Yếu tố bi kịch trong tiểu thuyết
Đất lửa của Nguyễn Quang
Sáng
Nói đến yếu tố bi kịch, người ta thường nhắc đến thể loại bi
kịch phương Tây. Những vở chính kịch này thường được xây dựng theo nguyên tắc
“Tam duy nhất”: duy nhất về thời gian, duy nhất về không gian và duy nhất về
hành động. Nhiều nhà văn đã xây dựng tiểu thuyết theo tinh thần của thể loại bi
kịch. Có thể thấy điều đó trong Đất lửa của Nguyễn Quang Sáng.
Thời gian sự kiện chính chỉ diễn ra có một ngày đêm. Bắt đầu
từ một sáng mai, dân làng nhộn nhịp kéo ra các nẻo đường để học võ, canh gác và
dựng pháp trường xử chém Sáu Sỏi, nguyên chủ nhiệm Việt Minh huyện. Tối đó, bộ
đội Việt Minh kéo về cứu Sáu Sỏi nhưng đã muộn, một cuộc chém giết xảy ra. Thời
gian cốt truyện chỉ ngắn ngủi như vậy nhưng thời gian trần thuật dàn trải ra tới
336 trang sách. Người đọc có cảm giác thời gian trôi đi rất chậm, khoảng 2/ 3
tác phẩm trôi đi trong “dòng ý thức” các nhân vật. Quá khứ được nhắc tới nhiều
hơn hiện tại, quá khứ giãn nở như muốn làm nổ tung vỏ bọc hiện tại. Đó là thời
gian bức bối, căng thẳng chứa đựng nhiều bi kịch của lịch sử Nam Bộ buổi đầu
kháng chiến chống Pháp.
Sự kiện chính chỉ diễn ra tại một địa điểm duy nhất: làng Mỹ
Long Hưng (quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên). Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã
chọn không gian bối cảnh là vùng đất từng có phong trào cách mạng rất cao, lại
là đất của đạo Hòa Hảo - “Đất của Hòa Hảo là đất lửa”. Nó chứa đựng vô số xung
đột: vô thần - hữu thần, cộng sản - chống cộng, dân tộc Việt Nam - thực dân
Pháp, mâu thuẫn trong nội bộ mỗi phe, mỗi gia đình, trong tình yêu đôi lứa… Các
mâu thuẫn này có mối quan hệ ràng buộc với nhau tăng cường tính phức tạp và làm
nóng thêm quả bom ở miền đất lửa.
Có thể xem sân khấu cuộc đời được dựng ngay tại làng Mỹ Long
Hưng. Trên cái nền của nó, người ta có thể thay đổi các cảnh trí khác nhau để
thể hiện những bước đường phiêu lưu trong tâm tưởng nhân vật. Khán giả có thể
chiêm ngưỡng bức tranh trù phú của đồng bằng Nam Bộ trước chiến tranh. Nhưng điều
oái ăm là nó nhanh chóng được thay thế bằng bức tranh tang thương sau vụ Nam Kỳ
khởi nghĩa. Thất vọng trước thực tại, người ta tìm đến cõi huyền bí của tôn
giáo. Tác giả tỏ ra có tài khi tạo dựng nhiều bức tranh mang đậm màu sắc tôn
giáo, như đoạn nói về hội Long Hoa ở núi Cấm: “nếu ai được đến đó với lòng
thành thì tâm hồn sẽ tan đi hết những nỗi ưu phiền. Nơi ấy có áng mây ngũ sắc,
có dòng suối cam lồ, có đủ thứ chim muôn biết ca hát, có những nàng tiên thỉnh
thoảng chắp cánh về trần đi tắm suối. Trên những áng mây ngũ sắc đó có các chư
tiên, chư phật tọa trên đài sen phất trần nhìn cuộc thế”. Để tới được thiên
đàng thì hiện tại, mọi nhà phải lập bàn thờ thông thiên, thờ tấm trần điều,
khói nhang nghi ngút. Các tín đồ mặc áo màu dà, để tóc dài, tiếng tụng kinh
chen lẫn với tiếng tù và và tiếng hô “Tử vì đạo” của những thiện nam tín nữ
gươm giáo tuốt trần quyết đánh tan những kẻ phỉ báng thánh thần. Thiên đường
chưa tìm thấy nhưng người ta chỉ thấy trước mắt cuộc sống trần ai đau khổ, bi
thương. “Không khí chết lặng đè nặng xuống xóm làng. Đã lâu lắm rồi, người ta bỏ
hết tất cả công ăn việc làm (…). Họ mải lao vào cuộc chém giết như những con
thiêu thân lao vào lửa”. Thiên nhiên trên “đất lửa” cũng nhuốm màu bi
thương, đen tối. “Từng bầy quạ đen réo nhau “quang quác” bay rảo ven sông tìm
xác chết”, “Mặt trời đã ngả về phía rặng cây xa, bừng lên như một đám cháy (…).
Mưa lạnh những con người không nhà. Mưa mù mịt và dầm dề…”. Những bức tranh có
màu sắc đối lập như trên đã làm nền cho những tấn bi kịch trong Đất lửa.
Cốt truyện của Đất lửa xoay quanh một hành động cơ
bản: sự xung đột giữa đời và đạo. Vì sao có sự xung đột này? Trong cuộc Tổng
khởi nghĩa năm 1945 ở Nam Bộ, lực lượng Hòa Hảo có vai trò quan trọng, mà theo
lập luận của Tư Trịnh: “Cách mạng tháng Tám thành công là nhờ có lá cờ đà của đạo
Phật giáo Hòa Hảo”. Nhưng khi giành độc lập xong, ở một số địa phương xảy ra việc
tranh chấp chính quyền giữa Việt Minh và Hòa Hảo. Nói như Quản Dõng: “Nó độc
tài, nó giành hết chính quyền để đàn áp bà con bổn đạo của chúng ta”. Mối hiềm
khích của hai bên bắt đầu từ đó. Pháp đã biết lợi dụng mâu thuẫn này nên bí mật
cho một số người như Ngô Quang Vỹ (cộng sản trốt kít), Quản Dõng (địa chủ, quan
chức cũ)… vào đạo để chỉ huy lực lượng Hòa Hảo. Nhiều tín đồ đã tin vào chiêu
bài của Việt gian: Trước hãy tạm hòa hoãn với Pháp để đánh “quỷ dương Việt Minh”,
sau đó sẽ quay lại đánh Pháp để giành độc lập dân tộc. Và nhiều tín đồ đã chiến
đấu dũng cảm chống lại chủ nghĩa vô thần để bảo vệ thanh danh của đạo: “Một làn
sóng người đang chen chúc nhau tràn đến. Gươm giáo trên tay họ lấp loáng. Họ mặc
quần áo màu dà và phất một lá cờ dà, đàn ông, đàn bà, nam nữ, ông già và trẻ em
đều có. Họ là nhân dân (…). Nghe tiếng súng, cái lớp người ấy không tan ra mà lại
hùng hổ hơn. Họ gào thét to hơn và tràn đến như một cơn giông (…). Một lớp người
bị ngã. Lớp sau xô nhau tràn đến”. Họ “gào thét như sấm”, tiếng hô “Tử vì đạo”,
“Việt Nam - độc lập - vạn tuế” chen lẫn với tiếng rên của người hấp hối:
“Nam mô a di đà Phật”. Cứ thế, cả làng “lao vào cuộc chém giết vô lý”, “người
thân giết người thân”. Cả hai phe đều yêu nước nhưng họ phải giết hại lẫn nhau,
đó là bi kịch lịch sử.
Để tăng tính sinh động của bi kịch lịch sử - xã hội, tác giả
đã cụ thể hóa thành các bi kịch gia đình hay tình yêu đôi lứa. Người ta có thể
giải quyết các xung đột xã hội bằng một phát súng hay một nhát dao nhưng không
thể dùng giải pháp ấy trong mối xung đột giữa những người thân thiết, bởi vậy,
kịch tính càng tăng. Có thể thấy sự phức tạp đó trong gia đình nhân vật chính -
lão Trịnh. Lão có một bộ dạng rất độc đáo: “tóc dài chấm đến lưng, râu cằm che
mất cả cổ. Lão mặc quần áo màu dà”. Tính tình nóng nảy, ngang tàng, “lấy ngực ở
đời”… Nói chung là mang nhiều nét đặc trưng của con người Phật giáo Hòa Hảo Nam
Bộ. Bản thân lão cũng chứa đựng một phần lịch sử, thông qua số phận long đong của
lão, người ta có thể thấy được phần nào số phận của người dân yêu nước sau khi
cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị địch dìm trong bể máu. Lão mang hai con sang đất Hòa
Hảo lánh nạn, tại đây, lão dằn vặt giữa hai con đường: vào đạo hay không vào đạo? Tưởng chỉ vào đạo để che mắt địch, nào ngờ giáo lý Phật giáo quá hấp dẫn khiến
lão từ bỏ con đường cộng sản vô thần. Lão quay về làng cũ và được cử làm Phó Ban
trị sự đạo. Để cắt đứt hoàn toàn sợi dây liên hệ giữa Tư Trịnh với cộng sản, Quản
Dõng ra lệnh cho lão phải giết Sáu Sỏi. Lão Trịnh tan nát cõi lòng khi phải giết
người đồng chí thân thiết nhất của mình từ thời Nam Kỳ khởi nghĩa. Lão dằn vặt,
chất vấn để tìm lẽ đúng sai: “Nếu ta theo Sáu Sỏi để đánh Tây thì có làm trái lời
của Phật không? (…) Tại sao những người kháng chiến vô đạo mà lại đánh Tây?
Ai bảo ta đi tạm hàng giặc? Lệnh trên! Trên là ai? Việt Minh là kẻ thù của đạo
ta ư? Vì sao? Việt Minh là quỷ dương thực sự đấy ư? Hay là những người như
Quản Dõng? Hay chỉ là Tây thôi? (…) Ta sẽ không hàng giặc, ta sẽ đánh Tây (…)
Như thế sẽ không có ai dám nói ta đầu hàng giặc và ta đánh cả Việt Minh, như thế,
sẽ không có bổn đạo nào dám nói ta là phản đạo!”. Cảm thấy đó là giải pháp hợp
lý nhất, Tư Trịnh đã vung gươm chém chết người bạn thân thương. Người đọc khó
quên hình dáng lão tướng Tư Trịnh thiểu não, lắc lư trên lưng ngựa đêm xử trảm.
Đó là những câu văn có hồn.
Hiếu, con trai lão Trịnh cũng gặp tình huống bi kịch. Anh dạy
võ cho tín đồ Hòa Hảo đánh Việt Minh nhưng thâm tâm anh lại ủng hộ Việt Minh.
Hai cha con xảy ra bất đồng gay gắt trong việc giết Sáu Sỏi. Nhưng lão Trịnh
không ngờ rằng, trong đêm hai phe đánh nhau, con mình đã chạy sang phía Việt
Minh. Trong khi lão Trịnh hăng hái dẫn đầu lực lượng Hòa Hảo xông lên thì nghe
phía bên kia, tiếng loa của con lão kêu gọi đồng bào hãy rút lui. “Hai cha con,
hai trận tuyến khác nhau. Lão bủn rủn cả tay chân. Lão muốn xông lên chém lấy
nó. Lão muốn đưa tay kéo nó trở về. Cả hai thứ tình cảm ấy đang dằn xé trong
người lão. Và chung quanh người ta đang nguyền rủa lão”. Nhân vật lão Trịnh
không chỉ được miêu tả qua hành động mà còn được miêu tả qua nội tâm. Lão không
phải là người nông cạn, thiếu suy nghĩ. Nếu tác giả để cho lão giết con thì
không thực, nếu để lão chấp nhận đầu hàng thì không hợp với tính khí của lão.
Tác giả đã chọn con đường cho lão tạm thời rút khỏi hàng ngũ: “Lão Trịnh sợ mọi
người, xấu hổ với mọi người và sợ nhìn cái chết của con, lão nép vào bóng tối,
lưng còng xuống như muốn thu người lại, lão vừa nhìn dáo dác vừa bước từng bước
trở về”. Trên đường về, lão còn nghe “như có sấm sét đánh bên tai” khi Năm Bầu
nói rõ ý định theo Việt Minh. Tuy nhiên, những người quen “lấy ngực ở đời” như
lão Trịnh chưa dễ đã lay động tư tưởng. Chính cái khí chất ấy sẽ còn làm kéo
dài bi kịch của lão.
Kiểu bi kịch gia đình không chỉ có ở nhân vật Tư Trịnh mà còn
có ở nhân vật Năm Bầu, điều đó góp phần tô đậm thêm màu sắc bi kịch của tác phẩm.
Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Năm Bầu đã cùng sát cánh với Sáu Sỏi, Tư Trịnh
nhưng khác với lão Trịnh, Năm Bầu vẫn giữ vững lập trường ủng hộ cộng sản đến
cùng. Hai con ông: Lành ủng hộ cộng sản nhưng Chiến lại căm ghét cộng sản tột độ.
Chiến giữ chức Trưởng Ban ám sát và xem việc giết được nhiều cộng sản vô thần
là thành tích để dâng lên Phật thầy. Hai cha con có nhiều cuộc cãi vã kịch liệt:
“Chiến nhìn ông với cặp mắt nảy lửa và dữ dội như vậy, một cái nhìn của kẻ thù
chứ không phải là cái nhìn của đứa con”. Năm Bầu “đau nhói cả ruột gan”, luôn dằn
vặt về đứa con ngỗ nghịch và sự đảo điên của thế sự. Mặc dù hai cha con vẫn ăn
chung một mâm, ở chung một nhà nhưng cả hai đều không nhận nhau là cha con.
Trong đêm giao tranh với Việt Minh, “Chiến như một vị tướng xông vào mặt trận.
Người, ngựa, tay giơ cao ngọn súng, hình ảnh oai vệ (…). Ngựa Chiến phi qua giữa
các ngọn đuốc đang quơ lên. Đầu Chiến bốc nóng, người rộn rực. Nghe tiếng gào
thét mỗi lúc mỗi dấy to, anh tưởng mình như một vị anh hùng. Anh háo hức, sôi nổi,
muốn gây ra trước mắt mình một cuộc chém giết ghê gớm”. Hành động hiếu chiến ấy
đã mở màn cho một cuộc chém giết huynh đệ tương tàn. Trong lúc Năm Bầu đứng từ
xa đau xót trước cảnh nồi da xáo thịt thì nghe tin con trai bị trọng thương. “Trước
đây, có nhiều lúc, ông không muốn nhìn mặt Chiến nữa, nhưng từ đây, khi nghe
tin Chiến bị thương thì tình cha con liền trở lại với ông trọn vẹn và đầy đủ
như bát nước đầy”. Ông vội chạy theo xe cứu thương nhưng không kịp và té sấp xuống
mặt đường chảy cả máu mặt. Đó là bằng chứng của tình thương con nhưng không vì
thế mà ông căm thù kẻ đã bắn con mình. Bằng chứng là cuối tác phẩm, ông đã nói
với lão Trịnh: “Tôi sẽ rước những người cộng sản trở về”. Nếu như điều đó xảy
ra thì mối quan hệ của cha con ông sẽ như thế nào? Nó sẽ là một tấn bi kịch
không có cách giải quyết thỏa đáng.
Đất lửa không chỉ có bi kịch lịch sử - xã hội, bi kịch
gia đình mà còn có cả bi kịch tình yêu đôi lứa. Từ ngày đạo Hòa Hảo xích mích với
Việt Minh, nhiều nam nữ tín đồ đành phải đau lòng cắt đứt tình yêu với người
ngoại đạo. Hằng là người đau lòng nhất vì người yêu của cô không những không
theo đạo mà còn là “kẻ thù của đạo”. Trước sức ép của cha mẹ, anh trai và xóm
làng, Hằng đã nhiều lần khuyên Phát nên vào đạo để đi đến hôn nhân nhưng anh đã
chối từ. Tác giả rất coi trọng bút pháp phân tích tâm lý nhân vật nên đã dành
trên bốn mươi trang sách để miêu tả bi kịch nội tâm của Hằng. “Mình không phải
là mình nữa rồi. Nhiều lúc nàng cũng tự thấy rõ như vậy. Ai là người xấu? Hằng
không biết được! Phát là người xấu? Không! Phát không phải là người xấu!
Phát là người tốt. Nếu thế thì cha nàng, anh nàng và tất cả tín đồ là người xấu
hay sao? Không! Cha nàng và anh nàng cũng không phải là người xấu! Thế thì
ai là người xấu? Nàng không đáp được câu hỏi của mình. Còn quỷ dương? Quỷ
dương là người như Phát hay sao?”. Vốn là người sùng đạo, nàng lo sợ đến ngày
tận thế, bọn quỷ sứ, hùm beo, cá sấu sẽ xé xác người yêu. Để lấy lòng đạo, nàng
giả vờ đã bỏ Phát và tán tỉnh các chàng trai khác. Bởi vậy, nhiều người ghép
nàng với Bảy Thẹo, một tay chân thân tín của Quản Dõng, và hỏi nàng nếu gặp lại
Phát thì sao? “Tôi sẽ giết nó chớ còn sao nữa - nàng đáp lại một cách sốt sắng.
Nàng vừa nói vừa vung kiếm, bĩu môi: “Cái thằng đó à?”. Rồi nàng ngửa mặt ra
cười khanh khách. Nàng cười, nhưng nếu ai chú ý thì sẽ thấy khóe mắt nàng có một
giọt lệ long lanh”. Trong con người Hằng có sự mâu thuẫn giữa hành động và nội
tâm, và chính điều này làm cho nhân vật khác với kiểu “con người ngoại hiện” vốn
rất phổ biến trong tiểu thuyết cách mạng đương thời.
Vốn vẫn giữ tình yêu với Phát nên Hằng không dám đi dự lễ
chém Sáu Sỏi, người mà lẽ ra sẽ là cha chồng nàng. Nhưng nàng không ngờ rằng,
trong đơn vị bộ đội về cứu Sáu Sỏi, có người yêu của nàng đang giữ chức chính
trị viên. Phát đứng bên kia chiến tuyến nhắc nhở đồng đội đừng bắn vào đồng bào
Hòa Hảo khi chưa thực sự cần thiết. Hằng đứng bên này chiến tuyến cùng thiện
nam tín nữ la hét “Tử vì đạo”. Đạn từ phía Việt Minh bắn ra làm Hằng trọng
thương. Là người nguyên tắc nhưng Phát đành tạm thời rời đơn vị để cấp cứu người
yêu. “Máu của Hằng thấm ướt cả tay anh. Anh lay khẽ đôi vai Hằng, kêu lên với
giọng run rẩy và nghẹn ngào (…) Hôm nay, cái chết của cha anh đã đưa đường cho
hai người gặp nhau. Một cuộc gặp gỡ phải trả giá bằng một mạng người! Và người
ấy lại là cha anh. Và khi gặp lại, thì đây, Hằng đang hấp hối trên đôi tay của
anh”. Liệu những viên đạn găm vào người Hằng có viên đạn nào do Phát bắn ra?
Và trong đêm tối đen mù mịt đó, nếu gặp Phát, liệu thanh gươm của Hằng có bổ xuống
người mà mình mong nhớ ngày đêm? Những nghịch cảnh trái ngang ấy, suy cho cùng
là do bi kịch của lịch sử mang lại.
Ngoài ra, Đất lửa còn có hàng loạt mối bi kịch
khác. Đó là bi kịch của những đôi trai gái phải xa nhau vì mâu thuẫn giữa đời
và đạo. Là bi kịch tình yêu của Bảy Thẹo khi không được Hằng đáp lại. Là nỗi
đau của anh bộ đội Hồng khi người yêu là Hiền bị nhóm tín đồ quá khích giết chết.
Đó là mối xung đột tiềm ẩn trong nội bộ Ban trị sự đạo, giữa Quản Dõng (trưởng
ban) và Tư Trịnh (phó ban). Sự bất đồng quan điểm giữa Tư Trịnh và Năm Bầu… Đặc
biệt là mâu thuẫn trong nội bộ Việt Minh giữa chỉ huy Bảy Thâm và các chính trị
viên - “những thằng đánh giặc bằng miệng - mặt gà mái”. Từ khi Phát về thế
chính trị viên cũ, mâu thuẫn có xẹp xuống nhưng đôi lúc cũng bùng nổ khi đề cập
đến vấn đề Hòa Hảo: “xung đột đến đỏ mặt, đập ghế, đập bàn và cuối cùng không
ai chịu ai”. Bảy Thâm chủ trương giết sạch, đốt sạch các làng Hòa Hảo. Phát chủ
trương tìm giải pháp hòa bình, hòa hợp dân tộc. Nhưng trong thời điểm đó, ước
muốn của anh rất khó thực hiện, cái chết của cha anh như đổ thêm dầu vào lửa.
Đó là bi kịch. Mà nguyên nhân của bi kịch bao giờ cũng là mâu thuẫn giữa ước muốn
và hiện thực.
Trong văn học cách mạng Việt Nam, hiếm có tác phẩm nào
giàu màu sắc bi kịch như Đất lửa. Xuất phát từ các xung đột giữa đời và đạo
ở cấp độ lịch sử - xã hội, Nguyễn Quang Sáng đã triển khai thành các xung đột
trong nội bộ gia đình, tình yêu đôi lứa… Các tình tiết rất giàu kịch tính và có
lối kết thúc của thể loại bi kịch. Tác giả còn thành công trong bút pháp phân
tích tâm lý nhân vật, tạo không khí truyện… Tác phẩm không chỉ có giá trị nghệ
thuật mà còn có giá trị hiện thực cao, giúp bạn đọc hiểu thêm những góc khuất của
lịch sử Nam Bộ buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Tác giả là người có bản lĩnh
khi mạnh dạn đề cập đến những vấn đề phức tạp, tế nhị của tôn giáo và cách mạng.
Khi mới công bố lần đầu năm 1963, tác phẩm đã tạo ra nhiều dư luận trái ngược
nhau. Tuy nhiên, hy vọng rằng, vượt qua mọi sự sàng lọc của thời gian, Đất
lửa sẽ có chỗ đứng xứng đáng trong văn học Việt Nam.
3/5/2008 Phạm Ngọc Hiền
3/5/2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét