Lời ai điếu 1
Lời Nhà xuất bản
Vào thập niên 50 tại Âu Châu và ngay cả tại Mỹ, phong trào
thiên tả lan rộng trong giới trí thức. Tầng lớp có học thời ấy tự hào
"phàm là trí thức thì phải thiên tả." Điển hình là hai triết gia Jean
Paul Satre người Pháp, Bertrand Russel người Anh và nữ tài tử Mỹ Jane Fonda.
Phong trào thiên tả ngưỡng vọng nhiều tay lãnh tụ cộng sản trên thế giới và xem
Liên Xô là "cái nôi" cuộc cách mạng xã hội của loài người. Thậm chí
cho tới mãi năm 1989 tại thành phố Bergen - Na Uy, giới trí thức, giới cầm bút
hay giáo sư đại học vẫn còn ca tụng Lênin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và ngay
cả Pol Pot, tên đồ tể diệt chủng dân tộc Khmer.
Đám người mắc chứng "mê Cộng" này còn táo tợn cho rằng "tuổi
đôi mươi mà không theo Cộng Sản là không có trái tim."
May cho đám đó là họ chỉ luẩn quẩn ở các đô thị xa hoa, uống
rượu chát, ăn bò bí tết để mơ mộng xây dựng "thiên đường cộng sản" chứ
không có, dù một ngày, trải nghiệm bằng chính bản thân cái chủ nghĩa là
"căn bệnh ung thư" này của nhân loại.
Họ không có cái TRÍ của Nguyễn Chí Thiện để sớm nhận ra bộ mặt
không có tính người của cộng sản, như trong thơ của Ngục Sĩ này viết:
"Tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ sao rực rỡ
Tô thắm màu xứ sở yêu thương
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ."
Và như trường hợp tác giả cuốn Lời Ai Điếu này, nhà báo Lê
Phú Khải, sớm nhìn rõ Chủ nghĩa Cộng sản từ lúc bước vào tuổi hai mươi: "Nghĩ
ra một chủ nghĩa bao giờ cũng là các bậc thiên tài. Thực hiện cái chủ nghĩa đó
bao giờ cũng là những người cuồng tín và hưởng thành quả của chủ nghĩa đó thì
bao giờ cũng là bọn lưu manh."
Khác với Jean Paul Sartre, Bertrand Russel hay Jane Fonda chỉ
vỡ cơn huyễn mộng sau khi "Đế quốc Ma quỷ Liên Xô" và các chế độ cộng
sản Đông Âu tan rã như cơm nguội gặp mưa, Lê Phú Khải cương quyết "không
cần trái tim để theo cộng sản" dù như ông tự thuật, cả gia đình ông
là cộng sản nòi: "Mỗi khi họ Lê Phú nhà tôi giỗ tết, tập hợp đông đủ
nội ngoại, dâu rể thì nhìn đâu cũng thấy Đảng viên. Có lẽ, chỉ có mấy cái cột
nhà và tôi là không phải Đảng viên mà thôi!" Hít thở không khí như thế,
mà Lê Phú Khải nhiều lần từ chối vào Đảng vì ông thấy chế độ mà ông đang sống
là một chế độ độc tài.
Lê Phú Khải trải nghiệm cái xã hội trại lính ở miền bắc từ
khi muốn thi vào đại học, ông phác giác rất rõ cái chủ nghĩa Mác Lê với quan điểm
giai cấp dấu tranh trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì mới đẻ ra cái
cách tuyển sinh "man rợ" như thế và nó lạc hậu hơn tất cả các hình
thái xã hội có từ trước đó. Vì cộng sản chỉ lựa chọn sinh viên đại học dựa trên
tiêu chuẩn thành phần giai cấp nên sản sinh một lớp người sau khi tốt nghiệp đa
phần là những kẻ dốt nát, ngu si nhất, và "kẻ dốt nát xuất thân từ
thành phần bần cố nông nghèo khổ một khi có quyền thì chỉ lo tham nhũng, vơ vét
mà thôi."
Cũng vì chủ trương đấu tranh gia cấp, nên chế độ đã phát động
chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất nhằm "đào tận gốc, trốc tận rễ" những
thành phần khác của xã hội "Trí, Phú, Địa, Hào, Tôn giáo" và hậu quả
là cả trăm ngàn người chết oan khuất trong cơn "say máu vĩ cuồng" của
cộng sản với những câu thơ khẩu hiệu của Tố Hữu "Giết, giết nữa, bàn tay
không chút nghỉ… Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt." Lê Phú Khải
trải nghiệm cái xã hội rơi vào điên loạn đó ngay tại quê vợ của ông khi chứng
kiến cảnh nát lòng của một phú nông trong làng từng chứa chấp Việt Minh hoạt động,
bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, bị bức cung nên phẫn uất quá cho gọi tất cả
các con cái về nhà, dồn vào một buồng rồi tưới xăng tự thiêu, "những
đứa trẻ chết đen thui còn xác người vợ trương phồng lên như con bò!"
Thân phận trí thức ở đất nước nào cộng sản cai trị thì thành
phần có học này cũng chịu những cay đắng, thống khổ giống nhau. Boris
Pasternak, văn hào Nga đoạt giải Nobel Văn Chương năm 1958, trong tác phẩm lẫy
lừng "Doctor Zhivago" đã gột tả nỗi tũi nhục của nhân vật chính, bác
sĩ Zhivago, bị công an bắt vì ăn cắp vài cây gỗ sưởi ấm cho gia đình trong cái
lạnh cắt da của mùa Đông nước Nga.
Việt Nam, qua lời kể của Lê Phú Khải, trong một phiên họp rất
căng do bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn chủ trì, giáo sư bác sĩ Tôn Thất Tùng,
vì quá sợ, mồ hôi vã ra như tắm, rút khăn tay trong túi lau mặt khiến những gói
mỳ chính (người miền Nam gọi là bột ngọt) nhỏ rơi ra. bác sĩ Tùng có thói quen
cất những gói mì chính nhỏ trong người để mỗi khi ăn phở ông lấy ra một gói cho
vào tô. Buổi họp có mặt của Tướng công an Lê Phú Qua, chú ruột tác giả, tướng
Qua thấy bác sĩ Tùng run quá, phải cúi xuống nhặt dùm các gói mì chính rồi để lại
vào túi bác sĩ Tùng.
Đọc những đoạn Lê Phú Khải phơi bày tâm tình của mình trên giấy
khi viết về thân phận trí thức trong chế độ cộng sản, người ta có cảm tưởng tác
giả như đang nuốt ngược vào lòng nỗi tủi nhục của phận người bị guồng máy
toàn trị dìm xuống tận đất đen. Như một lần ông đến thăm nhà văn 50 tuổi đảng
Nguyễn Khải trước khi ông khải qua đời năm 2008. Nguyễn Khải nắm tay bạn buồn
bã nói: "Nhà văn Việt Nam bị ba đứa nó khinh. Thứ nhất là thằng lãnh
đạo nó khinh. Thứ hai là độc giả nó khinh. Và thứ ba là đêm nằm vắt tay lên
trán mình lại tự khinh mình!"
Do làm báo, Lê Phú Khải có nhiều cơ hội chứng kiến quyền uy của
giới lãnh đạo. Ông nói "Lê Duẩn mắng mỏ người khác như mắng gia nhân
đầy tớ." Và những tay lãnh đạo sau Lê Duẩn thì cũng "cá mè một lứa",
Phan Văn Khải thì bảo Trần Đức Lương nên trả lại những quả đồi mà ông ta đã chiếm
để làm villa, biệt thự. Còn Trần Đức Lương thì mắng lại Phan Văn Khải "mày
hãy về bảo thằng con mày đừng giết người nữa rồi hãy bảo tao trả lại mấy quả đồi". Lê
Phú Khải nhận xét, họ mắng chửi nhau còn hơn hàng tôm, hàng cá rồi lại khuyên
nhau "vì sự ổn định đất nước", "vì sự nghiệp lớn",
nên gác lại mọi chuyện, rồi lại hỷ hả với nhau, đâu lại vào đó!
Riêng cách của Lê Duẩn đối với Võ Nguyên Giáp thì Lê Phú Khải
nói rằng, đó là lối đối xử "vô sản gắn liền với vô học." Ông
kể: "Sau chiến tranh biến giới với Trung Quốc 1979, tên Trọng Hy Đông
ở Ủy ban Kiều vụ, Quốc vụ Viện trung Quốc, hàm ngang bộ trưởng, sang Việt Nam để
giải quyết các vấn đề hậu chiến tranh như tù binh v.v. Khi xe của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp vừa đến cũng là lúc xe Lê Duẩn vừa tới, Lê Duẩn chỉ vào mặt tướng
Giáp và nói như quát: - Cuộc họp không có anh! Võ Nguyên Giáp nói: - Vậy tôi về.
Thế là ông Giáo lủi thủi lên xe ra về."
Có lần Lê Phú Khải cùng các ký giả khác tham dự cuộc họp báo
của Phó thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm tại phòng tiếp khác VIP của phi trường Tân
Sơn Nhất, ông tận mắt thấy cảnh Nguyễn Mạnh Cầm vừa trả lời phỏng vấn của Đài
Tiếng Nói Việt Nam, vừa nhìn sang phía quầy bán hàng phục vụ khách VIP, "nơi
cô Phương Uyên đang nhổm người lên để lộ cả quần xi líp mầu hồng bên
trong!" Lúc về cơ quan, Lê Phú Khải bảo với lãnh đạo của ông là ông sẽ
viết lại giáo trình bài "phỏng vấn", rằng "mỗi khi một cơ
quan báo chí cử phóng viên đi phỏng vấn các VIO, thì nên cử nữ phóng viên xinh
đẹp, mặc váy ngắn, xi líp màu hồng!"
Vì sinh ra trong gia đình cộng sản nòi, chú bác, anh em có
người lên tới hàng lãnh đạo trung cao cấp của đảng, Lê Phú Khải được nghe những
nhận xét về nhiều nhân vật chóp bu của chế độ, như lời chú ruột ông là Tướng
công an Lê Phú Qua, hoặc qua lời kể của em gái ông, cô Tuyết:
- Thủ tướng bám quyền hơn 30 năm Phạm Văn Đồng: "Chủ
quan, bốc đồng, rất vô tích sự và chỉ làm hại đất nước!"
- Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn: "Quan liêu nặng,
dốt nát nhưng hay khoe mẽ, ích kỷ và dối trá, thích cấp dưới tâng bốc mình,
ghét người trung thực, đặc biệt là ghét trí thức. Vợ Hoàn là một người tham lam
vô độ, cái gì vơ được là vơ."
- Riêng với Hồ Chí Minh, cũng giống như một số lớn dân miền Bắc,
không hiểu rõ chân tướng ông Hồ, nên Lê Phú Khải trong cách viết vẫn còn lộ
chút tình cảm kính trọng nhân vật này. Dù vậy, qua đoạn thuật lại nhận xét của
Giáo sư Tạ Quang Bửu, người đọc cũng có thể thấy được cảm nhận của Lê Phú Khải
về ông Hồ: "Thời đó, trong nhiều năm dài, hễ thi văn dù thi tốt nghiệp
phổ thông hay thi vào các trường đại học, đề thi quanh đi quẩn lại vẫn là thơ Hồ
Chí Minh hoặc thơ Tố Hữu. Có lần, xem đề thi vào đại học, Bộ trường Bộ đại học
và Trung hoạc Chuyên nghiệp Tạ Quang Bửu phán một câu: "Đây là tà thuyết!"
Lê Phú Khải có cô em tên Tuyết, làm việc cho cơ quan cần vụ
chuyên cung cấp thực phẩm cho các ủy viên Bộ Chính trị. Có lần cô Tuyết kể lại,
vào thời ông Trần Xuân Bác đưa ra lý thuyết đa nguyên, Bộ Chính trị lúc đó chia
rẽ và nghi kỵ nhau lắm, đi họp ai cũng được vợ chuẩn bị một chai nước riêng, để
trong túi, khi khát thì lén quay đi, rót uống, vì họ sợ bị đầu độc. Ngay cả
nhân vật "hét ra lửa mửa ra khói" là Lê Đức Thọ cũng sợ. Theo lời cô
Tuyết, có lần, khi cần vụ của Lê Đức Thọ đem một cái chăn bông đã rách nát đến
đổi chăn bông mới, cô nói với chú cần vụ này, "thủ trưởng của cậu tiết
kiệm quá, chăn rách lòi cả bông thế này mới chịu đem đổi. Cậu ta cười nói, tiết
kiệm cái con tiều! Tối nào trước lúc đi ngủ ông ta cũng nắn bóp cái chăn đến nửa
tiếng đồng hồ, chỉ sợ người ta gài mìn thôi nên chăn mới rách bươm ra như thế."
- Về nhân vật Nguyễn Thị Bình, từng một thời lãnh đạo tổ chức
bù nhìn của Hà Nội là "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam", Lê Phú Khải viết
(theo lời kể lại của nhà văn Nguyên Ngọc), một hôm bà Bình "triệu tập"
một nhóm trí thức hơn 10 người lại, đặt câu hỏi, chúng ta sai từ bao giờ? Mọi
người đều nói sai từ năm 1951, khi đại hội lần thứ hai của Đảng lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam cho mọi đường lối chính
sách của mình. Riêng Nguyên Ngọc nói: "Sai từ đại hội Tour." (vào
năm 1920, khi cơ quan tình báo KGB của Liên Xô cho thành lập đảng cộng sản
Pháp, tách ra từ Đảng Xã Hội, Hồ Chí Minh được tham gia vào Đảng Xã Hội khi ấy
ngả theo Liên Xô để rồi gia nhập phong trào cộng sản Pháp từ lúc đó – chú thích
của NXB). "Bà Bình không đồng ý." Vậy mà sang ngày hôm sau bà
Bình bảo Nguyên Ngọc: "Chị đã suy nghĩ suốt đêm qua, Nguyên Ngọc nói đúng
đấy!"
Qua những trải nghiệm ngưởi thực, việc thực nói trên, Lê Phú
Khải chua chát kết luận: "Một đất nước được lãnh đạo bởi những con
người hoang tưởng và lố bịch như thế thì đất nước sẽ đi về đâu? Nhân dân sẽ sống
thế nào? Còn đám trí thức kia thì chỉ ngậm miệng ăn tiền mà thôi."
Một lần, Lê Phú Khải đi Mạc Tư Khoa và gặp một trí thức
Nga. Ông này ví von, "Liên Xô của chúng tôi là một cái chiến hạm mắc cạn
còn Việt Nam là một chiếc thuyền thúng không biết trôi dạt đi đâu!" Ba
mươi năm sau kể từ cuộc trò chuyện đó, tác giả cay đắng khi nghe ông Tổng bí
thư đương quyền Nguyễn Phú Trọng vẫn kiên quyết bác bỏ "tam quyền phân lập"
để bảo vệ chế độ độc đảng! Lê Phú Khải nhận định rằng, như vậy là Đảng Cộng Sản
Việt Nam vẫn quyết đội trên đầu mình cái mũ mà cả loài người tiến bộ đã vứt bỏ.
Cái mũ độc đảng! Tác giả nhận định, "rõ ràng, cái chiến hạm Liên Xô
đã thoát cảnh mắc cạn, nhưng cái chiến hạm ấy do anh chàng KGB Putin cầm lái
chưa biết nó sẽ đi về đâu. Còn con thuyền thúng Việt Nam thì đang trôi dạt vào
một vùng sóng to gió lớn. Chắc chắn nó sẽ bị lật úp nếu những người trên con
thuyền thúng đó không dám can đảm nhảy xuống nước mà bơi vào bờ, cứ khư khư ôm
lấy con thuyền đó."
Sống nhiều, đi nhiều, gặp gỡ nhiều, Lê Phú Khải thu vào ống
kính đời mình nhiều góc cạnh, người, vật, sự kiện… Không báng bổ, không lớn tiếng
kết án, không ca ngợi, ông từ tốn mô tả con người và đất nước Việt Nam qua cách
quan sát tinh tế của mình. Những năm sau này, ông dấn thân vào con đường đấu
tranh Tự Do-Dân Chủ, nên thân thiết với một lớp người mới, những người đang tới
của Việt Nam.
Nhớ về Kiến Giang, một con người quyết liệt, từ chỗ là một
tín đồ ngoan đạo của Chủ nghĩa Mác-Lênin và sùng bái Liên Xô, đến chỗ dứt khoát
từ bỏ Chủ nghĩa Cộng sản nên bị tù vì tham gia nhóm "Xét Lại Chống Đảng",
Lê Phú Khải thuật lời Kiến Giang kể: "Lần cuối cùng Lê Đức Thọ vào
thăm tôi, ông ta nói, các cậu hay đề cao trí thức, phó tiến sỹ đi học nước
ngoài học về thì tớ cho thêm 5 đồng vào lương, thế thôi! Tôi nhìn thẳng Thọ
nói, xưa Đảng vô học vì phải đi đánh giặc, nay Đảng có chính quyền mà Đảng lại
sùng bái sự vô học thì không được! Lê Đức Thọ đứng lên ra về. Ít phút sau tay
giám thị trại giam vào hoảng hốt nói, kỳ này thủ trưởng vào là để cho ông về, vậy
là chết rồi! Ông làm thủ trưởng phật lòng, vậy là tiếp tục tù dài!"
Và Kiến Giang kết luận: "Chúng ta không sợ lạc hậu,
mà chỉ sợ nhất là lạc lõng giữa loài người."
Với Hà Sĩ Phu, nổi tiếng qua bài viết "Nắm Tay Nhau Đi
Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ", Lê Phú Khải nhớ có lần Hà Sĩ
Phu nhận định rằng, khi chưa có chính quyền, người cộng sản rước chủ nghĩa Mác
vào cửa sau, nay có chính quyền rồi lại treo Mác trước cửa nhà để treo đầu dê
bán thịt chó, thì đó là thái độ lấy oán báo ân! Rõ ràng, "chế độ độc
đảng như con vật đơn bào, nó có thể tồn tại từ thời hồng hoang của lịch sử đến
ngày nay, nhưng chỉ tồn tại trong cống rãnh mà thôi. Muốn nên người, nó phải là
con vật đa bào."
Lê Phú Khải còn nhắc lại những lần trò chuyện với Dương Thu
Hương, nhà văn nữ đã một mình khai chiến với chế độ cộng sản và được báo chí
Pháp ca ngợi là "Con Sói Đơn Độc." Ngay tại căn nhà của Dương Thu
Hương ở Hà Nội, bà nói với tác giả: "Cần có cách mạng để quét đi những
rác rưởi, và cần có tự do để quét đi những rác rưởi mà một cuộc cách mạng đã
sinh ra! Chỉ tiếc là, rác rưởi mà một cuộc cách mạmg vô sản đã sinh ra lại nhiều
hơn cảrác rưởi mà nó định quét đi!"
Tác giả Lời Ai Điếu dù thuộc lớp tuổi "thấp thập cổ lai
hy" vẫn tìm cách gần gũi những lớp trẻ thuộc hàng em, cháu đang dấn thân đấu
tranh cho Tự Do-Dân Chủ. Qua những lần gặp gỡ, trò chuyện, ông nhận ra đặc
trưng của lớp người trẻ này như Lê Thị Công Nhân, Phạm Hồng Sơn, Huỳnh Thục Vy…
là họ quyết liệt không chấp nhận cộng sản, họ coi cộng sản đồng nghĩa với tối
tăm, sai trái, lừa dối, tàn bạo, phản cuộc sống, phản con người. Thế hệ của họ
đã "chỉ thẳng mặt Đảng Cộng sản là quân bán nước."
Đoạn cuối tác phẩm này, Lê Phú Khải tâm sự, ông năm nay đã 72
tuổi, tức là đã sống cả đời trong chế độ Đảng trị. Ông không vào Đảng trong một
chế độ Đảng trị thì đương nhiên con đường "tiến thân" là u ám rồi!
Ông nói: "Tôi ý thức rất rõ điều này và hoàn toàn bằng lòng, vui vẻ với
con đường mình đã chọn, làm một người tự do ngoài Đảng."
Và những dòng cuối của cuốn sách, Lê Phú Khải viết:
"Sáng sớm ngày 14/09/1985 tôi đang ở bến đò Cà Mau chờ đi Năm Căn thì nghe
tin đổi tiền. Mới tối hôm trước Đài Tiếng nói Việt Nam (cơ quan tôi làm việc)
còn nói 'Không có chuyện đổi tiền, đồng bào đừng nghe kẻ xấu tung tin đổi tiền',
vậy mà sáng hôm sau 14/09/1985 chính cái đài ấy lại hô hào nhân dân đến các trạm
đổi tiền để đổi tiền. Một bà già lớn tuổi ngồi cùng ghe đã chỉ tay lên cái loa
đang loan tin đổi tiền ở trên bờ chửi, cái đài này nó nói dóc còn hơn con điếm."
Lê Phú Khải chấm dứt cuốn sách bằng câu:
"Tôi đã phải sống với 'con điếm' ấy cả đời người!"
Rõ ràng, dòng cuối cùng của Lê Phú Khải là LỜI AI ĐIẾU dành
cho chế độ toàn trọ đang cố bám quyền trên đất nước Việt Nam chúng ta.
Tháng Tư, 2016
Nhà xuất bản Người Việt
Đinh Quang Anh Thái
Lời Nói Đầu
Có lần, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện bảo tôi:
- Nhiều người khuyên Nguyễn Khắc Viện nên viết hồi ký. Nhưng
tôi nghĩ, mình chưa một lần bị đi tù. Chưa một lần cầm súng ra trận thì có gì
mà viết hồi ký…
Cứ như lời ông Viện thì đời tôi, không đáng một xu, vậy có gì
để mà viết hồi ký, hồi ức cho thiên hạ cười chê (!)
Nhưng bạn bè nhiều người lại khuyên Lê Phú Khải nên viết một
cuốn hồi ký, không thì phí đi (!)
Chả là, trong lúc vui vẻ, tôi thường kể cho bạn hữu nghe những
chuyện “cười ra nước mắt” của dòng họ tôi, hoặc những nhân vật mà suốt cuộc đời
40 năm làm báo tôi được tiếp cận, làm việc. Toàn là những “nhân vật lịch sử”,
những chuyện đáng ghi lại. Mà những nhân vật đó lại không thích hoặc không có
điều kiện để ghi lại. Bạn bè khuyên tôi nên viết lại những chuyện mà tôi biết…
Chẳng hạn, như chuyện ông nội tôi làm vaguemestre (nhân viên
bưu chính) cho Toàn quyền Đông Dương như thế nào? Ông nội tôi theo Toàn quyền
Maurice Long và vua Khải Định đi hội chợ Marseille năm 1922 và phiên dịch cho
Khải Định trong chuyến đi ấy như thế nào? Hay là, chuyện chú tôi, tướng Lê Hữu
Qua (Lê Phú Cường) có thời gian lái xe và làm garde-corps cho cụ Hồ những năm đầu
Cách mạng Tháng Tám như thế nào? Hoặc, một người chú khác của tôi là nhà báo Lê
Phú Hào làm phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ và Kissingertại hội đàm Paris như thế
nào? Hoặc chính tôi, từng tháp tùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong những chuyến đi
công cán tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sau này, ông Kiệt thường kêu tôi đến
nhà riêng khi ông đã thôi làm Thủ tướng, để nói chuyện, tạm gọi là "tâm sự"
như thế nào? Hoặc chân dung những nhà đấu tranh dân chủ mà tôi có dịp tiếp kiến,
giao du như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sỹ Phu…
Những truyện trên không ai hay cả, nhưng là "những tư liệu
quý" như bạn bè tôi nói, cần cho hậu thế đọc và suy nghĩ về một thời kỳ
đáng nhớ của đất nước tươi đẹp nhưng đau khổ này! Bạn tôi, toàn những người khó
tính, vậy mà họ lại thích thú nghe thì có lẽ cũng nên ghi lại thật. Và cũng chỉ
người "quen tay" cầm bút mới đủ kiên nhẫn để ghi lại những trang viết
này trong lúc thiên hạ đua nhau đi kiếm tiền bằng đủ mọi cách, kể cả các nhà
văn chửi bới nhau để tranh một cái giải thưởng… vài trăm triệu lúc này!
(5/2012)
Tôi thử kể một đoạn "hồi ký" dưới đây để bạn đọc
yêu mến của tôi coi có được không? Bằng không thì hãy vứt ngay cuốn hồi ký này
vào sọt rác…để khỏi rác nhà!
(…Trích).
"Ông nội tôi hỏi: Cháu có biết vì sao các nhân viên ở Phủ
toàn quyền gọi quan toàn quyền Đông Dương là "quan Bẩy" không? Nói rồi,
ông nội tôi giải thích, bở vì tên quan võ chỉ huy quân đội Pháp trên toàn cõi
Đông Dương được gọi là quan Sáu. Toàn Quyền còn hơn cả quan Sáu nên mới được gọi
là quan Bẩy. Quan Bẩy Toàn quyền là người rất nghiêm nghị. Phòng làm việc của
ngài ở Phủ toàn quyền là một căn phòng rộng, hình chữ nhật, dài như một cái toa
tàu. Bureau của ngài ở cuối phòng, trước mặt có kê một chiếc bàn dài và hai
hàng ghế để dùng vào những lúc hội họp. Ai được phép vào phòng của ngài rồi phải
đi một quãng dài mới tới chỗ quan ngồi. Một lần – vẫn lời ông nội tôi kể – tao
đang ngồi làm việc ở cái bàn dài trước mặt ngài thì một tên quan Tư người Pháp
được phép vào báo cáo. Tên quan Tư đi kiểu nhà binh, đến trước mặt quan Bẩy, nó
dậm chân rồi giơ tay chào cũng kiểu nhà binh. Quan Bẩy vẫn cặm cụi viết, không
hề để ý đến tên quan Tư. Mấy phút trôi qua trong yên lặng. Thấy tên quan Tư người
Pháp phải đứng, tao thì ngồi nên sợ thằng quan Tư ngượng. Tao vội vàng đứng dậy
… xem bức tranh trên tường. Bỗng quan Bẩy nói:
- Mày không phải giả vờ xem tranh, tao chưa cho nó ngồi, thì
nó chưa được ngồi. Mày cứ ngồi xuống ghế mà làm việc đi (!)
Quan Bẩy là vậy đó. Nghiêm lắm. Lúc làm việc, đi kinh lý đâu
ngài cũng đem theo các kỹ sư, các chuyên gia đi theo. Xây dựng công trình gì,
trồng cây gì, nuôi con gì, ra chỉ thị gì… ngài đều gọi các nhà chuyên môn đến hỏi
rồi mới quyết định. Không những thế, trong sổ sách tài liệu đều ghi chép rõ
ràng ý kiến tham mưu của các nhà chuyên môn, để sau này sẽ truy cứu trách nhiệm.
Vì thế các chuyên gia đi theo ngài làm việc rất nghiêm túc, khi được hỏi để
toàn quyền ký một quyết định gì, họ đều đắn đo suy nghĩ rất kỹ… vì tất cả trách
nhiệm sau này là họ phải gánh chịu…
… Nghe ông nội tôi kể về cách làm việc của Toàn quyền Đông
Dương tôi nghĩ đến các vị lãnh tụ cộng sản nhà ta sau này đi kinh lý mà thấy buồn
cười. Khi có ngôi vị cao rồi, các vị ấy tự cho mình là hiểu biết tất cả. Chắc
các vị ấy nghĩ rằng, trong chiến tranh ác liệt như thế, các vị ấy còn thắng nữa
là bây giờ, việc gì các vị ấy chẳng quyết được. Tôi nhớ, vào đầu những năm 80 của
thế kỷ trước, khi tổng bí thư (TBT) Lê Duẩn vô thăm tỉnh Tiền Giang. Ban thường
vụ tỉnh ủy lúc đó đứng đầu là bí thư tỉnh ủy Chín Hải (tức Lê Văn Phẩm), và chủ
tịch tỉnh Sáu Bình (Nguyễn Công Bình) dẫn TBT Lê Duẩn vô thăm vùng Đồng Tháp Mười
thuộc địa phận Tiền Giang (90.000 ha). Đứng trước cánh đồng bao la bát ngát của
vùng Đồng Tháp Mười, TBT Lê Duẩn chỉ tay về cánh đồng trước mặt, hỏi:
– Trồng những cây gì thế kia?
Bí thư tỉnh ủy Chín Hải lễ phép trả lời:
– Thưa tổng bí thư, đó là rừng tràm ạ. Bỗng mọi người sửng sốt
khi nghe TBT quát:
– Ngu! Ngu! Sao không trồng lúa!!!
Trước cơn giận dữ của TBT vì sao tỉnh lại không trồng lúa ở Đồng
Tháp Mười mà lại trồng tràm… thì mọi người chỉ còn biết chết lặng mà thôi. Ai
dám cãi lại? Ai dám cả gan giải thích cho đồng chí TBT rằng, đất Đồng Tháp Mười
là đất phèn nặng, chỉ trồng tràm là hợp nhất mà thôi. Từ lúc TBT quát tháo như
thế, không khí của đoàn trầm lặng. Hầu như không ai nói gì cả. Khi TBT Lê Duẩn
đi rồi, tôi nghe rõ tiếng than của bí thư tỉnh ủy Chín Hải:
– Ông Ba (tức Lê Duẩn) quay cờ rồi (!)
… Có lần, ông nội tôi bất ngờ hỏi: "Cháu có biết ở hội
chợ triển lãm thuộc địa Marseille, các nước thuộc địa của Pháp mở các quán ăn
trong gian hàng hội chợ của mình để khoe với khách các món ăn ngon của xứ sở
mình … thì món gì đắt hàng nhất tại hội chợ không? Nói rồi ông nội tôi kể tiếp:
Món bún chả Việt Nam luôn luôn đông nghẹt khách vào ăn. Thịt nướng thơm phức,
khói bay nghi ngút từ những cặp thịt nướng bốc lên lời mời chào quyến rũ nhất của
gian hàng ăn Việt Nam. Các bà đầm đều hỏi sao thứ nước chấm bún chả thơm ngon lạ
lùng thế? Cháu có biết vì sao không? Đó là vì có vị cà cuống! Nước mắm cà cuống
mà!"
… Tướng Lê Hữu Qua là một người cương trực, mỗi lần tôi có việc
gia đình phải lên Bộ Công An gặp ông, nhằm lúc ông vui vẻ, thường được ông kể
cho nghe về những ngày đầu Cách Mạng Tháng Tám, mà theo lời ông, lúc đó tình thế
cách mạng "nghìn cân treo sợi tóc!" Lần ông kể cho tôi nghe chuyện
lái xe cho cụ Hồ, khi ông cụ từ hội nghị Fontainebleau về… Giọng tướng Qua chậm
rãi: Hôm đó tàu cập cảng Hải Phòng, ông cụ đi xe lửa về ga Hàng Cỏ. Lúc xuống
ga chúng tôi bì mật đưa ông cụ ra xe ô tô. Tôi lái cho cụ đi vòng vèo các phố
trước khi về cơ quan để đánh lạc hướng bọn phản động. Trong khi đó thì một
trinh sát của ta, đóng giả cụ Hồ đi diễu hành ngoài phố, trên xe mui trần để đồng
bào chào đón, hoan hô. Vậy mà bọn Việt quốc và Việt cách vẫn đánh hơi được. Họ
không nhằm vào "cụ Hồ giả", mà săn lùng cụ Hồ thật. Lúc bấy giờ xe
đang chạy ngon trớn, bỗng nghe thấy tiếng súng nổ từ phía sau. Chúng bắn vào lốp
xe. Kinh nghiệm lái xe nhiều năm cho tôi hay, xe nổ lốp sau vẫn có thể chạy tiếp
mà không bị lật. Tôi nhấn ga, xa chạy một quãng dài nữa rồi phanh lại. Tôi lao
ra khỏi xe, mở cửa sau để ông cụ chạy. Nào ngờ, chạy được mấy thước, ông cụ lại
quay lại xe… Tôi đứng tim vì sợ quá… Thì ra ông cụ quay lại cốt lấy chiếc máy
đánh chữ xách tay trong xe ra rồi chạy tiếp. Nhờ có tôi vừa bắn bọn "phản
động", vừa cản đường chúng nên khi nghe tiếng súng nổ liên tiếp, dân quân
tự vệ, đồng bào hai bên phố ra đường… nên ông cụ chạy thoát! Thế mà khi về đến
cơ quan, tôi thấy ông cụ đang ngồi gõ máy chữ thản nhiên, như không có chuyện
gì vừa xảy ra. Thấy thế, tôi cũng không hỏi gì nữa vì lúc đó bận rộn lắm. Ông cụ
cũng vậy, không hỏi han gì nữa, không nhắc đến chuyện ấy nữa… Cái hồi đầu cách
mạng là thế đó … "Nghìn cân treo sợi tóc" mà! Nhưng sau này có chuyện
tức cười là, cái cậu trinh sát đóng vai "cụ Hồ giả" đi diễu phố cho đồng
bào hoan hô ấy, đến sau hòa bình 1954, khi cải cách ruộng đất, bị tố là địa chủ
gian ác… Nguy kịch quá, cậu ta cãi lại đội cải cách, kể công đóng cụ Hồ giả, sẵn
sàng chết cho cách mạng… thành công! Vì thế cậu ta được hạ thành phần xuống phú
nông, thoát chết!!!
Câu chuyện trên tôi viết thành một bài cho báo Sài Gòn Giải
Phóng, có đăng kèm cả ảnh tướng Qua với lon thiếu tướng công an cho số đặc san
ra ngày 2-9-2005, kỷ niệm 60 năm Cách Mạng Tháng Tám và quốc khánh 2-9. Duy cái
đoạn đóng cụ Hồ giả và chuyện anh chàng đóng giả thoát chết trong cải cách ruộng
đất thì bị tòa soạn cắt đi! Bài báo này tôi vẫn còn giữ làm kỷ niệm.
Ở các nước văn minh thì sau 35 năm, các hồ sơ mật đều được
công khai hóa để các sử gia có tư liệu mà viết cho trung thực. Cuốn
"Paris-Sài Gòn-Hà Nội" của sử gia Pháp Philippe Devillers viết về cuộc
chiến tranh Pháp Việt (1946-1954) được viết nhờ những tài liệu mật được khui
ra. Cuốn sách này đã được ông Hoàng Hữu Đản dịch ra tiếng Việt. Trong cuốn sách
đó, tác giả Philippe Devillers đã vạch mặt ba tên tướng thực dân lái súng là
D'Argenlier, Pigon và Valuy đã bưng bít thông tin với chính phủ Pháp để dẫn đến
cuộc chiến Pháp-Việt làm "hủy hoại tất cả di sản và quyền lợi của Pháp ở
Đông Dương". Ở các nước cộng sản độc tài thì không có chuyện khui các tài
liệu mật. Ngay cả những chuyện không có gì phải giấu giếm như chuyện tướng Qua
kể cho tôi nghe ở trên cũng bị… cấm! Vì thế, khi được báo Sài Gòn Giải Phóng mời
viết bài về Cách Mạng Tháng Tám, tôi đã cố ý kể những chuyện do tướng Qua kể lại…
cho bài báo thêm phần sinh động, trung thực, hấp dẫn. Nhưng chính báo chí lại tự
kiểm duyệt mình một lần nữa, vì thế, đọc báo "lề phải" cứ thấy công
thức, nhạt nhẽo, vô duyên không thể "ngửi" được. Tướng Lưu Á Châu ở
Trung Quốc có nói một câu nổi tiếng: "Ở Trung Quốc nơi thiếu thông tin nhất
là… báo chí!" Sao anh bạn 16 chữ vàng này lại giống ta đến thế!
Ở Bộ Công An, tướng Qua là người ghét cay ghét đắng thứ trưởng
Lê Quốc Thân. Theo ông, đây là một phần tử hèn nhát, cơ hội và gian manh. Chính
ông Vũ Quốc Uy, nguyên phó chủ nhiệm Ủy ban văn hóa đối ngoại của Việt Nam cũng
từng nói với tôi về sự hèn nhát của Lê Quốc Thân mà ông được chứng kiến khi
Pháp tấn công quân ta đang cố thủ trong nhà hát lớn Hải Phòng hồi đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp. Ông Uy kể: “Khi tất cả anh em tự vệ đang quyết chiến đấu
với Pháp thì Lê Quốc Thân ngồi khóc và sợ quá… đái cả ra quần!” Vậy mà sau này
ông ta leo lên đến chức ủy viên trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Công An.
Tướng Qua kể, lúc trúng ủy viên trung ương, thứ trưởng Lê Quốc
Thân mỗi lần đến cục tôi làm việc (tức Cục Cảnh sát, Cục Trại giam mà tướng Qua
từng làm cục trưởng) thường hoa chân múa tay nói huyên thuyên như “quan điểm” của
tôi thế này, “quan điểm” của tôi thế kia… Lúc ấy, tôi nóng mắt lắm. Một hôm
không chịu nổi nữa nhưng vẫn giữ sĩ diện cho “đồng chí thứ trưởng” nên lúc tan
cuộc họp rồi, mọi người đã giải tán, chỉ còn tôi và thứ trưởng Thân do tôi mời
lại. Tôi nói thẳng với ông ta: “Ngày còn ở An toàn khu khi thằng Đỗ Nhuận nó mới
sáng tác được bài “Du kích sông Thao”, tối đến nó tập hợp anh em lại để hát thử.
Khi nó xướng lên… “Hồng Hà”… thì mọi người ở dưới đều đồng thanh… “mênh mông”…
Lúc đó anh chỉ bốc ngô rang ăn, đến nỗi thằng Đỗ Nhuận phải chỉ vào mặt anh nói
Lê Quốc Thân “mênh mông” đi chứ, cứ bốc ngô mà ăn mãi thế!!! Chắc anh còn nhớ
chuyện đó chứ…? Cái lúc anh bốc ngô rang trong chiến khu sao tôi không thấy anh
có “quan điểm” gì… sao bây giờ mới được vô trung ương, anh lắm “quan điểm” thế!
Lê Quốc Thân đỏ mặt rồi quay ngoắt đi thẳng. Từ đó y không bao giờ đến Cục tôi
để nêu “quan điểm” nữa(!)”.
Tướng Qua là như thế. Tính nóng nẩy, cương trực, nên hay làm
mất lòng cấp trên mặc dù công trạng đầy mình. Ông từng phá “Vụ án phố Ôn Như Hầu”
nổi tiếng, cứu chế độ cộng hòa non trẻ sau CM Tháng Tám thoát hiểm trong gang tấc.
Vậy mà sau này, từ chức vụ Cục trưởng Cục cảnh sát ông phải miễn cưỡng nhận chức
Cục trưởng Cục lao cải – tức cục quản lý các trại giam, một chức vụ bị “cách
ly” với các vấn đề an ninh ngoài xã hội, không còn liên quan đến toàn bộ hệ thống
pháp luật, đến sự minh bạch, công tâm, trách nhiệm cao, thâm niên nghiệp vụ cao
của người đứng đầu ngành cảnh sát quốc gia như chức vụ cũ của ông. Vậy mà cũng
không yên. Tướng Qua kể khi ông Phạm Hùng làm phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ
Công An, một lần ông đến Cục trại giam và ra lệnh cho tôi thả một nữ tù nhân
đang mang án chung thân. Tôi thưa với đồng chí Bộ trưởng, đây là chuyện pháp luật,
tôi không dám. Ông Phạm Hùng nói “pháp luật do ta làm ra chớ(!)”. Tôi đành
thưa, xin phép để cho tôi họp Đảng ủy Cục, xin ý kiến Đảng ủy. Ông Phạm Hùng trừng
mắt hỏi “đồng chí bao nhiêu tuổi?” Tôi biết không xong rồi, và sau giây phút
suy nghĩ , tôi đã trả lời một cách kiên quyết, chấp nhận mọi hậu họa “tôi ít tuổi
hơn đồng chí”! Thế là hơn tháng sau, tôi nhận được quyết định nghỉ hưu (!)
Ông Phạm Hùng từng là một người anh hùng như tôi đã biết. Ông
từng bị thực dân Pháp kết án tử hình. Trong khám tử hình, ông tỏ ra vô cùng anh
dũng, được kính nể. Vậy mà khi có quyền lực không giới hạn thì tha hóa như thế.
Đó là con đường của tất cả các lãnh tụ trong một chế độ toàn trị, mà trường hợp
Phạm Hùng chỉ là một ví dụ nhỏ. Cả dòng họ Lê Phú của tôi, chỉ có mình tôi là
được biết về lý do bị cho nghỉ hưu đột ngột của tướng Qua, vì ông chỉ kể cho có
một mình tôi nghe trong một chiều “gió tím mưa xanh”.
Cuốn sách này là những mẩu chuyện như thế!
Chương 1
Hà Nội, nơi tôi sinh ra
Tôi sinh ra (1942) trong một gia đình công chức tại Hà Nội.
Theo ông nội tôi thì nơi chôn nhau cắt rốn của nội tôi là làng Cơ xá nam, ngày
nay thuộc phố Nguyễn Huy Tự quận Hai Bà. Làng tôi có từ trước khi vua Lý Công Uẩn
dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Làng có hai dòng họ lớn là họ Ngô và họ Lê. Lý
Thường Kiệt họ Ngô (Ngô Thường Kiệt), vì có công nên được đổi sang họ vua (Lý).
Nhân 1000 năm Thăng Long, đền thờ Lý Thường Kiệt được tu tạo, được công nhận là
di tích lịch sử cấp quốc gia, hiện tọa lạc ở đầu đường Nguyễn Huy Tự ngày nay.
Theo một phả của cụ Đức Quán làm ngày 12 tháng 10 năm Ất Hợi
(1815) thì làng tôi vốn trước ở Núi Nùng gần chùa Một Cột. Đến thời vua Thái Tổ
nhà Lý (1010), dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long mới dời làng tôi ra bãi Phúc Xá
bây giờ. Theo các cụ kể lại thì vua Lý lấy đất làng tôi làm kinh đô nên cho dân
"tái định cư" bằng cách thả một quả bưởi xuống dông Hồng, bưởi trôi về
đến đâu thì đất làng được đến đó. Ngẫm ra như thế thì chế độ phong kiến ngày
xưa tử tế quá. Không đểu cáng như vụ giải tỏa cưỡng chế ở Văn Giang, Hưng Yên
(24.04.2012) vừa qua! Vì quả bưởi trôi đến đâu, đất được cấp đến đó… nên đất
làng tôi mênh mông, suốt từ Chèm đến tận Khuyến Lương, Thanh Trì. Một lần, vua
đi kinh lý trên sông, thấy làng tôi nhà cửa lụp xụp ven sông, dân tình nghèo
khó, vui hỏi quần thần "làng kia tên là làng gì"? Quần thần thưa: đó
là làng Cơ Xá. Vua thấy thế bèn cho làng tôi cái bãi bồi giữa sông và đặt tên mới
cho làng là Phúc Xá (ý vua muốn đổi tên từ chữ CƠ là nghèo, là cơ cực sang chữ
PHÚC may mắn hơn). Theo gia phả của họ Lê Phú do ông nội tôi làm tại Phúc Xá
ngày 15 tháng 8 năm Ất Tỵ (30.09.1955) lúc cụ 74 tuổi, thấy ghi như sau: Làng
ta trước là Yên Xá, tổng Tam bảo, huyện Từ Liêm, đạo Sơn Tây… Từ khi làng ta dời
xuống bãi Phúc Xá năm nào cũng bị ngập lụt. Vua Thần Tôn nhà Lý ngồi chơi du
thuyền đi qua làng ta, thấy nhà nào cũng ở trên sàn, nên đặt tên làng ta là Cơ
Xá, sau mới đổi tên là Phúc Xá. Đến đời Bảo Thái nhà Lê (1723) mới nhập vào xứ
Kinh Bắc, Bắc Ninh.
Vật đổi sao dời, bải Phúc Xá bị lở hàng năm nên dân làng hiện
nay phiêu bạt nhiều nơi. Nhưng vẫn còn một bộ phận lớn của làng hiện nay đang
cư ngụ tại bên bắc sông Hồng thuộc quận Gia Lâm ngày nay. Hiện nay, hàng năm
làng tôi vẫn làm hội làng vào ngày mùng 6 tháng 3 AL. Họ Lê Phú… của tôi hiện
còn ông quyền trưởng tộc là Lê Phú Dư hiện ngụ tại số nhà 164 đường Ngọc Thụy,
phường Ngọc Thụy, Quận Long Biên Hà Nội.
Trừ cái hiện tại là ông trưởng tộc họ, tên Lê Phú Dư và dòng
họ Lê Phú… đang sinh sống tại Hà Nội, thì tất cả chuyện "ngày xưa" đều
do tôi nghe kể lại hoặc theo các ghi chép từ gia phả. Do đó không chắc gì là
chính xác 100% cả. Tuy vậy, đối với dòng họ Lê Phú của tôi thì những gì mà tôi
nghe được về cái làng Cơ Xá của mình… nó thiêng liêng lắm, thú vị lắm. Như bất
cứ người Việt Nam nào nghe kể về Bà Triệu, Bà Trưng "ngày xưa" vậy!
Dân làng Phúc Xá của tôi đã tham gia xây dựng những công
trình lớn của thực dân Pháp hồi cuối TK 19, đầu TK 20 ở Hà Nội. Theo ông nội
tôi kể lại thì khi xây cầu Long Biên qua sông Hồng, nhiều dân làng đã chết vì
khi xây dựng móng cầu ở độ sâu do thiếu dưỡng khí, nên khi họ được kéo lên mặt
nước thì đã chết ngạt từ trước đó. Xin mở ngoặc nói thêm, tháp Eiffel ở Paris
được xây dựng cùng thời gian với cầu Long Biên và được khánh thành năm 1889 để
kỷ niệm 100 cách mạng Pháp 1789 (với 7000 tấn thép, hơn cầu Long Biên 1000 tấn).
Điều đáng nói là tháp được xây dựng ròng rã ba năm nhưng không chết một công
nhân nào cả. Trong khi đó, cầu Long Biên được khánh thánh 1902, với số người chết…
không tính được. Chỉ riêng chuyện đó thôi, cũng thấy chuyện "nhân đạo"
của bọn thực dân.
Bà cụ nội của tôi là Dương Thị Thiết (1858-1937) đã từng làm
phụ hồ khi Pháp xây dựng nhà hát lớn Hà Nội. Đến bây giờ tôi vẫn còn thắc mắc
là, ông nội tôi, cha mất sớm từ lúc ông có 11 tuổi, mẹ phải đi làm phụ hồ thì
làm sao có tiền để nuôi ông nội tôi ăn học… đến trình độ đọc được sách chữ Hán,
nói tiếng Tây trôi chảy.
Ông bà nội tôi sinh được 6 người con. Thứ nhất là bà cô tôi,
Lê Thị Thọ. Thứ hai là ông bố tôi, Lê Phú Khang, thứ ba là Lê Phú Cường, sau
này đi hoạt động cách mạng đổi tên là Lê Hữu Qua, thứ tư là Lê Phú Ninh, thứ
năm là Lê Phú An, thứ sáu là Lê Phú hào. Ở Hà Nội (và ở miền Bắc nói chung),
con gái không được tính, không "dân chủ" như Nam Bộ nên bà cô tôi
không được xếp thứ. Ông bố tôi được gọi là ông trưởng, thứ đến ông hai, ông ba…
bà cô tôi được ăn học hết bậc tiểu học, sau đó học trường sư phạm (école normale)
ba năm, trình độ tương đương diplome. Ông bố tôi vì ăn chơi không lo học nên
thi diplome bốn lần không đỗ, cuối cùng phải sang tận Lào làm thư ký một thời
gian. Riêng điểm này thôi cũng thấy chế độ thi cử của thực dân Pháp là nghiêm
ngặt. Con nhà khá giả như bố tôi, cha là công chức Phủ Toàn Quyền nhưng không
có cửa để đút lót để lấy bằng cấp như chế độ cộng sản thời nay. Người chú thứ
tư của tôi là Lê Phú Hào do vừa làm vừa học nên đỗ được bằng tú tài trước Cách
Mạng Tháng Tám. Những người chú khác thì không biết học được đến trình độ gì,
nhưng nói chung đều nói được tiếng Pháp. Ví dụ như người chú thứ hai là Lê Phú
Ninh, gia đình vẫn thấy ông thường xuyên nghe radio tiếng Pháp. Vì thế nên gia
đình họ Lê Phú nhà tôi có cái "lệ" rất "humour" là mỗi khi
người lớn (các ông) trong gia đình gặp gỡ nhau trong các dịp lễ tết, giỗ chạp,
vủi vẻ thì họ nói tiếng Việt, nhưng nếu có sự cãi cọ, to tiếng mắng mỏ nhau…
thì từ ông nội tôi đến bố tôi và các chú tôi đều sử dụng tiếng Tây để những người
khác không biết họ cãi lộn về cái gì. Cái vốn tiếng tây "Francais sans
maitre" của tôi đôi lúc cũng nghe được vài từ, chủ yếu là… chửi thề của
các bậc cha chú đó (!)
Ông nội tôi (1881-1967) làm vaguemestre cho Toàn quyền Đông
Dương trước CÁCH MẠNG THÁNG TÁM. Vuguemestre là nhân viên bưu chính của một
công sở. Nhưng Toàn quyền Đông Dương có cả một nhóm nhân viên làm việc trực tiếp
và chỉ phục vụ riêng về một công việc nào đó cho Toàn quyền mà thôi, trong đó
có nhân viên bưu chính. Giống như tổng thống Mỹ ngày nay có đến hơn 90 nhân
viên phục vụ trong Nhà trắng cho riêng tổng thống, trong đó có những chức danh
như chuyên viên… ống dẫn nước… chẳng hạn! Có nghĩa là không có chuyện
"cúp nước" hay "cúp điện" với Dinh Tổng thống. Cũng giống
như thế, ông nội tôi có nhiệm vụ hàng ngày đi ra bưu điện nhận thư từ, công văn
cho quan Toàn quyền, rồi lại đi gửi thư từ, công văn của quan Toàn quyền về
Pháp. Để làm việc này, cụ có ô tô riêng và có một ông "tây đen" lái
xe đi và về! Những điều tôi kể không quan trọng vì kiếm đâu chẳng có một nhân
viên để làm những việc đó. Cái chính, như ông nội tôi kể là, sở dĩ quan Bẩy
Toàn quyền chọn ông làm nhân viên vaguemestre vì… chữ ông nội tôi rất đẹp. Quan
Bẩy rất kén người chữ đẹp để đề bao bì thư cho mình gửi về Pháp. Bây giờ chúng
ta được xem những tờ giấy khai sinh của bố mẹ mình thời Pháp thuộc, thì thấy chữ
viết được điền vào các tờ mẫu khai sinh thời đó rất đẹp. Đến chọn một nhân viên
viết giấy khai sinh ở công sở, người ta còn chọn người chữ đẹp nữa là ở Phủ
Toàn Quyền, viết bao thư cho Toàn quyền gửi về mẫu quốc. Cái văn hóa chữ đẹp ấy
của người Pháp đã khiến ông nội tôi được quan Toàn quyền Đông Dương chọn làm
nhân viên vaguemestre cho mình. Mà ông nội tôi viết chữ đẹp thật! Tôi đã bị ông
nội tôi đánh sưng cả tay khi viết tập đồ. Ông nội tôi khi cầm cây bút có hình
lưỡi mác chẻ đôi, khi viết có nét đậm nhạt khác nhau tùy theo chủ ý của người
viết, chấm mực rồi, không phải đặt bút viết ngay… mà khua cây bút vài dòng để
luyện gân tay rồi mới thả ngòi bút xuống trang giấy! Giống như hai đô vật trước
khi lao vào đấu vật, họ thường múa vài đường thật đẹp để "diễu võ giương
oai" và để làm đẹp lòng khán giả. Nhìn ông nội tôi cầm bút, trước khi viết,
múa bút vài vòng như một thứ… "đạo"! Cái chữ đầu tiên của một địa chỉ
trên phong bì thư đương nhiên phải viết chữ hoa. Vì thế nét bút đầu tiên phải
là một nét phẩy từ dưới lên, rồi mới đến chữ cái viết hoa đầu tiên. Thiếu cái
nét phẩy ngược lên ấy thì chữ cái viết hoa đầu tiên trơ trẽn như anh chàng
"ở truồng" vậy! Ấy là lời bình của ông nội tôi. Có câu chuyện thú vị
thế này. Khi người anh rể tôi là một đại úy quân đội được cử sang Liên Xô tu
nghiệp ở học viện quân sự Phơ-run-de sau năm 1954. Một hôm có người báo với đại
úy Việt Nam này rằng, anh lên gặp ngay thượng tướng hiệu trưởng trường. Ông anh
rể tôi run quá. Một học viện cỡ quốc tế, có hàng nghìn học viên các nước theo họ,
cắc cớ gì mà một học viên cấp úy như ông phải lên gặp thượng tướng hiệu trưởng?
Vừa đi vừa run. Khi ông anh rể tôi đứng nghiêm giơ tay chào vị thượng tướng
theo phong cách nhà binh và … chờ đợi. Bất ngờ vị tướng oai phong đó đặt một bức
thư lên bàn và hỏi: Ai viết cho đồng chí bức thư này? Ông anh tôi cầm thư xem
và thưa, đây là thư của ông nội vợ tôi viết trả lời sau khi nhận được thư hỏi
thăm của tôi. Nghe rồi, vị tướng đó chỉ nói một câu ngắn gọn: Chữ ông nội vợ đồng
chí đẹp quá! Rồi cho đồng chí đại úy Việt Nam… ra về!!! Thì ra cái văn
hóa chữ đẹp nó có cả ở bên Nga nữa.
Thế mà bây giờ người ta lại đi học cái "thư pháp" của
Tàu, viết chữ Latinh mẫu tự a,b,c theo cách viết chữ tượng hình của chữ Hán thì
thật là ngu ngốc quá! Nhìn mấy chữ Việt "thư pháp" trên các cuốn lịch
Việt Nam ngày nay người ta phát lộn mửa!
Chuyện ông nội tôi làm veguemestre cho Toàn quyền Đông Dương
nhờ chữ đẹp là như thế. Nhưng ngoài công việc của một nhân viên bưu chính cho
Toàn quyền, ông nội tôi còn một nhiệm vụ nữa là làm thông ngôn, ngày nay gọi là
phiên dịch cho quan Toàn quyền mỗi khi có các quan An Nam ở địa phương lên bẩm
báo. Chủ yếu là vào các dịp tết, lễ, các quan tỉnh, quan huyện lên biếu xén quà
cáp, đút lót cho Toàn quyền. Nếu các vị đó biếu Toàn quyền 10 thì cũng phải biếu
ông nội tôi 1-2… vì sợ ông nội tôi dịch sai!!! Chính vì thế, khi đến tuổi 50,
Toàn quyền Đông Dương bảo ông nội tôi theo luật thì công chức sở tây đến 50 tuổi
phải nghỉ hưu, nếu mày muốn tiếp tục làm thì tao chuyển cho mày sang ngạch An
Nam. Mày sẽ được làm tri huyện, nhưng tri huyện vùng xuôi thì kín rồi. Nếu
mày muốn thì làm tri châu (quan huyện ở miền núi) thì tao ký cho mày đi nhậm chức.
Ông nội tôi suy nghĩ, nếu làm quan mà không ăn của đút, không bòn rút của dân,
thì lấy đâu ra lụa là châu báu, của ngon vật lạ… để đem biếu quan trên như
chính mắt ông tôi nhìn thấy. Vì thế, ông nội tôi xin về… Ngày ông nội tôi rời
Phủ quyền, quan Bẩy tiển ra tận cổng phủ, bắt tay rất chặt trước lúc chia tay.
Vẫn theo ông nội tôi kể, thì đó là lần đầu tiên có một người về hưu mà Toàn quyền
tiễn ra tận cổng.
Chắc ông nội tôi phải là một công chức cần mẫn lắm thì mới được
quan Toàn quyền "ưu ái" đến thế! Vậy mà, khi Cách mạng Tháng Tám thành
công, kháng chiến toàn quốc sắp bùng nổ, ông nội tôi đã đem toàn bộ gia quyến tản
cư lên Phú Thọ, theo lời kêu gọi của cụ Hồ trường kỳ kháng chiến.
Chương 2
Đi tản cư lên Chí Chủ Phú Thọ
Đại gia đình Lê Phú bao gồm tất cả các người con, người cháu
của ông nội tôi lên một toa đen tàu hỏa từ Hà Nội và điểm dừng là ga Chí Chủ.
Đây là quê của người con dâu thứ ba của ông nội tôi. Tôi thường gọi là thím Ba.
Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của gia đình thím Ba mà ông nội tôi mua được một quả
đồi tên là đồi Dọc Bùng tại thôn Chí Chủ, xã Chí Tiên huyện Thanh Ba tỉnh Phú
Thọ. Quả đồi được mau chóng khai phá để trồng sắn, nuôi gà vịt… lấy lương thực
theo kháng chiến trường kỳ. Mẹ tôi, một người buôn bán giỏi ở Hà Nội trước đây,
đã mở một xưởng làm thuốc lá thủ công) lấy tên là hãng thuốc lá Lương Sơn theo
khẩu hiệu "kháng chiến toàn diện" của cụ Hồ. Xưởng thuốc lá phát triển
rất tốt. Nhiều con cháu trong họ đã trở thành công nhân làm thuê cho mẹ tôi.
Thuốc lá nhãn hiệu Lương Sơn được bán rộng rãi ở vùng tự do lúc đó. Nhưng đến
giữa năm 1950, gia đình bố mẹ tôi phải hồi cư về Hà Nội, vì mẹ tôi mang bầu,
không thể ngược xuôi buôn bán được nữa. Ông bà nội tôi và gia đình họ Lê Phú vẫn
theo kháng chiến đến cùng.
Khi đặt chân lên quả đồi Dọc Bùng ở Chí Chủ, lúc đó tôi mới
tròn 5 tuổi và tôi chỉ ở đó cho đến năm 8 tuổi lại theo bố mẹ về Hà Nội sống nhờ
bên ngoại giàu có. Nhưng trong ký ức tuổi thơ của tôi, những ngày sống ở Chí Chủ
vô cùng thơ mộng, hấp dẫn. Thiên nhiên miền Trung du Phú Thọ với "rừng cọ,
đồi chè, đồng xanh ngào ngạt" đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết. Quả đồi gia
đình tôi ở chung quanh là đầm nước. Buổi sáng khi sương còn giăng trên mặt hồ
đã có những đoàn thuyền nan bé xíu buông lưới, gõ mạn thuyền đồi cá vô lưới… nhộn
nhịp cả một góc rừng. Những chiều mưa đứng trên đồi nhìn xuống mặt hồ mù mịt thấy
nao nao người. Tôi thường thẫn thờ chơi một mình ở những "yên ngựa"
võng xuống nối liền hai quả đồi. Ở đó có những hòn đá cuội đen bóng như than. Hết
thung lũng lại lên những quả đồi sim hoa tím quả ngọt, nhiều khi ăn sim chín đến
say sẩm mặt mày. Đẹp nhất vẫn là những đồi cọ. Đứng từ xa nhìn một đổi cọ mới
thấy hết vẻ đẹp của miền Trung du. Rừng không âm u rậm rịt mà tươi sáng. Nắng
chiếu xuống những tán lá cọ to như cái nia tạo bóng râm bên dưới như mời gọi du
khách đến gần. Những tàu cọ non màu trắng ngà xòe ra như đang múa điệu múa miền
Trung du sơn cước… Vào mùa hè, ve kêu trong rừng cọ nghe như bản giao hưởng bất
tận. Những con ve sầu ở miền Trung du to như ngón chân cái và dài đến mười
phân, màu đen nhung có vạch đỏ ngay lưng rất đẹp. Trẻ con địa phương gọi là con
cồ cộ. Đám trẻ chúng tôi lấy những cái cần câu nối vào nhau, đầu cầu câu dính
nhựa mít có thể dính được những chú cồ cộ đâu trên thân cọ…
Ba năm ở Chí Chủ, ngoài hạnh phúc được thưởng ngoạn thiên
nhiên diễm lệ của miền Trung du, tôi còn được chứng kiến cảnh tản cư kháng chiến
chống Pháp của dân miền xuôi đi kháng chiến và tình cảm "lá lành đùm lá
rách" của đồng bào miền ngược. Gia đình chúng tôi, sau khi mua được quả đồi,
nhờ sự giúp đỡ của đồng bào địa phương, làm được một dẫy nhà lá dài, vừa để ở,
vừa để làm "xưởng" thuốc lá của mẹ tôi. Đồng bào địa phương gọi quả đồi
Dọc Bùng nơi chúng tôi ở là "Trại Hà Nội". Xung quanh khu nhà ở, gia
đình chúng tôi trồng sắn làm lương thực. Đã gần 60 năm rồi mà tôi vẫn nhớ hàng
ngày phải đi nhặt lá sắn rụng dưới chân rừng sắn trên đồi để làm củi nấu
"cơm". Sở dĩ chữ cơm phải cho vào dấu nháy nháy, vì nồi cơm có 90% là
sắn. Hạt cơm chỉ dính vào các miếng sắn mà thôi. Tất cả mọi người trong gia
đình đều phải ăn cơm độn sắn như vậy. Riêng tôi, vì là cháu đích tôn của dòng họ
nên được ngồi ăn riêng với ông bà nội tôi, ăn cơm là chủ yếu. Số phận đã cho
tôi những ưu ái từ thủa còn bé như thế. Sau này đến lúc về già rồi, một cô em họ
trong dòng họ Lê Phú còn nhắc chuyện cũ… Cô em tôi "tố khổ" rằng, hồi
còn nhỏ, mỗi khi tôi đi đâu về, ông nội vẫn bắt cô phải cởi giày cho tôi! Chẳng
biết chuyện ấy có thật hay không, tôi đành bảo cô em tôi: Thì bây giờ cô ngồi
lên ghế để tôi cởi giày cho cô, trừ nợ vậy! Cả nhà đều cười. Chuyện cũ nhắc lại
là như thế. Xã hội phương đông là như thế, biết làm sao được!
Ngày ấy ở "Trại Hà Nội" của chúng tôi đã xảy ra một
sự kiện gây chấn động cả thôn Chín Chủ vốn yên tĩnh và thơ mộng này. Đó là vụ
oanh tạc của bốn chiếc máy bay khu trục Pháp vào trại. Số là, quả đồi mà đại
gia đình chúng tôi ở được phát quang, lại dựng những dãy nhà lá to, đẹp để vừa
làm nhà ở, vừa làm xưởng thuốc lá. Vì thế, một buổi chiều, bốn chiếc máy bay
khu trục cũ của Pháp đi oanh kích ở đâu về, có lẽ chúng còn thừa đạn và tưởng rằng
khu "Trại Hà Nội" của gia đình chúng tôi là cơ quan của Việt Minh…
nên chúng lao xuống bắn phá. Lúc đó tôi đang thơ thẩn chơi ở trên đỉnh một quả
đồi bên cạnh nên nhìn rất rõ bốn chiếc máy bay lượn vòng trên khu "Trại Hà
Nội" và từng cái thay nhau lao xuống nã đạn. Cứ thế, thay nhau lao xuống…
chừng hơn 10 phút sau, có lẽ là hết đạn nên chúng kéo nhau bay đi. Khi chúng đi
rồi, cả khu trại bốc khói mù mịt. Chỉ sau đó ít phút, đồng bào ở các quả đồi
xung quanh nhất loạt bơi thuyền sang cứu "Trại Hà Nội". Có thuyền còn
mang cả băng cứu thương, thuốc men… sang cứu trợ. Nhưng may quá, cả gia đình
tôi không ai bị thương, dù là bị thương nhẹ. Điều kỳ diệu này là nhờ sự sáng suốt
của ông nội tôi. Cụ đã chỉ đạo cho đào hầm chữ chi ngay trong nhà. Khi nghe thấy
tiếng máy bay là tất cả mọi người nhảy ngay xuống hầm sâu. Đất đồi cứng, lại
khô ráo nên mọi người nằm ép sát xuống đáy hầm, đạn chỉ bắn xéo nên không ai bị
dính đạn cả, còn tất cả đồ đạc trong nhà thì tan hoang như một bãi chiến trường.
Đã gần 60 năm mà tôi vẫn nhớ như in những hình ảnh đó. Những chiếc chăn
bông để trê giường bị đạn của súng liên thanh bắn xuyên qua, đầu đạn còn kéo
theo những nắm bông "nhét" vào các bức tường được làm bằng phên tre.
Khi máy bay đi rồi, bọn trẻ con chúng tôi được phân công gỡ những búi bông đó
ra để "tái cấu trúc" lại chiếc chăn bông! Các cột nhà là các cây
bương (một loại nứa to bằng bắp đùi người lớn) bị dính đạn đều vỡ toác ra. Một
con cá chép to treo dưới bếp bị đạn bắn… mất đầu. Và một chi tiết khiến tất cả
mọi người đều ngạc nhiên là đôi giày cao cổ bằng da, thứ giầy của hiến binh
Pháp (police militaire) đi tuần tiểu bằng mô tô mà ông chú thứ hai của tôi đưa
cho ông nội tôi đi…kháng chiến… để dựng đứng ở dưới gầm bàn, bị nhiều vết đạn
xuyên qua mà đôi giày vẫn đứng thẳng. Sức đạn đi quá nhanh khiến đôi giày da
không kịp… đổ(!) Sự an toàn của gia đình tôi khiến tất cả bà con đến cứu nạn phải
ngạc nhiên. Mọi người đều nhận ra sự lợi hại của những căn hầm trú ẩn được đào
ngang dọc ngay trong nhà. Nếu hào được đào ở xa, thì khi chạy ra trú ẩn, nhất định
sẽ có người bị dính đạn.
Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, người ta được
chứng kiến tình cảm thiêng liêng của đồng bào với chính phủ Việt Minh. Trăm nhà
như một. Tất cả đều yêu thương đùm bọc nhau, đoàn kết xung quanh chính phủ Hồ
Chí Minh để kháng chiến trường kỳ giành độc lập. Sự đùm bọc của đồng bào địa
phương đối với gia đình đi tản cư từ Hà Nội như gia đình tôi đã nói lên sự thật
đó. Công bằng mà nói, lúc đó những người cộng sản Việt Nam đồng nghĩa với những
người yêu nước và được nhân dân cả vùng tự do đến vùng tạm chiếm ủng hộ tuyệt đối,
trừ những phần tử theo đuôi Pháp. Có những hình ảnh mà tôi không bao giờ quên về
những cán bộ của chính phủ cụ Hồ lúc đó. Ông nội tôi có 5 người con trai như đã
kể ở trên. Trừ ông bố tôi không hoạt động, còn bốn người chú ruột của tôi đều
tham gia hoạt động trong hàng ngũ Việt Minh. Vì thế gia đình tôi tản cư, đóng ở
Chí Chủ Phú Thọ là một địa điểm trung chuyển, nghỉ chân cho các cán bộ Viẹt
Minh từ vùng tạm chiếm lên chiến khu Việt Bắc. Khi kháng chiến chống Pháp bùng
nổ, thì người chú thứ nhất của tôi mà tôi thường gọi là chú Hai (thứ hai, sau bố
tôi là cả) là giám đốc công an khu 11, tức khu Hà Nội. Khi nha công an trung
ương chuyển lên Việt Bắc, thì ông là phó ty trật tự tư pháp, đồng thời là phó
giám đốc công an liên khu ba. Có lẽ vì thế mà các đoàn từ khu ba lên Việt Bắc
thường nghỉ chân tại nhà tôi ở Chí Chủ, Phú Thọ. Có nhiều lần ông Nguyễn Lương
Bằng, có lẽ lúc đó phụ trách tài chính của Đảng, nên thường mang hàng quý của đồng
bào khu ba quyên góp cho kháng chiến lên Việt Bắc, đi qua Phú Thọ thì thế nào
cũng ghé lại nhà tôi tức "Trại Hà Nội". Một lần, ông dẫn một đoàn ngựa
thồ mang hàng lên Việt Bắc, chủ yếu là thuốc tây, có ghé lại nghỉ ở nhà tôi.
Ông có một chiếc khăn rửa mặt đã rách, ông nhờ mẹ tôi khíu lại (có nghĩa là lấy
kim chỉ khâu những chỗ đã rách liền lại với nhau. Tôi phải nói rõ từ
"khíu" khác với "vá" vị sợ sau này các bạn trẻ không hiểu
khíu là cái gì. Cũng như thằng con tôi, nó chỉ biết cái áo mưa, khi nói đến áo
tơi thì nó hỏi là áo gì?). Lại nói về ông Bằng. Khi ăn cơm, có một bát cà bung
để từ trưa, đến chiều đã vữa mẹ tôi định đem đổ đi thì ông Bằng giữ lại, ông
nói để tôi ăn. Trước khi ông đưa đoàn ngựa thồ rời nhà tôi lên Việt Bắc, ông
cho mẹ tôi một hộp dầu cù là con hổ phù, tức hộp dầu cù là có hình con hổ chạm
nổi ở trên nắp hộp. Mẹ tôi than phiền ông này nghèo quá mà cũng keo quá! Mẹ tôi
có hay đâu ông phụ trách tài chính của một đảng đang cầm quyền. Ông có cả đoàn
ngựa thồ chở toàn đồ quý, nhưng đó là những thứ đồng bào quyên góp cho kháng
chiến, ông không dám tơ hào cái kim sợi chỉ. Sau này bà nội tôi định làm mai mối
ông cho em ruột của bà, là một infirmiere ở Hà Nội theo bà đi tản cư chưa có chồng.
Nhưng bà trẻ của tôi (theo cách gọi trong gia đình) đã chê ông Bằng nghèo nên…
không lấy. Sau đó bà lấy một ông cán bộ lãnh đạo của ty giáo dục Phú thọ. Ông
này vợ mất, đã có hai đứa con gái. Khi kháng chiến thành công, ông Bằng làm đến
chức phó chủ tịch nước, chúng tôi vẫn nói đùa với bà trẻ phải chi hồi đó bà trẻ
chịu lấy ông Bằng thì bây giờ chúng cháu… được nhờ(!)
Bây giờ, nhiều năm trôi qua ngồi nghĩ lại so sánh con
người thời đó với bây giờ thấy thật buồn, thật trớ trêu. Khi khởi đầu, Đảng có
một lớp cán bộ đáng quý như thế. Nhưng đi theo Chủ Nghĩa Cộng Sản, một chủ
nghĩa không tưởng rồi tuân thủ cái gọi là "tập trung dân chủ", đã loại
dần những cán bộ tốt ra khỏi guồng máy cai trị của mình khi có toàn vẹn đất nước
trong tay, Với tập trung dân chủ, thực chất là độc đoán, độc tài của một nhóm
người đã dẫn đến một bộ máy toàn trị đa phần là kẻ xấu như ngày hôm nay. Ngày
nay thế hệ trẻ có tư tưởng dân chủ chỉ nhìn thấy bộ máy của Đảng toàn những
gương mặt như Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, Đinh Thế
Huynh… và một bộ máy công an hung hãn đàn áp dân chủ… nên họ phủ định hết,
không chút nhân nhượng với cộng sản. Họ chưa từng được chứng kiến một ông cán bộ
phụ trách tài chính của Đảng dùng một cái khăn lau mặt rách nát trong khi có cả
kho của quý trong tay… như thế hệ chúng tôi. Nhưng không trách họ được. Có lẽ,
nói về Đảng và chế độ cộng sản ở Việt Nam một cách "toàn cảnh" phải lấy
lời của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện lúc ông ở tuổi 82 là công bằng nhất: "Đời
tôi là đời một kẻ ngây thơ, phần "thơ" là đi theo cụ Hồ kháng chiến
chống xâm lược, tôi giữ nó lại. Phần "ngây" là đi theo CNXH, tôi vứt
nó đi. Nhưng nếu phải sống lại, tôi vẫn đi con đường đó…" Đã có lần tôi
chép nguyên văn câu nói này đưa cho ông Võ Văn Kiệt, lúc đó đang là cố vấn Ban
chấp hành trung ương Đảng coi. Xem xong, ông Kiệt không nói gì cả(!) Vì thế,
tôi rất đồng cảm với nhà trí thức đang sống ở Pháp Nguyễn Gia Kiểng khi ông cho
rằng, các thế hệ sau này có thể không khắt khe với những người cộng sản lớp trước,
nhưng lịch sử sẽ rất khắt khe với những người cộng sản hôm nay. (Tức thời điểm
2012 này).
Tuổi thơ của tôi ở Chí Chủ còn được chứng kiến nhiều hình ảnh
khó quên. Nó đeo đẳng tôi cho đến lúc về già. Đó là những ngày mùng 1 Tết, ông
nội tôi tập hợp cả đại gia đình trước khoảng sân rộng trước nhà. Mọi người chào
cờ. Kéo cờ lên dần đỉnh cột và hát quốc ca. Khi cờ lên đến đỉnh thì quốc ca vừa
dứt. Ông nội tôi rút súng lục ra, bắn một phát chỉ thiên để chào mừng năm mới.
Chào mừng thêm một năm kháng chiến. Hào hùng lắm! (Súng do ông chú tôi "cấp"
cho ông nội tôi). Hồi đầu CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, ông nội tôi cũng có một khẩu
súng lục, cũng do ông chú tôi "cấp" nhưng sau đó bị ông chủ tịch xã
mượn chắc là để đeo cho oai. Ông chủ tịch xã là ông Minh Tiến, sau làm đến chức
thứ trưởng Bộ Công An. Ông ta là một thư lại rất láu cá. Tôi sẽ kể về sau. Cái
giấy "mượn" súng có đóng dấu hẳn hoi, đến bây giờ chú em họ tôi còn
giữ. Tôi thường được chú giở ra cho xem. Chú em tôi giữ rất cẩn thận và coi như
đồ gia bảo. Ở Chí Chủ, lâu lâu các chú tôi đi kháng chiến, mỗi lần có dịp đi
qua Phú Thọ lại ghé thăm nhà. Đó là những giây phút vui nhất trong gia đình.
Người chú thứ tư của tôi, tôi thường gọi là chú Năm, tính theo thứ tự từ bố tôi
là cả (cả, hai, ba, tư, năm) tên là Lê Phú Hào, mỗi lần về nhà ông lại dậy
chúng tôi học hát. Khi chúng tôi hát, ông đánh đàn và đệm cho chúng tôi. Người
chú thứ ba thì đi bộ đội tên là Lê Phú An. Có một buổi tối, chú tôi đem một tập
thơ nhỏ đọc cho cả nhà nghe. Tôi còn nhớ, khi nghe bài "Bầm ơi" của
nhà thơ Tố Hữu, mọi người chăm chú nghe, rưng rưng cảm động. Quả thật thời đó
con người ta thương yêu nhau lắm. Sau bao năm nô lệ, nước Việt Nam được độc lập
ai cũng vui sướng, mặc dù còn thiếu thốn trăm bề:
"Củ khoai củ sắn thay cơm
Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng
Ngớp hụm nước giếng trong đỡ khát
Nhìn trời cao mà mát tâm can…" (Tố Hữu)
Cái tình người mà Tố Hữu viết như thế là có thật. Đau đớn và
bẽ bang thay là bây giờ, no đủ hơn lúc đó, nhưng một nhà thơ cũng rất nổi tiếng
là Bùi Minh Quốc phải thốt lên rằng:
"Ngoảnh mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!"
Rất nhiều người thời nay khi nhắc đến xã hội Việt Nam kinh tế
thị trường định hướng XHCN đã trích câu thơ này của Bùi Minh Quốc như một sự
khái quát có giá trị, vì nó nói thay cho tâm trạng của hàng triệu người Việt
Nam hôm nay,
Những năm ở Chí Chủ, tôi thấy ông nội tôi nhẫn nại dạy bà nội
tôi học chữ. Bà nội tôi mù chữ từ nhỏ, bây giờ nước độc lập rồi, chả nhẽ ông nội
tôi lại để vợ mình không biết chữ. Nhưng bà nội tôi tối dạ lắm, không học được
chữ. Ông nội tôi đã chỉ dạy bà viết chữ E, tức tên bà nội tôi là Nguyễn Thị E.
Nhưng học mãi mà bà tôi vẫn không viết nổi. Tôi còn thấy ông nội tôi viết ba chữ:
Hồ Chí Minh thật to để bà tôi nhận mặt chữ, phòng khi sau này có đi bầu cử
thì nhớ không gạch tên đó. Thế là sau này cứ đưa chữ Hồ Chí Minh ra là bà nhận
được mặt chữ. Ông nội tôi mừng lắm. Là một công chức mẫn cán của Phủ Toàn quyền
Đông Dương, ông nội tôi đã kính yêu chủ tịch Hồ Chí Minh như thế. Đó là sự thật.
Nhưng nay, trong lúc tôi đang viết những dòng chữ này, tôi đọc được bài viết của
nhà báo Bùi Tín trên mạng Internet bình luận về bài: "Hồ Chí Minh là một
người cộng hòa hay cộng sản" của nhà nghiên cứu Nhật Bản, giáo sư Tsuboi
Yushiharu. Ông Bùi Tín dẫn ra 24 năm cầm quyền, ông Hồ đã giải thể trường đại học
luật, xử chết 27 ngàn người trong cải cách ruộng đất bằng "tòa án nhân
dân" thì sao gọi là cộng hòa được? Không có báo chí tự do thì sao gọi là cộng
hòa được? Lúc sắp ra đi, ông Hồ chỉ mong được gặp Marx Lenin, không mong gặp tổ
tiên thì là cộng sản chứ sao là cộng hòa được?
Nhà văn Phạm Đình Trọng trong một bài viết mới đây nhan đề
"Thông điệp tháng Tám". Sau khi phân tích tất cả những hiểm họa của đất
nước đang diễn ra, ông kết luận: "Thế kỷ trước, thế hệ đi tìm đường cứu nước
đã lạc đường dẫn đến thế nước hiểm nghèo hôm nay!" Đó là một đánh giá công
bằng, khách quan, chính xác. Không ai phủ nhận những người cộng sản thế kỷ 20
không yêu nước. Nhưng đi lạc đường, lạc vào quỹ đạo cộng sản, vậy thôi. Đau xót
là vậy. Quỹ đạo cộng sản là cái gì thì đã có ngàn, vạn bài báo, cuốn sách viết
về nó, không cần phải nhắc lại.
Ở Chí Chủ đến năm 1950 thì mẹ tôi mang bầu, không thể ngược
xuôi buôn bán được nữa nên gia đình tôi phải hồi cư về Hà Nội. Hồi đó, hễ đi
kháng chiến mà quay về vùng tạm chiếm thì bị gọi là "dinh tê" về
thành. Dinh tê là có lỗi, có tội với kháng chiến nên phải đi lén lút. Mẹ tôi
cùng bốn chị em tôi cùng bà cô ruột tôi, gồm toàn thể là đàn bà trẻ con rồi đồi
Dọc Bùng trong một đêm tối. Lúc chúng tôi xuống đò để rời đồi Dọc Bùng, bà nội
tôi luôn mồm khấn: "Lậy bốn phương trời, mười phương đất… phù hộ cho con
cháu tôi đi đến nơi về đến chốn". Lúc đó, tất cả đều khóc như mưa. Từ cái
đêm hôm đó, đoàn hơn 10 người tất cả là đàn bà và trẻ con đã tiến hành một cuộc
"vạn lý trường chinh" hơn 100 km từ Chí Chủ, Phú Thọ về Hà Nội. Đêm
đi, ngày nghỉ để tránh sự kiểm soát của dân quân du kích vùng tự do Phú Thọ.
Trí nhớ của đứa trẻ lên 8 tuổi đã không cho phép tôi nhớ nổi chúng tôi đã đi
không biết bao nhiêu đêm trong đói khát lo sợ. Sau nhiều đêm đi bộ, một buổi
sáng đẹp trời chúng tôi về đến thị xã Sơn Tây, cửa ngõ Hà Nội, thuộc vùng tạm
chiếm. Về Hà Nội, sau một thời gian ở nhà gia đình ông bác anh ruột mẹ tôi, một
gia đình buôn bán giàu có ở phố Hàng Buồm, về sau ông bị quy kết là tư sản…
chúng tôi may mắn đòi lại được căn nhà ở phố Hàm Long, nơi mẹ tôi có một cửa
hàng bán đồ hộp trước kia. Tôi bắt đầu đi học, theo chương trình tiểu học, bắt
đầu là lớp năm, lớp tư, lớp ba… cho đến lớp nhất. Vì trước đó đã được ông nội
tôi dậy cho biết đọc biết viết nên tôi được nhận vào học lớp tư, không phải qua
lớp năm của trường tiểu học Ngô Sỹ Liêm ở phố Hàm Long. Đó là một ngôi trường rất
nên thơ với những lớp học tràn đầy ánh sáng, sân trường có những cây bang cổ thụ
rợp bóng mát. Ngôi trường đến bây giờ vẫn còn (2012) nhưng được xây lên thành một
tòa nhà nhiều tầng, không cân xứng với khuôn viên nhỏ bé của nó như xưa kia.
Linh cảm thế nào ngôi trường xinh đẹp này cũng bị phá đi để xây lên cao tầng. Một
lần từ Sài Gòn ra Hà Nội, tôi đã đem máy máy tới chụp ngôi trường kỷ niệm này.
Tấm hình này tôi vẫn giữ và những chiếu "gió tím mưa xanh" tôi vẫn
đem ra ngắm lại ngôi trường tiểu học thời thơ ấu của mình, ôn lại những ngày đầu
tiên cắp sách tới trường đầy kỷ niệm.,,
Nếu ở Chí Chủ tuổi ấu thơ của tôi được tắm mình trong thiên
nhiên diễm lệ của miền Trung "rừng cọ đồi chè"… của đất nước thì tuổi
thơ đi học của tôi ở Hà Nội là những năm lêu lổng nhất. Thời đó không có cái
quái thai "học thêm" như thời nay. Sáng đi học, chiều về là tôi cùng
lũ trẻ con lê la trên hè phố. Phố Hàm Long với những cây cơm nguội, phố Lò Đức
gần đó là những cây sao nổi tiếng, phố Phan Chu Trinh thảm cỏ rộng và những
hàng cây sấu cổ thụ… Ba con phố ấy đổ về ngã năm: Hàm Long, Lò Đúc, Lê Văn Hưu,
Hàn Thuyên, Phan Chu Trinh… là "đất thánh" của bọn trẻ chúng tôi. Mùa
nào cũng có trò chơi của mùa ấy. Mùa chơi quay, tiếp đếnn mùa chơi đáo, mùa
chơi bi… hầu như suốt buổi chiều mỗi ngày chúng tôi đều lê la trên vỉa hè với
những trò chơi bất tận đó. Bây giờ những trò chơi của trẻ con ngày ấy đã mất hẳn.
Ngoài ra lũ trẻ chúng tôi còn có những trò chơi gắn với bốn mùa xuân hạ thu
đông. Mùa hè chúng tôi đi bắt ve sầu bằng cái cần câu có dính nhựa mít. Mùa mưa
đi đổ dế. Khi phát hiện một tổ dế, lũ chúng tôi thay nhau đi múc nước cống đổ
xuống tổ. Khi con dế không còn chịu được nước ngập nữa, nó phải bò lên miệng hố,
thò hai cái râu lên khỏi mặt đất. Chúng tôi lấy que xiên xuống, chặn đường rút
lui của nó rồi lần tay xuống lỗ, bắt gọn những chú dế mèn bóng nhẫy… Những con
dế đó được nuôi trong những chiếc hộp carton, được cho ăn cỏ non, được phơi
sương mỗi đêm… Đến mùa sấu chín, chúng tôi làm súng cao su, nhằm những chum sấu
chín vàng trên cây để bắn, Sấu chín ngọt lịm như tuổi thơ của tôi trẹn vỉa hè
phố phường Hà Nội. Hồi đó Hà Nội còn vắng vẻ, buổi trưa, khi mọi người yên nghỉ
trong nhà, tôi và chúng bạn thơ thẩn dưới những hàng cây cơm nguội, những hàng
sấu, nghe tiếng ve kêu ra riết trên cành sao mà thú vị, say mê đến thế. Năm
ngoái tôi có dịp ra Hà Nội để hẳn một ngày đi bộ tha thẩn trên các hè phố Hàm
Long, Phan Chu trinh, Hàn Thuyên, Hàng Chuối, vườn hoa Pasteur, phố Nguyễn Huy
Tự ra đến bờ sông… đâu đâu cũng thấy hàng quán lấn hết vỉa hè, xô bồ, hỗn tạp mất
hẳn cái yêu tĩnh nên thơ của những biệt thự nhỏ nối đuôi nhau ở các phố Hàn Chuối,
hàn Thuyên… năm xưa. Hà Nội bây giờ chẳng đem lại cho tôi cảm xúc gì ngoài cái
bệ rạc, bát nháo, nửa quê, nửa tỉnh, ông không ra ông, thằng không ra thsằng…
Tôi cũng để ra một ngày lên tận huyện Thạch Thất, Sơn Tây cũ xem cái gọi là Hà
Nội mở rộng bây giờ. Thật kinh ngạc. Vùng bán sơn địa với núi đá lởm chởm này
bây giờ cũng thuộc về Hà Nội. Vậy là thủ đô nước Việt Nam cũng có cả vùng núi.
Hai Bà Trưng theo sử sách nói quê ở Mê Linh. Nay Mê Linh cũng thuộc về Hà Nội.
Sử phải cập nhật ngay và viết là: Hai Bà Trưng quê ở Hà Nội…
Các nhóm lợi ích đã phá nát đất nước này một cách không
thương tiếc. Hễ ở đâu đất đai có thể chi chác được là chúng làm, bất kể điều
gì, kể cả vẽ lại bản đồ đất nước.
Lại nói về Hà Nội những năm 50 đầu thế kỷ trước. Cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân ta đến giai đoạn này đã chuyển sang thế phòng ngự
và tấn công. Quân đội viễn chinh Pháp bắt đầu thua liểng xiểng. Người Hà Nội chứng
kiến cảnh binh lính Pháp sau những ngày thua trận ở các nơi về Hà Nội với vẻ
chán trường, râu tóc bơ phờ và… sống gấp. Các bar rượu, vũ trường, đèn xanh đỏ
lập lòe, nhốn nháo thâu đêm. Cũng nhờ đám viễn chinh này ăn chơi xả láng mà nhiều
người cũng kiếm chác được nhờ phục vụ chúng. Có chị bán thuốc lá trước một rạp
chiếu bóng kể bán thuốc cho tây một lãi mười. Khi một thằng tây mua gói thuốc,
nó đưa tiền chẵn, khi trả lại tiền (miền Nam gọi là thối tiền), đáng phải trả lại
mười thì chỉ trả lại một. Nó chẳng đếm lại bao giờ, đút tiền vào túi đi ngay. Nếu
thấy nó đếm lại thì… cầm tiền đưa thêm, coi như chưa đưa hết!
Dạo ấy, cứ mỗi lần nghe thấy tiếng máy bay trực thăng trên đầu
là lũ trẻ chúng tôi ở các phố Hàm Long, Lò Đúc, Lê Văn Hưu… chạy bán sống bán
chết ra vườn hoa Pasteur. Ở đó có một bãi đất rộng cho trực thăng hạ cánh.
Chúng tôi nhìn thấy từ trên trực thăng các thương binh da trắng, da đen được
khiêng xuống để đưa về nhà thương Đồn Thủy (nay là bệnh viện 108) để cứu chữa.
Khi trên Điện Biên Phủ xẩy ra thì ở Hà Nội thật nhộn nhạo.
Tin tức đồn đại khắp nơi. Báo bán chạy như tôm tươi. Hầu hết
các gia đình trung lưu ở Hà Nội lúc đó đều mua báo hàng ngày để theo dõi tin tức
chiến trường. Người ta lo âu, thì thầm vì biết thế nào Pháp cũng thua, Việt
Minh sẽ thắng. Người có gia đình theo kháng chiến thì vui mừng, hồi hộp. Một
hôm, ông bác ruột, anh mẹ tôi từ phố Hàng Buồm đến chơi, đưa tờ báo cho mẹ tôi
coi rồi chỉ tay vào một tấm hình lớn ngay trang nhất và nói: “Em chồng cô bây
giờ làm lớn lắm!” Thì ra đó là tấm hình chụp ông Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn đại
biểu VNDCCH tại hội nghị Geneve về Đông Dương 1954. Đứng cạnh trưởng đoàn Phạm
Văn Đồng là chú tôi, Lê Phú Cường (tức tướng Lê Hữu Qua sau này). Sau này tôi mới
biết là chú Hai tôi là nhân viên an ninh của phái đoàn Việt Nam tại Geneva, có nhiệm
vụ bảo vệ đoàn và trưởng đoàn. Đây là lý do chú tôi thường hay xuất hiện bên cạnh
ông Phạm Văn Đồng. Vì thế mọi người cứ tưởng chú tôi làm lớn lắm. Lúc đó mới 12
tuổi đầu, tôi không hình dung ra cái gì sẽ đến với gia đình tôi và Hà Nội. Thế
nhưng, cái gì đến đã đến. Ngày 10/10/1954, ngày giải phóng thủ đô thật đáng ghi
nhớ. Mẹ tôi là một người buôn bán rất nhạy cảm nên trước đó bà mua tích trữ nhiều
cán cờ bằng gỗ, bằng tre xếp đầy nhà. Ngày đó tung ra bán cho người ta làm cán
cờ vẫy chào bộ đội về giải phóng thủ đô.
Tôi còn nhớ như in đêm mùng 9 rạng sáng 10/10 ấy cả thành phố
giới nghiêm và không ai ngủ cả. Mấy chị em tôi dán mắt nhìn qua khe cửa. Trong
ánh sáng vàng đục của những ngọn đèn đêm, tôi thấy những tên lính Pháp cao lớn
đi tuần. Gần sáng, lính Pháp chốt lại các đầu phố. Nhà tôi ở số 3B phố Hàm
Long, tức đầu phố nhìn ra ngã năm Phan Chu Trinh, Hàm Long, Lê Văn Hưu, Lò Đúc,
Hàn Thuyên rõ mồn một. Lính Pháp tụ lại ở đầu phố. Khi trời sáng hẳn thì từng tốp
bộ đội của ta vai đeo súng từ từ tiến đến chỗ lính Pháp. Những tên lính Tây cao
lêu nghêu đứng cạnh bộ đội Việt Minh bé nhỏ chỉ cao đến vai chúng. Họ trao đổi
với nhau, bàn giao với nhau những điều gì đó rồi thấy lính Pháp từ từ rút lên
phía nhà hát lớn theo đường Phan Chu Trinh. Khi lính Pháp rút rồi, chỉ còn lại
bộ đội ta thì tất cả các cánh của bật tung, nhân dân hai bên phố ùa ra đường với
cờ đỏ trong tay reo mừng hoan hô các anh bộ đội. (Dĩ nhiên các cán cờ là của mẹ
tôi bán cho họ).
Nếu tôi không ghi lại cái sự việc có thật này về cái đêm mùng
9/10 năm đó, thì sau này các sử gia, các nhà tiểu thuyết lịch sử khó hình dung
người Hà Nội làm gì, nghĩ gì, đường phố Hà Nội diễn ra điều gì trong cái giờ
phút lịch sử đó. Bởi lẽ, những người Hà Nội chứng kiến lúc quân Pháp rút lui
lúc rạng sáng ngày hôm đó chắc không còn mấy người và cũng chẳng ai làm cái việc
lẩn thẩn là ngồi ghi chép lại những sự việc đó trong khi mọi người đang điên rồ
kiếm tiền, cố tồn tại trong cái nền kinh tế thị trường định hướng XHCN này!
Cũng cần phải nói thêm là, trước ngày 10/10/1954 cả mấy tháng, đã có các cán bộ
Việt Minh vào thành phố, tá túc trong các nhà dân vốn là cơ sở của Việt Minh
hay các gia đình có người đi kháng chiến. Nhà tôi cũng có một chị tên là Nhân đến
ở. Họ có nhiệm vụ giải thích chính sách của chính phủ kháng chiến, khuyên đồng
bào không theo Pháp đi Hải Phòng…
Chị Nhân có chồng là cán bộ hoạt động nội thành rất đẹp trai
tên là Hồng Kỳ. Mẹ tô đã xếp cho họ ở một căn buồng nhỏ sau bếp nhà và đứa con
đầu lòng của họ đã “nên người” ở căn buồng đó. Sau này họ vẫn đi lại thăm gia
đình tôi.
Lại nói về ngày 10/10 lịch sử, cho đến 10 h sáng hôm đó thì cả
Hà Nội là một ngày hội lớn. Năm cửa ô Hà Nội tưng bừng đón những đoàn quân chiến
thắng trở về. Các nghệ sỹ đem cả đàn ra kéo, các chị mặc áo dài, các bà nhà
giàu tung hoa tươi lên các đoàn xe trở các đoàn quân tiến vào thành phố. Có những
câu chuyện thật cảm động mà tôi biết. Bà cụ Lý Tiếp, người làng Đồng Nhân, quê
ngoại của tôi. Cụ có họ xa với mẹ tôi. Cụ sinh sống bằng nghề bán nước mắm rong
trên đường phố. Hôm đó có người bảo với bà rằng, con bà là cán bộ chỉ huy cao cấp
trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nếu tôi nhớ không nhầm là đại đoàn trưởng hay
trung đoàn trưởng gì đó… có người làng đã trông thấy con trai bà trên phim tài
liệu về Điện Biên khi còn ở vùng tự do. Người cán bộ vô thành kiểu như chị Nhân
tôi kể ở trên đã cho bà biết tin như thế. Nhưng bà cụ không tin nên sáng ngày
10/10 bà vẫn đi bán nước mắm. Khi đoàn quân tiến vào thủ đô, bà cụ Tiếp vẫn đòn
gánh trên vai chen vào đoàn người đứng hai bên đường tại một cửa ô. Bỗng nhiên
bà trông thấy con trai mình ngồi trên xe jeep dẫn đầu đoàn quân. Bà lao ra… hai
mẹ con đã ôm lấy nhau… và mọi người đều khóc. Người chỉ huy đó sau này là thiếu
tướng Vũ Yên. Tên cúng cơm của ông là Nguyễn Văn Tịch. Mẹ tôi nói ông là người
làng của bà. Khi viết những dòng này, tôi cũng cảm động rơi nước mắt khi ngòi
bút “chạy” tới đây. Lịch sử đất nước có những giờ phút đáng ghi nhớ như thế.
Nhưng, người ta có hay đâu những người hồ hởi mang hoa ném lên những đoàn xe trở
đoàn quân chiến thắng kia, chỉ ít lâu sau là nạn nhân của những cuộc cải tạo tư
sản. Ở nông thôn là cải cách ruộng đất đẫm máu.
"Ngày vui ngắn chẳng tày gang", không khí hồ hởi
vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng
như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc
"đấu tranh giai cấp", của cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu
tố bọn "Nhân văn Giai phẩm". Nhà văn Nguyễn Khải đã miêu tả rất đúng
chân dung của con người Việt Nam từ thành thị đến nông thôn sau chiến thắng Điện
Biên trong bài tùy bút chính trị "Đi tìm cái tôi đã mất". Ông viết:
"Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt
chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người
vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư
duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn. Từ nay họ chỉ được
nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối nếu họ không
muốn dẫm vào vết chân của nhóm "Nhân văn Giai phẩm". Một dân tộc đã
làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác,
đi đứng lom rom như một kẻ bại trận". Viết đến đây tôi chợt nhớ có lần đọc
được bài viết của một phóng viên người Pháp nhiều năm sống ở Trung Quốc. Khi
quân giải phóng nhân dân Trung Hoa vượt sông Trường Giang đuổi quân Tưởng Giới
Thạch khỏi lục địa, thu Trung Quốc về một mối, tác giả đã từ Hồng Kông qua lục
địa và chứng kiến cảnh nhân dân vui mừng chào đón một tương lai tốt đẹp như thế
nào. Sau đó tác giả hạ một câu, đại ý, nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc không tiếp
tục công cuộc "đấu tranh giai cấp" sau đó thì nước Trung Hoa đã không
khốn nạn như ngày nay.
Việt Nam chẳng khác gì Trung Quốc, hay nói cách khác là giống
nhau như hai giọt nước. "Đấu tranh giai cấp" đã tàn phá tất cả những
gì tốt đẹp mà nhân dân Việt Nam đã đổ xương máu để giành được cho đến ngày chiến
thắng Điện Biên Phủ.
Cải cách ruộng đất đã đưa những ông bà nông dân mắt toét răng
đen không biết chữ lên làm chánh án những "tòa án nhân dân", có quyền
phán quyết án tử hình và nạn nhân bị đem bắn ngay sau đó. Những thước phim tư
liệu do chính quyền quay mà tôi đã được xem, mỗi lần nhớ đến vẫn khiến tôi lạnh
xương sống. Tên địa chủ được lôi ra đấu tố, ra xét xử đi giữa hai du kích đi
chân đất và cầm súng chĩa vào mình.Và, tên địa chủ ấy cứ run cầm cập khi nhìn
thấy cái cọc tre đã được đóng sẵn để lát nữa trói mình vào đó để xử bắn! Chưa cần
xử, nạn nhân đã biết trước hình phạt dành cho mình. Xem những thước phim cho thấy,
chỉ sau vài loạt hô đả đảo của quần chúng đang điên rồ trong cơn phấn kích là
"phạm nhân" đã bị trói nghiến vào cái cột tre, rồi sau loạt súng nổ,
người ta bu lại để xem tên "phạm nhân" nghẹo cổ. Đạn xuyên thẳng vào
tim. Cả xã hội miền Bắc đã lên cơn nhập đồng cuồng điên trong cuộc đấu tố bắn
giết kéo dài đó. Thật khó có thể giải thích những người nông dân nghèo khổ, hiền
lành, nhẫn nhục, sống với nhau bao đời trong các làng quê được bao bọc bởi những
lũy tre xanh hiền hòa kia… bỗng có ngày họ bị Đảng Cộng sản cho uống thuốc kích
độc, kích ác, kích bạo, kích tham… những độc dược dán mác "đấu tranh giai
cấp" hay "Mác-Lenin"… để một chị con gái có thể nhẩy chồm lên chỉ
vào mặt bố đẻ của mình mà hét: Thằng kia, mày có biết tao là ai không? Và người
cha đẻ của chị khúm núm run rẩy thưa: Thưa bà, bà là con của con ạ!!!
Ở Đồ Sơn quê vợ tôi có câu chuyện thương tâm thế này. Một phú
nông trong làng, từng chứa chấp Việt Minh hoạt động. Một hôm, có 5-6 cán bộ
đang họp trong nhà thì có tin Tây đến vây bố. Chủ nhà nhanh trí hô tất cả trèo
lên mái nhà dỡ mái xuống (xem như đang sửa nhà). Thấy cảnh nhà cửa ngổn ngang,
mái nhà bị dỡ tung, chúng tin là nhà đang sửa nên có đông thợ đến làm liền rút
lui. Thế nhưng, thật trớ trêu ông chủ nhà sau này bị đấu tố trong cải cách ruộng
đất, bị bức cung ông phẫn uất quá cho gọi tất cả các con cái về nhà, dồn vào một
buồng rồi tưới xăng để tự thiêu. Chị con gái đã có chồng, có con, quỳ lạy cha
xin tha chết để còn sống nuôi con. Nghĩ thương cháu, người ông tha cho con gái
sau đó châm lửa thiêu cả nhà. Khi mọi người biết chuyện chạy đến thì những đứa
trẻ đã chết đen thui còn xác người vợ trương phồng lên như con bò! Cuộc cách mạng
cải cách ruộng đất (CCRĐ) "long trời lở đất" ở miền Bắc lúc đó đã xử
bắn hàng chục ngàn người, đa phần là những người có công với kháng chiến, những
phần tử ưu tú nhất ở nông thôn Việt Nam.
Nói về CCRĐ thì nhiều tác phẩm văn học như "Ba người
khác" của Tô Hoài; "Bến Không Chồng" của Dương Hướng; "Thời
của thánh thần" của Hoàng Minh Tường; hồi ký "Hồ ký một thằng
hèn" của nhạc sĩ Tô Hải đã miêu tả khá sinh động, chân thực. Nhưng những
truyện về "cải tạo tư sản" ở những thành phố miền Bắc lúc đó ít được
viết đến vì nhiều lý do. Là một người sinh ra và lớn lên ở thành thị (Hà Nội),
tuy lúc đó chỉ là đứa trẻ 15, 16 tuổi nhưng tôi đã chứng kiến tận mắt cái bi kịch
"cải tạo tư sản". Tuy nó không ghê rợn âm u như thời trung cổ, như
CCRĐ. Mặc dù diễn ra sau CCRĐ và rút được kinh nghiệm phần nào nhưng không thiếu
những cảnh cười ra nước mắt, kệch cỡm, lố bịch, đểu cáng… chưa từng có trong đời
sống của thị dân Việt Nam. Hai gia đình cả bên nội lẫn bên ngoại của tôi đều có
những ông chủ bị cải tạo nên tôi biết rất rõ. Giá tôi có được cái tài như nhà
văn Dương Hướng thì chắc chắn độc giả đã có được cuốn tiểu thuyết hay như
"Bến Không Chồng" về cảnh sắc ở thị thành thời cải tạo tư sản. Tôi đã
đọc "Bến Không Chồng" nhiều lần và vô cùng khâm phục tài năng cũng
như vốn sống của tác giả về xã hội nông thôn miền Bắc. Nước Pháp đã dịch tiểu
thuyết của ông sang tiếng Pháp. Người ta đã chọn một người Pháp giỏi tiếng Việt
và một người Việt giỏi tiếng Pháp để cộng tác dịch tác phẩm này. Vì không có
tài viết tiểu thuyết, tôn xin kể ra đây các sự việc về cái gọi là cải tạo tư sản
thời đó, hy vọng để lại ít nhiều tư liệu cho đời sau
Ông anh ruột của mẹ tôi mà tôi vẫn quen gọi là bác Hai Súy
(người thứ hai trong dòng họ) tên thật là Nguyễn Vĩnh Phương. Ông làm nghề thầu
khoán. Tôi không rõ ông học đến trình độ gì nhưng tôi thấy ông vẽ được các bản
vẽ cho các công trình xây dựng, nay gọi là bản thiết kế. Tôi chắc là ông có tay
nghề cao, nên sau này người ta xây dựng sân bóng đá lớn ở Hà Nội là sân Hàng Đẫy,
và sửa chữa nhà hát lớn Hà Nội ông cũng được mời tham dự. Có nghề thiết kế
trong tay, ông lại nhận thầu khoán các công trình nên là người có của. Ngoài
căn nhà ở số 77 phố Hàng Buồm, nơi ông đặt văn phòng làm việc, ông còn có 2,3
căn nhà khác nữa. Trong đó tôi nghe nói, có đến 9,10 phòng sang trọng, mỗi
phòng một kiểu đá hoa (trong Nam kêu là đá bông). Khi cải tạo tư sản, những nhà
này ông đã "tự nguyện" làm đơn hiến cho nhà nước quản lý vì theo quy
định về tiêu chuẩn sử dụng nhà ở lúc bấy giờ, mỗi gia đình chỉ được sử dụng tối
đa 120 mét vuông. Bà vợ ông mà tôi thường gọi là bà Hai Súy là một phụ nữ hiếm
có. Bà buôn bán rất đảm đang và là một người nhân hậu được cả cộng đồng buôn
bán ở Hà Nội lúc đó tôn vinh, ca ngợi. Bà bác của tôi kinh doanh vvề mật hàng
bánh kẹo, đặc biệt là bánh trung thu. Hãng bánh trung thu Vĩnh Phương của bà nổi
tiếng ở Hà Nội một thời. Từ đầu năm bà đã thu mua các nguyên liệu, tích trữ các
mặt hàng cần thiết cho việc sản xuất một lượng bánh kẹo lớn để bán vào dịp
trung thu. Từ rằng tháng bảy ta, căn nhà 77 Hàng Buồm dài hun hút nối với một
căn nhà khác ăn ra mặt tiền phố Hàng Giấy thực sự trở thành một xưởng bánh kẹo
có hàng chục công nhân làm việc ngày đêm. Thời đó chưa có dây chuyền sản xuất
bánh trung thu theo kiểu công nghiệp như ngày nay. Tất cả phải đóng vào khuôn gỗ,
vì thế tiếng gõ từ khuôn gỗ xuống mặt bàn để gỡ bánh nướng bánh dẻo ra khỏi
khuôn của mấy chục tay thợ vang dậy cả khu nhà. Sau dịp bánh trung thu, bác tôi
lại tích trữ nguyên liệu để sản xuất mứt kẹo cho tết nguyên đán. Để làm mứt sen
ngày tết, bác tôi phải tích trữ hàng tấn sen hạt phơi khô chất trong kho. Các hạt
sen này khô cứng như đá. Đến khi làm mứt phải cho vào chảo lớn ninh. Nước đầu
phải đổ đi vì nhiều tạp chất. Nhưng từ nước thứ hai trở đi thì mùi thơm của sen
bốc lên ngào ngạt. Những chảo nước sen sánh đặc này vẫn phải đổ đi, rất tiếc.
Nhiều người đến xin nước sen đặc này về uống. Nhưng ai uống nhiều thì ngủ li bì
như chết. Tôi đã có lần uống liền hai cốc nước sen pha đường, ngon ngọt vô cùng
nhưng sau đó thì nhủ đến không mở mắt ra được. Phải ninh đến nước thứ ba thì
sen mới nở bung ra, làm mứt mới ngon.
Một năm bác tôi chỉ tập trung vào hai dịp tết đó để sản xuất
bánh kẹo nhưng công việc chuẩn bị, tích trữ nguyên liệu thì phải làm quanh năm.
Có thời gian bác tôi còn đi cả Hồng Kông để nhập đồ sứ cao cấp về Hà Nội bán.
Bác tôi còn mưa cả cây đàn piano loại đắt tiền từ Hồng Kông về cho các con. Cây
đàn ấy hiện vẫn còn giữ được ở căn nhà phố Hàng Buồm. Bác tôi, một người phụ nữ
đảm đang, tài giỏi như thế nhưng dưới chế độ cộng sản thì họ gọi là "con
buôn". Và, cái xưởng bánh kẹo của bà là đối tượng của cái gọi là
"công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh". Xưởng phải
vào hợp tác xã và chỉ sau thời gian rất ngắn là tan rã. Thợ thuyền đều thất
nghiệp để "mặt nám mắt đen nhìn ngơ ngác" như nhà văn Nguyễn Khải đã
miêu tả về giai đoạn này!
Trước khi tiến hành cải tạo công thương nghiệp… một số nhà tư
sản ở miền Bắc lúc đó được lùa vào cái gọi là "hội công thương", một
số đại biểu của hội này được đi tham quan học tập ở Thượng Hải bên Trung Quốc về
cải tạo XHCN với tư sản. Một trong những người được đi Thượng Hải dịp này mà
tôi được biết là ông Quỳnh Phong, một nhà tư sản đi kháng chiến có quen biết với
gia đỉnh tôi khi ở Phú Thọ. Ổng đã mở cả xưởng làm ngòi bút, làm khuy áo bằng vỏ
trai, vỏ hến… để kháng chiến "toàn quốc", "toàn diện" như
khẩu hiệu của cụ Hồ lúc đó. Cơ sở sản xuất của ông sau này ở Hà Nội cũng bị cướp
sạch (!)
Điều tôi muốn nói nhất ở đây về cải tạo tư sản là nó đồng thời
phá hoại kinh tế, vật chất của xã hội. Nguy hại hơn là nó còn phá vỡ cả khối
đoàn kết dân tộc. Người ta đã gieo rắc vào xã hội, vào đầu óc người dân sự thù
ghét người giàu. Họ xem sự giàu có là một tội ác, do đó tìm mọi cách moi móc vu
khống cho những người giàu có. Nhìn những người giàu là chỉ do bóc lột mà có.
Những gì mà tôi biết được về sự "cải tạo" nhà ông bác tôi ở Hàng Buồm
thật chua chát, khôi hài. Người ta đã "bồi dưỡng tư tưởng" cho những
công nhân làm thuê cho bác tôi để họ "tố khổ" ông bà chủ. Nhưng có
câu chuyện nực cười thế này, trước cửa nhà bác tôi cho vợ chồng ông ba Tàu đứng
nhờ để bán mì hoành thánh sinh nhai đã nhiều năm. Khi được đội cải tạo "bồi
dưỡng" để bắt ông phải tố ông bà chủ nhà đã "bóc lột" vợ chồng
ông như thế nào… cũng may cho bác tôi là vợ chồng người Tàu này rất thật thà và
có nhân cách. Ông ta thưa với đội cải tạo là ông bà Vĩnh Phương (tức bác tôi)
cho đứng bán quanh năm mà không lấy một đồng xu nào. Thậm chí, tết đem đôi gà sống
thiến đến biếu thì ông bà Vĩnh Phương bảo phải đem về, nếu cứ để đôi gà lại thì
năm sau không cho đứng nhờ bán hàng nữa! Thế là đội nghe vậy đành chịu. Còn nữa,
trong gia đình bác tôi có một người con nuôi tên là M. Câu chuyện của anh rất
bi thảm. Nạn đói năm 1945 ấy, mẹ anh đã chết từ lâu nhưng đứa con (chính là anh
M này) vẫn bò lên xác mẹ để bú, nhìn thấy thương tình quá, bác tôi bế vào nhà
kho cho uống sữa và nuôi M từ đó. Sau này đội cũng "bồi dưỡng" M và yêu
cầu anh tố khổ cha mẹ nuôi nhưng anh nhất mực ca ngợi cha mẹ nuôi của mình. Thấy
vậy đội không chịu và quyết truy hỏi với những gợi ý: Vì sao những người con đẻ
thì được ăn học tử tế, còn anh thì phá ngang không theo học đến đầu đến đũa?
Anh M đã trả lời dứt khoát do tôi tối dạ, học không vào nên xin với bố mẹ cho
nghỉ học để đi học việc chứ không phải các cụ bắt tôi phải nghỉ học. Anh còn
tuyên bố: Bố mẹ nuôi tôi đã cứu tôi từ cõi chết trở về, cho tôi được làm người,
tôi không thể nào phản bội được. Nếu không có bố mẹ nuôi tôi cưu mang thì tôi
đã chết từ lúc vừa biết bò! Thế là một lần nữa đội đành bó tay! Còn rất nhiều
chuyện khôi hài pha nước mắt mà nếu kể ra thì nó phải dầy như cuốn tiểu thuyết
nhiều tập mà sức và tài của tôi thì xin chỉ dừng lại ở đây.
Có lẽ cũng do dân trí ở thành thị cao hơn ở nông thôn nên những
cuộc đấu tố tư sản không đến nỗi bất nhân, xảo trá, vu khống trắng trợn như ở
nông thôn trong CCRĐ. Anh M mà tôi kể, sau này được kết nạp Đảng và làm tới chức
giám đốc một nông trường cao su ở Nam Bộ sau 1975. Anh thật xứng đáng là một đảng
viên và trường hợp kết nạp này thì Đảng thật là sáng suốt.
Bên họ nội của tôi cũng có một ông bác họ ở Hải Phòng bị cải
tạo, đó là ông Lê Đức Ngữ. Bác Ngữ của tôi có một hiệu chụp ảnh khá nổi tiếng ở
thành phố cảng ở đường Hoàng Văn Thụ, mặt đường phố lớn. Tiệm chụp ảnh của ông
chỉ thuê vài thợ giúp việc và cũng bị cải tạo. Nhà ông họ chiếm làm một cửa
hàng cho Sở văn hóa-thông tin. Căn nhà mặt tiền rộng 6 thước này bị ngăn ra 2
mét là đường đi vô lối sau cho chủ nhà còn 4 mét mặt tiền xây thành cửa hàng
thuộc nhà nước quản lý. Cho đến bây giờ, tôi ra Bắc đến thăm người anh họ vẫn
thấy ông phải ở trên lầu còn căn nhà bên dưới vẫn bị chiếm. Nhiều người góp ý với
anh nên đòi lại phần nhà bị chiếm dụng vô lý vì cũng đã có nhiều trường hợp
tương tự đã được trả nhà cho chủ nhân nhưng anh tôi rất ngại phải tốn tiền chạy
chọt (thì mới được việc) nên đến bây giờ ông vẫn phải ở trên gác, ra vào qua
cái ngõ tối om… Nhưng, điều đáng nói hơn là thế hệ con cháu những người bị cải
tạo, bị quy là tư sản là tiểu chủ thì luôn kè kè bên mình cái lý lịch xấu và vì
thế cứ khổ sở suốt đời. Người con trai cả của bác tôi, vì nhà có xe hơi nên biết
lái xa. Đến khi bị cải tạo, anh được nhận vô lái xe tuyến Hải Phòng-Đồ Sơn. Cho
đến bây giờ, cháu nội của ông cũng được "ưu tiên" nhận vào lái xe cho
xí nghiệp. Vậy là nhà ông ba đời lái xe cho dù con cháu sau này có học hành giỏi
giang đến đâu cũng không thể vô các trường trung cấp, đại học của chế độ chỉ vì
cái lý lịch tư sản đó!
Đó là truyện của các ông bà buôn bán lớn, được gọi là tiểu chủ,
tư sản thời đó. Còn đối với người buôn bán nhỏ, được gọi là tầng lớp tiểu
thương như mẹ tôi cũng bị bạc đãi không kém. Trước 1945 mẹ tôi có một cửa hàng
bán thực phẩm khô, lúc đó quen gọi theo tiếng Pháp là magasin d'alimentation
như đường sữa, phô mai, bơ, bánh kẹo, rượu, hồ tiêu, gạo tám thơm… Bọn tây đầm ở
khu Đồn Thủy bờ sông thường qua lại mua hàng của mẹ tôi. Mẹ tôi không biết nói
tiếng Tây, nên ông bố tôi ngồi sau màn gió phiên dịch cho bà. Ông bố tôi nói tiếng
Tây giọng Việt nên bọn tây đầm kháo nhau là con mẹ Việt Nam này có chồng là tây
đảo Corse nên kéo nhau đến mua rất đông. Nhưng chủ yếu là mẹ tôi cân đúng và
cân đủ. Sau này, những lúc nhàn rỗi, mẹ tôi thường kể rằng các me đầm khi mua
hàng về nhà nó đều cân lại. Vì thế khi cân 1kg đường, cân chỉ đúng lượng rồi
nhưng mẹ tôi vẫn cho thêm một thìa nữa nên khi về nhà, con đầm cân lại nó thấy
tươi nên kéo nhau đến mua ngày càng đông. Vì thế cửa hiệu của mẹ tôi ở số 3B
Hàm Long nhỏ nên có lúc tây đầm đến mua đông quá phải xếp hàng. Trong khi đó, cửa
hiệu của tay người Hoa ở số 1 ngay đầu phố, kế sát nhà tôi lại vắng khách. Người
chủ Hoa kiều nghi là mẹ tôi bán phá giá, cho người đi rình, nhưng không phát hiện
ra điều gì. Khi Nhật vào Đông Dương, bọn tây rã đám, hoảng hốt, chúng đem cả lựu
đạn và súng đến bán cho mẹ tôi. Theo yêu cầu của chú tôi, tức tướng Lê Hữu Qua
sau này, lúc đó hoạt động bí mật, mẹ tôi cũng mua tất. Những thứ đó được giấu kỹ,
rồi các ông Việt Minh đếm đem theo những ống tre to, bửa đôi ra, dấu lựu đạn và
súng lục vào đó rồi buộc giả lại làm củi, chở đi từ cửa sau nhà tôi ra phố Lê
Văn Hưu. Kế sát nhà tôi là nhà số 5, tiếp đó là 5A, 5B… và nhà số 5D chính là
nhà lưu niệm của Đảng cộng sản bây giờ. Sở dĩ căn nhà cố 5D phố Hàm Long này được
chọn làm nơi họp kính của chi bộ ĐCS vì nó có cửa sau ăn thông với ngõ Lê Văn
Hưu, nơi tập trung nhiều dân lao động nghèo. Nếu có động, họ sẽ rút lui phía
sau chạy trà trộn vào khu lao động này.
Bọn tây khi đến mua hàng của mẹ tôi chúng đều nói tiếng Pháp.
Nhưng khi Nhật qua, chúng hoảng hốt nên nhiều khi xổ ra tiếng Việt. Có lần nó
chỉ tay lên giá hàng bảo mẹ tôi bán cho cái lọ kia. Mê tôi cầm nhầm một cái
chai cạnh đó. Nó hét lên: cái lọ bé hơn chái chai, mày hiểu chưa! Thì ra những
thằng thực dân này, khi sang Việt Nam làm công việc cai trị chúng đều học tiếng
Việt rất bài bản. Nhưng tuyệt đối không nói, chỉ nghe mà thôi. Khi vội vàng nó
mới xổ ra tiếng Việt. Mẹ tôi còn cho biết trước khi mãn hạn về Pháp, tây đầm
thường đến cửa hàng của bà mua một vài kg gạo tám thơm và ít hồ tiêu về nước.
Khi xảy ra toàn quốc kháng chiến, mẹ tôi đã bỏ cả gian hàng đầy
ắp hàng hóa đó để đi theo ông nội, bà nội tôi tản cư lên Chí Chủ, Phú Thọ kháng
chiến. Đến 1950, vì mang bầu đứa em gái tôi nên mẹ tôi mới hồi cư về Hà Nội tiếp
tục buôn bán. Khi cải tạo tư sản sau 1954, mẹ tôi đang làm chủ cái cửa hàng nhỏ
buôn bán tại gia, thì chú tôi bảo: Chế độ mới của ta không có buôn bán, nên chị
chuyển hướng làm ăn đi. Thế là phải bán căn nhà phố Hàm Long. Đầu năm 1958 cả
gia đình tôi dọn về làng Hoàng Mai, thuộc huyện Thanh Trì. Căn nhà mới mua này
có gần 2000 mét vuông đất, có ao hồ để trồng rau, nuôi cá. Từ một người buôn
bán, mẹ tôi trở thành người nông dân bất đắc dĩ.
Quen buôn bán ở thành phố, khi về nông thôn sống mẹ tôi đã phải
lao động rất vất vả khi tuổi đã lớn. Thời kỳ đó buôn bán bị triệt tiêu trên khắp
miền Bắc từ thành thị đến nông thôn. Bây giờ ngồi nghĩ lại mới thấy chế độ cộng
sản thật điên rồ. Một quái thai của loài người. Thứ chế độ đưa xã hội đã phát
triển có sự phân công lao động, có buôn bán giao thông văn minh trở về thời kỳ
ăn lông ở lỗ… Tôi có bà thím, vợ người chú thứ ba, quê ở Chí Chủ, Phú Thọ nơi đại
gia đình tôi đi tản cư kháng chiến như đã kể trên đây. Bà là người đảm đang,
thuộc nhiều ca dao tục ngữ, có khí phách kiên cường. Bà giỏi buôn bán hai mặt
hàng là chè và sơn. Phú Thọ là đất “rừng cọ đồi chè” và rừng sơn, một loại cây
cho nhựa để làm sơn như cây cao su. Trong kháng chiến bà vẫn ngược xuôi buôn
bán nuôi cả gia đình đông con để ông chú tôi đi kháng chiến. Hòa bình lập lại
1954, bà theo chồng về Hà Nội. Bà tự tay thuê mướn, chặt đốn và đóng cả một bè
tre nứa, gỗ, rồi cưỡi bè xuôi sông Hồng về đến bãi Phúc Xá Hà Nội là quê chồng
để dựng nhà. Nếu được tiếp tục tự do buôn bán sau khi đất nước có hòa bình thì
người phụ nữ có chí, có gan như bà giàu có biết chừng nào. Nhưng cộng sản đã
triệt hạ buôn bán, chồng bà lại là cán bộ cao cấp ngành công an nên bà đành phải
ở nhà túc thủ. Chú tôi xin cho vợ vào làm tạp vụ trong cơ quan Bộ Công An. Được
ít bữa bà thấy phát ngán cái thứ cán bộ, công nhân viên hàng ngày thì lãn công
nhưng đến cuối năm thì lại tranh nhau “lao động tiên tiến”. Bà bỏ cơ quan, về
nhà bên bãi Phúc Xá trồng cây, nuôi lợn. Hàng ngày bà phải đi qua cầu Long Biên
gánh nước gạo về nuôi lợn. Đi về hàng chục cây số rất nặng nhọc. Thấy vợ một
ông cán bộ cao cấp mà phải lao động quá vất vả như thế (vì làm tự do không được
cấp sổ mua gạo) ai cũng ái ngại cho bà. Nhưng bà tuyên bố: “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”! Đó là cụm từ lần đầu tiên tôi nghe được trên cõi đời này từ mồm
bà thím đáng kính của tôi từ ngày mới giải phóng thủ đô. Sau này đài báo ca tụng
ầm ĩ khi nó được cụ Hồ nói vào những năm chống Mỹ sau này. Bà thím tôi thường
than với các con: Vì bố anh là cán bộ nên tôi mới phải bó tay thế này… Bà thường
phê phán, nhà nước có phải là con bò sữa đâu mà ai cũng xúm vào vắt. Bà đã nhìn
thấy sự phá sản của kinh tế bao cấp. Người em dâu của bà là công nhân nhà máy
giấy có từ trong kháng chiến ở Ao Châu, Phú Thọ, có chồng là sỹ quan quân đội sắm
cho chiếc đài bán dẫn Nhật Bản. Thời ấy làm công nhân mà đã có chiếc đài bán dẫn
là giá trị lắm, là sang lắm. Về quê chơi, bà thấy cô em dâu ở tập thể nên mắng
cho một chập. Bà khuyên bán cái đài đi mà mua đất làm nhà riêng mà ở, không ai
có thể ở tập thể cả đời! Cách đây chừng 2 năm tôi có về Phú Thọ chơi, lên thăm
bà Giang (tên bà em dâu của thím tôi), thấy nhà bà xây cất trên một quả đồi rất
nên thơ. Bà Giang nói với vợ chồng tôi: Nhờ bà Ba (thím tôi) nhìn xa trông rộng,
bảo bán cái đài bán dẫn ngày ấy đi nên tôi mới mua được quả đồi này, làm được
cái nhà này, ăn nên làm ra… Nếu không thì bây giờ vẫn chui rúc trong một gian
nhà tập thể. Tôi đi vòng ra sau nhà, thấy vườn rau, dàn mướp, vườn xoan, đàn gà
ríu rít… mà thầm khen thím Ba của tôi đúng là "nhìn xa trông rộng".
Chưa hết, bà Ba còn có đứa cháu ruột gọi bằng cô, là cán bộ của Bộ Giáo Dục.
Năm đó, ông được mua phân phối một chiếc xe đạp Phượng Hoàng của Trung Quốc. Ở
miền Bắc trước 1975 mà ai được mua phân phối xe đạp là may mắn như trúng số độc
đắc. Bà Ba bảo ông cháu: Nhà anh một lũ con gái, anh không có một tấc đất thì
sau này chó nó lấy con anh à. Bà bắt ông cháu phải bán xe đạp đi để mua đất. Hồi
ấy, đất rẻ như bèo, xin không có nơi người ta cũng cho vì ai cũng nghĩ sau này
lên CNXH thì ai ai cũng ở nhà nhà nước cấp dại gì mà mua đất làm nhà. Nhưng người
cháu vẫn nghe cô mình khuyên. Bán chiếc xe đạp đi, ông cháu mua được cả khu đất
rộng bên Gia Lâm. Bây giờ, thời kinh tế thị trường, đất đắt như vàng. Các con
ông đều có chồng và được chia mỗi đứa một mảnh để làm nhà. Ông nói với mọi người
là nhớ ơn bà Ba muôn đời! Ngày trước, mỗi lần thím Ba tôi về quê, thấy đất cát
bỏ không nhưng nếu ai khai khẩn thì bị kết tội là tư hữu, bị cấm đoán có khi
còn mang họa vào thân. Thấy cảnh quê hương Phú Thọ của mình như thế, bà tuyên bố:
Cái nước này rồi sẽ lụi bại! Mà lụi bại thật. Giả sử, nếu Liên Xô không sụp đổ,
Việt Nam không đổi mới thì bây giờ chúng ta sẽ như Bắc Triều Tiên, chết đói như
rạ. Khi bà thím tôi tuyên bố như thế, nhiều người thời đó không đồng tình. Bây
giờ ngồi nghĩ lại, tôi thật khâm phục một người nông dân ít học như thím tôi,
nhưng do độc lập suy nghĩ, không cần kẻ khác "bao cấp" tư tưởng cho
mình nên bà sáng suốt và nhìn xa trông rộng hơn cái Đảng Cộng sản mà ông chồng
bà cả đời trung thành phục vụ. Nói cho thật công bằng, thời đó các vị
"Nhân Văn Giai Phẩm" cũng đã nhìn thấy, nhưng chỉ vì họ là nhà văn,
là họa sỹ… họ công bố tư tưởng của mình, công bố tác phẩm của mình… nên mang họa
vào thân. Bà thím tôi chỉ xuất bản tư tưởng của mình bằng lời nói nên không
sao. Thật may cho bà.
Tôi muốn mở ngoặc ở đây, kể về một bức biếm họa mà tôi xem được
ở một tờ báo của nhóm "nhân văn" thời đó. Bức tranh vẽ một người ngồi
ở vỉa hè, anh ta đang lấy cái rìu đẽo chân của mình… máu me chảy ra lênh láng.
Thấy vậy có người hỏi: Sao lại đẽo chân đi thế? Anh ta liền chỉ vào đôi giày để
bên cạnh và nói: Chân tôi phải đi giày số 41 mà mậu dịch chỉ bán giày đồng loạt
số 39… nên tôi phải đẽo chân nhỏ đi cho vừa giày!
Người dân đã nhìn ra sự phá sản của kinh tế quốc doanh từ hồi
đó, vậy mà đến bây giờ, khi tôi viết những dòng chữ này thì nghị quyết mới nhất
của Đảng vẫn tiếp tục khẳng định "kinh tế quốc doanh là chủ đạo". Vì
thế mới có những Vinashine, Vinaline… Cái đại họa này không biết sẽ còn kéo dài
đến bao giờ???
Cuộc CCRĐ, cải tạo tư sản ở miền Bắc đã triệt tiêu những người
lao động có năng lực nhất ở cả nông thân lẫn thành thị. Những người có tay nghề
cao, có kinh nghiệm quản lý, biết tổ chức sản xuất và kinh doanh. Gia sản của họ
bị trưng thu, trưng mua, tịch thu kiểu ăn cướp còn bản thân họ thì bị bắn chết
trong CCRĐ, bị bạc đãi ở thành thị. Xã hội ngày ấy bị kéo lùi lại thời trung cổ!
Có nhà thơ của nhóm Nhân văn đã khái quát:
“ Tôi đi không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ”
Vậy mà sau chiến thắng 1975, miền Nam lại bị cải tạo tư sản.
Một ông chủ xe đò (xe chở khách) ở Mỹ Tho nói với tôi: Khi các ông Việt cộng đến
nhà tịch thu mấy cái xe đò của tôi để đưa vô công tư hợp doanh… thì tôi đã biết
là các ông ấy sẽ thất bại rồi. Tôi hỏi ông chủ nọ: Vì sao bác biết trước là sẽ
thất bại? Ông trả lời: Họ chỉ lấy đi cái xe, còn phụ tùng, đồ sửa xe tôi để dưới
gầm giường thì không ai lấy đi cả. Tôi biết ngay là những ông này chưa bao giờ
sử dụng xe ô tô cả. Y như rằng, sau này xe nát, kinh doanh thua lỗ, phá sản…
Sau ngày đổi mới, xe lại về tay tôi. Tôi lại là chủ xe như bây giờ…
Những người cầm súng giành chiến thắng trong đấu tranh bạo lực
sau đó được làm chủ, được chỉ huy nhưng không có nghề ngỗng gì thì làm nát bét
kinh tế đất nước như đã thấy. Muốn thành một ông chủ thì ít nhất phải trải qua
kinh nghiệm, có mấy đời cha ông làm nghề đó chưa kể phải tích lũy tiền bạc,
kinh nghiệm quản lý, trau dồi tay nghề… rồi truyền lại cho con cháu. Thế mà,
đùng một cái cải tạo, gia sản giao cho mấy anh chân đất mắt toét vừa ở rừng ra
quản lý và chỉ huy thì sự thể ra là như thế. Bi kịch của cuộc cách mạng vô sản,
cách mạng công nông là như thế.
Tôi nhớ ngày giải phóng miền Nam, sau này ông Võ Văn Kiệt đề
nghị gọi là ngày "thống nhất đất nước". Nhiều chuyện khôi hài xảy ra ở
những đầu tiếp quản. Có anh bộ đội miền Bắc, chưa một lần được được biết thành
phố, anh ta theo đoàn quân chiến thắng vào thẳng Sài Gòn. Vô nhà vệ sinh anh
nhìn thấy cái bồn cầu bằng sứ trắng lốp, lại có nước ở bên dưới bèn ra chợ mua
cá lóc thả vào. Một lát không thấy cá đâu, anh kêu ầm lên là có ai lấy cắp cá của
anh… anh không hề biết đó là cái hố xí vì xưa nay anh sống ở nông thôn miền Bắc,
chưa thấy nó bao giờ. Một anh nông dân "chất phác" như thế mà giao
cho làm cán bộ chỉ huy ở thành phố sau này thì bi kịch sẽ tiếp nối hài kịch là
đương nhiên!
Chương 3
Hai lần thi trượt nhưng số phận vẫn mỉm cười với tôi
Câu chuyện hai lần thi trượt của tôi không biết gọi nó là
chuyện bi hay hài. Nhưng chắc chắn nó là một thứ tư liệu, một chuyện có thật về
chế độ thi cử hay nói khác đi là cả nền giáo dục ấu trĩ, xem nặng tính giai cấp
của chế độ cộng sản ở miền Bắc. Di hại của nó không biết đến bao giờ mới hết.
Đương nhiên là nó còn kéo dài cho đến tận hôm nay khi chế độ cộng sản vẫn ngự
trị trên đất nước đau khổ này. Nhưng tôi muốn để ít phút nói về những năm tháng
êm đềm của tuổi trẻ trong những năm sống ở cái làng Hoàng Mai thơ mộng ngày đó,
trước khi kể chuyện thi trượt.
Theo lời khuyên của chú Hai tôi, tức tướng Lê Hữu Qua sau
này, ông nội tôi phải bán ngôi nhà ở phố Hàm Long nơi gia đình tôi đang ở, để về
mua một căn nhà có vườn ở làng Hoàng Mai, thuộc xã Hoàng Văn Thụ, huyện Thanh
Trì phía nam Hà Nội. Làng Hoàng Mai tiếp giáp với nội thành chỉ cách chợ Mơ đường
chim bay hơn 1km. Ông bà nội tôi ở bãi Phúc Xá giữa sông Hồng cũng dọn về ở với
gia đình tôi. Có lẽ thời gian này là những năm tháng tuổi trẻ êm đềm trong cuộc
đời của tôi. Khi về Hoàng Mai ở là đầu năm 1958, lúc đó tôi bắt đầu lên cấp 3.
Làng Hoàng Mai là một làng giàu có, 100% là nhà ngói nhà nào cũng có vườn rộng,
cây cao bóng cả, nhiều nhà có ao. Xen kẽ những ngôi nhà sang trọng đó là những
ruộng bắp cải, su hào, súp lơ, cà chau… cung cấp rau tươi cho nội thành. Làng
có đến 8 cái giếng xây, mỗi giếng có đường kính gần chục mét. Giếng thả bèo tổ
ong nên nước trong veo. Những con đường lát gạch quanh co, hai bên là vườn rau
xanh ngắt, là ao hồ mênh mông tạo nên phong cảnh rất nên thơ. Có một số dân
làng là những nhà giàu ở Hà Nội, làm công chức, chủ nhật cuối tuần mới về làng
nghỉ ngơi nên có nhà vắng hoe cửa đóng then cài, không gian u tịch. Làng có hai
thôn, thông Đông và thôn Đoài. Người ta kể rằng xưa kia Nguyễn Bính viết:
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người"
Là viết ở làng Hoàng Mai này. Trong làng có ngôi chùa nổi tiếng
khắp Hà Nội thời đó là chùa Hưng Ký do một nhà giàu xây nên. Về kiến trúc, hầu
hết các nhà trong làng đều là nhà gỗ lợp ngói ta và nhà nào cũng khá to. Thậm
chí có nhà còn to hơn cả cái đình ở làng quê nghèo khác. Nhà tôi mua lại là của
một nhà tư sản nổi tiếng là ông Nguyễn Tiến Tòng. Ông này trong đợt cải tạo tư
sản có chân trong Hội công thương gia Hà Nội, một thứ trò bịp bợm của chính quyền
cộng sản. Ông Tòng sống ở Hà Nội, căn nhà của ông ở Hoàng Mai để hoang, cho một
ông thợ dệt ở nhờ trông nhà. Ngôi nhà thuộc loại hoành tráng nhất nhì trong
làng, rộng gần 2000 m2. Trước nhà có ao rộng. Nhà gỗ. Cột kèo trạm trổ như đình
chùa. Nóc phía trong nhà có dòng chữ nho, ông nội tôi đọc là: "Bảo Đại thất
niên" rồi giải thích nhà được hoàn thành vào lúc vua Bảo Đại ở ngôi được 7
năm. Ấn tượng nhất của khách đến chơi nhà là bộ cột nhà bằng gỗ xoan rừng, sáng
trắng. Trong khi các nhà khác thường được làm bằng gỗ lim màu đen nên thường tối.
Cho đến bây giờ, gần 50 năm sau, kì tôi ra Hà Nội họp mặt kỷ niệm 45 năm ngày
ra trường, bạn bè cùng lớp còn nhắc đến kỷ niệm ngày xưa. Thời đó, vào các chủ
nhật nhà tôi thường có các bạn sinh viên nhà ở các tỉnh về thủ đô học không có
gia đình họ hàng nên thường nhảy tàu điện từ Cầu Giấy xuống Bờ Hồ rồi từ đây đi
chợ Mơ xuống nhà tôi chơi. Cả lũ tắm lội trong ao rồi mò cua, mò ốc, hái rau
trong vườn nấu mì ăn xì xụp. Những năm tháng vô tư! Tôi có xe đạp nên tuần nào
cũng về nhà, lúc đi học bao giờ cũng có đồ ăn mang theo, lúc thì lọ muối vừng
(miền Nam kêu là muối mè), lúc thì lọ bột ngọt (miền Bắc gọi là mì chính). Nhà
có ao rộng nên tôi câu cá rất giỏi. Biết con cá gì ăn mồi gì. Nhìn phao nhấp
nháy biết con cá gì đang cắn câu. Nhìn thời tiết biết hôm nay sẽ câu được cá
gì. Tôi có đủ "vốn sống" để viết một phóng sự trường thiên về nghệ
thuật câu cá. Chỉ xin kể bắt hai loại cá tự nhiên, không phải nuôi thả là cá rô
và cá quả (miền Nam gọi là cá lóc)… rất ấn tượng. Khi mùa xuân chấm dứt, hoa gạo
đỏ chói báo hiệu mùa hè đã tới. Trận mưa rào đầu hạ là lúc những con cá rô dưới
ao đua nhau rạch ngược lên bờ. Mưa càng to thì cá rô rạch ngược càng nhiều. Những
lúc đó tôi chỉ việc cầm cái rổ thật to chạy xung quanh bờ ao mà nhặt cá rô. Vì
cá rô có vây nhọn sắc như dao nên tôi phải chuẩn bị sẵn một cái tất tay bảo hộ
lao động khá dầy để vồ cá. Một cơn mưa đầu mùa như thế tôi có thể bắt được cả rổ
cá rô to, chứa vào thùng nước để ăn dần cả tuần lễ. Món canh cải cá rô mẹ tôi nấu
thì tuyệt vời. Những con cá rô béo vàng được bà đánh vẩy, mổ bụng, rửa sạch rồi
cho vào nồi luộc chính vớt ra. Sau khi gỡ lấy thịt, bộ xương và đầu cá không bỏ
đi mà dùng chảy giã đập ra sau đó chắt lấy nước ngọt vài ba lần rồi đun sôi mới
cho rau cải vào. Nồi canh cá ngon ngọt chính là nhờ nước chắt ra từ bát xương
này. Giống cá rô, xương của nó rất thơm và ngọt. Khi bỏ rau cải thái nhỏ vào nồi
là bắc ra ngay. Rau vẫn xanh và không bị nhừ. Thêm một vài lát gừng thì mùi
thơm bốc lên ngào ngạt. Chỉ cần chục con cá rô là mẹ tôi có nồi canh cải ngon
cho cả nhà. Đến cuối mùa thu, chớm đông, trời tối sớm các ao trong làng bắt đầu
cạn, sương giăng mờ mặt ao vào chập tối là lúc những con cá quả đớp mồi tùm tụp
dưới ao. Ở ngoài Bắc, nhà nào có ao trong vườn thì cảm nhận về thời tiết, thiên
nhiên rất rõ rệt. Cụ Yên Đỗ Nguyễn Khuyến ngày xưa để lại những bài Thu điếu,
Thu vịnh bất hủ đầu lấy cảm xúc từ cái ao nên thơ ông có hình cái ao trong đó.
Các bạn trong làng đã dạy tôi các bắt cá quả vô cùng thú vị và hiệu nghiệm. Thời
gian phải là độ cuối thu, khi nước rút xuống, con cá quả đã đủ lớn sau cả mùa
hè và mùa thu. Giống cá quả chỉ đớp mồi sống, đó là những con cá đòng đong, con
săn sắt, con ếch, con nhái… Tôi chuẩn bị sẵn cho mùa bắt cá quả chừng 10 cái cần
câu cắm. Mỗi cái dài chừng 40cm. Đầu cần câu phải mềm (làm từ cật tre). Trên đầu
cầu buộc một sợi dây cước bằng nylon dài hai gang tay. Lưỡi câu buộc cuối sợi
cước. Móc con mồi vào lưỡi câu. Cách móc con cá làm mồi là cả một nghệ thuật.
Phải móc vào phần thịt ở lưng con cá để nó có thể bơi trong nước mà không chết.
Sau khi móc mồi rồi thì cắm cần vào bờ ao, nghiên 45 độ. Phải điều chỉnh cái cần
để con mồi chìm khỏi mặt nước nhưng không chìm sâu. Com mồi bơi thành một vòng
làm mặt nước rung động. Con cá quả chỉ ăn mồi sống nên khi nó thấy nước động sẽ
lao lên đớp mồi! Có lần tôi vừa cắm cần xong, chưa kịp vô nhà lên giường ngủ
thì đã thấy con cá quả bị mắc câu quẫy nước đùng đùng… Có khi nửa đêm khi cá cá
quẫy là tôi ra ao bắt cá. Bắt cá quả có hai cái lợi. Một là có cá ăn, hai là diệt
được loài cá dữ trong ao vì nó ăn cá giống do chủ ao thả để nuôi như trôi,
chép, trắm cỏ…
Ngôi nhà vốn thuộc chủ trước là nhà tư sản rất giàu nên có lần
tổng đốc Vi Văn Định có về đây chơi. Chuyến đi của ông có lính gác theo hầu. Đến
thời gia đình tôi về ở, cũng có các quan lớn đến nhà. Đó là ngày bà nội tôi mất,
vì bà có hai con trai đều là chef (sếp) lớn của Bộ Công An, nên có bộ trưởng Trần
Quốc Hoàn về viếng, có công an đứng gác nên những người duy tâm kháo nhau là
nhà "được hướng", nhờ có thầy địa lý xem cho nên thời nào cũng thịnh
vượng!
Tôi đã sống những năm êm đềm thời đi học cấp 3 tại căn nhà
"được hướng" đó cho đến khi tốt nghiệp phổ thông 1961 và thi trượt đại
học sau đó. Câu chuyện hai lần thi trượt vào đại học của tôi là một sự thật
chua chát đối với cá nhân tôi và là bản án tố cáo chế độ thi cử, tuyển chọn
sinh viên (cán bộ tương lai) của chế độ cộng sản, tạo ra di hại lâu dài cho đất
nước…
Trong ba năm học học cấp 3 ở trường phổ thông 3B đường Lý Thường
Kiệt Hà Nội tôi đều là học sinh giỏi văn của lớp. Năm cuối cùng, lớp 10C của
tôi chỉ có hai người tổng kết môn văn đạt điểm tối đa là 5, điểm theo bậc của
Liên Xô ngày ấy là 5 bậc (5/5). Nhưng chỉ có mình tôi là được giải thưởng môn
văn của cả trường. Với năng khiếu đó, tôi quyết định thi vào khoa văn trường Đại
Học Sư Phạm Hà Nội. Hồi đó, Đại Học Sư Phạm bị xếp vào bảng cuối của sự lựa chọn
đại học trên đất Bắc. Bởi thế trong xã hội lưu truyền câu ca: Nhất y nhì dược,
tạm được bách khoa, sư phạm bỏ qua…" Có nghĩa là trường Y có giá nhất và
khó thi vào nhất, và hạng chót là sư phạm. Còn có câu "chuột chạy cùng sào
mới vào sư phạm". Tôi đã chọn trường dễ thi và chọn khoa văn là khoa tôi
có thế mạnh về học lực nhất. Vậy mà tôi lại trượt. Đau khổ vô cùng. Tuổi 19 bước
vào đời với bao mơ ước, khát vọng được là một sinh viên, tiếp tục ăn học để có
kiến thức, có vốn liếng để tồn tại lâu dài… đã sụp đổ. Nhưng tôi lấy làm lạ, tại
làng Hoàng Mai hồi đó, có rất nhiều bạn tôi học môn văn chỉ được điểm tổng kết
3, thậm chí còn nói ngọng mà vẫn đỗ vào khoa văn ĐHSP(!) Tôi buồn chán vô cùng
rồi cứ tự hỏi không biết vì lý do gì mà không đỗ. Tôi nhớ lại bài thi quá dễ so
với học lực của tôi. Tôi đã làm bài một cách trơn tru trong khi bên cạnh nhiều
thí sinh ngồi cắn bút. Khi biết kết quả, tôi buồn và xấu hổ không dám nhìn mặt
ai. Cả thời gian dài suốt ngày nằm trong buồng đóng cửa, ngủ rồi thức, thức rồi
ngủ. mẹ tôi an ủi: Vì anh không phải là đoàn viên (đoàn viên thanh niên lao động)
nên người ta không cho đỗ! Tôi cũng tin là thế.
Tôi vật vờ với tháng ngày ăn không ngồi rồi, thơ thẩn một
mình ngoài vườn với nỗi buồn thi trượt. Tôi ngồi suốt ngày câu cá trong ao,
nhưng có lúc cá cắn câu cũng không buồn giựt. Tôi nhớ đến những câu thơ thi trượt
của Tú Xương xưa kia sao mà giống với tâm trạng của tôi lúc đó:
"Đau quá đòn ghen, rát hơn phải bỏng
Hổ bút hổ nghiên, tủi lều tủi chõng
Thi không ăn ớt thế mà cay…"
Tôi định bụng sẽ ôn tập lại chờ đến năm sau thi lại nhưng
không lẽ là thanh niên 19 tuổi lại ngồi không ăn bám gia đình, trong lúc kinh tế
lúc đó rất eo hẹp. Tình cảnh gia đình tôi thì ông bà đã quá 80, bố tôi thì thất
nghiệp, tất cả trông vào hai bàn tay của mẹ tôi, một người quen buôn bán ở
thành thị, nay về làm nông vì "chế độ ta không có buôn bán" như lời
chú Hai tôi. Bà làm vườn, nuôi cá, bòn vườn đi chợ bán để nuôi sống gia đình.
Cũng phải nói thêm là ông nội tôi trước đây là nhân viên của Phủ Toàn Quyền.
Khi về Hà Nội nhận được thông báo của chính phủ Pháp cho những ai là công chức
cũ dù đi kháng chiến nếu xuống Hải Phòng (nơi tập kết của quân Pháp và chính phủ
Bảo Đại trong vòng 100 ngày để vào Nam theo hiệp định Geneva 1954) thì Pháp vẫn
trả đủ 8 năm lương hưu trí. Ông nội tôi lương rất cao, nếu nhận số lương đó thì
cụ sống rất khỏe cho những năm sau này nhưng cụ nói. Nước đã độc lập rồi, cho
dù ăn cháo cũng sướng. (Nên cụ không xuống Hải Phòng lãnh 8 năm lương hưu).
Cũng chính tình cảnh gia đình tôi lúc đó như thế nên đại gia đình phải họp lại
để phân công các con đóng góp nuôi các cụ. Cuộc họp đi đến thống nhất, chú Hai
tôi là cán bộ cao cấp nên hàng tháng phải góp 30 đồng (thời điểm những năm 60).
Chú Ba tôi cũng là cán bộ cao cấp (cấp vụ) nhưng đông con vợ lại không làm nhà
nước, không có sổ mua lương thực nên được miễn. Chú Tư tôi cán bộ nhì nhằng,
lương thấp nên cũng được miễn. Chú Năm tôi là nhà báo công tác thường trú ở nước
ngoài, và là cán bộ cấp vụ nên phải góp 30 đồng. Bố mẹ tôi là con trưởng, có
trách nhiệm chăm sóc cha mẹ với số tiền đóng góp đó. Nhưung thực tế chỉ nhận được
50 đồng vì chú Năm tôi nghĩ ra cái "mẹo" là trong lúc họp ông xướng
lên là sẽ đóng 30 đồng, để làm mức chuẩn. Thế là chú Hai phải đóng 30 đồng (còn
ông thực tế chỉ đóng 20 đồng vì lương cũng không cao lắm). Việc này chỉ có mẹ
tôi và tôi biết vì hàng tháng tôi là người đi nhận tiền của hai người chú. Với
50 đồng hơn lương giáo viên cấp 2 thời đó là 45 đồng, thêm hoa màu vườn rau ao
cá, nên ông bà nội tôi sống cũng tạm ổn.
Cái nhiệm vụ đi lĩnh tiền hàng tháng đã ngày càng gắn kết chú
Hai với tôi. Đó là dịp tôi được nghe những câu chuyện "thâm cung bí sử"
của triều đình cộng sản Việt Nam do ông vui miệng kể ra những lúc vui buồn. Thực
ra ngày đó tôi không có ý thức khai thác những câu chuyện ấy, chỉ biết nghe và
bây giờ hệ thống lại thấy nó "hay" vô cùng. Vì thế mới có chương
"Những chuyện kể của tướng Qua" trong hồi ký này mà tôi sẽ viết ở phần
sau.
Lại nói về chuyện thi trượt. Sau nhiều tháng ăn không ngồi rồi,
buồn chán đến tột độ. Cái buồn của tuổi 19-20 của một đời người nó dữ dội ghê gớm
lắm. Đại thi hào của nước Hung, Pê-tô-phi đã để lại những câu thơ bất hủ cho
nhân loại từ nỗi buồn xung thiên đó ở tuổi 20:
"Tôi không cha không mẹ
Không thượng đế quê hương
Không nôi không vải liệm
Không người yêu tình thương
Tuổi hai mươi tôi đó
Tôi muốn bán đi thôi
Nếu chẳng ai mua quỷ ma sẽ lấy
Tôi giết người thật đấy
Các người treo cổ tôi
Từ dưới đáy vực sâu
Cỏ mọc lên tốt tươi!"
Tôi đâu phải thiên tài để biến những nỗi buồn của mình thành
những vần thơ bất hủ. Tôi chỉ biết gậm nhấm nỗi buồn của mình thành những mụn
rách không biết chắp vá vào đâu… Thế rồi một hôm, người anh rể thứ hai của tôi
là một đại úy đã dẫn tôi sang một trường sĩ quan của quân đội, là trường hậu cần
ở bờ nam sông Đuống cách cầu Long Biên bên phía bắc sông Hồng chừng ba, bốn cây
số. Ngôi trường toàn nhà lá nhưng rất rộng và thoáng mát giữa một vùng nông
thôn yên ả. Ngôi trường ngày ấy bây giờ là Học viện hậu cần được xây cất rất
hoành tráng. Tôi được nhận vào làm giáo viên dậy cấp 2 cho các học viên sĩ quan
hậu cần. Khóa học bổ túc văn hóa hết lớp 7 trước khi vào học chuyên môn các
ngành của hậu cần quân đội. Hồi đó (1961) trình độ văn hóa hết lớp 10 còn hiếm
lắm. Các học viên được đi học sĩ quan là những quân nhân trẻ, chỉ có trình độ cấp
1 nên phải học bổ túc văn hóa đến hết cấp 2. Trường có hàng ngàn học viên. Giáo
viên quân sự đa số là cấp úy, chỉ có một sĩ quan thiếu là và vị hiệu trưởng là
trung tá, chính ủy nhà trường là một thượng tá. Chủ nhiệm khoa văn hóa của tôi
là thượng úy Phạm Khắc Quán, một trí thức con nhà dòng dõi trâm anh thế phiệt.
Để được nhận vào dạy học tại trường sĩ quan hậu cần này, ông anh rể của tôi phải
nhờ người anh ruột, tên là bác Lưu, cũng cấp đại úy và hiện đang giảng dạy quân
sự hậu cầu tại trường làm giấy bảo lãnh cho tôi. Với "Lời Mẹ Dặn":
Anh phải vào đoàn, là một đoàn viên thì mới hy vọng được vô đại học. Vì thế tôi
chỉ lấy công việc dậy văn hóa ở đây làm cái bàn đạp để vào đoàn rồi tiếp tục đi
thi đại học. Tôi mất hơn một năm dạy học tại đây và công việc phấn đấu vào đoàn
thanh niên lao động của tôi thật là một màn hài kịch chưa từng có. Chuyện thế
này, kỷ luật của trường sĩ quan rất nghiêm ngặt. Mọi sinh hoạt đầu có kỷ luật.
Từ 5 giờ sáng cho đến 9 giờ tối trước khi kẻng lên giường ngủ, nhất động nhất cử
đều theo hiệu lệnh. Kể cả đi ăn cơm cũng phải xếp hàng theo tiểu đội. Đi đều
1-2, bát cầm tay phải, đũa cầm tay trái. trước khi vào nhà ăn phải nhúng bát,
nhúng đũa vào chiếc chảo nước đang sôi sùng sục. Vì là trường hậu cần trong đó
có việc nuôi quân, nấu ăn… nên việc làm bếp được coi trọng. Các chị nuôi (người
nấu bếp) mặc áo vải phin trắng. Trước giờ ăn bao giờ cũng phi một chảo mỡ hành
thật thơm, không dùng xào nấu gì cả nhưng cứ làm thế để kích thích tiêu hóa.
Các học viên kể cả sĩ quan ăn cũng rất bài bản. Phòng ăn hàng trăm người, khi gắp
thức ăn phải giở đầu đũa cho vệ sinh và tuyệt đối không được nói chuyện. Vì thế
mặc dù cả trăm con người nhưng phòng ăn im phăng phắc chỉ nghe tiếng nhai cơm
rào rào. Phải công nhận là quân đội ngày ấy kỷ luật rất cao. Tôi lại đang phấn
đấu vào đoàn nên chấp hành kỷ luật một cách tuyệt đối. Thậm chí còn hơn cả các
sĩ quan quân đội cùng khoa văn hóa. Còn nhớ, có hai chuyện nực cười thế này. Một,
sáng dậy tập thể dục đúng giờ. Trời rét như cắt ruột nhưng hể nghe tiếng kẻng
là mọi người phải dậy tập thể dục theo nhịp điệu của đài tiếng nói Việt Nam do
nhà trường tiếp âm bằng một hệ thống loa cực mạnh. Sau đó xếp hàng chạy đều
theo đơn vị trung đội lên bờ đê sông Đuống, chạy hàng cây số, lúc về đi đều và
hát bài "vừng đông đã hừng sáng…" Ngày ấy, tối nào cũng vậy, tôi đợi
cho mọi người đi ngủ hết, rồi mặc quần áo, đi giày sẵn mới vô giường đắp chăn
ngủ. Vì thế mà đến sáng, mới nghe tiếng kẻng là tôi đã nhảy ra sân đứng sẵn chờ
mọi người còn đang mặc quần áo, đi giầy. Nhờ đó mà dĩ nhiên tôi được điểm cao
và được khen ngợi vì thủ đoạn này. Nhưng việc bốc cứt trồng rau mới là việc
khôi hài nhất. Ngày ấy nhà trường đề ra phải tăng gia sản xuất sau giờ hành
chính để cải thiện bữa ăn. Đất bên ngoài nhà trường dọc theo sông Đuống thì
mênh mông. Hết giờ làm việc, mọi người chơi thể thao đàn hát… còn tôi thì cố
phân đấu nên chui vào nhà xí (nhà vệ sinh công cộng của trường) để hót cứt, ủ
hoai làm phân bón rau. Hồi đó chưa có hố xí tự hoại nên phân tươi thối nhức
mũi, đúng như câu thơ của Phùng Cung "cứt nguyện thối đến hết mình cho người
đời khỏi ngộ nhận". Nhờ chăm bón phân, vườn rau của tôi tươi tốt lạ thường.
Ai nấy cũng phải khen. Mồi lần trưởng khoa văn hóa còn tuyên dương tinh thần
tăng gia sản xuất của tôi trong buổi họp. Nhưng vì chiều nào cũng chui vào hố
xí bới cứt nên quần áo, người ngợm tôi hôi thối đến nỗi không ai dám đứng gần.
Thậm chí đến bữa ăn không ai dám ngồi cạnh tôi. Vì thế có người đã nói (sau này
đến tai tôi) là nếu không mau mau kết nạp thằng Khải vào đoàn mà cứ để cho nó bới
cứt thế này thì thối hoắc cả khoa văn hóa! Đã thế tôi càng chăm chui vào hố xí
để ai thấy tôi cũng phải bịt mũi. Màn hài kịch bới cứt trồng rau tăng gia sản
xuất đã mau chóng đưa tôi vào đoàn. Với chiếc huy hiệu đoàn có in hình cánh tay
cầm cờ… tôi đã đeo trên ngực về nhà để báo cáo thành tích với mẹ tôi. Sau đó
tôi xin nghỉ dậy văn hóa ở trường hậu cần để ôn thi đại học. Mùa thi đại học
năm 1963, tức hai năm sau khi tốt nghiệp phổ thông, tôi lại đệ đơn thi vào trường
ĐHSPHN. Lần này tôi đăng ký thi vào khoa Nga, vì khoa văn, khoa toán là khó nhất.
Lý do, đó là hai bộ môn chính có giá nhất để giảng dạy ở trường cấp 3. Còn các
môn khác, trong đó có môn ngoại ngữ Nga văn chỉ là môn phụ. Đó là tôi nghĩ như
vậy vì nỗi sợ thi trượt nó cứ ám ảnh từ hai năm trước. Nhưng kết quả là tôi vẫn
trượt, trước sự ngạc nhiên của gia đình, bạn bè, dòng họ. Mẹ tôi thương tôi vô
cùng. Vì theo bà, tôi đã là đoàn viên rồi thì tại sao lại không đỗ. Công sức phấn
đấu vào đoàn của tôi hoàn toàn vô ích. Tôi sụp đổ hoàn toàn. Người gầy gộc đi.
Suốt ngày đóng cửa phòng nằm yêu như người đã chết. Chú Hai tôi thấy thế định
xin cho tôi lên khu gang thép Thái Nguyên làm trong guồng máy an ninh do một
người bạn của ông được Bộ Công An phân công lên nằm trong Ban lãnh đạo của khu
gang thép, nhưng là người của ngành Công An cài vào. Đó là cách tổ chức nắm
nhân sự của chính quyền cộng sản đối với tất cả mọi ngành nghề. Tôi biết rõ thực
chất công việc mà tôi phải nhận là làm "gián điệp" đi theo dõi mọi
người sau đó báo cáo lại, trong khi tôi chưa tốt nghiệp đại học, chưa có nghề
ngỗng gì cả, vì thế tôi không đi.
Nhưng có ai ngờ, bỗng nhiên số phận lại mỉm cười với tôi. Đó
là một buổi trưa hè oi bức, tôi đang ngủ trong buồng thì mẹ tôi đánh thức dậy
vì có "chú Bẩy Trân" xuống chơi. "Chú Bẩy Trân" là một nhân
vật thật độc đáo, thật đặc biệt nếu như không muốn nói là một nhân vậy
"huyền thoại" về những người cộng sản Việt Nam. Sở dĩ tôi viết cuốn hồi
ký này vì như tôi đã nói ở phần mở đầu, đời tôi không đáng một xu, không có gì
đáng viết cả, nhưng những nhân vật mà tôi biết như "chú Bẩy Trân" thì
phải viết lại, không thì "phí đi" như bạn bè khuyên tôi nên viết hồi
ký!
Câu chuyện về "chú Bẩy Trân" mà tôi phải dừng lại
khá lâu này để nói, số là như sau…
Khoảng năm 1955 khi mẹ tôi có mở một cửa hàng bán giầy dép ở
phố Hàm Long, hàng tháng có cán bộ đến thu thuế. Người đến thu thuế tại cửa
hàng của mẹ tôi là một thương binh, cán bộ miền Nam tập kết, tên là Tám Trọng.
Anh Tám Trọng sau này là anh rể ruột của tôi. Anh ít nói, một thanh niên trắng
trẻo, tính tình hiền hòa. Do đi lại thu thuế nên Tám Trọng quen với chị ruột lớn
của tôi là Lê Thị Thuận. Họ quen nhau đến mức thân thiết rồi xin mẹ tôi cho làm
đám cưới. Nhưng mẹ tôi nói, tuy anh Tám là người tốt, nhưng cán bộ miền Nam ra
Bắc tập kết đa số có vợ ở trong đó rồi, sau này đất nước thống nhất thì lôi
thôi lắm nên bà kiên quyết không đồng ý. Thế rồi mấy hôm sau có một chiếc xe
vonga đen đậu đánh xịch ở cửa nhà tôi. Từ trong xe bước ra là một người đàn ông
tầm thước, mặc com-lê thắt cà vạt nghiêm chỉnh bước vô nhà xin phép được gặp mẹ
tôi. Hồi đó ai đi xe vonga đen là sang lắm, phải là ủy viên trung ương Đảng. Cấp
bộ trưởng nhưng không phải là ủy viên trung ương thì đi xe vonga trắng. Phân biệt
ngôi thứ rõ ràng qua màu sắc chiếc xe. Người đi xe vonga tự giới thiệu tên là Bẩy
Trân, quê ở Cần Giuộc, Long An là cán bộ cao cấp của Đảng hiện công tác ở Bộ
Giáo Dục. Ông Bẩy Trân, với tư cách là cán bộ cao cấp của Đảng đảm bảo với mẹ
tôi rằng anh Tám Trọng (tức Phạm Văn Trọng) là cháu ông, đã có vợ ở miền Nam
nhưng vợ anh Tám đã li dị chồng khi anh Tám bị thương để đi lấy một người chồng
khác ở phía bên kia. Ông Bẩy Trân xin đứng ra bảo lãnh cho anh Trọng và nhận
anh làm con để đại diện gia đình cử hành đám cưới với chị tôi, ông xin nhận làm
sui gia với gia đình tôi.
Chẳng biết thực hư thế nào, mẹ tôi vẫn băn khoăn nên nhắn chú
Hai tôi đang công tác ở Bộ Công An điều tra hộ. Mẹ tôi là một phụ nữ, như hàng
trăm phụ nữ khác ở miền Bắc lúc bấy giờ rất tin tưởng vào cán bộ của nhà nước,
nhất là cán bộ cao cấp như em chồng của bà, tức chú Hai tôi. Có câu chuyện khôi
hài mà tôi không bao giờ quên được khi người ta nói đến "tính ưu việt"
của chế độ XHCN ở Liên Xô. Ngày ấy, Liên Xô là "thiên đường" của loài
người như người ta đã tuyên truyền. Có người nói với mẹ tôi rằng, ở Liên Xô phụ
nữ đẻ không đau! Mẹ tôi nửa tin nửa ngờ, đợi đến hôm chú Hai tôi về chơi, bà mới
đem câu chuyện đó ra hỏi. Hôm đó tôi cũng có mặt và nghe rất rõ câu chuyện. Mẹ
tôi nói: Tôi nghe người ta nói ở Liên Xô phụ nữ đẻ không đau có phải không hả
chú? Chú Hai tôi chỉ cười rồi hỏi lại: Ai bảo chị thế? Rồi cũng không trả lời
gì cả(!) Thì ra chính trị là như thế. Bộ máy tuyên truyền luôn làm ngu dân. Những
người dân lương thiện như mẹ tôi không đi đến đâu nên có thể tin ở Liên Xô đẻ
không đau! Cũng như sau ngày 30/4 tôi về một nhà dân ở Long Xuyên thấy trong
nhà tắm tường đen ngòm toàn vết cháy. Hỏi ra thì bà chủ kể rằng, sắp đến ngày
thua trận, chính quyền tuyên truyền rằng Việt Cộng vào sẽ bắt hết con gái, phụ
nữ mặc áo dài, sơn móng tay móng chân… nên khi nghe tin Sài Gòn đã thất thủ,
gia đình đem hết quần áo đẹp của đàn bà con gái vô nhà tắm rồi tưới xăng đốt
nên bây giờ nhà tắm mới đen ngòm như vậy!
Đúng là: "Sau mỗi cuộc chiến tranh / Phe nào thắng
thì nhân dân đều bại" như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết.
Câu chuyện mẹ tôi nhờ chú Hai "điều tra" thì thế
này, chỉ mấy ngày sau, chú Hai tôi đi xe com-măng-ga, (xe dành cho sĩ quan cao
cấp ngành công an hoặc quân đội) về nhà và cho mẹ tôi hay, đúng ông Bẩy Trân, tức
Nguyễn Văn Trân là cán bộ cao cấp rất có uy tín của Đảng, tập kết ra Bắc và sắp
tới sẽ giữ những chức vụ quan trọng. Thế là đám cưới chị tôi với anh Tám Trọng
được cử hành trọng thể và ông Bẩy Trân mà sau này tôi hay gọi là "chú Bẩy"
chính thức là sui gia với bố mẹ tôi. Ngày giỗ, ngày tết tại gia đình tôi bao giờ
cũng có ông sui gia Bẩy Trân có mặt. Ông Bẩy Trân xuất hiện trong gia đình tôi
như một ánh sáng mới lạ, không phải vì ông là một cán bộ cao cấp, mà vì những
hành vi văn hóa của ông khác hẳn với những thứ văn hóa vô sản đang hình thành
lúc đó. Ông được mọi người ở cả 2 bên nội ngoại của tôi rất kính trọng. Đặc biệt
đối với ông nội tôi mặc dù về mặt vai vế ông chỉ đứng hàng con cháu vì là sui
gia với bố mẹ tôi.
Lần đầu tiên người cán bộ cộng sản cao cấp này ra mắt ông nội
tôi là cử chỉ xin phép được đốt một nén nhang trên bàn thờ tổ tiên của gia đình
tôi và cúi lại ba lần. Cử chỉ này làm kinh ngạc mọi người vì tại thời điểm đó
đang diễn ra cải cách ruộng đất. Ở khắp nơi trên miền Bắc, người ta đang đập
phá đình chùa, tượng phật, tượng thánh bị vặn cổ ném xuống ao. Bàn thờ tổ họ Lê
Phú nhà tôi, trừ ông nội tôi, còn bố tôi và các chú ruột không ai thắp nhang và
cúi lạy trước vong linh ông bà cả dù đó là những ngày lễ tết hay giỗ chạp. Lúc
đó, người ta xem những cử chỉ hành vi này là duy tâm, là lạc hậu, là phong kiến…
Từ đó trong mắt ông nội tôi, mẹ tôi và cả tôi nữa, ông Bẩy Trân là một cán bộ cộng
sản không giống với thứ văn hóa vô sản lưu manh đang được người ta áp đặt vào
xã hội miền Bắc lúc đó. Mỗi lần đến chơi, ông Bẩy Trân được ông nội tôi tiếp
đón rất trân trọng. Họ nói chuyện nhau rất lâu, đôi lúc dùng cả tiếng Pháp nữa.
Mỗi khi ông Bẩy ra về, ông nội tôi tiễn ra tận cổng… Còn mẹ tôi thì vô cùng cảm
động khi những đêm sáng trăng ông sui gia đạp xe ra tận ngoại thành chơi, ngày ấy
ngoại thành chưa có điện, ông đã ra tận ruộng rau nơi mẹ tôi đang tưới cây để
trò chuyện động viên người phụ nữ thị thành chưa mấy quên với công việc thôn
quê nặng nhọc này. Còn đối với tôi thì đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến
người cán bộ có cử chỉ văn minh. Đó là lần tôi đi cùng ông Bẩy ra ngoại thành.
Trên đường đi ông mua hai gói xôi đậu đen gói trong lá chuối để 2 người ăn
sáng. Ăn xong tôi chưa biét vứt lá cuối đi đâu, vì còn đang ngồi trên xe vonga,
nhưng ông Bẩy đã lấy nó rồi cuộn với gói lá của ông xong rồi đút vô túi áo đại
cán. Về nhà ông lấy bỏ vô thùng rác. Thời gian sau ông đưa cô cháu gái gọi ông
là chú ruột và chồng cô đến chơi nhà tôi. Ông giới thiệu người cháu tên là cô
Sáu, và chồng là anh Sáu Khải (tức thủ tướng Phan Văn Khải sau này) mới đi học ở
Liên Xô về. Anh Sáu Khải người nhỏ nhắn, ít nói. Vợ chồng anh được mẹ tôi rất
quý nên hay mời đến dùng cơm trong các dịp giỗ, tết. Có lần ngày 30 tết, mẹ tôi
làm cơm cúng ông bà và mời bà con cả họ đến vì nhà tôi là nhà trưởng. Khi mê
tôi bóc bánh chưng bày lên mâm, nhưng vì mâm to nên phải bóc hai cái (để mỗi
bên một cái), thấy thế anh Sáu góp ý, đại ý là năm ngoài cũng bóc 2 bánh nhưng
ít người ăn vì ăn cỗ đã no, năm nay theo ý anh chỉ nên bóc một cái. Mẹ tôi giải
thích cái mâm to nên phải bóc 2 cái, vì người ngồi bên này không phải vươn tay
với sang phía bên kia. Nếu chỉ bóc một cái có khi người ta lại ngại. Khi anh
Sáu lên nhà trên rồi, mẹ tôi mắng tôi. Anh thấy chưa, người ta là người miền
Nam, giàu có mà tiết kiệm, còn anh chỉ biết hai tay đút túi vô tích sự! Đối với
mẹ tôi (và người Bắc) dân miền Nam là người giàu có hay ít nhất cũng là người sống
ở mảnh đất giàu có của đất nước, ra Bắc phải chịu khổ nên phải được chiếu cố…
Những tình cảm như thế của đồng bào miền Bắc đối với cán bộ miền Nam ra tập kết
thật dễ thương. Vậy mà sau này khi vô Nam sau 1975, mẹ tôi bắt tôi đưa đi thăm
những người quen trước tập kết có đến nhà tôi như ông Bẩy Trân, anh Sáu Xích
cán bộ công đoàn thành phố, riêng anh Sáu Khải lúc đó là chủ tịch ủy ban Nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh tôi định đưa bà đến thăm nhưng bà không đi vì sợ người
ta hiểu lầm là mình định nhờ vả gì(!). Thật tình thì Sáu Khải không phải là người
đáng phải cẩn thận như thế. Ông là người tử tế. Có lẽ vì cái tính "tiết kiệm"
như mẹ tôi từng khen nên khi làm thủ tướng ông không phá phách như những người
sau này. Đôi ba lần khi tôi gặp ông trong các hội nghị tại Tp HCM với cương vị
thủ tướng, ông tiếp các nhà báo xưng hô đồng chí đàng hoàng, nhưng khi bất chợt
nhìn thấy tôi, ông hỏi: Mày dạo này thế nào? Có gặp bà Tám (tức chị tôi, vợ Tám
Trọng) luôn không? Cách xưng hô mày-tao như thế với tôi khiến các nhà báo khác
ngạc nhiên(!) Năm 2001 tôi qua Paris thăm chú Năm tôi, trước là đại diện thường
trú của Thông tấn xã Việt Nam, sau đó định cư chính trị bên đó. Chú Năm tôi hỏi:
Chú xem TV thấy thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải rất giống anh Sáu Khải, cán bộ
Ủy ban kế hoạch nhà nước xưa vẫn đến nhà mình chơi ở Hà Nội, có phải là Phan
Văn Khải bây giờ không? Tôi trả lời là đúng. Chú tôi lại hỏi: Gặp cháu bây giờ
anh ấy có hỏi han gì không? Tôi trả lời: Lúc hàn vi cũng như bây giờ quyền cao
chức trọng, Sáu Khải vẫn tỏ ra là một người tử tế. Chú tôi nói: Vậy thì có dịp
gặp anh ấy, cho chú gửi lời hỏi thăm. Trong một cuộc gặp ông ở hội nghị, tôi có
chuyển lời hỏi thăm của chú Nam tôi. Ông Khải cười, nói: Việc mày xin đi Pháp
thăm chú, bọn tao biết cả, nhưng ai dám cản mày! (Tôi chắc là ông Sáu Khải nói
đùa).
Số phận của Sáu Khải thì như thế, nhưng số phận của ông Bẩy
Trân sau này thì không ra sao. Tôi sẽ kể về con người "huyền thoại"
này vào dịp khác. Lại nói về chuyện tôi thi trượt. Thấy chú Bẩy xuống chơi, mẹ
tôi lại đem ngay chuyện tôi thi trượt đại học ra phàn nàn. Ông Bẩy nói ngay: Bảo
nó ra đây. Hình như là người trong ngành giáo dục biết chuyện thi cử nên ông bảo
tôi: Sáng mai theo tao vào trường ĐHSP. Thế là ngay sáng hôm sau, ông chở tôi bằng
cái xe đạp Junior Tiệp Khắc vào trường ở Cầu Giấy. Đến nơi ông bảo tôi đứng
ngoài chờ, ông vào gặp thầy Tuất, phó hiệu trưởng kiêm phó bí thư trực của đảng
ủy nhà trường. Thầy Tuất vốn là một trí thức Nam Bộ ở châu Âu về hoạt động,
cũng như ông Bẩy Trân, thầy có bà vợ người Ý cũng theo chồng về nước. Đứng
ngoài cửa, chỉ cách có tấm cót mỏng, tôi nghe rõ tiếng ông Bẩy nói với thầy Tuất:
Nhờ anh xem hộ trường hợp thằng con bà sui gia của tôi tên là Lê Phú Khải thi
vào khoa Nga văn năm nay vì sao không đỗ? Thầy Tuất trả lời: Để tôi kêu tổ chức
mang hồ sơ, lý lịch lên coi. Nói rồi ông quay chiếc điện thoại có số chạy vòng
tròn kêu vo..vo.. Một lát sau, có một ngườiđến mang theo bộ hồ sơ của tôi, đựng
trong chiếc phong bì to lên trình. Tôi lại nghe rõ tiếng thầy Tuất: Gia đình
cháu Khải là thành phần tư sản làm sao mà đỗ được! Tôi nghe thấy thế, lạnh cả
người. Lại nghe tiếng ông Bẩy Trân: Thật là bậy! Gia đình nó là cách mạng nòi,
chú ruột nó đang là cục trưởng ở Bộ Công An, chị nó cũng là công an, làm sao là
tư sản được. Tiếng thầy Tuất bình thản: vậy anh viết cho mấy chữ bảo lãnh đi…
Thế là sau mấy phút, chẳng biết ông Bẩy viết cái gì, ngay sáng hôm sau tôi đến
gặp tổ chức nhà trường nhận giấy vào lớp. Thật là khôi hài, một ông cán bộ quê ở
mãi Cần Giuộc Long An chỉ viết mấy chữ bảo lãnh cho một thanh niên sinh ra và lớn
lên ở Hà Nội đã làm thay đổi cả số phận người thanh niên đó.
Trên đường ông Bẩy Trân đèo tôi từ Cầu Giấy về, đến giữa được
tôi xin ông cho xuống và đến thẳng Bộ Công An ở đường Trần Bình Trọng. Tôi lên
thẳng phòng làm việc của chú Hai tôi, lúc đó ông đang là cục trưởng Cục cảnh
sát nhân dân và vừa được thủ tướng Phạm Văn Đồng gắn quân hàm thượng tá cảnh
sát nhân ngày cảnh sát ra mắt quốc dân, với quân hàm quân hiệu chỉnh tề (1962).
Lúc đó chú Hai tôi là người đứng đầu ngành cảnh sát của cả nước, mà chỉ được
phong cấp thượng tá chỉ bằng quân hàm của phó trưởng công an quận huyện ngày
nay (2012)! Sau khi nghe tôi trình bày rằng, công an xã đã phê lý lịch của tôi
là gia đình tư sản nên không được học đại học, khiến tôi phải long đong mất hai
năm… Chú Hai tôi hứa sẽ điều tra. Mấy ngày sau, ông xuống nhà tôi và cho hay
theo báo cáo của trưởng công an huyện Thanh Trì thì cái lý do nghe thật khôi
hài. Người công an quản lý xóm tôi ở thấy ông nội tôi hay nói tiếng Pháp nên đã
báo cáo lên công an xã Hoàng Văn Thụ, làng Hoàng Mai rằng gia đình tôi là gia
đình tư sản. Từ đó xã đã phê vào lý lích của tôi: Gia đình tư sản.
Hồi ấy chế độ phê chuẩn, chứng nhận lý lịch của thí sinh nộp
đơn thi đại học do xã phê, không cho đương sự biết rồi niêm phong gửi qua đường
bưu điện đến phòng tổ chức của trường đại học mà thí sinh dự thi. Nhà trường nhận
được lý lịch như vậy thì cũng không chấm bài thi, chỉ căn cứ vào thành phần gia
đình tốt, xấu của thí sinh mà xét cho đỗ hoặc trượt như tôi đã kể ở trên. Chế độ
thi tuyển sinh viên vào đại học như thế đã kéo dài từ sau hòa bình 1954 không
biết đến năm nào… Trường hợp của tôi là do may mắn, nhờ có ông Bẩy Trân đưa tôi
vào gặp thấy hiệu phó của mùa thi tuyển năm 1963 trường ĐHSPHN, tôi mới biết chế
độ tuyển sinh rùng rợn và rừng rú này. Chủ nghĩa Mác Lê với quan điểm giai cấp,
đấu tranh trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mới sinh ra cách tuyển sinh
vào các trường đại học man rợ như thế. Nó lạc hậu hơn tất cả các hình thái xã hội
từ trước đó. Kể cả thời phong kiến thì nhà nước cũng kén người tài, giỏi, thi đạt
bằng cấp cao mới được tuyển dụng vào bộ máy cai trị. Còn thời cộng sản chỉ lựa
chọn theo thành phần giai cấp. Chính vì thế mà dưới chế độ cộng sản, tất cả các
sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp được phân bổ về công tác tại các cơ quan Đảng,
nhà nước đa phần là những kẻ dốt nát, ngu si nhất. Bởi lẽ cứ thành phần bần cố
nông, dân nghèo thành thị thì mới được học đại học. Do vậy lấy đâu ra học sinh
giỏi ở những thành phần đó, nếu có thì cũng hãn hữu. Bao nhiêu thanh niên, học
sinh thuộc các thành phần khác, dù có giỏi đến đâu cũng bị gạt ra. Có ai chấm
bài thi đâu mà chọn người giỏi. Khi vào đại học rồi thì cứ thế yên chí sẽ đỗ ra
trường. Đảng đã phân công thành kỹ sư, thành bác sĩ, thành tiến sĩ… Sự dốt nát
lại có bằng cấp, có địa vị, đã bao trùm cả xã hội XHCN ở miền Bắc nhiều chục
năm như thế. Xã hội bị đẩy lại thời trung cổ. Tôi nhớ thời Pháp thuộc, bố tôi
thi diplome bốn năm liền không đỗ. Không đỗ là không đỗ, chẳng có chuyện chạy
chọt, xét thành phần gì cả. Ông nội tôi có thừa tiền cũng không thể chạy cho bố
tôi đỗ diplome được. Đọc hồi ký của Trần Văn Giàu sau này người ta thấy, nhà
ông Giàu là đại điền chủ, nhưng chỉ có ông thông minh sáng dạ nên mới học lên
được. Các em ông được gia đình chia ruộng để trở thành địa chủ mà thôi. Nói vậy
để thấy, không phải ai cũng có khả năng lao động trí óc, để học hành trở thành
người lao động trí óc, thành trí thức. Chế độ thi cử xét thành phần giai cấp để
tuyển chọn đã đào tạo ra cả một xã hội đầy rẫy những công chức có bằng cấp
nhưng dốt nát để quản lý xã hội ở các lĩnh vực. Sau này vào đại học rồi tôi mới
biết, các sinh viên lớp tôi là con em các gia đình bần cố nông, thành phần nòng
cốt ở nông thôn, học lực rất yếu nhưng mỗi năm vẫn lên một lớp và vẫn tốt nghiệp
ra trường trở thành các thầy cô giáo dậy môn văn ở cấp 3 (sau khi được vô trường,
tôi đã chuyển sang học khoa văn). Có thầy cả đời chưa đọc hết một cuốn sách thì
làm sao dậy văn cho các em được. Vậy mà các vị trí thức bần cố nông này rất
vênh váo, rất tự hào, rất thỏa mãn với địa vị xã hội của mình. Thời bao cấp xưa
kia thi thành phần để lấy bằng cấp còn thời kinh tế định hướng XHCN ngày nay
thì mua bán, đút lót để lấy bằng là chính chứ không cần kiến thức. Vì thế cả bộ
máy đã hoàn thiện sự dốt nát, bộ máy cai trị đó đầy ghét bẩn nên nó không thể vận
hành bình thường được. Kẻ dốt nát khi có quyền lại xuất thân từ thành phần bần
cố nông nghèo khổ nên chỉ lo tham nhũng, vơ vét mà thôi. Di hại này của chế độ
tuyển chọn trong giáo dục không biết bao giờ mấy tẩy rửa được. Năm ngoái, tôi
có ra Hà Nội dự cuộc họp mặt 45 năm ngày ra trường của khóa đại học văn khoa
chúng tôi. Sau 45 năm các bạn đồng học của tôi nay đã về hưu. Họ xúng xính
trong các bộ comple, cà vạt và tranh nhau lên diễn đàn khoe về sự "thành đạt"
của mình, của gia đình mình. Một anh bạn xưa kia học dốt nhất lớp, năm nào cũng
phải thi lại, nhưng được chiếu cố thành phần cơ bản nên được tốt nghiệp đã lên
khoe mình là hiệu trưởng kiêm bí thư Đảng ủy nhiều năm! Có vị lên khoe học trò
của mình bây giờ có đứa làm đến thiếu tướng. Các bạn tôi hoàn toàn thỏa mãn, hã
hê với cuộc sống hiện tại. Với họ, có bát cơm nhiều thịt là thiên đường rồi. Về
Sài Gòn, tôi đem câu chuyện này kể với một người bạn, anh liền mắng tôi: Cậu mới
là một thằng ngu, ở nước ta, thằng học dốt nhất lớp cậu thì sau này làm hiệu
trưởng, dốt nhất trường thì sau này làm bộ trưởng và dốt nhất nước thì làm quốc
trưởng. Có thế mà cậu cũng không biết, thật là ngu(!)
Có lẽ tôi ngu thật rồi!
Chương 4
Đời sinh viên
Cuộc đời thật trớ trêu, nhờ "thi trượt" mà tôi được
biết thầy Tuất, hiệu phó nhà trường và sau đó trở thành "cháu" của thầy!
Ngày ấy tôi thường mang thông tin, thư từ của chú Bẩy Trân đến thầy Tuất và được
thầy yêu mến. Là một trí thức miền Nam tây học, tính tình thầy hiền hòa, cởi mở.
Còn gì "oai" bằng ở một trường đại học hàng ngàn sinh viên, tôi được
xem là "cháu" của thầy hiệu phó. Thực chất, thầy điều hành như hiệu
trưởng vì, GS Phạm Huy Thông đứng danh hiệu trưởng như không bao giờ về trường
cả, trừ khi có khách quốc tế đến thăm trường là nguyên thủ quốc gia.
Như đã kể trên đây, vì bắt buộc phải nộp đơn thi vào khoa Nga
cho dễ đỗ, nên khi được vô học, tôi phải học tiếng Nga. Tôi học rất dốt môn ngoại
ngữ này, điểm kiểm tra thường là điểm 1 và 2. Vì thế lớp phân công nữ sinh viên
tên là Ngọc kèm cặp giúp đỡ, phụ đạo tôi hàng ngày. Tôi rất tự ái, nghĩ mình
"đường đường một đấng anh hào" mà lại bị một bạn gái giúp đỡ thì thật
là… mất cái sĩ diện! Vì thế tôi lên xin thầy Tuất cho tôi chuyển sang học khoa
văn. Thầy Tuất ôn tồn bảo tôi: Khải ơi, bây giờ sắp thi học kỳ rồi, cậu sang
khoa văn làm sao mà thi nỗi, người ta học được nửa năm rồi. Tôi nghe thế, đưa
thầy xem học bạ phổ thông với điểm tổng kết 5 môn văn để thuyết phục và hứa với
thầy tôi sẽ thi học kỳ với điểm số xuất sắc. Là dân Nam Bộ tính tình phóng
khoáng, thầy xé mảnh giấy nhỏ, ghi mấy chữ (giống hệt như chú Bẩy Trân đã làm
cho tôi trước đây) để tôi đem sang phòng tổ chức khoa văn để nhập học. Anh cán
bộ phòng tổ chức xem giấy xong lắc đầu, nhìn tôi. Có lẽ trong bụng anh nghĩ tôi
có quan hệ thế nào với thầy Tuất mà được phá lệ thế này. Nhưng cái giấy của ông
hiệu phó cũng là mệnh lệnh, đố ai dám cản trở. Tôi được nhận vào học khoa văn.
Sang khoa văn học được ít ngày là thi học kỳ năm thứ nhất. Học
khoa văn là cả một núi sách phải đọc. Nhưng các sinh viên xuất thân ở nông thôn
thì lấy đâu sách ra mà đọc, vì thế tôi có ưu thế hơn hẳn các bạn. Tôi đã đọc
các tác phẩm văn học này từ hồi còn là học sinh phổ thông ở các cấp. Vì thế,
tôi chỉ phải đọc các sách lý luận, sách nghiên cứu, các giáo trình và không phải
chúi đầu đọc tác phẩm như các bạn tôi. Tôi học rất nhàn và có chất lượng. Khi
thi học kỳ, môn văn học nước ngoài là văn học Trung Quốc. Đề thi là phân tích
nhân vật Tào Tháo trong tiểu thuyết trường thiên Tam Quốc. Tôi được điểm 9/10,
đứng đầu khoa về môn văn học nước ngoài. Ở đây xin mở ngoặc, lên đại học
điểm tính theo hệ thống 10/10. Với môn văn học nước ngoài, năm thứ nhất học văn
học Trung Quốc, năm thứ hai là văn học Nga-Xô viết, năm thứ ba văn học phương
tây. Được điểm 9/10 môn văn học Trung Quốc, tôi được cử làm cán sự bộ môn văn học
nước ngoài của lớp. Cán sự có nhiệm vụ liên hệ với thầy giáo bộ môn để nhận các
câu hỏi, bài vở, tài liệu hướng dẫn của thầy và phụ đạo các bạn cùng lớp có điểm
kém môn học đó. Như đã hứa, tôi đem kết quả thi học kỳ một lên cho thầy Tuất
xem và thầy rất hài lòng.
Vào đại học, quy định của nhà trường là phải ăn ở nội trú. Do
gia đình có điều kiện hơn các bạn cùng lớp nên tôi được trang bị khá tốt. mẹ
tôi cho tiền mua chiếc xe đạp Sputnik do Liên Xô sản xuất, được chú Năm tôi cho
một cái va li cũ, đặc biệt chú Hai cho tôi cái cặp da "mác" Thượng Hải
màu đen rất sang. Đó là chiếc cặp thủ tướng Chu Ân Lai tặng các thành viên đoàn
Việt Nam đi dự hội nghị Geneve năm 1954 tại Thụy Sĩ. Một sinh viên đi học đại học
thời đó mà được trang bị như thế là sang lắm rồi. Tôi nhớ, cứ mỗi lần tôi đạp
xe vào trường chiều chủ nhật là đã có các bạn đứng ở cổng chờ, mượn tôi xe đạp
để đạp ra phố chơi. Vì thế chẳng bao lâu, chiếc xe đã cũ nát. Còn chiếc cặp da
đen "mác" Thượng Hải thì tôi cũng không bao giờ quên về số phận của
nó. Cái cặp da đen ấy có thể được xem là sang nhất trường, ngay cả thầy Tuất
cũng không có, vì thế các bạn của tôi hay mượn để xách cho oai! Có lần anh
Đình, bạn cùng lớp với tôi, quê ở Thái Bình hỏi mượn tôi cả xe đạp, cả cặp da để
đạp ra phố chơi vì chiều hôm đó là chiều tự học. Anh đi đến gần tối mới về, từ
trên sân thượng của ký túc xá, tôi nhìn xuống thấy anh một tay đi xe, một tay
xách cái cặp đen nhưng nó to đùng như cái thùng. Hóa ra anh mua một quả dưa hấu
và cố nhét vào cặp để xách về. Thế là cái cặp da đen kiểu cặp ngoại giao, có
hai ngăn gấp vào nhau, có khóa và quai đỡ ở bên dưới bị đứt tung khóa. Tôi phải
đem về Hà Nội chữa. Cái cặp đen "ngoại giao" đó còn biết bao nhiêu kỷ
niệm ly kỳ nữa. Đó là năm học thứ ba, trường sơ tán ở Yên Mỹ, Hưng Yên. Tôi ở
trọ trong một gia đình nông dân rất nghèo. Bà chủ nhà có cái màn (trong Nam kêu
là mùng) bằng vải xô rách đến mức phải dùng giấy báo dán chằng chịt. Bà chủ nhờ
tôi mua giúp một chiếc màn mới. Hồi đó (1966) muốn mua một cái màn là rất khó,
phải có phiếu vải mới mua được. Nếu dùng phiếu vải để mua màn thì cả năm không
còn tiêu chuẩn mua vải may quần áo vì màn rất rộng. Tôi nhờ có bà chị ruột là cửa
hàng trưởng một cửa hàng mậu dịch Hà Nội nên mua được cho bà chủ một cái màn mới
mà không cần đến tem phiếu. Có màn, cả gia đình bà mừng lắm. Cuối tuần tôi về
Hà Nội, bà chủ nhà muốn gửi biếu chị tôi chút quà nhưng nhà nghèo quá, biết lấy
gì đền ơn. Người nông dân vốn tình nghĩa đôn hậu như vậy. Vì thế, từ sáng sớm
bà đã đi mò cua và đến chiều bà đã có 10 xóc cua để nhờ tôi đem về Hà Nội biếu
chị tôi làm quà. Tôi để 10 xóc cua đó vào chiếc cặp đen, mỗi ngăn 5 xóc rồi gấp
lại. Chưa hết, tôi cẩn thận cài khóa bên dưới rồi xách đi.
Về Hà Nội, lúc đến Bờ Hồ, tôi đi xe điện tuyến chợ Mơ để về
nhà. Lúc ngồi trên xe điện, những chú cua còn sống cứ ngọ nguậy nghe rào rào
như một tín hiệu gì đó, thế là anh bán vé xe điện hỏi tôi: Cái gì ở trong cặp của
cậu? Tôi không thèm trả lời, thấy vậy anh ta càng nghi ngờ và lớn tiếng: Tôi hỏi
cậu, cái gì ở trong cặp của cậu? Có lẽ anh đã nghi ngờ tôi có máy phát sóng điện…Hồi
đó có khẩu hiệu "mỗi người dân là một chiến sĩ công an" nên người ta
thường hay nghi ngờ lung tung. Nhìn đâu cũng thấy địch. Thấy tôi giả vờ lúng
túng, anh ta chắc mẫm đã phát hiện được tên gián điệp đang mang máy phát sóng
báo tín hiệu cho máy bay oanh tạc tàu điện của anh ta(!). Những tiếng quát lại
vang lên: Yêu cầu cậu mở cặp ra cho tôi kiểm tra. Tôi quát lại: Anh không có
quyền đó. Thế là cả tàu điện nhốn nháo. Có ai đó thông báo cho lái tàu để dừng
lại. Cả người lái tàu cũng đến mặt hằm hằm yêu cầu tôi mở cặp. Tôi nói: Các anh
phải có biên bản cuộc khám xét này. Nếu tôi mở ra chỉ có mấy con cua đồng thì
sao. Tôi sẽ kiện các anh về xí nghiệp xe điện. Nghe thấy có cua đồng trong cặp,
mọi người đều sửng sốt. Có người quát: Nói bậy. Lúc đó tôi mới từ từ mở chiếc cặp
đen "ngoại giao" của tôi ra, lần lượt lôi ra 10 xóc cua đồng còn sống,
chân cua vẫn ngọ nguậy. Thế là mọi người phá lên cười. Anh bán vé và người lái
tàu biến mất… Có lẽ trên hành tinh này, không ở đâu người ta sử dụng chiếc cặp
da đen sang trọng dùng trong ngoại giao để đựng dưa hấu và cua đồng như chiếc cặp
của tôi!
Đời sinh viên của chúng tôi ngày ấy lắm chuyện vui buồn như
thế. Trong ba năm học, từ 1963 đến 1966 mỗi năm chúng tôi học ở một nơi. Một
năm học ở Cầu Giấy Hà Nội, một năm sơ tán lên Đại Từ, Thái Nguyên (lúc đó gọi
là Bắc Thái). Một năm quay về vùng quê nghèo Yên Mỹ, Hưng Yên. Năm thứ hai ở Đại
Từ để lại những kỷ niệm thật khó quên: Đói khổ và thơ mộng. Đói là vì xa Hà Nội.
Mọi thứ tiêu chuẩn của sinh viên phải mua theo tem phiếu ở Hà Nội vì hộ khẩu ở
đó. Ngày đó đến rau muống cũng phải xếp hàng mua của mậu dịch theo tiêu chuẩn.
Vì thế, đi sơ tán xa các nhu yếu phẩm này không chuyển lên được. Đến kỳ, chúng
tôi phải đi bộ ra phố Đu ở Thái Nguyên, cách nơi sơ tán 20 km để gánh lương thực
về. Sinh viên lúc đó ở nhờ nhà dân nhưng lớp học thì phải tự làm lấy. Vì không
có rau nên các quả đồi, cánh rừng quanh đó có măng nứa, măng tre đều bị vặt trụi
để nấu canh. Một tháng chúng tôi chỉ được ăn thịt 1 hoặc 2 lần mua theo tem phiếu
chở từ Hà Nội lên. Thịt phải mua từ chiều hôm trước đến hôm sau mới lên tới nơi
mà kh6ogn có xe lạnh bảo quản như bây giờ nên thối hết, bốc mùi ôi. Nhưng các
chị nuôi vẫn tiếc rẻ, lấy dao cắt phần thối đi, phần còn lại nấu măng làm
"súp" cho sinh viên ăn với bột mì luộc hoặc cơm. Phần thịt được đem nấu
đã thâm lại, khi ăn chúng tôi phải vừa bịt mũi vừa ăn vì nó có mùi thum thủm.
Nhưng vì thèm thịt quá nên vẫn cứ phải ăn!
Đói khổ như thế nhưng chúng tôi vẫn tập văn nghệ và còn biểu
diễn văn nghệ cho bà con dân tộc xem. Ngoài ra còn tổ chức thi hùng biện nữa.
Tôi đã được giải trong một cuộc thi hùng biện do lớp tổ chức. Cuộc sống ngày ấy
gian khổ nhưng vẫn vui tươi có lẽ một phần do tuổi trẻ yêu đời, một phần vì
thiên nhiên Việt Bắc vô cùng thi vị, nâng đỡ tâm hồn con người. Thời kháng chiến
chống Pháp, tôi đã được sống ba năm có lẻ ở vùng núi trung du Phú Thọ, thời
sinh viên tôi lại được sống ở vùng rừng Thái Nguyên, Việt Bắc gần năm trời quả
là một diễm phúc trong một đời người để biết được đất nước mình tươi đẹp và nên
thơ đến nhường nào để thêm yêu tổ quốc mình. Vùng Đại Từ Thái Nguyên là vùng rừng
núi hoàn toàn nhưng không khắc nghiệt, cheo leo như vùng công viên đá Đồng Văn,
Hà Giang hoặc như vùng rừng núi trùng điệp như Lai Châu, Điện Biên. Núi rừng ở
Đại Từ xen kẽ những thung lũng nhỏ có thể trồng lúa nên cuộc sống của đồng bào
dân tộc Tày, Nùng ở đây rất dễ chịu và nên thơ. Đàn ông quanh năm đi săn bắn và
chặt gỗ làm nhà. Cứ vài, ba nếp nhà sàn ở gần nhau làm thành một xóm nhỏ. Đi cả
cây số nữa mới bắt gặp một xóm như thế. Từ xóm này đến xóm kia là những cây cầu
bắc cheo leo qua suối, là những con đường nhỏ luồn lách trong rừng. Đất ở đây
đa phần là đất đỏ, đất đá tổ ông rất hợp với tre, nứa, vầu… Nhiều cây vầu, một
loại tre rất to đường kính đến hơn gang tay và có thể cao đến 20 mét. Vậy mà có
gia đình sở hữu đến cả rừng vầu. Ngày đó, nói cho đúng thì ai muốn nhận quả đồi
nào, quả núi nào là của nhà mình thì cứ mặc sức. Vì đi cả cây số mới gặp vài nếp
nhà thì nhận cả rừng tre, nứa, vầu là của nhà mình cũng chẳng ai nói gì. Ở dưới
xuôi thì cây tre cây vầu có thể dựng làm cột cái xây nhà rất quý, nhưng ở Đại Từ
thì cho cả trăm cây tre một lúc cũng không ai lấy cả, vì lấy để làm gì? Có gia
đình đắp đất ngăn một khe núi thế là thành một cái ao. Cuối năm tháo nước ra, bắt
cá để ăn tết. Nước từ trên suối được dẫn xuống ruộng để cấy lúa. Nhà ở là nhà
sàn. Nhà nào cũng có một bếp lửa to ngay lối cầu thang lên. Mồi lửa là một cây
gổ dài, một đầu đưa vào bếp cháy âm ỉ quanh năm. Ra khỏi nhà ai cũng đeo một
con dao dài bên thắt lưng, lúc trở về là một bó củi nứa, củi tre mà mấy tháng
trước người ta đã phạt cho đứt, đợi đến khi cây khô lấy về làm củi đun. Cao dao
đeo bên hông của đồng bào Tày, Nùng lúc nào cũng sáng quắc khiến ta nhớ đến câu
thơ trong bài Việt Bắc: "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Chiều đến
trâu thả rông đeo mõ được lùa về. Đêm đến nghe tiếng chày nước giã gão lại nhớ
hai câu thơ:
"Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa"
Có lẽ, tôi phải chú thích ngay để các bạn sống ở thành thị
sau này, chưa một lần sống ở núi rừng Việt Bắc hiểu thế nào là "chày đêm nện
cối đều đều suối xa". Sự thể thế này: Bà con miền núi lợi dụng suối nước
chảy ngày đêm trong rừng nên làm một cái chầy là một cây gỗ lớn, bên dưới là
cái cối đựng gạo chưa giã còn dính cám. Ở giữa cây gỗ, đục ngang thân gắn một
cái trục, hai đầu trục được cố định xuống đất. Cây gỗ trở thành một cái đòn bẩy
mà đầu kia được khoét thành cái máng cho nước suối chảy vô. Khi máng đầy nước
vì nặng, nó sẽ chìm xuống khiến đầu kia của cây gỗ lại được tự động nâng lên.
Nước sẽ bị đổ ra và đầu cây gỗ lại được nâng lên khiến đầu kia lại rơi xuống
làm cho cái chày gắn ở đầu nó "giã" vào cối gạo. Cứ thế, vài phút nó
"giã" được một cái nhưng rất đều đặn. Vì thế mới "đều đều suối
xa". Có điều đáng nhớ là, cối gạo ấy ở giữa rừng, vài hôm sau chủ nhà mới
ra lấy gạo đã được nước "giã" đem về. Cuộc sống như thế có khác gì thời
Nghiêu-Thuấn, không ai lấy của ai.
Mùa đông chúng tôi ngồi học bài trên bếp lửa nhà sàn bập bùng
rồi lăm ra ngủ ngay trên bếp lửa. Sáng ra đứa nào đứa nấy quần áo cứ nhọ đen
như thợ lò đi làm về. Đến mùa gặt lúa vào cuối tháng 10 ta, nhà nào cũng giã gạo
non làm cốm. Tiếng chầy thình thịch núi rừng. Gần cuối năm, giáp tết bà con lại
lập những lò nấu mật ngay trên ruộng. Lò có trâu kéo đi vòng quanh một cái cối
ép mía để lấy nước nấu mật. Khói lò mía bay lên chờn vờn trong áng chiều, mùi
nước mía nấu mật thơm ngào ngạt. Sẵn củi, nước vài củ sắn (khoai mì) giòn tan,
chấm với mật mía vừa ra lò thì ngon vô cùng. Đứng từ trên đồi cao nhìn xuống những
nhà chòi nấu mật khói lam chiều bay lên chờn vờn mái lá, thấy cuộc sống nơi đây
thanh bình biết bao.
Sau này, đi đó đây tôi có dịp được thấy những lâu đài nguy
nga ở các đô thị lớn như Matxcơva, Paris, thấy những nhà chọc trời ở Thẩm Quyến,
Hồng Kông, Singapore… nhưng chẳng để lại gì nhiều trong tâm trí mình vẻ đẹp nào
như vẻ đẹp của những nếp nhà sàn, những chòi nấu mật giữa rừng núi Đại Từ Việt
Bắc.
Là cán sự một môn văn học nước ngoài nên tôi thường được đến
nghe thầy bộ môn Nguyễn Đức Nam bồi dưỡng kiến thức, hướng dẫn đọc sách để về
truyền đạt lại cho lớp. Thường các chủ nhật, tôi đến căn nhà sàn của thầy Nam
và ở đó nghe thầy giảng giải cho đến tối. Vì ở giữa núi rừng cũng chẳng biết đi
đâu vào ngày nghỉ. Thầy mới ngoài 30 tuổi, đậu phó tiến sĩ về văn học phương
tây ở Nga về. Thầy có mái tóc bồng bềnh, đôi mắt nheo cười hóm hỉnh, giọng Nghệ
đã pha trộn các ngôn ngữ Âu Châu nên du dương trầm bổng. Thầy đặc biệt tài hoa
và uyên bác, có thể giảng Shakespear bằng tiếng Anh, Moliere bằng tiếng Pháp,
Puskin bằng tiếng Nga rất trôi chảy. Tiếc rằng sinh viên chúng tôi dạo ấy dốt
ngoại ngữ quá nên thầy phải giảng về các văn hào của Anh, Pháp, Nga bằng tiếng
Việt. Sau ngày đất nước thống nhất, thầy vào thỉnh giảng cho các lớp văn khoa
năm cuối cùng cho các sinh viên Sài Gòn. Thầy giảng Shakespear bằng tiếng Anh.
Giờ văn học tiếng Pháp thầy giảng Victor Hugo bằng tiếng Pháp, thầy còn hỏi có
lớp nào hiểu tiếng Nga để thầy giảng Gô-gôn Sê Khốp bằng tiếng Nga. Các sinh
viên Sài Gòn lấy làm ngạc nhiên và dành cho thầy Nam nhiều kính trọng. Có lần
tôi đến thăm thầy ở nhà riêng 30 Phan Đình Phùng Hà Nội lúc đó thầy mới đi thỉnh
giảng ở Sài Gòn về. Thầy đưa tôi coi một tập luận văn viết về Shakespear bằng
tiếng Anh, một tập luận văn viết về Maupassant bằng tiếng Pháp của sinh viên
năm thứ tư văn khoa mà thầy đang chấm, rồi than phiền: So về trình độ thì các cậu
không kém sinh viên Sài Gòn, nhưng viết luận văn văn học nước ngoài bằng tiếng
Việt thì … yếu quá!
Những lần đến "thọ giáo" thầy Nam về văn học nước
ngoài, tôi được thầy giảng rất kỹ về kịch của Shakespear. Thấy cho biết, ở Liên
Xô có cả một khoa Shakespear họ, chuyên nghiên cứu về kịch của văn hào. Chính
thầy Nam của chúng tôi cũng được bạn phong là nhà Shakespear học. Khi lên lớp,
thầy đóng lại những cảnh độc thoại của hoàng tử Hamlet rất sinh động. Các nữ
sinh khóa tôi đều phải thú nhận rằng, mỗi khi thầy Nam lên lớp thì sau đó họ
không nhớ thầy đã nói gì vì mải… ngắm thầy là chính!
Tôi đã được thầy Nam giảng cho hiểu là vì sao người ta lại định
nghĩa "Shakespear" là Trái Đất, vì văn hào đã đưa cả loài người lúc
đó… lên sân khấu. Ngồi nghe thầy vừa nói vừa diễn đạt bằng ngôn ngữ sân khấu
nhân vật Hamlet, tôi có cảm tưởng rằng thầy chính là "cánh tay của chàng
hiệp sĩ, con mắt của nhà thông thái, miệng lưỡi của kẻ hào hoa" như chính
hoàng từ Hamlet đang đứng trước mặt tôi giữa núi rừng Việt Bắc vậy!
Nếu Shakespear sống lại ông không thể hình dung ra người ta
đang giảng giải, đang diễn vai Hamlet của ông giữa một cánh rừng châu Á xa xôi,
cách quê hương của vị hoàng tử nước Đan Mạch cả vạn cây số.
Đói khổ và thơ mộng thời sinh viên chúng tôi là như thế!
Chương 5
Những chuyện kể của tướng Qua
Sở dĩ có chương này trong hồi ký của tôi vì người phương Tây
có câu phương ngôn đầy ý nghĩa xã hội: Một nửa sự thật không phải là sự thật.
Vì người ta mới chỉ viết có một nửa sự thật nên có những nhân vật có thời được
dựng tượng, nhưng một thời gian không lâu, chỉ vài chục năm sau, thiên hạ lại
kéo đổ thần tượng đó xuống. Nhưng hàng trăm năm nay, không có ai kéo tượng của
Puskin, của Victor Hugo xuống cả. Lịch sử công bằng như thế.
Tướng Lê Hữu Qua, tên khai sinh là Lê Phú Cường (1914-2001),
là chú ruột của tôi. Ông là nhân chứng sống của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945
cho đến khi ông qua đời, 2001. Ông tham gia Việt Minh từ năm 1943, từng làm trưởng
Ban trinh sát Sở Công an Bắc Bộ năm 1945, là người phá vụ án phố Ôn Như Hầu nổi
tiếng sau Cách mạng tháng Tám. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, năm 1947 ông được
cử làm Giám đốc Công an khu 11 (tức Công an Hà Nội). Khi Nha Công an trung ương
chuyển lên Việt Bắc, ông được giao làm Phó Ty Trật tự tư pháp.
Đến tháng 3 năm 1954 ông được cử đi bảo vệ đoàn đại biểu Việt
Nam do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi dự hội nghị Genève tại Thụy Sĩ.
Khi hội nghị kết thúc, ông được cử tham gia đoàn của chính phủ đi công tác tại
Ý, Ai Cập, Ấn Độ, Miến Điện, Hồng Kông. Về Việt Nam ông được điều về Hà Nội gấp
để bảo vệ Hồ Chủ tịch và ông Phạm Văn Đồng trong cuộc gặp đại diện Cộng hòa
Pháp Sainteny tại Phủ Chủ tịch ngay sau giải phóng thủ đô. Năm 1956, ông làm
Phó Giám đốc Vụ Trị an Dân cảnh. Đến tháng 5/1962 ông được chính phủ cử làm Cục
trưởng Cục Cảnh sát Nhân dân với quân hàm thượng tá cảnh sát và giữ chức vụ này
cho đến năm 1967. Ông là người xây dựng lực lượng cảnh sát nhân dân từ ngày đầu
ấy. Sau thời gian đi học trường Nguyễn Ái Quốc về, ông giữ chức Cục trưởng Cục
Quản lý trại giam cho đến năm nghỉ hưu 1980. Thời gian làm Cục trưởng Cục quản
lý trại giam ông phải đảm nhận nhiều sĩ quan cấp tướng, cấp tá và quan chức cao
cấp của chính quyền Sài Gòn ra Bắc cải tạo, cũng như các trại cải tạo khác ở
toàn quốc. Ngày 18/4/1977 ông được Chủ tịch Tôn Đức Thắng phong hàm Thiếu tướng
công an. Bạn đọc chỉ cần gõ vào google mấy chữ "Thiếu tướng Lê Hữu Qua và
những chiến công…" là có ngay bài viết cùng nhan đề trên báo Công an Nhân
dân xuân Đinh Hợi 2007 để được biết về ông. Khi ông mất, báo Nhân dân số ra
ngày Chủ nhật 21/1/2001 đã đăng ở đầu trang 8 tin buồn, nguyên văn: Đảng ủy
Công an Trung ương Bộ Công an; Đảng ủy UBND phường Hàng Mã, Q. Hoàn Kiếm Hà Nội
và gia đình thương tiếc báo tin đồng chí Thiếu tướng Lê Hữu Qua, sinh năm 1914,
quê quán phường Phúc xá, Q. Ba Đình Hà Nội; Trú quán 28 Hàng Rươi phường Hàng
Mã, Q. Hoàn Kiếm Hà Nội; Tham gia cách mạng năm 1943, vào Đảng CSVN năm 1945;
nguyên Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng Bộ
Công an, đã về hưu. Huân chương độc lập hạng ba, huân chương quân công hạng nhất,
huân chương kháng chiến hạng hai, huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng
nhất, huy chương vì thế hệ trẻ, huy chương vì sự nghiệp giáo dục, kỷ niệm
chương của Bộ Nội vụ Cu Ba và nhiều huân chương khác, huy hiệu 50 năm tuổi Đảng,
đã từ trần hồi 4g 10 phút ngày 20/1/2001 tạ bệnh viện Hữu Nghị. Lễ viếng bắt đầu
lúc 8g ngày 22/1 tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng (39 Trần Khánh Dư Hà Nội). Lễ
truy điệu lúc 12g cùng ngày, an táng tại nghĩa trang xã Ngọc Thụy, huyện Gia
Lâm TP Hà Nội.
Một người nằm trong ngành an ninh và giữ nhiều trọng trách
như thế nên ông biết nhiều sự thật. Trong những lúc vui buồn dài theo năm
tháng, ông đã kể cho thằng cháu ruột của mình – đích tôn của dòng họ Lê Phú –
những sự thật đó một cách vô tư. Những câu chuyện của ông không có lớp lang gì
cả, nhân sự việc này, ông kể câu chuyện có liên quan. Lúc nghe ông kể, tôi cũng
không có ý thức phải ghi lại để sau này chép "sử" như nhà báo Huy Đức
đã viết "Bên thắng cuộc". Nhưng tôi nhận thấy cần phải viết lại những
điều tướng Qua đã kể, để "một nửa sự thật" mà người đời không biết đến,
hoặc người biết cố tình ém nhẹm đi, rồi lịch sử bị chôn vùi.
Những nhân vật mà người ta chỉ biết đến "một nửa" về
họ được suy tôn như những danh nhân hào kiệt, còn người đáng vinh danh lại
không được ai nhắc đến. Báo Sài Gòn Giải Phóng thời ông Tô Hòa làm tổng biên tập,
số ra ngày chủ nhật 1/6/1989 đã đăng bài thơ "Sự thật phải đong đầy"
của tôi:
Con tôi hỏi
Cái gì mắc nhất
Tivi hay tủ lạnh, honda?
Mai con lớn rồi con sẽ hiểu
Mắc nhất trên đời là sự thật con ơi!
Một nửa bánh mì vẫn là chất bánh
Một nửa dòng sông vẫn có đôi bờ
Một nửa vầng trăng vẫn thành nỗi nhớ
Một nửa cái hôn vẫn thấy ngọt ngào
Còn sự thật – con ơi – một nửa
Ngừoi trung kiên vẫn chết gục giữa đường
Kẻ bất lương vẫn trên ngôi thần thánh
Thằng lưu manh vẫn khoác áo anh hùng!
Sẽ muôn đời là dối trá, dối trá
Khi sự thật chẳng đong đầy
Bài thơ này gây bất ngờ cho nhiều người đọc thời đó. Ông Tô
Hào sau một lần chất vấn TBT Nguyễn Văn Linh đã bị cho thôi chức, về hưu. Nay
cuối đời, có thời gian tôi quay lại đề tài của bài thơ này trong chương mục
"Chuyện kể của tướng Qua". Tôi hệ thống lại các mẩu chuyện kể về các
nhân vật cho rõ nét, có những chuyện không nhớ thời gian kể, chỉ nhớ nội dung
chuyện vì thế tôi gom lại thành những chủ đề để ghi lại. Những chuyện tướng Qua
kể cho tôi nghe hoàn toàn ngẫu hứng và vô tình, trong những lần chú cháu gặp
nhau. Như tôi đã kể trên đây, hàng tháng tôi phải lên nhà tướng Qua để nhận số
tiền 30 đồng về cho ông bà nội tôi. Những năm sinh viên, tôi chỉ được nhận nửa
học bổng tức 11 đồng /tháng còn thiếu 11 đồng phải đóng cho nhà trường. Vì thế
mà chiều thứ bảy nào tôi cũngphải cắt cơm ở nhà bếp. Chủ nhật thì ăn no ở nhà rồi
chiều mới vào trường để số tiền phải đóng ít đi. Là học sinh thành thị quen ăn
sáng khi vào trường không được ăn sáng nên đói không học được. Ngày ấy tôi chăm
lên nhà chú Qua tôi để cuối tháng còn xin một tập báo nhân dân về bán ve chai
(đồng nát) lấy tiền ăn sáng. Bà thím tôi là một phụ nữ rất tằn tiện và tốt bụng.
Bà thu gom đủ 30 số báo nhân dân hàng tháng, chờ đến cuối tháng tôi lên, cho
tôi đem về bán ve chai. Bấy giờ giấy hiếm lắm, báo nhân dân lại là giấy khổ to
bán được tiền cũng khá. Tôi nhớ, 30 tờ bán được đủ số tiền để mỗi sáng có được
bát cháo lươn giá một hào do căn tin nhà trường bán cho sinh viên ăn sáng. Mỗi
lần tôi lên nhà chú tôi là được giữ lại ăn cơm chiều. Chú thím tôi không có
con, sau này nhận nuôi một bé còn nhỏ rồi lớn lên em tôi đi Liên Xô học nên nhà
rất vắng vẻ. Trong những bữa cơm chiều, tôi thường được nghe nhiều câu chyuện
nhân tình thế thái. Chương 5 của cuốn hồi ký này có được là nhờ những câu chuyện
hàn huyên như thế. Tất nhiên còn nhiều chuyện được tướng Qua kể trong những dịp
khác.
Chuyện về ông bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn.
Gộp những gì tướng Qua nhắc đến thì đây là một ông quan liêu
nặng, dốt nát nhưng hay khoe mẽ, ích kỷ và dối trá, thích cấp dưới tâng bốc
mình, ghét người trung thực, đặc biệt là ghét trí thức. Ông đã loại bỏ trí thức
ra khỏi guồng máy công an. Vợ ông là một người tham lam vô độ, cái gì vơ được
là vơ… Chưa bao giờ tôi thấy tướng Qua gọi tên hay chức vụ Bộ trưởng đối với Trần
Quốc Hoàn. Ông gọi vị Bộ trưởng này bằng tên H lưu manh! Không nhân nhượng gì cả.
Ông gọi tắt chữ Hoàn bằng âm H (hát). Lần đầu tiên tôi nghe ông gọi thế, và mãi
sau này vẫn gọi thế. Nhiều lúc tôi thấy thương ông chú tôi, suốt đời phải làm
việc với một vị thủ trưởng như thế. Cũng nhiều lúc tôi thấy giận ông vì sao
không thể… bỏ mà đi, không làm việc ở Bộ Công an nữa. Nhưng sau này gặp nhà văn
Tuấn Vinh, chuyên viết truyện về đề tài công an, cùng công tác ở Đài Tiếng nói
Việt Nam với tôi, biết tôi là cháu tướng Qua, nên đã tặng tôi tập sách
"Bão táp mùa thu" của NXB Công an nhân dân 1995 gồm các truyện ký về
sự trưởng thành của công an thủ đô nhân 50 năm thành lập ngành công an nhân dân
của nhiều tác giả. Trong bài "Những ngày đầu" hồi ký của Lê Hữu Qua
do nhà văn Mai Ngữ ghi lại, trong hơn 30 trang hồi ký đó có đoạn: "Anh em
chúng tôi đa số là lớp thanh niên mới lớn, nhiều cậu lúc ấy chưa hề tỏ tình với
cô gái nào là cách mạng đến. Nếu gọi là mối tình đầu của người con trai thì cách
mạng là mối tình đầu của họ… một tình yêu chung thủy và sắt son, mặc dù sau bao
nhiêu năm có nhiều điều làm ta bực bội. Có nhiều kẻ mang danh cách mạng làm
chuyện vô lương, nhưng nếu có ai chống lại cách mạng thì chúng tôi không chịu nổi…".
Càng ngẫm tôi càng thương chú tôi, một thanh niên Hà Nội đẹp
trai giỏi võ nghệ, giỏi bắn súng, giỏi lái xe hơi, nói thạo tiếng Pháp và… chỉ
có "một mối tình đầu" là cách mạng và suốt đời chung thủy với mối
tình đó nên ông không thể từ bỏ được. Ông không thể như Sartre "đi tìm niềm
trung thành mới". Đầu năm 60, tôi đến Bộ Công An chơi với chú tôi vì nhà
ông ở ngay trong cơ quan Bộ, đi vô phải qua vọng gác. Ông ở trong một căn phòng
nhỏ ở trên tầng lầu. Hai vợ chồng chỉ có một phòng cho tất cả mọi sinh hoạt.
Tôi liếc nhìn bốn bề… Hiểu ý tôi, tướng Qua chỉ tay xuống căn biệt thự rất sang
trọng dưới cửa sổ và nói: Tên H lưu manh này chỉ biết hắn thôi. Sau ngày giải
phóng thủ đô, hắn chiếm ngay ngôi biệt thự này (nằm trên đường Trần Bình Trọng,
một phía của biệt thự giáp đại lộ Trần Hưng Đạo, phía đối diện là Bộ Công an,
chiếm cả dãy phố Trần Bình Trọng). Tất cả các cán bộ cao cấp khác, hắn bắt ở
trong cơ quan Bộ với lý do "bảo vệ cán bộ". Nhiều ngôi nhà quanh hồ
Hale, chủ nhân di cư vô Nam, anh em xin ra ở đó H cũng không cho. Sau này lên
thăm chú tôi nhiều lần, tôi mới biết đối diện phòng ông là phòng của Thứ trưởng
Viễn Chi, sát đó là phòng của gia đình ông Nguyễn Công Tài, Cục trưởng. Vậy là
hai vị cục trưởng và một vị thứ trưởng phải ở chung một tầng lầu chật hẹp, đi
chung cầu thang, mọi tiện nghi sinh hoạt khác đều ở tầng trệt công cộng. Ông Viễn
Chi có đứa con bị tật, ông phải đưa người bố đẻ ở quê lên để trông cháu. Tất tật
chui rúc trong một căn phòng. Cụ thân sinh ra ông Viễn Chi rất đẹp lão, trông
như một ông tiên. Một lần tôi sang chơi với cụ lúc mọi người đi vắng, cụ còn đọc
thơ cho tôi nghe. Cụ lấy bút danh là Dã Tiên (ông tiên nơi thôn dã). Cụ than
phiền với tôi phải rời quê ra đây, ở căn phòng chật hẹp này, cụ buồn lắm. Nhưng
vì "thương anh Chi" nên cụ phải ở. Nói chuyện với cụ, tôi thấy đây là
một ông già rất thông thái. Cụ thấy tôi đã 20 tuổi nhưng gầy yếu cụ khuyên tôi
một vài năm nữa phải lấy vợ vì luật âm dương phải hài hòa!!! Một ông già như
ông Dã Tiên phải được sống ở nơi non xanh nước biếc mà lại bị cầm tù ở cái gác ấy
thì thật là đáng trách. Một lần, cũng do vô tình, tôi được một vị trung niên rất
đẹp tướng, cao to, mặt mũi sáng sủa, là hàng xóm của tướng Qua kêu tôi sang nhà
nhờ khiêng một cái giường cá nhân. Tôi thấy nhà ông ấy có nhiều sách lại có hai
cái điện thọai mắc ở đầu giường, trong khi tướng Qua chỉ có một điện thoại. Tôi
hỏi tướng Qua ông ấy là ai mà oai vậy? Tướng Qua cười bảo tôi, cháu học văn mà
không biết, ông ấy là ông Tài con nhà văn Nguyễn Công Hoan đó. Cái thế giới nhà
tập thể nó thế. Ai có ở nhà tập thể do cơ quan cấp mới thấy chán chường. Đã cả
ngày nhìn thấy nhau ở cơ quan, đến khi về đến nhà riêng ra vào lại phải gặp những
gương mặt đó. Hợp nhau đã vậy còn nếu không thì chỉ mong dọn đi chỗ khác. Có lẽ
vì chán ở tập thể nên chú tôi tìm cách dọn ra ở bên ngoài. Di chuyển đôi lần rồi
cuối cùng ông ở 28 phố Hàng Rươi cho đến cuối đời. Lý do về ở phố, theo ông nói
với tôi là "thích ở gần dân". Nhưng ngôi nhà 28 Hàng Rươi cũng vô
cùng chật hẹp. Nhà hình ống, bề ngang chỉ hơn 2 m, cầu thang lên dựng đứng. Đi
ra đi vào phải lách, vậy mà ông đã ở đấy cho đến lúc ra đi… Có lần, một người ở
quê ra chơi, thấy ngôi nhà bé quá, khi về ông ta nhỡ miệng than với mọi người:
Nhà ông tướng gì mà như cái chuồng chó! Sau này nghe được câu nói đó, tướng Qua
buồn lắm!
Cả một đời ngang dọc, đánh đông dẹp bắc chiến tích đầy mình
mà đến cuối đời chú tôi vẫn phải ở trong căn nhà "như cái chuồng chó"
ấy thật là bất công. Bây giờ, mỗi khi vô một căn nhà, chủ nhân chỉ là viên sĩ
quan cấp tá thôi nhưng nhà họ nguy nga như một lâu đài. Tôi mới ngẫm ra rằng,
như một nhà hiền triết đã nói: "Nghĩ ra một chủ nghĩa bao giờ cũng là các
bậc thiên tài. Thực hiện cái chủ nghĩa đó bao giờ cũng là những người cuồng tín
và hưởng thành quả của chủ nghĩa đó thì bao giờ cũng là bọn lưu manh".
Nói về tính ích kỷ và sự dối trá của Trần Quốc Hoàn tướng Qua
có lần kể, dưới bàn làm việc của tên H là một cái hầm. Chỉ cần bấm nút một cái
là cả bàn giấy của H thụt xuống hầm sâu. Căn hầm có thể tránh được bom nguyên tử.
Bên phố Yết Kiêu gần đấy, dưới đất là cả một căn hầm rộng mênh mông. Tên H rất
sợ chết, chỉ lo bảo toàn tính mạng cho riêng hắn.
Khi nói đến sự láu cá, cơ hội, nịnh hót trong hàng ngũ lãnh đạo
Bộ Công An, tướng Qua dẫn ra những nhân vật thật tức cười. Đó là thứ trưởng
Minh Tiến, cái ông đã làm giấy mượn khẩu súng lục của ông nội tôi khi còn là chủ
tịch xã … Minh Tiến thường lảng vảng trong sân Bộ mỗi khi Trần Quốc Hoàn đi đâu
về khuya. Khi nghe thấy tiếng xe của Hoàn về là Minh Tiến chạy vội lên phòng, bật
đèn sáng choang, ngồi ngay ngắn… "làm việc"! Vì thế Hoàn thường khen:
Ở Bộ này chỉ có Minh Tiến là "thức khuya dậy sớm" mà thôi. Cái nghề ở
tập thể nó thế. Không ai che giấu được cái tốt, cái xấu với mọi người. Một nhân
vật nữa là cục trưởng Hoàng Mai, cục trưởng Cục trại giam trước khi tướng Qua
tiếp nhận chức vụ này. Hoàng Mai đi công tác từ Hà Nội, đến Bắc Giang thì bắn
được một con chim gáy. Hắn vội quay xe về, chạy hộc tốc lên gác nhà Trần Quốc
Hoàn, biếu vợ Hoàn con chim gáy đó và được vợ Hoàn khen nức nở là người tốt. Và
dĩ nhiên là được Bộ trưởng Hoàn xếp vào danh sách cán bộ tin cậy.
Nói về sự nịnh hót của cấp dưới và sự ba hoa phét lác của
"tên H lưu manh", tướng Qua kể mỗi năm Bộ Công An có một cuộc họp
toàn quốc vào cuối năm. H ba hoa xích đế trên diễn đàn. H thường mời những tay
có học vị phó tiến sĩ đỗ đạt ở Liên Xô về nói các vấn đề mới về khoa học cho
mình nghe. Khi hội nghị toàn quốc của ngành hắn đem những điều nghe được lõm bỏm
đó ra ba hoa với hội nghị. Đến giờ giải lao, hắn chạy xuống chỉ tay vào những
người ở hàng ghế đầu, thường là thứ trưởng, cục trưởng hỏi: Tôi nói nghe có được
không? Thế là lập tức có kẻ xoa xoa hai tay, tâng bốc: Nghe Bộ trưởng nói cứ…
sáng ra, ước gì một năm có vài lần hội nghị toàn quốc thế này để anh em được
nâng cao trình độ. H sung sướng cười híp cả mắt. Vì thế nên tôi và HH (cục trưởng)
đến kỳ họp toàn quốc phải lẩn xuống chỗ các trưởng ty ngồi để đề phòng tên H nhỡ
ra lại chỉ tay vào mình mà hỏi: Tôi nói thế anh Qua thấy thế nào? Chả nhẽ lại
nói, anh nói tôi nghe như… cục c!
Nói về sự ton hót, tướng Qua kể một chuyện đáng buồn nôn. Đó
là kỳ họp sau khi thống nhất đất nước. Sau khi nói về sự "tiến bộ" của
ngành, tên H hỏi anh em: Đánh giá ngành ta thế có khách quan không? Một tên ton
hót đã thưa: Thế mà có người nói rằng đi xa, lâu ngày về Bộ thấy chẳng có gì
thay đổi cả(!) Tôi nghe câu đó giật mình lo cho Nguyễn Công Tài. Tài đi B công
tác 9-10 năm, bị tù rất anh dũng, sau khi đất nước thống nhất được đón về như một
vị anh hùng. Nhưng Tài thẳng thắn, và chính Tài là tác giả của câu nói đó. Và
quả thật, Tài đã lâm nạn. Chỉ ít lâu sau bị "nghi vấn" là khi ở tù có
khai báo và bị chuyển đi khỏi ngành.
Nói về sự bịp bợm của tên H, tướng Qua kể, hắn mua rất nhiều
máy tính điện tử, ngày nay gọi là máy vi tính. Tốn kém không biết bao nhiêu là
tiền của công quỹ. Hắn báo cáo với Bộ Chính trị rằng, với thứ máy móc siêu việt
này, án nào cũng phá được. Những người công tác lâu năm trong công việc điều
tra hỉnh sự thì hiểu rất rõ rằng, nếu đưa dữ liệu sai vào máy tính thì còn nguy
hiểm gấp trăm lần vì máy sẽ nhân cái sai lên trăm lần. Để nói về sự trung thực
trong công tác điều tra, không quan liêu, không ép cung, để "phá án"
lấy thành tích tướng Qua đã kể cho tôi nghe nhiều lần "Vụ án ở nhà máy cơ
khí xe lửa Gia Lâm Hà Nội". Câu chuyện như sau: Giám đốc nhà máy cơ khí xe
lửa Gia lâm tự tử. Nhưng vì muốn có thành tích, Sở Công An đã ép cung đến 8-9
cán bộ. Vì bị tra tấn ép cung quá, không chịu nổi họ đều đã nhận giết ông giám
đốc nhà máy. Án được "phá" nhanh chóng và được báo cáo lên Quốc Hội,
được chủ tịch Quốc Hội Trường Chinh khen. Nhưng một hôm, cái xác ông giám đốc
nhà máy ấy được vớt lên ở cửa sông Hồng thuộc tỉnh Hưng Yên. Sau khi khám nghiệm
tử thi, trưởng phòng đại úy Tích kết luận là nạn nhân tự sát, không phải bị giết.
Nửa đêm, đại úy Tích đạp xe về Bộ báo cáo Cục trưởng cảnh sát Lê Hữu Qua. Ông cục
trưởng noói: Nếu đúng vậy thì anh làm hồ sơ thật cẩn thận để điều tra lại. Thế
là bùng nổ cuộc xung đột giữa giám đốc công an Hà Nội lúc đó mà đứng sau là thứ
trưởng Lê Quốc Thân với Cục cảnh sát nhân dân, đứng đầu là cục trưởng Qua. Cuộc
đối đầu này, mà theo cục trưởng Qua thì "Hồ sơ đã lên đến hàng tạ giấy"
mà không phân thắng bại, phải trái. Nhưng quyết tâm của Cục cảnh sát là phải
minh oan cho các nạn nhân bị ép cung. Cuộc đấu tranh một mất một còn này kéo
thêm một cái chết nữa của một viên bác sĩ Pháp y của quân đội quốc gia (Bảo Đại).
Viên thiếu tá Pháp y rất giỏi này được mời tham gia vụ án. Trong một phiên họp
rất căng do Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn chủ trì, bác sĩ giáo sư Tôn Thất Tùng vì
quá lo sợ, mồ hôi vã ra như tắm. Ông rút khăn tay trong túi lau mặt khiến những
gói mì chính nhỏ rơi ra (Bác sĩ Tùng có thói quen gói những gói mì chính (bột
ngọt) nhỏ trong người để mỗi khi ăn phở ông lấy ra một gói cho vô tô phở). Thời
đó, bột ngọt quý như vàng. Bác sĩ Tùng phải là người sang lắm mới có sẵn thứ
này trong người. Tướng Qua kể, thấy Gs Tùng run quá, tôi phải nhặt dùm ông các
gói mì chính rồi để lại vào túi cho ông. Tôi nói: Gs cứ bình tĩnh phát biểu. Gs
Tùng đã từ chối kết luận vì ông không phải là Pháp y. Đến lượt viên thiếu tá
Pháp y của quân đội quốc gia Bảo Đại phát biểu, sau khi chứng minh ông giám đốc
không phải bị giết. Trong cơ xúc động, ông thiếu tá đấm tay vô chiếc bảng treo
trên tường và nói lớn: Nếu giám đốc nhà máy cơ khí xe lửa Gia Lâm mà bị giết
thì đốt hết sách vở đi! Nói xong, ông ta uống gói thuốc độc lấy ra từ túi và gục
xuống chết ngay tại phòng họp. Tướng Qua cũng nói tỉ mỉ về vai trò của ông Lê Đức
Thọ trong vụ này. Ông kể: Ông Thọ yêu cầu chúng tôi phải mang đạo cụ đến nhà
riêng của ông, diễn lại vụ tự tử của giám đốc nhà máy như quan điểm của Cục Cảnh
sát. Chúng tôi phải chở đến cả một xe tải dụng cụ, y như là một gán hát chở
phông màn đến diễn tuồng. Cực nhất là phải mua cả tiết heo để vẩy lên hiện trường
để thuyết minh các tình tiết về các vết máu khi xảy ra sự việc. Xem kỹ "vở
diễn" ông Thọ kết luận là phải tiếp tục điều tra để đi đến kết luận. Sự việc
lên đến đỉnh điểm khi một phiên họp, có cả giám đốc trại giam đang giam giữ các
tù nhân bị ép cung, thứ trưởng Lê Quốc Thân ra hiệu bằng mồm (ám hiệu bật môi
khi phát âm chữ bờ-b không thành tiếng) là bắn các tù nhân để bịt đầu mối. Tôi
biết Thân hay ra ám hiệu nên theo dõi Thân rất kỹ trong cuộc họp. Đến khi hắn
ra hiệu "bắn", tôi báo ngay cho ông Thọ biết. lập tức ông Thọ điện
cho Thân hỏi, có phải anh ra lệnh bắn tù để bịt đầu mối vụ án phải không? Sau
này anh em kể lại, nghe điện thoại của ông Thọ xong, Thân chửi ầm lên là lại thằng
Qua báo cáo chứ gì.
Tình hình Bộ Công An lúc đó rất căng thẳng giữa Cục Cảnh sát
và thứ trưởng Thân. Trong một phiên họp có phó Ban kiểm tra trung ương là Trần
Kiên dự, Lê Quốc Thân đã chỉ thẳng vào mặt cục trưởng Lê Hữu Qua nạt: Anh Qua sẽ
phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc rũ rối vụ án đã được khép lại này. Tướng
Qua cũng kiên quyết: Tôi phản đối đến cùng kết luận của giám đốc công an Hà Nội
và anh.
Cuối cùng thì một đoàn chuyên gia của Bộ Công An nước Cộng
Hòa Dân Chủ Đức được mời sang. Theo tướng Qua, nước Đức có nhiều kinh nghiệm về
nghiệp vụ phá án. Quan điểm của các bạn Đức là nếu có án thì hung thủ phải để lại
hiện trường dấu vết, và nếu có dấu vết thì sẽ tìm ra thủ phạm.
Đoàn của Đức đi riêng một chuyên cơ gồm 10 người, gồm chuyên
gia các lĩnh vực. Tướng Qua cho hay có một ông gọi là "chuyên gia thắt cổ".
Ông đem theo cả một bộ sách dầy, tổng kết tất cả các hình thức thắt cổ kèm theo
hình vẽ, có từ thời Hy Lạp cổ đại đến giờ. Bộ sách phân tích và kết luận sau mỗi
vụ án thắt cổ một cách khoa học để người ta đến hiện trường có thể kết luận
ngay, chính xác đến 50% là nạn nhân bị thắt cổ hay tự thắt cổ, sau đó điều tra
tiếp.
Tướng Qua đã kể cho tôi nghe nhiều lần về những ông bạn Đức
tài giỏi này. Ví như các bạn khuyên ta không nên đổi tên phố, tên đường, tên
xã… vì như thế sau này rất khó phá án. Và chuyện vụ án kia, thật "kỳ lạ",
chỉ sau một thời gian ngắm làm việc, đoàn chuyên gia Đức đã kết luận ông giám đốc
nhà máy xe lửa Gia Lâm tự sát, không phải bị giết. Tất cả tù nhân liên quan đến
vụ án được tha bổng!
Một buổi sáng đẹp trời sau đó không lâu, tôi lên nhà tướng
Qua chơi, ông chỉ tay về phía cửa sổ hướng tới Sở Công An Hà Nội ở đường Trần
Hưng Đạo, nơi đang có tiếng nhạc ồn ào phát ra, noói: Sáng nay Sở "đưa
đám" giám đốc Long. Thì hóa ra, sau vụ án ép cung này, giám đốc công an Hà
Nội lúc đó bị cách chức, điều đi làm trưởng ban dân quân tự vệ Bộ Giao thông Vận
tải. Sáng hôm đó người ta liên hoan tiễn đưa ông mà tướng Qua bảo là "đưa
đám giám đốc Long". Sau khi giám đốc công an Hà Nội bị cách chức, tướng
Qua phải đi học trường Đảng Nguyễn Ái Quốc vì giữa Cục Cảnh sát và thứ trưởng
Thân "không thể làm việc với nhau được nữa".
Sau 1975, với sự việc bắt đi cải tạo tất cả các sĩ quan tướng
lĩnh thuộc chế độ Sài Gòn cũ (thực chất là bắt đi tù vô thời hạn), tướng Qua
lên án Trần Quốc Hoàn rất gay gắt. Dĩ nhiên việc này không chỉ riêng ông Hoàn chịu
trách nhiệm, nhưng tướng Qua có nhiều bất đồng với các chủ trương của Hoàn
trong việc này. Ông nói: Sau 30/4/1975 việc đầu tiên là tên H lưu manh lùa cán
bộ vào Nam bắt tù. Y vô Sài Gòn ngồi khoanh chân vòng tròn trên một cái sập,
luôn mồm thúc giục phải gấp làm hồ sơ để bắt tù. Trông y ngồi như một tên địa
chủ!
Việc làm hồ sơ tù nhân là để phân loại, cấp tá thì lùa ra Bắc
bằng tàu thủy. Cấp tướng và ngụy quyền cao cấp (tức thứ, bộ trưởng, nghị sĩ quốc
hội …) thì đi bằng máy bay. Điều này trong cuốn "Bên Thắng Cuộc" của
nhà báo Huy Đức đã mô tả là rất đúng. Tôi, kẻ viết những dòng chữ này là người
trực tiếp đi "đón" các vị đi cải tạo ra Bắc nên xác nhận Huy Đức viết
đúng.
Số là thế này, sau nhiều năm dạy học ở Hải Hưng, năm 1974 tôi
được Đài Tiếng nói Việt Nam nhận về làm phóng viên tại ban miền Nam của Đài.
Sau 30/4 ở Đài Tiếng nói Việt Nam ai cũng muốn đi vô Sài Gòn. Lúc đó được đi
Sài Gòn thì sung sướng gấp 10 lần được đi nước ngoài. Nhưng chỉ cán bộ lãnh đạo
cấp trưởng, phó ban trở lên của Đài mới hy vọng được đi. Các vị đi Sài Gòn lúc
đó phải có quyết định của Tổng Giám đốc Đài, phải được sự đồng ý của Cục tác
chiến Bộ Quốc Phòng, phải có giấy để đi đổi tiến vì miền Nam lúc ấy còn tiêu tiền
chế độ cũ… Nói chung là rất khó. Tôi nghĩ ra một "mẹo" là sang Bộ
Công An, xin tướng Qua một cái giấy giới thiệu là nhà báo, được Cục Quản lý Trại
giam giới thiệu vào các trại giam ở miền Nam để "nghiên cứu". Giấy giới
thiệu được đóng mộc Bộ Công An ngay vì em ruột của tướng Qua là Lê Phú Ninh
đang làm ở văn phòng Bộ. Ông Lê Phú Ninh cũng là chú ruột của tôi, tôi kêu bằng
chú Ba. Với cái giấy giới thiệu của Bộ Công An như thế đem về Đài, Tổng giám đốc
Trần Lâm đồng ý ngay. Đều là dân Hà Nội đi hoạt động cách mạng nên Trần Lâm
cũng rất biết tướng Qua (ông Lâm quê gốc ở Hải Dương nhưng sống ở Hà Nội từ bé
và lấy vợ con nhà giàu ở phố Hàng Đào). Ông trưởng phòng của tôi cũng được
"ăn theo" tôi đi Sài Gòn vì đi phải có đoàn, có tập thể. Trước khi
đi, Tổng giám đốc Đài còn giao nhiệm vụ cho "đoàn" là phải gặp gỡ các
trí thức Sài Gòn như các ông Lý Chánh Trung, bà Ngô Bá Thành, anh Lê Văn Nuôi,
anh Huỳnh Tấn Mẫm… để thu thập tư liệu, chuẩn bị bài viết về họ vì năm 1976,
các vị này sẽ tham gia quốc hội thống nhất đầu tiên.
Tôi lên đường. Trại giam nào cũng vào, kể cả Khám Chí Hòa vì
có cái giấy giới thiệu của Cục Trại giam. Khi trưởng trại biết tôi là cháu ruột
của tướng Qua thì ông mời nhậu … vô tư. Một lần tôi đi lang thang lên Thủ Dầu Một
chơi, gặp ông Sáu Phát, là cán bộ cao cấp của tỉnh, sau này là chủ tịch tỉnh
Sông Bé, lúc ra về trời đã tối ông Sáu rất tốt bụng đưa cho tôi một khẩu súng lục
bảo cầm lấy để phòng thân. Tôi thành thật nói từ bé đến giờ tôi chưa cầm súng
thật bao giờ và cũng không biết bắn súng. Tôi cảm ơn và trả lại ông. Tôi còn
nói đùa: Nếu gặp địch là … tôi đầu hàng! Ông Sáu Phát khen tôi là người Hà Nội
có khiếu nói giỡn.
Cũng nhờ lang thang các trại giam ở Sài Gòn và miền Nam mà
tôi gặp đại úy Hán, trại trưởng một trại ở Nam Hà, ông này có nhiệm vụ là vô
Sài Gòn để mua một cái "téc" xăng đem ra Bắc để trại ông nấu rượu mơ
vì vùng của ông là cả một rừng mơ. Ông cũng được giao nhiệm vụ chở hồ sơ tù ra
Bắc cho Bộ Công An. Chiếc xe tải to đùng của ông đủ chở cái "téc"
xăng trong đựng hồ sơ tù. Tôi xin ông cho quá giang xe về Hà Nội. Dĩ nhiên là
ông đồng ý. Chúng tôi đi mất 4 ngày mới về đến Hà Nội, đêm ngủ ở các ty công an
tỉnh.
Một buổi sáng nọ, tướng Qua cho tôi cùng đi "quan
sát" việc đưa tù nhân cấp tướng và ngụy quyền cao cấp Sài Gòn ra Bắc. Xe
com-măng-ca của ông đỗ trong sân bay Gia Lâm chờ máy bay chở tù từ Sài Gòn hạ
cánh. Từ xa chúng tôi dùng ống nhòm quan sát các vị tướng lĩnh xuống máy bay.
Tôi nhìn rõ qua ống nhòm, các ông tướng mang theo hành trang nặng nề như các
ông tay ba lô đi du lịch bụi bây giờ. Tướng Qua giải thích, chúng tôi cho họ
mang đầy đủ đồ dùng cá nhân, chăn mền, cả chiếu nằm nữa.
Một buổi sáng đầu năm 1977, tôi lại được tướng Qua cho vô
thăm trại Ba Sao, nơi giam giữ các tướng lĩnh và "ngụy quyền" cao cấp
của chế độ Sài Gòn để học tập cải tạo. Vừa xuống xe, các sĩ quan quản lý trại
đã nói: Chúc mừng thủ trưởng sắp lên tướng. Thì ra họ đã biết tướng Qua (lúc đó
đang đeo lon đại tá) sẽ được lên tướng trong thời gian sắp tới. Quả đúng như vậy,
tháng 4/1977 ông được thăng chức thiếu tướng. Ngày đó, chức thiếu tướng
"oai" lắm. Theo tôi biết ở Bộ Công An, chỉ có một vị được đeo lon thiếu
tướng ngạch cảnh sát là thiếu tướng Nguyễn Thế Tùng.
Quan sát cảnh quanh trại Ba Sao thì đây là vùng Hà Nam Ninh,
vũng trũng có nhiều núi đá vôi mọc lên từ các đầm nước rộng. Sách địa lý gọi đó
là vùng Hạ Long cạn. Nhân đây cũng nói thêm, sau 30/4 Cục Trại giam đã
"đánh" một vị phó tiến sĩ tâm lý học, tốt nghiệp ở Liên Xô về, nếu
tôi nhớ không nhầm thì anh ta tên là Tịch đeo lon đại úy. Xin bạn đọc tha lỗi
cho những đoạn phải thòng câu "nếu tôi nhớ không nhầm" vì ngày đó thú
thật tôi không định làm một cuốn như "Bên Thắng Cuộc" nên không ghi
chép lại cụ thể nhưng đến nay đã ở tuổi 70 thấy cần phải nói rõ sự thật, không
nói một nửa sự thật như người ta vẫn làm nên mới có cuốn hồi ký này. Đại úy Tịch
được "đánh" vào trại giam với với số tù giả.
Tôi được đưa xem nơi ăn ở của các tù nhân học tập cải tạo.
Phòng giam rất rộng, được xây rất nhiều bệ xi măng sát nhau vừa một người nằm.
Các tù nhân trải chiếu cá nhân đan bằng sợi ny lon nhiều màu lên các "giường"
của mình như trải chiếu hoa. Trông rất đẹp mắt. Giường chiếu, đồ đạc được xếp
ngăn nắp, trật tự. Trong khi tôi đi ngắm nơi ăn chốn ở của họ thì các tù nhân lại
đứng chơi ở ngoài sân rộng, ngắm phong cảnh. Tôi thấy một vị rất già, mặt vuông
chữ điền, râu để dài như Quan Vân Trường, chỉ khác là râu đã bạc trắng, rất oai
vệ. Tôi hỏi tướng Qua: Già thế kia còn bắt đi cải tạo làm gì? Tướng Qua nói, thế
cháu không biết ông ấy là Vũ Hồng Khanh, đảng trưởng Quốc dân đảng à? Tôi vẫn
thắc mắc: Quốc dân đảng đã chết từ lâu rồi cơ mà? Tôi lại được giải thích: Mỹ
luôn duy trì các đảng phái chính trị đối lập, khi cần thì thay ngựa giữa dòng!
Lệnh của H phải bắt thì tôi cứ bắt, nhưng sẽ thu xếp để ông ấy được về quê ở
Vĩnh Yên, chết già, khỏi mang tiếng là chết trong tù (quả thật, sau này ông Vũ
Hồng Khanh được chết ở quê hương Vĩnh Yên của ông). Tôi lại gặp một vị đứng tuổi
khác, dáng vẻ rất trí thức. Ông ta tự giới thiệu là Phạm Xuân Bào, thứ trưởng Bộ
Giáo Dục Sài Gòn có con đang học đạo diễn ở bên Pháp. Tôi lại đi tìm tướng Qua
để thắc mắc. Tôi nói: ông thứ trưởng Phạm Xuân Bào là một trí thức có tên tuổi ở
miền Nam. Ngày cháu vô thư viện Huế, thấy có cả một cái étagère sách dành riêng
cho giáo sư. Bắt những trí thức như thế đi cải tạo làm gì? Tướng Qua vẫn trầm
tư hút thuốc, ông nhả từng làn khói rồi mỉa mai nói: ngụy quyền cao cấp mà! Ông
muốn mỉa mai những điều mà tên H đặt ra rồi bắt Cục trại giam thực thi với các
đối tượng phải đi tù ra Bắc. Có một vị làm tôi suy nghĩ mãi, đó là một trung
niên. Ông ta nói thẳng với tôi làm mình bị tù oan! Tôi hỏi lý do, ông ta giải
thích: tôi là nghị sĩ Quốc Hội, nhưng là phe đối lập với ông Thiệu, chống chính
phủ Thiệu tham nhũng!
Tôi không khỏi ngỡ ngàng đến đau xót khi thấy chế độ Sài Gòn
về mặt thể chế hơn hẳn chế độ độc đảng ở miền Bắc, vì Quốc hội của họ có phe đối
lập. Nhưng dưới con mắt của những người sống trong xã hội nhất nguyên độc đảng
thì nghị sĩ Quốc hội là "ngụy quyền cao cấp" rồi, đã là "cao cấp"
thì phải đi cải tạo! Tôi không còn hỏi thêm gì nữa, sau khi gặp ông nghị sĩ phải
tù oan này! Làm sao cục trưởng Qua có thể cãi lại những quan điểm của Bộ trưởng
H và cả những người trên H nữa. Nhưng tướng Qua phản đối việc khai thác, lấy
cung tù nhân ngay lập tức. Ông nói với tôi: người ta vừa chân ướt chân ráo ra Bắc,
đang hoang mang cực độ, có hỏi cung thì họ cũng khai cho qua chuyện, hoặc khai
láo không đem lại một thông tin gì có tính khoa học để ta hiểu thêm phía bên
kia. Quan điểm chính thống là, tướng lĩnh cao cấp của chính quyền Sài Gòn sẽ phải
khai ra những bí mật, những ý đồ, cả những tâm tư của họ trong suốt mấy chục
năm giao tranh với bên cộng sản mà nay là dịp ta được biết, rất cần cho ngành
an ninh của ta. Tướng Qua lại chủ trương thuyết phục, cảm hóa để họ nói thật,
khai thật. Cuối cùng thì quan điểm của ông đã thắng.
Vì thế mới có chuyện các vị giáo sư, các nhà sử học, văn học
của ta được mời vô các trại giam giữ tướng lĩnh và ngụy quyền cao cấp để nói
chuyện, thuyết trình khoa học, trao đổi với các vị "cao cấp" này để họ
hiểu đường lối đúng đắn của chính quyền miền Bắc. Tôi cũng được tướng Qua cho
tham gia vào công việc mà theo tôi, rất đúng đắn, rất nhân văn này. Tôi được
ông hỏi ý kiến về việc đề xuất những ai, những vị trí thức nào ở Hà Nội lúc đó
để Cục đón vào nói chuyện với tù nhân với từng đề tài cho phù hợp. Ấn tượng nhất
với tôi là đề tài "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt". Các tù
nhân, đương nhiên là có học, đều rất cảm phục miền Bắc là trong khó khăn bom đạn
chiến tranh như thế mà vẫn quan tâm "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt",
và đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học, đưa ra được nhiều kết luận xác đáng về
tiếng Việt, sự cần thiết phải bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt.
Sau này, khi tôi được đọc những cuốn sách như "Hoa xuyên
tuyết", "Mặt thật" của nhà báo Bùi Tín, cuốn "Đêm giữa ban
ngày" của nhà văn Vũ Thư Hiên đều thấy có những đoạn nhắc đến tướng Qua.
Ông Bùi Tín cho hay, ông đã được cục trưởng Lê Hữu Qua mời vào trại giam để nói
chuyện, còn nhà văn Vũ Thư Hiên trong cuốn "Đêm giữa ban ngày", đã kể
lại, khi cục trưởng Qua vô thăm trại giam mà ông đang là tù nhân, xem danh sách
tù nhân, thấy Vũ Thư Hiên trước khi vô tù là một nhà văn nên đã cho Vũ Thư Hiên
phụ trách tờ báo tường của trại và được miễn lao động hàng ngày. Có điều, nhà
văn đã viết nhầm tên cục trưởng là Lê Phú Qua. Có lẽ ông suy ra từ tên cúng cơm
của tướng Qua là Lê Phú Cường!
Kết quả của chủ trương thuyết phục cảm hóa, các tướng lĩnh
Sài Gòn đã viết những bản tự thuật về cuộc đời binh nghệp của mình một cách
chân thực. Nhiều bản dầy đến hàng trăm trang, như một cuốn tiểu thuyết rất hay,
rất có giá trị để ta nghiên cứu Tôi rất muốn xin tướng Qua một bản để xem nhưng
không được. Về quan điểm đối với tù nhân nói chung ở miền Bắc thời đó cũng khác
nhau. Tướng Qua kể, sau khi nhận chức Cục trưởng Cục Lao cải (lao động cải tạo)
thay cho cục trưởng cũ Hoàng Mai. Lần đầu đến thăm một trại giam, ông thấy các
tù nhân bị nhốt kín trong nhà giam, các hoạt động đều ngưng trệ. Hỏi ra ông mới
biết, trước đây mỗi lần cục trưởng Hoàng Mai đến thăm trại, ông đều ra lệnh như
thế để đề phòng! Tướng Qua chỉ thị, bỏ lệ ấy mỗi khi có lãnh đạo Cục thăm trại.
Vậy mà, sau này đến một trại khác, đi đâu cũng thấy có cán bộ lăm lăm súng
trong tay đi kèm ông để bảo vệ. Ông ra lệnh cất súng đi. Khi ông ra thăm một ruộng
mía, lúc đó các tù nhân đang chặt mía mùa thu hoạch, cán bộ trại không cho ông
tiếp xúc với phạm nhân nhưng ông đã một mình đi ra đó không hề sợ các tù nhân
đang cầm dao dài trong tay. Ông mời hút thuốc và ngồi bên ruộng mía nói chuyện
với họ. Các cán bộ trại đứng từ xa ai cũng thót tim vì lo các tù nhân hình sự
kia, với dao dài trong tay có thể kết liễu đời "chúa ngục" Lê Hữu Qua
bất cứ lúc nào. Đến chiều, trại giam tổ chức liên hoan văn nghệ và biểu diễn rất
hay. Sau một tiết mục hay, cục trưởng vỗ tay nhưng không ai dám vỗ tay theo cả.
Thấy thế ông rất ngạc nhiên, phải "ra lệnh" nếu tôi vỗ tay thì anh em
phải "hưởng ứng". Ông còn gợi ý cho cán bộ chạy vào rừng hái hoa để tiết
mục nào hay, cục trưởng lên tặng hoa. Sau cuộc liên hoan đó, cán bộ trại cho biết
trước đây cục trưởng Hoàng Mai không vỗ tay khen ngợi các tiết mục biểu diển của
tù nhân. Vì đó là vấn đề "đấu tranh giai cấp". Tướng Qua nói với tôi,
cái thằng bắn được con chim gáy phải chạy cho mau về biếu vợ bộ trưởng nó như
thế đấy! Thằng nịnh trên bao giờ cũng nạt dưới. Bằng trải nghiệm cả cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, ông bảo với tôi, bọn cơ hội lúc nào thời nào cũng có.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, khi phải bắt bọn Việt Gian phản động có vũ khí,
được quân Tàu Tưởng nuôi dưỡng thì chẳng thằng náo dám đi. Nhưng khi tôi và một
số anh em đi bắt được chúng rồi, nhốt lại, thì nhiều thằng thay nhau vào phòng
giam để đánh. Chúng nó đánh để máu bọn Việt Gian vấy lên quần áo chúng, rồi
chúng đi đi lại lại trước mặt mọi người để chứng tỏ "lòng căm thù giai cấp
đến cao độ" của chúng! Những thằng đó "đi theo cách mạng" đến
bây giờ chúng vẫn ngồi nhan nhản ở cái Bộ Công An này. Gặp tôi đi ngược chiều với
chúng ở một hành lang thì từ xa chúng đã né sang bên làm như không trông thấy
tôi và đi cho mau… C'est la vie! Rồi ông kết luận bằng một câu tiếng Pháp như
thế (cuộc đời là như thế đấy!)
Nghe những chuyện kể của tướng Qua như thế, tôi lại nhớ đến một
câu của nữ nhà văn Dương Thu Hương: cần có cách mạmg để quét đi những rác rưởi,
và cần có tự do để quét đi những rác rưởi mà một cuộc cách mạng đã sinh ra! Chỉ
tiếc là rác rưởi mà một cuộc cách mạng vô sản đã sinh ra lại nhiều hơn cả rác
rưởi mà nó định quét đi, vì thế mà tướng Trần Độ đã viết trong "Nhật ký rồng
rắn" của mình rằng: tôi đi làm cách mạng để xóa đi một xã hội xấu xa,
nhưng xã hội hiện nay lại xấu bằng và xấu hơn cái xã hội mà chúng tôi đã xóa
đi!
Nhân nói đến chuyện "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt", tôi xin kể thêm. Bạn tôi, họa sĩ Hồ Thanh, người từng xuống đường ở
Huế biểu tình chống chế độ Ngô Đình Diện, kể với tôi rằng, sau 30/4/1975 có một
cảnh sát chế độ cũ khi ra khai báo với chế độ (quân quản), khi được hỏi chức vụ
gì? Anh ta khai: an ninh thiết vận. Nghe đến hai chữ "an ninh" và
"thiết vận", người cán bộ quân quản ít biết chữ Hán-Việt nên đinh
ninh đây là phần tử quan trọng ngành an ninh chế độ cũ, bèn ghi tên anh ta váo
danh sách đi cải tạo dài hạn. Khi vô trại rồi, người ta mới biết anh ta chỉ là công
an giữ trật tự ở các đường tàu và ga xe hỏa. Từ Hán-Việt, "thiết vận"
có nghĩa là "đường sắt" trong tiếng Việt mà thôi. Cái anh chàng công
an đường sắt kia bị tù oan vì mấy chữ Hán-Việt!
Tôi còn được nghe kể rằng, khi có khẩu hiệu "Giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt", cụ Hồ có vào thăm một "Trại cải tạo gái
điếm". Thấy mấy chữ "gái điếm", cụ đã lấy bút gạch đi và thay
vào đó là "các cô gái mất nết", rồi cụ bảo với trưởng trại: trong
truyện Kiều có câu: có kẻ bán, có người mua. Vậy ai bán, ai mua? Các chú mua chứ
ai mua? Các cô này chỉ mất nết mà thôi, rồi các cô ấy sẽ trở lại nết na như trước,
"mất nết" là một từ thuần Việt.
Nghe tướng Qua phàn nàn về các nhân vật "đen" ở Bộ
Công An nhiều quá, có lần tôi hỏi thẳng ông: vậy ở Bộ Công An không có ai tốt
sao? Tướng Quan trừng mắt bảo: nhiều người tốt lắm cháu ạ. Rồi ông kể cho tôi
nghe nhiều chuyện tốt đẹp của những con người của ngành an ninh Việt Nam mà ông
từng cộng tác. Đó là những con người cương trực, tài giỏi, có nhân cách cao cả.
Trong những người mà tướng Qua thường ca ngợi đó có các vị mà tôi nhớ như: tướng
Phạm Kiệt, ông Lê Giản, ông Nguyễn Tao, ông Lê Tuấn Thức, ông Nguyễn Công Tài,
cục trưởng Cục nghiên cứu tổng hợp Lê Hồng Hà, trưởng ty công an Hải Hưng Hoàng
Cuông… và cả người cần vụ của ông trong những năm kháng chiến chống Pháp và sau
này là ông Trường … mà tôi hay gọi là chú Trường mỗi khi gặp chú.
Ông kể nhiều chuyện lắm về những con người này. Ví dụ như về
"chú Trường". Vì tướng Qua không biết bơi nên đi đường chú Trường phải
đem theo một cái phao bằng xăm ô tô. Khi vượt sông, vượt suối, cần vụ Trường
bơm phao lên rồi buộc vào dây, vừa bơi, vừa kéo. Tướng Qua ông phao ở phía sau
để "vượt" sông! Ông kể, có lần qua một con sông nước lớn chảy xiết,
chú trường và tôi bị nước đẩy về phía hạ lưu hàng trăm thước. Nhờ Trường dai sức
không thì cả hai đã bị hà bá nuốt rồi! Khi hòa bình 1954 lập lại, về Hà Nội rồi,
lúc đó còn chế độ cần vụ nên Trường vẫn theo tôi. Có người nói với tôi, đi trọn
mùa kháng chiến 8-9 năm, người ta về Hà Nội thì ít nhiều cũng có một chỗ đứng,
không lẽ anh cứ để anh Trường làm cần vụ cho anh đến già. Tôi cũng nghĩ như thế
nên bàn với tổ chức sắp xếp cho chú Trường một công việc thích hợp thời bình. Tổ
chức xếp cho chú ấy làm đội trưởng đội xe của Bộ. Nhưng chú ấy nói với tôi, làm
việc với thủ trưởng quen rồi, không muốn chuyển công tác! Tôi đành chịu.
Về con người của chú Trường thì tôi biết khá rõ, vì chú thường
vẫn theo tướng Qua mỗi lần ông về thăm ông bà nội tôi. Tính chú hiền hòa, ít
nói, người thấp và đen nhưng rất nhanh nhẹn. Sau này, cả hai vị, thủ trưởng và
cần vụ đều đã về hưu. Nhưng vẫn đi lại thăm hỏi nhau. Có lần tôi từ Sài Gòn ra,
lên phố Hàng Rươi thăm ông chú đã già, rồi hai chú cháu đi bộ ra bờ hồ, ngồi ghế
đá ngắm cảnh. Bỗng một ông già đang đi xe đạp dưới lòng đường, nhảy phốc xuống
dắt xe chạy lại mừng rỡ reo lên: thủ trưởng khỏe không? Chúng tôi cũng mừng rỡ
nhận ra chú Trường. Hai người bạn già, hai người kháng chiến thời trai trẻ năm
xưa hỉ hả hỏi thăm nhau đủ chuyện. Bỗng một làn gió mạnh thổi bay cái mũ phớt của
tướng Qua xuống mặt hồ. Nhanh như cắt, ông già Trường lội phăng xuống nước vớt
cái mũ phớt lên. Ông cầm cái mũ rũ mạnh nhiều lần cho hết nước rồi đưa mũ cho
tướng Qua nói: thủ trưởng để cho khô rồi hãy đội! Tôi chưa thấy ai tốt bụng, hồn
nhiên, vọ tư và "đẹp" như chú Trường. Nếu được chọn một Con Người viết
hoa trên đời này thì tôi chọn chú Trường.
Về trưởng ty Công An Hải Hưng Hoàng Cuông thì tướng Qua kể:
Cuông trước đây mặt rỗ, để đi hoạt động, cậu ấy đã lấy bàn là (bàn ủi) là mặt
mình đi để mật thám không nhận ra nữa. Cậu ấy can trường lắm.
Tướng Qua tỏ ra rất khâm phục con người Phạm Kiệt. Ông nói vì
ghét tài năng và tính cương trực của ông Kiệt nên tên H phân cho thứ trưởng Phạm
Kiệt làm tư lệnh công an vũ trang (biên phòng) quanh năm đi tuần tra biên giới,
chỉ để những kẻ nịnh hót quanh mình. Đến khi được Cục quản lý sức khỏe cho biết
là Phạm Kiệt đã bị ung thư hậu môn giai đoạn cuối, chẳng sống được là bao, nên
hội nghị công an toàn quốc năm ấy (1974), khi Phạm Kiệt bước vào, tên H lao ra
ôm lấy ông, nghẹn ngào, nức nở … cả hội trường ai cũng cảm động, cho là H trân
trọng yêu quý lão tướng Phạm Kiệt lắm(!) chỉ có tôi và HH được Cục bảo vệ sức
khỏe cho biết về cái chết đã gần kề với Phạm Kiệt nên cười thầm trong bụng. Ở
ngành an ninh Việt Nam, sau khi Lê Giản chuyển sang ngành Tư Pháp-Tòa án, lần
lượt các "lão tướng trung thần" như Nguyễn Tạo, Lê Tuấn Thức đều ra
đi. Ông Nguyễn Tạo sang làm Tổng cục trưởng Tổng cục lâm nghiệp, Lê Tuấn Thức
sang làm chánh văn phòng cho Tổng cục lâm nghiệp… vì không thể ở lại ngành dưới
triều đại của Trần Quốc Hoàn.
Bây giờ bạn đọc chỉ cần đánh vào Google ba chữ "Trần Quốc
Hoàn" là được đọc ngay thành tích bất hảo của Hoàn. Được biết về vụ án cô
Nông Thị Xuân năm 1957. Trước đó Trần Quốc Hoàn đã hiếp cô cô Nông Thị Xuân ở số
nhà 66 phố Hàng Bông Nhuộm rồi lập mưu giết hại cô như thế nào? Trong cuốn
"Đêm giữa ban ngày" nhà văn Vũ Thư Hiên cũng viết trên giấy trắng mực
đen vụ án kinh tởm ấy. Vũ Thư Hiên còn nói rõ trong "Đêm giữa ban
ngày" là, cán bộ từ cấp vụ trở lên ở Bộ Công An đều biết vụ án này. Vì thế,
tướng Qua mới luôn gọi Trần Quốc Hoàn là "thằng H lưu manh" khi nói
chuyện với tôi. Còn nhà văn XĐ quê ở Nghệ An thì nói với tôi rằng, nếu giết hết
được cả làng tôi thì thằng Hoàn nó cũng giết, vì cả làng đều biết nó là thằng
ăn cắp ở chợ làng trước kia!
Vì thế, mỗi lần về Hà Nội, đi qua con đường mới mở to đẹp ở
quận Cầu Giấy mang tên Trần Quốc Hoàn, tôi không khỏi ngậm ngùi đau xót cho số
phận của dân tộc mình. Rồi có ngày tấm biển đó phải được giật xuống. Tôi tin
như thế.
Nhân vật thứ hai được tướng Qua luôn nhắc đến là Phạm Văn Đồng
– thủ tướng lâu năm. Dưới mắt tướng Qua thì Phạm Văn Đồng là con người chủ
quan, bốc đồng và rất vô tích sự. Ông kể: Vừa mới giải phóng thủ đô, tôi phải bảo
vệ cuộc họp quan trọng của đại diện Cộng hòa Pháp với chính phủ ta. Tôi phải
đích thân lái xe đến chỗ Sainteny để chở hắn sang họp với Phạm Văn Đồng.
Sainteny yêu cầu phải có xe của Bộ Công an ta sang đón thì hắn mới đi, vì trước
đó trong ngày CM tháng Tám mới thành công, đã có lần xe của hắn bị bắn. Hắn sợ!
Cuộc họp kết thúc, Sainteny chưa bước ra khỏi phòng họp thì đã thấy tiếng cười
lớn Ha! Ha! Ha! của Phạm Văn Đồng rồi tất cả cười theo. Thấy thế Sainteny quay
ngoắt lại, có vẻ rất ngạc nhiên và khó chịu. Sau khi đưa Sainteny về rồi, tôi
quay lại hỏi ông Lê Thanh Nghị: vì sao khi Sainteny chưa ra khỏi phòng mà ông Đồng
và mọi người đã cười to thế, khiến hắn rất khó chịu, tôi thấy làm như thế là bất
lịch sự… ông Nghị cười nói: Sainteny sau cùng có đề nghị ta, nếu chính phủ Việt
Nam có cần giúp đỡ, bồi hoàn chiến tranh của chính phủ Pháp thì xin các ông cứ
đề đạt, tôi sẽ là người tích cực trong công việc này… Nghe Sainteny nói, anh Đồng
không trả lời, khi y quay ra thì anh Đồng nói: Mới đánh cho thua vãi cứt mà đã
lên mặt! Rồi anh ấy cười lớn, mọi người cười theo!
Kể xong câu chuyện trên, tướng Qua kết luận với tôi: Phạm Văn
Đồng là thế đó, chỉ làm hại đất nước! Ông còn kể tiếp về Sainteny: "ngày
Bác mất, Sainteny được chính phủ Pháp cử sang dự lễ tang. Đúng lúc Y bước vào
nhà tang lễ thì tôi đang túc trực hòm kính pha lê thi hài Bác cùng ba vị nữa ở
Bộ Công An. Tôi thấy y mặc áo đuôi tôm, tức trang phục chỉ dùng cho đại lễ ở
bên Tây, rất trang trọng, sau đó Y ngồi viết vài sổ lưu niệm. Sau 20 phút đứng
túc trực theo quy định của Ban tang lễ, tôi lên mở sổ lưu niệm ra xem. Sainteny
đã viết: suốt đời tôi là đối phương của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng tôi chưa
bao giờ là kẻ thù riêng của con người này. Tướng Qua kể xong tôi kết luận: chỉ
có hai cảm tưởng viết trong sổ lưu niệm là hay nhất, độc đáo chân thành là của
Sihanouk và Sainteny." Tôi cho rằng, có lẽ tướng Qua chỉ đọc được tiếng
Pháp nên ông mới nhận xét như thế. Còn các ngôn ngữ khác ông đâu có rành!
Một lần, nhân nói đến sự vô tích sự của Phạm Văn Đồng, ông kể:
Bộ Công An có đến 61 cục, vụ, viện, như một cái hàng xén hoạt động kém hiệu quả.
Tôi đề nghị tên H cho thành lập Tổng cục để bộ máy hoạt động hiệu quả, kịp thời
hơn. Nhưng tên H không cho, hắn sợ phải phân quyền, 61 cái đầu mối ấy hắn nắm,
trực tiếp chỉ huy vì thế rất chậm trễ, trì trệ. Hắn còn nói thẳng vào mặt tôi,
anh định làm Bộ trưởng thay tôi hay sao. Tôi lên thẳng thủ tướng để đề đạt phải
thành lập Tổng cục. Hôm lên gặp Phạm Văn Đồng thì gặp Lê Quý Quỳnh, bí thư tỉnh
Hưng Yên, một tỉnh đang có phong trào nuôi ong. Quỳnh được Phạm Văn Đồng mời
vào trước. Ngồi bên ngoài, chỉ cách tấm bình phong, tôi nghe Lê Quý Quỳnh tán về
cái chân con ong. Nào sự kỳ diệu của cái chân con ong, bới phấn hoa bằng chân,
chuyên chở phấn hoa bằng chân… nghe Lê Quý Quỳnh nói, Phạm Văn Đồng cười hả hê
Ha! Ha! Ha! … suốt nửa tiếng đồng hồ, Quỳnh tán về cái chân con ong mà Đồng vẫn
ngồi nghe, còn tán dương… cười ha hả. Đến lượt tôi, vừa nói đến câu thứ hai về
cái hàng xén 61 cục vụ viện ở Bộ Công An cần phải được tổ chức lại … thì Phạm
Văn Đồng gạt phắt đi, ông ta khua tay nói, tôi nghe đủ lắm rồi, anh về đi!!!
Tôi đi xuống cầu thang mà đầu choáng váng, mắt tối rầm, căm tức trào lên tận cổ!
Một lần khác, tướng Qua kể tiếp: Lần này thì chính Phạm Văn Đồng
gọi tôi lên để trình bày về cái vụ thế giới nó chỉ trích ta về nhân quyền trong
vụ bắt tù nhân là tướng lĩnh sĩ quan Sài Gòn đi cải tạo vô kỳ hạn sau 1975. Với
tư cách Cục trưởng Cục Trại giam, tôi phải báo cáo thủ tướng chính phủ để còn
biết đường mà trả lời các cuộc phỏng vấn của báo chí phương tây. Tôi chuẩn bị
khá kỹ tài liệu để báo cáo. Gặp tôi, ông ta không thèm hỏi han một câu nào, chỉ
ra hiệu, “Anh nói đi”! Tôi vừa báo cáo được vài câu thì đã thấy ông ta ngủ gật.
Tôi phải vờ đặt cái tay xuống bàn thật mạnh để ông ta tỉnh dậy. Tôi lại báo cáo,
ông ta lại ngủ gật. Lúc tỉnh dậy, ông nói, anh báo cáo lại đi tôi nghe chưa rõ.
Tôi đứng dậy và nói thẳng vào mặt ông ta, anh có nghe đâu mà rõ… sau đó tôi
quay gót về luôn. Ông ta cũng không nói gì cả. Chắc là để ngủ tiếp!!! Sau này
tôi được nghe nhà báo Trần Đĩnh ở báo Nhân dân kể, Phạm Văn Đồng chuyên hút thuốc
phiện và chơi đĩ do Lê Đức Thọ cung cấp, vì thế hai cái môi thâm sì. Và Lê Đức
Thọ bảo sao thì phải nghe vậy, không thì cắt nguồn thuốc phiện và gái(!) Tôi
tin lời anh TĐ vì suy ra, người hút thuốc phiện hay ngủ gật, và điều tướng Qua
nói là hoàn toàn đúng về cái sự ngủ gật của ông Thủ tướng lâu năm này.
Chả có thế mà đã thành bài vè trong dân gian
"Hoan hô anh Tạ Đình Đề
Trước là gián điệp sau về với ta
Hoan hô anh Lê Quảng Ba
Trước là thổ phỉ sau ra với mình
Hoan hô đồng chí Trường Chinh
Trước theo Trung Quốc nay hình như không
Hoan hô ông Phạm Văn Đồng
Tuy là thủ tướng nhưng không làm gì!"
"Không làm gì" đó là đặc điểm nổi bật của ông Phạm
Văn Đồng. Vậy mà ông làm thủ tướng lâu đến thế. Chính ông cũng từng nói một câu
nổi tiếng: "Tôi làm thủ tướng mà chẳng có quyền gì cả!" Vậy mà ông cứ
làm. Ngày ông mất, từng đoàn xe con bóng lộn của các quan chức Hà Nội đi theo
linh cữu ông đến Mai Dịch. Nhưng không thấy người dân Hà Nội nào đứng hai bên
đường để tiễn chân ông. Khác hẳn với đám tang ông Võ Văn Kiệt, dân chúng Sài
Gòn đứng đông nghẹt hai bên đường từ dinh Thống Nhất đến nghĩa trang Thủ Đức
dài hàng chục cây số để tiễn đưa, người đã từng ngược xuôi "chạy gạo"
cho dân Sài Gòn khi ông làm bí thư thành ủy thời bao cấp.
Người thứ ba mà tôi thấy tướng Qua hay nhắc đến là ông Trường
Chinh. Khi nói về tính cẩn thận, tướng Qua kể: ông này (TC) cẩn thận chưa từng
thấy, đo may quần áo cho ông rồi, chiến sĩ của tôi khi đem quần áo đến nhà thì
phải chở theo một cái gương rất to. Ông mặc thử rồi đứng trước gương soi. Hai cảnh
sát đứng sau lưng ông cầm cái gương để ông ngắm xem phía sau có “chuẩn” không.
Chỉ cần cái tà áo phía sau hơi cong một chút là đem về may lại! Trên Tam Đảo,
tôi đã bố trí một cảnh sát cắt tóc có nghề để phục vụ cán bộ cao cấp khi nghỉ
mát cần cắt tóc. Đến Bác Hồ cũng từng để cậu này cắt tóc, cạo mặt cho. Vậy mà
khi cần cắt tóc ở Tam Đảo, theo yêu cầu của ông Trường Chinh, chúng tôi phải
đánh một cái xe chở cậu cắt tóc quen thuộc của ông từ Hà Nội lên để cắt tóc cho
ngài! Nói xong, tướng Qua lắc đầu than: dictateur! (kẻ độc tài).
Người thứ tư mà tướng Qua hay nhắc tới là Hồ Chí Minh. Ông
nhiều lần kể cho tôi câu chuyện, sau CM tháng Tám, bộ đội, công an, dân quân tự
vệ, du kích ta “thèm” súng lắm. Ai cũng muốn mình có một khẩu súng để chuẩn bị
đánh giặc, vì thế du kích ở Chèm thấy có một cái tầu của quân Tưởng ngược về
phía Bắc tưởng là tầu chở vũ khí nên họ đánh úp. Té ra là tầu chở bọn Tưởng ốm
về Tầu trị bệnh. Trót giết mất bọn này rồi, quân ta chuồn luôn. Nào ngờ một tên
trốn thoát, nó về báo cáo cấp trên. Quân Tưởng hạ lệnh cho ta phải tìm cho bằng
được số du kích này để xử. Được lệnh của Bác, tôi phải lên tận Chèm để bắt các
vị này. Không khó lắm, chỉ cần hỏi chuyện ông già bán chuối ở đầu làng là ra hết.
Bắt được mấy vị này rồi, tôi báo cáo Bác. Nhưng một số anh em bàn, lấy tù thường
phạm “thế” vào mấy vị này. Nhưng tên Tầu Tưởng trong lúc nhốn nháo, nó nằm bẹp
một xó nhớ mặt các vị đó, rồi nhẩy xuống sông trốn thoát. Nó nhận mặt tù nhân và
không chịu. Bác rất than phiền. Ông cụ nói, quân đội cách mạng mới xây dựng mà
đã vô kỷ luật thế này thì làm sao mà trưởng thành nổi. Ông cụ phân tích: quân
Tưởng là đại diện cho Đồng minh, động vào quân Tưởng là chống lại Đồng minh, vì
vậy không thể không xử vụ này được. Lệnh tử hình mấy vị này trước mặt quân Tưởng
được ban hành. Trước khi bắn các vị đó, tôi cẩn thận gọi điện báo cáo Bác một lần
nữa. Bác chỉ trả lời ngắn gọn: một là mất nước, hai là thi hành lệnh. Anh Nguyễn
Văn Trân (bí thư thành ủy HN sau này – LPK) bắn một phát rồi run quá, nằm vật
ra, mồ hôi vã ra như tắm. Tôi phải giằng lấy súng, xử nốt mấy vị còn lại bằng
các viên đạn vào thái dương. Xong, tôi cũng choáng quá, như muốn ngã xuống đất.
Nhưng không quên gọi điện cho Bác, báo cáo đã thi hành lệnh. Từ đầu dây bên kia
tôi nghe rõ Bác nói, giọng xúc động: nhớ ghi tên các chú đó để sau này làm bằng
liệt sỹ cho các chú ấy.
Mỗi lần kể lại cho tôi nghe câu chuyện này, tướng Qua đều rơm
rớm nước mắt. Ông đốt thuốc liên tục. Câu chuyện thứ hai mà tướng Qua kể về ông
Hồ là phải đem vàng chuộc Bác. Không hiểu vì lý do gì quân Tưởng mời Bác sang
làm việc rồi giam ông cụ lại. Đã mấy ngày trôi qua, ở nhà ai cũng vô cùng lo lắng.
Tôi được cử đi gặp ông cụ để nắm tình hình. Đến nơi tôi rất ngạc nhiên là thấy
cụ ngồi bình thản hút thuốc như không có việc gì xẩy ra, sau đó bảo tôi: thế là
mất toi cả tuần lễ vàng! Sau đó ta phải đem vàng để chuộc ông cụ về!
Một câu chuyện khác về ông Hồ rất “độc đáo”. Tướng Qua vui vẻ
kể: mới độc lập mà ông cụ đã gọi tôi lên bảo: phải giữ phố Khâm Thiên lại cho
Bác. Tôi không hiểu ý ra sao. Còn anh em thì muốn dẹp ngay cái phố cô đầu nổi
tiếng ở Hà Nội này đi vì cách mạng đã thành công. Nhưng đến khi quân Tầu Tưởng ồ
ạt kéo sang, đại diện cho quân Đồng minh ở miền Bắc để giải giáp quân Nhật thì
Bác lại gọi tôi lên bảo: tối tối đưa các sỹ quan tướng lĩnh của quân Tưởng xuống
đó chơi bời cho nó đỡ phá phách, gây sự với ta. Thế là chúng tôi hiểu. Nhưng hiềm
một nỗi là, bọn quan tướng Tầu Tưởng khốn nạn lắm. Ban đêm chúng “tòm chát” ở
Khâm Thiên, ban ngày chúng lại dẫn mấy con đào này đi ưỡn ẹo ở Hàng Ngang Hàng
Đào, mấy con đĩ này chỉ vào cái vòng vàng, vòng bạc, đồ nữ trang nào là bọn tướng
Tầu lại cướp không cho chúng. Đồng bào thưa kiện lên chúng tôi. Ai lại cách mạng
rồi mà không bảo vệ được tài sản cho đồng bào thì còn ra làm sao. Thế là chúng
tôi lại phải đến lột lại các đồ vàng bạc đó ở các con đĩ, dọa chúng còn làm thế
nữa là "coi chừng mạng sống", rồi đem trả lại cho đồng bào. Thế mà có
con còn ngoan cố, vẫn không chừa… lấy rồi trả, trả rồi lại phải đi lấy lại, như
đèn cù.
Nói về sự tiết kiệm, tướng Qua kể: đi công tác trong kháng
chiến, chúng tôi phải nắm cơm mang theo. Đến giờ ăn, cậu cần vụ giở nắm cơm ra,
cẩn thận cậu ta dùng dao ca-níp gọt vỏ nắm cơm đã bị cứng ở bên ngoài ra, để
vào một góc tờ giấy. Gọt đến đâu thì ông cụ bỏ vào mồm nhai đến đó, thấy thế cậu
ta từ đó không gọt vỏ cơm nữa. Riêng với cá nhân tướng Qua, có lần ông kể: tôi
là dân Hà Nội, không quen đi chân đất nên lúc đi kháng chiến có mang theo một
đôi "ghệt" cao cổ. Thấy tôi đi đôi giầy da của bọn police militaire
Pháp, có cậu thưa với ông cụ: anh Qua đi kháng chiến mà còn mang thói tiểu tư sản,
đi giầy cao cổ của thực dân Pháp! Ông cụ chỉ nói: thôi, chú ấy được việc là được.
Còn bộ đồ kaki Mỹ của tôi mặc trên người cũng bị chỉ trích. Ông cụ lại nói: thứ
vải ấy nó bền, cứ để chú ấy mặc!
Có lần tướng Qua cho tôi xem một tờ giấy nhỏ bằng bàn tay, đó
là bức thư được đánh máy từ cái máy chữ xách tay, chữ nhỏ li ti. Trong thư ông
Hồ chỉ thị cho tướng Qua ém quân ở một đoạn đường để bảo vệ cho thiếu tướng Văn
Tiến Dũng đưa quân ta vượt sông. Dưới cùng ký tên Hồ Chí Minh, cũng là ba chữ
đánh máy. Xem thư tôi mới biết hồi đó quân ta đã được phong hàm, và ông Văn Tiến
Dũng là thiếu tướng. Lá thư đó được tướng Qua giữ cẩn thận trong một cuốn
an-bum, ông bảo tôi: đây là précieux souvenir (kỷ niệm quý). Ngày ông đau nặng,
chỉ còn nói được câu một. Tôi hỏi về từng người: Trường Chinh? Trả lời:
dictateur. Phạm Văn Đồng? Trả lời: suốt đời làm hại người khác! Hồ Chí Minh? Trả
lời: đâu cũng đi, cái gì cũng biết! Những lời nhận xét của ông đương nhiên chỉ
là lời một võ tướng. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ thấy ông "phê phán"
ông Hồ Chí Minh cả. Duy chỉ có một lần, sau ngày ông cụ mất (2.9.1969), tôi lên
chơi, ông hỏi: cháu có biết ai là người thương Bác Hồ nhất không? Tôi còn chưa
biết trả lời thế nào thì ông nói: mấy hiệu nhiếp ảnh là họ thương cụ Hồ nhất vì
thức suốt đêm để in những tấm ảnh bốn ông đứng gác hòm kính pha lê… để bán, mắt
cậu nào cũng đỏ hoe!.
Chương 6
Chín năm dạy học ở thôn quê
Sau khi tốt nghiệp đại học sư phạm khóa 1963-1966, thầy Nguyễn
Đức Nam bảo tôi có muốn ở lại trường làm cán bộ dạy môn văn học phương tây thì
thầy đề xuất khoa văn giữa lại, nhưng phải học tiếp bốn năm tiếng Pháp nữa tại
khoa Pháp văn rồi mới trở về khoa văn làm phụ giảng Tôi nghe thầy Nam nói sợ
quá vì đời sống sinh viên quá khổ cực. Lúc đó có câu "ăn sư ở phạm",
có nghĩa là sinh viên trường sư phạm ăn như sư, ở như phạm nhân. Tôi xin ra trường
đi dạy học vì lý do "gia đình khó khăn" về kinh tế. Tướng Qua bảo với
mẹ tôi: Khải đã tốt nghiệp đại học thì không thiếi gì việc để nó làm, để tôi
xin cho nó về Bộ (CA), khỏi phải đi xa. Mẹ tôi mừng lắm vì chỉ có mình tôi là
con trai (tôi có hai bà chị và một em gái). Tôi được ông nội, bà nội rất cưng
chiều. Khi học cấp ba rồi, mà về mùa đông, tối đến tôi vẫn nằm ở giữa, ông nội
tôi nằm một bên, bà nội tôi nằm một bên, để tôi nằm giữa cho ấm! Vì thế ông bà
nội tôi rất ưng ý để tôi công tác ở ngay Hà Nội. Nhưng, tôi biết rất rõ, tôi
không có "máu" làm công chức, nhất là làm công an. Vì thế, tôi kiên
quyết cầm quyết định của nhà trường, cắt hộ khẩu Hà Nội để chuyển về Hải Hưng
nhận công tác, dù biết chắc sẽ về nông thôn dạy học.
Tôi được Ty giáo dục tỉnh Hải Hưng lúc đó phân bố về trường
trung cấp sư phạm ở huyện Ninh Giang. Trường sư phạm tỉnh đang sơ tán ở xã vùng
sâu của huyện. Hôm nhập trường các sinh viên mới ra trường đến nhận công tac ngồi
túm tụm ở địa điểm tập trung ghi trong giấy quyết định của Ty. Bỗng một anh
chàng đến sau, gác xe đạp rồi lớn tiếng hỏi: văn phòng Đảng ủy nhà trường ở đâu
các anh có biết không? Ý anh là muốn giới thiệu với mọi người, anh ta là một đảng
viên, tìm văn phòng Đảng ủy để nộp giấy sinh hoạt Đảng. Để vênh vang khoe mẽ với
mọi người ngay từ phút đầu. Hồi đó đảng viên hiếm lắm. Anh chàng này sẽ là một
giáo viên sáng giá của nhà trường với các "mác" đảng viên này. Tôi thấy
cần phải dậy ngay cho anh ta một bài học… đầu đời! Tôi đứng dậy, bảo anh ta: đi
theo tôi. Rồi tôi dẫn anh ta đi vòng vèo trong xóm. Đến một cái nhà xí hai ngăn
(một thứ nhà vệ sinh rất thịnh hành thời đó ở nông thôn Bắc Bộ), tôi chỉ vào đó
rồi nói: đây là chỗ đi ỉa, đi đái. Cậu mới đến từ xa, cần biết chỗ này trước
đã, còn văn phòng Đảng ủy thì thư thư cũng được. Anh ta trợn ngược mắt nhìn tôi
đầy vẻ căm thù. Lúc sau tôi quay về chỗ cũ, mọi người hỏi tôi dẫn anh ta đi đâu
mà lâu thế? Tôi kể lại câu chuyện dẫn anh ta đến nhà xí hai ngăn, mọi người cười
ồ. Từ giờ phút đó trở đi, tôi được Đảng ủy nhà trường xem như là một phần tử
"bất trị"! Nhưng khả năng giảng dạy của tôi đã lật ngược thế cờ. Nhà
trường có hai hệ đào tạo giáo viên cấp hai. Một là hệ 7+3, tức tốt nghiệp cấp 2
rồi học ba năm nữa để lấy bằng sư phạm trung cấp. Một hệ 10+1, tức tốt nghiệp cấp
3 rồi, học thêm một năm nữa rồi ra trường ngay. Hầu hết các thầy giáo mới tốt
nghiệp đại học đều xin dậy năm thứ nhất của hệ 7+3, không ai dám nhận dậy hệ
10+1. Tôi xin nhận dậy 10+1 trước sự vui mừng của thầy hiệu trưởng vì đang thiếu
thầy cô dậy hệ này và nhiệm vụ của nhà trường là mau chóng đào tạo giáo viên cấp
2 đang thiếu cho tỉnh. Hồi đó ở ngành giáo dục tình Hải Hưng có câu ca
"văn như Quán, toán như Cang". Có nghĩa là thầy Quán dậy văn giỏi nhất,
thầy Cang dậy toán giỏi nhất. Thầy Cang đang dậy một lớp chuyên toán cấp 3 của
tỉnh, còn thầy Quán đang dậy lớp 10+1 của trường sư phạm mà tôi đang dậy. Thầy
Quán được trường đại học sư phạm Việt Bắc mới mở xin lên làm giảng viên của trường,
nhưng vì chưa có ai thay thế thầy ở hệ 10+1 của trường sư phạm trung cấp Hải
Hưng nên thầy chưa thể đi được. Sau một học kỳ, thầy Quán mời ban giám hiệu và
cán bộ bộ môn văn của tỉnh dự giờ lên lớp của tôi, để chứng minh rằng tôi có thể
thay thế thầy đứng lớp 10+1. Kết quả là người ta đã đồng ý để thầy Quán chuyển
lên dậy đại học và tôi thay thế thầy dậy lớp 10+1.
Tới hết niên học 1969-1970 thì lượng giáo viên cấp 2 trong tỉnh
đã đủ, trường trung cấp sư phạm giải tán. Tôi được điều về trường cấp 3 của một
huyện vùng xa trong tỉnh Hải Hưng rộng lớn, trong khi tôi cần về trường cấp 3 Cẩm
Giàng nơi vợ tôi mới sinh con đầu lòng và đang dậy cấp 2 ở đó, rất cần tôi ở gần
để phụ giúp gia đình. Trước tình thế này, tôi phải dùng đến thế lực. Hồi đó có
câu ngạn ngữ nổi tiếng "nhất thân nhì thế". Có nghĩa là thân quen thì
việc gì cũng xong. Tôi về Bộ Công An gặp tướng Qua và trình bày sự cần thiết phải
về huyện Cẩm Giàng. Nghe xong, tướng Qua không nói gì cả, chỉ lấy một mảnh giấy
nhỏ ghi mấy chữ. Trong giấy gửi ông Hoàng Sơn, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
Trong giấy chỉ ghi mấy chữ ngắn gọn, đại ý tôi có thằng cháu đích tôn, muốn xin
anh cho cháu về dạy học ở Cẩm Giàng. Khi ông Hoàng Sơn xem xong thư, vỗ vai tôi
bảo: ông Qua nổi tiếng ở ngành công an lắm, rồi ông gọi cánh văn phòng UBND tỉnh
lên bảo làm quyết định của Ủy ban cho tôi về làm việc ở Cẩm Giàng. Tôi cầm quyết
định của ủy ban tình với chữ ký của phó chủ tịch thứ nhất phụ trách nội chính
đưa cho trưởng phòng tổ chức Ty giáo dục Hải Hưng. Xem quyết định đó xong, ông
Lự, tên của trưởng phòng, nhìn tôi lắc đầu! Theo nguyên tắc thì quyết định điều
động giáo viên cho trưởng Ty hay phó trưởng Ty ký. Quyết định của tôi lại do Ủy
ban tỉnh ký tên. Ty giáo dục phải làm một quyết định lại, điều cô giáo dậy văn
đã được điều về Cẩm Giàng đi một trường khác. Thế mới hay cái câu "nhất
thân nhì thế" quả là không sai! Tôi dạy học ở Cẩm Giàng đến đầu năm 1974
thì chuyển về Đài Tiếng nói Việt Nam làm phóng viên.
Gần chín năm dạy học ở nông thôn, sống ngay trong nhà dân khi
ở trường sư phạm, rồi sống trong khu tập thể ở trường phổ thông cấp 3 Cẩm Giàng
cũng sơ tán trong làng… tôi có dịp gẩn gũi để tìm hiểu người nông dân đồng bằng
Bắc Bộ. Tôi có thể rút ra những nhận xét, những dẫn chứng, những kết luận mà những
nhà xã hội học ngồi ở các Vụ, Viện ở Hà Nội không bao giờ có được chỉ bằng những
chuyến "đi thực tế".
Thứ nhất, với chính sách hợp tác hóa, ruộng đất bị đưa vào
làm ăn tập thể, cha chung không ai khóc, người nông dân đồng bằng Bắc Bộ bị bần
cùng hóa và nghèo khổ đến cùng cực. Khi tôi ở Ninh Giang, "trọ" trong
nhà một bà cụ có tên là cụ Kịp. Nhà chỉ có hai mẹ con. Anh con trai tên là Hữu.
anh này có lẽ vì mắt kèm nhèm nên không trúng nghĩa vụ quân sự. Đó là trường hợp
hãn hữu ở nông thôn lúc bấy giờ. Anh Hữu ngày đi làm hợp tác xã, tối về chỉ xoa
hai chân vào nhau là lên giường ngủ, không hề có guốc, dép. Anh cũng không có
khái niệm đánh răng rửa mặt. Một lần về Hà Nội, tôi mua tặng anh một cái bàn chải
đánh răng, một cái khăn mặt và một tuýp kem [thuốc] đánh răng. Mấy hôm sau, tôi
thấy tuýp thuốc đánh răng xẹp lép, tôi hỏi làm sao lại hết nhanh thế. Anh Hữu
cười hồn nhiên, anh cho biết, thấy thuốc đánh răng thơm và ngọt nên anh đã… ăn
hết rồi! Tôi hú hồn. Chẳng may vì thuốc đánh răng mà Hữu làm sao thì tôi… mang
vạ. Tôi đành phải hướng dẫn anh Hữu đánh răng bằng muối. Sau hai năm ở Ninh
Giang, trường sư phạm dọn về Gia Lộc. Tôi ở trong nhà một ông cụ tên là Vơn.
Nhà xây, có giếng nước đàng hoàng. Xưa kia cụ Vơn cũng là loại khá giả. Cụ biết
chữ Nho võ vẽ. Hai vợ chồng anh con cả làm hợp tác xã, người con thứ hai đi bộ
đội vào Nam, được gia đình xem như đã chết vì không có tin tức gì. Cậu con út
tên là Mùi, đi học trường làng. Mỗi khi ăn cơm, chị con dâu ngã cái mâm bằng gỗ
dựng ở góc tường xuống, bốc rau để lên mâm. Khi ăn xong, cụ Vơn lấy cái chổi
lúa vẫn thường quét nhà để quét mâm rồi lại dựng lên như cũ. Cứ thế năm này qua
năm khác, cái mâm cáu bẩn còn hơn cả cái nền nhà. Nhà luôn thiếu ăn, ai cũng
xanh xao, bủng beo. Năm 1991, tôi ra Hà Nội để đi Liên Xô, khi về có ít quà,
tôi mượn Bộ Thủy sản cái xe con về thăm lại gia đình. Xe đậu ở đầu thôn. Tôi xuống
xe hỏi bà bán nước. Cụ Vơn còn không? trả lời: chết rồi! Tôi lại hỏi chị vợ anh
Khoát còn không? Trả lời: chết rồi. Tôi choáng váng hỏi: thế thằng Mùi đâu…? Từ
đằng xa, tôi trông thấy một người đàn ông đầu bạc xóa chạy lại, vừa chạy vừa
kêu lớn: thằng Mùi đây! Cái thằng Mùi bé con học trường làng ngày ấy chỉ 20 năm
sau đã trở thành một ông già đen đúa, tóc bạc trắng khi chưa đầy 50 tuổi. Tôi
thành kính đặt lên bàn thờ những người đã khuất chút hương hoa của kẻ đã từng
trú ngụ trong ngôi nhà này, rồi thắp hương khấn cho vong hồn của họ siêu thoát.
Ông cụ Vơn và vợ chồng người con trai cả của cụ là những nông
dân cần cù chất phác. Họ rất nghèo nhưng tấm lòng luôn rộng mở, sẵn sàng cưu
mang những cán bộ ở thành phố về sơ tán trọ trong nhà họ. Sẵn sàng nhường cơm xẻ
áo cho chúng tôi. Những đêm tôi thức chấm bài khuya, chị con dâu thường đem vào
phòng cho tôi một đĩa khoai luộc hay một góc củ sắn (khoai mì). Nắm bột mì luộc
và bát "súp" khẩu phần ăn của tôi được các cô giáo sinh lĩnh hộ từ
nhà bếp mang về… được cụ Vơn bắt con cháu ăn hộ và dành cơm cho tôi ăn. Ở nông
thôn, người ta rất kiêng kỵ cho vợ chồng người lạ ngủ trong nhà mình, vậy mà
khi vợ tôi đến thăm, gia đình vẫn vui vẻ cho vợ tôi ngủ lại. Tôi hỏi Mùi, bây
giờ đã là chủ gia đình có một vợ và hai con, tại sao anh chị Khoát lại chết? Chết
vì bệnh gì? Mùi thành thật nói chết vì… ăn no! Rồi Mùi kể hết sự tình đoạn trường
hơn 20 năm qua của gia đình cụ Vơn. Sau những năm vô cùng đói khổ của thời kỳ
bao cấp và duy trì hợp tác xã, đến khi có chính sách khoán ruộng, (trả ruộng lại
cho dân) thì nhà thừa thóc ăn. Vụ thu hoạch đầu tiên của năm trả ruộng đó, anh
chị Khóa ăn no quá, ngày nào cũng ăn no kềnh no càng… rồi sinh bệnh chết! Tôi
đã hiểu. Cả hai vợ chồng nông dân này đềm vạm vỡ. Do phải ăn đói trong nhiều
năm liền, nên tuy to xác nhưng bủng beo, một dạng "Tàu phù" như các cụ
ta vẫn gọi bọn Tàu Tưởng năm xưa. Đến lúc có ăn thì lại ăn nhiều quá, cơ thể
không thích ứng kịp nên sinh bệnh và khi sinh bệnh lại không có thuốc nên bệnh
nặng dần mà chết. Câu chuyện của vợ chồng anh Khoát làm người ta nhớ lại nạn
đói năm 1945. Có người đói quá, đói cả tháng, đến khi được ăn một bữa no là chết
liền. Gọi là chết no.
Những năm dạy học ở nông thôn tôi còn được chứng kiến một trận
lụt kinh hoàng vào năm 1971. Năm đó vợ tôi vừa sinh đứa con thứ hai, sau kỳ nghỉ
hè về lại trường Cẩm Giàng để chuẩn bị năm học mới thì vỡ đê Văn Thai, một con
đê nằm trong hệ thống sông Thái Bình. Ai chưa một lần trong đời chứng kiến cảnh
vỡ đê thì không thể hình dung sự tàn phá của nạn hồng thủy. Các cụ ta ngày xưa
tổng kết "thủy, hỏa, đạo tặc". Đặt chữ "thủy" lên đầu trong
các thứ họa trên đời là hoàn toàn đúng. Buổi sáng tôi còn đi chợ mua vài con
cá, cảnh vật vẫn bình yêu thì xế trưa nước đã từ phía bắc đổ về. Kê cái giường
lên bàn cho cao còn để đồ đạc thì ngoảnh đi ngoảnh lại nước đã tràn lên giường.
Phải phá trần nhà rút lên trần, kê giát giường mà ngồi. Mấy chục con người, đa
số là phụ nữ và trẻ con phải sinh sống cả tháng trời trên cái trần nhà cấp 4 ọp
ẹp đó, nếu sập trần thì trẻ con chết hết. Cả tỉnh Hải Dương, gồm cả thị xã Hải
Dương ngậm chìm trong nước. Suốt ngày tôi phải lội nước đến cổ đi kiếm buồng
chuối xanh hoặc nín thở lặn xuống các ruộng rau muống quanh trường để kiếm chút
rau xanh cho vợ và hai đứa con nhỏ. Một đứa 2 tuổi, một mới sanh được đầy
tháng. Ấn tượng sâu đậm nhất với tất cả chúng tôi là tiếng kêu tuyệt vọng của
đàn trâu trong huyện. Chúng cứ bơi, cứ bơi, ngày này qua ngày khác đến khi kiệt
sức thì chết nổi lên. Cả một vùng đồng bẳng rộng lớn như Hải Dương lấy đâu ra một
gò đất cao cho trâu trú chân. Đàn trâu cứ bơi, vừa bơi vừa kêu. trong đêm khuya
thanh vắng tiếng kêu tuyệt vọng của bầy trâu mới bi oán làm sao. Ban đầu còn
nghe thấy nhiều tiếng kêu, sau thưa dần, thưa dần rồi im hẳn. Chúng đã chết hết.
Khi nước tràn về, nhưng con vật sống dưới lòng đất hoảng hốt bò lên. Mặt đường
tàu hỏa thì chuột và rắn bò lên chạy lụt. Chưa bao giờ người ta thấy chuột và rằn
nhiều như thế. Trong cơn hốt hoảng rắn không bắt chuột nữa. Chúng "chung sống
hòa bình". Nhưng khi nước tràn lên mặt đường tàu thì số phận của chúng
cũng như đàn trâu bò mà thôi. Chỉ còn có các cây cao là chỗ cuối để rắn cố thủ.
Đó là những "cây rắn". Có người trèo lên cây chạy lụt nhìn thấy rắn sợ
quá ngả nhào xuống đất. Thiên tai địch họa thường đến với người nông dân Bắc Bộ
như thế.
Những năm sống ở nông thôn miền Bắc, tôi còn cảm nhận được điều
thứ hai là, thế hệ người già ở nông thôn, nhất là người có chút Nho học, họ bị ảnh
hưởng sâu đậm của triết thuyết Khổng Mạnh. Khổng giáo thấm sâu đậm vào từng thớ
thịt, từng mạch máu của lớp người này. Họ trọng nam khinh nữ, trọng văn khinh
võ, thích những điều sao siêu trừu tượng… Ông cụ Vơn, chủ nhà của tôi, có ngôi
nhà ngói duy nhất trong cái xóm nhỏ đó. Nhà có một phòng riêng, lại có giếng nước
xây. Các giáo viên sơ tán trong làng ai cũng muốn trọ ở nhà cụ vì nó khang
trang nhất. Nhưng cụ từ chối nhiều giáo viên xin ở trọ trước khi tôi đến. Người
thứ nhất là một giáo viên dậy thể dục. Anh chàng này cao to, khỏe mạnh, đẹp
trai nữa… nhưng cụ Vơn từ chối vì anh chàng này có vẻ… võ biền! Người thứ hai bị
cụ từ chối là một giáo viên dậy sử. Anh chàng này bé nhỏ, đầu hói, "mồi thối
lửa" (tức mồm bé, môi mỏng). Cụ Vơn xem tướng anh chàng một lúc rồi đi vô
nhà, không nói không rằng. Tôi quyết định đến xin ở nhà cụ Vơn. Tôi bảo một cô
giáo sinh (học sinh sư phạm) gánh một gánh sách của tôi đi sau, tôi đi trước.
Đi từ tốn, đĩnh đạc. Thấy cụ đang quét sân, tôi đánh tiếng chào thật to và nói:
cụ định đóng vai Lưu Bị quét sân để đánh lừa Tào Tháo phải không? Cụ Vơn dừng
tay chổi, ngẩng lên nhìn tôi từ đầu đến chân rồi lại nhìn cô giáo sinh gánh một
gánh sách nặng đi sau. Cô giáo cúi rạp đầu chào cụ chủ theo lời dặn từ trước của
tôi. Bổng cụ chủ cười khanh khách rồi cất lời mời tiên sinh vào nhà! Thế là tôi
đã thắng lợi nhờ biết tâm lý của các cụ nhà ta, vốn "trọng văn khinh
võ". Ở nhà cụ Vơn, tôi không nói những chuyện cụ thể, toàn nói những chuyện
cao siêu, trên trời dưới đất… chuyện Lã Vọng câu cá bằng lưỡi câu thẳng, chuyện
Lưu Bị, Quan Công "tam anh chiến" Lã Bố, chuyện Từ Hải chết đứng… mà
thôi! Cụ khen tôi, đúng là "người quân tử". Một hôm tôi đi vắng, thầy
hiệu trưởng nhà trường đến chơi, có ý thăm dò nhà chủ xem tôi ăn ở với dân có
điều gì chê trách không. Vì lúc đó có nhiều thầy cô ở trọ nhà dân, có vài trường
hợp không được lòng chủ nhà, bị chê trách, bất lợi cho "công tác dân vận"
của nhà trường. Sau khi biết chuyện thầy hiệu trưởng lại thăm nơi tôi trọ, lúc
gặp ông, một cán bộ già dặn, tôi hỏi thẳng: cụ chủ nhà có phê bình gì tôi
không, thưa thầy? Thầy hiệu trưởng trả lời: ông cụ chỉ cười lớn và bảo với tôi,
thầy giáo Khải trừu tượng lắm! Chỉ nhận xét anh "trừu tượng" thôi! Thực
ra thì cụ Vơn không hiểu biết gì về thực tế cả, công việc làm ăn cụ đều giao
khoán cho vợ chồng anh con cả. Cụ chỉ thích nói chuyện đời xưa với tôi. Mấy người
em của cụ đều là những nông dân tháo vát, cần cù. Vậy mà tôi còn thấy cụ còn mắng
các em là không biết hầu chuyện, "nhàn đàm" với cụ và tôi những lúc rảnh
rỗi. Nhưng có điều lạ là, họ đều rất "phục" ông anh, cho ông anh của
mình mới là người cao kiến! Có một câu chuyện khôi hài thế này, một hôm trời
rét như cắt ruột. Tôi và cụ Vơn đang ngồi uống trà trong nhà. Bỗng cụ nhìn thấy
một anh chàng đang phun thuốc trừ sâu ở cánh đồng trước nhà. Cụ ra lệnh cho chị
con dâu đang ngồi sàng gạo ở trước thềm ra mời anh thanh niên đang phun thuốc
vào nhà cho cụ gặp. Anh nhận lời và khi gặp cụ bào anh gỡ cái loa kim (hệ thống
loa phát thanh bằng dây dẫn), lật ngửa chiếc loa rồi phun thuốc trừ sâu vào đó.
Như có phép thần, đến giờ phát thanh buổi chiều, chiếc loa đang im bặt cả tuần
bỗng nói oang oang. Chị con dâu khen: thầy em tinh thật, cái gì cũng biết! Thì
ra cái loa kim bị sét rỉ, thuốc trừ sâu phun vào làm nó bị ăn mòn và trở nên dẫn
điện tốt trở lại. Cụ Vơn có "uy tín" nhờ những "sáng kiến trừu
tượng" như thế. Cả nhà, cả xóm rất coi trọng cụ. Chưa hết, một lần hợp tác
xã mổ lợn, chia cho nhà cụ 1kg. Khi ngồi ăn cơm, cụ Vơn húp một thìa nước luộc
thịt rồi lắc đầu chê: thiếu đạm là không ngọt. Tôi hỏi cụ: đạm là thứ gì mà thiếu?
Cụ trả lời: đạm là mì chính (bột ngọt) ông giáo ạ! Anh con trai cũng húp thử một
húp rồi khen: thầy em tinh thật! Chưa hết, đúng năm đó Bác Hồ mất. Tôi về Hà Nội
mấy hôm. Khi trở lại, tôi đem tặng cụ tấm ảnh chủ tịch nước mới là Tôn Đức Thắng
để gia đình treo bên cạnh ảnh cụ Hồ. Xem xong, cụ đi đi lại lại, chắp tay ra
sau rồi lại nhìn lên bức hình bác Tôn. Cụ có vẻ băn khoăn lắm. Tôi thấy vậy bèn
hỏi: cụ thấy hình bác Tôn thế nào? Cụ khẽ lắc đầu, nhận xét: Hồ Chủ Tịch này
cũng già lắm rồi!
Nông thôn miền Bắc XHCN cuối thập niên 1960 là như thế. Chỉ
có trẻ em, phụ nữ, người già. Thanh niên đi "B" hết. Năm 1972, ở tuổi
30 tôi cũng được gọi đi nghĩa vụ quân sự theo giấy gọi của huyện. Nhà trường, học
sinh lớp tôi chủ nhiệm cũng làm liên hoan tiễn thầy đi bộ đội long trọng lắm.
Nhưng được có nửa tháng, lên đến tỉnh khám sức khỏe lại, tôi bị loại, lại khoác
ba lô về lại trường cũ.
Hơn tám năm dạy học, tôi thấy rõ sự xuống cấp của giáo dục miền
Bắc từ những năm đó. Hai yếu tố dậy và học làm nên quá trình giáo dục thì học
là quyết định, dậy là quan trọng. Chưa bàn đến quá trình học, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Tôi chỉ nói về quá trình dậy, liên quan trực tiếp đến người thầy. Bệnh
hình thức, hay nói khác đi, gọi đúng tên của nó là giả dối đã ngự trị trong lao
động dạy học. Điều đáng nói là, chính những người lãnh đạo giáo dục ở các cấp
đã vì dốt nát và giả dối, chấp nhận chủ nghĩa hình thức. Đối với môn văn thì lại
càng nguy hiểm. Học sinh ngày càng chán học môn văn, vì ngoài việc môn này bị
chính trị hóa, còn một nguyên nhân rất quan trọng là sự lười biếng được khuyến
khích ở thầy dậy văn. Văn học là "hiểu biết, khám phá và sáng tạo" về
cuộc sống. Tác phẩm văn học được đưa vào sách giáo khoa, được đem giảng dạy ở
nhà trường, một lần nữa nó phải được thầy cô "khám phá" về cái đẹp để
truyền thụ cho học sinh. Sự khám phá này được thầy cô nghiền ngẫm trong từng
câu, từng chữ qua nhiều năm. Như người nghệ sĩ đánh đàn, càng lâu năm ngón đàn
càng điêu luyện. Vì thế các cụ ta có câu: thầy đờn già, con hát trẻ. Một bài
thơ hay như bài "thăm lúa" của Trần Hữu Thung, một thầy giáo dậy văn
phải giảng bài thơ này năm này qua năm khác. Nhưng chưa phải là đã khám phá ra
hết cái hay, cái đẹp của bài thơ. Vậy mà giáo án của tôi để dậy bài thơ đó được
soạn năm trước, năm sau suy nghĩ, rút kinh nghiệm, thêm bớt một số ý, một số từ.
Mỗi năm một lần giảng là một lần thêm bớt như thế vào giáo án cũ. Nhưng cán bộ
chuyên trách bộ môn văn, một chuyên gia được xem là am hiểu của ty giáo dục về
môn văn, về trường kiểm tra đã kịch kiệt phê bình tôi không soạn giáo án mới,
đem sử dụng giáo án cũ. Anh ta lại biểu dương một giáo án được chép lại thật sạch
sẽ giáo án cũ, có gạch chân các phần bằng mực đỏ nhưng không được bổ sung thêm
bớt gì. Anh ta biểu dương công chép lại một giáo án cũ mà phê phán sự trăn trở
tìm tòi của người giảng dạy một bộ môn nhgệ thuật đòi hỏi phải luôn sáng tạo và
khám phá. Mặt khác, thấy giáo dậy văn phải là diễn viên có tài trên lớp, anh ta
phải "thoát ly" được giáo án, phải thuộc "kịch bản" để bằng
ngôn từ và ngoại hình cho học sinh "cảm thấy" được cuộc sống muôn màu
muôn vẻ mà bài thơ, bài văn đó đã khám phá. Leonard de Vinci đã từng nói:
"Họa thơ là nhìn thấy, thơ là họa cảm thấy" là gì. Học sinh của chúng
ta rất chán học văn vì thầy cô chỉ cầm giáo án mà đọc từ năm này qua tháng
khác. Tôi đã kịch liệt phản đối cách kiểm tra, chấm điểm đánh giá giáo viên văn
qua cách kiểm tra giáo án một cách hình thức như thế. Nhưng tôi đã thua cuộc vì
người đánh giá mình là… cấp trên. Nhà trường cũng sợ cấp trên. Năm học đó tôi
không được xếp hạng "lao động tiên tiến", một danh hiệu cho tất cả
các cán bộ công nhân viên nhà nước thời đó, trên danh hiệu đó là "chiến sĩ
thi đua".
Nhưng cuối niên học đó đã xảy ra một sự kiện "động trời"
với ngành giáo dục của tỉnh. Số là, cuối năm khối lớp 10 trong cả tỉnh đều tổ
chức thi thử các môn chính cho học sinh lớp 10 trước khi bước vào kỳ thi tốt
nghiệp phổ thông hệ 10 năm. Thi thử là để đánh giá chất lượng dậy và học, và được
tổ chức nghiêm túc như thi thật. Đề do Ty giáo dục ra, giờ thi thống nhất toàn
tỉnh. Đầu đề môn văn năm đó là: các em hãy phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu.
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mật trời chân lý chói qua tim
Tâm hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đượm hương và rất rộn tiếng chim".
Thời đó, trong nhiều năm dài, hễ thi văn dù tốt nghiệp phổ
thông hay thì vào các trường đại học, đề thi quanh đi quẩn lại vẫn là thơ Hồ
Chí Minh hoặc thơ Tố Hữu. Có lần, xem đề thi vào đại học, bộ trưởng Bộ đại học
và trung học chuyên nghiệp Tạ Quang Bửu đã phán một câu: đây là tà thuyết.
Khi kẻng đã đánh, đề thi được chép lên bảng. Các lớp 10 khác
của nhà trường đều im phăng phắc, các em cặm cụi làm bài thi. Riêng lớp tôi,
theo lệnh của tôi, các em không phải làm bài, cứ ngồi yên. Khi thầy hiệu trưởng
đến kiểm tra đã vô cùng kinh ngạc. Ông kéo tôi ra hàng hiên, hỏi: tại sao lớp
thầy học sinh không làm bài? Tôi trả lời: đề thi ra sai(!) Thầy hiệu trưởng
càng kinh ngạc: sai cái gì? Tôi trả lời: bốn câu thơ trong đề thi chỉ là một khổ
thơ trong bài "Từ ấy". Còn tám câu của hai khổ nữa mới hoàn chỉnh
bài. Nói xong tôi đọc tiếp bốn câu thơ tiếp theo của khổ thứ hai:
"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi và bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
Tôi nói tiếp, vậy mà đề thi lại yêu cầu phân tích cả bài thơ
Từ ấy của Tố Hữu. Nếu học sinh của tôi, theo yêu cầu của đề thi phân tích xuống
cả những câu tiếp theo thì sao? Thầy hiệu trưởng run lên bần bật vì tôi đã
đúng. Nhưng nếu một lớp mà không thi với lý do truy ra đề sai thì… "to
chuyện lắm". Thầy hiệu trưởng năm nỉ tôi cứ cho học sinh làm bài. Tôi kiên
quyết từ chối, cho học sinh giải tán ra về. Sự việc trên là một trái bom nổ
trong ngành giáo dục Hải Hưng lúc đó. Người ra đề thi năm đó, dĩ nhiên phải là
cán bộ chuyên trách bộ môn văn của Ty, ông chuyên viên đã từng kiểm tra giáo án
của tôi trong đợt "thanh tra" hồi giữa năm! Ông ta bị cách chức
"cán bộ chuyên trách" môn văn ngay sau đó.
Trong thời gian dạy học ở Cẩm Giàng, tôi tham gia sinh học và
trở thành hội viên Hội văn nghệ tỉnh Hải Hưng, dự các trại sáng tác văn thơ do
Hội tổ chức. Ngoài ra còn viết cho báo Văn Nghệ đề tài "Phương pháp luận
giảng dạy văn học" trong nhà trường. Tôi còn viết cho báo "Người giáo
viên nhân dân" của Bộ Giáo dục cũng đề tài giảng dạy văn học… Chính vì
tham gia các hoạt động văn học, tôi biết khá rành về nhà thơ tý hon lúc đó là
Trần Đăng Khoa. Khoa sinh năm 1958 tại xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách tỉnh Hải
Hưng. Tám tuổi cậu đã có thơ đăng báo. Tập thơ "Góc sân và khoảng trời"
được tuyển chọng trong 200 bài thơ Khoa đã làm trong hai năm, được Khoa lấy tên
chung là "Từ góc sân nhà em", Ty giáo dục Hải Hưng xuất bản tháng 2
năm 1968, lúc tác giả vừa tròn 10 tuổi. Từ điển Wikipedia trên mạng Internat
sau này đã nhầm lẫn khi giới thiệu "Từ góc sân nhà em" là tập thơ đầu
tiên của Trần Đăng Khoa và tập tiếp theo là "Góc sân và khoảng trời"
do nhà xuất bản Kim Đồng in ấn(!). Thực ra, tập thơ "Góc sân và khoảng trời"
là do Ty Hải Hưng xuất bản dầy 54 trang,, gồm 52 bài thơ. Một cậu học trò của
tôi ở trường trung cấp sư phạm tỉnh, sau khi tốt nghiệp và quận Nam sách dạy học
đã mua và đem tặng tôi. Tôi đã đọc rất kỹ tập thơ này. Tôi yêu nó đến mức, đi
đâu dù phải dọn nhà nhiều lần vẫn mang nó đi theo. Năm 1981, chuyển công tác từ
Hà Nội và Đồng bằng sông Cửu Long (Mỹ Tho), tôi đã chọn trong cả trăm cuốn sách
của mình và chỉ mang theo ba cuốn, trong đó có tập "Góc sân và khoảng trời".
Tháng 6 năm 1981, tôi đã tặng nó cho thầy giáo Nguyễn Văn Quýt, một nhà chơi
sách nổi tiếng ở Tiền Giang. Mỗi lần tỉnh tổ chức triển lãm sách quý, cuốn
"Góc sân và khoảng trời" đều được đem ra trưng bày trước sự thích thú
của độc giả. Năm 1992, khi chuyển công tác về Sài Gòn, tôi mượn lại cuốn đó của
thầy Quý để photo lại. Đến hôm nay khi tôi viết những dòng chữ này, cuốn photo
đó vẫn nằm trước mặt tôi. Thế là, tôi đã đem "Góc sân và khoảng trời"
theo mình suốt 40 năm. Có thể vì "chơi" như thế nên tôi đã nghèo suốt
đời (giống như thầy giáo Quý, người chơi sách nổi tiếng ở Đồng bằng sông Cửu
Long).
Với tâm hồn bay bổng, tình cảm chan chứa, bằng sự quan sát
tinh tế và cách diễn đạt hồn nhiên của một cậu bé sinh ra và lớn lên ở nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ, Trần Đăng Khoa đã làm kinh ngạc cả văn đàn miền Bắc thời
đó. Những bài thơ như "Cây dừa", "Đám ma bác giun"… tác giả
đã trở thành một thi sĩ lớn ngay từ lúc tuổi còn nhỏ.
Một ngày nắng đẹp đầu thập kỷ 70, tôi đến thăm Trần Đăng
Khoa. Tôi phải nhờ cậu học trò cũ của tôi ở trường sư phạm năm nào dẫn đường.
Làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn nơi sinh sống của cậu bé Khoa hiện ra trước mắt
tôi, nhưng đến nơi thì buổi chiều đó cậu lại đang đi đơm cá. Chúng tôi tìm đến
nhà thơ thiếu niên trên cánh đồng. Khoa từ dưới ruộng mò lên, quần áo ướt lướt
thướt. Cậu học sinh của tôi (lại là thầy dậy của Khoa) cất tiếng hỏi: Khoa có
bài thơ nào mới làm không đưa cho thầy Khải xem? Cậu bé Khoa đặt cái nơm xuống
đám cỏ rồi ngả chiếc mũ lá rộng vành xuống, cẩn thận lấy từ trong mũ ra một tập
giấy đưa cho tôi. Tôi không tin vào mắt mình nữa khi trước mắt tôi là bản
"Trường ca giông bão". Tôi ngồi xuống ngay vệ cỏ đọc một mạch cho đến
hết. Nó chẳng kém gì ILIADE, ODYSSEUS của Homeros! Hơn 40 năm rồi, tôi vẫn còn
nhớ mấy câu cuối cùng của bản trường ca đó: "… Ta nhất định thắng /
vì đầu ta có nhiều lẽ phãi / tay ta lấm láp phù sa"
Ít lâu sau tôi về Hà Nội, đến báo Nhân Dân gặp nhà báo Quang
Đạm. Ông là một trí thức tên tuổi của Hà Nội. Trong làng báo thời đó, có hai
người biết nhiều ngoại ngữ nhất là Quangg Đạm ở báo Nhân Dân và Lê Phú Hào ở
VNTTX. Tôi "báo cáo" ông Quang Đạm về bản "Trường ca going
bão" và được biết ông đã có đọc từ trước. Ông trầm lặng nói: thiên tài!
Thiên tài! Rồi ông lại chậm rãi nói tiếp: nhưng Đảng ta tiết kiệm lắm! Tiết kiệm
lắm! Tôi hiểu, ý ông muốn nói là không có chuyện khen ai, nhất lại là khen một
cậu bé như Trần Đăng Khoa… trên báo Đảng. Không thể lăng-xê ai để người đó có
thể qua mặt những người như XYZ… Sau đó không lâu tôi được thấy bài đó được in
trên cáo báo nhưng tên bài đã được biên tập dưới cái tên rất ngô nghê và vớ vẩn.
Người biên tập đã tầm thường hóa nó với cái tên mới là: "Trường ca đi đánh
thần hạn!"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét