năm mươi tư là thành phần buôn bán giàu có và khôn ngoan. Qua Mỹ thêm một phen Thành nhắc lại cái quá khứ oai hùng của mình và luôn luôn tự hào với cái chức giáo sư dù rằng đã có nhiều người sang sau này nhận ra chàng chỉ dạy về môn thể dục ở một trường nhỏ khiêm tốn nằm trên đường Trương Minh Giảng. Thời gian đầu, chẳng ai biết Thành sinh sống bằng nghề gì nhưng đến năm tám mươi chàng đã có được một tiệm tạp hóa và một nhà rửa xe. Chẳng hiểu cái tên ông chủ tiệm đã khoác cho Thành vẻ trịch thượng khinh người hay tại xưa nay Thành nhìn đời bằng cái nắp vung nên gặp ai cũng coi họ như những giọt nước vương đọng trên nắp vung đó.

Thời gian ấy Tâm hay lại nhà Thủy nấu nướng, ăn uống, chè cháo đến khuya mới về. Thủy là bạn cùng hãng may với Tâm còn Đức, chồng Thủy, lại là bạn của Thành. Thủy không đẹp và người gầy đét, suông đuột như đàn ông. Trái với vợ, Đức điềm đạm, thâm trầm hơn và hay ngồi ở bàn xem báo để có cơ hội nhìn lén Tâm. Nhan sắc Tâm không hơn gì Thủy mà có thể tệ hơn nữa vì đôi chân quá ngắn nhưng được nước da mịn màmg và khuôn ngực no đầy, bằng đó đủ để những tên háo dục thèm thuồng. Tâm biết được cả ưu lẫn khuyết điểm của mình nên hay mặc quần ống rộng che đôi "sa bô" tấc rưỡi khiến đôi chân dài thêm ra và luôn mặc áo chẽn ngực ôm sát phần trên cho tăng vẻ lôi cuốn. Vài lần Thủy bắt được chồng nhìn trộm Tâm với ánh mắt thèm thuồng nhưng nếu nói ra thì lại không có bằng cớ chính đáng nên chỉ nuôi trong lòng những hờn ghen. Cũng may vài tuần sau Thành lớ ngớ từ dưới Los Angeles xuống Orange county dự đám cưới bạn và gặp cả hai vợ chồng Đức ở đó. Cơ hội bằng vàng, Thủy dùng môi mép mồi chài kéo Thành về nhà mình giới thiệu Tâm cho bằng được.

Hôm đầu tiên gặp Tâm, dù đã được Thủy dặn dò từ trước, Thành vẫn ngồi thản nhiên, ung dung trước thái độ niềm nở, vồn vã của hai người. Bữa ăn chẳng có gì ngon lành nhưng vẻ săn đón thái quá của Tâm cho Thành có cảm tưởng mình sáng giá. Lăn lộn khắp nước Mỹ, Thành chỉ thấy đàn ông phục dịch, hầu hạ đàn bà chứ chưa bao giờ thấy trường hợp trái ngược xảy ra nên lòng cũng hơi chút nao núng...

Thực tình Tâm không thủ đoạn và khôn lanh như Thủy nhưng nàng tin ở bạn có những bí quyết chinh phục đàn ông. Cứ nhìn Đức thì biết, người to lớn, tướng tá oai vệ như thế mà chẳng hiểu sao Đức lại cứ sợ Thủy vành vành. Tâm không mong sẽ được giống như bạn nhưng ít ra nhờ Thủy cố vấn cũng kiếm được tấm chồng khấm khá. Có điều tuổi tác của Tâm khá cao mà đa số những người cùng tuổi đã có gia đình, còn những thành phần lăng nhăng thất nghiệp thì Tâm đâu thèm để ý. Gặp Thành, Tâm thấy lòng xao xuyến ngay. Cái già không còn nằm trong vấn đề chọn lựa dù Thành đã có một đời vợ và hơn nàng bẩy tuổi. Điều làm Tâm điên đảo vì Thành đang mang một sản nghiệp to lớn và tiếng "giáo sư Thành" nghe thật trí thức mỗi khi có ai nhắc đến tên càng tăng thêm phần trịnh trọng. Xưa nay những người nhà quê như nàng nghe tiếng giáo sư, chẳng cần biết giáo sư đệ nhất hay đệ nhị cấp là đã sợ phát sốt. Từ xa vừa trông thấy giáo sư đã vội vàng ngả nón ra chào huống hồ gì Tâm chỉ học hết lớp nhất rồi ở nhà trông coi heo gà, rau rợ, cá mú.

Tâm vượt biên năm tám mươi ba và ở Sikiew hai năm. Nhờ ăn không ngồi rồi Tâm trở nên trắng trẻo, lại được quần áo trợ cấp nên váy dài váy ngắn cứ như đầm thứ thiệt, những vết chai sần ở tay chân theo ngày tháng ăn trắng mặc trơn cũng được bào mòn. Nàng lại dễ thích ứng hoàn cảnh, thích chưng diện, se sua nên khi sang đến Mỹ nàng đã cởi bỏ lốt lọ lem hoàn toàn.

Quen nhau chưa đầy một tháng thì hai người lấy nhau. Nhờ sự đánh bóng của Thủy mà Tâm bỗng nhiên trở thành con gái ông chủ đồn điền trà ở Bảo Lộc. Vậy mới môn đăng hộ đối, Thủy bảo thế, con gái ông triệu phú dẫu có xấu như ma lem mà lấy được ông chủ tiệm thực phẩm thì không còn ai dám đàm tiếu. Nào ngờ vừa rước nhau về, một sớm một chiều Thành đã lộ ngay bản tính keo kiệt bủn xỉn và nhất là cái mác ông chủ chỉ là mác giả vì Thành chỉ phụ làm công cho ông chủ, một tên bạn thân muốn ẩn tông tích vì còn ăn tiền giấy. Tâm uất ức nhưng không dám nói huỵch toẹt ra vì chính nàng cũng chẳng ra gì nên đã toa rập với Thủy để thổi phồng gia đình mình lên nhưng Tâm sợ tức nước vỡ bờ, biết đâu Thành tự ái lại chẳng làm liều bỏ đi thì còn gì danh giá cả hai. Thôi thì đã trót đành phải trét, đã phóng lao thì phải theo lao.

Dĩ vãng của nàng Thành không hề biết bởi vì Tâm khôn khéo che đậy còn dĩ vãng Thành, người ở thế trên, thế vững, biết vợ yêu và phục tùng mình nên Thành chẳng cần gì phải dấu. Khổ nỗi tuy không che dấu vợ nhưng lại muốn che dấu mọi người nên mới tội cho Tâm. Chung quanh ai chẳng nghĩ Thành chỉ có cái miệng nổ bậy bạ nhưng cái bụng rỗng tuếch. Thực tế đâu phải vậy. Những điều cần dấu chàng không hề hé môi nhưng lại bày vẽ tận tường cho Tâm làm, không làm thì lo chạy tiền, không chạy tiền thì cũng phải khích động tinh thần cho chàng hăng say trong công việc.

- Em nhé! Mượn cho anh...

- Mượn cho anh rồi kẻ trả nợ lại vẫn là em?

- Cha mẹ sắp sang rồi, chúng mình nên giữ thể diện một chút chứ!

- Thể diện gì với cái nền gạch khốn kiếp ấy.

- Nhưng không thay cũng không được vì lớp thảm nhà mình vừa hôi lại vừa cũ quá. Đây cũng là dịp để chúng mình rửa mặt với gia đình.

Lần nào mua sắm sửa chữa gì thì Thành cũng dùng tiếng rửa mặt để cổ động vợ và lần này Thành tin chắc mình sẽ toàn thắng. Rồi mặc vợ lải nhải, Thành cứ gọi đám Mễ về làm. Tính ra tiền gạch hết hai ngàn đồng. Tiền công cho hai người thợ phụ chưa hết một trăm bạc. Rẻ chán, nếu không khôn ngoan chạy bạy nhờ chỗ này móc nối chỗ kia để mua vật liệu rẻ thì mọi chi phí phải tăng lên gấp hai. Chỉ tội nghiệp cho Tâm lại thêm một phen chạy đôn chạy đáo mượn chỗ này vá chỗ nọ...

Dù biết cái nền gạch màu rượu chát và dù Tâm đã cố tưởng tượng ra vẻ rực rỡ của nó, nhưng buổi chiều ở sở nhận được điện thoại Thành gọi về thẳng, khỏi phải ghé nhà người em ăn nhờ ngủ đậu như mấy ngày qua, Tâm vẫn lặng người. Suốt từ trong ra đến ngoài trải toàn những viên đá cẩn bóng ngời, màu đỏ đậm làm mọi đồ vật trong nhà như sáng rực hẳn ra. Ngay lối cửa Thành trải miếng chùi chân màu xanh thẫm và góc bên phải đặt cái kệ cao treo giày dép. Tâm tuột giày máng lên và lột luôn đôi pantyhose cầm ở tay để tìm cảm giác trung thật nhất, hơi mát lạnh thấm vào lòng bàn chân.

- Mùa hè khỏi bật máy lạnh anh nhỉ!

Tâm nói hơi thừa vì nhà làm gì có máy lạnh để mở.

- Không ngờ ý kiến của anh thế mà hay. Chỉ ba mùa hè không bật máy lạnh là đủ tiền làm nền gạch hoa này rồi.

Vẫn không nghe Thành nói gì, Tâm ngồi bệt xuống đất mân mê từng ô vuông một.

- Tối nào oi bức em kéo gối nằm ngay xuống đây là ngủ được liền.

Không như vợ, Thành thực tế hơn vì khi có ý định thay thảm chàng đã nghĩ đến mùa đông sắp tới. Gạch có khác chi đá, vừa lạnh vừa buốt để nó thấm vào lòng bàn chân còn hơn ngâm dưới nước. Nhưng đâu hề gì, Thành to lớn mập mạp lại đang trong tình trạng cần nhịn ăn cho gầy bớt nên hàng ngày phải chạy bộ cả chục cây số cho bớt mập, gồng lên chống lạnh cũng là một hình thức chạy bộ. Chỉ tội cho Tâm đã nhỏ lại nhỏ thêm nhưng luật lệ cấm đi dép trong nhà chính Thành đã ban hành ngay từ lúc vừa rước dâu về đến nhà, bây giờ vì nó mà phá lệ thì Thành đâu còn được tôn trọng ở những luật lệ kế tiếp nữa...

Từ khi có cái nền gạch mới thì những vật dụng trong nhà trông cũ hẳn ra. Thành bàn với vợ mượn ít tiền sắm sửa cho khang trang mát mắt hơn.

- Em xem, đã rửa mặt thì phải rửa luôn cả chân. Không lẽ thiên hạ nhắc ghế vạch xem nhãn hiệu của nó? Bây giờ chỉ cần lái xe lên Los mua vài chục thước ren may viền bốn chung quanh là y chang đồ bán ở Gayfer. Rẻ được cả trăm đồng một bộ màn cửa chứ ít sao.

Tuy bực vì Thành chỉ thích vẽ chuyện ra mà làm nhưng Tâm không khỏi không phục về những sáng kiến độc đáo đó. Thói đời ai chẳng thích giàu có sang trọng để được sự nể vì hoặc những lời trầm trồ khen ngợi? Nhất là theo Tâm xã hội bây giờ con người được đánh giá trị qua công việc làm, bằng cấp, nhà, xe cho nên muốn bước vào giới thượng lưu phải có chút đỉnh kiến thức hay tài sản. Muốn quen với những ông tai to mặt lớn thì phải có nhà cửa đàng hoàng. Bên Mỹ cái nhà là giá trị tài sản. Tài sản rỗng tuếch khó có bạn thuộc giai cấp cao. Các ông các bà bây giờ khó phân biệt vì ai ra đường cũng đi xe mới, ăn mặc sang trọng, xách cặp da, bóp đầm thời trang, hột xoàn đeo lủng lẳng nhưng thật hay giả, giàu hay nghèo phải về nhà mới rõ được. Nhà ở năm mười người dồn trong một cái phòng hoặc ngăn năm sáu phòng cho mướn thuộc loại nghèo dù lợi tức thâu vào dư giả hàng tháng, chốn đô hội nào ai biết đấy là đâu. Bởi vậy chết sống, nợ nần không cần biết, những người có máu mặt xưa nay dẫu không có tiền cũng cố bóp chắt nhịn ăn nhịn uống để dồn hết cho căn nhà.

- Hết rửa mặt đến rửa chân rồi còn rửa gì nữa cho em biết luôn một thể để còn mượn nợ. Anh làm như bạn em là kho bạc dễ rút ra lắm đấy.

Thành biết tâm lý những người nghèo khi đi sắm đồ mà bàn tính đủ thứ thì chỉ có nước sắm hàm thụ cho nên chàng chỉ cười:

- Có vậy thôi chứ còn mua gì nữa bây giờ?

Được vài bữa, vừa may xong ba bộ màn cửa, chưa có dịp nằm ngắm tác phẩm độc đáo của mình thì Thành lại đưa thêm một sáng kiến mới:

- Mình dám sắm nhà, sắm xe mà không dám sắm một bộ salon thì bậy thật.

Kể ra Thành cũng khôn không mang bộ salon ra ví với màn cửa mà lại lôi những giá trị to tát hơn để so sánh. Quả nhiên Tâm thấy lời bàn của chồng hoàn toàn có lý nên chống đối rất yếu ớt:

- Nhưng mà...

- Trước sau gì cũng phải mua thôi. Mình không ngồi lên, không dày xéo thì nó vẫn mới tinh khác nào đồ chưng trong tiệm, ngừng một lát cho vợ thấm ý, Thành bắt đầu thủ thỉ, anh nghĩ em mượn đỡ bạn bè vài trăm rồi từ mai tiếp tục nhận hàng thêm về nhà may như dạo nọ thì trả mấy hồi.

- Anh không nhớ bác sĩ bắt em phải ngủ sớm? Giọng Tâm đầy hờn trách.

- Ngủ một, hai giờ sáng đã chết chóc ai. Giá như ngày xưa em chưa từng thức khuya thì còn có thể tạm tin. Mấy tên bác sĩ bày ra nói láo nói lếu để nuốt tiền cho dễ ấy mà!

- Nhưng thức khuya dậy sớm mệt lắm, em luôn ngáp vặt ở sở may làm thằng manager cứ lừ đôi mắt ngó chừng chỉ sợ em lủi vào góc nào đó để ngủ.

- Không thì thôi vậy, Thành giận dỗi, mai kiếm cái mền cũ phủ lên sẽ không ai nhìn thấy và cũng đừng hội đừng họp gì ở nhà này nữa.

- Mình là chủ hụi mà không cho người ta khui ở đây thì khui ở đâu? Vậy chứ những tháng vừa qua cũng ngồi trên bộ salon cũ đã có sao?

- Nhưng lúc đó chưa có cái nền gạch...

Lại cái nền gạch! Không ngờ nó rắc rối đến như thế, mới có hai tuần mà toi hết mấy ngàn bạc, nợ này chưa xong đã đeo thêm nợ khác.

- Hay là thế này... Tâm ngần ngừ... chiều mai tan sở em ghé tiệm vải mua ít thước về bọc lại, cũng mới và đẹp như ai.

- Thôi bà ơi, bà may đẹp lắm ấy, thợ không ra thợ, thầy không ra thầy. Nhìn mấy cái lưng quần em sửa cho khách mà anh xây xẩm mặt mày!

Tâm nguýt chồng, giọng chảy ra:

- Vậy chứ ai may những tấm màn ren kia?

- Ai mà chẳng may được, bốn lằn dài chạy vài đường là xong. Còn cái ghế em nhìn lại xem, phải tỉ mỉ khéo léo lắm nhất là những góc cạnh...

- Hay mình mang ra tiệm cho nó bọc...

Thành xua tay:

- Còn mắc hơn mua mới. Phần nhiều chỉ có những bộ ghế cổ đắt tiền họ mới bọc lại để lưu giữ.

- Em không tin, có mắc cách mấy cũng chỉ vài trăm bạc trong khi ghế mới tốn cả ngàn.

- Ai bảo vào tiệm cho tụi nó chém?

- Không mua ở đó thì mua ở đâu? Em không bằng lòng vào good will hay salvation army đâu.

- Mình đi chợ Mễ mua một bộ.

- Lại chợ trời! Cả một đống ghế thô kệch và cứng ngắc dòm là biết liền.

- Ngốc. Chẳng ai chú trọng vẻ thô sơ của nó nếu trên ghế có chừng chục cái gối nhỏ cùng màu đặt một hàng dọc.

- Nhưng gối ở đâu mà có?

Tâm tròn mắt ngó chồng nhưng đầu óc lại hình dung ra những bộ bàn ghế cực kỳ lộng lẫy chưng ở Sears với những chiếc gối ôm nằm một hàng dài thẳng tắp.

- Anh lại bắt chước ghế ở Sears, loại đó gần hai ngàn bạc.

- Chớ còn gì nữa. Mình lựa ghế màu xanh cỏ đậm, gối vừa xanh vừa rượu chát xen kẽ, đẹp chết người.

- Gối kiếm đâu ra mà đòi xanh với đỏ. Anh vào Sears nó chém hai mươi đồng một cái, mười cái hết hơn hai trăm. Toi tiền.

- Em không biết may à?

Tâm lại nghệt mặt ra và có lẽ Thành chỉ yêu vợ nhất lúc đó.

- Lại em nữa? Sáng dậy năm giờ cơm nước gói gém mang theo vội vàng cho kịp tới sở. Chiều ghé lại tiệm lấy đồ sửa về đến nhà sớm lắm cũng phải sáu giờ. Ăn uống tắm táp xong ngồi vào bàn may tháo tháo gỡ gỡ... Anh tưởng ăn được vài đồng của lũ dân nghèo không có tiền mua mới, phải nới ra bóp vào những cái quần cũ mèm dễ lắm sao?

- Thì có lúc này lúc khác. Bù lại...

- Bù lại anh nằm ngủ khò khò.

- Bậy bạ, Thành cười chống chế, lâu lâu lỡ ngủ quên có một lần mà em cứ hờn trách mãi.

- Không ngủ thì cũng nằm xem báo, xem ti vi. Sao anh sung sướng dư giả thời giờ còn em cứ đầu tắt mặt tối chẳng biết sau này có con rồi công việc sẽ còn khổ đến đâu.

- Mình chỉ ráng thêm thời gian ngắn nữa thôi. Lúc trước tự ý em may vì muốn có ít tiền gửi về cho cha mẹ chứ đâu phải do anh. Bây giờ ông bà già đã sắp qua thì tiền đó mình sắm sửa trong nhà. Sắm xong, số còn lại cũng hoàn toàn về em, lúc đó tha hồ mua cẩm thạch hột xoàn.

- Chẳng ham, Tâm lườm yêu chồng, ba cái nữ trang nghe anh dụ hoài mà có thấy đâu. Nay má anh hỏi xin cái này, mai mẹ em đòi thùng thuốc tây, chắc rồi cũng chết sớm thôi.

Thành cười hề hề ôm lấy vợ:

- Chết rồi đâu còn ai để anh bồng anh yêu...

Thành nhấc bổng vợ lên, nhẹ nhàng như nhấc một con búp bê đi vào trong phòng. Thế là Tâm quên hết nhọc nhằn, quên luôn bắt đầu từ mai trở lại tiệm may sau hơn hai tháng nghỉ việc và quên những buổi sáng mắt nhắm mắt mở vừa tuột xuống giường đã ba chân bốn cẳng lao đầu vào bếp nấu nướng, lồng phần cơm cho mình vẫn chưa đủ còn dọn sẵn cho chồng bữa điểm tâm trước khi đi làm...

Bộ salon mang về nhà được hơn ba tuần thì sở di trú gọi báo tin cha mẹ Tâm đã qua tới Thái Lan và đang chờ chuyến bay sang Mỹ. Tâm mừng nhưng cũng rối cả ruột gan vì nhà chỉ có hai phòng, một cho hai vợ chồng còn một cho khách. Phòng cho khách kê mỗi cái giường "một" mua ở garage sale từ ba năm về trước. Tâm bàn với chồng mua thêm một cái nữa cho đủ cặp để ông bà cụ ngủ trông thanh lịch một tí thì bị Thành gạt phăng:

- Biết ông bà già ở đây lâu mau mà mua cho tốn tiền.

- Không ở với mình thì ở với ai?

- Sao hôm nọ em bảo dì Nụ đã sắm sẵn giường chiếu nơi ăn chốn ở cho ông bà già rồi? Thành ngạc nhiên nhìn vợ.

- Anh tin cái con bụi đời, khố rách áo ôm đó hay sao. Dù nó có ôm một đống vàng, dù nhà nước có nuôi nó suốt một đời cũng vẫn là con tật nguyền. Cùng là phận gái nhưng em là chị chính ra phải...

Tâm bỏ lửng câu nói thở hắt ra rồi mới nhìn chồng trách móc. Thành tránh vội đôi mắt của vợ bằng cách đảo mắt một lượt quanh phòng:

- Cái phòng nhỏ quá, đổi giường đôi cũng không đủ chỗ nhét vào.

Tâm ngắt lời:

- Nhưng mà cha mẹ em già rồi đâu thể nằm chung một giường kỳ chết.

- Kỳ là cái chắc, Thành đốc thêm, tạm thời cứ để y như vậy, biết đâu nơi này không phải là tổ ấm của ông bà.

- Già rồi còn tổ chim tổ cò gì nữa. Tâm gắt khẽ.

- Hay tạm thời mình mua thêm cái sleeping bag để bu nằm kế bên?

- Ý sao được, Tâm hoảng hốt kêu lên, mẹ em bị phong thấp nặng nề, nằm đất có nước đi luôn.

- Không bà nằm thì ông nằm, ba cái chuyện lăng nhăng đó cứ nói hoài. Tóm lại, anh không muốn kê hai giường, cũng không muốn bất cứ ai nằm ở ngoài phòng khách.

Mọi lần bàn để mua sắm thì Thành mềm mỏng nhưng khi hạ lệnh thì nghiêm nghị và giọng lạnh như thép. Cái mệnh lệnh mỗi khi được ban ra là trái tim Tâm đập liên hồi. Hôm mang bộ salon về nhà nàng đã nghĩ ngay đến điều đó. Ít ra cũng là chỗ để ông bà cụ nghỉ trưa hay buổi tối có lỡ xem ti vi mệt mỏi lăn ra ngủ cũng chẳng sao. Ai ngờ bây giờ Thành lại ra điều lệ quái ác như vậy.

- Em cứ nghĩ ghế thay giường?

Thành vẫn khăng khăng một mực và lôi luận điệu tiết kiệm ra để thuyết phục:

- Hồi chưa mua mình đã tính là chỉ để chưng thôi, càng ít người ngồi thì càng giữ được lâu.

- Hay là em phủ thêm cái khăn...

- Đã nói không là không. Ghế chỉ để ngồi, muốn nằm ngủ phải đi vào phòng.

Tâm không tranh luận nữa vì đầu óc còn muôn ngàn điều cần phải lo lắng. Nào những đồ dùng lỉnh kỉnh, quần áo, giày dép, khăn mặt, bàn chải đánh răng và cả những thứ không đáng sắm vẫn cần phải có như bộ bình tích cũng làm Tâm bận lòng. Hôm nọ đi chợ Việt Nam, Tâm đáo qua đáo lại cả chục lần ở hàng đồ sành đồ gốm để ngắm nghía cái bình tích kềnh càng tráng bằng lớp men sứ vẽ vài hình con công con phượng "made in China" và cái vỏ để ủ với giá ba chục đồng. Cái giá quá mắc trong khi ở chợ Mỹ cả bộ trà cũng chỉ có mười lăm đồng bạc nhưng khốn nỗi bình của Mỹ không có vỏ ủ thì sao hợp mắt các cụ. Mà cái vỏ có đẹp gì đâu, được đan bằng những sợi nilon nhỏ như sợi cói, bên trong dồn bông goòng bọc vải vừa vặn để cái bình tích vào. Không mua thì sợ cha mẹ mình buồn vì gia đình Thành vừa qua Mỹ tháng trước cũng có một cái mà mua thì biết sao cho vừa lòng. Nhìn thì biết, các cụ đua nhau mua sắm, thích gì là đòi cho bằng được, từ bộ tranh sơn mài cho đến những thứ lẩm cẩm thật vô dụng như cái lồng bàn, cái nón lá v.v... Quần áo mua sẵn ở tiệm không chịu, cứ đòi phải may theo lối Việt Nam vừa mắc, vừa mất thời giờ. Cũng may Thành không phải đón về nhà nuôi chỉ vì ông bà già chồng sợ lạnh, không chịu nổi cảnh đi chân đất trên cái nền tráng men nên ở với người con trai thứ hai. Hai vợ chồng người em chỉ là technician nhưng làm việc lâu năm nên lương cũng khá. Tâm không phân bì với Thu nhưng nó là dâu mà dám sắm bộ bình tích cho cha mẹ chồng trong khi mình là con ruột lại tính toán từng ly từng tí...

Thế là hai hôm sau Tâm quyết định trở lại nhưng khi móc tiền ra trả thấy đau thế nào. Ba mươi đồng đối với Tâm không to lớn nhưng mua một thứ vô dụng và xấu xí để trong nhà thật uổng phí. Nhớ dạo còn ở Việt Nam, Tâm mua được chiếc bình thủy cũ của Mỹ, nàng cứ thắc mắc tại sao chiếc bình mỏ vịt lại bị ố vàng ở miệng rót, về sau mới biết người ta chứa nước trà trong đó. Bình thủy Mỹ tiện dụng là vừa xài lạnh và nóng, ngược lại cha mẹ Tâm lại cho rằng sức nóng của nó làm cho bã trà nở toét ra uống hết cả ngon. Tâm không nghĩ như thế nhưng ý thích của các cụ thì có trời hiểu nổi vì các cụ nói một đàng nhưng lại làm một nẻo. Thích uống trà nóng mà lại phải kiểu cách, màu mè trong bình tích vì như vậy mới diễn tả được vẻ thanh lịch của thú tiêu khiển. Nhớ hồi còn ở nhà mỗi lần uống trà với khách, cha nàng trịnh trọng giở nắp ủ lên, miệng xít xoa kêu nóng và rất thong thả, ông giơ cao bình rót ngay vào cái tách nhỏ nằm phía dưới. Độ cao làm tiếng nước chảy xuống kêu ròng rọc nhưng không văng ra ngoài tới một giọt. Cha mẹ nàng nghiền trà thì dẫu đi đến đâu, ngoài trừ chết, vẫn không quên được chiếc bình tích.

Tâm thở dài, nàng không tiếc tiền khi mua bộ bình trà mà chỉ vì không muốn cha mẹ mình ở chung. Nàng sợ cảnh đoàn tụ sẽ cười ra nước mắt và sẽ ăn nói thế nào với Thành về ông chủ đồn điền Bảo Lộc? Dù ông chủ đã bị kiểm kê và tịch thu trọn bộ tài sản sau năm bẩy mươi lăm, dù đã phải bỏ hết về Hốc Môn sống kham khổ vất vả thì vẫn còn lại cái cốt cách chứ làm sao có thể mất? Trong khi thực tế, từ ngày di cư vào trong nam ông bà Cửu sống chết với xứ Trung Chánh đã gần bốn mươi năm trời.

Tâm ái ngại và đâm ra ngượng với chồng, nàng nhớ lại bốn năm trước ngày đám hỏi, hai người cùng đồng lòng viết thư về gia đình để hai bên xui gia được gặp mặt. Gia đình Thành giàu có nên hôm đám hỏi, ngoài đồ dẫn lễ gồm có hai con heo quay, ba gánh xôi gấc, một mâm cau, một mâm trà, một mâm rượu và nhãn, xoài, cam, ổi xá lỵ đội từng thúng đầy lại còn trình diện họ hàng tông ti toàn bác sĩ kỹ sư v.v... Đàng trai kéo đến, dẫu đã thông báo trước, vẫn làm đàng gái méo mặt dù Tâm gửi về một ngàn dollars để cha mẹ nàng làm cho nở mày nở mặt với bà con lối xóm. Khốn nỗi họ hàng đã đông lại toàn thứ ăn bám nên khi được tin nhà ông Cửu có con gái gả chồng bên Mỹ thì dù không được thiệp mời, bà con xa gần vẫn cứ lục đục kéo đến từ hai tuần trước.

Tội nghiệp bà Cửu, già cả mệt nhọc nhưng vẫn cố giữ phong cách của một người có con ở nước ngoại nên ngày nào cũng lặn lội từ đầu trên xóm dưới vơ vét từng con heo đến con gà. Bên chợ cũng được một phen đắt hàng vì một ngàn đô chứ đâu phải ít. Lũ con cháu đói khát mười mấy năm liền nên những ngày đầu được bữa cơm trắng cá kho kéo ở ao về là đã thấy đời sung sướng hạnh phúc nhưng sau vài ngày ăn uống no nê, sức khỏe đã phục hồi thì đám gà qué nhốt trong chuồng mới là mục tiêu chính cho họ mỗi bữa ăn. Bà Cửu chẳng hiểu sao gà cứ lăn cổ ra chết, mà chết toàn những con mái tơ mập mạp để dành cho đàng trai thế mới kỳ! Ngày đầu ngả hai ba con rồi cứ thế tăng dần, gà dịch chết toi mà lũ quỷ ăn vào cứ mập mạp béo tốt, đã vậy tới bữa dọn ra chỉ toàn xương với cổ, làm ba con cũng xương với cổ, năm con cũng cổ với xương. Hai ông bà bảo nhau rình nguyên ngày thì khám phá chẳng có toi có dịch nào mà hễ cứ đến giờ trưa, sau vài tiếng kêu quang quác là cả chục con dãy đành đạch. "Chúng vặn cổ nó tại chỗ mà." Ông Cửu hét lên rồi vơ khúc cây đập lia lịa trên đầu thằng Võ, thằng cháu ruột gọi ông bằng chú "Sư bố nó, bố nó mà sống ông quật cả hai." Ông Cửu vừa quật vừa thở dốc còn bà thì bới trong đống rơm sau nhà toàn những đùi gà luộc béo ngậy, lại có cả xị đế và chén muối tiêu chanh. Tiếc của, bà đào ông bới cha lũ cháu đốn mạt khốn kiếp nhưng rồi đâu cũng vào đó, của thiên trả địa vì Tâm đã muốn nở mặt họ hàng. Con cháu tức là họ hàng, chúng được ăn thì mới sợ và nể phục ông bà. Và có như vậy mới khóa mồm cả lũ xưa nay vẫn lén lút dè bỉu con bà ế. "Đấy cho chúng mày biết, ngày xưa đứa nào bảo con bà ế! Ế mà lấy được chồng chủ tiệm, con nhà danh giá giàu có!"


Vì ăn trước như vậy nên ngày đàng trai đến đón dâu chỉ còn được vài chục đĩa nem trộn thính, vài chục đĩa thịt gà luộc và hơn một thúng xôi, giò thủ trong khi đàng trai nối đuôi nhau, người lớn kẻ nhỏ, lễ mễ gánh đội đi một hàng dài đến cả trăm thước. Họ hàng khách khứa, bà con lối xóm cộng lại trên dưới vài trăm người. Cũng may đồ sính lễ quá nhiều, bà "lại phần" một ít còn bao nhiêu cho mang hết xuống bếp chặt nhỏ xếp ra dĩa. Quang cảnh ngày cưới tấp nập nhộn nhịp như đám hội lớn. Bên cạnh, bà Lý cho mượn nguyên căn nhà gạch xây làm đám. Nhà lại có lầu nên khi bà Cửu gửi cuộn băng video sang Tâm cũng cảm thấy mát mặt với chồng. Ông Cửu hôm đó trông cũng ra phết với cái áo sơ mi trắng và cà vạt to bản bông sặc sỡ, bên ngoài khoác bộ vét màu sữa nhạt, tướng tá oai vệ như tổng giám đốc ngân hàng. Bà Cửu cũng đâu kém, bà mặc áo dài bông bằng nhung màu xanh đậm, bên trong là bộ bà ba trắng với hai ống quần rộng thùng thình, đầu không chít khăn mỏ quạ như thường ngày mà lại vấn tròn bằng chiếc khăn nhung cũng màu xanh làm lũ con nít mất nết bu theo chọc:

- Cô "râu" già đội rế hoàng hậu.

Nhìn lối ăn mặc dị kỳ xí xọn, già không ra già, trẻ chẳng ra trẻ nhưng Tâm vẫn thấy thinh thích. Thà dị kỳ còn hơn để lộ sự quê mùa ra. Thà xí xọn còn hơn phơi bày cảnh khó nghèo của muôn thuở trước...

Tâm ngại ngùng vì cái bình tích nhưng lại tự an ủi khi nghĩ gia đình Thành giàu có mà còn xài nó huống hồ gì cha mẹ nàng. Khốn nỗi người ta ở Mỹ Tho giàu cách mấy cũng là nhà quê còn cha mẹ nàng giàu nứt đất đổ vách ở Bảo Lộc. Dân Bảo Lộc, Đà Lạt đâu thua gì dân Sài Gòn... Nhưng thôi, lo quá cũng đến chết vì không còn cách nào nữa bây giờ. Cả năm nay Tâm đã tốn phí biết bao nhiêu tiền để cho cha mẹ cởi lốt. Nàng gửi những mẫu áo thời trang về cho chị dâu để dẫn ông bà đi tiệm may. Nàng gửi giày gửi dép, mua những xấp vải sặc sỡ và dặn đi dặn lại không được mặc quần đen, viện cớ màu đen là màu xui xẻo, tụi Mỹ rất kỵ màu đen, nhất là nó lại nằm ở phân nửa dưới của người đàn bà.

Dặn dò là thế mà hôm đi đón ở phi trường, bà Cửu mặc ngay cái quần đen chân què từ Thái Lan sang tới Mỹ, cũng may có hai vạt áo dài nhung tím phủ che phần trên nên đỡ được phần nào vẻ thô kệch. Ông Cửu tân tiến hơn trong bộ vét màu mỡ gà, tay xách cặp da đen của tụi con nít lớp ba nhưng cũng oai ra phết. Trong lúc Tâm lăng xăng xách cái nọ cầm cái kia thì Thành đứng khoanh tay lạnh nhạt, ánh mắt có vẻ ngỡ ngàng nhiều hơn là khinh thị. Họ như từ một hành tinh nào tới, líu nhíu tiếng bắc rặc khó nghe, đã vậy lại còn lùn hơn bất cứ người lùn nào và nhỏ thó hơn bất cứ ai nhỏ thó. Nhìn đàng sau người ta chỉ nghĩ là đứa con nít chín, mười tuổi trịnh trọng áo quần của buổi đại hội. Nhưng thôi Thành nào hy vọng họ khá hơn vì Tâm cũng đâu có cao chi nếu không đi vào đôi giầy tấc rưỡi. Ngày xưa Thành khoái mỗi lần hôn môi Tâm vì nàng hay bước cả đôi giầy gót nhọn lên giầy mình rồi nghến cao cổ lên... Được đàng nọ mất đàng kia vì muốn có những đặc biệt khác người, muốn được thiên hạ bàn tán xì xào như cái rốn của vũ trụ thì cũng phải chịu ít nhiều thiệt thòi, mà những thiệt thòi đó lại ở trong phòng kín nào mấy ai để ý.

- Anh ra lấy xe là vừa vì chỉ vài phút nữa người ta sẽ đẩy đồ xuống.

Thành cũng muốn đi ra ngoài cho thoải mái và nhẹ đầu óc vì cũng người bắc sao Tâm ăn nói ngọt ngào dễ nghe dễ hiểu mà ông bà Cửu nói cái gì đâu. Đã vậy bà cụ lại cứ nhào tới nắm tay Thành, bàn tay xương xẩu và nháp như giấy nhám.

- Bu mừng lắm, được thằng con rể như mày có chết cũng nhắm mắt.

Thành chỉ biết gật đầu cười trừ trong khi bà cụ ra chiều còn thích nói, bà cố nghến cái cổ ngắn cụt gào lớn giữa tiếng máy phóng thanh và tiếng ồn ào chung quanh:

- Cái máy bay lớn quá, suốt mấy ngày liền cứ kêu u u làm nhức cả đầu. Giá mang theo cái khăn vuông mà bum tai thì đỡ phải điếc.

Khi Thành ra ngoài, Tâm mới dám cằn nhằn về cách ăn mặc của ông bà Cửu. Nàng giằng cái cặp ông đang xách trên tay:

- Thầy vác cái giống quỷ này theo làm gì?

Ông Cửu cười gượng gạo:

- Thì mày bảo tao phải bắt chước y hệt còn gì nữa. Con vợ Chẩn đi khắp chợ Huỳnh Thúc Kháng cũng chẳng tìm ra thứ ấy, có một cái trông cũng tợ tợ nhưng mắc như ma mà có khác cái này là bao. Hàng quốc nội bao giờ cũng rẻ.

- Cứ quốc nội quốc ngoại mãi mà chẳng bỏ, thầy vào trong nam gần bốn mươi năm rồi mà vẫn không thể gột rửa được sự quê mùa của mình.

Ông Cửu nhìn Tâm bằng đôi mắt ngỡ ngàng vì không tin rằng xã hội văn minh đã biến đổi tính tình con ông mau như thế. Ngày xưa còn ở nhà dù Tâm đỡ đần trong ngoài và dù đi bỏ rau ở chợ mỗi sáng mang về cả đống tiền nhưng bố ra bố con ra con, nhiều khi giận ông còn vác cây đuổi đánh thế mà bây giờ mới tiếng tây tiếng u trọ trẹ vài ba chữ đã khinh tiếng mẹ đẻ. Tuy nhiên ông cũng gượng làm vui, chân ướt chân ráo sang đây không nhờ nó thì còn nhờ vào ai. Ông lấy giọng bình thường hỏi Tâm trong khi đảo mắt nhìn quanh:

- Chẳng ai đón thầy bu hết à?

- Thiếu có mỗi cái Nụ thôi, nó đi ăn đám cưới bạn bè mãi bên Canada, hai tuần nữa mới về.

- Rồi tối nay tao với bu mày ngủ ở đâu?

- Thì ngủ đỡ trên con cho đến khi nào nó về.

- Biết tao sang mà nó còn đi. Bạn thì bạn, tao với bu mày không hơn chúng nó hay sao?

Tuy ông lầm bầm trong cổ họng nhưng bà Cửu vẫn nghe được. Thường người già nếu mắt đã sáng thì tai rất thính. Bà bấu nhẹ vào tay ông, giọng nhẹ nhàng:

- Qua Mỹ rồi ông đừng chấp nhất như ở Việt Nam.

Ông Cửu lại không nghĩ như vậy. Không khó khăn, không chấp nhất làm sao đám con ông được trở thành ông nọ bà kia. Trừ vợ chồng Chẩn còn kẹt lại không nói, mặc dù nó giầu nhất xóm vì làm chủ cả một xí nghiệp heo "đi tơ", còn thì con ông ba đứa đang ở bên Mỹ đứa nào cũng khá cả, duy có thằng Phước thì hơi tệ. Ai đời qua Mỹ được hơn một năm mới gửi về duy nhất một thùng quà, con vợ nó véo von dặn đi dặn lại:

- Thầy để dành xài, đừng bán vì toàn những loại hàng tốt.

Ông Cửu nghĩ nó dặn mánh mung gì đó nên đống quần áo tuy thơm nực mùi vải mới nhưng ông chẳng dám bán và cũng không dám mặc. Cái quần có đến năm bẩy túi nặng chình chịch, trên rộng dưới túm chặt như quần thằng phỗng. Đôi giầy không nhọn mũi mà lại bè bè cái đầu bọc mủ mà lũ nhóc hàng xóm gọi là "ten nít su". Ông chẳng cần biết tennis là cái gì chỉ biết rằng nó quá vô dụng. Ông già rồi, quanh năm ngày tháng lam lũ với vườn tược, sáng cũng như chiều lúc nào quần cũng xắn cao, bùn ngập tới đầu gối mà đôi giầy thì trắng bóc, lại cũng không hợp nếu mỗi sáng chỉ dùng để đi lễ vì con đường đất tứ thời nhớp nháp, không vì mưa dầm cũng là đất bùn từ các ruộng rau kéo về. Cả làng ông ở đều trồng rau bán vùng Hốc Môn, Trung Chánh. Đứa lớn đứa bé vừa nứt mắt ra đã ăn rau, rau thay cơm, rau thay thịt cá. Mà rau có ngon chi cho cam, mọi thứ tươi tốt đều mang đi bán để được khá tiền, còn lại những thứ xấu hay quá lứa mới để ăn hoặc nấu cho heo gà.

Nhìn đống quần áo, ông thấy giá trị có mỗi khúc hàng soir đen may quần cho vợ, còn bao nhiêu thì đáng giá gì mà con dâu bảo để dành xài vì toàn loại tốt? Chính vì nghĩ như thế nên suốt ngày ông như người bị ma hành, cứ xăm soi thư dưới ánh sáng mặt trời rồi lại vào phòng tối đốt đèn lên mà rọi cũng chẳng thấy gì hết. Cho rằng nó tuy khôn khéo nhưng lại quá nhút nhát không dám viết chỗ dấu tiền đô. Chắc chắn như thế nên ông cứ từ từ lần lượt gỡ từng cái quần cái áo, rạch hằng chục mảnh ở cổ áo, túi quần để tìm tiền, ngay đến đôi giày mới tinh cũng bị đâm thủng tứ phía.

Vừa mất thì giờ lại vừa toi cả bao nhiêu hy vọng, ông bực tức sai thằng cháu nội viết một trang thơ dày đặc gửi sang chửi vợ chồng con cái nhà Phước. Ai ngờ con vợ đáo để đã chẳng xin lỗi hoặc gửi thùng khác tạ tội cùng cha mẹ chồng mà ngay đến thư từ cũng lờ luôn. Tuy giận lắm nhưng có chửi từ ngày này sang ngày khác cũng không hả, vả lại tiền cò tem đâu phải rẻ, vì thế thỉnh thoảng có viết cho con gái, ông kèm mấy giòng nhắn chửi vợ chồng Phước. Dần dần chuyện giận hờn cũng phai nhạt nhưng chắc chắn không phải tại vì mỗi năm vợ chồng nó vẫn thường xuyên gửi tiền về biếu ông tiêu tết. Tình cảm ông vẫn dửng dưng lạnh nhạt bởi vì có vài lần ông hỏi xin ít ngàn thì Phước tra gạn nào là thầy cần làm gì, tiêu những gì phải cho nó hay. Biết không thể dấu được ông đành xì ra:

- Tao cho người đóng hai cỗ hòm.

- Thầy đóng hòm làm gì? Sắp sang rồi mà!

Phước viết thư đối thoại như đang nói chuyện làm ông nổi cáu:

- Sắp sang là một chuyện, hòm sắm là một chuyện.

- Nhưng còn bộ hòm hồi xưa chúng con đóng tặng thầy bu đâu?

- Cái thằng ngu, trước kia mày nào đã là công dân Mỹ. Tao cũng nào có những đứa con sống vinh quang ở nước ngoại. Hơn nữa đồ quốc nội đâu bằng quốc ngoại nên tao cho bác Cả Phùng rồi, tội nghiệp chết chẳng có miếng ván.

Chương 2

Thư đi thư về đến hơn nửa năm thằng khốn gửi cho được sáu trăm bạc bảo là biếu tiền tiêu tết chứ hòm nó nhất định không cho. Thoạt đầu ông còn giận vì nghĩ nó chi chiết tính toán từng xu với bố mẹ, nhưng sau ông chắc chắn tại vợ chồng chúng nghèo. Vì chỉ có nghèo mới để thua thằng đánh heo cho vợ Chẩn. Thọ đi chui sau Phước ba năm bây giờ đã có vợ Mỹ. Hôm đám cưới nó gửi hình về làm cha mẹ nó nở mặt nở mày nhưng lại làm xấu hổ mặt ông. Trong hình nhìn Thọ phúng pha phúng phính và cái bụng to ễnh như Tàu phù. Nó đeo đôi mắt kiếng râm trông thật sang trọng, đã vậy con vợ Mỹ béo tốt bá cổ một bên. Vợ nó cao hơn chồng một cái đầu và được thằng đánh heo ôm bằng hai tay. Chỉ nhìn hình không cũng biết là chúng giầu có vì theo ông có tiền mới có ăn, mà đã ăn những của ngon vật lạ thì sao lại không mập?

Còn vợ chồng thằng Phước cả năm mới gửi về một tấm. Con vợ ốm đét mặt mày xương xẩu vêu ra, thằng chồng trông cũng chẳng khá hơn xưa. Ông nản, ông buồn rồi đâm ra thẹn với xóm làng mỗi khi có ai nhắc đến thằng con trai. Ở Việt Nam cùng lứa tuổi thì nó chẳng nhì cũng nhất và gia đình ông cũng đâu kém cỏi. Tuy làm rau làm vườn nhưng ông có nhiều ruộng đất, lại chịu khó làm việc. Hơn nữa vợ Chẩn khôn khéo kiếm về cho ông những đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc chết cha chết mẹ làm những công việc ngoài vườn nên chung quanh ai có khổ thì khổ chứ nhà ông vẫn có cơm ngày hai bữa. Bây giờ chẳng những thua mẹ con Thọ lại còn thua luôn cả những người có con ở xóm trên đi Mỹ, nhìn xem nhà nào chẳng có truyền hình màu, máy chiếu phim tại nhà. Còn ông gào rát cổ bỏng họng, vợ Tâm mới gửi về cho được cái ti vi màu sau khi cằn nhằn nghe đến nhức cả đầu.

Xem ra ba đứa con ông chỉ có mỗi cái Nụ là khá. Tuy tàn tật nhưng nó có nhà, có xe riêng, mỗi tháng chính phủ còn phải trả cho sáu trăm bạc tiền "hen đi cép" thì xài sao cho hết. Những sáu trăm bạc. Chao ôi! Ông đâu có ngờ con út tật nguyền hôm nào bây giờ lại giàu sụ và quyền cao như vậy. Chắc chắn nó phải làm lớn lắm nên chính phủ mới phải trả tiền cho đến suốt đời mà chẳng đòi hỏi bất cứ điều kiện gì. Tính Nụ lại dễ dãi, ông xin gì là nó cho ngay, radio cassette âm thanh tám chiều mười chiều cũng ở nó mà ra, rồi tiền bạc xây cất nhà thờ đền đài cho ông nở mặt với xóm làng cũng ở nó mà ra, ngày tư ngày giỗ đình đám kéo dài cả tuần cũng ở nó mà ra. Tính như vậy hàng năm nó chu cấp cho ông bà gần một ngàn chứ ít ỏi gì.

Qua Mỹ ông chỉ còn kỳ vọng ở Nụ và ông cũng nghĩ rằng sẽ ở chung với nó trong một căn nhà quá rộng mà theo nó kể cứ phải kéo bạn bè về cho đỡ buồn. Cái con chưa có gia đình nên ăn xài hoang phí, đúng là tiền chùa nên nuôi một đám cô hồn các đẳng. Qua đây ông sẽ ép nó vào khuôn phép thì số tiền dư hàng tháng còn lên cao tới độ nào. Và qua đây ông sẽ phải cho nó biết rằng ở đời phải đối xử trên ra trên, dưới ra dưới chứ không thể coi bạn hơn cha mẹ... Ông Cửu không bực bội lâu với sự vắng mặt của Nụ vì hành lý đang được máy đẩy xuống và xoay tròn trước mặt ông.

- Cái nào của thầy đâu? Tâm quay nghiêng hỏi ông Cửu, chỉ cho con biết trước, hoặc khi nó đến gần phải chụp ngay không thì vuột mất phải chờ đến "tua" khác lâu lắm.

- Được rồi, chưa gì đã rộn.

Lúc đó bà Cửu đang thích thú nhìn những chiếc va li xanh đỏ sặc sỡ xoay tròn theo vòng quay. Chúng giống như đoàn xe lửa chạy trên đường rầy mà ông bà vẫn thường thấy con ông chánh Đại, nhà bên cạnh, bày chơi dưới nền nhà trải đá hoa. Cái thằng có người chú thật là quý báu, hết gửi xe hơi, xe tăng chạy bằng pin kêu rè rè rồi lại gửi đến cả xe lửa. Vòng đường rầy rộng gần nửa gian nhà làm đoàn tàu cứ xình xịch tha hồ bò, thỉnh thoảng hú lên những hồi còi lanh lảnh. Những lúc nhàn rỗi, ông bà hay sang dụ thằng bé vài viên kẹo chanh. Nó vừa ngậm kẹo vừa bật nút cho tàu chạy nhưng bao giờ cũng vậy, tàu chỉ chạy được hơn nửa vòng là nó vội vàng tắt máy viện cớ sợ hết pin. Cái thằng đáo để, nhỏ tí tẹo mà đã biết mánh mung. Bây giờ chẳng cần dụ kẹo bà cũng vẫn có được những trò chơi thú vị vì trò chơi của trẻ nít đâu thể so sánh với trò chơi của người lớn. Đoàn xe lửa chạy pin đâu thích bằng nhìn những chiếc va li đang tành tạch nảy lên vì độ rung. Cái xanh cái đỏ, cái nằm dọc cái nằm ngang xoay quanh theo vòng bầu dục vĩ đại thế mà có cả đến hơn trăm người đứng nhìn. Ai nấy chăm chú dán chặt mắt như bị thôi miên và tai lắng nghe những tiếng bịch bịch phát ra từ một ô vuông đẩy thêm những chiếc túi xách rớt xuống vòng quay.

Thật có đi ra ngoài mới nhìn thấy cái hay cái lạ. Nhớ hồi tới phi trường Thái Lan, thấy mấy cô tiếp viên hàng không thanh lịch trong bộ đồ vét mầu xanh đậm, cái áo ngoài bó chẽn lấy eo và rộng ở vai, cái váy ôm sát mông vừa chấm đầu gối để hở đôi chân thon dài. Họ đi qua đi lại, đi lên đi xuống làm bà nhìn say mê. Hồi xưa mấy người đi ngoại quốc về cứ bảo vòng quanh thế giới chẳng thấy gái nào đẹp bằng gái Việt Nam. Chưa đi nên bà tin chắc như vậy nhưng khi ra nước ngoài, cái đẹp của người Việt Nam không còn mang cho bà những tự mãn vì cùng người Á đông sao mấy cô tiếp viên này trông nhàn hạ, sung sướng quá, không tất ta tất tưởi, không vất vả lo lắng như những tiếp viên ở Việt Nam. Rồi đến hành khách ngoại quốc cũng vậy, ai cũng điểm trên môi nụ cười hoặc nét mặt thơ thới phè phỡn. Bà để ý một vài người xách cặp da, ăn mặc đóng bộ cũng như ông Cửu nhưng phong thái họ khác hẳn, nhất là dáng đi thong thả, ngực ưỡn ra và mặt hếch cao như chưa hề biết đói khổ hoặc lo lắng là gì. Còn chồng bà và những người Việt Nam đi cùng chuyến thì tất ta tất tưởi bên những túi xách, mắt dáo da dáo dác như sợ chung quanh sẽ có ai giựt mất sắc tay hay lột bộ đồ vía của mình. Đôi giầy da cũng không đem cho họ dáng dấp oai vệ mà trái lại tiếng lộp cộp vang lên tự dưới đế giày mang cho họ mặc cảm bị người ta chú ý, dòm ngó. Đôi khi bà còn cảm thấy người bị co rúm lại lúc thoáng có người khách ngoại quốc định cười với mình.

Hôm rời phi trường Tân Sơn Nhất để qua Thái chỉ non kém hai tiếng đường bay nhưng bà vẫn lễ mễ cơm nước mang theo như mỗi lần từ Sài Gòn xuống thăm người em dâu ở Cái Sắn. Nguyên một sắc tay lớn bà oằn vai đeo theo gồm đồ ăn, chén đũa lỉnh kỉnh, cơm nắm, thịt kho, ruốc, muối tiêu và một hũ dưa muối. Khi những người tiếp viên hàng không phát cho ít xôi với chả lụa thì ông bà hí hửng giở cơm nắm ra ăn làm mùi thịt nạc kho nước mắm theo nắp guigor vừa mở bay tứ phía. Nhiều người hít hà rồi dáo dác tìm kiếm trong khi ông bà thản nhiên từ chối phần ăn của mình trước những đôi mắt nhìn tiếc rẻ. Bà Cửu lấy khay để lên đùi rồi đưa lưỡi dao nhỏ cắt xuống bịch cơm nắm gói bằng nilon. Cơm gạo thơm nắm khi còn nóng, dẻo và dính như bánh dầy.

- Ông ăn dưa muối không?

- Để dành đấy ai ăn mất mà vội.

Ông Cửu cầm khoanh cơm đưa lên miệng, vị ngọt của gạo mới như quyện lấy đầu lưỡi làm ông nuốt hết nửa phần rồi mới đưa tay nhón miếng thịt kho bỏ vào miệng:

- Ăn đi bà, ăn cho đã. Vài hôm nữa qua Mỹ chẳng có mà ăn.

Cũng chính vì sợ không có mà ăn nên nguyên một cái "sắc ma ranh" bà mang theo cất đầy hột giống. Nhiều người đi trước viết thư về dặn dò nên gói lại thành từng bịch nhỏ dấu lẫn lộn trong quần áo chẳng ai xét hỏi mà rộn. Có điều đừng để những gì có chất sắt, đồng, kim khí thì khi qua máy dò sẽ không kêu, còn tụi hải quan có xét cũng qua loa đâu giở tung từng cái áo. Vì được báo trước như thế nên bà gói ghém mang theo không thiếu một thứ gì nhưng nhiều nhất vẫn là cải xanh, cải ngọt, xu hào, ngò, xà lách rồi đến húng chũi, húng quế, kinh giới, tía tô cho tới hột bầu, hột mướp...

- Khiếp đảm. Thầy vác cái của quỷ này đi làm gì? Tâm kêu lên khi thấy ông Cửu gần như bò dài ra để lấy cái túi xách nhà binh ngày xưa đã được nhuộm nâu.

- Sư mày, không có nó thì vãi ra đấy.

- Thầy đựng gì mà sợ nó vãi với chả vãi? Trời ơi!

- Giời ơi cái gì, ông Cửu gắt ầm lên, không có nó lấy cứt mà ăn.

Tâm không nói nữa, nàng khom lưng kéo phụ cái túi xách xuống bên dưới rồi phủi hai tay vào nhau:

- Vừa dơ lại vừa hôi muốn ói, cái mùi nhuộm hay vải bố gì mà ghê sợ.

- Mùi thằng bố mày chứ còn ai vào đấy!

Ông Cửu quen thói mắng con, dù mắng thật hay yêu thương cũng thế, nhưng bà Cửu thì không chấp nhận được điều này, bà khẽ khều ông:

- Vừa thôi, mình đang ở "Ờ mé ri cà" chứ không phải Việt Nam đâu.

- Có ở trên trời thì chúng vẫn là con tôi. Bà cứ vớ vẩn khều với khoèo mà tôi lộn tiết lên đạp cho mấy đạp bây giờ.

Chẳng hiểu ông có đủ sức đạp cho bà té nổi không vì dù ốm o bà cũng còn có tí da tí thịt hơn ông. Lần này bà cấu ông một cái đau điếng:

- Ăn với nói, có cháu có chắt rồi mà không giữ gìn ý tứ để chúng khinh cho.

Ông Cửu bực vì thấy vợ cứ đứng lải nhải lại cấu với bẹo nhưng ông cũng ráng làm thinh vì thấy một vài người Mỹ to lớn đứng gần đấy quay lại nhìn.

- Lấy đi. Nó đấy! Đấy!

Giọng ông lớn và kéo dài. Vài tiếng cười rộ làm mặt Tâm đỏ bừng. Quên cả giữ gìn, nàng kéo mạnh cái va li giọng hơi lớn:

- Còn nữa không thầy?

- Còn một cái nữa.

Bà Cửu nhanh nhẩu trả lời đồng thời chồm người cố kéo cái túi vải vừa trờ tới nhưng cả người bà mất đà lăn theo, đôi chân bị giở hỏng theo vòng xoay. Cũng may Tâm nhanh tay kéo được bà đứng lên, nàng cằn nhằn:

- Nó đã chạy quá tầm tay bu còn với theo làm gì? Chờ vòng sau con lấy cho, bu đứng ra ngoài coi hành lý. Thật khổ ơi là khổ.

Bà vuốt lại vạt áo và lùi hẳn ra sau ai ngờ ông Cửu đã đứng ngay đó tự lúc nào. Hai chân ông khuỳnh ra như cái hàng rào chặn những phường đá cá lăn dưa và hai tay chống nạnh như thể thách thức kẻ nào dám "lương" đồ của mình. Bà nhìn quanh:

- Đồ đạc xuống một lần cả trăm cái mà không xảy ra cướp giựt, hay thật ông nhỉ!

Không trả lời ngay, ông Cửu cúi xuống lẩm bẩm đếm hành lý thêm một lần nữa cho chắc chắn rồi mới cất cao giọng:

- Ở Mỹ ai cũng giàu có cướp làm gì vài cái túi xách. Bà không nhớ hôm nọ đọc trong thư vợ chồng nó bảo tối ngủ không phải đóng cửa cơ à!

- Nó bảo là thế nhưng ai ngờ có thể trật tự đến như vậy.

Đám đông mỗi lúc một thưa dần với hành lý tản mát mọi chỗ. Phải đến mươi phút sau ông bà mới theo Tâm khệ nệ ôm những túi đồ ra ngoài cửa chờ Thành. Bà Cửu vừa lôi vừa kéo vừa cằn nhằn:

- Nặng thế này mà lưng tôi đau thì khiêng làm sao! Giá ông đỡ nó cho tôi đội lên đầu thì có đi mấy cây số cũng chẳng ngại.

Bà Cửu nói chẳng ngoa, thuở còn con gái bà chiếm giải nhất trong làng về đội. Người tuy nhỏ thó và đôi tay yếu ớt nhưng nếu có ai đỡ phụ để lên đầu, cả tạ gạo bà đội chạy bon bon như không. Bà vẫn tự hào về thành tích đội gạo của mình trong khi mọi người chung quanh tuy cảm phục nhưng chẳng một ai mơ ước địa vị vô địch ấy bởi vì họ có cảm tưởng đầu bà bị trì nặng không thể nào cất cao lên được. Giá bà có mặc áo dài cổ lưới, miếng lưới vẫn bị đè xuống vì không đủ sức chống trả với cả khối xương hàm đè xuống.

Vừa bước ra khỏi cánh cửa tự động, ông Cửu đã bị choán ngộp bởi từng đoàn xe nối đuôi nhau hàng bốn, đông đặc và chậm chạp bò như đoàn kiến di chuyển chỗ ở khi trời sắp chuyển mưa. Đèn xe, đèn đường và đèn từ phi trường sáng rực như ban ngày. Đi đôi với ánh sáng, mùi khói xăng, khói thuốc, dầu cặn từ các ống khói đua nhau phun ra khiến mũi ông ngột ngạt. Đã vậy tiếng động cơ, tiếng còi, tiếng thắng xe hoặc rú mạnh chân ga cho xe vọt đi khiến tim ông đập liên hồi.

Thần kinh bị căng thẳng làm đôi mắt ông mở to nên không bỏ sót bất cứ một người nào lái ngang qua. Nào tóc đen, tóc đỏ, tóc vàng bên những quần áo hoa hòe sặc sỡ. Nào là Mỹ đen, Mỹ đỏ, Mỹ trắng, Mỹ vàng, Mỹ lai căng cũng đều đủ cả. Ai nấy vui vẻ, hớn hở làm như thành phố về đêm mới là cuộc sống hưởng thụ của họ. Ông cảm thấy vui lây với niềm vui mới mặc dù đang hít thở những ô uế của dầu cặn và cơ thể mệt mỏi vì vượt một chuyến bay quá dài.

Bà Cửu trái lại không có lối nhìn như chồng. Cảnh vật tuy lôi cuốn thật nhưng nó dễ mờ nhạt để thay vào sự cô đơn và những dấu hỏi len lỏi. Bà mơ màng với cảm giác hình như cái tình người nơi xứ Mỹ không có. Mười sáu năm xa cách con cái, bà cứ nghĩ ngày hội ngộ sẽ là ngày vô cùng trọng đại đánh dấu một cuộc đời đổi mới. Các con bà chẳng than thở thiếu tình mẫu tử và các cháu nội, cháu ngoại vẫn thường xuyên gửi thư từ hình ảnh nói rằng đã xụt xùi rơi lệ với nỗi thương nhớ nên chỉ cầu mong ngày đêm ông bà chóng sang đoàn tụ là gì? Ai ngờ tất cả chỉ là những môi miếng, giả tạo, dối trá, hoàn toàn trái ngược với sự thật. Chúng nào có nghĩ đến ông bà! Ngay đến con dâu, con trai, con gái, thằng lớn, thằng bé đều mất mặt.

Bà cố nén tiếng thở dài che dấu nỗi ngao ngán để rồi tưởng nhớ lại buổi tiễn đưa ông bà sang đây, con cái cháu chắt tại Việt Nam đã bày tiệc lớn tiệc nhỏ ăn mừng cả hơn tuần lễ. Ao cá chép sau nhà bà cho tát sạch để làm cho những bữa cỗ thêm linh đình. Vườn dừa và những cây thu đủ rộ trái cũng được lần lượt ngả xuống cho món tráng miệng. Cờ xí, câu vè, câu đối, thơ phú treo quanh vách tường không hết nên treo luôn ở đầu ngõ, toàn những lời chúc tụng tốt đẹp, toàn những thương nhớ tiếc nuối đã đeo dính lấy bà như gắn vào khúc ruột. Ngay đến căn nhà vôi to lớn, tuy không nhất làng nhưng đó là công lao mồ hôi và nước mắt của hai ông bà tạo dựng gần bốn mươi năm trời, từ ngày di cư vào trong Nam tha hương lập nghiệp, công của hơn nửa đời người bươn chải vậy mà ông bà mỉm cười vui vẻ giao cả cho vợ chồng Chẩn. Mai kia nó cũng đi rồi thì gia tài đó chẳng biết sẽ về tay ai? Tuy nhiên dẫu có mười lần như thế bà cũng dốc cạn mà ban phát hết. Không nghèo tiền, tình cảm lại quá dư thừa nên ngày đi bà còn những hơn tạ gạo cũng mang ra phân phát hết cho con cháu. Quần áo, khăn nhung, khăn mỏ quạ mới chỉ xài vài lượt cũng bị các anh các em nội ngoại tước sạch từ hồi năm ngoái.

- Chị ạ! qua đấy quần là áo lượt, đồ gấm đồ nhung đầy chị còn tiếc với chúng em làm gì mấy thứ này?

Bà cảm động khi nhìn những giọt nước mắt chảy dài, nghe những giọng mếu máo hoặc nức nở của người thân. Chúng nó thật lòng quá có sao nói vậy:

- Bà ơi, bà đi rồi con thiếu bát cơm chén gạo biết chạy nhờ ai.

- Bà ơi, bà đi rồi con chó con mèo cũng còn phải khóc nói chi chúng con.

Toàn là những câu nói đầy thân tình nhờ vả trông cậy những lúc túng quẩn nhưng vẫn làm bà mủi lòng nước mắt rưng rưng.

- Qua bên ấy vài tháng rồi tôi sẽ trở lại thăm các ông các bà chứ nào đã đi luôn.

Bà bóp tay từng người với đôi mắt ngấn lệ nhưng trong khuôn mặt ấy một niềm hân hoan và kiêu hãnh tột cùng. Vài ngày nữa đặt chân lên đất Mỹ là ông bà như con sâu thoát xác, nó không còn nằm trong tổ kén chịu mãi kiếp tằm mà hóa bướm với đôi cánh mỏng bay khắp vùng trời đất Mỹ. Rồi bà sẽ có những tấm hình màu thật đẹp gửi về. Rồi bà sẽ gửi tiền giúp xứ xây lại nhà thờ, gửi giúp những đứa cháu nghèo nàn đang cần sự nương tựa. Ra đi bà tự cho mình mang một trọng trách lớn về sự yên vui no ấm của con cháu và những người còn ở lại. Bà nhớ ngày xưa di cư từ Bắc vào Nam bỏ của cải ruộng vườn nhưng trốn chui, trốn nhủi, ngay đến họ hàng thân thích cũng dấu đút vì sợ thưa báo. Còn bây giờ với hai bàn tay trắng, cũng rời bỏ quê hương nhưng sự ra đi này đối với bà thật là vinh quang vì được vào đất Mỹ như vào cửa thiên đàng và là khát vọng thèm muốn của bao lớp trẻ, những người còn ở lại. Tại sao họ thèm khát ra đi? Điều đó bà chẳng cần biết. Chỉ biết rằng cả một đời bà làm lụng vất vả, giờ buông tay chấp nhận mất hết mà không hề tiếc nuối chỉ vì ước vọng bà cao hơn. Bà đặt tất cả niềm mơ ước hưởng thụ khi vừa đặt chân sang đất Mỹ, một nước phồn thịnh văn minh đang chờ đón, cái địa vị, danh vọng đó mới đáng kể. Bởi thế bà làm mâm ngon, cỗ đầy cũng chính là một hình thức khoe khoang tương lai sáng ngời của vợ chồng bà cho xóm ngõ biết. Đáp lại, mọi người đã quý hóa, tâng bốc ông bà lên tới mây xanh. Thế mà giờ đây, ngày đón tiếp bà, ngày đón tiếp của con cháu, của những kẻ văn minh giàu có lại không một chút tình người.

Bà thở dài nhớ lại lúc xuống phi cơ đã xụt xùi giọt ngắn giọt dài trong khi con gái mình lại vung tay vung chân như thể muốn cản ngăn những giọt nước mắt đó. Bà tủi thân nhưng cầm lòng được ngay vì nghĩ đó chỉ là ảo giác, và cũng có thể tại bà đòi hỏi quá đáng khi đang ở chỗ xa lạ đông đúc người...

- Xe đến rồi kìa bu, nhanh lên để anh ấy chờ.

Chiếc Chevrolet màu huyết dụ đời tám mươi lăm, sáu máy vừa trờ tới đậu sát bên lề. Thành lẹ làng chui ra, vòng về phía sau mở cốp rồi đến bên vợ khuân đồ chất lên xe.

- Thầy bu vào xe ngồi để đó chúng con khiêng cho. Tâm vừa nói vừa đẩy mẹ về phía trước.

Bà Cửu như quên hết mọi ý tưởng vừa nảy sinh trong đầu. Ôi chiếc xe mới đẹp làm sao! Nó bóng loáng và rực rỡ hơn cả xe đám cưới cô dâu xứ bà với những vành nhôm ở bốn bánh xe sáng ngời, đưa tay rờ nước sơn mà bà thấy tim mình đập rộn ràng. Bà cứ nghĩ xe hơi giống như những chiếc xe đò, xe lô nhỏ, Pegout bốn lẻ bốn hoặc có tân tiến lắm cũng là năm lẻ bốn, ai ngờ... Bà run rẩy đưa tay kéo cánh cửa ra. Đúng là tân kỳ, nào có khe hở hoặc phải cột giây kẽm như những chiếc xe hàng vẫn đi ngang nhà bà mà đàng này nó cứng ngắc, chặt chẽ đến nỗi một chút gió cũng không thể lùa vào.

- Thơm quá ông ạ! Tôi có cảm tưởng như đang lạc vào động đào tiên.

- Đào với mận gì, ông Cửu càu nhàu, vào để chúng nó chờ.

Bà Cửu lần mò bò vào, miệng nói lảm nhảm như đang mơ:

- Cái nệm êm quá lại in kiểu này tốn công biết chừng nào.

- Nó may bọc nệm chứ in đâu mà in, rồi ông tặc lưỡi, bà im mồm giùm tôi một cái có được không, cứ rộn lên cho chúng nó cười mình quê mùa.

Chẳng cần cãi thì bà cũng im lặng vì phía trước vợ chồng Thành đang mở cửa bước vào.

- Thầy bu đói không, trên đường về ghé vào restaurant nhé!

Con khỉ, tiệm ăn thì cứ nói tiệm ăn, bà ngẫm nghĩ, cũng may dạo này ở Việt Nam phong trào học và nói tiếng Mỹ đang thịnh hành nên những chữ nào nghe nhiều bà cũng hiểu đôi phần.

- Chẳng đói đâu, trong túi xách còn một cóng ruốc, về thổi thêm tí cơm nóng nữa là xong.

- Đâu được, Thành cắt ngang, đón thầy bu chúng con phải làm cho ra phép chớ ăn cơm ở nhà coi sao được.

Bà Cửu cảm động, vậy là chúng tiếp đãi tận nhà hàng cơ mà!

- Thầy bu định ăn gì? Thành quay hẳn xuống hỏi như thể muốn nghe ngay câu trả lời.

- Thôi con ạ! Bày vẽ làm gì cho tốn tiền. Để dành đấy giúp đỡ kẻ nghèo khó, cho thầy bu chén cơm nóng thôi!

Tâm đang gài dây thắt lưng an toàn, nghe thấy mẹ bày, sợ về phải lọc cọc nấu cơm thì biết khi nào mới đi ngủ nên vội xen vào:

- Thầy bu muốn ăn cơm có cơm, phở tái phở chín, bánh canh bún ốc gì đều có hết.

Không tin ở tai mình, ông Cửu chồm lên hỏi lớn như vừa khám phá một chuyện lạ:

- Bên Mỹ mà cũng bán những thứ này nữa sao? Vậy mà thầy cứ tưởng qua đây phải ăn đồ như Mỹ nên bu mày mang cả gạo.

- Thầy cứ vớ vẩn thế, Tâm càu nhàu, con đã dặn bao nhiêu lần rồi mà ở nhà có ai thèm nghe, ngay đến mẻ, mắm tôm, mắm sặt, tương, chao còn có nói chi là gạo. Thầy bu ăn gì cho con biết để còn xuống đúng exit.

Từ thuở lấy nhau đến giờ ông bà ít có dịp đi vào tiệm sang trọng ăn uống, lý do chỉ vì không được tự nhiên thoải mái như ở nhà. Thỉnh thoảng ông bà sang chợ mua phân hóa học hoặc bỏ mối rau tươi cũng hay ngồi xì xụp tô bún riêu, hoặc sang hơn ghé vào quán cóc ăn tô phở hay dĩa gỏi gà, bây giờ bảo vào nhà hàng Mỹ thì có sợ không. Nghĩ như thế nhưng khi nhìn xuống áo quần mình tươm tất, ông quên ngay những cực khổ đã qua:

- Con ăn gì cho thầy bu ăn nấy.

Nghe ông vội vã trả lời như không muốn phải nói thêm, Tâm thở dài. Sở dĩ nàng cố hỏi chỉ vì muốn dành cho ông toàn quyền quyết định thay chồng. Lâu lâu được vợ bao ăn chẳng khi nào Thành ngu dại không vào Pagoda kêu bò bẩy món. Bốn người kêu ba phần rồi bia, nước ngọt tệ lắm cũng cả trăm bạc. Tiền của đâu mà hoang phí như vậy? Hơn nữa trong gia đình nàng có ai biết bò bẩy món là gì ngoài món bò xào rau muống, bò nấu khoai môn với rau ngót, bò kho gừng hoặc chân bò luộc chấm tương Cự Đà. Tuy thất vọng nhưng Tâm nhất định không để Thành chiếm ưu thế, nàng bày ý:

- Thầy bu đang mệt, bao tử lại yếu, con nghĩ nên ăn chén cháo thịt hay tô phở cho nhẹ bụng. Giờ cũng khuya rồi.

Đúng như Tâm dự đoán, Thành ném cái nhìn bực bội, khó chịu sang vợ phản đối ngay:

- Em nhớ từ chập tối đến giờ mình chưa ăn gì hết nghe.

Tâm điềm tĩnh:

- Em có nói anh đâu. Vào tiệm anh kêu gì chả được.

- Nhưng tiệm nào mới được chứ! Vào Hiền Vương thì chỉ phở chứ có quái gì mà chọn?

- Không phở thì ăn cơm phần, anh tưởng rẻ lắm sao?

Tâm nhăn mặt làm Thành cụt hứng. Từ hồi Thành thất nghiệp nằm một chỗ đến giờ Tâm lên mặt quá chừng. Anh nhà giáo không ngờ đời mình lại xuống dốc thê thảm như thế. Chẳng những nàng không còn nể phục, mắt sáng rỡ kính cẩn nhìn chồng như lúc đầu mà động một chút là hờn trách, đay nghiến. Thành chỉ lờ mờ đoán đồng tiền đã làm cho con người có thế lực hơn lên nên cũng thường nín nhịn để được ăn không ngồi rồi vì cả ba năm qua nằm một chỗ như tằm ăn dâu Thành cũng thấy áy náy lắm. Hơn nữa hôm nay cha mẹ vợ mới sang, không chừng lải nhải một hồi nó nổi sùng về nhà nhắc nồi cơm lên ăn với chà bông thì thiệt là mệt. Nghĩ thế nên Thành im lặng, tuy lòng tức anh ách nhưng vẫn phải bật đèn signal để nhập vào đoàn xe đang đi về xa lộ năm...

Không khí tự dưng tẻ nhạt và chùng hẳn xuống, ông Cửu cố tình đánh tan sự ngột ngạt đó:

- Đông quá! Thấy xe rầm rộ qua lại mà nhức cả mắt.

Lời nói trống khơi mào câu chuyện nhưng mọi người vẫn im lặng chỉ có mỗi bà Cửu đáp ứng âm thầm bằng cách ngồi quay nghiêng và dí sát mặt vào cửa kiếng nhìn ra ngoài. Hình như xe mỗi lúc một chạy mau nên khoảng cách giữa hai xe dài thêm ra. Bên kia đường, chắn ngang bởi bức tường thấp nhưng dài vô tận, xe vun vút lao nhanh như tên lửa. Từng đôi đèn tròn sáng lòa nối tiếp vụt qua, cứ thế từng đôi rồi từng đôi như những con ma trơi chạy đua trong ngày hội lớn hoặc ví von hơn, trông chẳng khác gì giòng thác vàng từ một phương xa vô tận chảy xuống miền hạ giới. Trước mặt bà cũng đẹp rực rỡ không gì sánh bằng, song song với thác vàng là suối máu. Cả một màu đỏ rực tỏa sáng từ sau đuôi xe cuồn cuộn, nhào lộn trên những vùng lồi lõm của đồi cao. Thoai thoải hai bên dốc là rừng rậm đen đặc làm nổi bật thứ ánh sáng ma quái huyền bí. Xa hơn nữa, trải rộng vào đến đất bằng, nhà cửa, phố xá, cao ốc ngập tràn ánh điện màu làm màn đêm tự dưng có giá trị thêm lên. Bà buột miệng:

- Đây là đâu vậy?

Tâm nhìn thoáng ra ngoài, khi vừa trông thấy những hàng chữ lớn bằng bóng điện neon đỏ rực trên đồi cao chót vót, nàng khẽ trả lời:

- Hollywood.

- Hô Ly Út? Bà Cửu hỏi lẩm nhẩm trong miệng.

- Hồ ly Vọng đấy mà!

- Hèn gì, bà Cửu gật gù và quay sang chồng, ra mình đang ở Hồ Ly Vọng, ông nhớ mà viết về báo cho họ hàng biết là mình đã đi ngang đây, nơi những tài tử Mỹ đóng phim.

Bà Cửu không biết nhiều nhưng điều vừa nói ra bà cho rằng chắc chắn phải đúng vì những người ở Mỹ viết thư về nhà vẫn tán dương chỗ họ ở như thế.

- Từ đây đến nhà còn xa không?

- Khoảng sáu chục miles nữa thầy ạ! Nếu không kẹt xe thì chừng gần một tiếng sẽ tới nhà. Buổi tối đường xa lộ vắng nên chạy lẹ.

Vắng vẻ gì, ông Cửu ngẫm nghĩ, cái vắng ở đây còn náo nhiệt hơn ngày hội lớn ở quê hương ông. Cả đời ông... Phải, cả đời ông có bao giờ được nhìn cảnh đẹp của thành phố về đêm như thế này. Nhìn ánh đèn ngập trời, ông thấy mình như con sâu con đang sắp sửa hóa bướm.

Nửa đêm chợt thức giấc vì tiếng động cơ chạy ầm ầm ngoài đường, bà Cửu lồm cồm bò dậy như mọi lần vẫn đi lễ sáng. Nhìn qua từng ô chéo của tấm màn cửa cột hời hợt, đèn đường vẫn sáng và nền trời đen như mực, chẳng hiểu bà thiếp đi được mấy phút mà mắt vẫn còn cay xé, thêm vào cái bụng dưới nặng như bị trì xuống. Đang đêm lần mò đi giải quyết vấn đề vệ sinh cũng khổ, chẳng biết ngõ ngách nào mà mò. Chợt nhớ lời Thành dặn "cửa phòng có treo giỏ hoa" bà lồm cồm bò dậy, cả một bên mình đau rần như bị vẹo xương sống. Bên cạnh, tiếng ngáy của chồng vang đều, chứng tỏ ông quá mệt mỏi sau cuộc hành trình dài. Chập choạng làm quen với bóng tối, bà lần mò tìm lối ra cửa. Cũng may căn nhà không đến nỗi quá rộng nên dù sợ gây ra tiếng động làm mọi người thức giấc, bà vẫn rờ thấy cái giỏ treo một cách dễ dàng.

Bây giờ lần thứ hai bước vào đây nhưng hình như đã quá trưa nên bà khỏi cần lần mò tìm công tắc đèn vì phòng tắm sáng trưng. Bà xúc miệng rửa mặt rồi lấy khăn kỳ cọ toàn thân cho khỏi rít, xong đâu đó mới rón rén đi tham quan một vòng. Nhà chẳng còn ai, sở dĩ bà biết chắc như vậy vì không thấy đôi giầy của vợ chồng Tâm máng trên kệ. Nền nhà lạnh buốt khiến bà bước nhanh và co hai chân lên ghế salon. Hồi tối than lạnh chân mà vợ Tâm đâu có nhớ lấy vớ đưa cho bà. Ngồi lên chiếc ghế êm ái và thơm mùi vải mới nhưng không hiểu sao bà cảm thấy lòng mênh mang buồn. Hình như những lúc nhàn rỗi bà hay tưởng nhớ về những tháng ngày ở quê nhà một cách thèm khát. Cuộc sống tuy vất vả nhưng hình ảnh đơn sơ mộc mạc, âm thanh quen thuộc và ngay cả đến mùi vị đượm tình quê đã tan loãng vào không khí và tạo thành một chất sâm để bà ngậm, hít vào. Nói chi đâu xa, ngay bây giờ ngồi đây, trên chiếc ghế bọc nhung êm ái mà bà vẫn liên tưởng đến bộ sa lông cũ kỹ ở nhà. Tuy nó đã bị cào xước và rách nhiều chỗ, tuy nó đặc nghẹt mùi nước đái của thằng chắt ba tuổi nhưng bà vẫn thấy ấm cúng và đầy không khí gia đình. Nhà vợ chồng Thành tuy cao sang rộng rãi, sạch sẽ trong ngoài nhưng cái hoang vắng cho bà thấy rõ ràng là không có tình người.

Bà đảo mắt một vòng nhìn quanh phòng khách, ngoài bộ ghế và cái bàn nhỏ ra thì cặp đèn chưng ở kệ là tương đối sáng giá. Nó xanh biếc màu ngọc và hai cái chụp bằng vải trắng kết những viền ren nhung chung quanh thật công phu, còn thì tất cả cũng thường, thường như nhiều nhà ở trên Sài Gòn. Bà Cửu đâu biết rằng nơi Tâm ở chỉ là một thành phố nhỏ, một tiểu bang trong năm mươi hai tiểu bang của nước Mỹ. Gia đình Tâm thuộc loại không mấy khấm khá nên nhà cửa đồ đạc chỉ sắm tượng trưng. Nghĩ cũng tội, cả đời bà đã đi đến đâu mà biết để có cái nhìn chính xác rõ ràng.

Bà ngồi buồn, từ buồn đâm ra nhớ, hết nhớ rồi lại đến tiếc... Giờ này ba tuần trước nhà bà như một đám hội. Lũ con cháu mượn được ở đâu cái đầu lân và bộ trống, thế là chúng đánh tùng phèng cả ngày. Thằng ông địa mới tức cười, mặt nó nhăn nhẳn lại to bành, quần thì ống cao ống thấp, chiếc áo chật và ngắn để hở khoảng bụng độn mo cau phễnh tướng. Thỉnh thoảng nó đưa bàn tay xoa xoa cái bụng, tay kia phe phẩy chiếc quạt ra chiều nhàn hạ. Trong đoàn múa lân, bà thích mỗi thằng ông địa vì nó chính là thằng cháu ngoại của bà. Năm nay Lài vừa tròn mười bốn. Anh chị nó vượt biên từ năm tám mươi ba nên thằng Lài tha hồ ăn kẹo Mỹ do đó xác nó to lớn như trâu chương.

Lài tuy lười học nhưng lại siêng làm, có nó công việc vườn tược cũng đỡ đần cho gia đình bà nhiều lắm. Bây giờ bà đi rồi, chẳng còn những trưa ngồi dưới gốc xoài nhờ nó bắt chấy. Đầu bà ít tóc lại bạc trắng nên có chấy đực chấy cái là biết ngay. Tay thằng Lài mập và thô như nải chuối hột, vừa đụng vào chấy đã lẩn mất nhưng bà vẫn thích gọi cháu lại để cho năm đầu ngón tay nó bò nhẹ trên vùng da đầu tạo những cảm giác vô cùng dễ chịu.

- Chẳng có con nào đâu bà ơi.

Thằng Lài rờ rẫm một hồi rồi thở dài thất vọng nhưng cái giá bà trả cho mỗi một con chấy là một chén đậu hũ đường quá quyến rũ. Nó cố quên đi từng miếng đậu hũ màu trắng đục sóng sánh dưới lớp đường ngà vàng lẫn vị gừng thơm ngào ngạt bán ngay đầu ngõ nhưng cứ nuốt nước miếng ừng ực cho nên hai bàn tay Lài vẫn bò nhanh như vẽ nhột trên vùng da khô. Từng lớp gầu dính theo chân tóc được dịp bung ra nằm hớ hênh bên trên lẫn lộn trong đám trứng lép. Chán nản, bàn tay Lài buông lơi. Nó nhắc lại:

- Chẳng có con nào đâu bà ơi.

- Thằng chó, không có chấy sao có trứng?

- Trứng lép không hà, thôi con không bắt nữa đâu.

Bà Cửu đưa tay gãi đầu sồn sột, những đám gầu theo vết cào tróc ra rơi nhẹ xuống vai áo.

- Bà ngứa tại gầu rồi.

- Không, bà biết mà. Con cứ bắt đi được hay không bà vẫn mua cho chén đậu hũ.

Và rồi trưa nào hai bà cháu cũng ngồi rù rì với nhau cả giờ. Sau đó nó cầm đồng bạc bà cho chạy bay ra ngoài và chỉ một thoáng đã bưng về chén đậu hũ còn nghi ngút khói. Ngồi đối diện với bà, Lài xì xụp húp từng muỗng nhưng mắt nó vẫn lén liếc ngang và lần nào cũng thấy bà đang nhìn nó say sưa, thích thú như chính bà được ăn.

Mẹ Lài làm ở xưởng heo mãi chiều tối mới về, cơm nước ngày ba bữa do bà lo cho nên đôi khi nó có cảm tưởng bà nội còn là mẹ của nó nữa. Giá nội mà biến thành mẹ thì sướng biết chừng nào. mỗi khi xin xỏ điều gì, bà nó sẽ quyết định luôn chứ không phải trả lời quanh co:

- Để chờ mẹ mày về bà hỏi xem sao.

Bố Lài năm nay xấp xỉ năm mươi lăm, hơn mẹ nó một tuổi nhưng trông khoẻ mạnh và phong trần lắm. Khi xưa còn nghèo, ông hay đánh heo thả nọc. Sau năm bẩy mươi lăm, bỏ nghề một thời gian dài để buôn hàng chuyến nhưng quá vất vả và bị tịch thu nhiều lần nên vốn lẫn lời tiêu hao. May nhờ mẹ nó lanh lẹ, đút lót và móc nối với công an phường, nhà nó tiếp tục trở lại nghề cũ.

Cái nghề thả heo không hiểu có huông hay bị khinh miệt mà chẳng ai cạnh tranh ra nghề khiến mẹ nó tha hồ tung hoành với bốn con heo đực. Khắp vùng Hóc Môn mà chỉ có mình gia đình nó được vinh hạnh độc quyền. Mỗi chuyến đi tơ, mẹ nó lấy trọn tiền chẳng phải chia cho xã phường nhưng thỉnh thoảng dăm ba lần trong tháng vẫn đánh xe mang heo đến tổ hợp cho mượn thả đực. Lài không thích cái nghề này, nghề gì mà lúc nào tay cũng dẫn con heo đực hôi hám với cái "vật" đàng sau lòng thòng to tướng, bọt rãi ở mép xùi ra trắng xóa như người lên kinh giật. Đẩy con heo lên xe lam đã là một chuyện khó, mà khi đến nhà người gọi heo lại còn khó hơn. Thanh gỗ chặn sau xe không còn là vật cản trở; từ trên cao con heo chồm cao người phóng ra ngoài, hai chân trước qụy xuống và cả khối thịt đổ kềnh. Tưởng nó không tài nào dậy nổi thế mà chẳng hiểu cái "mùi" hay tiếng rên ư ử của chị heo đang tới cữ trong chuồng mà khối thịt khổng lồ kia vụt bật dậy xô giạt mọi người đứng xem chung quanh, hộc vài tiếng đáp lại rồi xông xáo chạy vào... Vừa nghĩ tới đó, mặt Lài đã đỏ bừng. Không hiểu cái nghề xấu hay ý tưởng xấu mà mỗi lần mẹ nó sai người đánh heo đi là Lài cảm thấy trong lòng bất an. Nếu vì chuyện "đi tơ" mà có thêm đàn heo con, rồi từ heo con thành heo thịt để bán lấy tiền thì mọi người trong xóm đã chẳng nhìn gia đình nó bằng cặp mắt khác. Ngay hồi các chị nó còn ở đây, tuy tuổi còn nhỏ nhưng ai cũng bảo làm nghề này khó lấy chồng. Lài bực dọc lắm vì nó nghĩ lấy chồng thì ở với chồng chứ có ở với heo đâu mà phải bàn ra tán vào. Lài đã từng cãi nhau, đánh nhau với chúng bạn và nghỉ luôn khi vừa hết bậc tiểu học chỉ vì cái nghề của cha mẹ nó. Tuy biết rằng "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh" nhưng nó vẫn mang mặc cảm.

- Mẹ ạ, sao con thấy những người nuôi heo nọc ai cũng chột mắt hết mà bố mẹ thì không?

Cũng may câu hỏi khi nó vừa lên chín nên chỉ bị hai cái tát nảy lửa in đậm hai vệt nơi má trái. Từ đó ai làm gì thì làm, có giết chết nó cũng không bao giờ thèm rờ tới sợi dây cột ở cổ con heo nọc.

Chương 3

Gần tối Tâm mới đi làm về. Vai đeo bóp, tay ôm bịch quần áo về sửa. Nàng tất tả bước nhưng vẫn không quên liếc nhanh trên bàn ăn hỏi với giọng ngạc nhiên:

- Thầy bu chưa ăn cơm à!

Hỏi nhưng không chờ câu trả lời Tâm thoăn thoắt bước về phòng bỏ bịch đồ trên giường rồi mới thay quần áo trở ra bếp, nơi ông bà Cửu đang ngồi.

- Cơm hồi trưa không ăn hay sao mà còn nhiều thế hả bu? Cả thịt nữa, sao không động đậy thế này?

- Thì cũng ăn vớ vẩn chút đỉnh cho đỡ đói để chờ chúng mày về ăn chung cho vui.

- Bên xứ này ai có công việc của người ấy, hơi đâu mà chờ với đợi.

Tâm ngồi xuống gỡ những miếng nilon đậy bên trên thức ăn rồi vo tròn ném vào thùng rác:

- Qua đây thầy bu phải chịu khó ăn vào mới mập được.

Vừa nói Tâm vừa bới cơm ra chén. Nồi cơm được nấu từ sáng sớm, loại nồi của Nhật có thể giữ độ ấm được cả ngày. Nhìn làn khói yếu ớt tỏa nhẹ, bà Cửu buột miệng:

- Cơm vừa chín tới bao giờ cũng ngon hơn.

- Thì nhất rồi nhưng thời giờ đâu cạo nồi vét cơm. Ngày nào con cũng nấu một nồi đầy ăn từ sáng cho đến tối. Thôi thầy bu ăn cơm đi chứ!

Bà Cửu nhìn mâm cơm ngấy lên tới tận cổ. Cũng thịt thà cá mú sao trông không ngon lành. Sáu cái đùi gà bự tướng, chẳng chặt chẳng xé mà lá chanh hành tây cũng chẳng có, nằm giơ còng giơ gọng trên chiếc dĩa sành. Chén muối tiêu chanh chênh vênh không gừng không ớt được đặt bên cạnh tô canh khoai cà rốt váng những mỡ và cuối cùng là đĩa cá kho còn lõng bõng nước. Cá hồi trưa bà có thử nhưng nó tanh vèn vẹt vì chưa kho kỹ, lại không có gừng tỏi khử mùi hôi.

Ông Cửu nhìn Tâm bốc cái đùi gà xé đôi hỏi bằng giọng thảng thốt:

- Không chặt ra à?

- Ở đây tụi Mỹ ăn cả con, khỏi mất công chặt vì trước sau cũng vào bụng. Như anh Thành nhiều khi có chút rượu vào ăn đến ba cái. Tâm trả lời thoáng chút hãnh diện.

- Ăn vậy ớn chết được.

Bà Cửu ngán ngẫm lắc đầu đứng dậy mở những cánh cửa tủ trên cao tìm tòi, lục lạo như hồi trưa.

- Nước mắm để ở đâu vậy tao kiếm hoài không ra?

- Không mua lấy đâu mà có.

- Ở đây họ không bán sao? Bà Cửu nhìn con chưng hửng.

- Có đầy nhưng hôi hám nhà cửa lắm.

- Không có nó chắc tao với thầy mày nhịn luôn. Hồi trưa ăn vốc cơm với muối mà mặn chát. Có tí ruốc mang theo cũng phải đổ đi vì đã có mùi. Nói xong bà thở hắt ra chiều buồn bã.

- Giê Su! Tâm buông đũa xuống bàn nhìn bà. Vậy chứ thầy bu thích ăn gì phải nói cho con biết để mà đi mua. Không ăn thì sống làm sao được.

- Tao thèm một đĩa rau luộc.

Bà đến bên tủ lạnh mở ra lấy miếng bắp cải đã cắt dở.

- Mày luộc hộ bu một tí. Chỉ cần nó với chút nước mắm là cũng xong bữa, vậy mà cũng không kiếm được cái bếp để nấu.

Tâm uể oải đứng dậy lấy chiếc nồi nhỏ vặn chút nước để lên bếp. Gọi là bếp cho tiện chứ trông nó không giống bất cứ cái bếp dầu hay bếp than ở Việt Nam, nó to không thua cái máy giặt và sạch bóng, bên trên bốn lỗ tròn có ngàm sắt để đỡ đáy nồi.

- Bu coi con làm để mai mốt còn biết lối xài với người ta.

Tâm mồi que diêm để gần vào lò, tay kia khẽ vặn bếp. Ánh lửa xanh bùng lên làm bà giật mình:

- Khiếp thế sao tao dám làm! Hồi trưa thầy mày cũng lần mò bật hết một lượt mà có thấy cái nào cháy đâu.

Tâm thấy chân tay mình rụng rời, giọng nàng hốt hoảng:

- Cái nào cũng bật hết? Rồi máy giặt máy sấy... Thôi chết con rồi.

Cũng may ông cụ khôn ngoan, bật lên không thấy gì lại tắt đi ngay. Kiểm soát hết một lượt, Tâm đè tay lên ngực như giữ lấy hơi thở:

- Bếp ga mà thầy làm kiểu này có bữa nổ tung nhà. Thôi từ mai con nấu sẵn chứ lỡ có gì cứ ra đường mà ở.

Bà Cửu ngao ngán nhìn cái bếp sạch bóng và những món ăn tanh tưởi trên bàn thở dài. Cũng may chỉ một loáng nồi nước đã sôi sùng sục, Tâm bỏ rau và rắc thêm ít muối đảo nhanh.

- Có cái trứng gà này Tâm, sẵn luộc cho bu một quả.

Bà Cửu đưa cho con rồi đứng nhìn quả trứng đang lạnh gặp nước sôi nứt đôi, một giây sau lằn nứt lồi ra chất nhờn màu trắng và từ từ cứng lại. Tuy nhiên một ít lòng đỏ cũng chảy ra tới ngoài làm nước luộc đục ngầu, bà nuốt nước miếng:

- Bắp cải luộc chấm với nước mắm dằm trứng thì tao với thầy mày phải ăn đến hai miệng chén cơm.

- Thầy bu không ăn thịt gà à?

- Có ăn được đâu mà ăn, tao bị phong phải kiêng cữ từ hồi chúng mày còn ở nhà.

- Bu cữ đã đành nhưng còn thầy?

- Bao tử thầy mày cũng yếu lắm thành ra cứ cho thầy bu tí rau với quả trứng là xong.

- Ăn như vậy mắc bệnh cam tích chết.

- Một vài ngày ăn thua gì. Mai mốt con Nụ đến đón về trên ấy tha hồ mà nấu nướng.

- Vâng, Tâm tiếp lời, ở đó nấu bếp điện nên cũng dễ. Với lại nhà housing chẳng sợ hôi.

Thực ra ông bà cũng chỉ mong thế. Ở với con gái bao giờ cũng hơn con rể vì cha mẹ vợ nào ra cái thể thống gì. Biết vậy nên tuy định ở đây vài ngày ông bà vẫn cố giữ kẽ như khách.

- Chồng mày nó cũng hiền lành đấy.

Bà Cửu gợi chuyện khi bưng dĩa rau ra ngoài bàn.

- Vâng, hiền và ít nói. Phải mỗi cái tội sạch sẽ, quá sạch sẽ thì đúng hơn. Hễ đi thì thôi mà về đến nhà là quét dọn lau chùi cả ngày.

- Nó làm gì mà sáng đi tới tối mịt mới về? Chắc lương khá lắm nhỉ!

Tâm chột dạ vì ngày xưa viết thư về nhà, nàng không tiếc lời khoe khoang chồng mình là giáo sư, là ông chủ tiệm, là thương gia buôn bán tài giỏi và giàu có khét tiếng. Tuy nhiên Tâm vẫn đáp "vâng" nho nhỏ.

Từ khi lấy Thành và khám phá ra chồng mình chỉ là người phụ tá cho ông chủ chợ Việt Nam thì lòng Tâm giảm bớt ngưỡng mộ tôn vinh nhưng bên ngoài vẫn niềm nở săn sóc. Có tật giật mình vì che đậy tật xấu của Thành cũng chính là che đậy luôn cho mình. Cưới nhau mãi hơn một năm sau Tâm mới có thai nhưng lại ngoài tử cung nên chín phần mười không thể có con. Vì lẽ đó Tâm luôn phập phồng lo sợ Thành bỏ mình nên hết mực hầu hạ nuông chiều. Có thể cũng vì thế mà dù Thành bị thất nghiệp cả đời nàng cũng không nghĩ rằng đó là niềm đại bất hạnh của mình.

- Hai vợ chồng làm quần quật mà lại không con thì tiền để đâu cho hết?

- Thì chúng con ráng làm được ngày nào hay ngày đó.

- Tham bô làm gì, bà Cửu chép miệng, người ta bảo giầu con giầu cái chứ ai bảo giầu bạc giầu tiền. Hồi còn ở Việt Nam mỗi lần nói chuyện với vợ Chẩn về mày tao lại buồn đứt cả ruột. Tại sao phải kiêng khem thuốc men trong khi đã ba mươi sáu tuổi chứ nhỏ nhít gì mà bảo còn ham vui? Giờ này có con cũng đã trễ lắm rồi. Thầy bu qua đây chỉ ước ao sao nhìn thấy chúng mày hạnh phúc và có tí cháu ngoại để bồng là đủ trả hiếu.

Tâm không thích nghe chuyện đó vì đã từ lâu lắm rồi mỗi lần Thành nhắc đến con cái là nàng lại khóc ròng:

- Anh biết không phải lỗi tại em mà! Còn xẩy thai thì đó là sự thiệt thòi của hai đứa chúng mình chứ đâu phải dành cho riêng em.

Tâm cố cột Thành vào chung nỗi đau của nàng để được chia sẻ. Thành biết được điều đó nên càng ì ra để vợ một mình đi làm cáng đáng trong ngoài. Tình cảnh nàng đau khổ là thế nhưng đối với bạn bè và ngay cả gia đình Tâm vẫn dấu viện cớ vì công chuyện làm ăn nên không thể có con trong lúc này. Ai mà chẳng bảo Tâm tham bô lo kiếm tiền đến nỗi lạm dụng thuốc ngừa thai. Bây giờ nghe mẹ trách nàng chỉ muốn gạt cho qua:

- Chắc cũng nay mai thôi bu ạ! Hiện tại cuộc sống chúng con tương đối khá nên chẳng còn gì phải lo.

Tâm lùa từng mảng cơm vào miệng, vội vàng hấp tấp chỉ chực đứng lên để tránh những câu hỏi đầy dò xét của mẹ. Chưa buông đũa, nàng chồm người lấy cây tăm xỉa răng trong khi miệng vẫn còn nhồm nhoàm nhai:

- Thầy bu ăn xong cứ để đấy vì con phải vào phòng may đồ cho kịp giao sáng mai. Tối qua con không may nên công việc bề bộn...

O O O

Ông Cửu buồn bã nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời xâm xẩm tối, ánh nắng không còn nhưng sức nóng vẫn âm ỉ nung những hòn gạch quanh phòng khiến lòng ông bồn chồn xốn xang. Ông nhìn những con chim đứng ủ rũ trên cành kêu ai oán sau ngày dài bay nhảy như tiếng kêu buồn bã của loài chim cuốc mà chợt nhớ cố hương quay quắt. Giờ này vợ chồng Chẩn cùng bà con cô bác hàng xóm láng giềng đang tưởng tượng ông ngụp lặn trong hạnh phúc trùng phùng, trong nhung lụa giàu sang, trong chăn êm nệm ấm chứ đâu ngờ đang bị lũ con xâu xé cạo rửa cái lốt nghèo nàn, cố bắt ông gột rửa ngôn ngữ quê mùa để khoác vào lớp hào nhoáng giả tạo trong khi tâm tình trống rỗng cô đơn. Ông cô đơn thật, còn hơn con đường hoang vắng trước mặt, dù hai bên cỏ non mọc xanh mướt nổi bật những căn nhà được xây cất với khoảng cách thật đều nhưng cửa nẻo im ỉm đóng, một biểu hiệu của tình cảm con người cũng đóng kín theo! Trong nhà, ngoài đường không một bóng người qua lại, tất cả lặng lẽ như những ngôi nhà vô chủ nếu không có những luống hoa đủ màu sắc trồng vòng quanh sân tựa như một che đậy thô thiển. Ngay đến màu hoa dẫu đã dịu xuống với nền trời tranh tối tranh sáng nhưng vẫn cứng còng chẳng khác gì một thứ hoa nhựa. Hoa thật và giả chỉ khác nhau ở hương thơm và sự mềm mại của nó. Con người chỉ thông cảm, hiểu biết nhau qua sự giao tiếp, đi lại.

Ông cảm thấy buồn. Con chim tuy ủ rũ về đêm nhưng ban ngày còn biết nhảy nhót trên cành líu lo hót. Con chó tuy được chủ nuôi để coi nhà nhưng còn biết vượt rào chạy rông gặp lũ chó khác trửng giỡn nô đùa; còn như ông đây, có chân cũng như què, có miệng như câm, bạn bè đâu để nói chuyện vãn. Lạc vào một nước ngoại chủng khác màu da đã là một cách biệt, lại còn kèm thêm tiếng nói, phong tục, tập quán và những văn minh tân tiến khó theo kịp. Biết đến thuở nào ông mới có cuộc sống hòa đồng như họ...? Ngồi trầm ngâm nhìn khung cảnh im lìm giống bãi tha ma chôn người chết, ông thở dài từng chập.

Bóng tối trùm xuống thật lẹ làm nổi bật những ngọn đèn nằm cách khoảng song song suốt hai bên đường. Cũng nhờ thế khi hắt nghiêng qua cửa sổ, đúng vào chỗ ông ngồi trông khắc khổ nhưng linh động như bức tượng khéo tạc. Ngồi chán ông uể oải đi vào phòng tắm lấy khăn mặt thấm nước lau trên thân thể. Đó là thói quen ông vẫn làm khi thấy người mỏi mệt và tinh thần xuống dốc. Mà quả đúng vậy, dạo này ông xuống dốc thật sự, chẳng những tinh thần mà ngay cả thể xác cũng bị coi rẻ chà đạp. Vợ Tâm cho rằng ông bà mang vi trùng quê mùa sang đây làm xấu hổ mặt chồng nó nên không chừa một ngôn ngữ nào: "Chúng con không muốn những người Mỹ họ nhìn mình như nhìn một lũ mọi". Nó sợ Mỹ hay sợ chồng nó? Rõ ràng ông như là trái banh mặc cho vợ Tâm vo tròn bóp méo.

Hơn một tuần sống với vợ chồng Tâm đón nhận bao ê chề cay đắng ông không còn chút sức lực nào nữa để tranh cãi về những phô trương đua đòi mà ông cho là ngu xuẩn. Nhớ vài hôm trước ông bà đang soạn quần áo, Tâm vừa đi làm về đã chạy vào ngồi chễm chệ trên giường mặt mày nhăn nhó khổ sở:

- Con đã dặn đừng mang gì cả ngoài vài bộ đồ thật đẹp mặc trong người, nào ngờ cả những giẻ rách chổi cùn cũng không thiếu.

Tâm lật từ trên xuống dưới và rồi bực dọc hất tung xấp áo cánh của mẹ:

- Hàng họ bông hoa con gửi về đâu hết rồi mà toàn thứ vải đen vải nâu dầy cộm như dọn nhà đi kinh tế mới vậy?

Ông Cửu ngượng chín người, cũng may thằng chồng nó chưa về chứ nếu không ông cũng chẳng biết trả lời sao. Còn bà thì nín lặng nhưng ra chiều buồn bã. Nó còn trẻ nên đâu biết lối ăn mặc của những người già cả. Ai mà chẳng muốn đẹp muốn văn minh tân tiến nhưng nó phải phù hợp với dáng dấp và phong cách của mỗi con người. Nhất là ông bà đã hơn bẩy mươi tuổi rồi, cả đời có biết váy ngắn váy dài là gì, có biết quần tây bó mông bó chân ra sao mà nó cứ một hai bắt phải mặc cho bằng được.

- Ở với con là phải quăng những thứ này vào thùng rác hết.

Bà Cửu sợ con vứt đi vội vàng vơ ngay lấy dồn vào va li:

- Chúng mày không cho mặc thì tao cũng giữ đấy mai kia đóng thùng gửi về Việt Nam. Con ranh cứ làm như giàu có lắm.

Bà tiếc của nên vơ vét lại chứ riêng ông thì mặc kệ. Quần áo đấy xấu cứ việc giục bỏ, hôi cứ việc đốt và quê mùa cứ việc làm giẻ lau. Có giỏi có giàu thì cứ việc mua sắm, bắt mặc gì ông mặc đấy để xem mặt nó có đẹp thêm hay mèo vẫn hoàn mèo. Buồn bã là thế nhưng tay ông vẫn nhanh nhẹn và thoăn thoắt lau đều. Lau xong thấy khoẻ khoắn đôi phần, ông ra bật ti vi lên coi thì Thành về tới. Không thấy vợ ở nhà, Thành có vẻ ngạc nhiên, nhất là khi liếc trên bàn thức ăn vẫn còn nguyên:

- Ủa sao không ai ăn hết vầy nè. Vợ con chưa về tới hả thầy?

- Nó ăn cơm rồi hai mẹ con chở nhau đi ra chợ mua ba thứ vặt vãnh gì đó mà.

Nhìn mâm cơm ngày nào cũng như ngày nào Thành bực bội nhưng bụng đói nên ngồi ngay vào bàn. Ông Cửu cũng đứng lên tắt ti vi rồi ngồi kế bên Thành.

- Sao thầy, thấy ở đây như thế nào?

Câu hỏi rộng lớn quá, chẳng hiểu ở đây là bên Mỹ hay ở nhà này, ông dè dặt:

- Mới quá nên chưa thấy gì.

Thành cầm chiếc đùi gà chấm nhẹ trong dĩa muối tiêu đưa lên miệng.

- Ăn xong con chở thầy đi một vòng cho biết đó biết đây, ở nhà buồn chết đi được.

Ông Cửu không buồn nhưng cô độc và cảm tưởng như bị tách rời giữa đám con cháu. Mấy ngày rồi mà chẳng có đứa nào thăm nom han hỏi ngoài trừ vợ chồng Phước nói qua điện thoại ba chớp ba nhoáng mấy câu rồi cúp. Ông thở dài:

- Thầy muốn đi thăm một vòng xem nhà cửa và công việc làm ăn của mấy đứa con anh Chẩn ra sao.

- Ủa! Nhà con không nói gì với thầy hết sao?

Ánh mắt Thành ngạc nhiên làm ông giật mình và tim bắt đầu nhảy mạnh. Lại chuyện gì nữa đây, tại sao mọi sự việc cứ tuần tự diễn ra trái ngược với điều ông nghĩ?

- Nghĩa là sao thầy không hiểu? Ông hỏi với thoáng chút nghi ngờ.

- Không, chẳng có gì hết nhưng có điều muốn đi thăm đâu phải chuyện dễ.

Chút nữa ông đã để lộ bất bình nếu không kịp thời ngăn chặn lời nói. Thì ra nó sợ tốn thì giờ, tốn tiền quà cáp xăng nhớt và cũng có thể tình cảm của nó đối với đám kia hời hợt nên đã không lui tới. Ở Việt Nam có xa xôi cách mấy cũng chỉ một ngày dài từ Sài Gòn xuống lục tỉnh mà ông không ngại chuyện đi lại, chẳng ngại công của thời giờ và những vất vả chờ chực đón xe, vậy mà bên đây xe cộ có sẵn, chỉ việc leo lên ngồi vài mươi phút là tới nơi mà nó còn bạc bẽo tính toán. Ông Cửu thở hắt một hơi dài thay câu trả lời rồi đăm chiêu nhìn ra ngoài cửa sổ. Cửa sổ hơi cao mà ông lại thấp nên chỉ thấy nền trời xám đen chìm khuất trong màu lá xanh thẫm. Cuộc đời ông rồi cũng chẳng khác cái màu trời u tối kia, nó chỉ nổi bật mầu sắc vào ban ngày và khi có những đám mây trắng lơ lửng, còn không thì... Ông bỗng buột miệng:

- Thầy cũng chẳng muốn phiền con phải khó nhọc chở đi, nên chừng nào ăn xong nhớ viết số điện thoại của chúng để khi nào rảnh rỗi thầy gọi lại hỏi thăm kẻo tội nghiệp. Qua đây mẹ cha không có, còn chú dì...

Thành ngắt lời ông:

- Chúng con chẳng có thời giờ lui tới mà điện thoại cũng hiếm khi. Nhiều lúc thấy vô bổ.

Từ hôm đón ông bà Cửu về đến giờ Thành khó chịu ra mặt. Tưởng chủ đồn điền trà sang giàu thế nào chứ còn như ông Cửu chỉ đáng là người làm công trong đồn điền. Chính vì vậy mà Thành có lối nói chuyện khinh thị và vắn tắt chẳng cần giải thích khiến ông Cửu không theo kịp nên mọi ấn tượng xấu về Thành được dịp bùng lên. Gật gù ra điều hiểu biết, giọng ông đầy châm biếm:

- Hồi thầy bu còn ở nhà cứ nghe người ta kể xứ văn minh dễ biến con người thành máy móc, không biết cảm xúc thương yêu, giờ mới biết sự thực còn hơn thế nữa.

Không nghĩ là ông cố tình khơi ngòi nổ, Thành nhún vai:

- Qua đây mỗi người một công việc, giờ rảnh của chúng con có thể là giờ học hoặc giờ nghỉ ngơi của tụi nó. Hơn nữa sau một ngày làm việc ai cũng muốn đầu óc được thảnh thơi. Thầy coi tụi nó đâu có ở gần đây, mỗi lần gọi tiền điện thoại chết luôn.

- Sao cái Nụ viết thư về bảo là liên lạc với mấy đứa hàng ngày. Vậy nó không phải trả tiền hở?

Nghe nhắc tên Nụ, Thành bật cười nửa thương hại nửa tỏ vẻ bực dọc:

- Con tưởng đem so sánh với ai chứ còn với dì ấy thì nói làm gì. Học hành không học, lêu lổng cả ngày, cứ tưởng ba cái tiền tàn tật là vinh quang cả đời nên không lo nghĩ gì đến tương lai, suốt ngày đứng ở đầu đường xó chợ ôm cái điện thoại công cộng...

Mặt ông Cửu đỏ bừng, con gái ông như thế mà nó dám miệt thị nặng nề. Ra cái thằng này không kiêng nể gì ai, ngay bố cái Nụ ngồi đây mà nó dám tuyên bố tiền tàn tật chẳng vinh quang. Giận trong lòng nhưng vốn là người thâm trầm nên mặt ông tỉnh bơ.

- Đâu dễ gì ai cũng xin được tiền ấy. Ngồi chơi không đầu tháng họ mang tiền tới cung phụng như bà hoàng. Nhà ở lại không mất tiền, hỏi trên đời mấy ai được như nó?

Ngừng một lát như để cho Thành thấm thía ông mới gằn giọng:

- Ở đời trâu buộc ghét trâu ăn. Con người ta tốt xấu đều lộ ra từ đấy!

Thành chỉ được tài nổ và bắt nạt vợ chứ còn hơn thua tranh luận chẳng bằng ai. Mà đâu phải người nổ gặp ai cũng nổ. Nổ với người chịu nghe hoặc được cổ võ khâm phục mới có hứng thú nổ tiếp, cũng như nhậu đâu phải chỉ cần rượu ngon, mồi tuyệt mà chính là bạn nhậu có ăn rơ với nhau.

- Anh nghĩ xem, ngày đi nó đâu mang hình tượng con người thế mà qua đây lại quá vinh quang. Đó cũng là nhờ trời xui khiến cho nó gặp được ông bác sĩ "chính cống". Mọi tật nguyền biến mất, bây giờ trông nó đâu thua gì chị nó.

Thành há hốc miệng nhìn ông Cửu thao thao bất tuyệt tuyên dương Nụ một cách cuồng dại mà không thể thốt thành lời.

- Nếu không nhờ cái "dĩ vãng tật nguyền" như thế thì sao nó được chính phủ nuôi cả đời? Tôi hỏi anh nếu anh có nhà, có xe, có tiền cung phụng hàng tháng thì anh có ngồi chơi không hay còn hơn thế nữa? Anh xem, gái Việt Nam bên đây quý như vàng mà người ăn không ngồi rồi như nó càng quý hơn. Cuộc đời như thế thì cần gì nữa mà phải học với hành? Bằng cấp làm gì, bà nọ ông kia làm gì khi từ tối đến sáng cứ phải làm quần quật? Ngay như chúng mày đấy, cả hai vợ chồng cùng làm mà chắc gì đã được bằng nó chưa?

Ông Cửu nói theo những lời Nụ viết từ trong thư với giọng hãnh diện tột cùng. Ít ra cũng phải cho Thành biết ông là người hiểu rộng, xét đoán rất trúng chứ không phải dễ bắt nạt. Riêng Thành thấy mình như đang ở một thế giới khác, toàn là những chuyện lạ kỳ mà từ trước đến giờ chưa lần nào được nghe. Chẳng lẽ ông già vợ nổ cừ như thế sao? Còn nếu không thì ai đã đầu độc ông một cách mù quáng tai hại như vậy?

- Nhưng... mà...

- Tôi biết, ông Cửu ngắt lời, tệ lắm thì nó cũng là sinh viên đại học. Dù gì cũng ở "co lét" một năm chứ có thua ai đâu.

Đã đến nước này Thành không còn giữ gìn ý tứ nữa:

- Trời ơi, ba mươi bốn tuổi đầu không chồng không con, không sự nghiệp tài sản, học chưa hết trung học, nghề nghiệp cũng không mà thầy còn bênh vực cho nó nữa.

Ông Cửu thở dài ngẫm nghĩ: Có nói lắm cũng mỏi mồm, một khi nó đã ghen ghét với em vợ thì chỉ toàn những lời nói chê bai. Ngay đến chuyện gọi điện thoại mà nó còn dùng tiếng đầu đường xó chợ thì thật là quá đáng. Dằn không nổi sự khinh miệt, ông buột miệng:

- Tôi thiết nghĩ điện thoại phải nhà giàu mới dám xài, nó mắc chứ nào rẻ mà ai lại ngu dại mang ra đường gắn cho mọi người chọc phá?

Giọng ông gần như lạc, có lẽ vì dồn nén cơn giận quá lâu. Bây giờ Thành mới vỡ lẽ là ông già vợ giận thật vì nổ không ai có thái độ đó bao giờ. Môi Thành điểm nụ cười, nụ cười chẳng hiểu châm chọc hay vuốt giận:

- Điện thoại công cộng là do nhiều công ty gắn ở khắp mọi nơi, trong các chợ, shopping, trường học hoặc ngoài đường để những người lỡ bộ hoặc nghèo ra đó mà gọi. Sở dĩ con nói dì Nụ cả ngày la cà chỉ vì nó có số điện thoại chùa nếu gọi ở nhà sẽ bị dính ngay.

Cái gì mà phôn chùa rồi lại dính? Thằng này nói toàn những tiếng khó hiểu quá. Càng nghe càng bực, ông tức mình đứng lên dõng dạc nói như hạ lệnh:

- Tôi vào phòng thay quần áo sẵn. Anh ăn xong rồi chở tôi đi xuống mấy đứa.

- Ngày mai sao được. Để rảnh rỗi vài tháng nữa con chở thầy đi.

Đúng là cái thằng muốn hoạnh họe, mặt ông đỏ bừng và giọng trở nên gay gắt:

- Tôi yêu cầu anh chở tối nay chứ có bảo ngày mai đâu.

Cơn bực từ từ tan. Thành thấy tội nghiệp cho ông hơn bao giờ hết. Đúng là cái mộng tưởng giết hại tất cả mọi người chứ không phải riêng gì Thành. Bao nhiêu lần thổi, bao nhiêu lần nổ để rồi bây giờ ngồi đây nhìn ông chủ đồn điền Bảo Lộc nghèo đói lộ cái dốt nát ra khiến Thành hết còn muốn nổ.

- Thôi để con cố gắng thu xếp cuối tuần này chở thầy đi.

- Vậy thì thôi, ông thở dài, tôi hiểu rồi. Anh làm ơn cho tôi số phôn của cái Nụ và đám kia.

- Thầy tính gọi bây giờ hả? Dì Nụ đi ăn đám cưới chưa về, còn đám kia có gọi cũng phải đợi thứ bảy hoặc chủ nhật cho đỡ tốn tiền.

- Lại tiền bạc. Lúc nào tôi cũng nghe anh nói tới nó, làm người mà trở thành nô lệ của đồng tiền là vứt đi.

Đã đến lúc này Thành thấy cần phải giải thích cho ông hiểu:

- Nhưng thầy đâu cần gì gấp. Gọi giờ này một tiếng nó tính mình mười mấy đồng. Mà thầy đâu chỉ hỏi thăm có một đứa, gọi tất cả một lượt như thế cả hơn trăm bạc.

Ông Cửu ngẩn người, lần đầu tiên nghe nói gọi điện thoại trong nhà phải trả tiền.

- Tôi tưởng mình có điện thoại gọi đi đến đâu mà chả được?

- Đúng vậy nhưng gần quanh đây thì chỉ mất một số tiền cố định phải trả hàng tháng. Còn ở xa hay tiểu bang khác thì trả mắc lắm.

- Vậy chứ chị em con Hạnh ở đâu?

- Đám con chị Chẩn ở Texas.

- "Tếch Xịt" là ở đâu?

- Con có nói tọa độ của nó chắc thầy cũng không hiểu, có điều cách đây gần hai mươi bốn tiếng xe hơi.

- Chúa ơi, ông Cửu kêu lên, vậy mà tao cứ tưởng ở gần cả đây, có xa lắm cũng chỉ một vài cây số.

Ông Cửu chết lặng người. Cảm giác chao đảo hụt hẫng như vừa rơi xuống hố. Im lặng đến vài giây ông chợt bước nhanh về phòng để lại đàng sau nụ cười thương hại của thằng con rể. Vào đến phòng ông nằm vật xuống giường rồi để mặc nước mắt trào ra... Thế là hết, mọi mơ ước đều bỗng chốc tiêu tan. Cả trăm lá thơ của bà con hàng xóm và những lời nhờ nhắn gửi đã hứa với họ trước khi qua đây giờ không thể hoàn thành. Làm sao đến nhà từng đứa một giao thơ tận tay cũng như tìm hiểu công việc làm ăn của chúng mà tường thuật? Làm sao có thể khuyên nhủ qua điện thoại khi biết rằng mỗi phút lại tốn một số tiền không phải nhỏ? Rồi còn cái Nụ nữa, đứa con ông đã đặt tất cả mọi kỳ vọng và qua đây cũng chỉ vì nó, không lẽ cũng lại tệ hại như thằng con rể ông vừa nói?

Tuy không muốn tin nhưng vẫn phải tin vì hiện tại rõ ràng ông thấy mình đang cô độc, giống như con cá nằm trong rọ, như người mù mò mẫm giữa ánh nắng ban mai với ngàn hoa đua nở, như kẻ què quặt giữa ngàn vạn tay bơi lội và như kẻ câm giữa muôn ngàn giọng nói ríu rít... Ông buồn, buồn và thất vọng vì thực tế không như ông nghĩ. Những mơ ước không tuần tự diễn ra mà lại đảo ngược. Không ngờ bằng này tuổi đời ông còn lắm thăng trầm...

Chương 4

- Mày ở đây hở Nụ? Ông Cửu hơi ngỡ ngàng khi vừa bước chân qua ngưỡng cửa.

- Ở đây là nhất rồi.

Có lẽ vì mang mặc cảm nên ngay câu đầu Nụ đã dấm dẳn nói trống không lại còn khỏa lấp bằng cách chỉ những dãy nhà lầu cao lớn chung quanh:

- Nơi con ở là trung tâm thành phố Santa Anna còn được gọi là Little Saigon. Bước xuống cầu thang vài bước là hàng quán, chợ búa, vải vóc chưng bày đặc nghẹt to gấp mấy trăm lần thành phố Sài Gòn...

Trong đôi mắt long lanh ngời sáng ấy chứa đựng một sự tự mãn chưa từng thấy nhưng phố xá vui vẻ tấp nập cũng chỉ hiện ra trong đôi mắt Nụ chứ theo ngón tay chỉ ông Cửu có thấy gì ngoài những mái nhà mọc lên san sát, khô khan, cằn cỗi và lạnh như những đùn cát ngoài sa mạc. May lúc ấy trời đang lem nhem tranh tối tranh sáng nên khó phô bày hết tất cả sự tả tơi nghèo nàn của một chung cư. Ông nhìn sang dãy đối diện, dọc theo hành lang vài người già ngồi vò võ trên chiếc ghế dựa nhìn về cõi hư vô. Dưới mặt đất, thành hồ tắm còn đọng vài vũng nước loang lổ và chỏng trơ chiếc phao đã bị xẹp hơi. Xa hơn, ngoài cổng, vài đứa bé đạp xe đạp lùi lũi không tiếng cười. Cảnh như thế thì lòng mừng vui sao nổi, ông không trả lời cũng chẳng cần góp ý với Nụ mà lẳng lặng theo chân con bước vào phòng ngủ.

- Thầy bu nằm trong này cho kín đáo, con ra phòng khách ngủ cũng được.

- Nhà có một phòng thôi à?

- Chứ còn mấy nữa. Hôm nọ con xin được hai phòng nhưng tốn điện quá, lại phải dọn dẹp mỗi ngày vì lũ bạn cứ ăn dầm ngủ dề nên tức mình con xin đổi ngay nhà khác.

Tuy đã được Thành và Tâm kể sơ qua về Nụ nhưng ông vẫn thấy nghèn nghẹn vì nắm được cái tẩy nghèo của Nụ rồi mà nó cứ còn vờ vịt huênh hoang. Nụ tưởng muốn vẽ voi sẽ thành voi, muốn vẽ chuột sẽ thành chuột nhưng có điều rõ ràng và hiển hiện ngay trước mặt là trong phòng có mỗi chiếc giường mà ông bà chẳng bao giờ nằm chung đã gần mười năm nay. Thất vọng não nề, ông bỏ túi quần áo xuống cố lấy giọng thản nhiên.

- Thôi con cứ ngủ trong này khỏi dọn ra dọn vô cho mất thời giờ. Thầy già cả nằm ở đâu chả được.

Ông lại thẫn thờ bước theo con và tiếp tục nghe nó phách tướng dẫn sang phòng bếp, phòng tắm và mọi kẹt tủ như người mộng du, một giấc mộng hãi hùng đã đánh tan nát tất cả hy vọng của tương lai và sự sống. Lúc Nụ vào phòng nghỉ ngơi, ông đổ người xuống chiếc ghế sa lông cũ mặc cho hai dòng nước mắt thi nhau chảy. Cũng may bà Cửu còn đang đứng ở dưới đường bịn rịn với vợ Tâm vì nó không muốn vào. Tâm viện cớ bận rộn công chuyện phải đi ngay nhưng ông biết chắc nó sợ nhìn thấy bộ mặt thất vọng và đau khổ của bố mẹ mình.

Vừa về tối qua, ngay gần trưa Nụ đã thuê taxi xuống nhà Tâm mừng đón ông bà. Kể ra nó cũng chí tình chứ còn đi xa về nào ai đã vội thức sớm mà chạy ngay xuống. Có điều nhìn Nụ và những phỏng đoán cả gần tháng nay ông thấy chẳng những đúng như lời Thành nói mà còn có thể tệ hại hơn. Ngay như dung mạo Nụ, cái Nụ mà ông vẫn nghĩ con Cám được cởi lốt mới thê thảm. Mười sáu năm trời nó không có gì thay đổi ngoài trừ cằn cỗi theo tuổi tác. Trời nóng, nó chỉ mặc mỗi cái áo thung rộng thùng thình để lộ hai cánh tay gầy guộc và chiếc quần thung ống túm bó chịt lấy đôi chân khẳng khiu teo bóp. Trông nó ốm yếu đến thê thảm. Ở quê ông, những kẻ tật nguyền lam lũ không thiếu nên Nụ không bị tách biệt. Bên này ai nấy lượt là sang trọng vì thế cái xấu xí trên khuôn mặt và đôi chân tật càng rõ nét.

Nghĩ cũng tội, khi bà Cửu mang thai Nụ, trong chuyến về thăm người em gái ở Cái Sắn thì xe đò bị lật xuống ruộng. Cũng may ruộng lõng bõng nước nên kẻ bị thương nhẹ, người bị nặng chứ không ai chết. Bà Cửu tuy chỉ xầy xuộc sơ sơ nhưng vẫn được đưa vào nhà thương vì cái thai bị động mạnh. Vài giờ sau Nụ ra đời nhưng chỉ nhỏ bằng cái bình thủy một lít. Nó yếu quá, không chết là may vì chỉ được nằm vỏn vẹn trong bụng mẹ có tám tháng. Sau khi sanh, nó phải nằm trong bình dưỡng khí suốt một tháng mới được mang về nhà. Thương con yếu đuối nhưng giá nó chết liền lúc lọt lòng thì ông bà đỡ ân hận, đàng này thân nó đã còi cọt, bệnh hoạn lại còn bị sứt môi. Ngày mang Nụ về nhà lối xóm viện cớ thăm hỏi đến xem đông nghẹt. Kẻ bảo tại bà ăn thịt thỏ, người bảo tại điềm trời, lại cũng có người vẽ chuyện bày ra kiếp trước kiếp sau khiến ông rối cả ruột gan. Chẳng hiểu tại những lời trù ẻo của họ làm cho có huông hay tại mọi đau đớn bệnh tật trong nhà bắt nó phải một mình gánh hết mà Nụ rất khó nuôi. Mỗi ngày ngoài hai bữa chính bằng nước thịt bò hầm với khoai và cà rốt, bà Cửu còn dậm sữa Similac với nước cháo cho nó uống nhưng con bé vẫn èo uột bệnh lên bệnh xuống. Ông trách bà tại không cho nó bú sữa mẹ, không ẵm nó cho có hơi người nên khó nuôi. Vợ ông cũng nghĩ như thế nhưng khốn nỗi sữa đâu cho nó bú vì phải gián đoạn suốt thời gian một tháng Nụ nằm trong phòng kiếng.

Gần hai tuổi Nụ mới chỉ bò lết chứ chưa biết đi. Đôi ống chân nó teo bóp và đôi mông dúm dó khó coi, lại nữa vết bớt xanh dưới cổ càng tạo cho Nụ vẻ xanh xao gầy guộc. Đúng là những khốn khó dồn dập xảy tới cho những kẻ bất hạnh. Bước chập chững đầu tiên khi Nụ được ba tuổi cũng là bước chập chững của cả đời. Cái Nụ bị tật ở chân... Bà Cửu ôm con đau đớn còn ông đay nghiến "phúc đức tại mẫu". Lớn lên Nụ đi đứng khó khăn lại tính nết ương dở nên mãi mười tuổi nó mới chịu đến trường và cố gắng theo đuổi lắm cũng chỉ hết bậc tiểu học. Nụ luôn mang mặc cảm thua sút bạn bè nên ít đi đến đâu, có đi cũng không dám xài nạng vì sợ chứng tích tật nguyền mà vứt nạng thì chân nam đá chân xiêu, đâm xấp dập ngửa. Có điều không hiểu sao ông luôn nghĩ rằng nếu vứt nạng và đứng giữa đám đông trông Nụ cũng lành lặn như mọi đứa cùng lứa nhưng bộ mặt... bộ mặt rỗ chằng chịt, một chứng tích thê thảm sau trận đậu mùa và vết thẹo sứt môi đã được dính liền vào cuộc đời bất hạnh của nó. Bây giờ nhìn tận tường sự thật ông cảm thấy hối hận vì khi xưa đã cho Nụ đi. Giá nó cứ tiếp tục ở Việt Nam và dựa vào danh vọng của ông thì ít ra cũng kiếm được tấm chồng còn qua đây có lẽ phải ở vậy cho đến muôn đời. Đàn bà bên này hiếm nhưng chỉ hiếm nết, hiếm tài, hiếm sắc, hiếm những kẻ khôn ngoan hoạt bát chứ còn con ông chẳng ra hồn người có rước về cũng là của nợ. Từ lúc thấy Nụ hồn ông như bị ai lấy mất. Ai hỏi gì, nói gì ông cũng gật đầu gượng cười cho có lệ vì biết chắc rằng ông sẽ cần giữ sức để cầm cự đợt khám phá thứ hai, thứ ba, những sự thật mà ông muốn chạy trốn cũng không được.

Chiều hôm đó, bà Cửu soạn trong tủ tìm kiếm những thứ vặt vạnh liệu chừng có thể xài được trong việc bếp núc. Tủ nẻo trống trơn, đồ khô đồ tươi cũng chẳng có như ở nhà vợ chồng Tâm, ngay đến cái thùng đựng gạo cũng không. Tuy mệt mỏi nhưng trong lòng bà vẫn muốn phấn đấu vì nghĩ rằng có ông bà thì chắc chắn cuộc sống sẽ đổi khác, nhất là vấn đề ăn uống ngủ nghỉ của Nụ. Bà sục sạo tìm trong tủ lạnh được vài quả cà chua chín, nửa chục trứng gà, một khoanh chả lụa và vài ổ bánh mì. Thương hại con nên đầu óc bà chỉ luẩn quẩn nghĩ đến bữa ăn, cố nấu thế nào cho thật ngon, cho thật vừa miệng Nụ vì có đến cả mười năm nó thiếu vắng sự chăm sóc của người mẹ. Bà mở bịch tôm khô vợ Tâm vừa mua lấy ra một ít rửa cho sạch mùi hôi rồi mới ngâm nước nóng. Bà thích nấu canh tôm khô cà chua và đập vào quả trứng đánh sợi như nấu riêu ăn với chả kho nước mắm. Chỉ nghĩ tới đó thôi bụng bà đã cồn cào. Cũng may vợ Tâm chu đáo mua cho bao gạo, nếu không lại phải ăn với bánh mì hoặc cái "hem bơ gơ" như lúc trưa thì đành nhịn thêm bữa nữa. Nồi cơm không có nắp, bà phải lấy cái đĩa sành úp lại cho cơm khỏi sống. Nấu canh cũng lẹ, phải mỗi cái tội không chày không cối, cuối cùng bà đành bỏ tôm trong nồi và lấy lon đồ hộp giã mạnh xuống cho mau nát.

Đang nằm trong phòng, nghe tiếng nện ầm ầm dưới nền nhà bằng gỗ, Nụ hấp tấp chạy ra và khi thấy mẹ mình ngồi xổm còng lưng giã con tôm khô hôi hám, Nụ nhăn nhó:

- Nhà có máy xay sinh tố sao bu không xài?

Bà Cửu cười cởi mở:

- Ai mà biết đâu, thôi để bữa khác.

Tuy nói vậy nhưng bà vẫn đứng lên chờ Nụ cắm điện và để cái ly khổng lồ vào máy. Công việc nhẹ nhàng nhưng phải mất đến vài phút chỉ vì bàn tay Nụ dài hơn thước tấc, quờ qua quờ lại đến mấy lần mới cắm đúng vào chấu điện. Bà sốt ruột:

- Đứng bên chỉ cách thức cho bu làm.

- Bu làm sao được, lạng quạng điện giựt chết tươi.

Nhìn cái chấu cắm bé xíu mà sợi dây lại mới tinh nhưng nghe con dọa bà cũng cảm thấy ngan ngán, thôi thì chịu khó chờ một chút cũng chẳng sao. Tuy nó làm trông gượng gạo khó khăn nhưng điện đâu ăn được nó, bằng chứng là nó vẫn sống sờ sờ ra đó suốt mười năm trời.

- Xong rồi đấy, bây giờ bu bỏ tôm khô vào và nhớ cho thêm chút nước không thôi cháy máy.

Nụ nhấn nút đầu tiên, bốn lưỡi dao nằm dưới cùng xoay nhè nhẹ nhưng chỉ đủ cứa đứt đôi con tôm khô ngâm vội chưa kịp mềm.

- Bu muốn mạnh hơn nhấn nút kế tiếp nữa. Đây này, nhìn theo con làm cho biết...

Nụ có vẻ hãnh diện vì công việc chỉ dẫn tỉ mỉ này, giống như một cô giáo non nớt chỉ bảo cho cụ học trò:

- Sống ở Mỹ phải như thế chứ! Ai mà cứ ngồi bệt xuống bếp đâm với giã nhìn chán cả ra.

Bà Cửu dễ dãi và vô tư hơn ông. Ngay từ lúc gặp Nụ lòng bà mừng như mở hội, tình mẫu tử lâu nay lắng đọng giờ đảo lộn trong hạnh phúc trùng phùng. Bà nhìn con đầy ắp thương yêu.

- Bu nấu gì vậy?

- Canh riêu tôm với cà chua.

Nụ chun mũi lại rồi đưa mắt nhìn quanh:

- Ảm hết vào màn cửa, thảm thùa. Sao không nấu canh thịt nạc có phải ngon hơn không?

- Thịt nạc ai mua?

Nụ cười hề hề:

- Ừ nhỉ! Bu thích thì con đạp xe ra chợ chỉ vài phút là có ngay.

Nghe đến chợ búa gần nhà, mắt bà chợt sáng và giọng liến thoắng như vừa tiêm được mũi thuốc khoẻ:

- Ngày mai dẫn bu ra chợ mua ít rau rợ cá mú về ăn. Bu bảo thật, cả mấy tuần nay ở trên nhà vợ Tâm thèm rau chết đi được mà không dám há mồm kêu.

- Thì ăn cơm xong lát nữa con chở đi.

Nghĩ đến cái xe đạp cũ kỹ bánh đi đàng bánh, khung đi đàng khung dựng ở góc phòng bà lắc đầu:

- Thôi chả thèm vào, vừa mới sang đây tao chưa muốn chết đâu.

Nghe mẹ nói trúng ý Nụ cười hềnh hệch. Quả thật nếu Nụ chở bà đi chỉ có nước hai mẹ con đánh vật với chiếc xe đạp. Nụ nhìn nồi nước vừa sôi tới nhắc chừng. Bà Cửu bỏ vội những khoanh cà chua đã thái mỏng chung với tôm khô cùng một lượt:

- Nhà không có bột ngọt hở Nụ?

- Ở đây ít ai xài thứ ấy lắm, ba cái chất hóa học làm lủng bao tử. Lần sau muốn canh ngon bu cho vào lon soup gà là ngọt ngay.

- "Xúp" gà có "cà rốt" á!

- Nó là nước thịt gà hầm sẵn đổ vào lon đóng hộp lại. Nước trong vắt như nước lạnh lại có vị thịt gà thơm ngon.

- Thế thì đánh át mùi tôm khô còn gì?

Biết mẹ mình vẫn có tật thích nói chuyện kể lể dài giòng như ngày xưa, Nụ lửng thửng bỏ ra ngoài phòng khách xem ti vi. Tuy thương mẹ nhưng quá khứ nghèo hèn luôn ám ảnh, vì thế tình thương bị mặc cảm lấn át, Nụ luôn mang trong đầu ý tưởng phải gột rửa ông bà cụ thành một người mới để khỏi xấu hổ với bạn bè. Ra đến phòng khách, Nụ ngả người trên ghế. Đối diện, ông Cửu ngồi ngủ gà ngủ gật vì vẫn chưa quen giờ giấc thay đổi nơi đất mới.

- Thầy không dậy tắm rửa rồi ăn cơm à?

Tội nhiệp, ông cụ đang ngủ ngon lại thêm tật lãng tai nên nói đến lần thứ ba mới nghe thấy.

- Gì vậy? Ông giật mình nhưng đôi con mắt lờ đờ khép kín.

- Cơm sắp chín rồi, thầy dậy tắm cho khoẻ rồi còn ăn cơm.

- Tắm gì giờ này? Mà thầy có làm gì đâu phải tắm?

- Thì thầy vào rửa mặt cho tỉnh táo. Tập thức khi trời còn đang sáng cho quen.

- Tập làm sao được, từ khi sang đây đến nay chẳng đêm nào tao chợp mắt, ông thủ thỉ như muốn tâm sự với con, hôm nọ vợ Tâm chở đi mua cho một vỉ thuốc ngủ nhưng rõ là thuốc giả vì chẳng thấy công hiệu gì cả chỉ làm mệt mỏi thêm.

Nụ nhìn thầy mình thương hại vì thấy ông khác xưa quá nhiều. Vẻ mặt lúc nào cũng ủ rũ buồn bã và tư tưởng yếm thế nên kiếm lời an ủi.

- Ngày thầy ngủ đêm thức thì đâu gọi là mất ngủ.

- Nhưng nãy giờ tao đã ngủ được mấy phút?

Đã có sẵn thành kiến và lại cho là cái mặt Nụ nhăn nhẳn trêu chọc nên tự dưng ông nóng cả người lớn tiếng:

- Hết tiếng khua gõ ầm ầm lại tới mày ra đây phá đám.

- Thầy lúc nào cũng bẳn gắt cho nó khổ thân. Thượng đế sinh ra con người phải hơn cây cỏ lá hoa, phải hơn muôn loài cầm thú mà sao hoa biết xòe cánh tỏa hương sắc, chim biết líu lo ca hát, vượn đua nhau chuyền trên cành...

- Chuyền cái con khỉ già. Ngữ mày học hành tới đâu mà giờ giọng văn chương với tao. Tao bảo thật...

- Tao bảo thật... là tao chỉ biết chửi thôi...

Nụ tiếp lời ông rồi cười hề hề. Ông Cửu không thể hiểu nổi. Ngày xưa nó mặc cảm vô cùng, hễ ai nói động đến là tủi thân rúc vào một xó khóc, hễ ai trêu ghẹo gương mặt xấu xí là bù lu bù loa vừa gào vừa kể vừa trách hờn thân phận thế mà bây giờ mới mười sáu năm tính tình nó hoàn toàn khác.

- Tao đã nói gì mà mày bảo là chửi hở con xẽo kia?

- Thì con xẽo... con kia... con ranh... Thầy vẫn không bỏ được những tiếng nhà quê đó. Mình nghe quen nhưng thiên hạ sẽ cho là lời thô lỗ tục tằn. Cũng như có nhiều người mẹ ngắt yêu con mà tím cả mặt mày. Cái gì quá độ, quá lời, quá tay cũng không tốt.

- Phải, ông Cửu gật gù, bây giờ mày hay mày giỏi nên dạy cả thằng bố mày.

- Con thấy ở Việt Nam nhiều bậc cha mẹ thương con quá cũng khổ mà khắc nghiệt với chúng quá lại càng khổ thêm. Con cái vô tình làm rớt cái chén đôi đũa cũng bị đánh túi bụi, quên không cho con gà con chim uống nước là bị đá dập đá dụi. Có người lại còn thả con vô ổ kiến lửa hoặc đánh chúng bằng củi tạ cho đổ máu rồi giã muối ớt xát vào vết trầy cho đau rát đến nỗi phải la làng. Cha mẹ gì mà tra tấn con cái dã man hơn kẻ thù, tội phạm. Qua đây nhiều người vẫn còn tật cũ không bỏ bị lũ con gọi điện thoại số chín một một báo về tội bị cha mẹ hành hung. Dĩ nhiên những người tàn ác như thế bị còng ngay tại chỗ.

Ông Cửu nhìn con, không hiểu nó có ám chỉ gì không vì vụ xát muối hay thả vào ổ kiến lửa tuy ông không làm nhưng dồn bao trấn nước Nụ thì đã có một lần.

- Con người qua đây mới thực sự được coi là một con người. Ngay những tên ăn trộm, ăn cắp bị bắt tại trận cũng không được quyền hành hung đánh đập nó. Có lần bạn con bị giật bóp, chụp vuột tay nên nó thoát chạy mà có súng cũng không dám bắn chỉ vì luật không cho bắn người đàng sau lưng. Súng chỉ để tự vệ chứ không phải dùng để giết người nhất là một khi nó đã sợ và quay lưng bỏ chạy...

Nụ nói và nói nhiều lắm như đang phô bày, khoe khoang mười sáu năm học hỏi nơi xứ tự do. Ông nghe nhưng tai bên này để lọt sang tai bên kia rồi chui tọt ra ngoài vì luôn cho rằng ý ông mới là đúng.

- Mày mới nứt mắt ra mà đã bày đặt dạy đời.

- Con đâu dám nhưng sống giữa xã hội văn minh mình không thể cứ mãi ăn lông ở lỗ, cũng không thể ăn mắm chuột, mắm tôm...

- Con xẽo lại nói nữa cho mẹ mày nghe thấy đào ông bới cha mày lên. Đã ngu thì ngậm cái mồm vào. Còn tao chẳng thà nhịn đói chết nhăn răng chứ không bao giờ ăn cái "hem bơ gơ" béo bổ hồi trưa của mày.

- Nhưng nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục. Bên xứ Mỹ nhà cao cửa rộng, máy lạnh máy nóng thổi ì ì mà nấu ba cái mắm thối cho nó ảm vào quần áo, vào thảm, vào màn cửa thì chịu sao cho nổi...


Buổi trưa sau bữa ăn, bà Cửu ra chiếc ghế salon cũ nằm ngủ say sưa như một đứa trẻ thơ dù đầu bà đã ngoẹo hẳn sang một bên. Nhìn bà ngủ mà thèm trong khi bụng ông lưng lửng những nỗi buồn phiền. Ông đưa tay kéo hẳn miếng màn cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời nắng gay gắt nổi rõ từng cụm mây trắng đục lơ lửng lưng trời che lấp mọi cảnh vật như cách ngăn hẳn thế giới loài người. Cái nắng cho ông cảm giác mây được nắng nung nóng rực lên như lòng ông bây giờ, trông vĩ đại, hùng dũng, cao dầy như những vách núi khổng lồ vẫn bị gió xuyên thủng. Lòng ông đã từng bị những mũi nhọn lần lượt đâm nát bấy, như kẻ đói khát còn bị thêm đòn roi vọt. Ông cứ nghĩ thức ăn sẽ ấm lòng con người nhưng không thể ấm được lòng ông. Những lúc ngồi một mình ông thấy lòng trống trải vô nghĩa. Ông nhớ ngày nào từ Bắc vô Nam, dù có vất vả cực khổ trong bước đầu tạo dựng cũng không cay đắng và tủi nhục như thế này. Thật vậy, những ngày sống với Nụ ông mới thấy cả một nền luân lý tự thuở nào bị sụp đổ. Nó chẳng coi ông ra gì. Ông nói một nó cãi mười, đôi khi còn cố tỏ ra hiểu biết để dạy khôn ông. Vẫn biết "tre già măng mọc và vẫn biết rằng "con hơn cha là nhà có phúc" nhưng nó đã được cái khôn ngoan gì ở ngoài đời? Có chăng chỉ là khôn vặt, láu cá và hỗn láo. Ông uất ức khi nhìn thấy nó dằn mạnh đống nồi niêu chén đũa mẹ nó rửa sẵn úp trên rổ:

- Có cái sponge ngay đó sao bu không lấy rửa mà lại tha miếng giẻ hôi thối ở đâu về thế này! Bởi vậy mấy bà già Việt Nam đi đến đâu cũng bị người Mỹ coi thường và chê dơ bẩn đến đó. Tại sao không dùng dishwashing liquid mà lại để mỡ nhẫy nhầy, thật là khủng khiếp!

Nó quăng cái nọ, ném cái kia lăn lông lốc dưới mặt thảm:

- Thầy bu vác của quỷ này từ đâu về cho bẩn nhà.

Bà Cửu ngu ngơ sợ con vất thật vơ vội mấy cái chai bằng thủy tinh cất vào chỗ cũ không dám mắng lại mà chỉ cười hiền hòa:

- Sư con khỉ. Nước cam nước táo uống hết, tao giữ mấy cái chai cái lọ để đựng ba cái vớ vẩn, khỏi mua bán cho tốn tiền.

- Ối trời ơi, Nụ trề môi, ở đây chứ nào phải Việt Nam mà bu giữ lấy để bán ve chai lông vịt. Thứ quỷ này có vất đi cũng chả ai thèm nhặt.

Ông Cửu tức lắm, bây giờ nó ra cái chuyện cha mẹ nghèo nàn thất học, đến một chữ tiếng Tây tiếng Mỹ cũng chả có, lại còn tham bô vơ vét những của thừa thãi rác rến làm dơ nhà bẩn cửa. Nó có biết đâu rằng không để dành làm sao có chai kẹo đắng, chai tôm khô, lọ bột ngọt, lọ gia vị nấu nướng, không nhặt nhạnh sao có hũ dưa, hũ củ cải muối?

Có lẽ ở nhà buồn, theo ông nghĩ, mặc cảm thì đúng hơn, ngay sáng sớm, vừa banh mắt Nụ đã leo lên xe đạp đi khắp cùng đường phố ra chuyện "ét xơ xai" cho người khoẻ mạnh. Đến đúng bữa trưa nó trở về với ba miếng bánh mì vừa tròn vừa dẹp, ở giữa kẹp một miếng thịt băm nướng khắm khói mà nó gọi là "hem bơ gơ" cùng với sáu lon "RC strawberry" nằm ngạo nghễ trên chiếc bàn vuông bốn chân èo ọt xiêu vẹo. Hành động của nó có khác nào dằn mặt ông bà đừng nấu nướng vì sợ bẩn nhà.

Hôm nọ bà hàng xóm biếu đến cả rổ cải bẹ xanh. Ăn không hết bà Cửu cắt ra phơi nắng và muối chua. Nhìn hũ dưa vàng rệu trông đến thích mắt thế mà chẳng biết mới đi đâu về Nụ chun cái mũi lại rồi huỳnh huỵch chạy xuống nhà bếp tìm tòi lục lọi. Cuối cùng khám phá ra, chẳng những nó đổ hũ dưa mà còn lôi được hũ mẻ ông dấu kỹ trong kẹt tủ dồn hết vào thùng rác với lý do mất vệ sinh và hôi cửa nhà. Trong thoáng chốc, bà Cửu thấy bao công lao của mình đi vào trong cái thùng hôi thối kia. Tức quá bà tru tréo cho hả cơn giận:

- Sư bố mày láo lếu, đền tao ngay hũ mẻ.

- Con không đền, bu còn mang nó về con đập vỡ ngay. Nụ trả treo.

- Mày tưởng xin dễ lắm à! Nói năm lần bảy lượt bà hàng xóm mới cho một muôi để gây. Công tao nấu nồi cháo suốt buổi trưa, mày nghĩ xem làm như thế mà coi được hở? Có mẻ nấu tí canh, tí giả cầy, cái gì mà chẳng được.

- Bu biết con mẻ là con gì không? Là con dòi. Con dòi ăn phân người. Nụ gục gặc cái đầu ra chiều bực bội.

Đúng là thứ ngu độn, bà Cửu không thèm chấp với Nụ vì dòi trong mẻ mà đi so sánh với dòi trong phân. Có điều bà cũng phải cho nó biết thế nào là cội nguồn:

- Hồi xưa sang đây mày đã mười tám. Mười tám năm trời đứa nào rúc ở nhà tao ăn canh cá củ chuối nấu mẻ? Đứa nào ăn cá hãm thủy với mẻ? Đứa nào ăn lươn nấu hoa chuối với mẻ? Đứa nào...

Nụ ngắt lời:

- Mười tám năm trời không lẽ con người không thay đổi? Hơn nữa, thịt gà thịt heo ê hề bổ dưỡng như vậy thầy bu không ăn lại đi ăn ba thứ vớ vẩn.

- Nhưng khốn nỗi tao ăn không được những thứ mày gọi là bồi bổ đó, ông Cửu xen vào, cũng như tao không tin được những gì mày đã nói. Mày bảo mày có xe, bây giờ xe đâu hay vẫn chiếc xe đạp thổ tả nghèo nàn nhất nước Mỹ. Mày bảo mày lành lặn, đẹp đẽ ai ngờ nào có khác gì xưa. Rồi mày bảo mày giầu có nên sắm sẵn áo quần mền gối và phòng riêng, ai ngờ qua đây phải nằm đất. Nhà cũng chẳng phải của mày, nay nó tới xét nhà, mai nó cho người theo dõi rình rập. Sống thế thì sống sao được...

Bà Cửu nghe chồng tố khổ Nụ cũng tru lên gào khóc, kể lể nghe thật thảm thiết mặc cho Nụ đứng nghệt mặt ra. Còn thương gì được nữa mà thương quân lừa dối. Sự dối trá hành hạ ông thì ít nhưng sự tin tưởng đến nỗi cuồng dại lại hành hạ ông quá nhiều. Ngày nào qua đây ông chỉ nuôi hy vọng ở một mình nó. Nó đã làm cho ông nở mặt nở mày với xóm ngõ láng giềng và đi đến đâu người ta chẳng nhắc nhở hỏi han cô Út. Cô Út được coi như một thần tượng của các thiếu nữ đang xuân, được coi như thần tài của những gia đình túng thiếu và với ông là cả một hãnh diện tột cùng. Nào ngờ qua đây mới biết nó lại là thứ nghèo đói khố ránh áo ôm nhất nước. Số tiền tàn tật mà ông cho là của trời cho, là một sự may mắn nào ngờ chính là niềm bất hạnh, mất mát của con mình.

Chương 5

Ông Cửu buồn lắm, ông nhớ lại những bữa lễ giỗ dai dẳng kéo dài cả tuần lễ. Song song với việc giỗ chạp là nghe những lời tâng bốc con ông cho xứng đáng với bữa cơm thịt cá thịnh soạn. Việc đó làm ông hãnh diện và vui sướng tột cùng, niềm hãnh diện của một ông bố có con gái giàu sang phú quý, như vua của một cõi mà chung quanh ông là đám quần thần tung hô chúc tụng. Ông tưởng qua đây, bà con láng giềng và những người nào đã từng quen biết ông sẽ phải kính nể, khúm núm, nào ngờ con ông còn nghèo hơn bất cứ đứa nào trong xóm. Thằng con ông Tá, cả năm mới gửi về nhà có mỗi thùng đồ. Ở nhà gia đình nó xúm lại chia năm xẻ bẩy, bóp chắt cũng chỉ đủ ngày hai bữa cơm độn thì nói chi đến việc đình đám thế mà bên đây nó vẫn còn có một chiếc xe hơi cũ làm phương tiện di chuyển, vẫn còn mướn được cái "ờ pá tơ mân" ở thoải mái với vợ con, vẫn còn có công việc để làm chứ không lang thang vất vưởng như con ông.

Ông buồn vì niềm hy vọng hoàn toàn sụp đổ nhưng vẫn còn gượng gạo lây lất sống qua ngày. Điều ông cảm thấy bất lực và buông tay thua cuộc là những bữa cơm khô khan mãi tiếp diễn như loài người phải ăn cỏ khô. Mấy ngày liên tiếp chịu không nổi ông đành than phiền với Tâm. Hôm sau, vợ chồng Tâm mang đến một bao gạo nhỏ, một bịch tôm khô, một chai nước mắm, một hũ mắm tôm và vài cái nồi cũ. Tâm xếp cả lên bàn và bằng giọng trịnh trọng cô con gái rơm rớm nước mắt:

- Chính ra thầy bu phải ở với chúng con, vì dù sao chúng con cũng khá giả tươm tất hơn nhưng cái Nụ côi cút ở một mình cũng buồn. Hơn nữa nó cứ ăn rông ăn rài, học hành chẳng lo học, tính tình cũng quái đản nên có thầy bu ở bên cạnh ép nó vào khuôn phép, ăn uống có chừng có bữa hẳn hòi thì con nghĩ chỉ vài tuần sau là đổi khác ngay.

Nghe Tâm nói thế ai chẳng mủi lòng nhưng thực ra Nụ đâu cần sự săn sóc của ông bà mà trái lại Nụ còn muốn dậy khôn, làm thầy đời.

- Cái Nụ có trở chứng với thầy bu chưa vậy?

- Tao chẳng hiểu ra làm sao cả. Đứa nào qua đây cũng muốn nhà sạch nhà thơm trong khi ăn uống khô khan nguội lạnh. Ăn như thế thì làm sao sống nổi.

- Bên Mỹ khác bên mình thầy ơi. Khổ lắm có nói ra thì bị coi là mất gốc mà ăn uống bày biện ra như thé thời giờ đâu để nấu? Thời giờ đâu mà giặt thảm?

- Nhà giàu mới sợ thảm hôi chứ còn nghèo thì sợ gì ai?

- Cứ như thầy thì mình khác nào mọi.

Ông Cửu nhìn Tâm hậm hực. Ông tưởng than thở với Tâm cho vơi bớt những uất ức chán nản trong lòng ai ngờ Tâm lại cũng cùng một luận điệu như Nụ. Ức mình ông chỉ vào đống nồi niêu cũ và vài món đồ khô Tâm vừa mang tới cất giọng sang sảng với vợ như thuở nào:

- Bà vào cầm cuốn sổ để tôi ghi xem hết bao nhiêu sau này trả lại cho vợ chồng nó.

Quay sang Thành đứng xớ rớ gần đó ông nói tiếp:

- Để lãnh được tiền già thầy sẽ trả cả lời lẫn vốn.

Tâm khẽ cười, nụ cười đầy ngượng ngùng nhưng không phải với ông mà với chồng.

- Còn lâu lắm thầy ơi, phải ba năm nữa. Mà có đáng là bao mà thầy phải bận tâm.

Hơn ba tuần sống trong giả dối, hết che đậy cho chồng lại đến cha mẹ, Tâm tưởng là thoát ách khi ông bà dọn sang nhà Nụ, nào ngờ thấy ông lúc nào cũng bổn cũ soạn lại, vừa dở lại vừa ương. Nàng phân vân không biết nói gì để bớt ngượng với chồng thì Nụ đã nhét ba mươi đồng vào túi Thành:

- Từ bây giờ mọi chuyện ăn ở của thầy bu để em lo. Anh chị còn nhà cửa nợ nần, riêng em đã có chính phủ nuôi không, chẳng đói đâu mà phải sợ. Có điều em không thích thầy mẹ ăn mắm sặc mắm ngóe nên đừng tha xuống nữa.

Tâm giật mình nhìn ông Cửu và đoán chắc cứ luận điệu này trong nhà sẽ xảy ra chuyện lớn. Nàng vội nắm tay mẹ để từ giã nhưng còn làm bộ ra chiều bịn rịn:

- Bu giữ số phone này. Sau năm giờ chiều là con có mặt ở nhà, bu gọi lúc nào cũng được.

Xa Tâm mới có vài ngày nhưng thiếu người trò chuyện bà Cửu mủi lòng oà lên khóc như cuộc chia tay vĩ đại từ Bắc vào Nam:

- Con ở xa thế làm sao đến với thầy bu thường xuyên được.

- Đâu bao xa, Thành chen vào, chỉ mười lăm phút lái xe thôi. Thầy bu yên chí, chúng con sẽ đến đây mỗi tuần chở thầy bu đi lễ nữa chứ!

Ông Cửu giật mình, hôm nọ ở nhà vợ chồng nó đi lễ đã phải mất hơn nửa tiếng mới tới nơi, bây giờ thêm mười lăm phút nữa. Đi về mất tiếng rưỡi cộng với giờ xem lễ là mất toi buổi chiều Chủ Nhật. Ông thở dài:

- Sao chúng mày không kiếm chỗ nào gần nhà thờ mà ở? Xa thế này sáng tối lễ lậy làm sao?

Tâm nhún vai:

- Có sát vách cũng hơi sức nào đi lễ mỗi ngày. Thầy coi làm quần quật từ sáng cho tới đêm, giờ ngủ không đủ lấy đâu mà lễ với lạy.

Ông Cửu bực lắm, nếu ở Việt Nam mà nói với ông những lời lếu láo như thế thì đã bị chửi cho một trận nhưng bên này chúng được tự do ăn nói nên ông cố giữ lời trách thật nhẹ nhàng:

- Chúa ban cho của ăn hàng ngày thì con cố gắng sốt sắng kinh hạt, đi lễ sớm tối tạ ơn Người mới đúng.

- Đi như vậy lấy tiền đâu trả bills hàng tháng? Thầy làm cứ như đang còn ở Việt Nam nằm chơi dài dài khỏi lo lắng gì hết. Bên này nội tiền nhà trả đến mãn đời cũng chưa hết nợ.

- Tao tưởng nhà cửa đó là của chúng mày? Ông ngạc nhiên.

- Thì của chúng con chứ sao! Nhưng tiền đâu mà trả một lúc mấy trăm ngàn trong khi mỗi tháng làm chỉ dư vài trăm bạc cho nên phải ra ngân hàng mượn, như thế tính ra trả ba mươi năm mới hết nợ. Nợ xong cũng đâu có yên, nào thuế đất, thuế county, city, bảo hiểm cháy, bão, động đất... Ôi bằng đó thứ cũng muốn khùng, thầy có tin rằng nhà đã trả xong rồi mà không có tiền trả thuế đất cũng mất nhà luôn?

Ông Cửu nghe lùng bùng ở lỗ tai, cái gì nhà mình rồi không phải nhà mình. Cái gì nợ đến ba mươi năm cũng chưa xong mà còn có thể mất luôn nếu không trả thuế? Thuế là cái quái gì mà chúng nó phải sợ đến thế! Nhà ông đã từng nợ thuế đất đến hai chục năm mà có ai làm gì được đâu. Nếu không phải sang tên cho vợ chồng thằng Chẩn trước khi đi Mỹ thì chắc gì chúng lấy của ông được một xu. Ông định mang kinh nghiệm của mình ra kể cho thằng Thành sáng mắt nhưng mấy lần định mở lời là mấy lần vợ Tâm cố tình gạt đi. Chán nản ông đưa mắt nhìn sang vợ...


Lúc ấy bà Cửu đang nhìn ra cửa sổ và dừng lại thật lâu ở những dãy lầu san sát bọc vòng cái hồ tắm vĩ đại với màu nước xanh biếc. Trong hồ, một đám trẻ đang đùa giỡn với những chiếc phao nổi đủ màu sắc làm bắn nước tung tóe. Mặt chúng đỏ au vì say nắng pha lẫn tiếng cười nói rổn rảng. Chung quanh hồ, loang lổ vài đám cỏ khô trơ đất. Bà chép miệng:

- Giá được miếng đất kia trồng thì có vô số rau mà ăn.

Tâm nhìn theo tầm mắt mẹ, nàng lắc đầu:

- Thảm cỏ xanh tươi đẹp như thế mà bu đòi trồng rau. Thật đúng là...

- Là... là cái gì hở khỉ? Bà quay lại mắng yêu con. Tao chẳng thấy đẹp một khi nhìn nó vô dụng.

- Người ta phá cả vườn cây ăn trái để trồng cỏ cho đẹp cho sang, còn đây có sẵn bu lại đòi phá đi. Nhớ hôm nọ bu ươm trên con mấy hột mướp, sáng nay anh Thành nhổ tiệt.

Tâm giật mình ngưng lại khi biết mình lỡ lời. Quả nhiên bà Cửu quay phắt sang nhìn Thành:

- Hôm đi tôi dặn kỹ là đừng có mở lớp lá khô che bên trên vì nó mới nhú non, nắng gắt quá sợ sẽ chết. Tại sao chưa được vài ngày anh đã nhổ đi?

Tâm nháy mắt nhìn chồng cầu cứu. Nếu bà biết được chính tay Thành hất tung lớp lá khô, cào nát những mầm non mướt như người ta diệt chết một loại cây độc thì bà sẽ tiếc biết chừng nào. Mảnh đất nhỏ bằng chiếc nón khó có thể làm xấu mảnh vườn sau nhưng nếu để lớn lên nó sẽ bò ra cỏ vì không có giàn. Nhà nàng chắc chắn chẳng bao giờ có giàn mướp vì Thành đang cần ánh sáng mặt trời rọi qua khung cửa kính mỗi chiều để làm ấm áp đôi phần cái nền nhà lạnh toát. Hơn nữa, ánh nắng sẽ giết chết vi trùng, khử bớt mùi hôi hám trong nhà. Buổi sáng cào nát cây đâu đã yên, Thành lái xe vào nursery mua bốn miếng cỏ vuông đắp vào khoảng trống mà ông Cửu cuốc lên để trồng cây tuần trước. Thế là xong, từ bây giờ trở đi Thành sẽ không còn ấm ức mỗi khi nhìn thấy nó.

- Tao gieo cả ba mươi hạt, định vài ngày nữa đánh ra cho mỗi nhà ít cây mà trồng. Thật đúng công toi!

Bà Cửu tiếc công trình chăm dẵm lại kèm thêm sự bực dọc khi khám phá rằng đất cát ở đây còn mắc hơn vàng. Chính vợ chồng Thành có nhà cửa rộng rãi mà còn tiếc cả nắm đất nói gì đến những nơi khác, như nhà cái Nụ, giọng bà gay gắt:

- Biết chúng mày nhổ đi thì tao đã mang hết xuống đây mà trồng.

Ông Cửu cũng ấm ức nãy giờ nhưng vẫn nhỏ nhẹ:

- Bà nhổ lên nó động rễ trồng sang năm cũng chẳng có trái. Mà thôi tiếc làm gì, bây giờ ươm lại cũng đâu có muộn. Mình còn cả bao hạt giống cơ mà!

Bà còn đang ngẩn người ra ngẫm nghĩ thì Nụ giọng nửa đùa nửa thật:

- Ở đây đất đâu có mà bu trồng? Còn nếu cứ ngoan cố trồng trong chậu cho nó bò trên tường thì con chỉ tặng cho ly nước sôi là xong ngay.

Nhìn dáng điệu ngông nghênh của Nụ, bà lườm yêu nó một cái thật dài:

- Ngoan cố cái thằng bố mày. Lớn tồng ngồng mà ăn nói không phép tắc thì liệu cái phần hồn mày.

Nụ cười hề hề, tiếng cười dễ dãi của ngày xưa nhưng bây giờ đối với ông Cửu hình như đang pha trộn cả sự khiêu khích lẫn thách đố. Nụ không còn im lặng khoanh tay cúi đầu nhận lỗi mỗi lần ông quở trách dù đúng hay sai mà luôn luôn dùng lý lẽ để biện hộ cho mình. Ngay vấn đề ăn uống tắm rửa vệ sinh của ông nó cũng chen vào khích bác và chống trả kịch liệt dành phần đúng về nó. Nụ luôn kết luận bằng một câu nói mà ông ghét cay ghét đắng: "Ở nước Mỹ mà thầy làm như đang ở với mọi Rha Đê".

Bảo vợ chồng Tâm tệ bạc chứ suy ra Nụ còn tệ hơn nhiều. Cái tình cảm cha con mặn nồng khi xưa giờ như chỉ còn liên hệ bởi những câu thưa gọi thầy bu, ngoài ra cách đối xử không thua người dưng nước lã. Chính ra ông về đây Nụ phải vồn vã, mừng rỡ, đàng này lại dửng dưng ra chuyện chấp nhận như rước của nợ. Hễ đi đâu thì thôi mà về đến nhà là nó chun mũi hửi chỗ này, hít chỗ kia. Hôm nọ bà Cửu đang kho chả với nước mắm. Từ ngoài vào nó chun cái mũi rồi nhảy lên như bị phong giật và hấp tấp lao đầu về phía trước.

- Chúa ơi! Bu nấu cái gì mà thối tha như thế!

Thấy Nụ về nhưng ông Cửu vẫn giật mình vì tiếng hét của nó. Mùi đồ ăn thoang thoảng, đúng là mùi chả kho nước mắm, cái mùi khăm khẳm quen thuộc làm các tế bào trong ông chỗi dậy và buồng phổi nở to ra. Ông thấy bụng cồn cào đói và bước nhanh theo Nụ xem nó định dở trò gì. Dưới bếp, bà Cửu đang lui cui đổ chả ra dĩa và trên bàn đã bày sẵn hai tô canh bí đao. Sau lưng bà, Nụ đứng chống nạnh mặt sưng lên.

- Bà làm gì mà ngon thế! Vừa nói để đánh trống lảng ông vừa kéo ghế ngồi xuống.

- Ngon với chẳng ngon, Nụ gắt khá lớn, mình đâu phải là mọi Rha Đê mà đòi ăn mắm chuột. Sang đến xứ sở này mà còn ăn kiểu hôi hám đó.

- Sư mày, không ăn thì xéo đi chỗ khác.

Bà Cửu lườm con nhưng vẫn dọn ba cái chén trên bàn.

- Con không ăn đâu, nuốt gì nổi mà nuốt. Nhà Mỹ mà bu nấu nước mắm tanh như chuột chết.

Hình như mỗi lần trước mâm cơm vừa chín tới, ông bà quên tất cả mọi chuyện đang diễn tiến chung quanh. Có thể cả hai cùng áp dụng câu trời đánh còn tránh miếng ăn nên cố nín nhịn nhưng thái độ tảng lờ của ông bà càng khiến Nụ thêm bực dọc. Mặt đằng đằng sát khí, mắt Nụ bất chợt dừng lại ở cửa sổ, nơi treo tấm màn bằng voan đã cũ. Phải làm một cái gì đó để biểu tỏ sự tức giận hơn là la hét. Không chần chờ, Nụ với tay lên và giựt mạnh xuống, lớp bụi phủ theo đà rơi bay tứ tán trong lúc bà đang lấy cơm ra đĩa. Ông Cửu tuy kẻm nhẻm nhưng cũng nhìn thấy tận tường. Ông cố vuốt giận cho chính mình:

- Một nháng là mùi hôi bay đi hết ấy mà. Nấu món ăn Việt Nam mà không bốc mùi ăn làm sao ngon.

Quả tình ông muốn nhịn Nụ thực sự vì nấu được lần này sẽ có lần khác. Ông sợ những bữa cơm lạt lẽo mùi vị, ông sợ những cái "hot dog" Nụ mang về

- Ngon cái miệng mà chết cái nhà, Nụ vẫn cứ gân cổ, khách khứa bạn bè ra vô chúng khinh cho.

- Nhà có phải của mày đâu mà giữ như mả tổ?

- Nhà ai thì cũng phải ăn ở cho vệ sinh sạch sẽ chứ! Chẳng thấy ai như mấy bà già Việt Nam dơ bẩn...

Bà Cửu cảm thấy bực bội vì Nụ cứ càu nhàu những chuyện không đáng, bà dằn mạnh nắm đũa lên bàn:

- Chúng khinh là khinh thứ lêu lỏng chơi bời, không tiền không bạc chứ khinh mùi nước mắm kho chả à!

Bị va chạm tự ái, Nụ nói như hét:

- Nhưng con không bằng lòng nấu nước mắm trong nhà. Rồi bu xem, thằng chủ nhà tí nữa bò lên đây nó sẽ cho một tràng vệ sinh thường thức. Nào là văn hóa dân tộc, nào là tiến bộ của loài người. Thầy bu có tai đâu mà nghe, chỉ tội cho con mà thôi.

Gì chứ nói đến chủ nhà là bà Cửu ngậm tăm. Tuy không rành nhưng nghe vợ Tâm bảo ở nhà housing tụi nó rất khó nhất là tụ họp ăn uống đông đảo, ngay như Nụ tật nguyền thế mà động một chút là chúng "đì" bắt dọn tới dọn lui. Bà Cửu không sợ phiền đến Nụ nhưng sợ bị đuổi ra khỏi nhà. Thân ông bà đã ăn đậu ở nhờ lại bám cả vào Nụ cũng đang ăn nhờ ở đậu nốt. Vừa giận lại vừa tủi, tay bà run lên khi bới cơm ra chén:

- Dù gì cũng lỡ rồi, để nuốt cho trôi bữa nay rồi từ mai tao chỉ luộc tí rau chấm với nước mắm. Thôi ngồi xuống đi đừng hùng hổ nữa Nụ ạ!

Chuyện chẳng có gì đáng để làm to nhất là đang trong bữa ăn nhưng khốn nỗi Nụ vẫn bực mình vì chẳng hiểu tại sao ông Cửu lại cứ lời nặng lời nhẹ với mình. Thêm vào đó Nụ muốn chứng tỏ mình văn minh tân tiến nên vùng vằng mở tủ tìm chai nước khử mùi hôi và cứ để như vậy vung vẩy đi từ nhà trên xuống nhà dưới xịt nước bay mù. Bà Cửu nhìn theo lắc đầu:

- Nhà có thua gì cái ổ chó. Bộ ghế nệm cũ ảm toàn mồ hôi, thảm cũng đen cáu toàn những đất mà ra bộ quý hoá trưởng giả. Mà cũng tại ông viết thư sang tán dương sự giàu có sang trọng làm nó được thể càng thêm hống hách.

Nãy giờ cố nín nhịn với con, bao nhiêu tức giận bị dồn nén ông Cửu quay ra gay gắt với vợ:

- Phải, lỗi tại tôi cả mọi đàng. Ấy thế mà lại có người đứng ngay kế bên cổ võ mới lạ.

- Tôi mù chữ biết đọc đâu mà cổ với đầu.

- Không biết đọc nhưng bà có tai nghe chứ!

- Thì ông đọc chứ còn ai vào đó nữa.

- Có đọc cũng nhìn trong thơ chứ chẳng lẽ bịa ra à!

- Vậy chứ ai đi khoe từ đầu trên xuống xóm dưới?

- Tôi khoe thì nào đã mất mát gì?

Những ấm ức đang xảy ra từ Nụ không ngờ hai ông bà lại quay đầu lại la ó nhau như hai đứa trẻ nít. Bà Cửu cảm thấy mặt nóng bừng và cơn giận từ đâu kéo tới, bà nói hơi lớn tiếng:

- Ai bày tiệc lớn tiệc nhỏ? Ai bảo nó gửi máy này máy nọ về nhà? Rồi ai viết thư xin hết vải "suýt" đến vải gân cho cả giòng họ? Ai...

- Ra bà kể tội tôi đấy nhỉ! Nó bảo nó giàu, tiền của xài không hết phải gửi cho các hội từ thiện để giúp đỡ trẻ em bệnh tật bên Phi Châu hoặc những thuyền nhân còn đang tạm trú bên đảo. Bà nghĩ xem giòng họ mình không nghèo hơn những người đó hay sao?


Mỗi khi tranh luận, bao giờ ông Cửu cũng thắng, chả thế mà cả một đời lúc nào bà cũng cung cúc nghe theo chồng. Hơn năm mươi năm làm vợ và làm dâu bà nhận thấy những khó khăn, độc đoán bên gia đình chồng hầu như đã trở thành chuyện bình thường và một người yếu đuối không lập trường như bà thì cũng dễ dàng chấp nhận. Thoạt đầu là nhượng bộ những quá trớn của chồng, sau nữa vì yêu thương và vì muốn gia đình êm thắm cho nên bà luôn tâm niệm "một câu nhịn là chín câu lành." Dần dần từ "nhịn" chuyển sang "sợ" không mấy khó, lúc nào bà cũng ở cạnh ông như một kẻ đầy tớ hiền lành và trung thành nhất. Ông bảo sao bà nghe vậy, ngay đến quyền làm mẹ cũng chẳng có, thương đứa này bỏ đứa kia cũng từ ông mà ra. Những khi ông la mắng con cái, bà cũng len lén trốn một chỗ cho qua cơn sóng gió hoặc mẹ con ôm nhau ngậm ngùi.

Ông oai phong là thế, ông uy quyền là thế mà bây giờ bà dám trả treo một đối một là sự chẳng vừa. Cái lý do để bà được quyền bình đẳng, ngang hàng với chồng chỉ vì ông không dám đánh bà nữa sau lần đuổi bà chạy từ nhà ra vườn. Dù chuyện xảy ra cách đây tám năm nhưng bà nhớ rõ như in là chiều đó sau khi la cà ở nhà hàng xóm đến gần nửa ngày mà không xin phép ông trước Biết tội, bà lấm la lấm lét lẩn về đến đầu ngõ, lòng mừng khấp khởi vì nghĩ ông đi đâu chưa về. Ai ngờ rình sẵn từ lúc nào nên bà vừa bước chân vào nhà ông đã giơ cao chiếc gậy phạng vào lưng. Nhanh như cắt, bà tránh được và quay ngược lại phóng bay ra ngoài. Thế là hai mái đầu bạc trắng nhấp nhô theo đôi chân nhỏ thó đuổi nhau trước sự thích thú reo hò của đám con nít. Bà tuy bé người nhưng chạy thật khoẻ, cũng có thể vì sợ khúc gậy quá to đang gần kề nên bà quên hết nhức lưng phong thấp, quên luôn bờ ruộng ướt và trơn tuột. Bà thoăn thoắt băng ngang những vườn rau xanh lá, đạp lên cả luống su hào vừa gieo hột tuần trước. Hấp tấp thế nào mà khi chạy dọc theo bờ ao bà ngã sõng xoài và lăn tỏm ngay xuống.

Ở dưới ao nước lạnh cắt da, bà quên buốt giá quơ mạnh chân tay lội bì bõm. Cũng may ông Cửu vừa tới nơi thò vội cán gậy cho bà bám lấy để trèo lên. Trông bà nhanh nhẹn khỏe khoắn nhưng khi vừa bò lên tới bờ ao đã nằm ngất xỉu làm ông tủm tỉm cười. Ông cho rằng bà mưu mô nên cố giả đò để vừa tránh cảnh bị đòn lại vừa được chồng thí dỗ năn nỉ. Ai ngờ gọi đến năm lần bẩy lượt cũng không nhúc nhích, lại thấy mặt bà càng lúc càng tái mét, ông hốt hoảng la to cho mọi người đến giúp.

Lúc đó, những người làm vườn còn ở đủ cả nên họ xúm lại kẻ thoa dầu người cạo gió. Vần qua vật lại, đến lúc cạo trúng ngay đốt xương sống bà oằn người và kêu thét lên. Thế là kẻ đoán gẫy lưng người cho là bị trật xương sống bèn gọi xe đưa bà vào ngay bệnh viện. Thuốc men cả tháng trời nhưng khi xuất viện bà vẫn khập khễnh chống cái nạng gỗ vì hai dĩa sụn bị bẹt ra theo thời gian gồng gánh nặng nề nay có cơ hội phát chứng.

Từ hôm bị ngã ao, bà chỉ loanh quanh trong nhà làm những việc nhẹ. Ngoài vườn không người phụ giúp, có mỗi thằng con nuôi còn nhỏ lại ham chơi hễ ra tới vườn là xuống ao mò cua bắt ốc. Ông bảo cách nào cũng không được. Vắng một chút đã thấy nó biến mất nhưng bù lại có những buổi tối nó mang về cả rổ ốc mít. Ông Cửu thích ăn ốc nấu chuối xanh với mẻ, bỏ thêm vài lát bì heo hầm cho nhừ, chút mắm tôm và rắc vài cộng tía tô hoặc lá lốt. Nghĩ đến món canh ốc, ông quên mình đang gầm gừ với vợ con nên múc muôi canh đổ vào chén xì xụp húp:

- Giá có ốc nấu chuối bà nhỉ?

Hương vị quê nhà bốc lên khí quản làm bà nuốt nước bọt ừng ực và cũng quên luôn câu chuyện vừa xảy ra. Bà nghiêng chén sát bên đĩa cơm rồi lấy đũa gạt vào, cơm dẻo trắng tinh không chút mùi thơm nhưng bà vẫn lấy đũa gẩy một bểu cho vào miệng nuốt trửng như mọi lần rồi mắng yêu chồng:

- Có voi đòi tiên, hơn nửa tháng nay ở nhà vợ Tâm bó buộc, cố mơ ước có ngày được tự do xào nấu, bây giờ vừa bữa đầu tiên đã đòi ốc với chuối. Bên này đào đâu ra thứ ấy.

- Cứ để yên rồi bà xem, vừa gắp miếng chả kho ông vừa rung đùi làm chiếc ghế èo ọt lại được dịp lắc lư, chỗ nào có Việt Nam là có tiết canh, dồi chó. Mắm tôm họ còn đóng chai được, không lẽ lươn, ốc, hoa chuối lại không? Một vài ngày cho quen nước quen cái, tôi đảo khắp một vòng quanh đây thể nào chả kiếm ra.

- Ông thì chỉ cứ giở giọng khoác lác, hồi trưa dọn nhà vào đây tôi nào có nhìn thấy ai là Việt Nam đâu.

- Bà không thấy nhưng tôi ngửi thấy.

Bà Cửu hom hem cười, hình như đã lâu, từ ngày rời Việt Nam bà không có được nụ cười nào cả.

- Làm như là chó.

Biết vợ hết giận ông cũng cười đồng tình coi như chuyện cãi nhau vừa xong chỉ là món canh nấu mặn, khó nuốt nên ông không chấp nhất những lời đùa giỡn của vợ.

- Còn giỏi hơn cả chó nữa, nếu không sao tôi ngửi thấy mùi trứng chưng mắm tôm. Mai bà làm một bữa mà ăn, món nào mà cứ hôi um lên là tôi chịu.

Nghĩ đến đĩa trứng chưng mắm tôm màu nâu đất vừa đặc vừa sệt bốc vị thơm ngào ngạt, bà chợt nhớ đến Nụ và những tức giận của nó nên nhỏ giọng:

- Thôi đừng chọc cho nó nổi điên lên nữa. Bớt mồm ăn bớt miệng nói lại là yên ấm cửa nhà. Nó cũng tròm trèm băm tư chứ còn nhỏ nhít gì, nay mai lỡ đứa nào phải lòng lấy nó là thành mẹ, thành bà mấy hồi.

Ông Cửu nhìn vợ, không hiểu bà dùng sai chữ hay vì lý do gì mà lại nói "phải lòng". Thường thường hai tiếng phải lòng để ám chỉ những gì không mấy tốt đẹp xảy ra. Tuy nhiên bữa cơm hợp khẩu vị nên ông cười dễ dãi và cùng a dua với vợ:

- Bà nói thế mà hay. Chỉ có đứa nào lầm lỡ nên mới phải lấy nó mà thôi.

Thực ra bà Cửu dùng tiếng lỡ cũng hơi quá đáng. Nụ tuy xấu và tật nguyền nhưng dưới đôi mắt của những người Mỹ, những người có lòng nhân từ bác ái thì lại là kẻ đáng thương. Ngay vài tuần đặt chân sang Mỹ, nàng đã được bác sĩ Tim McCabe đề nghị mổ để đặt lại sợi dây gân cho thẳng, may ra có thể trở lại bình thường như mọi người. Lúc đó còn trẻ, còn hy vọng nên Nụ vui vẻ yêu đời lắm. Nàng viết thư cho bạn bè ở khắp mọi nơi, nhất là thơ về Việt Nam tường thuật mỗi biến chuyển của căn bệnh. Mổ xong, Nụ chỉ được nằm nhà thương vài ngày làm nàng thấy ngỡ ngàng. Tụi Mỹ dùng tiếng surgery nghe có vẻ to lớn vĩ đại chứ thật ra chỉ rạch mỗi một đường dài khoảng hai phân ở hai cổ chân. Nụ thở hắt ra khi ngày đầu tiên y tá lại thay băng và nhìn tận tường vết cắt:

- Tại sao không mổ dài thêm tí nữa hoặc rạch hết cả ống chân?

Nụ nằm vật vã trên giường sắt với thất vọng tột độ làm bình nước suối nối dài bằng vòi cao su nhựa chao động mạnh. Cô y tá hiểu lầm sự đau đớn của Nụ nên vỗ về:

- Không sao đâu, vết thẹo rồi sẽ biến mất.

- Tôi muốn có thẹo, thật nhiều thẹo cô nghe rõ chưa?

Nụ khóc lên rưng rức y như nhiều thẹo thì sẽ được lành bệnh và bằng thái độ trẻ con, nàng phân trần:

- Chỉ rạch một chút như vầy thì cần gì đến thuốc mê, cần gì người đến ký giấy tờ? Tôi tự rạch cũng được vậy.

Giờ thì vỡ lẽ, cô y tá ái ngại:

- Không phải vậy, bác sĩ chỉ giải phẩu những chỗ cần thiết thôi. Bệnh của cô khả quan lắm mà.

Chương 6

Nụ để mặc nước mắt nhỏ xuống từng giọt dài không cần dấu diếm. Bao nhiêu hy vọng đều tùy thuộc vào vết khâu, vết khâu càng dài, càng đau đớn nhức nhối thì sự thành công càng cao thế mà lý do gì bác sĩ chỉ mổ lấy vì? Tuy buồn nhưng cũng chưa hẳn là Nụ đã hoàn toàn tuyệt vọng vì bác sĩ chưa cho biết kết quả thì mọi phỏng đoán chỉ là tưởng tượng. Nụ cố lấy buồn làm vui nên hôm xuất viện nàng gọi thằng Peter, bạn học cùng lớp, mang máy chụp hình và nhờ cô y tá chụp dùm. Peter tướng tá cao ráo, mắt xanh, tóc vàng lại khá đẹp trai và rất tự nhiên. Nó đứng đàng sau vòng cả hai tay quanh vai Nụ, mặt cúi thật thấp và thật sát. Mắt nó cười mơ màng như đang chụp với người yêu mặc dù nhiều lúc đùa cợt nó hay gọi Nụ là "little sister". Đôi khi thân mật hơn nó ôm lấy cổ Nụ kêu "Oh! my baby". Mặc kệ, gọi gì thì gọi. Việc trước tiên là phải gởi những tấm hình "như là tình yêu" này đi tứ xứ để "giựt le" với bạn bè, nhất là với cha mẹ mình để ông bà phải la hoảng. Quả nhiên, vừa trông thấy hình ông bà nhảy dựng lên như điện giựt nhưng sự hốt hoảng chứa đựng đầy vẻ hãnh diện nên chỉ vài phút sau ông bà hân hoan đi từ đầu trên xóm dưới khoe thành tích "vinh quang" của con mình. Qua Mỹ lấy được chồng Mỹ mới ngon, vì nếu không nói được tiếng của họ thì ai mà cưới. Ông bà chỉ đơn giản hiểu như thế, cũng như mọi người trong xứ ai cũng quan niệm nếu nói được tiếng Mỹ là đã thành công trong tất cả mọi mặt kể cả kinh tế vì tụi Mỹ tuy lớn xác nhưng đầu óc không hơn gì một đứa con nít.

Xuất viện về Nụ ở nhà thêm một tháng để tập cử động, tập đi và tập đứng. Chẳng có gì khác biệt hơn ngoài cây gậy chống cho khỏi ngã. Tuy nhiên, gậy làm Nụ coi bộ chững chạc và có vẻ bà cụ hơn, dáng đi cũng khoan thai chứ không vung vẩy, loạn xạ như trước. Tóm lại Nụ cố giả vờ tự tin một cách ngu xuẩn, bám víu vào những vết thẹo như một bằng chứng hiện hữu để đánh lừa những cay đắng của mình vì một tháng trôi qua vẫn không xóa được một phần nhỏ của bệnh tật, có chăng thêm được hai vết thẹo con đã liền da non.

Lúc đó Tâm chưa lấy chồng, chưa xin được housing ngoài welfare, foodstamp nên hai chị em ở chung phòng với một số bạn bè khác. Thỉnh thoảng những lúc vắng người, Nụ ném gậy thử đi một mình. Lại y như xưa, có nghĩa là lúc nào cũng như vồ như ôm chầm lấy người khác. Là con gái nên lắm nước mắt, nhiều lúc khóc chưa đủ, Nụ chống nạng thất thểu ra ngoài park rồi thừa lúc nhìn quanh quất không thấy ai, Nụ vung gậy quất vun vút vào những đám cỏ non mướt khiến rễ, đất cát tung bay vùn vụt. Từ đó chiếc gậy không còn là điểm tựa cho Nụ dùng để đi mà dùng để biểu lộ những uất hờn đã che dấu một tâm trạng vô cùng đau khổ. Chiếc nạng bị sứt sẹo cào nát nhiều chỗ thì cơn buồn giận của Nụ càng vơi đi.

Lâu dần cũng nguôi ngoai, Nụ đã tập cho mình một thói quen che đậy, cứ nghĩ như đã khỏi bệnh hẳn và cố quên buồn bằng cách bỏ học dù mới chỉ lớp mười. Tiền tàn tật được hơn sáu trăm mỗi tháng, sau này lại xin được housing nên vật chất tương đối thoải mái. Hơn nữa Nụ ăn uống dễ dãi, nhiều khi buổi trưa chỉ cần một ly nước lạnh và gói potatoes chip hai mươi lăm cents cũng xong. Tối nào vui trong lòng hoặc bụng cồn cào đói thì đi bộ ra đầu đường kiếm cái Big Mac, tiện tặn chút nữa thì cái hamburger cho nên Nụ cũng dư khá tiền dù đã gởi hàng tháng về nhà.

Một lần Nụ đi ra nước ngoài thăm bạn bè. Cái phút cảm động và sung sướng nhất đời là lúc Nụ chống nạng từng bước một từ hành lang nối liền máy bay đến tận phòng đợi giữa tiếng reo của cái Xu, cái Hào, giữa tiếng "Oh, my God" rất Mỹ và những cái bắt tay nồng nàn, những vòng ôm cứng ngắc không khác một bà tổng thống đi kinh lý. Nụ hãnh diện với cái nhãn hiệu "công dân Mỹ" và bộ quần áo "Mỹ" trên người mặc dù hai con bạn đến đón trông nó cũng "hơi văn minh" giống Nụ. "Mặc kệ, diện thế nào thì diện chứ Thụy Sĩ sao bằng Mỹ, đem so sánh chẳng khác nào lấy đá phân bì với cẩm thạch.

Hai con bạn thân từ hồi còn ở quê nhà, chung trường tiểu học, chung lớp, chung mâm và đôi khi còn chung cả giường nên ra chiều vui vẻ thân mật lắm. Chúng đón Nụ bằng chiếc xe Pinto cà rịch cà tàng. Tuy nhiên tiếng nổ lớn lại làm Nụ vui vì có bao giờ nàng được ai đưa đón bằng xe hơi ngoài vợ chồng Tâm. Tâm thì màu mè kiểu cách, mỗi lần bỏ Nụ xuống y như rằng vội vã phủi bụi, đất cát ở miếng thảm con để chân. Đã vậy những giấy kẹo ăn xong lỡ có rơi xuống cũng không thoát khỏi đôi mắt cú vọ của ông anh rể.

Xe loanh quanh trước một sân parking rộng lớn nhưng khó tìm được chỗ đậu sau sáu giờ chiều. Đeo túi xách trên vai, Nụ khệnh khạng chống gậy theo chân bạn lên cầu thang vào một trong những building nghèo nàn cũ kỹ ngay trung tâm thành phố. Đám bạn khố rách áo ôm lẫn lộn sáu đứa trong một phòng, tưởng đón được "bà Mỹ con" từ xứ văn minh giầu có để được chia chác chút đỉnh. Nào ngờ trong túi xách Nụ mang theo chỉ vỏn vẹn vài bộ quần áo đã qua mùa, vài chục tấm hình với những "thằng kép" Mỹ mập phục phịch nhỏ hơn Nụ đến cả mười lăm tuổi và chiếc máy ảnh "thổ tả" không đáng giá mười đồng bạc. Ngày đầu chúng còn mong ngóng may ra Nụ mang theo chút đỉnh tiền bao đi uống cà phê hay ăn tô phở. Nào ngờ Nụ quen tính tằn tiện bóp chắt cho nên suốt từ sáng, trưa đến chiều tối chúng chỉ thấy Nụ mò vào tủ lạnh lục lọi kiếm vài khoanh bánh mì kẹp vào miếng cheese, hoặc nấu chén mì gói trông thật thê thảm. Thế là cả đám đứa thì cáo bệnh, đứa phải đi học, đi làm thành ra Nụ trơ trọi một mình. Một hai ngày đầu Nụ không để ý nhưng lâu ngày thấy sự lơ là của chúng bạn, Nụ chột dạ vội gọi điện thoại mượn Tâm năm trăm đồng để tiêu xài và góp thêm phần ăn của mình chờ cho hết tháng và chờ cho chóng tới ngày về.

Sau chuyến đi Thụy Sĩ kèm theo những kinh nghiệm đã có, Nụ chỉ loanh quanh trong nước và rút ngắn thời gian thăm nom vừa tiện túi tiền vừa đỡ vất vả cho bạn bè. Mười năm, Nụ tổ chức bốn cuộc du lịch. Chính vì thế mà làm xóm ngõ xì xào bàn tán và làm cha mẹ Nụ mang cái hãnh diện lầm lẫn. Con bé tật nguyền đã biến mất chỉ còn nàng Cám vớ được chiếc hài tiên đã thoát xác với những ăn xài vung vít, rộng rãi giàu có và ngay đến vấn đề chồng con ai cũng cho là Nụ kén chọn chứ nào ngờ...

Giận con, ông châm biếm cho hả cơn tức nhưng thực ra tâm can lại thấy nhói đau. Dù gì nó cũng là con ông, là máu mủ ruột thịt, là công vợ ông mang nặng đẻ đau và cũng là công dưỡng dục mười mấy năm trời. Bệnh tật ai chẳng ương dở. Người ta bệnh một hai ngày đã khổ sở rên la, còn con ông hơn ba mươi năm chịu tàn tật... Ông thở dài, miếng cơm cuối cùng chợt nghẹn:

- Bà không gọi cho nó ăn đi à!

- Nó đi ra ngoài ngay từ lúc nãy. Tôi nghe tiếng đóng cửa cái rầm. Gớm, điếc gì điếc nặng thế không biết.

Nền đất khô cứng lún phún những ngọn cỏ vàng èo ọt, thỉnh thoảng bị khuất lẫn trong đám cỏ dại vượt cao hơn. Khoảng sân sau của dãy nhà hội bô lão không rộng nhưng bị bao bọc bằng hàng rào kẽm ngăn cách những nhà chung quanh nên ông bà Cửu chỉ đi được vài mươi thước đã phải quay trở lại. Giữa sân, rải rác vài nhóm ngồi tụm năm, tụm ba nhìn trời, nhìn đất hoặc nói những chuyện riêng tư. Ông Cửu thọc hai tay vào túi áo. Chẳng hiểu sao ông lại cứ thích mặc bộ pyjama khi đi ra ngoài. Bộ đồ bằng teteron màu xanh lạt mà ông cho là trẻ trung, mang dáng dấp thanh lịch thế mà Nụ thấy ông mặc cứ dãy đay đảy:

- Con nói thầy bao nhiêu lần rồi, pyjama chỉ mặc buổi tối khi leo lên giường thôi. Nó là đồ ngủ.

Kệ cái giống ương dở muốn nói gì thì nói, ở Việt Nam ông vẫn mặc đi ra đường có chết ai đâu.

- Ai lại ăn mặc thế này, Nụ tiếp tục cằn nhằn, người ta cười bảo là chúng con có học mà để ông già ăn mặc kỳ dị. Hay thầy thay áo thung và lấy cái quần jean của con mà mặc vào.

Ông Cửu nhìn Nụ chằm chằm. Đời thuở nào cha lại mặc quần áo của con, đàn ông lại mặc quần áo của đàn bà? Nghèo thì nghèo chứ nào đã rách rưới khốn khổ như thế! Thấy ông không trả lời, Nụ cũng đâm ngượng nên vội bào chữa:

- Hay để con dẫn thầy ra ngoài K. Mart mua vài cái quần jean mà mặc.

- Già rồi mặc cao bồi ai coi cho được. Hơn nữa cái quần cứng như hồ lại bó chịt hai ống chân trông chẳng khác thằng đánh gậy. Thôi tao chẳng muốn làm trò nỡm.

- Nếu thầy muốn rộng rãi thì mua quần tây với áo chemise.

- Mặc nó lại phải đi giày, trời nóng như đổ lửa mà đóng bộ vào. Ối giời ơi, ông thở hắt rồi lên giọng, đừng bày vẽ nữa, đẹp gì cái vỏ bề ngoài. Đời mà, tốt danh hơn lành áo.

Hình như đã biết không thể thay đổi được tính ông nên Nụ chẳng buồn nói thêm. Từ đó ông muốn làm gì thì làm, ngay đến chuyện vác cái dù theo giữa trời nắng gắt Nụ cũng không hề há miệng vì cho rằng ông càng già thì càng ương dở giống con nít.

- Ông làm gì cứ thừ người ra thế?

Bà Cửu thấy chồng đi dạo mà cứ thừ mặt suy nghĩ, tâm trí để tận đâu đâu nên hỏi đột ngột khiến ông giật mình:

- Thừ đâu mà thừ. Tôi đang nghĩ hay tôi với bà theo cuộc sống mới, cứ quẳng gánh lo đi là xong hết. Bắt đầu từ mai cứ ăn cơm tối xong là mình dắt nhau đi dạo. Mọi chuyện để ngoài tai, mọi uy quyền danh lợi để sang một bên. Tuổi mình gần đất xa trời rồi chẳng còn gì để mà đáng phải lo nữa...

Tuy nói thế nhưng chiều đến ngồi bên mâm cơm ông lại buồn rầu, có đến hai tuần các món ăn không đổi. Vẫn dĩa bắp cải luộc, hai quả trứng chưng mắm tôm và chén nước mắm mặn gắt những muối.

- Sao ngày nào cũng có mỗi món này vậy bà?

- Thì ông đi chợ đi.

- Có xa xôi là bao mà phải dừa cho tôi?

- Không dừa nhưng chợ búa phải có tiền chứ!

- Cái Nụ không đưa tiền cho bà à?

- Chuyện, ông cầm cả nắm tiền còn không dám xài thì nó có vài trăm bạc thấm thía vào đâu.

Bà trách ông là phải vì từ hôm vợ chồng Phước ký ngân phiếu năm ngàn biếu ông bà đến giờ, sau khi nhờ vợ Tâm đổi ra tiền mặt, ông gói kỹ trong bao ni lông dấu tiệt, chớ hề dám lấy ra một đồng.

- Bà phải nói tôi mới biết chứ. Mai bà đổi cho tôi trăm bạc mà tiêu dần.

Hôm sau, ông bà rủ nhau đi bộ sang chợ. Từ nhà đến chợ khoảng hơn hai trăm thước nhưng xe cộ đông như nêm. Tiếng động cơ, tiếng còi xe cộng thêm sức nóng hừng hực từ dưới đường xi măng bốc lên lẫn mùi xăng, khói xe làm ông bà cảm thấy ngột ngạt. Ông nắm tay bà dắt ngang qua đường, qua là qua đại chứ còn dù đèn đường đã bật xanh mà bên kia chỉ muốn nhào tới nghiến nát khách bộ hành. Ánh nắng vẫn xoay xoáy xuyên qua lớp vải mỏng của chiếc dù che đổ xuống đỉnh đầu dừng lại ở những mảng da hói.

Ông bà bước nhanh như chạy đua làm cánh dù mỏng được dịp chao đảo. Đến chợ hết độ mươi phút mà người vã đầy mồ hôi, ông đứng bên lề cụp dù xuống cầm gọn gàng trong tay rồi mới bước vào. Gọi là chợ chứ thực ra bán đủ thứ đồ dùng. Từ thực phẩm tươi, khô cho người, chó, mèo đến thuốc tây, thuốc trừ sâu bọ. Từ lọ sơn móng tay, hộp phấn đến cái chổi hoặc đồ chơi trẻ em xếp đặt thứ tự trên những dãy kệ dài bốn tầng đầy kín mặt hàng. Chợ chứa được cả ngàn người thế mà đồ chất cao chỉ chừa vỏn vẹn những lối ra vào cho khách hàng, đủ biết chủ chợ giầu cỡ nào.

Ông Cửu tối tăm mắt mũi với những món đồ bày ngộp mắt trong khi bà Cửu tần ngần đứng bên dãy hàng rau. Rau đủ loại xếp từng hàng dài trên kệ cao vừa tầm lấy, từng vòi nước từ bên trong thỉnh thoảng tẽ cao rắc đều trên những cánh rau non, bên dưới trải lớp đá vụn giữ cho rau khỏi hư thối. Đến dãy hàng thịt hơi lạnh tỏa ra khá mạnh vì tất cả những freezer đều mở, bà so vai, hai tay vòng ngang bụng giữ độ ấm trong người rồi nhìn vào giá tiền và so sánh với giá mua ở Việt Nam, món nào cũng vài chục ngàn, nhiều thứ mắc gấp mấy lần. Dạo qua dạo lại đến mấy lượt, rốt cuộc ông bà xót của lại thẫn thờ về tay không. Ra đến ngoài ông chép miệng than thở:

- Tiền đô quý thật bà nhỉ, hay tại bây giờ bất tài không kiếm ra tiền nên cái gì đối với tôi cũng là xa xỉ phẩm.

- Không quý thì cũng chẳng thèm khát gì ba miếng thịt vàng bạc đó. Ăn xong để sống thọ đến trăm tuổi à!

Những bữa cơm kế tiếp cứ thế diễn ra thật đạm bạc, còn đạm bạc hơn ở Việt Nam. Cả tuần không được miếng thịt, ông bắt đầu thèm một bữa cơm giỗ thật thịnh soạn, thịt cá ê hề hoặc ít ra cũng phải là bữa cơm do vợ thằng Phước nấu. Ông nhớ đến những con cá lóc vừa bắt ở dưới ruộng lên còn dãy đành đạch mang vào lò than đỏ hồng. Dĩ nhiên, dù miệng đã bị tọng vào thanh sắt đâm sâu vào bụng, con cá vẫn có thể văng ra ngoài vì sự vùng vẫy quá mạnh khi bị nướng sống như thế.

Ông thích ăn cá nướng. Mùi thơm khen khét của lớp vảy đặt sát vỉ than hồng bắt vào mũi làm nước miếng ông cứ trôi xuống cổ họng ừng ực, nhất là khi liên tưởng đến tô mắm nêm pha chế thật đặc biệt của Cảnh. Tô mắm nêm màu hồng nâu, sền sệt những miếng khóm bằm nhuyễn, những mảnh ớt, tỏi, xả nhỏ li ti trộn đều để chễm chệ ngay giữa mặt bàn. Chung quanh Cảnh xếp bốn dĩa rau bốn góc có cả chuối chát, khế chua, đôi lúc không có khế Cảnh thay vào xoài xanh, nhiều nhất vẫn là dấp cá, ngò gai, tía tô, húng quế. Con cá được để lên chiếc dĩa hình bầu dục cái miệng hả ra thật lớn. Thân hình nó cong vòng theo khuôn dĩa với lớp vảy xém đen, một lằn nứt chạy dọc theo sống lưng hở những mảng trắng như thịt gà đang nghi ngút bốc khói. Đặt đĩa trước mặt từng người, Cảnh múc mắm nêm ra chén, trải bánh tráng sẵn cho ông bà rồi nhẹ nhàng ngắt những cọng rau thơm bỏ vào, cũng không quên bỏ vài miếng củ cải muối chua, vài khoanh xả bào thật mỏng. Xong đâu đó, Cảnh mới lấy đũa khẽ dích mảng da cá xuống, thế là nguyên nửa phần thịt lộ ra và dĩ nhiên, miếng ngon nhất, bự nhất được cuốn gọn trong hai cái cuốn đầu tiên dành cho ông bà. Ông không quen ăn những món của người nam nhưng vợ Phước có lắm tài lại khéo bày ăn nên món nào cũng ngon miệng.

Cảnh cũng hay nấu canh chua với đầu cá lóc. Nội hai cái má đầy những thịt, lại còn cái hàm dưới rồi còn cái đuôi, bộ lòng, bao tử. Bao tử cá ăn dòn dòn sựt sựt, lá gan lại bùi làm sao. Phần giữa, bao giờ Cảnh cũng dành riêng để kho tộ. Nhà có cái nồi đất nhỏ xíu mặc sức cho Cảnh bày trò. Có bữa, ông thấy nó vùi nguyên cái nồi xuống đống than đỏ, tưởng có mùi khói ám ai ngờ lại ngon vì chất nước sền sệt màu nâu vàng làm khứa cá trông bóng bẩy hấp dẫn thêm lên. Cơm gạo tám thơm ăn với canh chua cá kho tộ thì còn gì ngon bằng chỉ phải mỗi tội Cảnh cho nhiều ớt quá, vừa ăn ông phải vừa uống bia mới bớt cay.

Tất cả mọi thứ vợ Phước nấu ông đều thích hết nhưng món cá rô chiên dằm nước mắm ớt vẫn hấp dẫn ông hơn cả. Con nào con nấy có lớn chi cho cam, chỉ cỡ ngón chân cái nên mỗi lần Cảnh mua về phải cả rổ. Có hôm gặp cá ngon, vừa bước chân vào nhà Cảnh đã ném vội cái giỏ chạy sang hàng xóm xin mớ lá tre rồi cứ thế bắt đứa ở sóc cho sạch nhớt. Mỗi lần nhìn rổ cá là con bé ở sa sầm nét mặt vì nghĩ đến lúc phải móc mang, móc ruột. Xong đâu đó, Cảnh đổ vào cả lít mỡ, lửa để riu riu như chiên chả giò. Con cá mang ra dòn rụm từ trong ra ngoài và còn đang nóng hổi, Cảnh rưới từng muỗng nước mắm cay vào...

- Lâu rồi bà nhỉ! Dễ đến mười sáu năm.

Ông buột miệng trong khi bà Cửu nhìn ngơ ngác:

- Chuyện gì mà mười năm với lại năm năm?

- Thì vợ Phước ấy!

- Vợ Phước làm sao mới được chứ!

- Từ ngày nó đi mình chẳng còn được ăn những món đặc biệt của nó.

- Ông chỉ lẩn thẩn. Thích thì xuống nó mà ăn chứ có gì khó đâu.

- Thèm vào ngữ ấy.

Giận hờn ông nói vậy chứ lòng vẫn thấy nao nao. Ngày xưa khi vợ Phước vừa sanh con Dung là ông đi khoe cùng xóm ngõ. Trong vòng một giờ đồng hồ mà từ đầu trên xóm dưới không ai không biết nhà ông Cửu có tin mừng. Họ mừng dùm ông thì ít mà mừng cho họ thì nhiều vì sắp được bữa cỗ no. Cỗ mừng đâu phải chỉ một lần, rồi còn tiệc đầy tháng, thôi nôi, sinh nhật, rồi còn cháu trai, cháu gái... Ôi thôi cứ tha hồ mà ăn vì đâu ai xót của dùm ông, chỉ có mỗi vợ Phước là tỏ ý chống đối việc ông làm. Chẳng hiểu nó sợ cực nhọc hay tiếc của thực sự:

- Thầy ạ! Mỗi lần tiệc tùng cũng phải hơn trăm người ăn, tiền đó gom lại cả năm cũng dư mười mấy cây. Con nghĩ mình dành dụm vài năm mua căn nhà lầu ở ngoài phố sống cho nhàn hạ thoải mái. Thầy bu già rồi, làm lụng vất vả quá...

- Không làm lấy cứt mà nuôi cái nhà này à!

- Nhà này thầy đâu phải nuôi ai, vợ Phước nhỏ nhẹ, anh Chẩn đã có gia đình riêng, con cái đủ ăn đủ mặc. Cô Tâm và cô Nụ thì ăn uống có là bao. Chúng con ở với thầy bu để lo hiếu đễ chứ đâu phải ăn bám hoặc nhờ vả.

Ông Cửu ngắt lời:

- Biết rồi, nào tôi có dám nói là nhờ vả đâu. Nuôi "anh ấy" tới ngày này, dựng vợ gả chồng là tôi hết trách nhiệm.

- Con không có ý phủi bỏ công ơn dưỡng dục của thầy bu đối với nhà con nhưng con thấy gia đình mình cũng có tiền ra tiền vào rủng rỉnh mà anh Phước học hành chữ nghĩa chẳng thua ai. Tại sao không dọn về Công Lý hay Hồng Thập Tự?

- Thì chị dọn riêng ra mà ở, ông nói lẫy, gia đình tôi xưa nay cha ở đâu thì con phải ở đấy.

- Con nghĩ có dời đi đâu chăng nữa thì cũng cả nhà mình, no đói có nhau chứ con nào có ý định ra riêng..., vợ Phước ngập ngừng, hay là mình mua căn nhà ba tầng trên Phú Nhuận, hai tầng trên ở còn tầng dưới mở tiệm bán thuốc tây.

- Bán thuốc tây? Ông dè bỉu kêu lên. Cứ tưởng bịp được tôi? Chị học tới đâu ai chẳng biết mà rộn.

- Thưa thầy, đâu phải cứ có bằng cấp mới được mở pharmacy. Bây giờ người ta nhờ dược sĩ đứng tên đầy. Còn không thì bán bàn ghế, giường tủ, tệ hơn nữa cũng hàng xén, chạp phô...

- Thôi thôi... ông Cửu xua tay, tôi chẳng vô công rỗi nghề mà bàn tính những chuyện "đại sự" như chị. Bán chạp phô một tháng lời được bao nhiêu, liệu một năm được mấy bữa giỗ?

- Đó chính là điểm con muốn nói. Tại sao mình lại quá cực khổ trong khi mọi người ai cũng sung sướng tận hưởng cuộc sống? Tại sao một người còng lưng làm nuôi cho bằng đó người ăn? Họ hàng đến đây đâu chắc vì tưởng nhớ tổ tiên hay đến chỉ vì bữa ăn? Ở chơi không, ăn xong lại còn được dồn quà cáp tiền bạc cho về xe ai mà chẳng ham hố.

Ngừng một lát như thể nghe ngóng phản ứng của ông, vợ Phước nhắm mắt lại gồng mình nói điều khổ ải đã phải chịu đựng quá lâu:

- Mỗi lần giỗ chạp xong con thấy nhà cửa như muốn tan hoang, đồ đạc mất mát, đã vậy gạo, than củi, dầu ăn nước mắm cạn xuống tới đáy. Tội cho bu lại lùi lũi sắm sửa, bòn nhặt từ đầu.

- Vậy tao hỏi mày, tiền của làm ra để làm gì? Mặt ông bắt đầu bừng nóng.

Vợ Phước không dám trả lời câu ông hỏi, đầu cúi gầm xuống:

- Thầy xem, trời tháng hè nóng như đổ lửa mà nhà thì không có máy lạnh. Có mỗi cái tủ làm đá thầy cũng rút ra sợ hao điện. Bếp điện không dám xài để nằm một xó, bếp dầu không dám nấu sợ nó hư, quanh ra quẩn vào cũng chỉ củi với rơm, nhiều khi nấu tí nước pha sữa cho cháu cũng phải thổi hết hơi bỏng cổ.

- Mày có phải nấu đâu mà nhắng lên thế! Ông Cửu trừng mắt nhìn con dâu.

- Thưa thầy, theo con nghĩ mình trả tiền mướn người giúp việc không lẽ nuôi họ chơi không?

Vợ Phước cố dằn lòng để đừng có thái độ khó chịu nhưng vẫn không qua được đôi mắt tinh tường của ông:

- Nhà này xưa nay không có thói trưởng giả, đầy tớ chỉ phụ việc ruộng vườn, còn cơm nước không mẹ thì con. Mày về nhà này làm xáo trộn lung tung còn láo lếu chỉ dậy. Làm gì có thứ trứng đòi khôn hơn rận.

Ông phải quát phủ đầu như thế Cảnh mới chịu im. Nhà có bốn đứa mà chẳng có đứa nào giống đứa nào. Thằng Chẩn tính tình rộng rãi, ăn xài giống ông nhưng phải cái tội thích khoe khoang và nói hơi nhiều, trong nhà có gì mới mẻ là đầu trên đầu dưới biết hết. Thằng Phước kín đáo hơn nhưng lại lười, bảo cái gì cũng gật nhưng gật rồi để đó chứ không chịu làm. Đã vậy còn thêm cái tội sợ vợ, cái tội mà ông ghét nhất, có nhằn có chửi thì nó chỉ cười:

- Thời buổi tân tiến chứ đâu phải như ngày xưa mà chèn ép được vợ con. Hơn nữa, chung quanh người ta đánh phấn đầy, đâu phải chỉ có mình nó. Chính thời của bà nội mà còn có người sơn móng tay móng chân đỏ chót.

Nói như thế nhưng mắt Phước vẫn láo liên nhìn trước nhìn sau và khi không thấy Tâm, bèn chỉa mũi dùi sang cô em:

- Thầy thấy không, ngay con Tâm mà cũng son phấn loè loẹt.

- Mày nói cái gì thế thằng kia? Ông quắm mắt nhìn Phước. Con Tâm là gái chưa chồng. Chưa chồng thì muốn đi ngược đi xuôi, đi ngang về tắt thế nào cũng được.

- Gần thế kỷ hai mươi rồi mà thầy nói những gì đâu đâu.

Biết mình nói thế là sai nhưng vốn không ưa con dâu nên ông chẳng cần chữa thẹn chi cho mệt. Con Tâm ngoài tật nói nhiều lại còn thích màu mè, khách sáo và hay ganh tị. Được mỗi cái Nụ nhưng nó lại dở người, nhất là hay tấn công ông bà, nhưng ông nào có chấp vì cho rằng bệnh tật hay sinh ra quẩn tính.

Nhưng nói gì thì nói, cả một lũ con như thế mà vẫn không thể kiếm được đứa nào tốt lành bằng vợ Chẩn, đứa dâu đầu của ông. Vợ Chẩn làm dâu suốt hai mươi năm, đến khi lấy vợ cho thằng Phước mới dám xin ông ra ở riêng. Kể cũng tội, lấy chồng từ năm mười sáu thì nào đã biết gì, ông bảo sao nó nghe vậy. Hơn nữa, thằng chồng cũng quá quắt lắm, hơn vợ nó có một tuổi mà xeo xẽo chửi con kia cả ngày. Khi thằng Chẩn lấy vợ thì thằng Phước mới được mười một. Hai anh em cách nhau sáu năm nhưng thằng Phước kén cá chọn canh mãi đến năm hai mươi chín mới chịu lấy vợ. Cảnh là người do ông bà tự chọn lựa nên Phước vật mình vật mẩy nhất định không chịu lấy, viện cớ nào là mập như heo chỉ tốn tiền quà vặt, nào là diện quá chỉ chết tiền quần áo. Thấy con mình đã lớn tuổi mà còn kén cá chọn canh đến nỗi ít nói như bà Cửu cũng phải gắt lên:

- Cưới đứa khoẻ về cho nó coi sóc ruộng vườn, đỡ tiền thuốc men, còn ăn uống có là bao. Hơn nữa tao đã chọn kỹ, tướng nó là phải cả tá con, cái lưng chữ ngũ cứ kể như đẻ năm một.

Phước chê là để mà chê cho sau này ông bà khỏi trách cứ, chứ thực ra ngày đầu tới coi mắt anh chàng đã quay cuồng như bị sét ái tình đánh. Phước có học, tính tình lại phóng khoáng dễ dãi nhưng vốn biết gia đình khó khăn nên chàng vẫn giả đò lấp lửng:

- Thầy bu thích thì cứ lấy về cho nó hầu.

- Ơ hay thằng này ăn nói hay nhỉ. Tao lấy về để cúng tế à?

- Chứ thầy bu khó như vầy nó chẳng ở nổi đâu.

Ông cười dễ dãi:

- Muốn ở đâu thì ở, cứ tưởng béo bở lắm mà tao phải hầu cơm. Chỉ mong mày gật đầu để tao lo liệu. Đừng để cha già con mọn mà tao khổ tâm lắm.

Nhập nhằng mãi rồi cũng xong. Có điều Phước thua cơ ông là cái chắc. Muốn bắt dâu, chỉ cần giữ con trai mình lấy cớ cha con không thể rời nhau. Phước là trai út thì phải ở đây thừa hưởng di sản của ông cha để lại và phải cúng bái tiên nhân nếu chẳng may thằng Chẩn qua đời. Thế mà đến lúc nói chuyện với vợ Phước ông mới thấy rằng không thể nào lấy uy quyền mà ép nó được. Con này ngoài cái tật cãi nó còn lý sự phải biết. Chính nó đã mấy lần xin ra ở riêng viện cớ cho gần chỗ sở chồng làm để dễ bề đi về bớt được tiền xăng nhớt và thời giờ. Chỉ có một lý do duy nhất ấy được nhai đi nhai lại, nó nói mãi không chán và ông nghe mãi cũng không mềm lòng. Kể ra nó cũng mưu lược chứ bất cứ lý do nào khác là ông cũng bắt bẻ được ngay. Thời nào thì thời, lấy chồng là phải theo chồng, dù có là bà thánh bà tướng mà đã lấy con ông là phải ở trong cái nhà này. Nó cũng khôn ngoan chẳng dám xin đi làm cho nhàn nhã tấm thân vì công việc gia đình ngập lên tới đầu, việc nhà chưa xong mà mở miệng xin đi làm chỗ khác là chết với ông. Thằng Phước thương vợ và cũng chịu khó nghe lời vợ nên nó đi rước ở đâu về một con giúp việc, lấy cớ đỡ đần cho cha mẹ. Ôi, chúng dư tiền dư bạc muốn làm gì thì làm nhưng nhà ông đâu thể nuôi thêm miệng ăn để hầu hạ riêng cho vợ Phước. Cho nên được bữa trước, bữa sau ông bắt con Hai, đứa ở, ra làm ngoài vườn.

Không hiểu con Hai sợ làm vườn hay thương chủ bầu bì mệt nhọc mà nó hay lén về đúng vào giờ lo cơm nước để đỡ đần cho chủ. Vài lần ông làm dữ đòi đuổi nhưng nó đâu có lãnh tiền của ông nên cứ tỉnh bơ. Bực quá, ông xoay qua Phước:

- Quần áo chúng mày thay ra phải tự giặt ủi lấy. Vợ mày không làm được vườn tược thì phải lo cho heo gà và cơm nước.

Thực ra từ ngày Cảnh về làm dâu, tuy chưa hề làm lầm lỗi một điều gì nhưng cứ nhìn cái dáng khoan thai nhàn nhã, nhìn khuôn mặt tươi tắn môi son má phấn và tay chân sạch sẽ trắng trẻo là ông lại lộn ruột. Sự có mặt của Cảnh trong nhà là cả một đối nghịch của hai lớp người và hai cuộc sống. Cảnh không đẹp nhưng có chút ít học thức lại quen thói trưởng giả sai bảo, việc gì cũng dùng đồng tiền giải quyết trong khi ông Cửu là người nhà quê chân lấm tay bùn, tiền kiếm được hoàn toàn do sức lao động, bằng sự cần cù và bằng mồ hôi nước mắt. Ông bon chen trong xã hội xô bồ vàng thau lẫn lộn từ khi còn ở ngoài Bắc. Chức tiên chỉ cho đến xã trưởng ông cũng phải mua bằng tiền nên khi vào Nam mọi thứ đều lạ lẫm. Người ta không mua chức tước trắng trợn như ở Bắc nhưng muốn làm phó, chánh trương trong một xứ họ đạo phải tốn kém thời giờ, lập phe nhóm và hao tổn tiền bạc chè chén hội họp. Chính vì thế nên ông quan niệm không có gì lớn và quyền thế bằng đồng tiền, có tiền là có tất cả. Thay vì học hỏi để mở mang kiến thức, để đổi mới con người cho cuộc sống vươn cao sung sướng hơn lên, ông chỉ lo cặm cụi làm và khư khư ôm lấy tư tưởng phong kiến, tạo dựng một mái gia đình mà người cha, người chồng chính là một ông vua có toàn quyền ban phát tất cả mọi luật, kể cả những luật khắt khe và vô lý. Tự ông cho ông cái uy quyền đó để rồi chỉ vì sợ giảm hoặc mất đi ông đã dùng tiền bạc, mưu chước để khống chế tất cả mọi người.

Phước là người có học nhưng vì ở nột trú, xa gia đình từ nhỏ nên rất thương và sợ ông Cửu, thêm vào đó ảnh hưởng không ít thì nhiều tính phô trương di truyền nên mặc kệ ông muốn làm gì thì làm. Đôi khi thấy ông quá đáng Phước cũng chỉ nhỏ nhẹ phê bình chứ không dám công kích trước mặt. Ngay đến việc bắt đứa ở phải làm việc ngoài vườn hoặc nhìn vợ vác bụng bầu to tướng ngồi giặt thau quần áo chàng cũng không dám lên tiếng. Hình như cảnh làm dâu của thời xưa vẫn còn ảnh hưởng trong đầu Phước.

Dẫu biết trong nhà từ trên xuống dưới không ai dám chống đối mình nhưng ông Cửu vẫn e dè. Hình như lúc nào Cảnh cũng là cái đinh, cái gai nhọn trước mắt ông, Ông có cảm tưởng như mọi hành động, công việc cũng như tư tưởng của ông đều bị Cảnh đọc thấu. Tuy ghét con dâu nhưng chỉ trong ngấm ngầm vì ông sợ ép quá Cảnh sẽ cuốn gói đi thì mất cả dâu lẫn cháu. Dù gì ông cũng cố nhẫn nại chờ đến khi đứa bé ra đời cho ông bà ở nhà trông cháu thì đứa nào dám bỏ đi nữa. Ở đời phải khôn ngoan, muốn giữ bò mẹ chỉ cần bắt bò con. Cháu nội ông sẽ là những con bê con, là những sợi dây vô hình xiết cổ con bò mẹ nghênh ngang ngu dốt...

Chương 7

- Sao mỗi lần ra đây dạo mát là ông cứ thừ người ra thế?

Ông Cửu giật mình. Thật là mất vui khi nghĩ đến vợ Phước, đứa con dâu mà ông cho là khốn kiếp đã bắt mất con trai của ông.

- Mẻ nhà mình chua chưa bà nhỉ? Ông đột ngột hỏi như đã quên hết mọi sự ưu phiền.

- Sao vừa rồi nhắc đến vợ Phước, tôi thấy ông đăm chiêu tư lự mà bây giờ lại hỏi mẻ? Bà cố tình khơi chuyện để ông nói.

- Ôi, tôi đã nói rồi mà. Kể như không đẻ ra thằng mất dậy ấy.

- Con nào chẳng là con mà đứa ông thương, đứa ông lại ghét. Hơn nữa tôi đâu thấy nó làm gì đến nỗi ông phải từ bỏ. Qua đến đây rồi mọi chuyện đều trông cậy vào chúng nó. Hay là...

- Tôi cấm bà, ông quát lên giận dữ, có đói khát tôi cũng đi ăn mày, ăn xin chứ không bao giờ thèm đặt chân đến ngưỡng của nhà chúng nó. Vả lại, ông hạ thấp giọng, ngữ ấy có hơn gì cái Nụ nhà này, cùng phường khố rách áo ôm.

- Khố rách mà nó cho ông những năm ngàn?

- Chúng khoe mẽ mà bà còn lạ gì. Mà chắc gì chúng cho để ăn xài hay lại nghĩ rằng giữ lấy để lo phần ma chay. Đồ bội bạc, phản phúc. Bà xem suốt bao nhiêu năm trời nó đối xử với mình thế nào? Qua đây mới biết cái Nụ nghèo, vậy mà mỗi năm còn gửi quà cáp, tiền bạc phụng dưỡng cha mẹ.

- Thì vợ chồng nó cũng gửi ấy thôi.

- Chỉ là hình thức, tôi hỏi bà nó gửi hay nó bố thí?

- Chúa tôi! Bà Cửu thở dài, ông cứ buộc tội như vậy chẳng mấy chốc mà xuống hỏa ngục.

Trong đời những người già cả, nhất là người đi đạo tối sớm đọc kinh xem lễ mà nghe đến hỏa ngục là lạnh cả gáy nhưng đang bực, ông nói liều:

- Đi đến đâu tôi cũng đi, xuống hỏa ngục tôi cũng xuống nhưng bảo tôi đến nhà chúng nó thì không bao giờ. Bà nghe rõ lời tôi nói đây: không bao giờ tôi bước chân vào nhà chúng cho đến đời đời kiếp kiếp...

Biết sự giận hờn của mình là vô lý và không có nguyên do chính đáng nhưng không hiểu sao mỗi khi hình dung ra bộ mặt nhăn nhẳn của vợ Phước là ông lại thấy lên ruột. Làm dâu mười năm, nó đúng là thứ quỷ ám trong nhà. Nay nó đòi tân trang cái này, mai nó đòi cải cách cái kia. Ruộng vườn thẳng cánh cò bay nhìn muốn mát mắt mà nó cứ quanh ra quẩn vào bắt chồng xúi ông bà bán đi lấy cớ già cả rồi, nghỉ ngơi ở nhà trông cháu cho nhàn nhã. Ở nhà chơi không ai mà chẳng muốn nhưng tiền đâu lễ giỗ đình đám, bảo nó đưa tiền làm đám giỗ thì nó chối dài rằng không hơi sức nuôi cả họ.

Nhà có mấy con heo con gà nuôi cho nó ăn bèo, rau rợ như bỏ vặt lấy trột, như lấy tiền cắc bỏ ống thế mà Cảnh cũng giở sổ sách ghi chép ra chuyện ta đây có học. Tới kỳ bán heo gà, Cảnh hô ầm lên là nuôi những thứ ấy lỗ, chẳng những lỗ công mà còn lỗ cả của. Nào là tiền cám, tiền gạo lứt, tiền thuốc men chưa đủ lấy về chứ đừng nói chi đến chết hay bệnh dịch.

- Nếu lỗ thiên hạ nuôi làm gì? Mà đâu phải chỉ một xóm này, cả quận cả tỉnh nuôi không lẽ lỗ hết hở?

Ông giận ném mạnh cái ống trúc đang cầm định rít vài hơi thuốc lào văng ra xa trong lúc cả nhà đang quây quần bên chiếc chiếu hoa định ngủ trưa. Con vợ Phước vẫn khăng khăng:

- Họ nuôi có công thức, thuốc men, pha trộn chất hóa học hẳn hoi, cứ đúng tháng là bán. Hơn nữa, đã là công ty thì được thầu đồ ăn thừa, được mua theo giá sỉ, thứ gì cũng rẻ hơn bên ngoài.

- Im đi, đã không biết thì đừng có khoe mẽ. Nuôi heo lỗ mà tao còn có nhà có cửa cho chúng mày ở à? Ba cái chữ nghĩa dốt nát tưởng mang ra loè thằng bố mày.

Tuy vợ Phước không dám cãi nhưng vị thế của ông mỗi ngày một xuống thấy rõ. Bà Cửu đã cắt một phần đất đi bán viện cớ không còn đủ sức làm, heo gà cũng bớt dần viện cớ không người đi lấy lá rau. Ông hiểu con vợ Phước nằm tay trong xúi dục mẹ chồng. Ông cũng hiểu rằng vợ ông đã thấm thía câu "làm cho lắm tắm cũng ở truồng" nên nhất định ì ra đấy. Mỗi lần đình đám tiệc tùng, vợ Phước cắt đặt việc làm trên dưới y như nó là chủ gia đình. Nó sai bảo mọi người, ngay cả chị em chồng cũng chẳng từ:

- Cô cứ bắc ghế ngồi ngay ở cửa sau, ai ra vô bưng cái gì là biết liền.

A! Thì ra nó canh ăn cắp. Nó nghi ngờ họ hàng giòng tộc nhà ông có người ăn cắp. Đã có tiếng xầm xì to nhỏ đến tai ông, nửa khen nửa dè bỉu:

- Ông được bà dâu út biết giữ của thì chẳng mấy chốc mà giàu.

Hàng xóm đến phụ làm đám chẳng hiểu vì tự ái hay ghét nó nên mỗi lúc một thưa dần, vậy mà nó lại ra chiều thích thú:

- Con biết ngay mà. Họ đến giúp chỉ là cái cớ để dễ dàng ăn cắp mà thôi.

Bà Cửu dễ dãi hơn:

- Thì họ phải kiếm chác được chút đỉnh mới đến giúp mình chứ! Ai mà vô công rỗi nghề phụ không như thế!

Vợ Phước làm dâu được mười năm mà họ hàng, xóm ngõ thưa hẳn. Thật đúng như người xưa nói "Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng." Nó không dữ nhưng chặt chẽ, riết róng, tính toán từng li từng tí thì ai còn muốn đến. Nhiều khi giận ông cầm cây quật, nó cứ đứng ì chịu đòn chứ không chạy trốn như vợ Chẩn, thế có trêu ngươi không. Quật vài lần ông thấy rợn tay. Gặp thứ lỳ là ông phải tránh chứ không, lỡ nó lăn cổ ra chết thì cho đến mười đời sau vẫn không hết tiếng ác...

Tưởng chuyện như thế là yên không ngờ cuối tuần Nụ cố tình lôi ở đâu về một đám bạn cô hồn để tỏ thái độ chống đối khiến ông Cửu giận tím cả ruột gan. Đứa nào đứa nấy tóc tai như tuồng ra dại bù xù bờm xờm dài quá vai, quần áo banh ngang xẻ dọc giống những đứa hành khất. Chúng nằm ngả nghiêng ngoài phòng khách, đứa trên ghế, đứa dưới thảm và trên mặt bàn bày la liệt những nước ngọt, bánh trái, nếu ông không lầm thì hình như chúng xách đến mỗi đứa một phần. Còn cái Nụ, con gái quý của ông luống ca luống cuống mở tủ lạnh cạy đá bỏ vào cái thùng nhỏ bưng ra ngoài. Ăn uống có thế nhưng xem chừng chúng vui vẻ lắm, đứa ngâm thơ, đứa hát, đứa rên ư ử chẳng khác gì một lũ chó điên. Ông ngồi ngay bếp mà Nụ đi lên đi xuống không thèm nói đến một lời, cũng chẳng dám mời ông lấy một lon nước ngọt sợ hao tổn. Ông nào thèm khát gì cái của đó nhưng nó đã không biết trên dưới trước sau thì phải đập vào mặt cho nó biết. Nghĩ vậy, ông bước theo Nụ bén gót. Lũ bạn thấy ông ra vội lồm cồm bò dậy:

- Hi bác!

Ông giật mình. Bà Cửu đi chơi bên hàng xóm sao chúng chào những hai bác, mà chào kiểu mất dậy mất nết nào đó chứ không cúi đầu khoanh tay trước người già cả. Máu nóng bốc lên mặt nhưng ông cố gắng thong thả ngồi xuống khoảng ghế trống với khuôn mặt nghiêm nghị nhìn thẳng vào mặt từng đứa một, đứa nhỏ nhất cũng phải hai mươi lăm tuổi, như vậy toàn một lũ già với nhau mà lại vô ý thức hết sức. Ông hắng giọng:

- Các cô không đi làm à!

- Hôm nay weekend mà bác.

- Nói chuyện với người già cả đừng lôi tiếng tây tiếng u ra mà lòe, các cô biết tôi mới ở Việt Nam sang mà!

Nụ cười nở trên môi con tóc ngắn, nụ cười mà ông nghĩ là châm chọc:

- Sorry bác.

Tiên sư nhà nó, rõ ràng là chúng chơi xỏ ông đây mà. Quay qua Nụ, mọi tức giận ông trút lên đầu nàng:

- Tiền bạc đâu mà mày phí phạm như vậy? Nuôi con chó nó còn biết giữ nhà, nuôi con mèo nó còn biết bắt chuột...

Nụ đỏ mặt. Có lẽ vì tự ái, nên không chờ ông nói hết câu nàng đã cắt ngang:

- Đâu có đáng gì vài đồng bạc mà thầy rầy la. Chỉ có cuối tuần chúng con mới tụ họp chơi đùa...

- Chơi, chơi cái thằng bố mày. Mày bảo nhà "hao dinh" khó khăn, làm ồn ào sẽ bị đuổi bây giờ lôi lũ cô hồn về để ra đường ở à?

- Xin bác bớt giận, chúng con đâu có làm gì quá đáng đâu.

- Vâng, phải đó bác.

Cả nhóm bắt đầu nhao nhao trong khi Nụ lặng yên nhìn ông. Tia mắt nó hằn lên những nét đau khổ lẫn trách móc, hai cánh mũi phập phồng như ngọn đèn sắp hết dầu khiến ông chột dạ. Chẳng lẽ chỉ vì một lon nước mà mình lại khe khắt với nó thế sao? Lòng ông xót xa thương con khiến nước mắt rưng rưng, mọi uất ức được phơi bày:

- Thú thực với các cô tôi không khó khăn với ai cả nhưng có điều tại sao nó cười với các cô từ giờ nọ sang giờ kia mà không thể cười với cha mẹ nó được một tiếng? Có bao giờ nó ngọt nhạt được một lời? Hễ mở miệng ra là càu nhàu trách móc, hở miệng ra là chê hủ lậu với chả văn minh.

Ông ngừng lại vài giây nhìn sang Nụ nhưng khi thấy mặt nàng nghệt ra như một đứa trẻ vô tội vạ thì ông tủi thân khóc oà lên:

- Tao chỉ cần mày đối với thầy bu như với bạn mày mà thôi con ơi...

Chưa hết câu ông ôm mặt khóc hu hu đi vào trong.

Bên ngoài, có lẽ mất vui nên cả bọn từ từ rút êm. Tiếng lào xào mỗi lúc một thưa và đến khi im hẳn tiếng thì Nụ huỳnh huỵch đi vào giọng giận dỗi:

- Họ về hết rồi cho vừa lòng thầy.

Đang ngồi bệt đầu gục trên đầu gối, nghe con trách móc ông ngước lên hai mắt đỏ hoe:

- Họ, họ cái gì? Cả một đám mất dậy, một đám trôi sông lạc chợ.

Nụ mệt mỏi thả rơi người xuống giường:

- Bạn con đứa nào thầy cũng cho là trôi sông hết ráo.

- Không trôi sông mà ăn mặc như thế!

- Modern tân thời mà!

- Hừ! Tân thời. Tao bảo thật, đứa nào tốt tới đâu mà chui vào đây ăn uống nhờ vả hoặc chơi với mày đều là những đứa chẳng ra gì.

Nụ xanh mặt nhìn sững:

- Tại sao thầy lại có thành kiến với con như vậy chứ?

- Vì mày là đứa xảo trá, giả dối. Nếu mày đừng lừa dối thì tao đâu đến nỗi bán tống bán táng đồ đạc, nhà cửa, ruộng vườn mà khăn gói quả mướp ra đi để rồi bây giờ lạc lõng bơ vơ như thế này?

Có lẽ giữa ông và Nụ chỉ có mỗi điều này để mà nói vì từ hôm gặp Nụ đến giờ, mọi buồn bực, thất vọng ông đều trút hết lên đầu con. Nụ khó chịu:

- Như vậy là thầy cố tình trách móc con? Sao ngày xưa thầy bảo là: Tao chỉ cần gặp mày thì có chết cũng an lòng nhắm mắt? Nào là có mắm ăn mắm, có muối ăn muối? Nào là sẽ lo dựng vợ gả chồng cho chúng mày? Nào là cháu nội cháu ngoại...?

Giọng Nụ chì chiết khi nhắc lại làm ông Cửu đỏ bừng mặt:

- Vậy chứ đứa nào bảo con trai bám theo đầy mà không thèm? Từ hồi sang đây tao có thấy đứa nào?

Tưởng cái bất hạnh của mình chỉ có cha mẹ mới là người xoa dịu, nào ngờ lại là người chọc vào đúng nỗi đau. Nụ hét lên:

- Con đã không trách thầy bu thì thôi sao thầy bu lại trách con? Vì ai con phải mang tấm thân khổ sở như thế này? Vì ai con phải dối trá để cho thầy bu sang đây hầu hy vọng có cuộc sống sung sướng hơn? Thầy như vầy còn hơn chán vạn người ở Việt Nam mà. Mới sang ai lại chẳng phải chật vật lúc đầu nhưng sau này thầy sẽ được trợ cấp tiền già ăn cả đời cũng chẳng hết.

Ông Cửu chẳng vừa. Nỗi đau của ông cũng được dịp bung ra:

- Dù có đắp lên người tao lụa là châu báu mà cầm tù như thế này thì tao cũng chả sướng. Mày xem tao có khác gì kẻ câm điếc giữa đám người mũi lõ mắt xanh, và rồi ngay đến bữa ăn cũng bị bóp cổ bóp họng...

Mặc ông Cửu lải nhải, Nụ bỏ đi ra ngoài. Ngày nào mà ông chẳng đốc chứng lên như thế, ở với người chuyên trở chứng chỉ có nước nổi điên mà chết. Vài hớp wine cooler chưa đủ say nhưng hơi men và sức nóng làm Nụ chấp choáng. Phải gắng gượng lắm Nụ mới xuống hết được những bậc cầu thang thẳng và dốc. Tiếng dép lẹp xẹp kéo lê kèm theo đôi tay vung vẩy phản chiếu dưới mặt hồ đập vào mắt Nụ làm nàng tái tê. Cuộc đời mình có khác nào cái bóng di động kia? Bao tháng ngày đi về nơi này, gian phòng và khung cảnh tưởng như đã quá quen thuộc không ngờ chẳng còn là mái ấm từ khi cha mẹ về ở chung. Mọi dĩ vãng bị khơi quật dù bằng tình thương và sự diễn tả ngọt ngào của bà Cửu vẫn làm Nụ nhói đau.

- Sao hồi đó bu không bóp mũi để con chết cho rồi?

- Sư mày, nói thế mà nghe được à! Bóp mũi thì giờ đây đâu còn thấy mày nữa hở con khỉ.

- Giá bộ óc con người cũng tật nguyền theo chân tay thì đời con đỡ khổ biết bao, chẳng phải suy nghĩ, chẳng phải so sánh.

- Mày lại nghĩ vớ vẩn nữa đấy. Thôi thì ưng đám nào tao đi hỏi cho để rồi cứ ì ỏ mãi.

- Ưng đám nào? Bu nói chuyện trên mây, trong thế gian này có ai mà dám lấy con?

- Lấy Việt không được thì lấy Mỹ. Bà Cửu cười gượng gạo chống chế.

- Chồng Mỹ? Được vài ngày cũng bỏ còn không cũng là chỉ để bám vào tiền trợ cấp của con chứ thương yêu gì. Mà thôi, bu đừng nói đến chuyện đó nữa không thôi con nổi điên lên bây giờ.

Nụ muốn nổi điên thật. Con chó con mèo còn biết chuyện làm tình, còn mơ chuyện vợ chồng huống hồ gì là người. Nụ tật nguyền nhưng quả tim không tật, trái lại nó dễ dàng co thắt và dễ xúc động hơn mọi người. Trong đời Nụ đã yêu bao nhiêu người và đã sầu khổ vì bao nhiêu người? Nếu mười ngón tay không thể đếm xuể thì Nụ cũng chẳng còn đủ trí để mà nhớ. Chỉ biết rằng dẫu một ánh mắt nụ cười của bất cứ ai vừa mới gặp cũng có thể làm Nụ rúng động và dệt mộng thương yêu. Tình yêu Nụ trải rộng khắp nơi, khắp chốn, từ những chàng trai trẻ cho đến kẻ tật nguyền hoặc góa vợ nhưng chỉ là thứ tình một chiều. Chưa bao giờ Nụ dám thố lộ tâm tình mình cũng như chưa bao giờ dám mơ sẽ được làm vợ vì Nụ luôn cho rằng mình chỉ đáng để người ta thương hại. Nụ sợ cuộc sống gia đình bởi vì hôn nhân không được tạo bằng tình yêu sẽ chóng đi đến đổ vỡ. Cho nên trước mặt mọi người tuy tình cảm Nụ trông dửng dưng lạnh nhạt nhưng tự thâm tâm lại là những ngọn sóng. Nó có thể tràn dâng và tàn phá tất cả.

- Sao ngày xưa bu không chọc mù hai mắt của con?

Bà Cửu nhìn sững con, sợ đến nỗi mặt tái lại:

- Cái con hết khôn dồn đến dại, ai mà lại ăn nói như thế bao giờ? Giàu con mắt, khốn khó hai bàn tay...

- Khốn khó hai bàn tay và cả hai bàn chân nữa. Bu ơi sao bu đẻ con ra làm gì...?

Nụ muốn khóc lắm, khóc như hồi xưa vừa lọt lòng mẹ Nụ đã gào, đã hét to hơn mọi đứa trẻ để giành quyền sống.

- Có phải tại hồi xưa bu uống thuốc ngừa thai nên con mới bị tàn tật?

Bà Cửu lại giật mình. Cái con này rồi cũng làm khổ bà mất thôi. Bà nhà quê, nhà mùa làm gì biết cữ với ngừa.

- Còn không thì bu uống rượu. Đúng rồi, cả thầy cũng nghiện rượu nên con mới phải mang hình dạng này.

Nỗi đau khổ vỡ oà, Nụ ôm mặt khóc rưng rức. Nàng không cần biết bà Cửu đang há hốc miệng vì bị đổ oan vào người. Bây giờ bất cứ có ai để nàng có thể trút uất ức, tủi nhục và để gánh chịu phần nào trách nhiệm về những thiệt thòi là Nụ không ngần ngại đổ vào. Bà Cửu xót xa nhìn con:

- Đừng nói thế mà thầy mày buồn. Người ta bảo giàu con út mà khốn khó cũng con út. Thầy bu qua đây chẳng còn gì ngoài tình thương nên tất cả đã dồn hết cho con. Nụ, con phải hãnh diện vì nhờ con mà các anh chị đều lành lặn, nếu không có con, mọi sự bất hạnh này sẽ đổ sang những người đó. Gia đình nào chẳng có người như vậy. Âu cũng là có số cả.

Bà Cửu đang dùng tình cảm để lung lạc Nụ với những chấp nhận và chịu đựng.

- Cái số? Con không tin con người ta có số mệnh, cũng không tin vớ tin vẩn mỗi vì sao rụng là một sinh mạng vừa lìa đời. Con cũng không tin Trời phạt hay Chúa phạt. Vì nếu phạt thì phạt ngay kẻ có tội chứ còn con vừa mở mắt chào đời đã biết làm gì sai trái? Con nghĩ thầy bu phải có trách nhiệm với thân thể tật nguyền này và một phần tương lai của con.

Bà Cửu ôm mặt khóc ngất. Những lời trách móc buộc tội của Nụ như một án phạt phủ chụp xuống cuộc đời bà. Bà là người sinh ra Nụ, mang nặng đẻ đau, banh da xé thịt rồi bây giờ lại bị lời đay nghiến có khác nào đang cắt thẻo thêm tim gan bà.

- Đừng nói dại vậy tội cho bu lắm Nụ ơi. Cha mẹ nào chẳng thương con, chẳng mong cho nó lành lặn nên người. Con đâu biết rằng cái bất hạnh của bu còn to lớn gấp mười lần cái bất hạnh của con. Con đau một nhưng bu đau những mười, con thiệt thòi một nhưng bu thiệt thòi những trăm. Nụ ơi, nhìn xem nước mắt chảy xuôi cứ có bao giờ chảy ngược...

Bà Cửu ôm lấy con khóc lóc, dỗ dành, chia sẻ, an ủi. Nụ bé nhỏ, chấp nhận của ngày nào không còn nữa mà là những cay đắng, là chứng tích của lỗi lầm mơ hồ. Bà nghĩ con người ta ai chẳng lầm lỗi, có thể một sự vô tình nào đó để giờ này con bà phải gánh chịu. Tuy bất lực nhưng bà tự hứa với lương tâm của người mẹ, ngày nào bà còn sống thì bà phải có trách nhiệm tinh thần với Nụ...

Buổi trưa trời nắng, Nụ thất thểu đi dọc theo bờ cỏ mọc hai bên đường. Cuối Xuân hoa phượng nở đầy, loại phượng vàng với những lá nhỏ li ti thỉnh thoảng đuổi nhau trên cây kêu lào xào mỗi khi có cơn gió mạnh. Tự dưng Nụ thấy buồn, nỗi buồn có thể bắt nguồn từ sự vô cớ trách móc của ông Cửu. Giá Nụ có chồng thì ông đâu thể coi nàng như con nít mà cứ mãi chửi mắng. Giá Nụ có chồng... Nụ cười cay đắng. Ai dám lấy nàng? Lấy một con xấu xí, tật nguyền đã lỡ thời, không có cuộc sống vươn lên. Ai? Ai? Nụ hỏi lòng nhưng lại ai oán ngước mặt nhìn trời chờ đợi câu trả lời. Ánh nắng như cùng đồng lõa với màu hoa vàng sáng rực rỡ. Khung cảnh sao tươi đẹp quá, cỏ hoa sao dễ thương quá, gió cũng nhẹ nhàng mát dịu quá mà lòng Nụ lại sôi sục. Nụ muốn vung tay múa chân la hét quay cuồng như kẻ điên, kẻ bị phong giựt rồi nằm ngã vật xuống thẳng chân trợn mắt, rãi rớt xùi ra đầy mép để mọi người nhờm gớm sợ hãi, để cuộc sống rút ngắn lại, để trái tim không còn thoi thóp vì những cơn giật kinh hồn, để khối óc tê lịm đi sau cơn tàn phá của thể xác và những viên thuốc làm thần kinh êm dịu.

Tại sao Nụ không là con chó dại chạy rông để mọi người xúm lại đánh cho đến chết vì sợ cắn lây sang họ? Tại sao Nụ không là con rắn trườn rúc trong bụi rậm, trong bóng tối để đừng thấy ánh sáng mặt trời, để đừng nhìn thấy hạnh phúc của loài người? Tại sao Nụ không là con chim, con gà lành lặn chạy nhảy ríu rít trong bầy, cùng cất tiếng hót líu lo hoặc được nghe tiếng kêu yêu thương tỏ tình của chú chim trống? Tại sao Nụ không là con mèo hoang được lũ mèo đực tới kỳ kích thích gào gọi cả đêm mong được thỏa mãn thể xác?

Nếu Nụ là loài vật thì sẽ sung sướng biết bao, loài vật đâu có trí óc, đâu phân định được phải trái, đâu có mặc cảm, đâu sợ xấu hổ, đâu đòi điều kiện phải có nhà, có xe khi tạo dựng cuộc sống gia đình. Nếu Nụ là loài vật...? Nụ cười khan. Nếu là vật, Nụ xin được làm con khỉ vì chỉ có khỉ mới mang hình dáng loài người, chỉ có khỉ mới có đôi tay dài và đôi chân khập khễnh. Thầy ơi... Nụ gào lên trong tận cùng đau khổ và khóc rưng rức. Nàng ngã ngồi trên thảm cỏ xác xơ mặc cho nước mắt chạy quanh, mặc những người đi ngang nhìn ái ngại... Ba mươi bốn tuổi đầu... Ba mươi bốn năm đón nhận biết bao những tia mắt thương hại... Ba mươi bốn năm dại khờ phí bỏ. Bây giờ tôi phải làm gì đây để mọi người đừng khinh khi, để thầy tôi khỏi chửi rủa? Phải làm gì đây?

- Darling, what's matter?

Nụ giật mình ngước lên thấy thằng manager đứng ở đó tự lúc nào. Cái thằng Mễ già người to lớn bụng phệ như khỉ dã nhân mà thường ngày gặp lúc nào cũng nhăn nhở cười. Nụ cười nàng vẫn cho là đĩ thõa dâm dật nhưng hôm nay cũng nụ cười đó, cũng khuôn mặt đó, trên lề cỏ ít người qua lại, giữa khung cảnh thiên nhiên gần đất gần trời, giữa một tâm hồn đang khủng hoảng tột độ và nhất là hơi men vẫn còn làm nàng ngầy ngật thì nụ cười có một sức mạnh vô hình đẩy nàng tới gần hắn hơn.

- Baby, tell me what's going on?

Bộ môi dầy thâm xì to hơn hai con đỉa trâu tiếp tục nhúc nhích trông phát tởm nhưng lại thốt ra những lời thăm hỏi nồng nàn. Đôi mắt ti hí vẩn lên mầu dục vọng nhưng qua men say Nụ thấy có sức quyến rũ thu hút tận cùng. Người Nụ run lên, như hai luồng điện cao thế vừa chạm nhau, như ngấm ngầm chấp nhận thỏa ước mà bao tháng ngày nàng đã cố công chống chọi sự tán tỉnh nham nhở của nó. Nụ biết đàn ông tán gái có nhiều loại khác nhau. Tán vì thích chinh phục, vì yêu, vì muốn thỏa mãn tự ái, vì trả thù cũng có nhưng với thằng Mễ già này nó tán để đổi chác, như ông đi qua bà đi lại, như rồng rắn lên mây nắm đuôi nhau chạy nhông nhông, sướng mày thì cũng sướng tao. Có nghĩa là không hứa hẹn, không giao kèo, không trách nhiệm, không tiền bạc, thể xác cho không biếu không để tận hưởng một chút gì đó.

Đã nhiều lần thằng khốn tán Nụ sỗ sàng như thế. Nụ biết thằng dâm dật ló đuôi dê cho thật bự muốn bách chiến bách thắng chỉ vì Nụ xấu xí, chỉ vì Nụ tật nguyền và như lời ông Cửu vừa chửi là những đứa quen nàng toàn là thứ chẳng ra gì. Ông nói đúng, như thằng Mễ này chính vì nó không ra gì nên mới tán Nụ. Như mẹ nàng đã nói mày lấy Việt Nam không được thì lấy Mỹ cho rồi. Ba mươi bốn tuổi không người thương yêu thì Mỹ, Việt hay Mễ cũng thế. Đã không thương thì suốt đời không thương cần gì phải lôi Mỹ, Mễ vào làm gì cho nàng thêm nhục.

- Darling, get to my room. I'll make you happy...

Không thấy Nụ lườm nguýt như thường ngày, thằng nham nhở sỗ sàng hơn.

- I'll lick all your face... I'll give you a big smile...

Mày thương tao thật hay dối vậy? Nụ ngước khuôn mặt rỗ chằng chịt lên nhìn nó thêm một lần nữa. Mày thương tao thật hay dối vậy? Có khinh bỉ mắng chửi như cha tao vừa chửi tao không? Cổ họng Nụ đặc nghẹn. Lời nói không thoát ra được nên tiếng khóc vỡ òa cũng vừa lúc thằng Mễ đưa tay kéo nàng đứng dậy.

- Khốn khổ thân mày. Nín đi... nín đi... đời có bao nhiêu ngày tháng mà buồn. Hãy vui lên, hãy tận hưởng những gì mình đang có. Đi theo tao baby... baby...

Thằng Mễ già vỗ về nhưng bốc hốt hơi kỹ. Bàn tay lông lá lỗ mãng của nó luồn cả vào trong áo Nụ thoa nắn. Thân thể con gái chưa một lần gần đàn ông cứ thế run bần bật. Đúng. Có còi cụt, có tật nguyền, có xấu xí cũng phải biết rung động. Trái tim còn đập là còn biết cảm giác. Bộ óc còn hoạt động là còn biết suy nghĩ những lời mắng chửi của cha nàng. Mày bảo mày nhiều bạn trai mà qua đây tao có thấy đứa nào đâu? Bạn trai... Bạn trai... Đây này, con sẽ dẫn thằng Mễ này vào nhà để cho thầy biết nó là thằng thứ nhất, thằng đầu tiên đi vào cơ thể con, đi vào cuộc đời buông thả của con. Từ bấy lâu nay con cố sống đẹp, sống tốt lành cho chính bản thân mình nhưng có ai thấy sự cố gắng của một đứa tật nguyền, của một đứa gái già lỡ thời hay chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của nó. Người đời chỉ muốn nhìn nước mắt của kẻ nghèo đói hơn là thấy nụ cười trước khi động lòng nhân. Người đời chỉ thương hại những kẻ bị ruồng rẫy hơn là những người được ưu đãi. Cha nàng chỉ nhìn thấy cái kém cỏi của Nụ hơn là sự chịu đựng của con mình.

- Đừng... đừng...

Nụ quờ quạng đôi tay dài quá thước tấc ra chống đỡ, che đậy nhưng lại là một hình thức mời gọi nồng nhiệt vì đôi mắt khao khát đờ đẫn của Nụ đã nói lên được điều đó.

- Theo tao về phòng mau lên baby...

Như cái máy, Nụ loạng choạng bước nhanh theo sức dìu của nó. Thằng này táo gan thật, dám dẫn gái về phòng giữa ban ngày ban nhật. Gan nhưng khôn vì ở tuổi Nụ đi thưa kiện bị dụ dỗ người ta còn cười vào mặt. Nếu bị hãm hiếp thì tại sao không la lên lại hấp tấp bước theo nó về phòng? La lên Nụ. La lên chắc chắn sẽ có nhiều người chạy ra vì chung quanh đây bao giờ cũng có những đôi mắt lấp ló sau cửa sổ. La lên chắc chắn nó sẽ phải thả mày ra. Đôi chân Nụ chợt nặng và kéo trì. Biết bàn tay mình chưa đủ kích thích đứa con gái, thằng Mễ đưa cả đôi môi dầy phà hơi đàn ông nồng nặc xuống sát gáy Nụ. Những sợi râu tua tủa chưa kịp cạo vô trật tự mọc suốt từ mang tai xuống tận dưới cằm đâm vào gáy làm Nụ nhột cong người.

- Darling. I'll make you happy.

Thằng khốn, gần lúc toàn thắng rồi mà vẫn không rên lên được tiếng anh yêu em. Ngay lúc này Nụ thèm khát được nghe có người nói tiếng yêu mình... và ngay lúc này Nụ biết nàng đang muốn trở thành đàn bà, thành người lớn để tránh được đôi mắt khinh khi của cha nàng...

Từ hôm trở thành người lớn đến giờ Nụ không cằn nhằn gì về việc nấu nướng nữa. Để trở thành đàn bà không quá khó như Nụ nghĩ. Chỉ một vài phút giây, sau khi cái rung động của thể xác lắng dần thì bộ óc Nụ tự động làm việc để nhận thức đâu là đúng, đâu là sai, đâu là ê chề đâu là thất vọng. Như bà Ave ăn trái cấm thuở nào, Nụ đã đạt được tất cả những mơ ước để rồi khi nhận thức trái cấm không ngọt không thơm như mình nghĩ mà trái lại thấy thân thể trần truồng ô nhục. Nụ chấp nhận hậu quả việc mình làm nhưng có điều nằm trong vòng tay lông lá của người mình không yêu, không thương, không kính trọng, không tin tưởng mà chỉ vì muốn thỏa mãn một chút tự ái, muốn trả thù cha mẹ đã khinh bỉ miệt thị nàng thì có khác nào những con thú mà đã có lần Nụ nghĩ đến. Nhưng loài thú đâu biết mắc cở, lũ chó chạy nhông dính lẹo giữa đường bị đám con nít đánh cho hộc máu tháo tiết mà lần sau vẫn thế, vẫn đứng giữa đường và có tởn đâu. Nó không tởn bởi vì nó không nhớ đến cơn đau, nó không mặt chai mày đá. Lũ khỉ làm tình xong đưa tay lên mũi ngửi rồi khẹt khẹt cười trước mặt mọi người chứ nào trốn chui trốn nhủi trong bụi, trong xó, trong phòng như Nụ và thằng Mễ đã làm. Nếu Nụ không biết xấu, nếu thằng Mễ không sợ người ta xúm lại coi như con quái vật thì đâu đến nỗi nhìn trước nhìn sau rồi mới khóa chặt cửa lại.

- Darling, I'll give you a baby today.

Thằng khốn quá điêu luyện. Nó làm Nụ háo hức chờ đợi quên cả sợ hãi. Cũng có thể con người Nụ dâm đãng xưa nay nhưng chưa có cơ hội bộc phát.

- Take time baby, don't hurry.

Thằng khốn... Thằng khốn... Nước mắt Nụ trào ra nửa kích thích nửa tủi nhục. Cái giá nhục nhã phải trả là nằm trong vòng tay của người mình đã từng ghê tởm. Khôn ba năm dại một giờ. Nụ không dại một giờ mà trái lại nàng muốn có giờ đó. Một giờ đủ làm túi khôn trong nàng vỡ ra. Chính vì túi khôn vỡ ra nên Nụ mới biết nhục và dấu diếm. Biết nhục nên dấu diếm nhưng vẫn vụng trộm vì có ai ăn một lần mà nhịn luôn được. Nụ cũng chẳng đắn đo lựa chọn vì còn ai nữa để mà chọn? Từ buổi đó, cứ đúng giờ cơm là Nụ bỏ xuống nhà thằng Mễ để ngủ với nó và cũng để ăn. Ăn với thằng môi dầy dâm đãng thú vị hơn với cha mẹ mình bởi vì ông bà luôn hầm hừ với con gái. Cũng từ bữa đó Nụ không còn chú ý tới mùi vị đặc biệt trong nhà. Ngược lại hành động của Nụ làm ông bà buồn bực gấp bội vì nàng gỡ và cất hết những miếng màn treo trên cửa sổ nên ở ngoài nhìn vào là thấy thông suốt từ nhà trên xuống nhà dưới. Bộ ghế cũ được phủ vải kỹ càng và trong tủ quần áo Nụ mua thêm những túi nhựa có zipper treo hết vào đó kéo lại. Cửa sổ phòng bếp cũng luôn mở, ruồi muỗi được dịp bay vào vì không có cửa lưới. Thế là ở nhà chỉ còn lủi thủi hai ông bà già, hết ăn rồi lại nằm, hết nằm rồi lại ăn. Ông buồn tủi, bà thở than, đôi khi bực quá gọi Tâm trải bày tâm sự nhưng nàng chỉ ừ hử như chẳng muốn nghe.

Một buổi chiều Nụ hấp tấp chạy vào nhà và bằng giọng chững chạc nàng nhấn mạnh từng chữ một:

- Con đã ghi tên cho thầy bu gia nhập hội bô lão. Mỗi năm đóng có hơn trăm bạc tiền chuyên chở xe cộ, xăng dầu. Cơm trưa chính phủ đài thọ, thỉnh thoảng lại còn được lãnh bột, sữa, bơ.

Không hỏi nhưng ông bà cũng hiểu bô lão là dành cho những người già cả, mất sức lao động, sống bám nhờ vào xã hội, con cái. Ông gật gù cay đắng:

- Như vậy là đỡ tốn tiền ăn trưa ở đây. Thôi thì thầy bu cũng mừng, cất được gánh nặng cho mày lúc nào là tao yên tâm lúc nấy.

Nụ lắc đầu vờ ra dáng thiểu não, cái thiểu não khéo che đậy vì một khi vướng vào đường tình thì dễ khép hẳn tình thương.

- Thầy hiểu lầm ý con rồi. Không phải con phủi trách nhiệm để đưa thầy bu đến đó, sở dĩ...

- Khỏi cần phải giải thích quanh co, ông ngắt lời Nụ, tóm lại sáng xách gói đi, tối xách gói về để khỏi làm vướng mắt mày?

- Nếu thầy nghĩ như thế thì ngày mai con sẽ đến gạch tên thầy bu ra.

Tuy nói vậy nhưng hôm sau ông bà cũng ra ngõ chờ xe đến rước. Trong xe khá đông người, họ ở rải rác trên nhiều con đường gần đó. Vài câu thăm hỏi, vài câu xã giao thế mà chỉ một loáng ông đã nhớ tên hết một lượt.

Hội bô lão đúng là trung tâm thông tin nhanh chóng nhất, mới có hơn tuần lễ ông đã biết gia cảnh của mỗi người. Nào là ông Sáng có bốn thằng con trai giàu kếch xù, có tiệm tùng, nhà cửa, xe cộ mà không hề giúp đỡ cha mẹ già. Ông Tư đầu bạc có cô con gái tậu được căn "đúp lếch" ở gần nhà nhưng lại đi mướn "ờ pá tơ mân" cho ông ở xa. Lại cũng có kẻ quá quắt, bắt cha mẹ nuôi cả đàn cháu mà chẳng cho tiền ăn trầu hút thuốc... Ngược lại, trong những bô lão ấy cũng có người ung dung ra vào đủng đỉnh, thỉnh thoảng rít vài hơi thuốc lào bàn chuyện gẫu và cho rằng cuộc đời ấy thế mà thi vị... Ông lão tám mươi ngồi bên cạnh bà Cửu trong đám vòng tròn gần ba mươi người, hội khá đông nên chia thành nhiều phe nhóm, giai cấp nhưng đa số đều có tinh thần tương thân tương ái, chẳng là vì cũng gần đất xa trời, còn sức nào bon chen với thế sự nên thường thường mở đầu cho những câu chuyện chỉ xoay quanh vấn đề con cái, trộm đạo v.v...

- Bà có đứa con dâu nào chưa nhỉ? Ông lão quay lại gợi chuyện bà ngồi bên cạnh đang bỏm bẻm nhai trầu.

- Chẳng nói dấu gì cụ, "con" được một cháu.

- Thế thì cũng may vì bà chỉ có mỗi một "mẹ dâu".

Mọi người cười ồ, ông lão vẫn thủng thẳng:

- Qua đây đảo lộn hết, chồng thành vợ, vợ thành chồng. Con dâu thành mẹ dâu, mẹ chồng thành nàng dâu. Bà khôn hồn thì ăn ở cho đẹp lòng nó còn có miếng cơm miếng cháo mà ăn. Tối đến bệnh hoạn nó còn thương tình gọi "em bu lân" chở vào nhà thương mà tuổi thọ tăng thêm được vài năm. Lộn xộn...

- Ôi, nói làm gì ngữ đó. Như tôi đây này..., một bà mập mạp xen vào, hôm mới qua Mỹ nó trốn mất mặt. Họ hàng ai cũng tới thăm hỏi còn con "nỡm" giả vờ nay ốm mai đau. Tôi giận gọi điện thoại chửi cho một trận, nào ngờ "nỡm" thâu băng mang ra tòa đòi bồi thường danh dự. Thứ "nỡm" làm gì có danh dự mà đòi với chẳng đòi nhưng luật pháp ở cái xứ khốn kiếp này lại bênh những hạng dơ dáng trơ truốc như thế. Rốt cuộc rồi cũng phải chịu thua nó. Mà danh dự của nó có là bao, một đồng thì cũng chỉ đủ mua nửa cục xà phòng tắm cho bớt nhục.

- Bà không phải trả tiền luật sư à? Một người tò mò hỏi.

- Vì trả nên mới tức.

- Rồi tiền đâu bà trả?

- Thì moi trong túi thằng chồng nó chứ ai. Thằng khốn không dám đưa trước mặt vợ, dấu dấu đút đút như ăn trộm nên tôi đâu thèm lấy. Năn nỉ tôi mãi không được nó đi nộp tiền tòa một mình. Thứ ấy mà về Việt Nam thì tôi banh thây xé xác chứ đừng tưởng qua đây rồi cứ quen thói úp rế lên trên nồi.

Câu chuyện bỗng dưng xoay qua mẹ chồng con dâu làm bà Cửu lúng túng khi nhiều người hỏi về gia cảnh bà:

- Bà đang ở với con dâu chứ?

- Không, cháu ở xa lắm bà ạ!

- Vậy chứ "mẹ dâu" của bà không gọi phôn hỏi thăm hay phán xét gì hết à?

Bà ú ớ, gọi thì có gọi nhưng lạt lẽo thế nào. Mỗi lần nghe tiếng Cảnh là bà bù lu bù loa khóc nửa mừng nửa tủi, chẳng những không vỗ về an ủi, Cảnh gạt phăng đi lại còn ngạo bà: "Làm gì bu phải khóc cho nhọc, mai mốt con về thăm thầy bu mà! Vài giờ bay chứ mấy." Vài phút Cảnh còn không dám hy sinh nói chi đến vài giờ. Tuần lễ may ra nó gọi được một lần, trợn trạo mấy câu rồi vội vàng cúp.

- Vậy chứ dâu mới hay dâu cũ vậy bà?

Không thấy bà trả lời, một người ngồi đàng sau hỏi với lên. Bà quay lại nắm lấy tay kẻ đồng cảnh ngộ với mình.

- Chúng nó lấy nhau từ hồi bẩy mươi. Hăm mấy năm rồi còn gì.

- Nếu nó trở mặt láo lếu thì mình hãy tức còn không thì cứ lờ phéng đi cho xong tội, chẳng nhờ cậy gì được đâu bà ạ! Ngày xưa chồng nó cầm quyền thì mình mới được làm mẹ chứ còn bây giờ đã đổi đời thì cứ gọi nó là mẹ cho xong tội. Bà ta vừa nói vừa chép miệng chán nản cứ y như phong hóa suy đồi đã đến độ khiến mọi người tán tận lương tâm.

Bà Cửu tuy mang tiếng mẹ chồng nhưng với con dâu bà lại thương như con đẻ và đối với bà Cảnh cũng một lòng cung kính. Hồi còn ở với nhau, mẹ con chẳng bao giờ than trách đến một câu nhưng thời gian đã làm phôi phai tình nghĩa. Người ta bảo xa mặt chứ đâu xa lòng, còn Cảnh thì vừa xa đã vội cách vì một năm chỉ viết về vài lá thơ thăm hỏi. Có trách sao không viết thơ cho cậu Bảo, dì Vân, thím Quách, thím Bồng và họ hàng xa gần thì thư nào Cảnh cũng gom chung vào một lá, được người này thì mất người kia. Họ trách Cảnh chẳng biết kẻ trên người dưới, vậy chứ ai cũng bằng vai vế với những đứa cháu hay sao mà viết chung một giòng? Có lần bà dặn Cảnh phải viết thơ riêng thăm hỏi từng người nhưng chỉ được hơn năm rồi thì lờ luôn viện cớ càng viết thì càng bị bắt bẻ trách hờn. Cuối năm vào những dịp tết Cảnh dồn chục dồn trăm vào mà hỏi thăm báo hại bà phải đi từng nhà vừa đưa thơ vừa nghe những bà con trách cứ. "Ừ, thì dâu tôi như thế đó." Bà buồn bã nhận bừa để khỏi phải nghe thêm tiếng chì tiếng bấc.

Chương 8

Tuy giận nhưng bà không để bụng còn ông thì lại để tận trong ruột trong gan. Đi đến đâu hễ nghe người ta tâng bốc Nụ thì ông lại nhân cơ hội dùng đòn độc phỉ nhổ con dâu. Ông đã tốn biết bao nhiêu tiền của rước Cảnh về không lẽ để lên đầu thờ, để phủ lạy tung hô. Chết thì chết chứ chẳng bao giờ ông lại ngửa tay xin nó dù chỉ đồng bạc. Tết năm rồi chẳng hiểu nghĩ ngợi sao vợ chồng Phước gửi về một ngàn đô. Một ngàn đối với công sức dưỡng nuôi của ông có nghĩa lý gì. Ngày xưa, ông nuôi Phước tốn biết bao nhiêu tiền của đến khi học thành tài đủ lông đủ cánh thì bạc như vôi. Giá biết trước có ngày này ông đã để nó ở nhà trồng rau xem con vợ Phước dám vác mặt vênh váo với ai.

- Qua đây ông thấy dâu và rể như thế nào?

Đám người tò mò không khai thác được bà liền quay sang ông. Bà Cửu sợ ông vui miệng thố lộ nên gạt phắt đi:

- Ông mà cứ vớ vẩn luận điệu cũ là tôi về ngay.

Bà nói cho oai thế chứ biết lối đâu mà về, dù cho có lần mò ra tới đường cũng sợ chó đuổi chạy xoạc chân. Chó Mỹ con nào con nấy to lớn như trâu mộng, lại hung dữ bạo ngược chẳng khác gì giống chó săn thời quân đội Mỹ kéo quân sang miền Nam. Bà nhớ mỗi lần di chuyển chúng trên xe cam nhông là bao giờ cũng rào chung quanh bằng cọc sắt còn kiên cố hơn di chuyển tội phạm chính trị. Đám chó bị nhốt nào chịu đứng yên mà chồm cao nhe những chiếc răng nanh sắc nhọn như đe dọa tất cả mọi người. Mỗi lần xe dừng vì kẹt đường là đám chó nhảy dựng cào cấu tìm lối ra, đôi mắt đầy sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống khách bộ hành. Cứ nhìn sức mạnh và sự hung hãn cũng biết một con chó có thể vật chết một lúc mười người là bà lại thấy sợ hãi đến độ lạnh gai cả sống lưng.

Hôm nọ ở nhà Nụ, bà ra ngoài dạo một vòng cho khỏi cuồng chân. Khi đi ngang căn nhà có vẽ cái đầu chó dữ dằn, bà còn đang ung dung ngắm nét bút của nhà "họa sĩ" chuyên nghiệp đại tài thì một con chó to lớn từ trong nhà xồng xộc chạy ra. Cái cổng cao lớn vững chắc là thế mà nó tung cả một khối thịt nặng nề vào làm những thanh sắt cứng rung lên bần bật khiến bà sợ đến vỡ mật. Ba hồn chín vía bà cắm cổ chạy nhưng con chó không buông tha, nó hùng hổ đuổi theo đến hết vòng rào. Cũng may còn có hàng rào cản trở chứ nếu không giờ này bà đâu còn ngồi đây.

Ông Cửu có lẽ cũng không mấy hứng thú khi kể tội con dâu, nhất là "trái nổ" vừa rồi như một kết án nặng nề thì dù dâu ông có xấu xa cách nào cũng chỉ có thể lên tới chức "mẹ" là cùng.

- Cụ có cháu nội cháu ngoại gì không? Sợ không khí loãng, một người khơi mào.

- Tôi có vài đứa cháu ngoại đã gả chồng, còn cháu nội tám đứa. Ông Cửu uể oải trả lời.

- Vậy cũng may, tôi có mỗi đứa con gái mà đến sáu đứa cháu ngoại. Chúng sanh ở bên đây mà chẳng kiêng khem cứ tò tò năm một. Mả bố chúng nó, bố nó không biết dậy để đàn con một lũ toàn xí xa xí xô tiếng Mỹ với nhau. Hễ sai nhờ việc gì là chúng giả vờ đớ người ra, đôi khi còn vô phép liếc trộm mình. Hỏi chúng nói gì thì chúng lắc đầu quầy quậy "nothing." Ná thinh cái thằng bố nó ấy chứ!

- Giời ơi, ông còn phước đức chán, một người xen vào, tôi chỉ có mỗi thằng chắt mà vô vàn hư đốn. Bố mẹ nó xeo xẽo tiếng Mỹ nên ông con bắt chước, gặp người lớn kẻ bé cứ "ai" với "du" hết ráo. Cả đến ông cố nội nó cũng không từ. Mỗi lần bố mẹ nó dẫn ông con tới là tôi chỉ muốn giơ cao chân cho nó ngay một đạp...


Ở hội, gặp nhau chỉ để giết thời giờ chứ thực ra những người mang tâm trạng và hoàn cảnh như ông Cửu không thấy vui vẻ hay sáng sủa hơn tí nào. Qua Mỹ được hơn hai tháng, mấy đứa cháu ngoại ở xa gọi xuống thăm ông được vài lần. Vợ chồng Phước cũng hời hợt nên chẳng nói gì đến chuyện ăn ở của ông ngoài duy nhất một lần gửi vài ngàn xuống gọi là sắm sửa quần áo và trả tiền ăn uống cho ông bà. Có lẽ Phước cũng sợ ông bà mang tiếng phải nhờ vả vào con gái, cũng có thể muốn chuộc lại lỗi lầm xưa nên lấy năm ngàn đồng bịt miệng. Tiền Phước cho thì tội gì không lấy nhưng có dịp ông vẫn phải cho nó biết rằng đồng tiền đôi lúc cũng không thể mua chuộc được tình nghĩa con người.

Vợ chồng Tâm ra chuyện số tiền đó lớn lắm nên bàn bỏ vào "sê vinh", mỗi năm tiền lời cũng đẻ thêm năm, ba trăm bạc. Chúng đâu hiểu mức tiêu tiền của ông rộng rãi và lẹ làng đến độ nào. Ngày xưa còn hái ra tiền, mỗi mùa rau ông có dư cả đến chục cây vàng nếu không xài rộng thì tiền của bó đâu cho hết? Người chết có mang theo được không hay lại để cho người sống hưởng thụ kèm theo sự chê cười? Cả đời ông làm ra tiền với mỗi mục đích dâng cúng và giúp đỡ kẻ đói khổ vậy mà có một số châm biếm cho là ông háo danh, là không có danh nên cần phải mua danh. Mặc kệ, "Ở sao cho được lòng người. Ở rộng người cười, ở hẹp người chê" người ta thấy ông có của ăn của dư nên ganh ghét đặt điều là lẽ đương nhiên. Hơn nữa, ông đã bỏ công sức ra làm lụng vất vả chứ có ăn cắp ăn trộm của ai mà sợ dư luận. Ông nghĩ chỉ có Chúa mới hiểu được lòng ông chứ còn loài người và nhất là đám con ông ra chiều xót của, trách ông nhịn mồm nhịn miệng không dám ăn chỉ gom góp tiền cho vay mượn. Ngay chính vợ ông đôi khi cũng còn phải la lên:

- Ông cứ mang của mà đổ. Vợ Hưởng mượn có khi nào trả? Nợ trước chưa nhắc đến bây giờ lại rước thêm cái nợ này nữa.

- Ôi, đời này chúng không trả thì trả đời sau, của thế gian mà bà lo gì không biết!

- Mình làm ăn cực khổ, chắt chiu từng đồng bạc còn chúng ngồi chơi không chỉ lo rình mò vay mượn.

- Thì nó nghèo nên mới phải vay mượn, có hãnh diện gì khi phải xuống nước năn nỉ. Thôi thì mình cứ làm phước sẽ được thưởng công hậu ở nước trời.

Thế là xong, bất cứ điều gì thuộc về nước trời là bà chấp nhận ngay. Y như rằng Chúa bắt con người phải tự đày đọa tấm thân, làm lụng cực khổ để nuôi những miệng ăn chơi không. Y như rằng Chúa dậy phải thương yêu người ta như thương yêu mình cho nên có bao nhiêu tiền của trong nhà phải có bổn phận mang ra cho họ tiêu xài hộ. Ông bà Cửu cứ dựa theo những câu kinh hạt, những mười bốn mối phúc thật trong nhà thờ mỗi ngày đọc mà đem ra ứng dụng ngoài đời. Tiếc rằng ông bà không được đọc thêm sách và những giảng dạy riêng về phúc âm để hiểu những thâm thúy của lẽ đạo. Theo đạo và tin đạo tự trong tâm hồn mỗi người chứ nào phải đi lễ mỗi ngày mới là người có đạo, đâu phải chỉ khấn nguyện trong đền thờ thì Chúa mới nghe thấy...

Ông bà Cửu sáng chiều đi lễ. Lễ sáng ông bà tương đối tỉnh táo hơn sau một giấc ngủ dài nhưng hồn xác chia trí vì bụng cồn cào đói, chỉ mong sao cho chóng đến lúc được rước Mình Thánh Chúa, lẩm nhẩm cho xong chuỗi hạt và những kinh cầu là ba chân bốn cẳng rảo lẹ về để ăn điểm tâm. Lễ tối vất vả hơn vì sau bữa cơm chiều, mọi đồ ăn tích tụ và sau một ngày làm việc nặng nhọc vất vả đã khiến ông bà buồn ngủ đến díu cả mắt. Ngáp vặt vài cái là nước mắt ông chảy cả ra, cố lấy thế ngồi cho thật thẳng, thật nghiêm trang, ông bấu vào đùi từng cái đau điếng cho tỉnh ngủ nhưng chỉ được một phút, người ông lại rù xuống và bắt đầu gật lấy gật để. Bà Cửu thì cũng không hơn gì, tuy đau lưng chỉ quanh quẩn ở nhà nhưng như bị ma quỷ cám dỗ, hễ cứ lúc cha đang dâng mình thánh là bà ngáy khò khò đến nỗi nhiều lần bà hàng xóm bên cạnh phải lay dậy để lên rước lễ.

Thời gian sau này con cháu đi nước ngoài hết, ông bà chẳng phạm tội gì ngoài tội nói hành con dâu và ngủ gật trong nhà thờ. Riết rồi mỗi lần giải tội, hễ nghe tiếng ông bà thì thầm trong tòa là y như rằng Cha xứ biết trước sẽ cho hai người đọc kinh gì để đền vì tội...

- Thôi thì không đến chúng nữa. Ông ăn cơm đi kẻo rữa hết rồi. Bà Cửu đứng dậy mở nồi gắp con tôm kho lớn nhất bỏ vào chén cơm ông rồi chép miệng. Tôi thấy ông cứ rầu rĩ hoài mà cũng buồn lây.

- Tôm ở đâu mà có thế?

- Của vợ Tâm ghé biếu lúc nãy. Tôi kho trước cho nó tươi rồi muốn ăn chừng nào thì ăn. Những bốn đồng một "pao" chưa được nửa ký lô ở Việt Nam. Thật còn mắc hơn vàng.

Nhìn con tôm còn nguyên vỏ cong vòng với lớp muối trắng bọc chung quanh, ông gật gù:

- Kho như thế này ăn với nước rau muống vắt chanh mới ngon. Con tôm cắn dòn sừn sựt, vừa ý tôi với bà nhưng cái Nụ lại không thích, nội lớp muối bên ngoài đã làm nó bất mãn. Nó thích ăn những món vợ Phước làm, kho tôm mà cho đường, tỏi, hành với mỡ vào thì tôi chịu thật. À! Mà bà có chừa một ít bóc nõn kho cho nó không? Để như lần trước nó càu nhàu đến nhức cả đầu.

- Có cả rồi, ông cứ ăn đi.

Bà Cửu đứng lên dọn dẹp phần của mình bỏ vào sink rửa chén.

- Vợ Tâm bảo tôm luộc chấm muối tiêu chanh ngon không thua gì cua nên tôi để nguyên cho nó vài con trong tủ lạnh.

- Sư con ranh rẽo đâu cả ngày tới bữa cơm cũng mất mặt?

- Thì nó có muốn nhìn mặt mình đâu. Nó sợ ông như mèo sợ chó.

- Ăn với nói, ông nhai lụng bụng miếng cơm trong miệng, cứ thế lờn mặt cho quen.

Bà Cửu cười, cả khuôn mặt nhăn nhúm như quả trám khô:

- Không lờn mà dám nghĩ rằng ông sẽ quỵt luôn buổi dạo mát tối nay.

Ông nghệt mặt nhìn vợ vì không hiểu tại sao lúc nào bà cũng có thể nghĩ chuyện đi dạo trong khi cuộc sống chung quanh đen đủi hơn mõm chó.

- Bà chỉ bày với vẽ. Tôi hứa lúc nào mà bảo là quỵt với chả quỵt?

- Cách đây nửa tháng ở trên hội, lúc mình đi dạo chung quanh bờ cỏ ông chẳng nói là gì?

Nửa tháng trôi qua là chuyện cần phải quên, thêm vào đó sống với nhau đã lâu sao bà chẳng biết là ông chỉ bông đùa?

- Ơ cái bà này, tôi cứ ngỡ nói chơi cho vui.

- Chơi gì mà chơi, thời buổi văn minh không hưởng thụ lỡ chết thì tiếc.

- Bà lại sắp bày ra nữa đó. Thôi tôi chẳng nghe đâu.

Ông Cửu ngượng ngập lùa mau miếng cơm vào trong miệng để khỏi nói những chuyện mà ông cho là chỉ có thể nghe trong phòng kín. Bà Cửu được thể càng tấn công mạnh:

- Vậy ông chưa phải là Mỹ rồi.

- Thì tôi có nói tôi là Mỹ đâu.

- Nhưng ông bảo phải sống như Mỹ, phải biết hưởng thụ, phải biết quẳng gánh lo đi để mà sống trong khi lúc nào tôi cũng thấy ông đăm chiêu buồn rầu.

- Tôi buồn là vì ngày xưa mình còn làm ra tiền thì khối vạn người cầu cạnh qụy lụy, đến bây giờ trắng tay có gặp chúng cũng chẳng thèm gật đầu chứ đừng nói gì há miệng chào.

- Ông đã gặp ai đâu mà rộn thế! Thôi ăn lẹ lên rồi còn đi hóng gió.

Dạo này bà Cửu bỗng dưng vui vẻ trẻ trung một cách lạ kỳ. Mới nhập hội bô lão có vài tuần mà trông bà khác đi thấy rõ. Đúng là đàn bà! Chỉ ham vui... Ông ngồi cười trong bụng nhưng miếng cơm cuối cùng chưa kịp nuốt trôi khỏi cổ thì Nụ ở đâu xớn xa xớn xác chạy về.

- Báo động thầy ơi. Tối nay tụi housing tới xét nhà.

Được đàng chân, lân đàng đầu, ỷ y cha mẹ già ngu dốt không biết nên càng lúc Nụ càng làm tới. Bất cứ điều gì để có thể tống khứ ông bà Cửu ra khỏi nhà là Nụ không từ. Dạo này thằng Mễ lơ là với Nụ vì nó sợ trách nhiệm dù trước cũng như sau vẫn chơi luật sòng phẳng giang hồ. Nhưng ái tình lậm vào làm sao biết? Lỡ Nụ ghiền nó quá làm phiền phức sanh tội nên hắn lờ lững con cá vàng cứ trưa hẹn tối, tối hẹn sáng mai quần Nụ như quần ngựa và thê thảm hơn còn lôi cha mẹ Nụ ra bảo là kỳ đà cản mũi. Tội nghiệp Nụ và tội nghiệp những người liên hệ với nàng.

- Xét thì xét chứ ăn thua gì tới mình?

- Nhưng thầy bu ở lậu mà!

Ông bà Cửu giật mình nhìn con trân trối trong khi Nụ nói như một giải thích:

- Người bảo lãnh giấy tờ cho thầy bu là anh chị Tâm nhưng phải có anh Phước cosign họ mới chịu cho qua. Theo nguyên tắc, nếu anh chị Tâm không nuôi nổi thầy bu thì anh Phước phải có bổn phận.

- Tao tưởng nhà "hao dinh" đã cho thì mình muốn làm gì cũng được?

- Đúng như thế nhưng chỉ mình con được xử dụng thôi. Như nhà này một phòng thì chỉ một người ở.

- Thì mày cứ bảo là thầy bu tao ở tạm vài ngày.

- Ai mà chẳng biết nói thế nhưng cái thằng manager ở lầu dưới nó báo thành ra housing mới đi xét đêm. Có chứng cớ rành rành nó sẽ lấy lại nhà.

Ông bà lạnh cả người, nửa thương thân mình, nửa sầu giận đời. Đúng là ở chầu ở chực nhà con như cá mắc rọ, càng giãy càng chết. Thôi thì đành phó thác cho cuộc đời. Ấp úng mãi ông mới nói được một câu:

- Vậy... con... tính sao?

- Thì gọi chị Tâm đón xuống dưới đó vài hôm cho yên rồi trở lại đây.

Nghĩ đến cái nền gạch bông và gương mặt khó đăm đăm của Thành, ông buồn bã:

- Hay để thầy bu trốn ra ngoài hè khi chúng gõ cửa.

Nụ cau mày khó chịu:

- Làm gì phải khổ sở như vậy chứ! Thầy bu xuống đó chơi vài ngày cho thoải mái như đổi gió.

- Nhưng tao không muốn đổi gió. Nó xài cái bếp quỷ gì mà vặn hoài không được, lấy giấy mồi thì lại phun lửa phì phì thấy mà sợ. Thêm vào đó, chúng đâu có cho bu mày nấu nướng, cứ ngồi như tù chờ vợ Tâm về.

- Ông nói làm gì đến điện đóm bếp núc cho lằng nhằng rắc rối mà sao không nói thẳng là ở trên đó như bị nhốt tù. Dù nhà cửa sạch sẽ mát mẻ, dù đồ đạc đầy đủ tiện nghi và dù cơm bưng nước rót nhưng tao với thầy mày nuốt không vô. Bà Cửu chen vào.

- Không vô thì cũng phải cố nhét cho vô chứ con đã bảo ở đây không được là không được.

Nụ đã có thái độ gắt gỏng làm ông Cửu cảm thấy bực bội và tự ái, mắt cay cay:

- Theo tao nghĩ, chắc mày muốn đuổi đi nên bày ra nói thế phải không con?

Vừa hỏi ông vừa kéo vạt áo chậm giọt nước mắt sắp sửa rơi.

- Giờ này thầy còn vặn vẹo như thế thì ai mà chịu được. Thôi thì cứ để họ tới rồi thầy ra năn nỉ với họ, con lại nhà bạn ở cho khỏi bẽ mặt.

Nụ vùng vằng định dợm bước đi thì ông đã đứng dậy khóc bù lu bù loa:

- Thôi để thầy bu đi cho con nở mày nở mặt với người ta. Nhục ơi là nhục, tưởng sang đây đoàn tụ ai ngờ đi đến đâu chúng cũng xua đuổi như giống chó. Nào tao đã ăn hết tiền bạc của mày mà mày nhẫn tâm thế hở con kia. Một tháng trời ở đây ăn tiêu bao nhiêu mày ghi vào sổ. Ít ra tao cũng còn năm ngàn, chẳng lẽ không đủ trả cho mày à?

Nãy giờ bà Cửu ngồi im, thấy chồng làm quá phải gạt đi:

- Sao ông bày ra đủ thứ? Nó chỉ bảo đi đỡ vài tối thôi. Nếu ông không thích thì cứ tối chúng đón mình xuống ngủ, sáng sớm hôm sau trước khi vợ Tâm đi làm sẽ chở mình xuống đây.

- Vâng, con cũng nghĩ như vậy, Nụ phân trần, ở đây đi hay ở là chuyện quá thường như người ta thay một cái áo. Nếu không có vụ xét nhà thầy bu cũng nên bảo chị Tâm chở đi chỗ nọ chỗ kia chứ ai đời qua Mỹ chỉ ru rú một xó thì thật là uổng.

- Rú một xó mà cũng chẳng yên đấy con bạc bẽo ạ! Giọng ông Cửu nặng nề chì chiết, chỉ khi nào tao nhắm mắt hai tay buông xuôi chúng mày mới nghĩ lại là đã đối xử tệ bạc thì cũng đã muộn rồi.

- Thầy nhắc lại những lời cay đắng y hệt như khi xưa ông nội đã phiền trách thầy như vậy.

Ông Cửu đứng phắt lên nhìn Nụ chết sững, làn da đang xanh cũng đổi sang tái xạm. Bà Cửu hoảng kinh vì thái độ chống đối quá đáng của con nên vội vàng đứng ngay vào giữa và đẩy Nụ ra cửa.

- Chúa tôi, sao mày chọc giận thầy làm gì vậy con? Đi ra ngoài để tao năn nỉ xin lỗi ông ấy cho.

Nụ vùng vằng vì bị đẩy ngược, chân bước không vững:

- Con làm gì mà bu phải xin lỗi? Bu cứ để thầy chửi phủ đầu cho quen riết ra đường không dám ngước mặt nhìn ai.

Nụ không dám ngước mặt nhìn ai thật bởi chính vì bị chửi mà nàng chống đối bằng cách hủy hoại trinh tiết. Bây giờ thân xác đã tanh tưởi, nàng đã trở thành đàn bà hẳn hòi mà cũng vẫn bị chửi, bị chà đạp là thế nào? Nhớ lại hôm ngồi khóc ở lề đường, Nụ vung vẩy hai tay như muốn xông trở vào. Bà Cửu sợ quá nói như khóc:

- Con nghe bu đi đừng làm lớn chuyện lối xóm cười chê là nhà mình vô phúc.

- Vô phúc hay có phúc cũng mặc kệ. Con chẳng hiểu đã làm gì nên tội mà thầy cứ mỉa mai trách móc mãi như thế. Thầy bảo con bạc là bạc cái gì?

Ầm! Chiếc ghế gần ngay đó bị ông Cửu đá văng vô tường. Cũng may ông còn đủ bình tĩnh không ném ra cửa vì nếu ném thể nào không trúng mẹ cũng trúng con. Bà Cửu hoảng kinh khóc thét lên:

- Mày giết bu đi Nụ à! Thầy mày già cả chẳng còn sống bao lâu nữa để cho mày trả treo đâu.

Nụ mím chặt môi, nỗi uất ức không thể trào ra mà chận ngang nơi ngực:

- Bu chính là nấc thang để thầy trèo lên tác yêu tác quái và xưa nay bao nhiêu năm trời cả nhà đều phải khuất phục trước sự hẹp hòi ích kỷ của thầy bởi sự bao che của bu.

- Mày... Mày...

Bà Cửu đẩy mạnh Nụ ra ngoài đóng cửa lại rồi ngồi phệt xuống khóc rống lên. Tiếng khóc lớn mạnh hơn bao giờ hết vì bà cố gào to lấn áp cả hai cha con để ông đừng làm tới và cũng để đè sự uất giận của Nụ. Lần này, thêm một lần nữa bà đã thắng...

Từ lúc đá chiếc ghế bay vào tường và từ lúc nghe tiếng gào khóc của vợ, ông Cửu lảo đảo bước ra phòng khách ngồi như xác chết trên chiếc ghế phủ khăn trắng nhưng lắng nghe mọi sự biến chuyển quanh mình. Ông nghe rõ tiếng bà gào, thoạt đầu còn lớn, còn mạnh nhưng chỉ vài phút sau không thấy động tĩnh gì bèn hạ giọng xuống và trước khi đứng lên mở cửa cho Nụ, bà còn lén quay lại nhìn ông. Cái Nụ được mở cửa hầm hầm một mạch đi thẳng vô phòng. Tuy không nói gì nhưng ông biết chắc chắn nó đã chịu một phép vì ngay sau đó bà Cửu chạy theo bén gót khuyên lơn như mọi lần.

Quả đúng như vậy. Xưa nay bà là người giúp ông tỏ uy quyền một cách đắc lực nhất mà có bao giờ bà biết được điều đó. Chính thái độ sợ hãi, nhỏ nhẹ van xin của bà mà các con ông đều chịu im trong khuôn khổ. Sau đó nếu chúng không quỳ trước mặt ông xin lỗi thì cũng không bao giờ dám tái phạm đến lần thứ hai. Ông Cửu đâu biết rằng trong đám con ông chẳng có đứa nào nể sợ ông cả mà chỉ vì tình thương mẹ nên chúng đã để những bất bình nằm xuống bên dưới tình mẫu tử. Mười tiếng quát mắng của ông chúng không sợ bằng một tiếng khóc của bà. Nụ thấy lòng đau như cắt:

- Vâng, bu già chẳng còn sống được bao lâu nữa nhưng thầy cứ lấy thịt đè người.

- Thôi con ạ! Chiều thầy đi con, người già đổi tính khó chịu có khác nào đứa con nít...

Bà Cửu dỗ Nụ như dỗ đứa bé ba tuổi chưa biết gì. Hết dỗ con xong lại chạy đến với chồng, bà vuốt ve, năn nỉ ông như năn nỉ thế hộ cho Nụ. Như vậy bà vừa là người giúp ông rất đắc lực lại cũng hại ông không phải là ít. Bà đâu có ngờ những lời ngọt ngào đó làm ông cảm thấy ông hoàn toàn có lý. Ôi những người đàn bà nhà quê, những người vợ chất phác thật thà, họ có ngờ đâu tình thương và sự chiều chuộng không đúng chỗ đã làm cho chồng mỗi ngày mỗi khe khắt thêm lên.

Nghe vợ năn nỉ ông Cửu vui thầm trong bụng nhưng vẫn ngồi im làm nư. Những lúc này ông mới thấy bà là người hiền hậu tốt lành. Gặp người khác chắc chắn ông đã bị hàng loạt câu chì chiết. Nào là sao ông lại thế này, sao ông lại thế kia hoặc ít ra cũng vạch những sai lầm để ông sửa đổi bớt tính khó khăn độc đoán. Thực ra ông cũng biết mình quá đáng. Chính ra ông nên coi Nụ như một người bạn trong cách xử sự, dùng tâm tình cởi mở và lối sống hoà mình để đi sát cạnh con mới có thể giúp đỡ hoặc chia sẻ những lúc đau khổ bởi số phận kém may mắn của nó. Không phải qua Mỹ ông mới nghĩ đến điều này, ông nhớ khi xưa mỗi lần đánh mắng con vợ Chẩn, thấy nó phủ phục đầu xuống để cho ông trừng trị, tay ông đã muốn chùn lại. Có một cái gì tàn nhẫn độc ác dù rằng ông đánh chỉ với mục đích răn dậy hoặc trừng trị sự hỗn láo nhưng hình ảnh khiếp sợ, đôi mắt van lơn của nó như của con chó già vừa thoáng thấy bóng dáng tử thần. Ông thấy ông đáng tởm, đáng khinh quá nhưng tham vọng uy quyền bao giờ cũng mãnh liệt hơn đã thúc đẩy ông giơ cao cán roi...


Gần tối, Nụ gọi điện thoại sang cho Tâm đến đón trong khi ông bà Cửu lui cui dồn mấy cái mền vào xách tay và mang theo bộ đồ ngủ để mặc thay đổi. Khi Tâm đến, mặt nàng không mấy được vui vẻ:

- Thôi ra xe đi. Thầy bu còn lục đục gì trong đó hoài vậy?

Lúc này ông Cửu đang vui, vui vì còn có bà hiểu được ông và vui vì Nụ đã e dè lánh mặt nên không để ý đến bộ mặt khó đăm đăm của Tâm.

- Chờ tao kiếm đôi vớ mà xỏ vào chứ xuống đó buốt chân lắm chịu không được.

Bà Cửu ngước lên trả lời trong khi người vẫn lom khom mò trong thùng giấy để dưới gầm giường.

- Đã sắp qua xuân rồi mà bu còn sợ lạnh. Đừng tìm nữa, trên con thiếu gì.

- Của thằng Thành ấy hả? Nó sạch như ranh. Mượn rồi khi trả nó quăng vào sọt rác như hôm nào. Ông Cửu xen vào.

- Ai bảo thầy trả làm gì những thứ hôi hám đó.

Ông Cửu tìm được ba đôi vớ sạch nhét vào bên hông túi xách. Cái túi được dịp phình to trước đôi mắt dò xét của Tâm:

- Trời ơi đi ngủ có một đêm mà sao thầy mang dữ chừng thế này?

- Không mang lấy gì mà đắp?

- Thì mền gối hôm trước con vẫn còn để ở garage chứ đã vứt đi đâu.

- Kệ tao, nằm mền này đã quen hơi rồi.

- Nhưng..., Tâm ngập ngừng, ở đây dán nhiều lắm! Thầy có xách tới anh Thành cũng không cho mang vào nhà cơ mà!

- Dán thì đã có sao đâu! Bà Cửu xen vào. Đêm nào mà tao chả giết được cả chục con. Cứ để đèn ngủ mờ mờ là nó bắt đầu chui ra từ những khe cửa. Mắt tao tinh lắm, vừa thấy lú hai sợi râu con, tao nắm chặt kéo ra bóp chết tươi.

Tâm rùng mình:

- Khiếp! Ghê quá mà bu còn kể ra. Thôi đi cho nhanh kẻo lỡ họ đến.

Bà Cửu nhìn đồng hồ:

- Còn sớm, chưa đến bẩy giờ mà!

- Nhưng con phải về vì đã cơm nước gì đâu.

Ông Cửu khệ nệ xách cái túi bự xuống thang lầu mặc dù Tâm lải nhải đi theo ngăn cản. Thực ra, việc cản ngăn của Tâm không phải là không có lý. Nàng chỉ sợ đồ đạc lồng cồng ông bà sẽ ở lâu, thêm vào lũ dán đi theo hộ tống thể nào Thành cũng bắt để ngay ngoài sân mà xịt thuốc, còn không thì cũng phải tống xuống garage chứ không thể nào vác qua được ngưỡng cửa nếu không có sự kiểm soát vệ sinh của Thành.

Quả nhiên lúc đến nhà, dù ông Cửu cương quyết cách mấy cũng phải thua lý thằng con rể. Thế là đống mền hôm nào ông bà còn ở đây được mang lên thay thế. Cũng từ garage mà cái được coi trọng, cái không, có suy nghĩ lắm ông cũng chả hiểu được. Nhưng thôi, Thành là chủ thì muốn vẽ voi vẽ chuột thế nào mà chẳng được, còn ông là khách bảo sao cứ nghe vậy.

Theo chân con vào phòng ăn, ông bà Cửu ngồi xuống ghế đưa mắt nhìn quanh, vẫn khung cảnh cũ và sạch đến lạnh người. Trên mặt bàn kiếng trống trơn không bám một hạt bụi nhưng cái ông bà lo ngại nhất là bếp núc lạnh tanh chưa thổi nấu. Trong khi Tâm mở tủ lạnh lấy thức ăn ra thì Thành đã mang ra hai đôi vớ mới tinh đưa cho ông bà không quên dặn dò:

- Tối đến thầy bu đừng lấy muối xúc miệng nữa làm sao sạch được. Hai bàn chải hôm trước con vẫn còn để trong phòng tắm.

Quay sang vợ, Thành tiếp lời:

- Em chỉ thầy bu cách nặn kem và xài bàn chải...

Suốt cả buổi chiều gây gỗ với chồng về chuyện ông bà Cửu đến đây ngủ nhờ vài bữa, Tâm vẫn còn ức lòng nên dù Thành nói vô tình thì nàng vẫn cho là mai mỉa. Còn đang tìm thức ăn trong tủ lạnh, Tâm đã đóng mạnh cửa gằn giọng:

- Anh nói cái gì vậy? Thầy bu em không biết xài những thứ ấy hay sao?

- Ơ hay, anh đã nói động đến ai mà em phải rắc rối như thế!

Thấy Thành phản ứng yếu ớt, có thể vì trước mặt cha mẹ vợ, cho nên Tâm dựa vào lẽ ấy bắt đầu chỉ trích:

- Tại sao nhiều cái anh lại hà tiện một cách cuồng điên như vậy? Bàn chải đánh răng mà anh mua thứ vài chục cents, cứng ngắc làm sao thầy bu thèm đánh?

Tâm không phải tay vừa, một tay đánh ngã chồng, một tay kéo ông bà Cửu đứng lên. Quả nhiên bị đánh trúng nhược điểm Thành đâm ra ú ớ:

- Cứng mà sao anh xài được?

- Anh khác, em khác, thầy bu khác. Xưa rày em vẫn gửi thứ tốt về nhà nên xài quen rồi.

- Như vậy đâu phải lỗi ở anh? Em đã biết thứ nào thầy bu hay xài tại sao lại bắt anh đi mua?

- Em mà dám bắt anh? Chứ không phải hà tiện muốn mua thứ rẻ nên dành sắm một mình?

Thấy vợ càng lúc càng làm quá nên Thành nạt lớn:

- Đừng có nói cái giọng điệu móc họng đó. Bằng nào thì bằng, lát em mua dùm cái đi. Anh không muốn mang tiếng keo kiệt vài ba đồng bạc.

Bà Cửu nghe hai vợ chồng cãi qua cãi lại mà bắt rùng mình, không phải vì những kể lể tính toán ti tiện mà chính vì sợ phải xài kem với cái mùi nồng cay như xà bông, chưa cho vào miệng đã sực lên mũi. Thêm vào đó còn phải khạc khạc nhổ nhổ, vừa mất thời giờ vừa tốn kém trong khi chỉ cần dúm muối quệt vào đầu ngón tay trỏ, cho nó đi sâu vào các chân răng thì dẫu có đang bị sưng nướu cũng vẫn phải khỏi. Hồi xưa không có kem chẳng nhẽ ai cũng hôi miệng hết sao? Theo kinh nghiệm nấu ăn của bà thì muối khử mùi hôi, bằng chứng lòng bò, lòng gà chứa cứt đái thối tha mà bóp vài lần muối là sạch ngay.

Lúc ấy cũng cùng một câu phán lệnh của Thành nhưng ông Cửu thì lại nghĩ khác. Ông thích mùi kem đánh răng vì nó có vẻ Mỹ quốc nhưng lại sợ cái bàn chải vì vừa đụng vào chân răng kêu rồn rột là bao nhiêu da gà trong người ông nổi lên hết và cứ thế hơi lạnh từ sống lưng chạy lên đến gáy. Mỗi lần đánh răng cứ như là một lần cạo gió thì sống sao nổi.

Còn Tâm tuy không biết nguyên do tại sao ông bà Cửu không xài bàn chải đánh răng nhưng thấy chồng công kích và tỏ vẻ coi thường cha mẹ mình thì nàng tức tối vô cùng. Người ta bảo một câu nhịn là chín câu lành, hơn nữa có cha mẹ ở đấy Tâm không muốn đôi co vì sợ phần thua sẽ về mình nhưng nghĩ Thành đã cố tình châm chọc, gây chiến. Nếu im lặng ra điều xưa nay nàng sợ chồng và im lặng tức là để cha mẹ rước cái nhục vào người nên Tâm phải tìm cách bới chuyện dù Thành đã nín nhịn gạt đi.

- Thầy bu em đâu có văn minh xúc miệng bằng nước hứng trong tay như anh mà cái ly vừa mang vào xài anh đã xách ngay ra ngoài làm như bị vướng mắt.

Thành đâu phải tay vừa, đang bực dọc vì đống mền gối kềnh càng dơ bẩn phải ôm vào, giờ lại bị vợ ỷ thế đông lên chân nên chàng trả đũa:

- Anh đâu biết mang ly vô xúc miệng hay làm cái gì khác?

Biết Thành cố tình châm ngòi, mặt Tâm bừng bừng:

- Anh nói cái gì khác nghĩa là sao?

Thành thản nhiên:

- Thí dụ như tắm, gội đầu chẳng hạn.

- Anh đã làm như thế hay sao mà biết?

- Tại không biết nên mới cầm ra. Người mang vào không giải thích thì có trời hiểu.

- Trong nhà xài cái ly mà cũng phải tìm anh giải thích, bày tỏ nữa hay sao? Anh là gì trong cái nhà này mà mọi người phải sợ hãi, khép nép như vậy?

Biết vợ sắp sửa kể lể dài giòng về việc nuôi báo cô mình, Thành đấu dịu bằng cách quay ra phân bua với cha mẹ vợ:

- Thầy bu xem, vợ con bây giờ ương dở chịu không được. Tính con thiệt thà có sao nói vậy mà nhà con cứ hay bẻ quẹo, gán ghép trăm điều tội lỗi.

Nãy giờ ông Cửu cay đắng trong lòng vì bài học vệ sinh của thằng con rể nhưng không tài nào xen vào câu chuyện đôi co của chúng. Bây giờ bất chợt Thành khơi mào, không nhân cơ hội này mà quất roi vào mặt thì nó đâu coi ông ra gì. Ông ra điều nhỏ nhẹ:

- Con ạ! Ngày xưa tao cứ mong ngóng cầu xin đêm ngày cho vợ chồng chúng mày sớm có con để tao có cháu ẵm bồng. Nay mới thấy rằng thầy bu đang làm một chuyện vô ích vì những kẻ quá sạch sẽ như mày sẽ muôn đời không bao giờ có con.

Ông tưởng Thành sẽ tái xám mặt mày vì giận ai ngờ câu trả lời đi ra ngoài sự tưởng tượng của ông.

- Thà không con mà sạch sẽ còn hơn sống dơ bẩn lúc nhúc như một đàn heo. Với lại cổ nhân bảo "cây khô không lộc, gái độc không con." Nhà con mang số sát tử nên sanh ra đứa nào là đứa đó chết nhăn răng.

Thành quá lời chứ Tâm bị xảy thai ở tháng thứ ba thì làm gì gọi là sát con sát cháu. Vả lại chuyện này cả hai vợ chồng cùng đồng lòng dấu tất cả mọi người cớ sao bỗng dưng lại lôi ra đôi co với cha mẹ vợ. Đúng là Thành điên dại châm ngòi nổ, không hiểu hắn muốn giở trò gì đây. Tâm tái mét mặt nhìn chồng, chân tay run lẩy bẩy như bị trúng gió, miệng lắp bắp:

- Anh... Anh...

Bà Cửu nghĩ là Thành quá giận mất khôn nói càn nói gỡ cho nên không để ý những khúc mắc bên trong. Bà đến bên thằng con rể nắm chặt tay nó nghẹn ngào:

- Đến chơi mà thấy chúng mày cãi nhau tao buồn lắm. Thôi con ạ! Thí dỗ nó đi, vợ chồng có khi này khi khác, làm sao bỏ nhau được mà nặng lời với nhau như thế! Các con cố gắng nhân nhượng nhau, thầy bu có sống thêm được cũng là nhờ chúng mày vui vẻ hạnh phúc.

Tiếng khóc của Tâm vỡ lớn khi nghe mẹ mình giọng thấp giọng cao. Thật ra Thành cũng không quá tệ nhưng đàn ông nóng tính, một khi bị vợ vặn vẹo và bị bố vợ châm chọc thì hiền cách mấy cũng không thể giữ được lời cộc cằn. Nhất là đang trong tình trạng thất nghiệp nên cái mặc cảm dễ bị méo mó. Riêng đối với vợ, Thành biết mình quá nặng lời. Đâu ai muốn bóp mắt bóp mũi cho con mình chết để nhận chịu tiếng gái độc không con. Nghĩ thế, Thành vòng tay qua vai vợ và nói với ông bà:

- Thầy bu vào phòng nghỉ ngơi cho khoẻ, tụi con nấu nướng, dọn dẹp một chút rồi mình ăn cơm.

Nãy giờ ông Cửu giận run. Giá như xưa kia có lẽ ông cũng quyết làm một trận tan hoang cho thằng rể biết ông không phải là người dễ bắt nạt nhưng tiếng khóc của Tâm và gương mặt đau khổ của vợ làm lòng ông chùng hẳn xuống. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, ông với thằng con rể choảng nhau thì chỉ vợ con ông khổ. Thôi thì một câu nhịn là chín câu lành, ông gượng gạo:

- Thôi liệu mà thí dỗ nó con nhé!

Chỉ nói được có thế ông bước nhanh vào phòng, nơi mà cách đây hơn hai tháng đã cho ông bà biết bao kỷ niệm đau buồn, khủng hoảng và thất vọng. Ông Cửu đặt bao mền xuống giường rồi với tay kéo tấm phủ thẳng tắp không một vết nhăn. Chiếc gối nằm ngay ngắn ở giữa, bộ drap mới giặt nên còn thơm mùi giấy "Bounce." Bà Cửu nhìn ông cằn nhằn:

- Chúng sạch sẽ được như vậy là điều đúng chứ sao ông lại chê trách kỳ vậy? Đi đến đâu ông cũng chỉ muốn kiếm chuyện hoặc ngồi trên đầu trên cổ người ta. Hôm nọ bác Sáu bảo con dâu là mẹ dâu, vậy con rể là gì? Cũng là bố rể vậy.

Ông Cửu ngồi xuống mép giường chua chát:

- Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Đàn bà bên đây có giá chỉ vì lũ khốn coi trọng phụ nữ, kế đến là con chó, thứ ba mới là thằng đàn ông. Đàn ông còn thua con chó!

TTT

Nửa đêm ông Cửu giật mình thức giấc vì tiếng Thành oang oang. Tim ông đập mạnh như bất chợt nghe tin cướp đến nhà.

- Em đừng có nhiều lời, anh nói không là không.

- Dù không hay có cũng ngủ đi rồi mai tính, tiếng Tâm tuy nhỏ nhưng cương quyết không kém, có mỗi chuyện đó mà cứ nói hoài.

- Đúng rồi, có mỗi chuyện đó mà cứ nói hoài. Thành nhắc lại vợ nhưng đã hạ bớt giọng xuống.

- Để mai em cho một liều thuốc chuột là xong ngay.

- Anh không có đùa nghe chưa? Nếu em còn giữ giọng điệu đó là anh gây lớn cho mà xem.

- Thì nãy giờ chưa đủ bể nhà sao? Anh biết bây giờ là mấy giờ rồi không? Có khùng điên cũng phải cho người khác ngủ chứ!

Ông Cửu trở nhẹ mình, không hiểu chuyện gì mà chúng phải lớn tiếng giữa đêm khuya như vậy. Ông mắc bệnh lãng tai nên nghe tiếng được tiếng mất, thêm phần chúng tránh đề cập thẳng vào vấn đề nên khó lòng suy đoán. Mà thôi, vợ chồng cãi nhau là chuyện thường, con người cũng phải có lúc này lúc khác chứ không lẽ ai cũng là thánh cả.

Ông nhắm mắt cố giỗ lại giấc ngủ nhưng tuổi tác khá cao nên đến cả mười lăm phút sau vẫn thấy tỉnh như sáo. Khát nước, ông ngồi dậy mò tay dưới gầm giường tìm bình trà dã chiến pha lúc tối. Bà Cửu nằm gần chỗ đèn ngủ nên nổi rõ cái dáng co rút trên ghế như con tôm khô. Chiếc mền được đắp tận lên cổ nên hơi thở bà vẫn đều đều nhẹ nhàng. Ông mở nắp bình đưa lên miệng tu một hơi dài. Nước trà lạnh ngắt lại ảm mùi nilon nên tanh tanh khó chịu nhưng ông vẫn nín hơi ngửa cổ tu tới lần thứ hai, thứ ba rồi mới ngừng lại để thở. Bụng đói, dòng nước chảy thẳng xuống ruột kêu ùng ục và chảy đến đâu, bụng căng ra đến đó. Thế là như thói quen của mỗi đêm, ông rón rén mở cửa phòng lần mò về lối nhà vệ sinh. Đang đi, ông chợt khựng lại vì tiếng Thành rõ rành rành:

- Anh không chấp nhận sống trong một căn nhà tràn ngập mùi nước tiểu.

- Nội nghe không cũng hết chịu nổi, người gì mà nhây quá, có một chuyện cứ bới ra nói hoài.

- Chỉ có nghe mà còn chịu không nổi, vậy chớ ngửi thì sao? Ngửi ngày một ngày hai, vừa bước chân vô trong nhà đã mắc ói.

- Nhưng em đã lau rồi.

- Hừ, lau chỉ sạch ở trên bồn. Còn bốn chung quanh và những vệt dài chảy xuống? Rồi nền nhà? Rồi khe cửa? Em lau hay thằng này phải xấp mặt xuống mà chùi rửa?

Bản tính tò mò, ông nhẹ gót đi về phía phòng Tâm và ghé tai sát vào khe cửa. Tiếng Tâm vẫn nhẫn nhịn:

- Thì đâu còn bao lâu nữa, một vài ngày thôi mà! Đã chịu đựng được từ hồi nào đến giờ, không lẽ thêm vài ngày thiệt thòi cho anh lắm sao?

- Em đi làm từ sáng cho đến tối, tối về rúc chết trong phòng. Hơn nữa cái mũi của em nó bị đặc rồi, nhưng cũng có thể..., Thành hạ thấp kèm theo giọng cười chế diễu, cũng có thể em quen mùi nên đâu còn ngửi thấy.

Nhịn hết nổi, Tâm hét lớn:

- Em cấm anh nhục mạ em.

- Ai biểu cứ nói không sao. Anh nói thật, nước tiểu nhà này nặng mùi đến nỗi bám trong tận cùng hốc mũi nên đi đến đâu anh cũng thấy cái hơi hám đó. Nhức đầu muốn điên lên.

- Anh nói riết em nghe cũng muốn điên luôn. Thôi thì mai bảo thầy bu về bên ấy rồi muốn ra sao thì ra. Cùng lắm chỉ trách thằng con rể bạc bẽo.

- Anh không có ý đó, giọng Thành hạ xuống thật thấp, tại sao có một điều dễ dàng em không chịu làm là nói thẳng cho thầy bu biết cách ngồi đi tiểu như thế nào.

- Em nói nhiều lần nhưng mắt thầy đâu có nhìn thấy rõ.

- Đừng nói chuyện sáng với tối, cái lỗ toilet bự như đầu con bò mà văng ra ngoài thì anh không hiểu sao.

- Muốn hiểu thì cứ việc đứng rình. Giọng Tâm đầy bực dọc.

- Đừng có hỗn ẩu nha!

Thành quát lên làm ông Cửu giật nẩy mình và tim đập loạn xạ. Loạng quạng, ông ngã ngồi xuống đất ôm ngực thở dốc. Bên trong tiếng Tâm oang oang:

- Em hỗn hay anh hỗn? Ngày xưa, thầy bu cũng nuôi em cứt đái tùm lum sao không ghê? Bây giờ thầy bu xin ở nhờ một vài ngày anh đã kể lể ỉ ôi.

- Nhưng thầy bu đã liệt đâu? Bằng chứng còn cuốc đất nhổ cỏ được mà! Nếu đứng mà văng ra thì em bảo ngồi xuống.

- Ngồi xuống? Anh nói cái gì? Đàn ông ngồi tiểu cho nó vọt lên trần nhà? Không ngờ em lại lấy trúng con người bần tiện như anh. Trời ơi!

- Trời ơi cái gì? Thành rống lên như bò bị thọc tiết. Em xem bồn cầu ướt như thế làm sao bu dám ngồi, rồi lại cũng đứng.

- Câm ngay, Tâm hét lên theo tiếng khóc, anh là thằng con rể tồi bại, là một con người nhỏ mọn...

Tiếng Tâm đuổi theo từng bước chân run rẩy mà ông Cửu đang cố kéo lết về phòng. Thật là bỉ ổi ghê tởm, cả cuộc đời từ Bắc vào Nam suốt mấy chục năm chưa một người nào dù giàu sang uy quyền đến đâu cũng không dám nhục mạ ông như thế, mà lại nhục mạ về sự dơ bẩn thiếu vệ sinh của bậc cha mẹ. Nỗi nhục trì nặng đôi chân gầy, chận đứng đường gân cử động và phủ chụp xuống cả tấm thân yếu đuối. Ông gập người bên chân giường, mồ hôi nhỏ hột và nỗi tức giận trong lòng ông sùng sục sôi như muốn nấu chín cả tai mắt, luộc khối óc ông khiến nó căng phồng với độ nở khủng khiếp tạo áp lực làm xây xẩm mặt mày.

Co rúm người lại trong tư thế chống đỡ dù không bị ai đánh, ông vòng hai tay qua đầu và gục xuống, cố ép thân xác để miệng khỏi bật thành lời than giải tỏa nỗi đau nhức nơi tâm tư, nhưng đôi mắt... đôi mắt vẫn mở trừng trừng, quét từng vệt lửa bỏng rát xuyên qua cánh cửa phòng khắc nghiệt tuồng như muốn đốt cháy thằng con rể đốn mạt đã dám buông lời xúc phạm danh dự cuộc đời ông... dẫu chỉ là niềm hãnh diện thừa của những ngày còn sót lại...

Chương 9

- Excuse me, sir.

- Excuse me, sir.

Giấc ngủ tuy không được trong tư thế thoải mái, nhưng đang ngáy khò khò mà bị đánh thức bởi tiếng léo nhéo bên tai cùng sự lay động mạnh vẫn làm ông Cửu giật mình mở đôi mắt ngơ ngác lẫn mệt mỏi ra nhìn. Chiếc mũ nỉ đội hơi xụp rớt xuống khi ông quay nghiêng về phía vợ:

- Đang ngủ không thấy hay sao mà lay với gọi.

Bà Cửu suỵt khẽ:

- Tới giờ ăn người ta gọi kìa.

Ông giật mình quay lại nhìn cô chiêu đãi viên hàng không đang lép nhép chiếc miệng màu đỏ thắm với mình. Mặt ông đỏ bừng và lúc này thật sự ông đã quên hẳn cuốn sổ nơi ngực áo, đã vậy cô tiếp viên vẫn chờ ông trả lời một cách kiên nhẫn. Tự dưng ông cảm thấy bực mình quá, cứ cái điệu nghe tiếng Mỹ như vịt nghe sấm trong khi mọi con mắt đều đổ dồn về phía ông thì làm sao chịu nổi. Dù gì ông cũng đã già, đáng tuổi ông nội ông ngoại nó mà cứ nghệt mặt như đứa trẻ lên hai chẳng biết một sự gì thì thật tủi hổ. Ngay lúc ông vừa định xua tay ra chiều không muốn nghe cũng là lúc người Mỹ bên cạnh hạ dùm chiếc bàn ngay trước mặt ông được nối liền với lưng ghế trước. Bà Cửu lanh lẹ không kém, vừa thoáng nhìn thấy đã làm y hệt như người đàn bà tốt bụng vừa làm cho chồng mình. Cùng một lúc hai khay thức ăn được đặt xuống, lúc đó ông mới tỉnh hồn và thầm trách sự chậm chạp tối dạ của mình. Giá ông đừng ngủ thì mọi diễn tiến xảy ra tốt đẹp chứ đâu đến nỗi "quê xệ" thế này. Nhìn khay đồ ăn rồi liếc nhìn sang bên cạnh, bây giờ ông đã học được cái khôn là nên bắt chước những gì người chung quanh làm...

Miếng khăn giấy được nhét vào cổ để che phần ngực, con dao cầm bên tay phải, cái xiên và cái muỗng cầm bên tay trái, ông quay sang chỉ dẫn cho vợ cách xử dụng theo lối Mỹ và thật ngượng nghịu khi mở miếng giấy bạc phủ trên dĩa của mình còn hâm hấp nóng. Mùi thịt gà tỏa ra thơm phức nhưng ông thấy váng vất vì ngoài ba cái gia vị khó ngửi lại còn tẩm bơ tẩm dầu ớn tới tận cổ. Hai dĩa giấy nhỏ nằm kế bên trông khá hơn với vài miếng bông cải luộc, nửa củ khoai tây nướng, một phong bánh tây lạt và một lát bánh mì mỏng. Ông ngán ngẩm nhìn sang vợ rồi lại nhìn sang bà Mỹ khi nãy. Bà ta đang cắm cúi cắn miếng cá tẩm bột trắng phau to gần bằng bàn tay còn bốc khói nghi ngút. Ông Cửu nuốt nước miếng, thật xui xẻo, lúc nãy nó hỏi ăn gì mà ông không biết nên cứ gật đại làm cả ông lẫn bà đều bị hai miếng thịt gà to tướng.

Thịt gà ông đâu ăn được. Chẳng hiểu sao ít năm gần đây hầu như ông đã quên hẳn mùi vị của những loài động vật có cánh vì sợ ho. Có dạo thèm ăn cháo bồ câu nên hàng xóm nghe tin biếu ông vài con mới ra ràng. Bà Cửu làm theo lời chồng vật chết, vặt lông rồi đốt cho xém những lông tơ còn sót lại và mổ moi hết bộ đồ lòng lại còn cẩn thận gỡ bỏ hai lá phổi, ấy thế mà ông vẫn ho như cuốc rũ. Cơn ho kéo dài cả tháng làm ông vốn đã ốm lại càng ốm thêm. Nay ông đi bác sĩ này, mai đi bác sĩ kia cũng chẳng khỏi, may mà Nụ cấp thời gửi về thùng thuốc tây cơn ho mới dứt hẳn. Tuy có thuốc sẵn nhưng ông vẫn rờn rợn mỗi khi định gắp miếng thịt gà. Nhà có đình đám không làm thịt gà coi sao được, mà làm ra ông chỉ dám đưa mắt nhìn rồi lặng lẽ gắp vài miếng rau ăn cho có lệ. Đôi lúc vợ Chẩn rảnh cũng chiên cho ông con cá chép vàng ngậy, loại cá không khó kiếm nhưng lại tốn công làm, chẳng lẽ chỉ để riêng một chỗ ngay trước mặt ông? Mà chiên cho cả khách thì công sức nào...

Bà Cửu có vẻ dễ ăn hơn ông nên nửa củ khoai tây và miếng bánh mì mềm với confiture đã sạch nhẵn nhưng phải tội ăn bằng cái xiên nên vất vả quá, cứ như đánh vật. Giá ở nhà, bà đã tự cầm tay bóc vỏ và đưa lên miệng ngồm ngoàm cắn mới đã miệng.

- Ông không ăn đi à! Ở trên kia người ta đang đi thu dọn rồi đấy!

- Mẹ sư nó. Vừa bưng đến chưa kịp ăn đã bưng đi. Ở Việt Nam mà láo thế tôi chỉ có đạp đổ.

Bụng đói nhưng nhìn thức ăn nuốt không vào, ông tức mình lụng bụng trong miệng làm bà mỉm cười trêu chọc:

- Ai sao mình vậy, ông giỏi tiếng Mỹ thì chửi nó đi.

- Đã vậy tôi không ăn nữa.

- Đừng có con nít. Dỗi không ăn nó còn mừng.

Bà chồm sang nhón mấy cái bánh tây lạt có bọc giấy bóng kiếng và khoanh bánh mì gói vào chiếc khăn giấy:

- Tôi cất phần này cho ông, giờ thì ăn rau với củ khoai đi, vẫn còn kịp chán.

Biết không ăn là thiệt phần mình nên nhìn miếng thịt gà ông tiếc rẻ:

- Hay bà cất cả cục thịt này đi cho cái Dung ăn kẻo hoài.

- Chúng chẳng thiếu thốn gì đâu ông ạ! Mang đến chỉ làm trò cười.

Giọng bà tuy ngọt ngào và lời nói chân thành nhưng lại khiến ông nghĩ ngợi. Chẳng còn gì đau đớn bằng bị người khác nhất là con cái nhìn bằng đôi mắt thương hại hoặc coi thường. Ông đi đến đâu mà lại chẳng chắt chiu tằn tiện, không thế sao có của hơn những người khác nhưng đám con ông lại tỏ ra khó chịu, nhất là cái Nụ, tính tình nó giống Mỹ đến độ ông không ngờ...

- Ông cố ăn một chút đi, mình còn đi lâu lắm coi chừng đói đấy.

Như một đứa trẻ ngoan ngoãn, ông chậm rãi bỏ từng miếng rau lên miệng, rau luộc quá mềm nên mất cả hương vị. Vừa ăn ông vừa đưa mắt nhìn vợ. Bà Cửu hôm nay trông thật khác lạ. Có thể vì lớp phấn hồng trên má nên trông bà bớt cằn cỗi khô héo hơn. Ông nhìn đôi môi dính vết son đỏ như ăn trầu trêu vợ:

- Tưởng lúc nãy ăn xong bà đã chùi hết son rồi, ai ngờ...

- Ai ngờ cái gì? Ông còn về hùa với mấy đứa ngạo tôi nữa đấy. Không đánh phấn mà được với con vợ Tâm à! Nó chẳng đè ngửa ra.

- Bà không xí xọn đứa nào đụng vào mặt bà được?

Bà Cửu mỉm cười, nụ cười thật duyên dáng mà từ lâu thiếu hẳn trên môi. Không hiểu vì ông trêu ghẹo hay phấn son đã cho bà niềm tự tin mãnh liệt. Bà nhớ trước khi đánh lớp phấn trên mặt, vợ Tâm đã cố năn nỉ cho bằng được:

- Bu ạ! Tụi Mỹ da nó trắng lắm. Mà ngay đến Việt Nam bây giờ cũng vậy, chỉ nhìn màu da cũng có thể biết được qua đây lâu hay mau. Da bu vừa đen vừa nhăn lại trứng quốc hơi nhiều, để con đánh một chút, một chút thôi.

- Nhưng mà, bà nói thật khẽ như sợ đánh thức con rể dù đã hơn bẩy giờ sáng, tao già rồi, ra đường có ai thèm dòm ngó mà phải rộn. Hơn nữa qua Mỹ lâu hay mau thì có phiền hà gì đến ai đâu.

- Phiền hà? Không phiền hà đến thiên hạ nhưng xuống dưới đó anh chị Phước sẽ cười chúng con keo kiệt.

- Không đánh phấn mà bảo keo kiệt à! Sang giàu gì lũ chúng nó mà phải bày vẽ.

- Dù không khá nhưng cuộc sống đã hoàn toàn theo Mỹ rồi. Bu xem ở đây hầu hết là Việt Nam mà còn thay đổi như vầy trong khi vùng anh ấy ở không có tới một mống thử hỏi khi thầy bu xuất hiện khác nào làm hề cho tụi Mỹ nó cười?

Tội nghiệp bà Cửu, từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ có biết môi son má phấn là gì mà qua đây bỗng chốc phải đổi đời. Bà cảm thấy khó chịu và lòng bất an với gương mặt nhầy nhụa những bệt phấn lỏng ướt nhưng lại thấy háo hức khi nhìn bóng mình trong gương. Mớ tóc bạc trắng rụng gần hết được bới lên tới tận chỏm và gài gọn trong chiếc trâm cài bằng đồi mồi. Đến khi bà mặc xong bộ vét màu cà phê sữa lợt, Tâm mới gật gù:

- Bu đổi lốt thành Japenese rồi. Như thế mới gọi là đi du lịch chứ!

Đứng trước gương mặt bà đỏ ửng. Thật đúng như lời vợ Tâm nói. Trông bà hoàn toàn xa lạ, không còn là bà Cửu với gánh rau nặng trĩu trên vai, cũng không còn là bà Cửu mấy tháng trước ngồi băm rau heo còng xương sống. Con người ta có chút son phấn, diện quần áo vào thì dẫu nghèo khổ xấu xí đến đâu cũng biến thành người khác ngay.

Tâm thấy mẹ cứ thộn mặt nhìn bóng hình xa lạ trong gương, nàng quay đi dấu nụ cười cho mẹ khỏi ngượng ngập rồi gỡ trên tay chiếc đồng hồ đã cũ đeo cho bà:

- Bu đòi đi gấp quá chứ nếu không chờ con đánh chiếc nhẫn vàng nữa là đủ bộ.

Tâm nói hơi quá vì đòi đi là một chuyện mà chờ mua vé on sale lại là chuyện khác. Từ hôm đó đến nay cũng cả hơn tuần thì làm gì có chuyện không kịp mua một chiếc nhẫn. Tuy nhiên vốn tính dễ dãi và không để ý, bà đưa cao tay ngắm nghía chiếc đồng hồ với giọng cảm động:

- Thôi con ạ, mua sắm làm gì. Tay chân tao như vầy đeo vào người ta cười cho.

Nói thế nhưng trên đời có người đàn bà nào lại không thích đeo vòng vàng, nữ trang? Nhớ lại vài tháng trước hôm đi còn vài cây vàng lá ông tặng riêng cho bà để sắm sửa. Lúc ấy bà cứ ngơ ngẩn vì không tin là sự thật. Ngày xưa đám cưới bà là ngày quan trọng nhất trong đời mà ông Cửu chỉ dám mua cho bà mỗi đôi bông hột bẹt với chiếc nhẫn trơn đeo đến ngày nay. Bây giờ lại dám tặng bà những hơn hai lạng vàng để đánh đồ trang sức thì đủ biết chuyến đi với những dự tính tương lai vĩ đại như thế nào. Bà đem sang chợ cho họ đánh sợi dây chuyền nửa lạng, tấm lắc một lạng, đôi bông tai nặng trĩu nhận cẩm thạch và chiếc nhẫn với mặt ngọc hình bầu dục. Đeo được mấy hôm còn đang sung sướng như lên cơn sốt vì sự quá rộng rãi của chồng thì ông mở bữa tiệc chia ly. Đám con cháu xúm lại đứa rờ sợi dây cổ, đứa vuốt ve đôi bông tai. Lại còn có đứa táo gan tự cởi ra làm bà phải hét lên mà chúng nào có sợ cứ lăn xả vào. Đôi bông tai chia cho vợ Chẩn, sợi dây chuyền cho dì, chiếc nhẫn cho mợ rồi còn tấm lắc với lũ cháu ruột mười đứa hau háu mắt chầu chực. Đâu đành lòng để làm thất vọng cho bằng đó người nên cực chẳng đã bà lấy kìm cắt đều cho mỗi vợ chồng chúng một khúc làm vốn sinh sống. Thôi thì từ nay hết trách nhiệm.

Chiếc kìm cắt răng heo thuở nào ai thấy cũng không muốn nhìn vì rỉ sét và dơ bẩn thế mà hôm đó bằng ấy con mắt đổ dồn như thể muốn nuốt trửng từng nhát bấm của bà. Ông Cửu ngồi gần cũng không tránh được sự lôi cuốn nhưng có điều mỗi tiếng tạch vang lên, tim ông lại thót đau như có ai bấu chặt vào da thịt. Ông xót của nhưng không thể thốt thành lời vì chẳng những bà mà ngay chính ông cũng đồng tình để bước lên cái bẫy vinh quang ca tụng mà vào giờ phút chót ông nghĩ là sẽ thoát. Bà Cửu vô tư hơn, dù gì của cải đâu thể bằng máu mủ ruột thịt cho nên mỗi tiếng tách, nhịp tim bà lại đập mạnh theo tình cảm đang dâng ngút ngàn và nước mắt chỉ chực trào ra. Không ngờ đã đến giờ chia tay mà bà còn được cái vinh dự ấy...

- Tiếc quá chẳng còn vật gì mà đeo trong người ngoài cái đồng hồ chết tiệt này.

- Thấy chưa tôi đã bảo là bà thích đỏm dáng mà còn cứ cãi.

Ông Cửu đã quên hẳn số nữ trang của bà nên mới nói lạc đi như thế. Thôi của đã cho có tiếc cũng không lấy lại được vì tình thương yêu bà con còn nặng gấp mấy ngàn lần. Biết ông đang vui bà cũng vui lây nên cớt nhả:

- Còn ông thì sao? Nếu không xí xọn cũng đâu ai đóng bộ vào người ông được.

Giật mình, ông Cửu nhìn xuống bộ đồ đang mặc. Bộ vét màu xám lợt, áo sơ mi trắng có những sọc nhỏ màu xám. Chiếc cà vạt đậm hơn một chút tiệp với đôi giầy da mũi nhọn và chiếc mũ dạ trên đầu. Đâu ai biết được những thứ đó, ngoài trừ chiếc mũ dạ, đều là của Nụ mua sẵn cho ông cách đây bẩy năm về trước. Cái quần hơi dài và rộng phải nhờ vợ Tâm sửa lại, còn thì y như may ở tiệm mới lấy về, chẳng tốn đồng xu cắc bạc. Ông ấp úng chữa thẹn:

- Bà khéo vẽ bộ. Chung quanh người ta mặc đầy chứ đâu phải mình tôi.

- Thì biết là chung quanh mặc đầy nhưng có ai đội mũ đâu.

- Ừ nhỉ!

Ông buột miệng nhưng rồi giữ lại được ngay. Ngày xưa, chỉ có chánh tổng trong làng mới oai vệ trong chiếc áo dài gấm xanh, khăn đội và chiếc gậy trúc nâu. Sau này tân thời hơn, họ mặc theo tây nhưng ít có ai đội mũ ngoài trừ những ông bộ trưởng đi kinh lý miền xa. Thoáng chút hãnh diện về cách ăn mặc của mình nhưng ông vẫn bào chữa:

- Mặc thế thì đã chết ai đâu.

- Qua đây không ăn vận đúng kiểu người ta cười.

- Ai bảo bà? Chính tay con vợ Tâm dẫn tôi vào "Sia" lựa mãi mới được. Mũ dạ chứ giỡn sao.

Giống như Tâm, ông Cửu nghĩ rằng bất cứ món hàng nào từ chợ Sears ra đều quý giá sang trọng, có thể biến đổi được diện mạo của con người. Ông thò tay vào túi áo lấy ra cặp kính trắng mà vợ Tâm sắm cho khi vừa có "mê đi keo".

- Cái ông này, người ta nhìn kìa!

- Kệ họ chứ, tôi ngần này tuổi đầu không đeo kính lão được sao?

- Nhưng ông có đọc báo đâu nào.

- Cần gì đọc báo. Tôi nhìn bà không được à?

Hai gò má nhăn nheo tóp bọp bỗng chốc đỏ hồng, bà nhích người ra cách một ghế lườm chồng:

- Rõ nỡm, chẳng còn son trẻ gì nữa mà ăn no rửng mỡ. Ăn đi còn cho người khác dọn dẹp...

Hai nữ tiếp viên hàng không trở về ghế ngồi sau khi kiểm soát hết một lượt dây cột bụng an toàn của hành khách. Tiếng tít tít vang lên trong máy và những đèn chớp đỏ báo động mọi người trong tư thế sẵng sàng trước khi phi cơ đáp xuống. Người nữ tiếp viên đã ngừng nói trên máy phóng thanh. Chỉ vài phút sau, tiếng động cơ nhỏ hẳn và đột ngột ngưng lại như bị chết máy giữa chừng, cả khối sắt khổng lồ, nặng nề tuột hẳn xuống rớt vào khoảng chân không. Ông Cửu thấy ruột gan lộn lạo và máu chạy rần rật. Hai màng tai như bị ai bóp chặt không cho không khí đi vào nhưng tiếng u u lại vang lên, nhọn và xoáy sâu trong óc đến nỗi tưởng máu trong người đặc lại không còn chỗ lưu thông.

Bà Cửu thì tương đối dễ chịu hơn ngoài trừ bao nhiêu thức ăn được dịp ào ào tuôn ra. Bà đưa cả miệng vào trong bịch giấy rồi cứ thế mửa thốc mửa tháo cho đến khi bao tử trống rỗng chỉ còn chứa lại chất nước đắng màu vàng. Đã tới mật thì đâu còn gì nữa mà ra, nghĩ như vậy nên bà túm vội túi giấy bỏ xuống dưới chân rồi rút chiếc khăn trong túi áo cánh chậm nước mắt nước mũi dầm dề trên mặt. Ai ngờ chưa kịp cất khăn bà đã gập người xuống, không kịp mở bịch giấy, bà lấy khăn bụm ngay vào miệng và co quắp người lại. Lần này thì mật xanh, mật vàng cũng theo nhau ra cho bằng hết.

Biết vợ cần mình trong lúc này nhưng ông Cửu cũng chẳng hơn gì. Mắt ông nhắm nghiền, cố hít một hơi thật dài như sắp sửa lặn xuống nước rồi ông thở ra rất chậm, chậm như khỏi tiếc nuối những phút đã phải nín hơi rất lâu để hít vào. Người ông cứng đơ nhưng tai lại nghe rất rõ. Ông nghe tiếng thở gấp rút của vợ, rồi thì tiếng khịt mũi, tiếng ọ oẹ. Phải cầm lòng lắm ông mới đè nổi những đồ ăn chưa kịp tiêu hóa đang chực trào ra theo điệp khúc thôi thúc của vợ mình. Thật khổ cho ông bà và cũng khổ cho tất cả những người già cả lăn lội đi thăm con cháu ở nơi xa.


Cũng may, phi cơ đáp xuống nhẹ nhàng và mau lẹ như khi cất cánh lên. Tiếng cụp vang lên vì bánh trớn đụng mạnh xuống mặt đường và cứ theo đà lăn nhanh trên phi đạo. Mọi người thở ra cùng lúc máy phóng thanh vang lên, tiếng mở khóa bụng kêu lách cách, tiếng ồn ào hòa lẫn tiếng động cơ tạo một âm thanh vui rộn rã. Tất cả mọi người vẫn trong tư thế chờ đợi tốc độ giảm dần để rồi dừng bánh hẳn là đứng bật dậy đổ xô về phía trước. Biết là không còn gì dập dềnh, chóng mặt nữa nhưng ông vẫn lấy dầu bôi lên mũi và hai bên thái dương trước khi đưa qua cho bà. Lọ dầu khuynh diệp như một loại amoniac, thoa đến đâu là từng thớ thịt sống lại.

- Lúc nãy tưởng ngất đi ai ngờ mửa ra được lại thấy nhẹ người. Mà ông này, vợ Tâm có gọi cho vợ chồng thằng Phước ra đón mình không?

- Dặn rồi, việc đó bà đừng có lo cho nhọc. Cả một cuốn sổ điện thoại tôi mang theo, không gọi cho đứa này thì cũng gọi cho đứa khác.

- Mà ông có biết gọi không? Bà hỏi với giọng đầy lo ngại.

- Có khó gì mà chẳng biết.

Ông nói cứng vì trong cuốn sổ vợ Tâm đã dặn kỹ ở trang thứ sáu. Muốn gọi chỉ cần đưa cho bất cứ ai, nhìn vào đó họ sẽ hiểu ông muốn gọi collect và họ sẽ giúp dùm. Bên kia đầu dây, khi nhận ra tên ông, con cái sẽ lên tiếng tiếng trước và lúc đó ông chỉ phải nói tiếng Việt mà thôi. Bà Cửu trái lại chẳng tin ông chút nào vì qua những gì đã xảy ra cho bà thấy rõ chẳng những ông không nói, không hiểu mà lại còn hay đoán ẩu, đoán mò. Bà nhìn đám đông đi hàng hai, vai đeo bóp, tay mang áo lũ lượt ra cửa.

- Mình theo họ ra thôi.

- Khoan đã, chưa chi đã vội cái bà này. Vợ Tâm bảo cứ chờ cho họ ra hết hãy mở trang số bốn và đưa cho tụi tiếp viên coi. Họ có bổn phận gọi máy cho người đến đưa mình đi.

- Còn đồ đạc thì sao?

- Cứ kệ họ. Bà ôm chặt cái ví tiền là được rồi...


Ông Cửu nhìn người khách cuối cùng đeo hai túi hành lý trên vai, nặng nề từng bước và mất hút sau cánh cửa ra vào rồi nhìn xuống chân mình, cũng lình kình hành lý mà thở dài. Mọi sôi động ồn ào chung quanh lắng xuống, có chăng chỉ còn một vài tiếng chân khua động của những người làm việc có phận sự phải đi ngang. Qua lớp kính trong vắt, thành phố đã lên đèn, ngàn vạn ánh đèn vàng hòa lẫn ánh sáng tím, xanh ngoài phi đạo tạo thêm vẻ rực rỡ xa hoa của một đô thị sầm uất.

- Dễ cũng tám giờ rồi bà nhỉ?

Bà Cửu ngước mặt nhìn quanh quất trên tường cao, chẳng thấy gì ngoài những máy ti vi trắng đen hiện đầy những chữ Mỹ.

- Ông có đồng hồ sao còn hỏi tôi?

- Mắt mũi thế này còn trông thấy gì?

Bà Cửu vén tay áo lên, chiếc đồng hồ sáng lấp lánh dưới muôn ngàn ánh điện gắn trên trần:

- Tám giờ thiếu mười lăm phút.

- Sao chúng chưa đến bà nhỉ! Mình chờ đã có hơn nửa tiếng, hay là vợ Tâm báo lộn ngày? Ông có vẻ sốt ruột.

- Thì chờ một tí đã sao.

- Hôm nọ...

- Hôm nọ khác, hôm nay khác. Vợ Tâm là vợ Tâm, thằng Phước là thằng Phước. Nếu vợ Tâm là thằng Phước thì mình đâu phải vất vả lên xuống thế này.

Ông Cửu ngạc nhiên khi nhìn vẻ quyết liệt và đầy tin tưởng của vợ vì sự hân hoan trong ông đã hoàn toàn biến mất để thay vào nỗi hoang mang lo lắng. Đầu ông xoay tròn với muôn ngàn dấu hỏi, nếu chúng không đến và nếu chúng thay lòng đổi dạ? Ngay như cái Nụ tốt lành đến thế mà còn đối đãi với cha mẹ bạc hơn vôi thì nói gì đến thằng Phước. Biết đi thăm con là dại, là hèn, là ngu ngốc, là con chó rúc vào gầm chạn chực miếng ăn nhưng không chui vào đó thì biết đi về đâu? Hai con đường cam go khổ nhục ông đã đi qua thì không lẽ con đường cuối cùng ông lại sợ? Mùi vị cuộc đời ông đã nếm đủ, sự hiếu đáp của con cái ông cũng đã tận tường, có nghèo nàn tệ bạc lắm cũng không thể hơn cái Nụ.

Nhớ lại lúc nghe lén vợ chồng thằng Tâm cãi nhau, cả đêm ông trằn trọc không ngủ. Bên cạnh, bà cũng chẳng hơn gì vì vốn dĩ thính tai nên chỉ nằm tại chỗ cũng nghe được tiếng vợ chồng Tâm cắn cấu nhau rõ mồn một. Có người chia sẻ cảnh khổ nhưng lòng ông vẫn không vơi đau. Ông suy ngẫm lời vợ nói hôm nào là con gái không phải con mình thế mà đúng. Dù thằng chồng có tốt lành, dù cho con vợ có thương yêu cha mẹ một lòng cũng khó mà công khai tỏ tình thương nhất là qua vật chất, có chăng chỉ là lén lút để trốn tránh sự khinh thị của gia đình chồng và miệng lưỡi người đời.

Miệng đời thì ghê gớm vô cùng, có ít xít ra nhiều, có một nói mười, nhiều khi còn dựng đứng câu chuyện để mà nói. Miệng đời là muôn ngàn mũi dao phóng đến cắm ngay vào tim những bậc cha mẹ phải sống nhờ vả vào con gái. Con mình, mình đẻ đứt ruột, nuôi cho tới ngày dựng vợ gả chồng thì lại thuộc về gia đình người ta. Của cải, tài sản chúng làm ra đương nhiên được coi như thuộc về giòng họ nội. Đời sao mà có lắm cảnh bất công trái ngược. Ấy là từ hôm xuống đến nay chưa phải ngửa tay xin thằng con rể một đồng nào mà nó còn khinh bỉ, miệt thị như vậy. Ông ấm ức thương cho thân mình rồi lại chợt nhớ đến dâu và thằng con trai. Ý tưởng chôn dấu từ lâu bỗng vùng lên mãnh liệt. Phải trở về với nó... Nếu con gái không phải là con mình thì con dâu là gì? Nếu con rể không ra hồn thì tại sao không ở với con đẻ của mình? Tại sao đến giờ này ông bà vẫn u mê, vẫn chỉ vì một chút tự ái cỏn con? Phải nói cho bà biết sự thay đổi của ông... Chắc chắn phải báo cho bà biết...

Sáng hôm sau khi Tâm vừa thức dậy thì ông bà Cửu đã quần áo chỉnh tề nằng nặc đòi trở lại nhà Nụ. Tâm tránh nhìn ông bà vì mắt nàng sưng mọng nhưng cũng không hỏi nguyên do hoặc an ủi lời gì. Nàng nghe rõ tiếng cha mẹ mình thở dài mà lòng xót xa.

- Thầy bu mang hết cả mùng mền về luôn à!

Ra tới nhà xe Tâm chỉ hỏi được có vậy rồi vội vàng phụ nhét vào cốp sau cho thật lẹ như trốn chạy đôi mắt rình mò của Thành ẩn nấp đâu đây. Về tới khu nhà Nụ trời vẫn chưa sáng rõ. Dọc theo chung cư im ắng như tờ, vài con quạ đậu sừng sững như những oan hồn trên cột điện thoại kêu từng hai tiếng một:

- Bạc bạc. Bạc bạc.

Trời thanh vắng nên tiếng kêu lạnh lẽo như buốt xoáy vào óc làm Tâm ngơ ngác nhìn quanh.

- Con quạ kêu thế mà hay. Ông lẩm bẩm.

- Lại có điềm gì đây. Bà Cửu buột miệng.

- Bu chỉ nói gỡ.

- Không có gỡ đâu. Tuổi già sống nay chết mai biết đâu mà tính. Thầy bu còn sống được ngày giờ nào con gắng mà trả hiếu.

Nói được có thế, bà mủi lòng khóc lên rưng rức. Tâm thấy lòng xót xa, đau nhói. Trước cảnh này nàng chỉ biết bó tay, bên tình bên hiếu khó mà chu toàn. Người ta bảo mất chồng còn kiếm được chồng khác, mất cha mẹ làm sao kiếm được nhưng đối với thời xưa chứ bây giờ nhất là đối với riêng Tâm, mất chồng là mất tất cả. Dẫu về vật chất Thành không giúp hoặc không đỡ đần gì cho Tâm nhưng về tinh thần, tình yêu, Thành chính là cột trụ trong nhà chống đỡ từ mái, tường cho đến những cơn mưa lớn hoặc giông tố. Đời nàng còn quá dài trong cuộc sống gắn bó vợ chồng không lẽ vì cha mẹ mà đâm ra hục hặc cãi nhau cho mất hạnh phúc? Cha mẹ già còn sống được bao lâu? Chẳng lẽ chỉ vì một thời gian ngắn ngủi ấy mà phải chối bỏ cuộc đời của mình? Với ý nghĩ hẹp hòi, ích kỷ, chỉ biết sống riêng cho mình, Tâm đã quên đi những cay đắng, chua xót của người sinh đẻ nuôi dưỡng mình. Nàng xách hộ bao mền đến chân cầu thang lên chung cư thì đứng lại ở đó.

- Còn sớm quá mà giầy cao gót thì kêu còng cọc sợ hàng xóm thức dậy mở cửa mắng vốn. Thôi thì thầy bu ráng bảo trọng sức khoẻ con phải đi làm cho kịp giờ...

Nói có thế Tâm quay ngoắt lại và bước nhanh. Ông Cửu nhìn theo cho đến khi Tâm mất hút ở khúc quanh mới lặng lẽ như một xác chết vác túi mền đầy mùi thuốc dán trên vai lê từng bước chân nặng nề lên từng bậc cầu thang với gương mặt thất thần. Một đêm không ngủ mắt ông sâu hoắm, hai hố sâu quầng đen như hai nấm đất vừa đào từ dưới ruộng. Ông rùng mình... Vợ chồng ông phải xuống thằng Phước chứ không thể chôn xác nơi đây...

- Không khéo mình lạc mất rồi. Bà Cửu lo lắng vì trong phòng lấy hành lý không còn một ai.

- Rõ cái bà này vớ vẩn, vậy chứ đây không phải là hành lý của mình à!

Nói thế chứ lòng ông nóng như lửa đốt. Nếu thực sự chúng không đến đón thì thân ông bà khác nào kẻ trôi sông lạc chợ. Quay trở về với cái Nụ hoặc vợ chồng thằng Thành thì chắc chắn là không, mà về với mấy đứa cháu ở Texas thì biết lối nào mà lần đến? Trong khi ông Cửu ngồi buồn rầu thì trái lại bà lơ đãng nhìn ra ngoài đường. Qua ô kính khổng lồ bằng thủy tinh chắn ngang ngăn cách giữa trong và ngoài, từng chiếc xe táp vào đón những thân nhân đứng chờ sẵn, ánh đèn vàng cứ di động đến rồi đi chập chờn như đôi ma trơi trong bóng đêm. Đã vậy đèn sau mỗi lần thắng lại đỏ rực khiến khung cảnh bên ngoài như lộng lẫy mời gọi thêm. Lòng bà cũng rực đỏ và nóng hừng hực với bao nhớ nhung chất đầy, hết tưởng tượng ra đứa cháu nội rồi lại đến vợ chồng Phước với nụ cười rộn ràng và háo hức tưởng như trong đời chưa bao giờ có. Ngay lúc ấy một đám người lố nhố, thấp có cao có, bước vào và xăm xăm đi về phía bà. Bà nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của người đàn ông lớn tuổi rồi hét lên:

- Ông ơi, thằng Phước...

Tiếng kêu vụt tắt, bà đứng bật dậy làm chiếc bóp đang để trên đùi phóng xuống sàn. Những trái táo tàu trong bịch đã bị xé miệng khá lớn theo đà văng tứ tung; bà khom người vơ vội vàng đến nỗi đạp cả lên chúng. Lúc đó Phước chạy lại ôm lấy ông còn vợ Phước đứng sớ rớ bên bà:

- Bỏ đi bu ạ, không khéo lại dơ tay. Để con bảo cháu nó lượm bỏ vào thùng rác.

Bà Cửu đứng lên nhìn người vừa thốt ra những tiếng nói quen thuộc, vợ Phước, "Trời ơi" tiếng bà òa vỡ lớn, nửa mừng nửa tủi:

- Con ơi là con, bu cứ ngỡ đến ngày chết cũng không gặp được chúng mày...

- Chúng con bất hiếu để thầy bu lặn lội đường xa cực khổ thăm nom. Tiếng Phước oang oang.

Cảnh ôm lấy bà giọng bùi ngùi:

- Bu ốm yếu quá, cái lưng có bớt chút nào không bu?

- Chẳng đỡ đâu con ạ. Phải vác sự khó trọn đời mà thôi.

Mọi sự ồn ào sôi động chỉ xảy ra trong chớp nhoáng khi bất chợt bà thấy có một cái máy quay phim cứ chỉa về phía mình.

- Họ làm gì thế kia?

- Bu ơi, cháu Dung đấy mà! Cảnh đưa tay ngoắc con:

- Chào ông bà đi con.

- Dạ, cháu chào ông chào bà.

- Con ơi, bà mừng quá. Thôi đừng quay nữa con, nghỉ cho khoẻ rồi đưa ông bà về thăm nhà.

Lúc đó ông Cửu mới như người tỉnh mộng, ông buông Phước ra mà nước mắt vẫn còn ngấn hai hàng:

- Cháu nội của ông. Cháu ơi...

- Thầy đừng khóc làm cháu nó sợ. Phước nắm tay ông như ngăn chận sự xúc động.

- Không, ông đâu có khóc. Ông chỉ mừng cháu Dung thôi mà! Còn vợ Phước đâu?

- Ối cái ông này, mắt với mũi. Đây, dâu ông đây.

Bà Cửu vẫn nắm chặt tay con dâu không muốn bỏ ra. Cảnh chào ông thêm lần nữa:

- Con chào thầy.

- Thầy mày điếc đấy con. Ông ơi, nãy giờ con nó chào ông ba lần rồi đấy! Giọng bà kéo dài ra.

Ông Cửu nhìn dâu, mặt gượng vui:

- Mẹ con chúng mày mà tao cứ tưởng bạn bè. Cái Dung lớn quá, giá có gặp ở ngoài đường thì chịu chết thôi.

Bà cười sung sướng ôm Dung vào lòng:

- Cái con cháu cưng của bà có nhớ ông không? Con học tới đâu rồi? Khi nào thì cho ông bà uống rượu đây?

Ngày đi Dung đã lớn, mọi hình ảnh quê nhà khắc sâu vào óc con bé tám tuổi. Nó nhớ cây lựu đỏ rực hoa và những trái nặng trĩu cành ngay hàng dậu tre, nhớ cạnh bờ ao có hai cây đu đủ xum xuê những quả và nhớ nhất là con chó Bo to lớn sủa vang mỗi khi có ai đến chơi nhà. Dung cũng nhớ bà nội hay ngồi ôm nó sau mỗi bữa cơm trưa bên cửa sổ nhìn lên cây vú sữa trắng bóng những trái. Nó thèm vú sữa hơn thèm cơm nhưng bao giờ bà nội cũng bắt ăn hết hai chén cơm đầy rồi mới bảo chị ở trèo lên hái. Hai chén cơm đầy với cái bụng bé xíu như nó thì đâu thể nhét thêm bất cứ cái gì khác, vậy mà bà nó vẫn dụ ngon dụ ngọt. Lúc ấy trái vú sữa không còn hấp lực vì chén cơm đã nguội lạnh và ngấy lên tới cổ.

Có hôm con bé ngồi vọc chén cơm gần tiếng đồng hồ. Cuối cùng bà phải đổ cho chó rồi bắt cháu uống thay bằng ly sữa bò. Dung không thích uống sữa con chim nhất là pha với nước nóng nhưng nếu không uống lát đi học sẽ đói bụng vì ngày nào mẹ nó cũng chỉ cho có mỗi hai đồng đủ ăn ly chè đậu đỏ. Chè đậu đỏ bánh loọc cũng không ngon nhưng mẹ nó cứ bắt ăn bởi mát bụng và no lâu. Vài lần đầu Dung nghe lời, về sau hàng cà rem trông hấp dẫn hơn nhất là được quay sổ xố. Cái đĩa tròn bằng gỗ sơn đen có những vạch nhỏ như mặt kim đồng hồ, trên đĩa vẽ đậm mỗi hai số 2 và 4, còn bao nhiêu toàn là những vạch trắng. Bên hông đặt một thanh gỗ có gắn miếng ruột xe cắt theo hình mũi tên. Dung tì cả người vào chiếc xe cà rem lấy thế xoay vòng tròn thật mạnh rồi nín thở chờ đợi. Tim nó đập nhanh khi mũi tên bằng cao su nảy tưng tưng trên những thân đinh đóng theo từng vạch nhỏ, nhất là lúc vòng quay từ từ chậm lại rồi rề rề lửng lơ giữa cây đinh. Những lần đó được quay lại, năm thì mười họa mới trúng hai cây nhưng cả người mua lẫn người bán đều vui bụng vì dẫu không trúng nó vẫn được an ủi bằng một cây cà rem vuông nhỏ hơn nửa lòng bàn tay. Lúc đó tay con bé đỡ cây kem một cách trịnh trọng chỉ sợ rớt dù đã được ghim bằng hai cây que cứng. Dung tìm chỗ khuất và đứng mút mát một cách ngon lành như muốn tránh tất cả những con mắt thèm thuồng của những đứa nhà nghèo...

Hình ảnh đó đã qua mười năm nhưng vẫn còn in đậm đặc trong trí nhớ, Dung ôm cánh tay bà reo khe khẽ:

- Cháu chào bà nội mạnh giỏi.

Bà Cửu thấy người mình run lên. Con bé nói đặc sõi tiếng Việt lại thưa gửi chứ đâu có Mỹ như vợ Tâm vẫn thường nói.

- Bu hỏi chừng nào uống rượu thì cháu Dung không hiểu đâu, Cảnh xen vào và kéo con gái lại gần ông Cửu, thầy xem cháu lớn như thổi. Mới ngày nào thầy nhỉ!

Ông xúc động nắm chặt tay cháu gái cùng hòa trong niềm vui hạnh phúc trùng phùng. Bà Cửu thấy ông khư khư ôm mãi con cháu bèn trêu:

- Về nhà mà ôm, người ta nhìn kìa!

- Cái bà này, ông cười với nét mặt hân hoan, hở một chút là đe dọa. Chúng mày xem từ ngày qua Mỹ bu mày cứ bắt nạt tao hoài.

- Thì đã có sao đâu, lâu lâu cũng nên để bu lên tinh thần một chút, vừa nói Phước vừa cúi xuống cầm hai xách tay kềnh càng nhất, bu đi đâu cũng không bỏ cái tật gồng gánh.

- Có gì đâu, chỉ vài ba cái áo vợ Tâm sắm cho bảo dưới này lạnh lắm không khéo lại chết cóng.

Phước chép miệng:

- Ôi, cả đời chúng nó có đi đến đâu mà biết nóng với lạnh. Thôi mình ra lấy xe rồi về nhà ăn uống, lúc đó tha hồ trò chuyện.

Bà Cửu say sưa nhìn hai hàng cây trồng thẳng tắp từ chỗ đậu xe đến hết con đường nhỏ dẫn lên tới bậc thềm. Những cánh lá xanh thẫm được cắt tỉa theo vòng tròn như trái banh khổng lồ chạy suốt hai hàng dài. Dọc theo nó, cách khoảng, từng cột đèn tỏa ánh sáng vàng mơ. Dưới ánh đèn, lớp lá óng ánh mịn màng như pha trộn thêm lớp nhung tơ. Bà chợt cảm thấy lòng mình an bình và êm ái không khác gì đám lá mềm mại kia, như những mầm sống vừa nhú lên. Đúng, nó vừa hồi sinh trong một thân xác còm cõi khô héo.

- Ở đây khí hậu tốt nhỉ! Bà hít mạnh khí trời vào tận lồng ngực rồi như chỉ muốn giữ yên ở đấy.

- Tháng này tiểu bang nào khí hậu cũng tương đối dễ chịu, còn đang cuối xuân mà bu.

Từ chỗ mọi người đứng chờ ra chỗ lấy xe không xa nên chỉ năm phút sau Cảnh đã lái xe đến. Phước đỡ mẹ lên trong khi ông Cửu đứng đàng sau nên đủ thời giờ ngắm chiếc xe tuy to nhưng trông rất ngộ ngĩnh. Nó bóng loáng và kẻ nhiều sọc ngang khác màu viền vòng quanh, đã vậy đầu xe lại nhọn và chúc xuống như đầu con chuột chù. Ông buột miệng:

- Xe tốt quá, ở Việt Nam chỉ công ty du lịch mới có xe này. Chắc là khối tiền?

- Đâu có là bao, chưa tới mười tám ngàn. Phước trả lời khi quay lại đỡ ông bước lên xe.

Ông Cửu lạnh người, mười tám ngàn mà nó bảo không có là bao. Không lẽ thằng này lại học thêm được thói khoe khoang? Từ hôm qua Mỹ, ông không biết thêm gì về Phước cả, ngay đến vợ chồng Tâm và Nụ cũng ú ớ khi ông hỏi. Cứ theo sự suy ngẫm từ trước đến nay thì Phước được ông liệt vào loại nghèo nhất nước Mỹ. Thế mà từ lúc gặp cho đến bây giờ ông cảm thấy cứ như người đi trên mây. Bao lo ngại e sợ chúng không thể nuôi ông không còn nữa mà thay vào đó những sự so sánh ngấm ngầm...

- Thầy vào hẳn bên trong để con đóng cửa.

Ông Cửu theo đà kéo của Phước bước lên xe, mùi vải nhung và thảm mới thơm nồng mũi.

- Xe mới mua hay sao mà thơm quá vậy? Ông ghé sát tai Dung hỏi nhỏ vì nó ngồi chung ghế ở băng sau.

- Dạ, mua được một năm nhưng ít đi vì bố mẹ và con mỗi người đều có một xe riêng.

Ông không tin ở tai mình nên cố gắng nhìn lên phía trên. Qua hàng ghế chỗ bà Cửu ngồi, Phước ung dung dựa lưng ra sau để vợ lái. Bây giờ ông mới có dịp chú ý đến vợ Phước. Tóc nó cắt cao như đám con gái choai choai trên Cali, để hở cái cổ dài oằng với ba ngấn tròn mà ngày xưa mỗi lần giận nó, ông cứ chửi là thứ ma cà rồng, ma lai rút ruột. Tay chân Cảnh đeo đầy kim cương, dù trong đêm tối vẫn cứ sáng loé mỗi khi xe chạy ngang những cột đèn đường. Còn quần áo thì... Ông nhớ ra rồi, lúc cả đám ùa vào ông thấy chúng ăn mặc sàn sàn như nhau và nhìn con Dung chỉ như em của vợ Phước. Hèn gì thằng này riết róng với cha mẹ. Vợ như thế thì tiền của nào còn? Ngay đến con vợ Tâm ăn chơi sang trọng là thế mà có khi nào dám mặc cái váy chật cứng ngắc trên đầu gối dù phần trên có kín đáo thế nào mặc lòng. Sang trọng gì với lối ăn mặc hở hang như mấy con chiêu đãi, giàu có gì với nữ trang khoe đầy người không chừa kẽ hở? Con gái phải ra con gái, đàn bà phải ra đàn bà, đâu có lối ăn mặc lố lăng con chẳng ra con, bà chẳng ra bà, đã vậy má phấn môi son trét vào cứ như phường tuồng...

Chẳng hiểu sao ông Cửu luôn có cái nhìn khe khắt với con dâu; hình như bất cứ những gì phát xuất từ Cảnh cũng đều làm ông chướng mắt. Đâu phải ông quá quê mùa cả đời không nhìn thấy ai ăn diện cũng đâu phải nhà có mỗi mình Cảnh là còn trẻ. Những năm sau này Việt kiều về thăm gia đình du nhập thời trang nên khắp nơi nổi lên những bộ mặt, màu sắc, mặt hàng mới. Những kiểu áo tân thời lan tràn cả đến xóm ông nhưng lòng ông không chỗi dậy sự khó chịu khích bác. Bao năm trời xa cách, ông nghĩ tính tình mình cũng dễ dãi thay đổi đôi chút nhưng không hiểu sao khi gặp Cảnh, lòng ông vẫn khư khư với những thành kiến khó chấp nhận...
2/5/1994 
Lê Thao Chuyên
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...