Gian phòng đầy vẻ ấp áp thân mật dưới những ánh đèn mờ ảo.
Tân khách khá đông, có đến ba bốn chục người đủ hạng tuổi. Ban nhạc bắt đầu
tung ra một bản nhạc kích động. Từng cặp, từng cặp dẫn nhau ra sân đưa những đường
Be-bop. Những bước chân chuyển rào rào, những cánh tay hất lên cao và thân thể
mềm mại của những kiều nữ quay nhanh thoăn thoắt. Rồi nhạc đột ngột chuyển sang
boston. Ave Maria. Tất cả mọ cử động bất thần chậm hẳn lại. Đào kép
xáp vào nhau, ôm lấy nhau, dạo những bước nhịp nhàng. Cái vẻ vui nhộn của
Be-bop biến thành vẻ thân mật của boston. Người ta đi chơi tung tăng trong
Be-bop, người ta gặp nhau trong boston rồi người ta tỏ tình trong boléro. Một
chuyến bay đêm. Boléro. Ba bước, nghỉ một nhịp rồi tiếp tục ba bước khác.
Chỉ có thế thôi nhưng đó quả là ba bước huyền diệu, ba bước phù thủy, ba bước
thuốc mê, cháo lú, ba bước bắc cầu để trai và gái truyền cho nhau những rung động
của da thịt, những tiếng đập của trái tim, những nhịp tiết của mạch máu, những
xao xuyến của tâm hồn. Boléro.
Trâm và một cô bạn nữa đến khá trễ. Thân hình nàng uyển chuyển mơ hồ trong chiếc
áo dài trắng hai vạt có thổi màu nhạt ở trên và càng xuống càng thẫm hơn. Thịnh
đang ngồi một mình hút thuốc lá, đôi mắt lơ mơ lạnh lẽo hướng vào những cặp
trai gái đang ôm nhau nhún nhẩy. Trâm ngồi phía bên kia gần như đối diện với
chàng. Nhà thi sĩ bừng tỉnh khỏi cơn mộng. Mắt chàng dần dần sáng lên. Thiếu nữ
ngồi đó gần giống với người đàn bà lý tưởng trong những giấc mơ của chàng. Hình
như Trâm không biết nhảy nên nàng ngồi thu mình vào và Thịnh thấy có tới hai lần
nàng ngẩng đầu lên vừa tươi cười vừa bẽn lẽn từ chối những người mời nàng nhảy.
Đàn bà tinh lắm. Chỉ sau mấy phút, Trâm đã biết có một gã đưng âm thầm say mê
ngó mình. Thỉnh thoảng, nàng đưa mắt rất nhanh nhìn Thịnh. Nàng có vẻ hài lòng,
nói cho đúng hơn, có vẻ không ngầm phản đối gã thanh niên đang nhìn nàng đắm
say đến thế. Vẻ mặt gã lạnh lẽo nhưng chỉ là cái vẻ lạnh lẽo bề ngoài một hỏa
diệm sơn khi chưa phun lửa. Thịnh cũng nhận thấy thiện cảm của Trâm. Có lẽ nàng
không biết nhảy, nhưng vẻ thiện cảm ấy khiến Thịnh hy vọng một cách mơ hồ là
chàng sẽ có thể dìu nàng ra piste. Hai người vẫn để ý tới nhau. Trâm vui vẻ.
Nàng nói chuyện huyên thuyên với cô bạn, và trong cử chỉ của nàng có một vẻ gì
như là hơi mất bình tĩnh. Còn Thịnh kiên nhẫn chờ đợi. Cho tới lúc ban nhạc
chơi một bài slow, rất chậm, rất êm, rất mơn trớn. Thịnh dụi điếu thuốc lá,
thong thả đứng dậy. Nhạc slow. Tim chàng đập thình thịch. Chàng cố trấn tĩnh lại,
đi ngang qua sàn nhảy tới trước mặt Trâm.
"Rất hân hạnh được mời cô bài này!"
Mặt Trâm hơi đỏ lên. Nàng ngả sát vào cô bạn, nói hơi lúng túng nhưng bằng giọng
rất êm và rõ ràng:
"Xin lỗi, tôi không biết…"
Thịnh đã trù tính trước câu trả lời này của Trâm. Tuy nhiên chàng cũng thấy
mình bối rối ghê lắm. Chàng ngụy biện:
"Điệu nhạc này dành cho những người không biết nhảy. Slow mà, cô đừng ngại…
Tôi hy vọng…"
Chàng ngập ngừng lúng túng vì không biết nói sao nữa. Nhưng may quá. Trâm đã đứng
dậy. Thân thể Thịnh như sắp lâm vào trạng thái tê liệt bỗng linh hoạt hẳn lên.
Chàng ân cần đỡ lấy cánh tay Trâm vừa rụt rè đưa ra và dìu nàng tới một đầu
piste. Chàng có cảm tưởng như Trâm không đến nỗi không biết chút nào. Thịnh đỡ
lấy lưng nàng và lúc đầu, chàng giữ một tư thế hơi xa nàng, tư thế rất lịch sự.
Chàng gợi chuyện, Trâm vui vẻ đối đáp. Toàn những chuyện vẩn vơ, nhưng giọng
hai người mỗi lúc một thêm cảm động. Tối hôm đó, họ nhảy với nhau tới bốn bài
slow, chỉ hai người với nhau thôi và chỉ nhảy slow thôi. Điệu nhạc định mệnh của
Thịnh. Thỉnh thoảng Trâm ngước đôi mắt huyền ảo lên nhìn chàng. Thịnh muốn được
chết ngay trong đôi mắt ấy. Quạt máy quay tít trên trần nhà thổi tung mái tóc
Trâm, mấy sợi tóc quất nhẹ vào má chàng, nhẹ, rất nhẹ, nhưng Thịnh cũng cảm thấy
má mình tê buốt, một thứ tê buốt dễ chịu vô cùng. Một sợi tóc của nàng bay dính
vào môi chàng, chàng thè lưỡi kéo nó vào miệng, cắn chặt lấy nó. Lê thê, mơn trớn,
điệu slow tỏa ra thơm ngát hương vị ma quái của đam mê. Thịnh say sưa ngây ngất
đến độ có thể tự sát được. Không bằng súng, không bằng lưỡi dao bào, không bằng
dây thừng, không bằng nhân ngôn mà bằng điệu nhạc slow.
Tiếp đó là những cuộc viếng thăm. Luôn luôn là chàng đến thăm nàng, với hoa hồng
đỏ thắm, với lay-ơn trắng tinh, với những món quà xinh xinh nho nhỏ, đôi khi có
cả thơ, mà thơ đại khái có những câu như Thời gian ngủ quên trên mái tóc
thơm tho - Tôi chết giấc trong cơ mê nồng ấm.
Thơ tự do mà. Đôi khi có cả thơ cổ truyền đủ vần, đủ vè, mà lại là lục bát nữa
chứ: Nhẹ nhàng đôi cánh chiêm bao – Nữ thần Tình ái bay vào lòng ta…
Rồi đến những cuộc đi chơi. Dưới những bóng mát êm đềm trong Sở Thú. Bên những
dòng sông mơ màng, những dòng sông nước chảy siết có những con tàu đang chờ
ngày dời bến ra khơi. Trong những rạp chiếu bóng đầy người. Những phim tình cảm
lãng mạn, những Trà hoa nữ, những Khói biếc mùa thu, những Tình
trong thời loạn. Building Tax. Passage Eden. Crystal Palace. Chàng lựa cho
nàng một màu áo, một hương phấn, một kiểu giày. La Pagode. Hoàng Gia. Quán Gió.
Chiều Tím. Này kem, này bánh, này nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc Đoàn Chuẩn, nhạc Đặng
Thế Phong. Tình yêu như trái phá, con tim mù lòa… Màu áo xanh là màu anh
trót yêu. Thuyền ai lờ lững… Những cuộc đi chơi vui vẻ, nồng nàn. Ái tình
của Thịnh cũng sang trọng lắm chứ.
Trong những buổi đi chơi với Thịnh, Trâm thường không thích đi bằng xe mà chỉ
ưa đi bộ. Lúc nào thật mỏi chân rồi, họ mới lên taxi. Tình cờ, họ đi qua một biệt
thự lớn, có sân rộng, có cây tỏa bóng mát và nhất là có một con chim họa mi được
nhốt trong cái lồng nhỏ treo ngoài hiên. Mỗi lần khi hai người đang chậm chậm
bước qua ngôi nhà ấy thì con họa mi cất tiếng hót. Tiếng hót trong và ấm, tuôn
ra thành những chuỗi ngọc âm thanh. Trâm kéo Thịnh đứng lại; nàng nghe, rồi đôi
mắt nàng sáng lên vì thích thú. Tiếng chim huyền ảo phong tỏa hồn nàng. Chưa
bao giờ nàng tưởng tượng được có thứ chim hót hay đến thế. Trâm say sưa. Trâm
ngây ngất. Từ buổi đó, mỗi lần đi chơi với Thịnh, Trâm đều bắt Thịnh đưa qua lối
đó, để có dịp ngắm con chim và may ra lại có dịp nghe nó hát. May ra, bởi con
chim kia rất ít hót hoặc hót vào lúc họ không có mặt ở đấy. Tiếng hót của nó dần
dần thành ra một sự ám ảnh đối với Trâm. Đôi khi Thịnh đăm đăm ngó Trâm với sự
ngạc nhiên, không hiểu tại sao Trâm có thể mê say con chim ấy đến thế. Nhưng
chàng lặng lẽ không nói gì bởi chàng rất cưng chiều Trâm. Cưng chiều cũng có
nghĩa là chịu đựng.
Trâm ưa nghe chim họa mi hót, hẳn nhiên nàng cũng ưa âm nhạc. Nàng hay đi dự những
buổi hòa nhạc, rất thích nghe chương trình Golden Sound của băng tần FM đài Mỹ.
Và từ lâu nàng ao ước sẽ được học kéo đàn vĩ cầm. Thế rồi, trong một buổi họp mặt
ở nhà Liên, bạn Trâm. Trâm đã gặp một anh chàng tên là Tuyết Sơn, mới ở Pháp về
sau khi tốt nghiệp một học viện âm nhạc ở Nantes. Tối hôm đó, theo lời yêu cầu
của Liên, Tuyết Sơn đã độc tấu vĩ cầm một bản nhạc cổ điển của Brahms. Tiếng
đàn ngọt ngào của Tuyết Sơn đã làm Trâm ngây ngất. Ngay tối đó, nàng đã làm
quen với Tuyết Sơn, làm quen dễ dàng, bởi Trâm là người đẹp nhất ở đó.
Sau một vài lần gặp gỡ nữa, Tuyết Sơn nhận lời mời mỗi tuần tới nhà Trâm ba lần
để dạy nàng chơi vĩ cầm. Mới đầu, hắn ta chỉ tới mỗi tuần ba lần nhưng rồi hắn
tự nguyện tới mỗi ngày một lần. Có những Chủ nhật, Tuyết Sơn tới những hai lần
sáng và chiều. Ít có giáo sư nào dạy học trò một cách chăm chỉ đến thế, mà lại
dạy không lấy học phí.
Tuyết Sơn khoảng ba mươi tuổi và nếu hắn đúng ba mươi thì hắn hơn Thịnh ba tuổi
và hơn Trâm mười tuổi. Hắn ăn nói hoạt bát, quần áo lúc nào cũng sang trọng bảnh
bao.
Dĩ nhiên, anh chàng Thịnh thường ghen với gã giáo sư âm nhạc. Mới đầu chỉ ghen
bóng ghen gió nhưng sau ghen ra mặt. Thịnh bảo Trâm:
"Coi bộ em có vẻ thân mật với Tuyết Sơn. Anh không ưa em cười giỡn với hắn
như thế".
Trâm xịu mặt lại:
"Anh nói chi kỳ quá. Em có cười giỡn với anh ấy bao giờ đâu. Anh bảo em
thân mật với Tuyết Sơn, thân mật là sao? Lần sau anh còn nói thế nữa, Trâm giận
cho mà coi".
Chỉ còn năm ngày nữa tới sinh nhật của Trâm. Thịnh dự tính sẽ kiếm một món quà
thật đặc biệt để tặng Trâm nhân dịp đó. Biết tặng gì đây? Thịnh suy nghĩ. Một
bó hoa, dĩ nhiên phải có hoa, nhưng phải có thêm một tặng phẩm nữa. Tặng phẩm
gì bây giờ? Phấn? Son? Xắc tay? Đồ chơi? Ồ, thường quá. Thịnh cố nghĩ xem Trâm
ưa thích gì mà chưa có. Thịnh nghĩ ra rồi, Trâm vốn say mê con chim họa mi ở biệt
thự nọ. Thịnh thầm nhủ: ước gì ta có con họa mi đó để tặng nàng, Trâm sẽ treo
nơi ngay đầu giường nàng. Sớm sớm, chiều chiều nó sẽ hót cho nàng nghe và mỗi lần
say mê thích thú với tiếng hót ấy, hẳn nàng sẽ nghĩ đến ta, để rồi sẽ không bao
giờ quên được ta. Sinh nhật của Trâm, hẳn cái thằng giáo sư âm nhạc khả ố kia
cũng sẽ tặng quà cho Trâm. Nó sẽ tặng gì? Nó tặng gì cũng kệ cha nó. Sẽ không
có tặng vật nào quý hơn tặng vật của ta được. Quà tặng của ta hẳn sẽ là một món
quà đặc biệt, một món quà bất ngờ. Chim họa mi ơi! Tiếng hót của mi đã từng làm
xao xuyến tâm hồn người yêu của ta. Thật là tiếng hót tuyệt diệu, hay gấp trăm
lần tiếng đàn của thằng Tuyết Sơn.
Thịnh tưởng tượng lúc chàng mang con họa mi tới tặng Trâm. Nàng sẽ reo lên vì
ngạc nhiên vì sung sướng, sẽ thấy rõ sự chu đáo, sự tế nhị của chàng đối với
nàng. Rồi hàng ngày nàng sẽ nghe nó hót mà tưởng như những tiếng hót của nó
chính là những lời tỏ tình của chàng.
Nhưng làm sao ta có con họa mi đó để tặng nàng. Ta sẽ gặp chủ nhân biệt thự nọ,
điều đình mua con chim ấy. Người đó hẳn giàu có, chắc sẽ không chịu bán chim.
Nhưng ta sẽ năn nỉ, sẽ van lơn, nếu cần, để y bằng lòng. À, mà chim đó hẳn phải
mắc giá lắm, tiền đâu mà mua? Cơ nghiệp của ta chỉ còn hai thứ đáng giá. Đó là
cái xe Honda và bộ Bách khoa tự điển Larousse mười cuốn. Xe là vật để ngày ngày
cưỡi kiếm cơm, dĩ nhiên không thể nào bán được. Còn bộ tự điển. Ta vốn yêu quý
bộ sách này lắm, yêu lắm, quý lắm nhưng mà… (Thịnh nhún vai, tặc lưỡi) chắc chắn
ta yêu quý Trâm hơn nó nhiều. Thôi đành đẩy nó cho hàng sách cũ nào đó lấy dăm
ba xấp mua chim. (Thịnh đã phải dành dụm nhiều tháng mới đủ tiền mua sắm bộ tự
điển ấy, bộ sách mà chàng ao ước suốt ba, bốn năm trời).
Chàng vội vã đưa Honda ra đường, phóng như bay tới tòa biệt thự, định bụng nếu
chủ nhân bằng lòng bán chim cho chàng, chàng sẽ đẩy bộ tự điển đi ngay lập tức.
Buồn thay, chủ nhân, một ông mập mạp, tóc hoa râm, nhất định không chịu bán con
chim họa mi dầu Thịnh đã cố sức năn nỉ. Anh chàng Thịnh vốn tự cao tự đại, coi
đời bằng nửa con mắt kia chưa bao giờ lại phải hạ mình một cách nhục nhã đến thế
để mà năn nỉ, để mà cầu khẩn một kẻ có lẽ là một tên trọc phú. Chàng đã nói đến
khô hết cả nước bọt nhưng chủ nhân vẫn khăng khăng từ chối. Sau gần một nửa giờ
thương thuyết vô ích, Thịnh buồn bã dắt xe ra khỏi biệt thự; đầu óc nặng trĩu,
bước chân lảo đảo.
Sự từ chối của chủ nhân tòa biệt thự càng khiến Thịnh bồn chồn với ý định có
con họa mi ấy để làm quà sinh nhật cho Trâm. Cho đến một buổi sáng kia, vào
ngày áp sinh nhật của Trâm, Thịnh chợt nảy ra một ý định táo bạo: lẻn vào tòa
biệt thự đánh cắp con họa mi.
Và suốt buổi sáng hôm đó, Thịnh đi lảng vảng trước cửa biệt thự để quan sát địa
thế. Lúc bấy giờ khoảng mười một giờ khuya, trời lất phất mưa. Đường sá vắng ngắt,
thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hơi mở đèn sáng rực chạy như tên bắn đường nhựa.
Anh chàng Thịnh từ trong một khoảng bóng tối nhô ra; tiến rất nhanh đến sát tường
rào tòa biệt thự. Cái thân hình gầy gò cao lêu nghêu của anh ta được ánh đèn
trên cột điện rọi dài trên vỉa hè. Thường ngày Thịnh lừ đừ chậm chạp, vậy mà tối
hôm đó anh chàng nhanh nhẹn lạ thường. Vụt một cái Thịnh đã trèo qua hàng rào sắt,
núp đằng sau một gốc cây, nghe ngóng một lát, rồi lại nhô ra, tiến rất nhanh đến
chỗ treo lồng chim. Một chiếc kìm bấm từ tay Thịnh đưa lên. Tách một cái, sợi
thép đứt. Một tay đỡ lồng chim, một tay đút nhanh chiếc kìm vào túi, Thịnh chạy
tới hàng rào, vội vàng leo ra. Leo vào thì dễ, leo ra thì khó, bởi Thịnh vướng
cái lồng chim trong tay. Khi Thịnh leo tới lưng chừng hàng rào thì bỗng nhiên một
bàn chân Thịnh bị tuột ra khỏi hàng rào. Bàn chân ấy chới với vài giây rồi chạm
vào một chậu sứ có lẽ là chậu đựng cây cảnh. Trong lúc bối rối Thịnh dùng chậu
cảnh ấy làm bàn đạp để leo lên cho dễ. Chậu đó được kê trên một bệ cao và không
vững nên khi Thịnh đạp chân vào nó, nó chênh đi rồi rơi xuống tạo ra những tiếng
động ầm ầm, Thịnh càng bối rối thêm - phải nói là hoảng hốt mới đúng - Anh
chàng nắm một sợi dây thép có lẽ chắn ngang sân và một đầu được buộc vào hàng
rào, để đu lên. Nhưng sợi thép không chịu nổi sức kéo của Thịnh nên đứt phựt ở
một chỗ nào đó khiến Thịnh mất đà ngã phịch xuống sân; cái lồng bằng thép cũng
rơi theo, lăn đi mấy vòng. Thịnh chồm theo chụp lấy nó rồi lại cố leo ra khỏi
rào. Khi chàng lên tới gần đỉnh rào thì đèn trong nhà bật sáng. Có tiếng mở
khóa lạch cạch rồi hai cánh cửa bật mở, hai ba người trong nhà, một người cầm
trong tay một thanh gỗ, nhao nhao chạy ra hô hoán ầm ĩ. Người Thịnh và cái lồng
chim đang lênh chênh trên đỉnh rào. Cùng kế, Thịnh liệng cái lồng chim xuống
phía ngoài rồi nhảy theo. Tên cầm gậy tới sát hàng rào vào lúc Thịnh sắp nhảy
xuống. Nó giơ cao gậy phang tới thật mạnh lên Thịnh, nhưng may thay, thân thể
chàng vừa rời khỏi hàng rào. Đầu gậy quật vào hàng rào đúng chỗ Thịnh bám cách
đó chỉ một giây đồng hồ. Khi hai chân chàng chạm tới mặt đất, Thịnh mất đà ngã
sóng soài trên cỏ. Chàng cảm thấy một chân nào đó của chàng đau điếng. Mặc, Thịnh
chồm dậy thật mau, vồ lấy cái lồng chim rồi cắm cổ chạy mất.
Phía sau chàng, vẫn những tiếng hô hoán, la hét và có cả tiếng những bước chân
huỳnh huỵch đuổi theo. Một cảnh sát viên đứng gác ở đầu đường đã trông thấy
chàng và thấy cả mấy người đang đuổi theo chàng. Viên đó cho còi lên miệng huýt
mấy tiếng dài, vừa huýt vừa giơ hai tay chận lối chàng. Thịnh quýnh quá rồi
nhưng may thay, chàng thấy bên kia đường có một ngõ hẻm. Chàng chạy băng qua lộ
sang đường hẻm ấy. Cảnh sát viên rút súng đuổi theo, quát tháo ầm ĩ. Một vài tiếng
súng nổ, đạn bay vèo vèo bên tai chàng. Mặc, chàng vẫn chạy và đã vào được ngõ
hẻm, Thịnh quẹo lung tung vào những ngách nhỏ, không còn biết trời đâu đất đâu.
Lát sau, những tiếng hò hét đằng sau chàng nhỏ dần rồi mất hẳn. Không còn ai đuổi
theo chàng nữa. Thịnh đứng lại thở hổn hển. Chàng móc chiếc máy lửa bật lên soi
vào trong lồng chim. Con họa mi vẫn còn đó và đôi cánh nó vẫn đang đập.
Cả đêm đó, Thịnh không sao ngủ được. Bàn chân trái chàng đau ê ẩm, có lẽ hơi bị
sưng. Mặt mũi chân tay chàng bị vài chỗ xây xát. Chàng treo cái lồng chim ở đầu
giường, bật đèn sáng choang, nằm ngửa mặt lên, quàng tấm chăn mỏng ngang bụng,
vừa hút thuốc lá vừa ngắm con chim.
Chiếc đồng hồ để bàn chỉ bốn giờ rưỡi. Thịnh chờ đợi ánh sáng ban mai. Bình
minh sẽ tới hay nói cho đúng hơn là sắp tới. Con chim hình như đã bắt đầu hoàn
hồn, nằm co ro trên chiếc then ngang, lim dim ngủ. Thịnh ngắm nó hoài mà không
chán mắt. Đôi khi chàng mỉm cười sung sướng quên khuấy mất bàn chân đau.
Mới bảy giờ sáng chàng đã ăn mặc chỉnh tề ngồ trước ly cà phê sữa bốc khói mà
chàng đã tự tay làm lấy. Đài phát thanh Tiếng nói Quân đội đang truyền thanh những
bản nhạc tình cảm, du dương. Giọng Hoàng Oanh thánh thót với Những đóm mắt
hỏa châu, giọng Thanh Vũ với Đà Lạt mưa bay, rồi tới Lệ Thu với Ngậm
ngùi. Nắng chia nửa bãi chiều rồi. Vườn hoang… Thịnh huýt sáo miệng theo
tiếng hát Lệ Thu. Chàng soi mặt vào gương một lần nữa. Mặt chàng hóp lại, tái
xanh với hai vệt xước trên gò má trái và trên cằm. Mặc kệ, có hề gì đâu. Thịnh
lấy chiếc khăn mỏng trắng tinh quấn quanh lồng chim, rồi ôm chiếc lồng đi xuống
thang lầu giữa những cái nhìn tò mò của những người hàng xóm.
"Cậu Thịnh đi đâu sớm thế? Có cái gì mà ôm kè kè thế?"
"À, à, một ít vật dụng của tôi".
Thịnh trả lời mơ hồ như vậy cho qua chuyện, chàng đã ra tới đường. Một cái ngoắc
tay. Một chiếc taxi ngừng lại. Thịnh nâng niu cái lồng chim, chui vào xe.
Thành phố náo nhiệt tưng bừng. Một ngày mới bắt đầu. Ánh nắng ban mai giải xuống
những tàng cây hai bên lộ, chiếu vào những tường nhà cao. Các đường đầy xe cộ,
đầy người. Lòng Thịnh vui phơi phới. Chàng yêu đời, yêu nhân loại. Tưởng nghĩ tới
Trâm lòng chàng ấm áp quá chừng. Chàng sung sướng khi nhận thức là mình đang
yêu và chắc hẳn đang được yêu. Ái tình huyền ảo dịu ngọt biết bao.
Xe ghé vào một tiệm bán hoa ở đường Nguyễn Huệ. Túi Thịnh còn khoảng năm trăm.
Trừ tiền trả taxi, chàng còn đủ tiền để mua một chục bông hồng nhung. Ngồi
trong xe, Thịnh nâng bó hoa lên, khẽ hôn những bông hồng tươi thắm. Chàng bỗng
nhớ tới mấy câu thơ tình của Verlaine:
Voici des fruits, des fleurs, des feuilles et des branches,
Et puis voici mon coeur, qui ne bat que pour vous,
Ne le déchirez pas avec vos deux mains blanches.
Chưa bao giờ chàng thấy thơ Verlaine ngọt ngào đến thế, êm dịu đến thế, tha thiết,
đắm say và huyền ảo đến thế.
Nous étions seul à seule et marchions en rêvant.
Elle et moi, les cheveux et la pensée au vent.
Thịnh đọc đi đọc lại mấy câu thơ ấy. Chàng nhắm mắt lại, hình ảnh Trâm nổi rõ
trong tâm tưởng chàng. Dáng dấp ấy, mớ tóc ấy, đôi mắt, cặp môi, nụ cười, tiếng
nói ấy. Người tình của chàng đó, thanh lịch biết bao, yểu điệu biết bao, rực rỡ
biết bao. Đôi mắt vẫn nhắm lại, Thịnh gọi thầm: Trâm ơi! Trâm ơi! Chàng nghe thấy
rất rõ tiếng mình gọi. Trâm! Trâm! Trâm! Máu trong cơ thể Thịnh chảy rần rần,
tim chàng đập rộn ràng. Trâm ơi, anh yêu em! Ngay lập tức, mấy tiếng đó tự sinh
thành cả ngàn tiếng khác tỏa ra khắp thành phố, tỏa ra khắp bầu trời, tỏa ra vô
cùng tận. Óc chàng đầy Trâm, tim chàng đầy Trâm, các mạch máu chàng đầy Trâm,
hơi thở chàng đầy Trâm. Không thể chịu đựng thêm được nữa, Thịnh mở mắt ra. Xe
vẫn đang chạy giữa thành phố tưng bừng náo nhiệt, chàng đang sống giữa lòng cuộc
đời. Chàng mở mắt ra, thấy bông hồng đỏ thắm và chiếc lồng thép bên trong có cả
một con họa mi. Hôm nay, sinh nhật của nàng.
Xe dừng lại, Thịnh trang trọng ôm bó hoa và cái lồng chim chui ra khỏi xe. Trước
cổng nhà Trâm, chàng đứng ngần ngừ một lát rồi quyết định không bấm chuông.
Chàng muốn dành cho Trâm một thú vị bất ngờ.
Thịnh thò tay vào phía trong cổng kéo then lên rồi lách cổng len lén đi vào.
Ngôi nhà Trâm, xinh xinh, đứng giữa một khu vườn nhỏ có những trái lành, những
bông hoa tươi thắm, những cánh bướm chập chờn bay lượn. Bầu không khí trong vườn
thơm tho, mát rượi.
Bây giờ chưa tới tám giờ hẳn Trâm đang ngồi trang điểm trong phòng nàng. Thịnh
sẽ lén tới gần cửa sổ phòng nàng, nấp sau bức tường và giơ dần cái lồng chim
lên trước cửa sổ. Trâm sẽ chạy đến bên cửa sổ ấy và lúc ấy chàng sẽ đứng dưới
vườn dể chúc mừng sinh nhật của Trâm và tặng Trâm con chim họa mi. Thật thơ mộng
biết mấy, có khác gì so với cuộc gặp mặt tuyệt diệu nhất của Roméo và Juliette,
của Tristan với Iseult.
Qua một khúc quanh, và từ sau một thân cây lớn, Thịnh đã trông thấy cửa sổ
phòng Trâm. Nhưng đột nhiên, cả thân thể chàng bủn rủn, cánh tay chàng rời rã
khiến cho chiếc lồng chim tuột ra rơi phịch xuống đất. Trâm và Tuyết Sơn đang đứng
ôm nhau ngay trước cửa sổ và hôn nhau say đắm.
Miếu Âm hồn
Ngọn miếu ngồi chênh vênh trên gò đất giữa những bụi cây rậm,
bao quát mươi nấm mả rải rác chung quanh. Đó là một tòa miếu nhỏ hoang phế tục
gọi miếu Âm hồn. Cơ sở ma quái này cũng có phong độ riêng: tường gạch, mái ngói
và nền xi măng. Không biết miếu được dựng lên tự bao giờ; chỉ biết nó đã già cũ
lắm rồi. Dăm vạch nứt nẻ bò loanh quanh trên dải tường phía trái. Rêu phong bẩn
thỉu sùi ra từ đỉnh xuống chân nền. Vài hòn ngói buột rơi mất, để lại những lỗ
hổng méo mó trên hai cánh mái thiếu thăng bằng. Cửa miếu không có gì che đậy,
há hốc về phía một thân cây đa cổ thụ. Bên trong miếu, bóng tối quấn vào bóng
sáng, tạo thành một màu nhợt nhạt, lạnh lẽo. Vẻ âm u toát ra, yểm vào cảnh sắc
chung quanh cái cô tịch, ảo não của sự hoang tàn gần như phai lợt hết sinh khí.
Thực ra ngọn miếu vẫn còn sống. Mỗi khi gió lùa vào bên trong từ họng miếu phát
ra những tiếng thở dài.
Tòa miếu cổ chỉ rên rỉ, thầm thĩ chứ không giãy giụa, không quằn quại. Nó nằm lịm
trong sự tê liệt bất động, vầng trán nhăn nhúm hướng lên, chiếu mấy tròng mắt
sâu hoắm vào những chùm đa lả lay. Cỏ dại mọc leo lên bờ nền, ngả những thân gầy
tong teo vào mặt vữa loang lổ. Thứ cỏ ở đây hút không đủ nước bởi lẽ mặt gò quá
khô khan, lại thiếu ánh mặt trời vì bị chòm đa rậm án ngữ. Màu cỏ chỗ xanh chỗ
lợt. Sắc cỏ hòa thuận với sắc rêu, vì chúng cùng một dáng dấp đau yếu, cùng một
vẻ lầm lì lười biếng. Chúng chỉ là loài xú thảo hành khất: rêu bẩn ăn bám vách
miếu, cỏ xơ nằm dài trên mặt đất mốc.
Cửa miếu thấp lè tè đối thẳng với bệ gạch bên trong. Không bao giờ có hương
khói nhưng vẫn có chiếc bát đàn sứt mẻ chỏng chơ trên bệ. Lòng bát chứa đầy cáu
bẩn với một bộ xương lá đa. Chiếc lá rớt khỏi cành tự mùa nảo mùa nao và chắc
có trận cuồng vũ vô tình đã cuốn xác nó tới bệ miếu, quấn nó vào lòng bát
hương. Cả ruột miếu toát ra hơi ẩm nhớp nháp. Xú khí phảng phất đầu độc những lớp
khí trời từ ngoài chuyển vào. Đây là quê hương của lũ nhện câm lặng nhưng tinh
quái. Tơ nhện chằng chịt khắp ngả. Hệ thống cạm bẫy này chắc đã sát hại nhiều
giống côn trùng khác. Chả thế mà lũ nhện trông con nào cũng mập mạp, thoải mái.
Bọn mắt đen ăn thịt uống máu đó lúc nào dáng điệu cũng vô tư, chỉ ăn ngủ rồi
đua nhau đặt thêm những ổ sát sinh.
Bốn mặt tường phía trong khô ráo rắn chắc hơn phía ngoài. Tự bao giờ có những
bàn tay nào đó tô lên lớp da dẻ chốc lở ấy những vạch than đen sì hoặc những
nét gạch đỏ úa. Đấy là những dòng chữ to nhỏ ngoằn ngoèo, những hình ảnh thô kệch;
nhưng đám ký hiệu giả dáng ngờ nghệch ấy có một ý nghĩa sâu sắc vì chúng phô
bày những dục vọng cần được thỏa mãn của một loài động vật. Ở mặt tường bên
trái, nét than uốn thành những hình ảnh dâm ô, khêu gợi.
Vào những ngày nắng ráo, yên tĩnh, ngọn miếu bệnh tật già cả hình như bớt được
đôi phần đau đớn. Nó cù rù lặng thinh, để mặc những chùm cây xao xao đú đởn
trên đầu. Vài tia mặt trời tò mò cố luồn qua khe lá xanh, chọc xuống đám ngói
khấp khểnh. Vào những lúc hoàng hôn, màu đỏ khè của cả vùng trời phía tây đổ
loang vào vạn vật một sắc tím sẫm pha lẫn ánh vàng lợt, khiến cho bộ diện tòa
miếu cổ trở nên âm thầm hơn. Vốn đã già nua nó càng già nua thêm. Nó nằm chình
ình như một kẻ quá chán chường đến không biết gì là chua xót đắng cay nữa. Có lẽ
nó không chờ đợi mơ ước chi hết. Cái vẻ bình thản nhẫn nại ấy đã vô tỉnh chửi rủa,
khinh khi những hoạt động chung quanh. Màu trời trở mặt, chuyển từ vùng ảnh hưởng
vào cõi tối tăm. Các loài thảo mộc thầm thì run rẩy. Từng cánh chim hôm bay sải
trong không gian, tiếng kêu buồn bã xoáy vào lòng gió yếu. Riêng tòa miếu lãnh
đạm vẫn trầm mặc như một đạo sĩ đang mải mê suy tư về những điều bí mật nào. Sự
tàn tạ của ngày tháng không làm nó động lòng. Vào những lúc xấu trời, dải miếu
có vẻ đau đớn hơn. Từng đợt gió hung hăng chở nước mưa lao vào nền gạch ẩm mục,
đập xuống hai tấm mái ẽo ợt hay quẩn trong lòng miếu. Đống gạch ngói xiêu vẹo
nhầy nhua vừa rùng mình vừa thở hào hển hoặc khẽ hú lên rầu rĩ. Hơi thở lúc dài
lúc ngắn, tiếng hú khi nổi khi chìm, nhưng những cử chỉ ấy hoàn toàn miễn cưỡng
và thất thường. Tựa như ngọn miếu bị gió mưa ép uổng bắt phải nức nở than van.
Ở bên miếu, trong một khoảng đất thấp hơn rộng chừng hai mẫu, mươi nấm mộ nằm
ngổn ngang. Bãi tha ma bé nhỏ này được dành riêng cho những xác chết vô thừa nhận.
Dăm ba đứa hành khất chết ở góc đường, một người đàn bà không căn cước đến trầm
mình ở vực nước gần đấy. Chỉ có thể biết mong manh như vậy thôi vì có những nấm
mộ cũ kỹ không biết được đắp lên tự lúc nào. Mặt chúng bị mưa gió cào liếm tới
gần sát mặt đất. Không một ngôi mộ nào có bia, bởi chưng ai thèm khắc tên khắc
tuổi cho những kẻ khốn nạn không bà con thân thích ấy. Đặt bia cắm nọc để làm
gì mới được chứ! Ở cái bãi tha ma heo hút này, chẳng bao giờ có hương vị của một
cái lễ thanh minh. Những kẻ chết đường chết chợ được người đồng chủng đem xác
mình vùi nông cho một nấm giữa đám thảo mộc hoang dại như vậy là may rồi. Mong
gì có những nào đến nhỏ vài giọt nước mắt hay ngồi vuốt ve vào đống đất bên
trên lỗ huyệt của mình.
Tại cái bãi hoang khuất nẻo này thường hay có những cơn gió quẩn. Đôi khi từ
trên thinh không, gió đột ngột nhào xuống xoáy quyện vào các đống chôn người
làm bốc lên những mảnh lá khô úa lẫn trong đám bụi mờ đục. Cái thứ gió vũ phu
giận dữ ấy như muốn khiêu khích nạt nộ trước cử chỉ bất động của đám mồ mả. Vào
những dịp mưa phùn rỉ rả, trên mặt tha ma thường khi phảng phất những làn hơi mờ
loãng. Có thể bảo rằng tử khí bốc lên được chăng? Cũng có nhiều cặp mắt mê tín
coi đó như oan hồn những kẻ bất hạnh kết lại thành khí thể. Những lớp khói lơ
mơ ấy chỉ lởn vởn một chỗ mà không bay đi xa. Nếu có đợt nào thoát ra khỏi sào
huyệt, tất nó sẽ tan biến ngay trong khi trời ẩm ướt. Cũng có khi, sau những trận
mưa xối xả, bãi tha ma xâm xấp nước. Từ một vài lỗ nẻ trên mặt những ngôi mả
chưa cũ lắm, bong bóng trắng sùi lên làm phát ra những tiếng lép bép kỳ dị.
Bên tòa miếu Âm hồn và quanh bãi tha ma có nhiều bụi cây hoang dại. Phần lớn chỉ
là những giống thảo mộc thấp bé. Trừ ngọn đa bên miếu, ở khu vực này không có mấy
thân gỗ đáng kể là cao lớn đồ sộ. Những đám màu xanh chỗ thẫm chỗ nhạt chỉ lan
rộng trên mặt đất chứ không chịu vươn lên nhiều. Thường thường ở những bụi lá
đó vẫn có hoa nở. Thứ hoa ở mộ địa nở ít nhưng đẹp và bền. Từ những cái thối rữa,
mục nát vốn vẫn hay nảy ra những tinh thể óng muốt. Giống hoa mọc bên thân người
chết có đôi ba loại kỳ lạ. Có thứ xuất hiện vào mùa đông, lúc đất trời đang độ
tê buốt hơn cả. Từng đợt cánh trắng muốt rập rờn trước gió lạnh. Cử chỉ lửng lơ
õng ẹo trông đầy vẻ ngạo mạn, ý chừng giống hoa ấy ra đời cốt để trêu cợt thời
tiết. Còn có một vài thứ khác không bao giờ chịu mọc trong những khu vườn được
bàn tay người sống vun quén. Phải kể tới một thứ hoa tím nhạt có những cánh mỏng
nổi và uốn cong queo, thường nở vào đầu mùa thu. Giống này trông nhỏ nhoi yếu ớt
nhưng gan lì. Vào lúc tàn, nó cứ héo quắt đi chứ nhất định không chịu rụng
ngay. Đến khi rớt xuống đất nó chỉ còn là vỏ đã khô hết nhựa sống. Còn phải kể
đến một giống hoa khác cũng mọc vào tiết thu. Mỗi chiếc chỉ có ba, bốn cánh dày
xòe ra đỡ lấy chút nhị vàng. Cuống hoa to và cứng cáp. Mùi hoa là một thứ hương
thơm dịu dàng dễ làm say mê khứu giác. Nhưng xin đừng hái thứ này, vì một khi bị
ngắt đứt lúc còn non yểu, cuống hoa sẽ nhỉ ra một giọt nhựa màu nâu nhạt tanh
tanh, mùi hoa dễ thương bao nhiêu thì nhựa cuống hoa khiến mũi khó chịu bao
nhiêu.
Bưa kia, có một con rắn lục cườm từ trong bụi ruối gần đấy ngoi ra và mệt mỏi
trườn lên phía miếu. Con rắn đi qua bãi tha ma. Nó không bò trong các ngách mộ
nhưng leo tắt qua các nấm long lở. Cái thân thể dài đườn ấy quằn quài trên mặt
người chết, lớp da xanh bóng chuyển màu dưới ánh hoàng hôn; đôi mạng bạnh ra,
thoi thóp đẩy phụt qua ống miệng đỏ khé những tiếng phì phì giận dữ. Sự cáu kỉnh
của loài rắn toát ra một sắc thái dã man, độc ác vô chừng.
Con vật bò sát lết một vòng quanh miếu rồi luồn vào bên trong. Nó không dùng lối
cửa chính, nhưng ngóc đầu vuột mạnh thân thể lên mái rồi lao qua lỗ ngói vỡ. Mấy
khúc thịt nhũn gieo bịch xuống nền xi măng. Mẩu đuôi hung hãn vuốt qua mặt bệ.
Chiếc bát đàn lăn đi một vòng rơi xoảng xuống đất. Bộ xương lá đa văng ra
ngoài, gãy giập thành nhiều mảnh.
Bên ngoài bóng tối bắt đầu xua đuổi vài đợt ánh sáng cuối cùng khỏi đường ranh
giới phía tây giữa mặt đất với chân trời. Ánh hoàng hôn chỉ còn thoi thóp rồi vụt
tan biến trong màu đêm. Sau lúc giao hợp, dương tách biệt khỏi âm, với cái thái
độ chia ly nhạt nhẽo và thầm lặng. Trong suốt hai mươi bốn giờ đồng hồ, không
lúc nào đất trời bẩn thỉu nhơm nhếch bằng lúc ngày và đêm đứt đoạn giữa hoàng
hôn. Cảnh vật bị liệm sống trong những lúc màu đen nhờ nhờ đầy vẻ lừa lọc phản
bội. Ở dãy núi xa xa, từng ngọn đá nhập vào một khối rồi mất dạng. Các bụi cây
quanh tha ma co rút lại với dáng dấp bí ẩn vật vờ. Tiếng dế rên rỉ đẫm giọng
đau buồn chán nản toát ra từ những chân cỏ.
Trong ruột miếu, con rắn lục cườm quật mình dữ dội; những vòng thịt nhèo nhẽo vật
lên vật xuống trong đám mạng nhện chằng chịt. Trăm ngàn sợi tơ mỏng mảnh đứt
tung khiến cho cả một làng nhện hoảng hồn chạy tới tấp. Chưa bao giờ có sự tàn
phá ghê gớm phũ phàng đến như thế. Cái sào huyệt trù phú lợi hại của chúng đột
nhiên bị đảo lộn tan hoang. Con rắn rít lên và giãy đành đạch, mẩu đuôi vụt xé
vào không khí nhiễm độc. Hơi thở hộc khỏi miệng nó, pha đặc thêm mùi tanh tưởi
hôi hám bao bọc chung quanh. Những tiếng khè khè hình như chọc thủng cổ họng
con vật bò sát để vuột ra ngoài. Bao tiếng thất thanh đứt đoạn ấy liễm kết một
cái gì đau đớn, tê nhức vô chừng. Mà con lục cườm đang lúc đau đớn thật vì nó đến
đây tối hôm nay để đẻ con. Sự sinh nở của giống động vật dài đườn này hiện hình
trong sự vất vả, hung bạo. Cả một khối sống phồng lên ở thân thể nó đang chuyển
động tìm lối ra. Đống bào thai húc vào tạng phủ mẹ để tìm sự giải thoát khỏi ô
ngục lầy nhầy tăm tối. Trạng thái đau đẻ của giống rắn có vẻ mãnh liệt, tàn khốc
hơn tất cả mọi sinh vật khác chăng? Có thế thì con rắn cái mới vật vã, mới lồng
lộn dữ dội đến như vậy. Rồi trong màu đêm, một búi rắn lục cườm con ra đời. Giống
rắn lục thuộc loại noãn thai sinh, nên cái màng trứng đã nở toác ngay từ trong
bụng mẹ. Bầy trẻ sơ sinh thoát khỏi hầm tối này lại sa vào hầm tối khác. Có
chăng ở đây rộng rãi, khoáng đãng hơn nhiều, nên những chiếc đầu nhỏ bé có thể
tự do nhoi ra khỏi búi. Một khi rời khỏi bụng mẹ, chúng nó phải từ bỏ nhau
ngay. Mỗi đứa hài nhi nhoai về một ngả. Phút chốc cả sàn miếu vụt biến thành
nơi chia tay của bầy trẻ nít không có một chút óc hợp quần nào. Sẽ không bao giờ
chúng biết bọn chúng là con cùng mẹ. Và mẹ chúng cũng vô tình lắm. Rất có thể mụ
rắn cái tàn nhẫn không thèm biết y vừa sinh hạ được một đàn con. Nếu biết sao mụ
đành lòng để mặc lũ trẻ nhỏ nhít dấn thân vào những nơi xa lạ hiểm nghèo. Cơn
đau đẻ đã qua, mụ không chuyển mình nữa, cuốn khúc nằm im trong xó miếu. Đầu mụ
ghệch lên một mảnh bát hương. Thóp cổ phập phồng những hơi thở yếu ớt. Tự mấy vết
xây xát trên cái dây thịt mệt nhão ấy máu tím ứa ra. Vô phước thay, cái loài rắn
lục cườm: mang nặng đẻ đau đến thế để rồi không biết hưởng chút hạnh phúc nào của
tình mẫu tử. Cái nòi giống độc địa này ắt hẳn không thể có tình mẹ con. Nếu
chúng thương xót nhau chắc nọc chúng không ghê gớm như vậy. Cho nên bà mẹ mệt
thản nhiên nằm ngủ để lấy lại sức. Lũ con bắt đầu tung tăng kiếp sống lưu lạc.
Vừa được đẻ ra đã dám tự lập rồi. Chỉ có loài máu lạnh ngang tàng bạo ngược này
mới dám liều lĩnh can trường đến thế.
Khoảng quá nửa đêm con lục cườm cái chợt tỉnh thức, rồi uể oải rời bỏ miếu Âm hồn.
Nó vào bằng lỗ ngói vỡ nhưng ra bằng cửa chính. Đất trời không còn tăm tối nữa
vì một vầng trăng gầy úng bủng beo vừa nhú lên khỏi rặng tre xa tắp tít. Con rắn
mệt mỏi trườn đi dưới ánh trăng bềnh bệch màu vàng bệnh hoạn. Nó vẫn có vẻ tức
tối hậm hực thế nào, đôi mang cănh bạnh phì rớt rãi trên lối đi. Lúc tối nó hoảng
hốt điên dại vì đau đẻ, nhưng bây giờ nói bực bõ vì cô độc chăng? Kể ra mụ này
cô độc thật: mụ rắn đến miếu một mình rồi lủi thủi ra đi một mình. Nếu trong
loài rắn giống đực và giống cái sống với nhau thành từng đôi thì đây đích thực
một ả rắn chửa hoang.
Con lục cườm chỉ tới miếu một lần rồi không bao giờ trở lại nữa. Nhưng có hai
sinh vật loại bốn cẵng thường hay lai vãng bên miếu. Chúng là đôi chó hoang, một
đực một cái. Buổi đầu tiên con cái đến một mình. Không biết nó tự nơi nào tới,
chạy quanh quất trong bãi tha ma rồi đi ngược lên đỉnh gò đất. Sự đói khát hiện
hình trên khóm thân thể xương xẩu. Khung bụng hóp vào quá đỗi làm nổi bật cần
xương sống lởm chởm như lưỡi răng cưa cùn. Vài đám lông bẩn thỉu, thưa thớt, phờ
phạc mọc lan trên lớp da lợt. Nhiều khoảng rụng hết lông trở thành xám ngoét. Nếu
lấy gai chọc vào những đám thịt trần trụi ấy, chắc sẽ không thấy máu đỏ ứa ra. Ắt
hẳn chẳng còn mấy tí huyết tươi luân chuyển trong cơ thể mỏng mảnh, tàn lụi
này. Con vật gầy gò đang cố tìm chút gì có thể nhấm nháp cho đỡ đói lòng. Ống
mõm vêu vao sục vào các hốc cây và các hõm, khe quanh miếu; dưới vành mu nhăn
nhíu, đôi tròng mắt trắng đã lờ đờ nằm im gần như không buồn chuyển động.
Sau một hồi nhọc công vô ích, con chó cái tuyệt vọng đứng ngơ ngẩn bên nách miếu,
cái đầu khẽ lắc lư, nghiêng nghé. Cái đói đã khiến nó có những cử chỉ khắc khoải
bồn chồn. Ánh mặt trời ban mai đổ ngang qua đỉnh gò kéo bóng nó ra xa. Và nó lững
thững xuống gò. Dáng đi tuy ọp ẹp, lảo đảo nhưng vẫn có vẻ kiên nhẫn bền bĩ lắm.
Chịu đựng được khổ nhọc hơn cả, là loài chó đi hoang. Nó cắm cúi tiến về phía
làng mạc lờ mờ bên kia những cánh đồng. Ở đấy mới có thức ăn…
Mấy hôm sau, con chó cái lại tới miếu Âm hồn. Trông thân thể, hình thù nó có vẻ
thiểu não xác xơ hơn. Tại những nơi có người, thức ăn dễ tìm kiếm nhưng không
có tình thương. Ai thèm ái ngại đến con vật bẩn thỉu, rúm ró ấy. Người ta đánh
đập, người ta chửi rủa, người ta liệng gạch đá. Cho nên nó phải trở lại miếu Âm
hồn để hưởng sự yên tĩnh. Khi nào đói quá lén về các làng mạc kiếm miếng để sống
rồi lại đi rong. Những chỗ dung thân là những nơi hiu quạnh thanh vắng.
Lần này ả chó cái không tới miếu Âm hồn một mình mà có một gã chó đực đi theo.
Chàng định tán tỉnh ve vãn nàng nhưng xem chừng thời cơ chưa thuận tiện nên
chàng vẫn còn lảng vảng gần bên chứ chưa dám có thái độ sấn sổ. Thật ra, khi mới
gặp cô ả, thằng ấy định dở ngón ngay nhưng đã bị gái tặng cho một bài học đích
đáng. Bài học ấy là vết răng nanh hằn trên cổ gã. Chó đực dành đấu dịu chờ cho
con bé bớt cơn ngúng nguẩy. Trong loài chó đi hoang, con cái thường vẫn có uy
thế đối với con đực. Cô độc thật đấy, thiếu thốn thật đấy, nhưng bao giờ cử chỉ,
thái độ con cái cũng có vẻ nghiêm nghị hách dịch. Khác hẳn với loại chó nhà.
Tới bên miếu, con chó cái đứng lại, vẻ mặt vẫn lầm lì, khắc khổ, cau có. Nó
không thèm ngó con chó đực trong khi thằng đa tình khẽ nhảy cỡn chung quanh và
phe phẩy đuôi để lấy cảm tình. Trông chàng cũng chẳng béo tốt gì hơn nàng cả. Rồi
gã đánh liều tiến sát bên cô ả để bày tỏ nhiều cử chỉ âu yếm lẳng lơ. Con cái
nhe răng dọa nạt nhưng gã mặc kệ. Thằng ấy phong trần già dặn trong tình trường
lắm rồi nên gã am hiểu tính tình dớ dẩn của bọn chó cái. Có hung hăng, kiêu kỳ
đến đâu thì cũng chỉ đợp nhau một miếng là cùng, rồi đâu sẽ vào đấy cả. Lúc nãy
cô ả cắn vào cổ gã để tự nâng cao giá trị. Nhưng tất rồi cô ả sẽ bằng lòng dần.
Quả nhiên, con chó cái giờ đây bớt hẳn vẻ hung dữ, chỉ còn khẽ gào gừ trong cuống
họng hoặc sủa gần một đôi tiếng. Giọng gào gừ thui chột và xanh lét. Tiếng sủa
nghe gượng gạo, sần sượng thế nào. Rồi cuối cùng nàng im lặng hẳn tỏ dấu thuận
tình. Trong loài chó hoang, những pha ân ái bao giờ cũng mở đầu bằng cử chỉ,
ngôn ngữ thù hằn của con cái. Và hai con chó đói dẫu gầy đói đến trơ xương như
vậy nhưng vẫn cứ phải yêu nhau.
Từ đấy trở đi, cuộc tình duyên khiến anh này chỉ bớt được đôi phần chua xót.
Anh chị không chung tình với nhau nhưng thỉnh thoảng gặp nhau trên đường lang
thang lại đưa nhau tới thẩn thơ trên gò miếu.
Đôi chó này, dầu là đi hoang, cũng vẫn còn có cái lối ầm ả của loài chó. Con
cái thường giữ điệu bộ thầm lặng nhưng con đực vốn dĩ hay làm ồn. Những khi hứng
chí nó vừa sủa rỡn vừa nhảy quẫng chung quanh tình nương; theo tập quán, lúc thấy
bạn động tình như vậy, con cái cũng gừ đôi ba tiếng hiền lành để trả lời. Và những
tiếng yêu đương ấy thường làm giật mình một gã cò trắng đậu trong vũng đầm dưới
chân gò. Gã đứng co ro suốt ngày, đôi mắt lim dim như buồn ngủ. Chỉ có kẻ nào
chán đời mới có những cử chỉ dáng dấp thiểu não như vậy thôi. Gã dầm đôi cẳng
khẳng khiu dài lêu đêu xuống làn nước. Bộ cánh trắng hơi xõa ra và ngọn cổ khòm
xuống. Đứng từ xa, trông gã như một anh nghiện đói thuốc: cổ rụt, vai so, dáng đi
đứng khoeo khư, co quắp. Đôi lúc cặp giò gầy yếu khẽ rung rẩy như muốn khuỵu.
Những anh nghiện thiếu thuốc hút thường khi chân tay vẫn lẩy bẩy như thế. Đứng
gần, trông gã lại như một nhà khổ tu đang trầm ngâm suy tính lối vào cõi cực lạc.
Gã này ắt sẽ đạt được chánh quả để nhập nát bàn vì mặt gã lạnh lẽo, dửng dưng,
dường như lông gã không còn chút dục vọng nào hết. Mà gã chẳng thiết gì thật:
không vợ con, không bầu bạn, chỉ sống heo hút đơn độc thế thôi. Gã cũng chẳng
bao giờ đi đâu xa, chỉ hết quanh quẩn bên bờ đầm lại vào bụi cây gần đấy ngủ.
Đôi cánh vô ích quá; giá có nhổ hết lông cánh đi chắc gã cũng chẳng tiếc hận
gì. Hay gã quên mất là mình thuộc loại biết bay? Chẳng có lẽ nào. Đồng ruộng
bao la thế, bầu trời lồng lộng thế mà chẳng thể quyến rũ nổi con chim thiếu máu
giang hồ này. Cánh vẫn còn nguyên vẹn, lông vẫn mọc dài, nhưng nhu cầu bay nhảy
không thấy phát hiện. Tại sao thế, hỡi con quái điểu câm lặng kia?
Cuộc đời bã bí mật thật nhỉ. Gã từ đâu đến? Gã suy tính chuyện gì? Gã mong muốn
gì? Đố ai hiểu nổi.
Mùa đông nhường chỗ cho mùa xuân, rồi mùa xuân tàn lụi khi những tia nắng hạ đầu
tiên vụt lóe. Đôi ba mùa đã qua đi, thời gian thêm tuổi, nhưng gã cò vẫn chỉ sống
lảng vảng bên miếu Âm hồn. Càng ngày gã càng già yếu, đôi chân chùng xuống, cần
cổ hạ dần; loài cò có thể mau cằn cỗi đến thế hay sao? Gã nghiêng mặt, đăm đắm
nhìn bóng gã in trên mặt nước phẳng lặng, thỉnh thoảng khẽ lao ngọn mỏ dài vào
lòng chất lỏng. Ý chừng gã chỉ mổ vu vơ chứ không phải bắt mồi; vì nếu thường
kiếm được mồi, cớ sao gã lại đến nỗi bệ rạc, xác xơ như vậy.
Cho đến một ngày kia, có một cơn biến động ghê gớm đã xảy ra. Đất trời oi bức
như lò lửa. Ánh nắng gay gắt lan tràn trên bãi tha ma khiến cho các ngôi mả đất
nứt nẻ thêm. Từ đám mộ địa ấy bốc lên một thứ hơi lanh tanh, nhạt nhạt. Tòa miếu
Âm hồn nằm im như vừa tắt thở. Rồi đột nhiên gió nổi dậy, mới đầu chỉ khẽ hắt
hiu nhưng mạnh dần, đẩy những đám mây đen đặc sệt từ chân trời lên đỉnh trời. Vầng
thái dương bị nuốt trửng. Tòa miếu Âm hồn dần dần hồi sinh lại và cứ thở nấc
mãi lên. Giông tố bắt đầu nổi dậy khi mưa đột ngột nhào xuống và những đợt cuồng
phong lồng lộn, gào thét trong không gian. Trận bão tàn khốc tung hoành suốt nửa
ngày một đêm. Chớp loằng ngoằng đâm chém những đám mây dày đặc khiến cho cả bầu
trời vang động những tiếng kêu la hốt hoảng. Một tiếng sét vụt nổ trên bãi tha
ma, ánh điện quang khét lẹt chặt khuyết một góc mả. Cây đa cổ thụ ngả nghiêng,
oằn oại. Gió tàn ác giật đứt rời một cành đa lớn và khối gỗ đầy lông lá rùng
rùng lao xuống nện mạnh vào nóc miếu.
Sáng hôm sau, giông tố rút đi hết. Dưới chòm đa xác xơ, tòa miếu Âm hồn bị tử
thương nằm gục đầu xuống đất. Một bên mái vỡ tan tành và nửa mảnh tường bên
trái dập nát thành từng mảnh vụn. Những lớp mây đến đêm qua đã đi mất để lộ hẳn
cả một dải trời xanh biếc. Đầm nước đục ngầu im lặng như tờ. Gã cò áo trắng gầy
còm không còn đấy nữa. Gã đã biến đâu mất dạng để không bao giờ trở lại.
1960
Dòng sông
Qua một bãi hoang đầy cỏ dại đến bờ sông. Nắng dịu như không
nắng. Buổi chiều mùa mưa nằm dài hai bên dòng nước. Tuấn đi với Hoài, bàn tay
chàng cầm lấy bàn tay kẻ đồng hành. Những ngón gầy guộc luồn vào nhau. Người
đàn ông im lặng mà người đàn bà cũng im lặng. Một âm sắc mơ hồ gợn bên tai. Đấy
là tiếng gió nhẹ quyện vào ngàn cỏ hay chỉ là hơi thở… Xuống khỏi một mấc đất,
Tuấn đỡ tay qua vóc lưng ẻo lả bên cạnh. Người yêu của chàng vẫn không nói gì
và mặt nàng đượm những nét bình yên, trầm mặc của một buổi chiều hoang vắng.
Đôi mắt hướng vào xa xôi. Vẻ huyền bí lạnh lẽo của hai tròng mắt khiến chàng hơi
rùng mình. Chỉ thoáng một chút thôi.
Tuấn nhìn qua dòng sông. Dải nước rộng khiến cho cảnh vật bên kia phải nhòa đi.
Chỉ thấy một dải cây xanh, một dải đất màu nâu sẫm và những miếng trời thấp
thoáng. Giữa cảnh bát ngát mịt mùng, đối tượng của thị quan đột nhiên mở rộng cả
ba chiều. Thêm một lần, Tuấn hơi ngạc nhiên về đôi mắt chàng vì thấy chúng bé
nhỏ tội nghiệp mà có thể bao quát nổi cả một quãng không gian rộng đến thế. Tuấn
lại nhìn đôi mắt người yêu; và nàng cũng nhìn chàng mỉm cười. Tuấn nhớ đến một
thi sĩ đã ví mắt người đẹp với dòng sông: Mắt em là một dòng sông… Tuấn
sung sướng nhưng không chỉ nghĩ đến một dòng sông vì hai mắt Hoài ghi nhận hai
dòng sông giống nhau. Ta nghĩ đúng hay nhà thơ ấy nghĩ đúng. Tuấn tự hỏi lẩn thẩn
như vậy. Tuy nhiên chàng chịu thua, vì hai dòng sông của chàng cũng vẫn chỉ là
một. Cao hứng chàng khẽ ngâm câu thơ kỳ dị. Người đàn bà nhìn chàng âu yếm hơn
nhưng nàng vẫn cười và chỉ cười.
Tuấn lại nhớ đến một thành ngữ đã ví đôi mắt là cửa sổ của linh hồn. Chàng soi
mói nhìn vào hai khung cửa đó nhưng không thấy rõ hồn nàng. Chỉ thấy hình ảnh
cây cỏ, nước mây và hình ảnh chàng. Chừng như hồn Hoài chính là những hình ảnh ấy.
Nhưng Tuấn khẽ lắc đầu. Cử động này phát ra một cách miễn cưỡng, thật miễn cưỡng.
Người con gái bây giờ mới lên tiếng. Những âm thanh buột ra từ cổ họng nghe nhỏ
nhẹ gần như lẫn với hơi thở:
"Tại sao anh ngó em rồi lắc đầu?"
Tuấn vụt cười lớn, không trả lời. Thiếu nữ mở to mắt. Mặt nàng trở nên nghiêm
trang vì nụ cười đã tắt trên môi. Nàng hỏi lại:
"Tại sao thế?"
Tuấn bối rối không biết trả lời thế nào. Nguyên cớ tuy không phức tạp lắm nhưng
khó nói. Tuấn hay ngượng ngùng khi có người tra hỏi cảm nghĩ và cử chỉ của
mình, dầu người đó là Hoài. Trong lúc thảng thốt, một sức tự động của cơ năng
tâm lý khiến Tuấn buông ra lời giải thích vu vơ:
"Vì mắt em đẹp quá".
"Nhưng tại sao anh lắc đầu?"
Tuấn chợt nghĩ tới một câu văn vẻ:
"Anh là con nai nhỏ bé sa bẫy trong mắt em. Có lẽ không bao giờ con vật đó
thoát khỏi bẫy nên anh thương hại nó".
Sau câu trả lời, Tuấn thở mạnh hơn vì vừa thoát cơn bối rối. Đối với chàng, câu
giải thích này không có giá trị lắm. Nó dối trá, sai lạc tuy Tuấn tự biết nó thật
đẹp đẽ. Nhưng Hoài hình như không thể biết hoặc không cần biết là câu trả lời
sai với sự thật. Giọng nàng vẫn nghiêm trang:
"Tại sao anh thương hại nó?"...
Tuấn nhận ra một điều hơi khác thường. Người đàn bà nói với chàng bốn lần. Bốn
lời nói là bốn câu hỏi. Trong mỗi câu hỏi có một tiếng đôi tại sao? Óc Tuấn chợt
bề bộn những tiếng đó. câu chuyện giữa chàng với nàng lúc này đang trong tình
trạng giả dối một cách đơn phương. Sự liên lạc của ý tưởng chưa dứt, nên nó
chưa thoát khỏi tình trạng giả dối. Tuấn lại trả lời rằng:
"Anh thương con nai ấy vì anh muốn thương nó. Sự thực nó đâu cần đến lòng
thương của anh. Nó mắc bẫy nhưng không biết hoặc biết mà vẫn thích thú vì được
vào bẫy. Mắt em là cái bẫy thần tiên…"
Hoài không hỏi nữa, nàng ngả đầu vào vai tình lang. Hai người đứng lại. Tuấn
giơ tay vuốt nhẹm mớ tóc mướt như tơ. Chàng lại nhìn bờ sông bên kia. Tại sao
hoạt-động-trường của ý tưởng lại mênh mông và rắc rối đến thế? Tuấn hơi bực
mình vì cái trạng thái ngông nghênh của liên tưởng và của trí tưởng tượng. Từ
đôi mắt đến hình ảnh một cái bẫy thần tiên, sự kiện này thật kỳ quặc. Nó vô lý
mà giả dáng hữu lý, sai lạc mà đẹp đẽ, vô ích mà hầu như cần thiết. Cái hữu lý,
đẹp đẽ và cần thiết ấy được thể hiện rõ ràng trong nụ cười của Hoài. Tuấn không
hối hận gì về sự dối trá của mình.
Hai kẻ yêu nhau lại đi theo men bờ sông. Giữa cảnh thanh vắng, buổi chiều bên
dòng nước chảy xuôi mỗi lúc một thêm tiêu sái. Gió mạnh hơn lên làm bay tà áo
Hoài. Đám cỏ xơ xác dưới chân hai người khẽ run rẩy. Từng đợt rong xanh đậm lập
lờ gần bờ. Dăm cây ô môi gần đấy lả lay ngọn lá cao vút vuốt ve nền trời trắng.
Bên kia sông cảnh vật không hề thay đổi. Vẫn chỉ có màu cây quyện lấy màu đất.
Một thân dừa lẻ loi ngả mình xuống mặt nước. Nó đã đứng đấy tự bao giờ và hình
như muốn chờ đợi một cái gì sẽ từ đáy sông chuồi lên chăng. Cái dáng dấp cô độc
ấy có một sắc thái bất bình kín đáo.
Hoài vẫn đi bên Tuấn. Họ không cầm tay nữa. Thân thể hai người rời xa nhau hơn.
Bước chân đi quen thuộc, tự nhiên vì họ đã đi với nhau nhiều lần. Ngàn vạn bước
đi đã hòa nhịp trên những ngả đường khác nhau. Sát bờ sông, đất dưới chân trở
nên thẫm màu và yếu ớt. Tuấn để tầm mắt chạy dọc theo làn nước. Ở khúc rẽ xa xa
thấp thoáng một cánh buồm trắng đục. Tuấn giơ tay chỉ cánh buồm, bảo Hoài:
"Đằng kia có một con thuyền".
Hoài ngửng đầu cao hơn, giọng nàng vẫn êm nhẹ:
"Em thấy nó trước anh. Em ưa màu trắng nên thích những cánh buồm trắng. Đố
anh biết nó nói gì? Nó đọc lại cho em nghe hai câu thơ của Valéry: Ce toit
tranquille, où marchent des colombes, Entre les pins palpite, entre les
tombes…".
Tuấn nhìn Hoài cảm thông. Chàng nói:
"Chỉ tiếc là ở gần đây không có một nghĩa địa. Nhưng anh chợt nghĩ ra một
điều hơi lạ: chừng bảy, tám năm trước đây, anh đã có lần đứng một mình ở bãi
than Quảng Yên trong một buổi chiều quạnh quẽ để ngắm dòng sông Bạch Đằng. Hôm ấy
anh cũng đã rung động vì một cánh buồm trắng lẻ loi. Hôm nay đây, đứng bên dòng
sông này với em, anh lại thấy cánh buồm trắng với niềm cảm xúc xa xưa ấy. Bảy,
tám năm qua nhưng hai cánh buồm vẫn chỉ là một. Ngày hôm nay vẫn là ngày hôm ấy.
Cuộc sống của muôn loài hình như không có thời gian. Danh từ thời gian phải
chăng chỉ là ký hiệu của một ý niệm vô lý và rỗng tuếch…"
Hoài cãi lại thật dịu dàng:
"Em không nghĩ giống anh; em vẫn quan niệm được thời gian. Chắc anh hiểu tại
sao em ưa đọc sách của Proust hay của Virginia Woolf. Em muốn theo họ đi ngược
lại dòng thời gian hầu tìm lại chuỗi ngày cũ. Cách đây bảy, tám năm em chỉ là một
cô gái mới lớn, tóc buông lơi xuống vai và vẫn còn hay khóc lóc giận dỗi để vòi
vĩnh thầy me em. Bây giờ em khác trước nhiều và em có anh bên cạnh. Ngày ấy em
đâu có anh. Thời gian khiến em già hơn nhưng nó mang anh tới cho em để đền bù lại…"
Ngừng một lát, Hoài lại nói tiếp nhưng bằng một giọng đùa cợt:
"Anh tiếc là gần đây không có một ngôi nghĩa địa cho hai câu thơ của
Valéry hả? Có đấy chứ! Một khoảng tâm hồn em là một nghĩa địa. Nơi này đã chôn
vùi biết bao kỷ niệm vui buồn, biết bao hình ảnh của những năm qua, nhất là của
tuổi thơ ấu…"
Hoài không nói nữa. Đột nhiên nàng thẹn thùng vì thấy lời nói của mình thiếu tự
nhiên đến kiểu cách. Tuấn với tay ôm lấy nàng. Cử chỉ này thay cho lời nói vì
Tuấn chỉ lặng lẽ cười. Chàng nhìn vào mặt người yêu và thấy bộ mặt đó hơi ngửa
về sau. Gã thanh niên khẽ xoay người, luồn hai tay vào mái tóc cô thiếu nữ rồi
hôn vào đôi môi có phủ lớp son mỏng. Thân thể nàng mềm đi và thế đứng mất cả
thăng bằng. Cái hôn không dài nhưng đủ ma lực tạo nên một sức giao cảm say sưa.
Rút hai bàn tay khỏi mớ tóc, Tuấn quay lại nhìn dòng sông và còn nghe thấy sự
đê mê chuyển trong thân thể. Tuấn nhận ra là chàng đã hôn Hoài nhiều lần. Nhưng
tới một ngàn lẻ một cái hôn rồi, mà sao chàng vẫn thấy say sưa. Vẫn con người ấy,
vẫn đôi môi ấy, nhưng mỗi lần chàng hôn nàng, Hoài hình như biến thành con người
mới.
Rồi phút xao động cũng qua đi, hai người lặng lẽ nhìn cảnh vật. Cánh buồm trắng
đã tới trước mặt. Bác lái đứng ở đầu thuyền. Bác mặc quần dài đen, mình để trần.
Khuôn mặt nâu hướng về hai kẻ thành thị. Bác nghĩ về Tuấn và Hoài? Làm sao mà
biết được. Tuấn nhìn con thuyền lềnh bềnh trôi trên mặt sông. Thuyền đi, nước
cũng đi. Thuyền chắc sẽ trở lại nhưng dòng nước hôm nay không biết có trở lại nữa
không. Có lẽ chúng cũng sẽ trở về nhưng không nguyên vẹn. Một phần sẽ hòa với
biển cả để rồi sẽ tình cờ tái ngộ với bờ sông từng chút một. Chảy đi rồi chảy về,
dòng luân lưu của con sông một ngày một khác nhau nhưng cảnh sông tưởng như chỉ
thay đổi rất chậm chạp. Sự di chuyển của dòng nước này có thể phức tạp đến thế
hay sao?
Tuấn và Hoài đi tới một gốc cây lạ. Thân cây to lớn mọc gần bờ và ngả choãi về
phía bãi. Tuấn rút mù xoa trải xuống một mô rễ để Hoài ngồi. Chàng ngồi bên
nàng, trên chiếc khăn tay nàng vừa trải đáp lại. Tuấn dựa mình vào thân cây,
vòng tay qua lưng Hoài. Hoài hơi xoay lưng tựa vào sườn Tuấn, đầu ngả xuống vai
người tình. Một luồng rạo rực chạy mau trong cơ thể Tuấn. Có lẽ Hoài cũng rạo rực
như vậy nên má nàng hồng hào, da thịt nóng hơn và hơi thở mạnh hơn. Tuấn dùng
bàn tay vuốt nhẹ vào mái tóc mềm mại và chiếc cằm mịn màng của Hoài. Nàng khẽ cắn
vào mấy ngón tay Tuấn…
Tuấn thì thầm gọi:
"Hoài ơi!"
Tiếng gọi hết sức nhỏ nhưng Hoài vẫn nghe rõ. Nàng ơi một tiếng bằng hơi thở,
ngửa mặt nhìn lên mặt Tuấn. Tuấn lại gọi:
"Hoài ơi!"
Lần này người con gái không ơi nữa, nàng thì thầm bằng một thứ câu hỏi:
"Cái gì?"
"Anh yêu em".
Hoài đáp lại bằng đuôi mắt sáng long lanh của nàng.
Tuấn nhắc lại lời vừa thốt:
"Anh yêu em".
Hoài khẽ mở rộng đôi môi, chun mũi lại, rồi ghé răng cắn vào tai Tuấn. Mấy hạt
răng trắng bóng khẽ nhằn vào chỗ thịt mềm nhất. Nàng thở vào tai tình lang:
"Biết rồi, biết rồi, nhưng anh đừng nói nhiều quá thế làm em sợ".
"Em sợ gì?"
"Sợ rằng một ngày kia anh sẽ ghét em, sẽ bỏ em để đi với người khác".
Tuấn im lặng, khẽ bĩu môi và lắc đầu. Hoài gần như nói hộ Tuấn, giọng nàng nửa
đùa nửa thật:
"Anh đừng hòng đi với cô khác. Anh sẽ vĩnh viễn trọn vẹn là của em. Anh
yêu người khác em sẽ giết anh".
Khi gần hết câu, Hoài giả bộ cắn chặt răng, cau đôi mày rồi xòe bàn tay khẽ chọc
thẳng mấy ngón tay vào ngực Tuấn. Tuấn nhếch mép cười. Hoài ngồi thẳng lên:
"Các cụ chúng ta vẫn thường dùng câu quen hơi bén tiếng. Từ khi yêu anh,
em mới biết rõ cái giá trị của câu ấy. Những lúc xa anh, em thường vẫn thấy uể
oải, bồn chồn vì thiếu hơi người và thiếu tiếng nói của anh. Anh là sự sống của
em…"
"Và em cũng là nguồn sống của anh. Chúng ta cần có nhau. Thiếu em không biết
rồi cuộc đời anh ra sao…"
Tuấn định nói nữa nhưng lại thôi, vì anh tưởng như đã tìm thấy ngay lời giải
đáp cho nỗi thắc mắc này. Anh ngồi nhích ra cho khỏi mỏi. Một điếu thuốc Cotab
được giắt vào môi anh. Cây diêm xòe lửa. Khói trắng bay lên và tan ngay trong
gió.
Trước khi gặp Hoài, Tuấn đã yêu nhiều thiếu nữ khác. Anh vốn đa tình. Từ mười bảy
tuổi đã bắt đầu lảo đảo trong trường yêu đương và trường thi cử. Hẹn hò với gái
nhiều quá thì đâu còn thì giờ để học hành; mà lười học tất nhiên hay hỏng thi.
Để đạt mục tiêu về khoa cử, Tuấn đã phải học lâu hơn những bạn hữu khác mấy
năm. Lỗ mất mấy năm nhưng lại đạt nhiều kinh nghiệm về cuộc đời, nhất là trong
địa hạt ái tình. Thuở thanh xuân của Tuấn thật sôi nổi. Năm đang theo lớp đệ
tam, Tuấn bị đuổi khỏi trường công vì anh bướng bỉnh, hay trốn học và nhất là
đã ngổ ngáo ném thư tình cho một cô trong lớp. Chẳng những không thèm đáp lại
tiếng lòng của gã thiếu niên si tình ấy, giai nhân đã đem bức thư trình với ông
hiệu trưởng. Ông hiệu trưởng bèn họp một vài nhân vật có thẩm quyền lại để định
lại thái độ đối với tên học trò hư hỏng. Không được học trường công thì học trường
tư. Nhưng trường tư cũng không dung cho tên đãng tử này. Lý do vì Tuấn luôn
luôn thiếu tiền học phí. Mỗi tháng ông bố làm công chức ở Quảng Yên gửi về Hà Nội
cho con trai đủ tiền ăn học. Ông con chỉ trả tiền ăn chứ ít khi trả tiền học.
Thằng bé mới lớn phải chi phí quá nhiều vào việc yêu đương. Gã lao đao vì đàn
bà. Yêu nhiều thì tốn kém nhiều. Kẻ nào đã từng yêu tất phải công nhận điều đó.
Người ta bảo mối tình đầu là mối tình say đắm nhất. Tuấn không tin thế vì đến mối
tình thứ mấy, Tuấn mới biết mùi vị nồng nàn của ái tình. Ngày ấy Tuấn gặp Trâm.
Hai đứa yêu nhau. Tuấn hai mươi bốn tuổi còn Trâm mới mười chín. Nàng là học sinh
lớp đệ tứ còn chàng theo học lớp dự bị ban văn khoa đại học. Tuấn yêu Trâm một
cách điên cuồng. Có một buổi trưa Tuấn hẹn ba giờ chiều mai đi chơi với Trâm.
Và suốt hai mươi bảy tiếng đồng hồ, Tuấn quên cả giờ ngủ để chờ giờ hẹn. Gã
sinh viên thức trắng đêm, liên miên hút thuốc lá. Chiều hôm sau, khi vào ngồi
trong rạp ciné với Trâm, Tuấn thấy thân thể rã rời vì mệt mỏi. Vào khoảng giữa
phim, Tuấn ngả đầu xuống vai Trâm mà ngủ.
Chưa được một năm thì mối tình giữa Tuấn và Trâm tan vỡ. Không phải vì Tuấn bỏ
Trâm mà vì Trâm bỏ Tuấn. Cô bé vừa trẻ, vừa đẹp, tính nết đang độ lông bông hay
thay đổi. Cái chuyện chán người cũ âu cũng là chuyện thường. Chỉ có Tuấn là buồn.
Gã đau khổ ra mặt, tưởng như mối hận lòng này chẳng bao giờ nguôi được. Nhưng
chỉ ít lâu sau nỗi đau khổ của Tuấn cũng dịu hẳn đi. Thiếu đôi mắt này lại có
đôi mắt khác. Mất đôi môi này lại tìm được đôi môi nồng đượm hơn. Đến khi gặp
Hoài, Tuấn quên Trâm. Bên cạnh Hoài, hình ảnh Trâm cũng như những hình ảnh của
Hương, của Yến, của Thanh, của Băng, của Ngà… khi xưa chỉ còn là những cái bóng
mờ, rất mờ, thấp thoáng khi ẩn khi hiện. Ấy là không kể đến một số hình ảnh đã
lặn mất tăm…
Tuấn bỗng nhiên cười thầm: dạo trước khi ngồi bên Trâm, chàng cũng đã từng bảo
Trâm rằng: "Này em, nếu thiếu em đời anh chắc chắn sẽ không còn nghĩa lý
gì". Và Trâm cũng đã từng bảo Tuấn: "Anh ơi, thiếu anh em sẽ chết".
Thì ra, trong lúc âu yếm nhau, người ta thường nóng đầu nên hay bạo miệng.
Nhưng Tuấn bỗng đăm đăm ngó Hoài. Chàng thấy Hoài khác với tất cả những người
đàn bà đã đi qua đời chàng. Dưới những cặp mắt khách quan, có lẽ Hoài không đẹp
đẽ gì lắm. Nàng cao và mảnh khảnh. Trừ làn da mịn màng với đôi mắt vừa huyền ảo
vừa say đắm, bộ mặt Hoài không có gì mỹ miều. Tuấn yêu Hoài vì tâm hồn nàng đa
cảm tột độ. Đó là một thiếu nữ nhiều đam mê và dám yêu với tất cả cõi lòng. Khi
yêu nàng không hề do dự, không hề mặc cả. Hoài khôn khéo, tế nhị nhưng liều
lĩnh. Nàng không thể dè sẻn về tình cảm nên lòng yêu của người đàn bà này đổ mạnh
như thác nước; ở lòng thác, nước xoáy thành những hố sâu để bảo vệ tình yêu,
nàng đã làm những chuyện rất ít người đàn bà dám làm. Đôi lúc Tuấn sợ hãi và mường
tượng về tâm hồn Hoài vì chàng bị ngợp dưới một bầu trời lộng gió, cao và xa đến
vô cùng… Hoài với Trâm khác nhau hẳn. Trâm biểu dương cho cái đẹp vô hồn của một
pho tượng tuyệt mỹ bằng cẩm thạch. Hoài biểu dương cho cái mênh mông của sự
rung động. Những âm ba rung cảm ấy lan rộng bát ngát. Không biết có nên đưa trường
hợp Trâm cũng như các thiếu nữ khác đã từng nằm trong tay Tuấn ra làm loại suy
cho trường hợp Hoài không? Có thể là không.
Giọng Hoài nũng nịu bên tai Tuấn:
"Anh nghĩ gì thế?"
"Anh nghĩ về em".
"Nghĩ gì về em?"
Tuấn lại bối rối. Hoài có thói quen hay đặt câu hỏi. Nàng nhắc lại:
"Nghĩ gì về em?"
"Anh tự hỏi tại sao anh yêu em và em yêu anh".
"Như vậy anh nghĩ về cả hai đứa chứ đâu chỉ nghĩ đến riêng em. Thế tại sao
anh yêu em?"
Tuấn không trả lời nữa, khẽ tát yêu vào má Hoài, nhắc lại đầu đề một cuốn phim
Pháp chiếu ở Saigon cách đây ít lâu: Sois belle et tais-toi!
Buổi chiều bên sông hạ nền trời xuống thấp. Dòng nước loang loáng trôi. Dăm ba
cánh buồm lướt nhẹ trong dáng điệu kiên nhẫn, bình thản. Gió thổi mạnh hơn phả
vào khí trời cái gây gấy lành lạnh của cảnh sắc cô tịch. Những cánh chim vội vã
bay, vạch các đường vô hình vào không gian. Thỉnh thoảng có con ném lại vài tiếng
kêu tuy yếu ớt nhưng vẫn đượm một vẻ giận dỗi, khắc khoải. Lũ chim này đang bay
về tổ. Ngày ngày, chúng đi rồi về. Từng lớp cánh mỏng run rẩy ở lưng chừng trời.
Có con bay xuôi dòng sông, có con bay ngược lại, có con lao qua hai bờ đất. Lối
bay chằng chịt các ngả vì loài có cánh ấy xây tổ khắp bốn phương. Sự sống của
chúng hiện hình trong cái đà xê dịch loanh quanh, chẳng khác gì sự sinh hoạt của
giống người.
Từ một phía chân trời, vài đợt mây xám nhô ra, mang hơi nước tới. Khí lạnh sẽ
khiến cho mưa rơi xuống. Vừa lúc trưa trời nắng nhưng bây giờ sắp mưa. Từ nắng
đến mưa không có gì ngăn cách cả.
Hoài tháo giày, đứng lên khỏi gốc cây rồi chạy ra sát mé sông. Ở gần bờ, vài
cánh hoa ô môi dập dờn trên làn nước đục ngầu. Hoài bảo Tuấn:
"Có mấy cánh hoa đẹp bị rớt xuống nước. Em lội xuống vớt chúng lên
nhé".
Tuấn vẫn ngồi hút thuốc lá dưới gốc cây. Giọng chàng thoáng nét e ngại:
"Cẩn thận đấy kẻo ướt hết. Thường có nhiều chỗ nước sâu ngay gần bờ".
Hoài vén quần khỏi mắt cá chân, khẽ đặt bàn chân xuống nước dò xét rồi từ từ lần
ra, đón trước lối di chuyển của những cánh ô môi. Hai ống quần nhích cao hơn; một
ống lên quá đầu gối. Tuấn ngồi im lìm dưới gốc cây, ép mạnh đôi môi và điếu thuốc
lá. Khói đục cuồn cuộn tuôn ra từ hai ống mũi.
Nhưng Tuấn trấn tĩnh ngay được. Chàng thở thật mạnh, quay mặt đi, móc điếu thuốc
lá khác. Không hiểu vì gió thổi hay vì những ngón tay run mà lửa diêm xòe tới
hai lần điếu thuốc vẫn chưa cháy.
Thần kinh Tuấn dần trở lại tình trạng bình thường, Tuấn cười khẽ, thong thả vuốt
một ngón tay vào sống mũi mình. Chàng đã từng nhiều lần nằm bên đàn bà để nghe
cái đê mê từ da thịt họ chuyển sang da thịt mình. Những trường hợp đó xảy ra rất
tự nhiên, tự nhiên đến gần như không có gì đáng chỉ trích. Khoảng mười hai, mười
ba tuổi, Tuấn được chứng kiến cảnh ái ân của một cặp Tây đầm bên gác hàng xóm.
Ông Tây sống cô độc một mình nhưng thỉnh thoảng lại có bà đầm đến thăm. Lúc bấy
giờ đêm đã khuya khoắt, nhà Tuấn có một sân thượng cao và cặp đào kép ngoại quốc
không hiểu sao đêm đó khinh suất cứ để đèn điện sáng choang mà không thèm đóng
cửa sổ. Từ vụ ấy, thằng Tuấn luôn luôn thắc mắc về những hình ảnh, những cử động
kỳ cục, quái dị kia. Nó đang độ ngây thơ, hiền lành nên vẫn mơ hồ nghĩ rằng đó
là tội lỗi, là những chuyện xấu xa, dơ dáy. Mặc cảm này ám ảnh nó suốt ba bốn
năm trời. Mối tình đầu tiên của nó sạch sẽ, thanh cao lắm. Hai đứa chỉ nhớ
nhau, gặp nhau, nhìn nhau và trò chuyện suông, thế thôi. Tuấn không hề dám động
vào người con bé sợ nó giận hay khinh Tuấn. Mãi về sau này, khi hai đứa sắp phải
xa nhau vì hoàn cảnh gia đình, Tuấn mới dám cầm lấy tay, đỡ lấy lưng hoặc đôi
ba lần hôn nhẹ vào má người tình.
Hôm đầu tiên theo ông anh họ đi Khâm Thiên, khi được nằm chung chăn với một đào
hát, Tuấn run quá, người nóng bừng như lên cơn sốt. Ả giang hồ phải phì cười vì
những cử chỉ lúng túng ngượng ngập của ông quan viên nhãi con. Nhưng từ sau đêm
hành lạc tập sự này, mặc cảm tội lỗi của Tuấn bị nứt rạn rồi dần tan rã. Ngạc
nhiên, khi có dịp thuận tiện, Tuấn đương nhiên làm lại những động tác ông Tây
hàng xóm đã làm. Đấy chỉ là nhu cầu tự nhiên. Tự cổ chí kim tự đông sang tây, hầu
hết loài nngười đều cần thỏa mãn nhu cầu đó. Từ đời ông Adam cho đến đời Tuấn,
giống đực và giống cái vẫn tồn tại trên cõi đời này và vẫn bám chặt lấy nhau
như kim loại bám vào đá nam châm.
Nhưng dầu sao đi nữa, Tuấn thường phải dằn thú tính của chàng lại vì chàng
không muốn có những cử chỉ đột ngột, sỗ sàng vì nhân sinh quan của nàng có lẽ
không giống với nhân sinh quan của Tuấn. Người con gái ấy còn bị ràng buộc bởi
một thứ luân lý công thức. Những khi đi với Tuấn mà gặp một người quen, Hoài vẫn
bẽn lẽn ngượng ngập thế nào. Dĩ nhiên, có những trường hợp, Hoài thẹn thò cả với
Tuấn. Vả chăng, Hoài muốn dành một cái gì đặc biệt cho đêm tân hôn. Yêu Hoài,
Tuấn muốn gò quan niệm sống của mình cho ăn khớp với quan niệm sống của Hoài.
Đó là một sự hy sinh êm ái, đẹp đẽ biết bao.
Thật tình Tuấn muốn sống mãi bên Hoài vì chàng đã bắt đầu chán nản trước cuộc sống
lông bông với những mối tình tạm bợ. Qua bao nhiêu đợt sóng trùng dương, khi tới
một bến nước đầy cảnh sắc lạ lùng, gã thủy thủ đột nhiên muốn ở lại đất liền
mãi mãi. Ở đây vẫn được hưởng gió mặn nồng, vẫn nhìn thấy biển khơi, nhưng lối
sống hẳn có sự thay đổi. Tuấn vui lòng với sự thay đổi đó. Chắc hẳn cuộc đời sẽ
bình yên hơn, sẽ đỡ mệt mỏi hơn. Tuấn đã thấy cần được nghỉ ngơi.
Rồi một ngày kia, gã thủy thủ có lại đi theo tiếng gọi của sông nước hay không.
Điều đó không thể biết trước được. Nó tùy thuộc vào sức quyến rũ và mãnh lực
ràng buộc của đất liền. Tuy nhiên hiện nay, gã mơ hồ nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ
gã có thể dời bỏ cái bến nước tuyệt diệu này được.
Hoài đã vớt được mười cánh hoa. Nàng chạy lại ngồi bên Tuấn như cũ, thong thả xếp
hoa vào ví tay. Tuy biết trước câu trả lời, Tuấn vẫn hỏi:
"Em lấy những cánh hoa ấy làm gì?"
"Em sẽ ép chúng vào sách rồi thỉnh thoảng rút chúng ra xem để nhớ đến cuộc
đi chơi hôm nay".
Trời bắt đầu tối khi những đám mây đen kéo đến gần đỉnh trời. Gió chiều lạnh
hơn và cảnh vật bên kia sông mờ hẳn đi. Dòng sông vẫn cuồn cuộn trôi. Mặt nước
xám lại, mất hẳn vẻ bóng bẩy. Xa xa mấy cánh buồm mờ ảo lặn dần trong màu chiều.
Và màu chiều được tạo ra do sự hôn phối giữa bóng tối và ánh sáng.
Rời bỏ ven sông, Tuấn và Hoài dắt tay nhau qua bãi cỏ hoang. Cách đây mấy giờ họ
đã từ thành phố đi ra bờ sông; lúc này họ lại từ bỏ bờ sông trở về thành phố.
Tuấn khẽ đọc bên tai Hoài một câu thơ chàng vốn ưa thích: Cỏ mòn thơm mãi
dấu chân em…
Gần đến chỗ để xe vespa, Hoài chợt dừng lại nũng nịu:
"Chỗ này đất gồ ghề khó đi quá, anh bế em đến xe".
Tuấn bế Hoài lên. Hoài vòng tay qua cổ chàng. Hai đôi môi tìm nhau trong khi Tuấn
vẫn chập chững bước đi. Đột nhiên Tuấn cắn nhẹ vào vai Hoài. Bị nhột, cả thân
thể người con gái giãy giụa trong hai cánh tay người yêu… Đến bên xe, Hoài đòi
xuống và Tuấn nhẹ nhàng đặt nàng ngồi lên yên sau. Chiếc vespa rồ máy, chạy
trên một quãng đường đất nhỏ rồi lên đường cái. Hoài ôm chặt lấy Tuấn, ép má
vào lưng chàng. Xe lao vút giữa hai cánh đồng lúa thẫm đen. Ánh đèn pha xuyên cắm
vào đêm tối rồi liếm nhanh xuống măt nhựa.
1960
Bài học đầu tiên
Tôi thong thả đi trên đại lộ, tay đút trong hai túi áo. Từng
ngọn đèn đêm nằm thấp thoáng sau những chòm lá, đổ ánh sáng yếu ớt xuống mặt đường.
Saigon những đêm mưa gió thường có cái dáng yên tĩnh, trầm mặc. Tôi dừng lại
bên một gốc cây, xòe diêm châm thuốc lá. Vào những đêm mưa gió nhẹ tôi thường
khó lòng ở nhà được. Con người ta hình như mỗi người có một cái đam mê kỳ quái.
Sự đam mê của tôi là khoác áo mưa đi bộ hàng mấy giờ liền trong những đêm u ám
mà hút thuốc lá vô hồi kỳ trận.
Trong những chòm cây thẫm đen, gió đêm vẫn xào xạc khiến những giọt nước đọng
trên các nhành lá rơi không ngừng xuống người tôi. Tôi giơ tay lên vuốt tóc. Đầu
tóc tôi đã ướt đẫm.
Đôi chân tôi vẫn chuyển dịch theo một động lực của bản năng. Sự suy tưởng trong
tâm hồn tôi hoạt động không theo một hệ thống nao cả. Tôi nghĩ miên man hết
chuyện nọ sang chuyện kia. Kể ra, nghĩ ngợi lăng nhăng như thế cũng là một cái
thú. Đến ngã ba, tôi rẽ vào một con đường nhỏ. Từ một đại lộ rộng lớn bước vào
con đường hẹp này, tôi đột nhiên có một cảm giác mới lạ, khung cảnh ở đây dường
như có vẻ thân mật êm ái hơn. Tôi dừng lại một chút để bước chân khỏi khua động
mặt đường, ngõ hầu có đủ tịch mịch để nghe ngóng sự thay đổi của cảm giác. Con
đường nhỏ này không còn bờ hè mà chỉ có đường trải nhựa. Hai dãy nhà hai bên đến
gần tôi hơn. Đường này không có cột điện nhưng cảnh vật không đến nỗi tối tăm
nhờ những ánh đèn từ các cửa kính chiếu ra ngoài.
Một chiếc Vespa xuất hiện ở cuối đường tiến nhanh về phía tôi. Ánh đèn pha liếm
xuống mặt đường. Chiếc xe lướt qua tôi thật nhanh nhưng tôi cũng kịp nhìn thấy
trên xe có hai người, một gã đàn ông và một người đàn bà. Cả hai đều mặc áo mưa
nhưng người đàn bà ngồi ở yên sau không quên ôm chặt lấy gã đàn ông. Họ là một
đôi vợ chồng hay một cặp tình nhân? Tôi vẩn vơ nghĩ đến hai kẻ xa lạ đó. Không
biết lúc này ngồi gần bên nhau họ có hạnh phúc không nhưng chắc chắn họ không
cô độc như tôi. Tôi rít mạnh một hơi thuốc lá, phà khói vào lòng đêm, tiếp tục
chuyển bước và nghe tiếng giày của mình giẫm lên mặt nhựa. Tiếng giày lúc này yếu
ớt hẳn đi, có lẽ vì nhựa đường mềm hơn hè xi măng và vì đế giày tôi đã ngấm nhiều
nước hơn trước.
Đi đến giữa phố tôi bỗng dừng lại một lần nữa. Lần này cảm giác của tôi vụt
thay đổi một cách rõ rệt hơn vì trong gió nhẹ đưa tôi thoáng nghe thấy một điệu
đàn vĩ cầm. Bảo là một điệu đàn e không đúng vì kẻ sử dụng đàn chỉ là một người
mới tập. Mấy dây đàn tội nghiệp đang tức tối dưới chiếc archer. Những âm thanh
phát ra không ngọt ngào một chút nào. Có thể nói là chúng đang gắt gỏng hậm hực
với nhau. Tiếng đàn khiến tôi bật lên một tiếng cười khẽ vụt nhớ đến cô đào
Audrey Hepburn trong phim Ariane. Lúc xem phim này tôi ưa nhất những
dáng điệu của cô trong những "pha" cô ngồi tập kéo đại vĩ cầm. Do đấy
những lúc này tôi cứ đinh ninh rằng kẻ đang tập kéo vĩ cầm kia là một tiểu thơ
vừa đẹp vừa duyên dáng. Tôi đã đến bên hàng giậu trước nhà nàng nhưng
tôi không nhìn thấy bóng dáng nàng. Tiếng đàn vang ra từ một cửa sổ
đóng kín.
Cô bé có lẽ say mê cây đàn của mình lắm. Trong bài tập của cô, các nốt đàn
xuống xuống lên lên hoài với đầy sức nhẫn nại. Chừng nửa năm nữa nếu còn có dịp
qua đây chắc tôi sẽ có thể nghe nàng kéo đàn như một nhạc sĩ hẳn hoi.
Tôi lại nhớ đến phim Ariane nhưng lần này tôi nghĩ tới mấy gã nhạc sĩ
tzgiane nhiều hơn. Nếu tôi không quên được nét mặt của Audrey khi nàng ngồi tập
kéo đại vĩ cầm thì tôi cũng không thể quên những lúc mấy gã tzgiane tấu đàn cho
Gary Cooper tán gái. Tiếng vĩ cầm của bọn nghệ sĩ giang hồ đó quả là đầy sức
truyền cảm dễ mê hoặc lòng người. Thế rồi trong óc tôi, giữa hình ảnh mấy nhạc
sĩ tzgiane trong phim Ariane, bỗng hiện ra một hình ảnh khác của một nhân vật
xa xưa mà tôi được biết từ lúc còn nhỏ tuổi. Nhân vật đó cũng là một ban nhạc ở
khách sạn Coq d’or ở Hà Nội khi tôi hãy còn là một đứa bé con đang theo học lớp
ê-lê-măng-te… Mỗi lần nghĩ đến gã tâm hồn tôi thường man mác một mối cảm hoài
nhè nhẹ vì hình ảnh gã khiến tôi không thể nào không nghĩ đến cả một khoảng dĩ vãng
xa xôi… Con đường vắng trước mặt tôi đêm nay vụt trở nên dài hun hút. Nhìn vào
chiếc cửa sổ đóng kín trước mặt tôi thầm từ biệt người con gái kéo
đàn để tiếp tục bước đi với hình bóng gã nhạc sĩ tiệm Coq d’or và cả một thời
xa xưa trong tâm tưởng. Khi tôi biết gã, tôi mới chưa quá mười ba tuổi. Cuộc đời
tôi trong quãng thời gian ấy có một kỷ niệm đặc biệt mà tôi không bao giờ có thể
quên được. Vô tình trong đêm nay hình ảnh cũ của gã nhạc sĩ tiệm Coq d’or đã một
lần nữa gợi ra cái kỷ niệm kỳ diệu ấy của một thời đã mất. Đó là kỷ niệm giữa
tôi với bà phán K…, người đã dạy tôi bài học đầu tiên. Trong hoạt động của liên
tưởng, người con gái tập kéo vĩ cầm đã gợi lại cho tôi Audrey và mấy
gã tzgiane: Audrey và mấy gã đó gợi lại cho tôi anh chàng nhạc sĩ tiệm Coq
d’or, và anh chàng này gợi về cho tôi bà phán K… ở giữa nhiều nhân vật khác.
Mẹ tôi chết từ khi tôi lên tám tuổi. Người qua đời trong một phòng bệnh ở nhà
thương Phủ Doãn. Lúc người hấp hối, tôi và đứa em nhỏ đứng bên giường. Người lớn
đưa chúng tôi đến đó. Thấy ai nấy sụt sịt khóc chúng tôi cũng sụt sịt khóc. Những
giọt nước mắt trẻ con chảy ra một cách vu vơ. Chúng tôi nào đã biết thương tiếc
là gì, nào đã hiểu rằng chết tức là từ biệt những người thân yêu mãi mãi để về
với lòng đất mà làm mồi cho dòi bọ… Chúng tôi trở thành những đứa bé mồ côi mẹ.
Đáng lẽ cha tôi phải đích thân coi sóc tôi nhưng vì người vốn phóng khoáng bừa
bãi nên sự coi sóc đó gần như không có. Ban ngày cha tôi đến sở làm việc, nhưng
tối tối ông đến nhà các bạn hữu đánh bài đến khuya. Có nhiều đêm ông không về
nhà. Công việc gia đình gần như nằm trong tay một anh bếp.
Tôi vẫn còn nhớ hình dáng, điệu bộ và tính tình anh bếp này. Tên anh là Cẩm.
Người anh to lớn, nước da ngăm đen. Ai gặp anh tất nhiên phải để ý ngay đến đôi
tai anh, to và vểnh. Chiếc mũi anh trông cũng nghịch lạ. Nó hếch lên một cách rất
ngạo đời kéo theo cả cái môi trên khiến cho hàm răng hô có cơ hội xuất hiện thường
xuyên. Cả ngày anh không nói một câu, chỉ lầm lì làm việc, lầm lì ăn rồi ngủ.
Cho đến bây giờ nhiều khi nghĩ đến anh tôi vẫn không thể hiểu được là sống ở
trên đời này, anh ta cảm thấy mình sướng hay khổ. Con người ấy thoạt trông thì
thấy chất phác quê mùa nhưng nhìn kỹ thì lại thấy có vẻ thâm trầm, bí mật. Dạo ấy
tôi hay bướng bỉnh với anh nhưng vẫn hơi sờ sợ anh. Kể ra tôi sợ anh cũng phải
vì tôi có tính ngủ hay gác mà đêm đêm phải ngủ chung giường với anh. Cái tính tệ
hại đó thường tùy theo thái độ của tôi đối với anh ngày hôm ấy mà sinh ra kết
quả xấu hay tốt. Nếu ban ngày tôi làm anh bất mãn thì nhất định là đêm hôm ấy
khi tôi vừa đặt chân lên bụng anh, anh hất nó xuống liền. Có khi anh không ngần
ngại dùng bàn tay hộ pháp đập xuống mông đít tôi. Nhiều bận anh đánh đau quá
làm tôi choàng thức giấc, chết ê ẩm cả mông mà không dám kêu ca gì. Tôi biết tội
tôi lắm. Trái lại, nếu hôm nào tôi tỏ ra ngoan ngoãn với anh thì đêm đó tôi
sung sướng như ông hoàng nhỏ. Tha hồ gác, tha hồi giãy; anh bếp kia coi như
không có ai nằm bên cạnh anh. Anh chịu đựng đến cái mức độ đôi khi tôi phải lấy
làm lạ. Kể ra định sống hòa bình với anh ta không phải là chuyện khó khăn. Muốn
làm anh vui lòng tôi chỉ cần tuân theo vài điều kiện: đừng nhảy lên giường trải
nệm của cha tôi, đừng vứt giấy hoặc rác bẩn ra sàn đá hoa, đừng lôi trẻ con đến
nhà, và nhất là đừng có sờ vào cái đàn bầu của anh treo dưới bếp. Anh bếp Cẩm của
tôi biết gảy đàn bầy! Kể cũng lạ, có ai ngờ cái con người tai vểnh mũi hếch như
vậy mà cũng dám học đòi nghề ti trúc. Thường thường cứ vài ngày anh lại lôi cây
đàn xuống lau chùi cẩn thận. Cây đàn thật đơn giản: bầu đàn làm bằng một cái
gáo dừa, thân đàn là một nửa ống nứa sơn xanh, còn cần đàn là một que tre vót
nhẵn, vút lên như cái xe điếu ống, dây đàn mỏng tanh bóng loáng. Cả mấy tháng
tôi mới thấy anh bật dăm ba tiếng tơ.
Những lúc ấy anh ngồi xếp chân vòng tròn trên phản gỗ, người hơi nghiêng
nghiêng. Anh nheo mắt, hếch thêm chiếc mũi, một tay nắm cần đàn vừa uốn lên uốn
xuống vừa rung rung theo nhịp que đóm ở tay kia bật phừng phừng vào sợi dây
căng thẳng. Đôi khi cao hứng anh còn hát theo tiếng đàn. Giọng anh khô khan, ngắn
ngủi. Anh biết có một bài ca độc nhất mà đến nay tôi chỉ còn nhớ được mấy câu đầu:
Trèo lên cây khế nửa ngày,
Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!
Khế chết khế lại mọc chồi…
Việc anh bếp Cẩm can thiệp đến đời sống hàng ngày của tôi quanh đi quẩn lại chỉ
liên hệ đến mấy điều kiện như tôi vừa kể. Ngoài ra anh sống theo lối sống của
anh, tôi sống theo lối sống của tôi. Anh đi chợ, làm bếp, dọn dẹp nhà cửa còn
tôi đi học. Trường tôi ở tận phố Hàng Điếu. Tôi không nhớ rõ ngày ngày ở trường
tôi có chịu học hành gì không. Chỉ nhớ rằng tôi rất ưa trò xé giấy vở để gấp
thuyền và làm tàu bay cũng như chiếm kỷ lục về chép bài phạt, vì ít khi tôi thuộc
bài. Cái ông thầy giáo lớp tôi hình như nghiện nghe học trò đọc bài. Ngày nào
cũng như ngày nào, thoạt vào đến lớp ông đã gọi một lũ lên trả bài. Hai bên bàn
tôn sư, bầy học sinh trẻ ranh đứng thành hàng dài lố nhố như chờ phát chẩn. Mặt
đứa nào cũng đăm chiêu lo lắng. Hàng mấy chục cái miệng lầm bầm ôn bài như niệm
Phật. Ông thầy ngồi trên bục trước bàn viết, mặt luôn luôn tươi tỉnh, tay mân
mê cái thước kẻ gỗ sơn đen. Ông vút học trò một cách rất tự nhiên, rất gọn gàng
không một chút ngượng ngập. Việc trả bài được xếp đặt ăn khớp với việc trừng phạt
một cách khoa học. Ông thầy này quả thật là thực tế và giàu kinh nghiệm nên
không cho phép học trò được khoanh tay khi trả bài. Bất cứ đứa nào, con trai
cũng như con gái, mỗi khi trả bài phải đứng sát hẳn vào bàn và đặt một bàn tay
úp lên mặt gỗ. Mười đứa trả bài thì đến năm, sáu đứa ăn đòn. Số thước kẻ giáng
xuống hình như được định theo một quy lệ bất biến: đọc ngập ngừng, một phát;
không thuộc hết bài, hai phát; không thuộc một tí nào, ba phát kèm thêm hai bài
chép phạt. Có điều thật kỳ dị là thầy giáo của chúng tôi dữ đòn như vậy mà
không bao giờ ông gắt gỏng. Ông vừa đánh vừa nói ngọt như đường phèn:
"Con không thuộc bài hả con? Thầy đánh cho con nhớ nhé!"
"Bài dễ thế mà con ngập ngừng à? Lần sau con chịu khó học kỹ hơn nhé,
con!"
"Thế nào, con quên hả? Quên vậy thầy thật buồn lòng. Con không xem thằng
Quân đó, bài nào nó cũng đọc trơn làu làu…"
Ông vừa nói vừa cười rất thân mật để lộ ra chiếc răng vàng lóng lánh. Lời của
ông thật nhân từ, thật hiền dịu mà ngọn thước của ông không êm ái chút nào. Ông
vút khá mạnh và có nghệ thuật. Thước kẻ lúc nào bay xuống cũng hơi nghiêng
nghiêng khiến cho cạnh gỗ bập vào tay nạn nhân như một lưỡi dao cùn. Sử dụng
thước gỗ như thế thật tài tình, tinh vi hết chỗ nói.
Là thằng học trò chiếm kỷ lục về chép bài phạt dĩ nhiên tôi cũng chiếm kỷ lục về
ăn đòn. Hai mu bàn tay bé nhỏ tội nghiệp của tôi đôi lúc sưng lên. Ông giáo
khôn lắm, những trường hợp đó ông vẫn đánh tôi một cách bình thản tự nhiên
nhưng bắt tôi ngửa tay lên.
Dĩ nhiên tôi không thể nào mến thầy được. Đối với trẻ con, không mến có nghĩa
là ghét. Ấy thế mà cái số tôi rõ thật long đong: tôi phải học ông hai năm liền
vì năm thứ nhứt tôi rớt kỳ thi Sơ học yếu lược.
Vô tình, tôi trở thành một đứa bé cô độc. Mẹ tôi không còn. Cha tôi vắng nhà
luôn. Anh bếp Cẩm với tôi không hợp tính. Em gái tôi còn bé bỏng quá. Chỉ có những
thằng học trò cũng lười biếng như tôi là ưa thích tôi. Nhưng tình bạn, nhất là
bạn bè trẻ con thì chỉ có thể có tình thân chứ không có tình thương. Tôi cô độc
không phải vì thiếu bạn mà vì thiếu tình thương mến đó. Có một dạo ít khi tôi ở
nhà. Mỗi khi rời lớp học, tôi đi rong các ngõ ngách để đánh đáo. Tôi chuyên về
môn đáo lỗ. không hiểu sao lúc bấy giờ tôi chọi và đục lỗ mả đến như thế. Thật
không kém gì xừ Nghiêu Tử bắn cung hoặc cái ông lão trứ danh rót dầu qua lỗ đồng
tiền, trong sách cổ. Chúng tôi đánh ăn xèng, tức là những nút chai bằng kim khí
đập nhẹp ra, cứ hai mươi xèng đáng giá một xu. Tuy kiếm chác khá giả trong nghề
đáo lỗ nhưng có nhiều tối tôi vẫn đến chực tại các quán rượu lớn, đặc biệt là
quán Coq d’or ở phố Tràng Tiền để chờ nhặt những nút chai loại hiếm. Tại Coq
d’or tôi quen với anh chàng nhạc sĩ kéo vĩ cầm mà tôi đã nói đến ngay ở đầu
truyện. Nói là quen cho có vẻ đấy thôi chứ chúng tôi không hề nói chuyện với
nhau, bởi lẽ gã nhạc sĩ đâu có thèm để ý tới tôi. Gã còn mải kéo đàn cho Tây, đầm,
ôm nhau nhún nhảy. Trái lại, tôi rất để ý tới gã; công việc nhặt nút chai thật
nhàn hạ nên tôi có nhiều thì giờ nhận xét về gã. Mặt gã nhỏ bé trắng trẻo, tóc
để theo lối "phi lô dốp" dài và bóng mượt, thân thể mảnh khảnh lồng
trong bộ tây màu hạt dẻ vào những lúc lạnh trời hoặc một bộ trắng vào những lúc
oi bức. Có khi gã mặt sơ mi trần nhưng chẳng bao giờ quên đeo cà vạt. Gã ít
nói. Mặt gã lúc nào cũng đượm vẻ buồn buồn. Những khi kéo đàn gã thường đứng dậy,
ngoẹo cổ về một bên kẹp cây đàn vào vai một tay nắn phím còn một tay sử dụng
archer. Gã thường được thính giả vỗ tay khi độc tấu những bài buồn thảm.
Tuy nghịch ngợm nhưng vốn đa cảm nên tôi cũng thấy lòng rung động mỗi khi nghe
tiếng vĩ cầm của gã nỉ non than thở. Có nhiều lúc tôi quen cả nhặt nút chai để
ngắm gã kéo đàn. Trông gã đáng yêu biết bao. Nhiều lần tôi tự nhủ khi nào lớn
lên tôi cũng sẽ đi học đàn để có thể vào các quán rượu mà kéo những bài sầu thảm
như gã… Lúc đã buồn ngủ phải từ biệt vỉa hè quán rượu ra về tôi vẫn còn cảm thấy
tiếng đàn ma quái đuổi theo tôi và ám ảnh tôi hoài. Có những đêm tôi nằm mơ thấy
mình được đứng trước lũ bạn trong lớp học mà kéo vĩ cầm. Cả ông thầy giáo răng
vàng cũng ngồi nghe tôi đờn. Tôi kéo liền một lúc mấy bài. Tiếng đàn của tôi vừa
hay vừa buồn khiến cho mấy thằng bạn khóc nức nở. Cả thầy giáo tôi cũng khóc.
Ông ôm lấy tôi khen ngợi rồi tỏ ý hối hận vì từ trước đến giờ ông ta đã xử tệ với
tôi…
Giữa cái thời kỳ tôi bơ vơ, cô độc, chỉ biết tìm chút an ủi trong thú đánh đáo
và thú nghe đàn ấy thì bà phán K… xuất hiện.
Tôi cần nói rõ một chút.
Gia đình tôi dạo ấy trú ngụ trong một căn nhà hai tầng ở ngõ Hội Vũ gần chợ
Hàng Da. Thấy chúng tôi ít người mà nhà cửa quá rộng, bạn bè của cha tôi đã giới
thiệu hai vợ chồng ông phán K… đến mướn căn gác. Cha tôi bằng lòng.
Ông phán K… đã đứng tuổi. Thân thể ông vừa lùn vừa mập. Mặt tròn trĩnh đầy đặn.
Đôi mắt lúc nào cũng lờ đờ như buồn ngủ. Người bà cân đối. Khuôn mặt bầu bầu
hơi trái xoan. Đôi mắt tuy long lanh nhưng trông bà vẫn có vẻ dịu dàng trầm
tĩnh. Bà ít khi cười nhưng mỗi khi cười, đôi môi xinh xắn lại hé mở để lộ hai
hàm răng đều đặn, trắng muốt. Thường những khi tư lự bà ngồi trước bàn nghiêng
đầu về một bên, những ngón tay trái thon dài đỡ lấy gò má mịn màng. Đặc biệt nhất
là tiếng nói của bà, một thứ giọng nói thong thả, rành rẽ và ấm áp. Dáng đi của
bà thật khoan thai, nhẹ nhàng. Hai ông bà phán K… quả là hai sự khác biệt. Bà
thanh tao bao nhiêu thì ông bục bịch bấy nhiêu. Vì ông phán đi làm ngày hai buổi
nên bà phán thường ở một mình trên gác. Công việc nội trợ đã có một cô sen cáng
đáng. Tôi nhận thấy gia đình bà rất ít khách. Trong suốt mấy tháng trời họ ở
nhà tôi chỉ một vài lần có người đến thăm nhưng họ đến không được mấy chốc đã
cáo biệt ra về. Vì thế, đời sống của bà phán K… rất yên ổn nhàn hạ.
Sau tuần lễ đầu, tôi đã quen thân với bà phán, được bà gọi lên gác luôn để cho
bánh kẹo. Tôi khám phá ra một điều đáng chú ý hơn cả là bà phán rất ưa đọc tiểu
thuyết. Bà có thể đọc mải mê suốt buổi mà không mệt. Thường thường khi đọc sách
bà nằm dài trên chiếc ghế xô-pha trải nệm hoa, đầu kê lên chiếc gối bông thật
dày. Một hôm bà gọi tôi lên cho tôi năm xu rồi sai tôi đến hiệu sách ở hàng
Bông thuê truyện cho bà. Hai hôm sau bà nhờ tôi đem đổi lấy cuốn khác. Dần dần
tôi trở thành tay chuyên đi thuê tiểu thuyết cho bà phán. Bất cứ bà muốn đọc cuốn
gì tôi đều đi tìm cho được. Tôi ưa công việc này lắm vì nó cho tôi cơ hội để có
thể lên phòng bà luôn luôn. Quen với bà phán rất có lợi. Phòng bà có nhiều bách
bích quy nên tôi được ăn luôn; lại nữa bà thường cho tôi tiền, khi ba xu, khi
năm xu để đền lại công lao khó nhọc của tôi trong những lúc chạy ngược chạy
xuôi tới các nhà sách để tìm thuê sách cho bà. Nhưng những lợi ấy đối với tôi
không đáng kể bằng những thú vui tinh thần. Tôi sung sướng được đi thuê sách
cho bà vì tôi rất quý mến bà. Tôi rất tự hào mỗi khi tìm thấy một quyển sách
khó tìm. Nhìn bà phán thích thú đọc những quyển sách chính tay tôi đi thuê về
tôi cũng thích thú lây. Bà ham đọc sách còn tôi rất vui vẻ khi thấy bà ham đọc
sách. Chỉ ít lâu sau, tôi gần như trở thành người nhà bà phán, và tôi được bà mặc
nhiên cho phép lên phòng bà bất cứ lúc nào. Tuy vậy, không bao giờ tôi lên gác
những lúc ông phán K… có nhà. Tôi không ưa ông vì ông không có cảm tình gì với
tôi. Ông lớn, tôi nhỏ và người lớn như ông đâu có thèm để ý đến thằng bé con
này. Trong thời gian đầu, khi ông mới tới ở nhà tôi, có đôi ba lần tôi lễ phép
cúi đầu chào ông nhưng ông chỉ trả lời bằng một cái gật đầu đầy vẻ hững hờ.
Hình như ông không ưa những đứa trẻ nghịch ngợm, lười lĩnh, nhem nhuốc như tôi.
Do đấy, về sau này, mỗi khi gặp ông tôi không chào nữa, chỉ lảng sang một bên
cho ông qua.
Năm tháng sau, đột nhiên ông phán được lệnh nhà nước đổi đi làm việc ở tỉnh
khác. Đến ngày lên đường, ông đi trước một mình để bà ở lại Hà Nội. Theo lời
cha tôi thì ông phán đi trước như vậy cốt để thu xếp nơi ăn chốn ở tại nơi ông
đổi đến, công việc này xong ông sẽ trở về Hà Nội đón vợ đi. Chỉ vì chiều quý vợ
nên ông không muốn bà phải lo nghĩ, vất vả trong bất cứ việc gì. Bao nhiêu
trách nhiệm gia đình ông tự đảm đương hết.
Mỗi buổi trưa Chủ nhật, cha tôi đi đánh bài từ sáng, chị sen đi đâu tôi không
biết, anh bếp Cẩm đang ngủ và ông phán K… chưa thấy về. Từ hôm ông đi tới nay
có lẽ đã được ba, bốn hôm. Lúc ấy khoảng hai giờ rưỡi, tôi ngủ trưa vừa dậy. Trời
hơi oi bức nên tôi phải vào phòng tắm, dội lên người vài gáo nước cho mát mẻ.
Sau đấy vì sắp đi đánh đáo nên tôi chạy lên buồng bà phán để hỏi xem bà có muốn
nhờ tôi trả sách cũ thuê sách mới hay không. Vì ngỡ bà còn ngủ nên tôi bước lên
thang nhẹ nhàng định bụng trước hết ngó qua lỗ khóa xem bà đã dậy chưa. Nếu bà
dậy rồi tôi mới có thể gõ cửa được. Cầu thang trải một tấm thảm dài bằng cói,
tôi đi chân đất, tôi lại lên thang rất nhẹ, thành thử nếu bà phán có thức cũng
không nghe thấy bước chân tôi. Tôi ghé mắt nhòm qua lỗ khóa thấy bà phán nằm
nghiêng trên chiếc xô-pha. Tóc bà xõa tung lòe xòe trên mặt vải. Ngực bà hơi ép
xuống nệm. Một chân bà duỗi dài còn một chân co lên chiếc gối bông. Tay phải bà
rơi thõng từ trên xô-pha xuống đất. Mắt bà đăm đăm nhìn về đằng trước. Vì lỗ
khóa quá bé nhỏ, tôi không thể trông thấy tất cả gian phòng nhưng tôi đoán bà
đang nhìn ra phía cửa sổ. Hơi thở bà nhẹ nhàng. Người bà khẽ nhịp lên nhịp xuống
trên chiếc nệm hoa. Có điều đặc biệt là hôm nay bà phán mặc một chiếc áo màu
xanh nhạt không có ống tay. Lần đầu tiên tôi thấy bà mặc loại áo khoác kiểu như
vậy. Trước kia bà luôn luôn mặc một thứ áo cánh dài tay bằng lụa trắng hoặc ngà
ngà vàng. Tôi định đẩy cửa bước vào phòng nhưng chợt nhớ là mình vừa nhìn trộm
qua lỗ khóa. Mọi khi thì không sao nhưng hôm nay bỗng nhiên tôi có cảm tưởng mơ
hồ rằng nhìn trộm như thế có thể bà phán không bằng lòng. Tôi lại rón rén lần
xuống thang khi đến giữa sân tôi quay lại, giả vờ hát lên mấy câu làm ra vẻ
mình vừa ở trong nhà bước ra. Tôi mạnh dạn lên thang, càng hát lớn thêm để báo
tin cho bà phán biết tôi đến. Vừa gõ cửa đã nghe tiếng bà nói: "Cứ vào đi
em". Quả đấm sứ trong tay tôi xoay một vòng. Cửa phòng hé mở, tôi lách
vào. Bà phán vẫn nằm yên trên xô-pha. Chiếc gối lúc nãy đùi bà gác lên bây giờ
được bà ôm vào ngực. Mớ tóc cũng đã được vơ gọn lại hơn chứ không lòa xòa như
trước.
Bà phán hỏi:
"Em vừa đi đâu về mà vui vẻ thế?"
Tôi hơi ấp úng:
"Cháu đã đi đâu đâu… Cháu vừa tắm đấy chứ".
"Mát không".
"Dạ mát".
Bà phán không nói gì nữa. Bà nằm im trên xô-pha, hơi thở nhẹ nhàng. Thấy bà im
lặng, tôi bước về phía cửa sổ nhìn ra ngoài. Đột nhiên bà gọi tôi:
"Này em!"
Tôi quay lại:
"Dạ".
"Em đứng làm gì ở đấy?"
"Cháu đứng đây… hóng mát".
Bà phán im lặng một lát rồi tiếp: "Chiều nay nóng lắm nhỉ?"
"Dạ, hơi nóng.
Bây giờ tôi mới nhận thấy nét mặt bà phán hôm nay có một cái gì hơi khác lạ.
Trông bà có vẻ bâng khuâng thế nào. Cả giọng nói của bà cũng khác. Bà nói mà
hình như không chú ý vào lời nói lắm thì phải. Bà hướng mặt về phía tôi nhưng mắt
không nhìn vào tôi. Đôi mắt đó long lanh hơn mọi ngày nhưg lại đượm một vẻ rất
xa xôi, huyền ảo. Bà bảo tôi:
"Em mang hộp bích quy ở bàn kia lại đây cho chị đi".
Tôi mang hộp bánh đến đưa cho bà, nhưng bà nằm im không giơ tay đỡ hộp. Bà chỉ
nói:
"Em mở ra lấy bánh mà ăn. Chị cho phép em tha hồ ăn. Ngồi xuống đây".
Bà phán vừa nói vừa nằm nhích vào, dành chỗ xô-pha cho tôi. Tôi hơi ngần ngại
không dám ngồi. Từ trước đến giờ tôi vẫn thân với bà phán song chưa bao giờ được
ngồi gần bên bà. Tôi cũng biết là bà yêu quý tôi nhưng sự yêu quý đó chưa bao
giờ được thể hiện một cách đặc biệt như hôm nay. Tôi còn đang phân vân thì bà
phán đã nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi, kéo tôi ngồi xuống bên bà, đồng thời nhắc lại
câu nói trước:
"Em mở ra mà ăn. Chị cho phép em tha hồ ăn đấy".
Hơi bẽn lẽn, tôi mở nắp hộp. Trước khi lấy bánh cho tôi, tôi giơ hộp mời bà. Bà
khẽ mỉm cười ngồi dậy:
"Ừ, thì chị ăn với em".
Tôi đặt hộp bánh ở đầu ghế. Bà phán nhìn vào hộp rồi khẽ dùng hai ngón tay kẹp
lấy một cái bánh đưa cho tôi. Sau đấy bà nhón một cái khác đưa lên miệng. Tôi
nhìn theo cái bánh bị gãy một phần ba giữa đôi hàm răng đều đặn. Chúng tôi cùng
ăn.
Lát sau, bà nhoài người ra chiếc bàn con bên cạnh để lấy một cuốn sách mỏng. Bà
vừa ăn vừa phe phẩy quạt cho bà và cho cả tôi. Bà lại hỏi:
"Bánh có ngon không?"
"Ngon".
"Bích quy bơ đấy. Ăn nữa đi. Chị còn nhiều, hai ba hộp nữa trong tủ".
Đến đây bà phán quàng luôn một cánh tay qua cổ tôi. Không hiểu sao, đột nhiên
tôi nóng mặt. Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy hơi bẽn lẽn ngượng ngập đối
với bà. Nhưng tôi vẫn ngồi im. Cánh tay trần của bà động vào cổ tôi. Tôi bối rối
nhưng bà phán hình như không để ý. Bà nhắc lại câu nói đã cũ:
"Bánh ngon đấy nhỉ".
"Bà mới có ăn một cái".
Bà phán nhích đến gần tôi hơn:
"Ừ, chị ăn nữa chứ. Nhưng em phải ngồi sát vào chị thì ăn mới vui".
Rồi bà phán khẽ ghì tay kéo luôn đầu tôi ngã vào ngực bà. Xấu hổ, tôi khẽ kéo đầu
ra nhưng không được vì cánh tay bà vẫn ghì chặt. Không những thế thỉnh thoảng
bà còn đu đưa cánh tay cho cái đầu tôi khẽ nhún nhảy. Một lần nữa tôi khẽ kéo đầu
ra. Tuy nhiên tôi không dám cử động mạnh sợ bà giận. Giá lúc này bà buông tôi
ra thì chắc chắn tôi sẽ đứng dậy và lảng đi chổ khác. Nhưng bà không buông, và
rốt cuộc tôi đành ngồi im. Lúc này mớ tóc đen mềm của bà phán, thơm mùi bồ kết,
lại hơi xổ ra, rũ lòa xòa xuống vai tôi. Hơi thở bà lan khắp cổ tôi. Hàng khuy
áo bà đã buột ra lúc nào tôi không hay. Và lúc này đột nhiên một cảm giác kỳ lạ
xâm chiếm tôi. (Từ lúc tôi còn bé cho đến năm tôi lên năm, sáu tuổi tôi vẫn thường
được ngủ chung với mẹ và thường áp mặt vào ngực người. Những khi đó tôi vẫn cảm
thấy một nỗi sung sướng tràn trề của tình mẫu tử. Nhưng bây giờ bị ép mặt vào bộ
ngực trắng nõn của bà phán K… tôi lại cảm thấy sung sướng một cách bối rối và hốt
hoảng khác hẳn với những lúc tôi áp mặt vào ngực mẹ khi xưa). Ngồi bên bà phán,
người tôi bỗng xao xuyến vì một cảm giác chưa từng có. Lần đầu tiên tôi đã khám
phá ra một quyền lực kỳ dị ở thân thể người đàn bà. Da thịt bà phán đã mặc khải
cho tôi một cái thế giới rất mới mẻ của cảm giác. Cái quyền lực của nó có lẽ
còn mạnh hơn quyền lực của một tiếng cười ưng chịu rúc lên từ chiếc cổ nõn của
một cô gái mười tám tuổi mà tôi đã gặp năm năm về sau, cái tiếng cười đã khiến
tôi phải loay hoay với cây bút trong suốt ba ngày để gò gẫm bài thơ đầu tiên.
Lại thêm cái vẻ kỳ ảo, xa xôi, quái đản trong đôi mắt bà phán lúc đó. Đôi mắt
bâng khuâng, mơ màng và đột nhiên trở thành ngây dại đó đã dạy cho tôi hiểu rằng
mắt không phải chỉ để nhìn những vật hữu hình nhưng còn để nhìn cả những vật vô
hình. Phải, mắt bà đang nhìn những cái vô hình và chính tôi hình như cũng cảm
thấy một cách rất mơ hồ cái vô hình đó, một cái gì rất thấp thoáng, rất mong
manh, rất huyền diệu mà cho đến sáu, bảy năm sau tôi mới có thể tạm đặt tên cho
nó là dục vọng.
Tôi không nhớ rõ tôi đã được bà phán ôm ấp, vuốt ve bao lâu. Mười phút? Mười
lăm phút? Tôi vừa mừng vừa tiếc nuối khi bà buông tôi ra để vấn lại mớ tóc. Giọng
bà trở lại bình thường:
"Chiều nay em có đi chơi đâu không?"
"Dạ, em sắp đi đây, bà có cần đổi sách không?"
Bà không trả lời, thong thả bước vào giường ngủ sau tấm ri đô ở góc phòng, lấy
ra cuốn sách kèm theo một đồng hào ván mới đưa cho tôi:
"Em đưa đổi cho chị cuốn này lấy cuốn Quả dưa đỏ nhé. Còn đây một
hào chị cho em".
Mọi khi được bà phán cho tiền tôi mừng rơn, nhưng lúc này không hiểu sao tôi lại
hơi mắc cỡ, không muốn nhận đồng hào ấy. Tuy nhiên, sau mấy giây đắn đo tôi
thong thả bỏ nó vào túi, cám ơn lí nhí mấy câu rồi cầm cuốn sách xuống nhà. Tôi
không muốn nhận đồng hào nhưng vẫn phải nhận vì nếu từ chối, tôi sợ mất lòng bà
phán.
Hai hôm sau, ông phán K… trở lại Hà Nội. Ông về rất sớm trong lúc tôi còn đang
ngủ. Khi tỉnh dậy tôi đã nghe tiếng ông nói trên gác. Hình như ông đang truyền
lệnh cho con sen thu dọn đồ đạc. Đột nhiên tôi thấy nôn nao trong dạ. Bà phán sắp
từ giã Hà Nội, từ giã gia đình tôi, từ giã tôi để đi với chồng! Thế là hết. Từ
nay trở đi, tôi lại sống cô độc như cũ, không còn ai để thương mến nữa. Bà phán
ra đi, tôi sẽ hết được ăn bánh bích quy của bà, hết được chạy đi thuê sách cho
bà để thỉnh thoảng bà trả công cho vài xu, và nhất là hết hy vọng được bà ôm ấp
như lần vừa rồi. Lần đầu tiên tôi cảm thấy một nỗi buồn bã. Bà phán sắp đi, bà
sắp ra đi. Tiếng ông phán vẫn léo nhéo trên gác. Mỗi lời của ông như kích thích
thêm sự nôn nao trong lòng tôi. Tôi chui ra khỏi màn, uể oải bước ra sân. Gặp
con sen tôi khẽ hỏi:
"Chị sắp đi đấy à?"
"Trưa hôm nay đi. Đi tàu một giờ".
Tuy biết mình nói thừa nhưng tôi vẫn hỏi thêm:
"Thế bà phán cũng đi hôm nay à?"
"Đi chứ".
Tôi lặng lẽ múc nước rửa mặt, con sen quay xuống bếp nói với ra:
"Ở đây đang vui quá cậu nhỉ. Phải xa Hà Nội buồn buồn là".
Tôi không nói gì nữa. Trưa hôm ấy khi gia đình tôi vừa ăn cơm xong, đã thấy ông
bà phán K… ăn mặc chỉnh tề bước xuống. Họ gặp cha tôi để ngỏ lời từ biệt. Hành
lý của họ gồm mấy chiếc va-li, hai cái giường, một bộ bàn ghế và những thứ lặt
vặt khác đã được con sen thuê xe bò chở ra ga trước rồi. Ông bà phán cũng sắp sửa
lên đường. Một giờ tàu chạy mà. Tôi liếc nhìn đồng hồ trên tường: mười hai giờ
mười lăm. Dạ tôi lúc này bồn chồn hơn bao giờ hết. Cả buổi sáng nay tôi nghĩ
hoài đến bà phán và đinh ninh rằng bà cũng buồn như tôi vì phải xa tôi. Ai ngờ
trưa hôm đó trông bà chẳng buồn một tí nào. Trái lại, bà còn tươi cười vui vẻ
hơn mọi ngày. Cái vẻ ủ ê của bà trong thời gian ông phán xa nhà đã biến mất. Bà
đi kề bên chồng. Người họ sát vào nhau.
Tuy nhiên, tôi biết thế nào bà phán cũng từ biệt tôi. Bà ngỏ lời từ biệt tôi thật.
Nhưng trái với dự đoán của tôi, giọng bà chẳng có gì tha thiết quyến luyến cả.
Bà chỉ nói: "Cậu ở lại mạnh giỏi nhé!" Vẻ mặt bà rất thản nhiên, vô
tình khi nói câu đó. Tôi lí nhí trả lời một câu nhưng vì quá xúc động nên chẳng
nói ra lời.
Anh bếp Cẩm đã gọi được một chiếc xe tay. Cha tôi tiễn đưa ông bà phán ra tận
ngoài đường. Tôi cũng ra theo. Họ chào chúng tôi một lần nữa rồi bước lên xe.
Anh xa phu nâng cao càng xe lên, khẽ ngả người về đằng trước, lấy đà. Chiếc xe
chuyển bánh tiến nhanh dần về phía cuối đường. Tôi đứng ngẩn ngơ nhìn theo, hy
vọng bà phán sẽ quay lại nhìn tôi.
Nhưng bà không hề quay lại nữa. Ngồi bên chồng bà, có lẽ bà chẳng còn nhớ đến
tôi. Hình như chạm phải một hòn đá nhỏ, chiếc xe khẽ nghiêng sang một bên khiến
đầu bà phán càng sát vào đầu chồng.
Chiếc xe khuất ở đầu giường. Cha tôi đã vào nhà tự lúc nào, nhưng tôi vẫn ngơ
ngác trước cửa. Đôi mắt tôi hơi cồm cộm, không hiểu vì tôi đã quá chăm chú nhìn
theo kẻ ra đi, hay vì tôi muốn khóc.
1965
Con cóc gỗ
Cái chuyện gây gổ, đập lộn, tôi không ham, thực tình tôi
không ham tí nào cả. Vào lúc thiếu thời, đôi khi tôi có đánh nhau với bọn trẻ bằng
trang lứa, nhưng có lẽ từ năm tôi mười tám mười chín tới nay, cả mười mấy năm rồi,
tôi không hề đánh nhau, mặc dầu không hiếm những khi tôi bị xử ức. Dĩ hòa vi
quý, tôi rất ưa cái câu phương châm đã xưa như trái đất ấy. Dĩ hòa vi quý, bốn
tiếng êm ái mà âm vang, đã nhiều lần làm dịu tức khí của tôi. Có lẽ vì lý do thể
chất: thân thể tôi vốn mảnh mai yếu ớt. Nhưng đó chỉ là lý do phụ. Lý do chính:
khi người ta nổi giận đập lộn nhau, cơn giận dữ khiến người ta trông xấu xa, dơ
dáng lạ lùng. Tôi thuộc loại hiền khô, có lẽ thường khi hiền quá hóa ra hèn
nhát. Nhưng tôi vẫn bằng lòng chịu tiếng hèn nhát chứ không chịu đánh nhau, bởi
tôi vốn quan niệm một cách rất chủ quan rằng, đánh nhau còn hèn nhát hơn nhịn
nhục nữa kìa.
Vậy tại sao buổi sáng hôm đó tôi đã đập lộn một trận dữ dằn như thế? Tôi đánh
nhau với một thằng to gấp hai tôi, một thằng vốn nổi tiếng hung dữ cục cằn.
Xuân Mắt Xếch. Những tay lì lợm như Minh Lắc và Bạch Răng Vàng mà còn phải
kiêng dè hắn, vậy mà tôi, cái thằng trói gà không nổi này, đã cả gan đụng độ với
Xuân Mắt Xếch, mà lại đụng độ một trận rất ư kịch liệt. Không ai can nổi. Thiên
hạ hoảng hồn vì hai thằng nổi cơn điên, đã chạy giạt hết. Kết quả đối thủ của
tôi bị rách trán, máu chảy ròng ròng, còn tôi bị một trận nhừ đòn, phải nằm dưỡng
thương suốt cả tuần lễ mà vẫn chưa lại người. Tôi đã đập lộn với Xuân Mắt Xếch!
Chuyện khó tin, nhưng nó đã xảy ra.
Trên đường thuyên chuyển từ Ban Mê Thuột về Saigon, tôi ghé quận Ninh Hòa để
thăm cha tôi. Ông đã già. Sáu mươi hai rồi còn gì nữa. Nhưng người vợ thứ ba của
ông chưa tới bốn mươi nhăm, và năm trước đó đã hạ sinh đứa con thứ tám. Tám đứa
con riêng của bà ba. Còn bà cả, bà hai? Chết cả rồi. Con bà cả hai đứa. Con bà
hai: tôi và sáu đứa nữa. Má tôi ngày xưa mồ côi cha mẹ từ nhỏ, đã ở với người
bác làm nghề gá bạc ở Hà Nội. Cha tôi dạo ấy đang học năm thứ nhất thứ hai gì
đó tại một trường trung học. Ông tới lớp học rất ít nhưng tới sòng bạc thì nhiều.
Thua, dĩ nhiên. Tiền ăn, tiền học và đôi khi cả áo thế, giày ban, ô lục soạn,
nướng hết. Thỉnh thoảng ông đành phải bắt bồ với mấy bà nhiều tuổi, kém nhan sắc
nhưng lại lẳng lơ, để lấy tiền xài. Bắt địa của gái được đồng nào cũng nướng hết.
Cha tôi thua bạc dữ lắm, thua đến độ cô cháu ông bà chủ gá bạc đâm ra thương
xót ái ngại. Cô bé cũng chẳng đẹp đẽ gì, thân hình gầy ốm, tay dài như tay vượn,
đôi môi héo hắt thỉnh thoảng nở một nụ cười buồn rầu – những lúc cao hứng, cha
tôi thường kể lại cuộc tình này của ông – Ở, má tôi có hai cánh tay dài nghêu,
và thường khi hai cánh tay đó rất đắc dụng: chúng vươn ra nhặt xâu dễ dàng những
khi người phải thay hai bác để làm cái công việc lấy xâu. Má tôi vốn hiền lành,
ít nói, nhưng lấy xâu rất thông thạo. Xì phé, nhà chủ thường lấy năm phần trăm.
Má tôi tính xâu rất lẹ và chính xác, ngay cả trong những ván bài cực kỳ gay cấn,
các con bạc tố đi tố lại ào ào như bão táp.
Chiều hôm đó, như thường lệ, cha tôi thua hết tiền. Thua riết đâm quen, người
bước ra khỏi cửa sòng với vẻ bình tĩnh. Bình tĩnh nhưng buồn bã, dĩ nhiên. Có
ai thua bạc mà vui được. Đi khỏi cửa chừng năm chục thước; cha tôi thoáng nghe
thấy có tiếng người gọi tên mình: "Anh Trác! Anh Trác!". Tiếng gọi thất
thanh, rất êm. Cha tôi quay lại. Cô cháu gái ông bà chủ sòng đang đứng trước cửa,
đưa cánh tay dài lêu nghêu lên vời "anh Trác". Cô ta mặc quần dài đen
áo cánh trắng, đứng giữa hoàng hôn, một buổi hoàng hôn đầu thu, tiết trời hơi
lành lạnh. Vầng mặt trời sắp lặn chiếu một làn ánh sáng êm dịu vào cô bé, khiến
thân hình cô ta sáng hẳn lên, và chung quanh người cô được viền bằng một ánh
hào quang. Gã thanh niên thua bạc bỗng thấy lòng mình ấm áp hẳn lên. "Anh
Trác!" tiếng gọi rất thanh, rất êm, có mãnh lực của một sự an ủi đầy công
hiệu. Và anh Trác quay lại. "Anh để quên cái ví này!". Chắc hẳn đôi
môi cha tôi lúc đó đã nở một nụ cười ngượng nghịu và biết ơn. Cái bóp phơi lẹp
kẹp, trong đó chỉ còn tấm thẻ tùy thân và vài thứ giấy má lặt vặt. Anh Trác giơ
bàn tay đỡ lấy nó từ bàn tay thiếu nữ. Vô tình hai bàn tay họ chạm vào nhau. Bộ
mặt xanh xao của thiếu nữ bỗng hơi đỏ lên. Nàng ngoảnh nhìn chỗ khác và đôi mắt
nàng chớp chớp. Nàng móc túi lấy ra một đồng bạc, e dè đưa cho anh Trác:
"Lúc nãy, anh quên chưa lấy tiền về xe. Anh cầm lấy một chút đi!"
Quả thật, lúc ấy cha tôi đang cần đồng bạc ấy lắm, nhưng, như cái máy, ông từ
chối:
"Thôi, cám ơn cô Loan, tôi cũng còn…"
"Không, anh cứ cầm lấy đi cho… Loan vui lòng…" Tiếng nói của nàng run
run, đôi mắt nàng chớp chớp nhiều hơn, chớp luôn cả một đời anh Trác vào cuộc đời
nàng. Anh Trác thôi không còn nói năng màu mè gì nữa. Anh cầm lấy đồng bạc.
Chừng nửa tháng sau, cô Loan tay vượn đó bỏ nhà bác ruột về ở với anh Trác. Họ
yêu nhau thương nhau – yêu thương ghê lắm, có lẽ thế – để rồi đẻ ra tôi.
Ngoài kia, mưa bay lất phất. Đường sá quận Ninh Hòa vắng ngắt, thỉnh thoảng mới
có một chiếc xe hàng chạy qua. Ở quận đường bên kia, lá cờ ba sọc đỏ đứng ủ rũ
dưới trời mưa. Anh lính gác quận đứng im lìm như một pho tượng.
"Có mấy người mách với tao là dạo này mày đam mê quân bài lá bạc lắm phải
không? Coi mày gầy yếu, xanh xao quá. Cẩn thận, giữ sức đấy. Gắng mà chừa đi, đừng
bài bạc nữa. Cái tính mày bừa bãi ngông nghênh như vậy không đánh bạc được đâu.
Đừng bê tha nữa!"
Người tôi sững sờ. Tôi hơi ngạc nhiên. Cha tôi mà lại nói như vậy sao? Bây giờ
người đã già yếu, phong độ cũ không còn nữa ư? Thời kỳ tôi mười chín hai mươi,
đang sửa soạn thi Tú tài, cha tôi đã đôi lần bắt gặp tôi khoác tay một đứa con
gái nào đó đi dạo phố. Những vụ như thế khiến cha tôi khoái lắm. Có lẽ ông quan
niệm tôi phải là một thứ Don Juan như vậy mới đáng là con ông. Một lần có người
phê bình ông về cặp mắt tôi, y bảo tôi có cặp mắt đẹp và đa tình. Lúc ấy tôi có
đó. Nghe y nói, cha tôi cười phá lên với vẻ đắc thắng. Đôi mắt con trai ông giống
đôi mắt ông chứ còn gì nữa. Một ông bố như vậy mà sao ngày nay lại thốt ra những
chuyện tầm thường cằn cỗi đến thế. Quả thật, trên các chiếu bạc, tôi đã nhiều
phen bị các đối thủ quật lên quật xuống đến dở sống dở chết. Đời tôi tàn mạt,
xác xơ, nợ nần như chúa Chổm. Nhưng tôi không thể chấp nhận cho cha tôi thốt ra
những lời khuyên can như thế. Ai kia thì nói như vậy được chứ cha tôi không thể
nói những câu đó. Ông mà cũng xài những sáo ngữ như vậy sao? Một cơn giận mơ hồ
dâng lên trong người tôi khiến tôi hơi khó thở, nhưng đột nhiên lòng tôi dịu hẳn
lại, cơn giận vụt biến tan khi cha tôi tiếp lời:
"Nhưng tao biết mày sẽ không chừa được. Mày có máu của tao trong người mà.
Mày hay chơi thứ gì?"
"Thì cũng giống với thầy" – tôi quen gọi bố tôi bằng thầy – "con
chỉ ưa đánh xì phé".
"Xì phé hả?" Đầu cha tôi khẽ gật gù. "Mày nhẹ dạ nông nổi, chơi
xì phé không hợp. Phải luyện tính cho đằm. Đừng có háu đá. Háu ăn háu đá là
tính nết của lũ ngựa non, lũ dê non. Đừng thương đôi, thương xì, thương tây,
thương đầm gì hết. Nếu thấy lợi thế thì dù có phải tung hết láng cũng làm ngay,
không được do dự. Thế bất lợi, phải bỏ bài, không được tiếc. Mày có biết chuyện
con gà chọi mà cái ông vua thời xưa nào đó đã giao cho ông Kỷ Sảnh, Kỷ Siếc gì
đấy chăm nom om bóp không?"
Tôi giật mình. Trời đất ơi, bố tôi dạo này lại để ý tới chuyện đời xưa nữa! Tôi
có thấy ông đọc sách vở bao giờ đâu. Năm thì mười họa mới thấy ông hỏi tới quyển
Kiều, trong đó có hai câu ông rất thích nên mỗi khi cao hứng thường vẫn gõ ống
xe điếu đánh vào vành bát điếu mà ngâm nga:
Dầu cho sông cạn đá mòn,
Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ
Hôm nay ông lại có thêm cái truyện Kỷ Sảnh nuôi gà chọi. A, hẳn ông phải khoái
câu chuyện này lắm nên ông mới mất công nhớ nó. Tôi đã đọc truyện này trong
sách Cổ học tinh hoa. Nhưng tôi im lặng không trả lời.
"Thì có một ông vua thích chơi gà chọi" – cha tôi kể – "Ông ta mới
mua được một con gà hay và giao gà cho một viên quan hầu chăm sóc, sửa soạn cho
nó ra đấu trường. Được một tuần lễ gì đó, vua hỏi: "Mang gà đi chọi được
chưa?". Quan hầu trả lời đại khái: "Tâu đức vua, chưa được vì gà còn
nhiều kiêu khí, chưa trông thấy gà nào mà đã hục hặc muốn đánh nhau". Một
hai tuần lễ sau vua lại hỏi xem gà đã chọi được chưa. Quan hầu trả lời: vẫn
chưa chọi được, vì gà tuy đã bớt kiêu khí nhưng vẫn còn háo chiến lắm, chỉ mới
thản nhiên được lúc không có gà nào trước mắt, chứ chưa giữ được bình tĩnh khi
gặp gà khác. Ít lâu sau vua hỏi lần thứ ba. Lần này quan hầu trả lời có thể đem
gà ra đấu trường được rồi, vì gà lúc này cực kỳ bình tĩnh thản nhiên ngay cả
khi có gà khác trước mặt. Trông nó như bất động chẳng khác chi gà bằng gỗ,
nhưng thật ra có đầy dũng lực, hễ đánh tất phải thắng. Và quả nhiên, gà ấy thắng".
Cha tôi cười rất tươi, rít một hơi thuốc lào thật dài, có vẻ đắc ý. Ông nói tiếp:
"Kẻ chơi xì phé nếu muốn thắng, phải luôn luôn bình tĩnh thản nhiên như
con gà chọi ấy. Nhưng chiến lược hay nhất vẫn là đứng ở trên mái nhà mà đái
(sic) xuống, chứ đừng có đứng dưới đái vọt lên. Cứ nước thượng mà chơi. Tuy
nhiên cũng phải dám tháu cáy. Sửa soạn tính toán thật kỹ rồi hãy tháu, đừng có
tháu láo. Đánh xì mà không tháu cáy thì kể như chưa biết chơi xì. Mà đã biết
tháu cáy thì lại phải biết bắt tháu cáy. Tính cho ra lẽ rồi nếu cần bắt là bắt,
ở giữa có nhiều tiền hay ít tiền, cũng cứ bắt là bắt. Nhằm ăn số tiền nó tháu
cáy hơn là nhằm ăn số tiền đã đánh. Hờ, hờ, nói ra thì nhiều lắm, phức tạp lắm,
phải tùy thời, tùy thế, tùy cơ hội, tùy đối thủ, nhưng đại để thì như thế đó.
À, mày thường chơi cóc hay chơi đĩa".
"Chơi đĩa. Chơi cóc lôi thôi quá, móc bài ra đút bài vào mất thì giờ nên
ít nơi chịu xài cóc".
"Không được. Chơi chỗ quen biết thì đánh đĩa còn khả thủ. Chứ chỗ lạ hoặc
chưa quen biết lắm thì phải có cóc mới được. Thiên hạ chúng nó giỏi vẽ bùa lắm.
Lối đòn ấy rất thông dụng. Nào cạo, nào gọt, nào bấm, nào uốn. Nhiều trò lắm,
con ơi. Không có cóc, rất nguy hiểm. Mày phải nghe lời tao. Gặp chỗ lạ phải chịu
khó cô bài, thấy thằng nào có thái độ khang khác mình phải theo dõi nó ngay, và
nhất là phải đánh bằng cóc. Con ạ, phải nghe lời thầy, khi gặp chỗ lạ phải đặt
được con cóc vào rồi hẵng chơi. Không có cóc hãy rút lui ngay, dẫu có thèm chơi
đến mấy cũng phải dằn lòng lại".
Tới đây, cha tôi gọi thằng nhỏ:
"Này, Quế ơi, Quế ơi! (Tiếng dạ của thằng nhỏ). Lên đây ông bảo (Quế thò đầu
lên). Mang cái tráp ra đây cho ông".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét