Phôi thai từ Đông Dương Tạp Chí với những bài giới
thiệu sách mới, thành hình trên Nam Phong Tạp Chí với những bài phân tích và
bình giảng văn cổ hay giới thiệu sách vở ngoại quốc, văn phê bình Việt Nam,
ngay từ thế hệ 1913-1932, tương đối cũng đã xây dựng được những cơ sở vững
chắc. Nhưng nó chỉ thực sự đi vào con đường thịnh hành từ sau năm 1932.
Như bị gò
bó, dồn ép trong bao nhiêu lâu, lòng người trước làn gió mới như được mở tung
ra. Người ta bắt đầu phê phán, tỏ thái độ trước mọi vấn đề, không bỏ lỡ bất cứ
một cơ hội nào. Với sự ra đời ồ ạt của báo chí, thật là một dịp tốt, một trường
sở thích hợp để các cây bút đua nhau đấu trí, bày tỏ lập trường, bộc lộ tâm
tình đối với nhau. Đặc tính của văn học thế hệ 1932-1945 là sự động đạt bằng
những cuộc tranh luận sôi nổi giữa các phe nhóm.
Không
phải trước đây không có những cuộc tranh luận. Thực ra, lịch sử văn học vẫn còn
ghi nhận những cuộc tranh luận mà tôi gọi là vụ án chữ Hán xảy ra giữa Nguyễn
Háo Vĩnh và Phạm Quỳnh, hay vụ án truyện Kiều bùng nổ giữa Phạm Quỳnh và Ngô
Đức Kế ... Ngần ấy thứ, dầu sao, cũng chỉ là những thái độ cá nhân với cá nhân,
chứ chưa được cấu kết thành những mặt trận có chiến tuyến rõ rệt.
Đà tiến
của văn phê bình, như vậy, là thấp kém thua hẳn các thể văn khác. Phải chăng vì
thái độ nghi kỵ và e dè có từ ngàn đời? cái tâm lý đó ngay năm 1933, hãy còn
chưa gột rửa hết được. Trên báo Đông Thanh, số 16 ra ngày 15 tháng 2 năm 1933,
nhà học giả Nguyễn văn Tố có viết:
"Nhiều
người cho nhà bình phẩm là một kẻ đố kỵ, tự mình không làm được gì, thấy người
làm sách đem lòng ghen ghét; không thì cũng là người xét đoán thiên lệch vì tính
chất và cái thị hiếu riêng của mình nó bó buộc: hễ thấy cái gì mình không ưa
thì nhất thiết bài bác cả. Ý kiến ấy có lẽ đối với lối "cảm giác phê
bình" thì có phần đúng, mà đối với lối "Khoa học phê bình" thì
thật là sai. Sự học vấn ngày nay càng ngày càng coi như cái kết quả của công
phu nhiều người. Đời bây giờ không phải là đời người học giả có thể tự cao đứng
đặc biệt một mình mà xướng ra những học thuyết cao kỳ không cần đối chiếu xem
có hợp với sự thực không, miễn là phô diễn ra lời văn xán lạn thì thôi. Các nhà
làm sách nước Pháp có trí thông hiểu hơn, biết rằng trong sự học cốt nhất là
phải sưu tập lấy nhiều sự thực, nghiên cứu khắp các phương diện, rồi cái triết
lý tự khắc nó suy diễn ra. Muốn sưu tập nghiên cứu như vậy, thì cần phải có
nhiều người gia công học tập người nọ giám đốc người kia, ai sai lầm chỗ nào
thì chỉ trích ra, ai phát minh điều gì tuyên bố lên. Như vậy thì mỗi người vừa
là nhà làm sách, vừa là nhà bình phẩm, như thế tức là một cách giúp cho đường
học vấn mỗi ngày một tấn tới lên".
Mấy dòng
trích trên đây cho ta thấy, ngay đối với Nguyễn Văn Tố, ông cũng chỉ chấp nhận
giá trị phê bình khoa học, áp dụng vào việc tìm tra các tài liệu, chứ thực ra
phê bình nghệ thuật xét cho cùng chỉ là công việc của hạng người không làm nổi
công việc sáng tác và phê bình, rút cục, cũng chỉ là công kích chê bai cái mà
mình chẳng có thể thưởng thức nổi, chứ phê bình đâu có phải là một lối thể hiện
sự thưởng thức, thông đạt sự thưởng thức và càng không phải là một niềm cảm
thông giữa hai tâm hồn hay một công trình sáng tạo.
Nhưng,
tương đối, từ sau năm 1932, tình trạng đó dần dần cũng có thay đổi. Cái khối
người đông đảo bấy lâu tự nhận là phái tân học và dư luận quốc dân cũng nhận
như vậy, nay bỗng nhiên bị một lực lượng mới hơn chụp cho cái mũ "cựu học".
Trên Phong Hóa số 18 ra ngày 20 tháng 10 năm 32, Nhất Linh đã viết: "Vì
thế trong bọn cựu học", có ông Phạm Quỳnh đề xướng thuyết trung dung giữ
lấy cái hay của Đông phương, thu lấy cái hay của Tây phương, dung hòa hai cái
văn hoá, gầy dựng lấy một nền văn minh riêng, cái mộng tưởng ông Phạm Quỳnh là
ở đấy".
Xã hội
văn học Việt Nam, khoảng hai ba năm đầu thế hệ 1932, chia hẳn ra làm hai khối
rõ rệt. Tôi tạm gọi là khối A, khối của tất cả những người thuần cựu học như
các ông Dương Bá Trạc, Nguyễn trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến, Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Đôn Phục, Lê Dư, Phan Khôi... và của một số rất đông
đảo những người bấy lâu vẫn tự xưng ra tân học mà nay bị kết án là cựu học như
các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn văn Vĩnh, Phạm Quỳnh... Khối A, tức khối của
những người mệnh danh là cựu học, toàn thể đều là những người chủ trương hay
viết thường xuyên cho các báo bấy lâu rất được dư luận quí mến, tôn trọng như
là những cơ quan phổ biến, tuyên truyền cho văn hoá mới. Đó là trường hợp các
báo như Đông Dương Tạp chí (1913), Nam Phong Tạp chí (1917), Hữu Thanh Tạp chí
(1921), An Nam Tạp chí (1926), Rạng Đông (1929), Tiếng Dân (1927), Phụ Nữ Tân
văn (1929), Đông Phương (1929), Nhựt Tân (1929), Phụ Nũ Thời đàm (1930), Tiểu
Thuyết Tuần san (1931), Khoa Học Tạp chí (1931), Đông Thanh Tạp chí (1932), Văn
Học tạp chí (1932).
Tôi tạm
gọi là Khối B, khối của phe nhóm Tuần báo Phong Hoá, tức Tự Lực Văn Đoàn. Đây
là một văn đoàn đầu tiên có chủ trương thuần nhất, liên tục, có tổ chức đàng
hoàng, chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm nhặt ràng buộc hội viên, có cơ quan ngôn
luận riêng biệt, với mục tiêu đã được chỉ định minh bạch, có chương trình hoạt
động được nghiên cứu kỹ lưỡng và được phân công rất thích đáng với tài năng của
mỗi hội viên.
Lực lượng
của khối B này không có đông đảo gì cho lắm, nhưng tất cả đều có tài cán và
được giao những công tác thuộc đủ mọi ngành nghệ thuật: Khái Hưng, Nhất Linh
viết nghị luận rất nhiều nhưng chuyên nhất về tiểu thuyết; Hoàng Đạo, Thạch
Lam có viết tiểu thuyết nhưng hoạt động chính là viết xã thuyết; Thế Lữ viết
truyện hay, soạn kịch cũng khéo, phê bình có tài nhưng là kiện tướng trong làng
thơ mới; Tú Mỡ thì thiên hẵn về thơ khôi hài; Nguyễn Gia Trí thì chuyên giữ
mục hí họa và trình bày tờ báo.
Tất cả
đều trẻ, có tài, lại được chỉ huy do những chương trình đã hoạch định kỹ lưỡng,
thành phần của lực lượng khối người mới cấp tiếng này gặt được thành công ngay
từ buổi đầu.
Phải
chăng vì thế mà ngay từ lúc mới thành lập, Tự Lực Văn Đoàn đã khai chiến quyết
liệt với lực lượng khối cựu học, hay ít ra bị coi là cựu học.
Hầu hết
các nhà văn tên tuổi của thế hệ trước đều bị khối Phong Hoá chế diễu; toàn bộ
các báo, ngoại trừ báo Phong Hoá, đều bị khối Phong Hoá bêu xấu.
Nói cách
khác, văn phê bình từ 1932 đến cuối 1934 là văn phê bình của hai khối A và B,
tức văn phê bình của tất cả các nhà văn không thuộc nhóm Phong Hoá với các nhà
văn của khối Phong Hoá, tức Tự Lực Văn Đoàn.
I - Đặc
tính của khối A, tức khối bị coi là cựu học
- Thành
phần rất phức tạp. Không phải những cây bút cộng tác với khối này không có
những cây bút mới, trẻ, có tư tưởng cấp tiến, nhưng có thì có đấy, thường khi
lại là con số đông hơn cả bên Phong Hoá, khốn nỗi bọn họ lúc này lẻ loi, độc
lập, chưa qui tụ thành đoàn thể: đó là trường hợp các cây bút như Thiếu Sơn,
Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm, Trương Tửu, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư, Lan
Khai, Hoài Thanh, Nguyễn Công Hoan, Hải Triều... Các ông không chuyên mục cho
hẳn một tờ báo nào, và các ông càng không có quyền lực gì đối với đường lối của
các tờ báo mà các ông cộng tác.
Ngược
lại, đa số các cây bút giữ vai trò lãnh đạo, hay chủ biên của các tờ báo đều là
thuộc thành phần cũ, nghĩa là thuộc thế hệ trước, tức thế hệ 1913-1932, cái thế
hệ còn đang mơ say việc xây dựng một nền văn hoá dung hợp được cả Đông lẫn Tây
: đó là trường hợp các ông Phạm Quỳnh, Nguyễn văn Vĩnh, Hoàng Ngọc Phách, Đông
Hồ, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn văn Tố, Ngô Tất Tố, Nguyễn trọng Thuật, Dương Bá
Trạc, Lê Dư, Trần Trọng Kim, Dương Tự Quán, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Khắc Hiếu, Đỗ
Thận, Phan Khôi, Bùi Kỷ, Nguyễn Công Tiễu, Huỳnh Thúc Kháng...
- Cơ quan
ngôn luận của các ông, xét về lượng, thật là đông đảo. Có những người làm báo
trên dưới hai mươi năm, như các ông Nguyễn văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu
Tiến, Nguyễn Đôn Phục, Trần Trọng Kim; có những tờ báo xuất bản trên dưới mười
năm như Trung Bắc Tân Văn, Nam Phong, An Nam Tạp chí. Nhưng cái kém của tất cả
các tờ báo này là kỹ thuật làm báo chưa được cải tiến canh tân, từ cách trình
bày cho đến nội dung bài vở, đều cổ lỗ, trịnh trọng, đài các. Thực vậy, trong
khi lớp người trẻ đang khao khát những cái mới lạ thì mấy tờ báo của khối A này
đều chỉ để tâm làm công việc khảo cổ, viết những bài nghiên cứu rất xa xôi,
không ứng đáp những khát vọng mới lạ của tuổi trẻ mà cũng chẳng phải là những
công trình khám phá có giá trị gì cho lắm. Đó là trường hợp của Nam Phong Tạp
chí còn kéo dài thêm hai ba năm, của An Nam Tạp chí, Rạng Đông,Tiếng Dân, Phụ
Nữ Tân Văn, Đông Phương, Nhựt Tân, Phụ Nữ Thời Đàm, Tiểu Thuyết Tuần san, Khoa
Học Tạp chí, Đông Thanh Tạp chí, Văn Học Tạp chí ...
- Văn của
khối A này hãy còn là lối văn dềnh dàng, trịnh trọng, đọc lên nghe rất kêu mà
nội dung thì hoặc là trống rỗng hay có khi còn mâu thuẫn, phi lý là khác.
- Với tất
cả ngần ấy thứ, lập trường của khối A hầu như là muốn sống yên ổn, hoà hoãn với
cái đang có. Nói vậy chẳng phải bảo khối A này không muốn tiến, nhưng chủ
trương của họ là tiến hoá trong trật tự, tiến mà không gây xáo trộn, không phá
phách, không đoạn tuyệt, không dứt khoát với những cái mà các ông cho là quốc
hồn quốc tuý...
II - Đặc tính của khối B, tức khối cấp tiến.
- Thành
phần của khối cấp tiến, tuy ít, nhưng thuần nhất, tự đặt mình vào những kỷ luật
chung, có sự kiểm soát chặt chẽ; đàng khác, họ toàn là người mới, trẻ, thường
xuất thân từ các trường Đại Học, hay Cao Đẳng ở trong nước hay ngoại quốc. Đó
là các ông Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ ...
- Cơ quan
ngôn luận là tờ báo Phong Hoá và, sau này, là tờ Ngày Nay, đều là những tờ báo,
về mặt kỹ thuật, tổ chức Toà Soạn, nghệ thuật trình bày, về nội dung bài vở...
nhất thiết đều mới mẻ, nhẹ nhàng, vui tươi, thích thời ...
- Lập
trường không còn phải cái thứ lập trường hoà hoãn nước đôi. Họ muốn tiến với
bất cứ giá nào, dầu phải tàn nhẫn, phải đập phá, phải chém giết... Mà thực họ
đã tàn nhẫn với tất cả cái gì mà họ coi là cũ, họ đập phá tất cả cái gì mà họ
cho là ngáng trở bước đi tới của họ, và lắm khi họ chẳng ngại đổ máu để giật
phần thắng lợi.
- Văn của
họ rất độc đáo, họ khởi xuất một lối văn mới mẻ, đơn sơ, bình dân, dễ hiểu, vui
tươi..
Với ngần
ấy thứ khí giới, họ lập mặt trận và tuyên chiến với tất cả học giới đương thời.
Trong
những mục hoặc như Mực Tàu Giấy Bản, hoặc như Từ Nhỏ
đến Nhớn hoặn như Bàn Ngang, hoặc như Từ Cao
đến Thấp, hoặc như Giòng nước ngược hoặc như Cuộc
Điểm Báo thật là những nơi dụng võ thường xuyên của các cây bút như
Tứ Ly Hoàng Đạo, tức Nguyễn Tường Long, như Nhất Linh, Nhị Linh, Tam Linh, Tứ
Linh, tức Nguyễn Tường Tam, như Tú Mỡ, tức Hồ Trọng Hiếu, như Thạch Lam tức
Nguyễng Tường Lân, như Lê Ta, Thế Lữ, tức Nguyễn Thứ Lễ...
Chẳng có
một số Phong Hoá nào mà chẳng có một vài nhà văn, nhất là nhà văn thuộc thế hệ
trước, bị đem ra chế diễu. Lối phê bình của Phong Hoá, qua các mục nói trên, về
các nhà văn đàn anh, thường là lối phê bình châm chọc, chế diễu, thuộc đời tư
hơn là lập trường văn nghệ. Nếu có lúc nào bọn họ đem lập trường văn nghe äcủa
phái già ra mà mổ xẻ, thì cũng chỉ là để chê bai là cổ lỗ, thoái hoá, không hợp
thời nữa. Chứ ít khi họ đánh thẳng vào lập trường như là lập trường mà thường
thường họ đi tìm ở bọn đàn anh của họ một ít lối sống, một đôi thái độ, một vài
cử chỉ họ cho là kỳ cục, thế rồi họ dùng tài thuật châm biếm, hài hước, chế
diễu con người của đối thủ hơn là chính nghệ thuật của đối thủ.
Đối với
Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh, ngay từ lúc bắt tay vào làm số Phong Hoá đầu
tiên tức số 14 ra ngày 22-9-1932, trong bài Phong Dao mới, Phong Hoá đã chế
diễu ông Vĩnh béo núng rung rinh và ông Quỳnh gầy lểu đểu như hình cò hương rồi
kết án hai ông là phường buôn văn bán chữ mà thành giàu có. Đó chỉ là một trong
hàng trăm thí dụ về việc Phong Hoá chế diễu hai ông Phạm Quỳnh và Nguyễn văn
Vĩnh.
Nhưng
chẳng hiểu sao lại có hai nhân vật bị Phong Hoá liên miên đem ra chẳng phải để
chế diễu suông mà còn để chửi bới lải nhải suốt cả mọi số báo, đó là trường hợp
các ông Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Khắc Hiếu.
Phong
Hoá, chẳng hạn, ví văn của HoàngTăng Bí khó tiêu như trứng vịt (Phong Hoá số
29, trang 5), và nhìn họ Hoàng như một người mang bệnh nan y " Bệnh chỉ
trông thấy cái đẹp của Nho Giáo. Bệnh của Cụ Bảng Hoàng nghe trầm trọng lắm, Cụ
nên tìm thuốc chữa đi thôi" (Phong Hoá số 28, trang 5),
Còn Tản
Đà, trước con mắt Phong Hoá, chi là một anh say rượu, say khướt lướt:
Anh lên
giọng rượu khuyên Phong Hoá
Sặc sụa hoi men khó ngửi quá
(Phong Hoá số 28 ; trang 5)
Sặc sụa hoi men khó ngửi quá
(Phong Hoá số 28 ; trang 5)
Nhưng không ở đâu Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Khắc Hiếu được mô
tả một cách tồi tàn, gàn dở, quê kệch, nhất là đê hèn như trong vở "Tuồng
cổ tân thời" (Phong Hoá số 38, 39, 40, 41, 42). Nơi đây Hoàng Tăng Bí và
Nguyễn Khắc Hiếu được mô tả như là một lũ mọi đang lập cơ mưu một cách rất buồn
cười để tấn công thành trì kiên cố, tối tân của Phong Hoá.
Bà Tương
Phố được nêu lên như là một gương điển hình về lối văn rỗng tuếch: một bài
"Giọt lệ thu" chỉ có không đầy bốn trang mà có 61
chữ vừa Than ôi ! vừaÔi ! vừa Lệ " (Phong
Hoá số 29).
Diễn giả
Lê Dư được mô tả như là một anh hát trống quân lẩm cẩm trong bài "Ông Lê
Dư, còn nói truyện văn chương không phải là cái bánh" (Phong Hoá số 75).
Nguyễn
Trọng Thuật là một tay cừ khôi đã từng chiếm giải thưởng văn chương với tác
phẩm "Quả dưa đỏ", vậy mà nay Phong Hoá, trong bài "Nhà
Nho tương lai" (Phong Hoá số 108) đã vẽ Nguyễn Trọng Thuật như là đồ ngu
dốt chưa biết chấm câu. Tứ Ly đã lấy thí dụ một ông thanh tra bảo một ông Xã là
con lừa mà ám chỉ ông Nguyễn Trọng Thuật cũng là đồ con lừa.
Nhưng
trong các bài chửi bới, chế diễu các nhà văn ở ngoài Phong Hoá, có mấy bài đáng
chú ý. Bài thứ nhất đề là "Tuồng cổ tân thời", hài kịch, hai hồi,
đăng liền trên năm số Phong Hoá từ số 38 đến hết số 42. Những nhân vật được đem
ra chế diễu gồm có Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn văn Vĩnh, Dương Bá
Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Nguyễn Tiến Lãng, Việt An, Lê Công Đắc, Trịnh Đình Rư,
Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn văn Tố, Hy Tống...
Bằng ấy
nhân vật được mô tả như đang thành lập một sào huyệt mà Đảng chủ là Hoàng Tăng
Bí với hai tên tham mưu hèn nhát là Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn văn Vĩnh. Bộ ba
này muốn tấn công Phong Hoá mà không dám bèn bày cái trò ẩy chó bụi rậm, sai
khiến bầy lâu la là những Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Nguyễn Tiến Lãng, Lê
Công Đắc, Trịnh Đình Rư, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn văn Tố, Hy Tống. Thật là
một cuộc bày binh bố trận đàng hoàng, trịnh trọng nhưng buồn một nỗi là bầy lâu
la toàn là "kẻ thì chỉ biết lạy như cốc đế, kẻ thì quen khóc lóc như ri,
ngẫm ba quân tiết lộn mề". Bởi vậy cho nên, dầu chưa lâm trận nhiều anh
đã chạy trốn. Kết cục quân của bè lũ Hoàng Tăng Bí bị đại bại, bị quân Phong
Hoá bắt trói hết cả.
Bài thứ
hai là bài "Hội nghị Văn học", Phong Hoá số 71, tác giả vẫn là Tứ
Ly như bài trên. Tứ Ly tả phòng hội: "Một gian phòng. Một cái bàn dài
phủ dạ xanh, chung quanh các ông hàn ngồi, trước mặt mỗi người có một cặp sách.
Ăn vận theo lối các hội viên viện Hàn Lâm bên Pháp, chỉ khác có cái mũ thổ công".
Đây là
một Hội nghị Văn học, được tổ chức bắt chước như Hàn Lâm Viện của Pháp. Người
đứng ra triệu tập và giữ chức Chủ tịch là Huỳnh Thúc Kháng. Hội viên gồm có các
ông Hoàng Tăng Bí, Phạm Lê Bổng, Dương Bá Trạc, Phan Khôi, Nguyễn Công Tiễu,
Nguyễn Khắc Hiếu, Dương Tự Quán, Lê Cương Phụng, Lê Dư, Trúc Đỳnh, Đỗ Văn, Tùng
Vân, Mai Đăng Đệ. Bây giờ các ông hội họp nhau không phải để bày mưu kế diệt
Phong Hoá mà để tranh dành nhau, người nào cũng sốt sắng hiến cho hội cái tờ
báo đang ngấp ngoải của mình. Ai nói thì người ấy nghe, cho nên khi ông Tùng
Vân là người cuối cùng nói thì "các ông hàn lần lượt ngủ dần hết đến bây
giờ vẫn còn ngủ, lay thế nào cũng không dậy nữa".
Bài thứ
ba đề là "Non Bộ Phong Hoá" Phong
Hoá số 125, là một bài thơ dài 84 câu. Tú Mỡ, với những vần thơ dí dỏm, chửi xỏ
hầu khắp mặt mọi người:
Tản Đà
tửu sĩ thảnh thơi ngồi
Hũ to hũ nhỏ bầy la liệt.
Hũ to hũ nhỏ bầy la liệt.
Đỗ Thận thì :
"
Một hang thăm thẳm trông lồng lộng
Bia tạc " Khâm Thiên dệ nhất động "
Đỗ Thận tiên ông ấy chủ nhân
Luyện đàn tinh nhảy và ... ôm xống.
Bia tạc " Khâm Thiên dệ nhất động "
Đỗ Thận tiên ông ấy chủ nhân
Luyện đàn tinh nhảy và ... ôm xống.
Nguyễn văn Vĩnh thì được vẽ như anh thầy bói. "Vắng
khách, buồn tênh thầy tướng Vĩnh".
Gọi lối
kể truyện của Dương Bá Trạc "Rai như chão rách đến bao chừ?".
Để thêm
tài liệu, các bạn có thể tìm đọc những bài chửi Dương Bá Trạc ở Phong Hoá số
120, chửi Nguyễn Tiến Lãng, Phong Hoá số 105, số 137 ; chửi ông Lê Dư ở báo Tân
Thiếu Niên, Phong Hoá số 112 ; chửi Thái Phỉ của Ngọ Báo, Phong Hoá số 110,
chửi Nguyễn Khắc Hiếu ở bài "Ba người nói rằng", Phong
Hoá số 115, chửi Nguyễn Vỹ của bài Tập thơ đầu, Phong Hoá số 127; chửi ông Vũ
Bằng ở bài "Cùng ông Tiêu Liêu Vũ Bằng", Phong Hoá số 60.
Chẳng
những đánh từng cá nhân, mà Phong Hoá còn đánh phủ đầu hầu khắp lượt các tờ báo
đương thời mà họ chê là làm việc dốt nát, là viết văn cổ lỗ, là tư tưởng thoái
bộ...
Trong bài
"Báo giới với Xã Hội An Nam" (Phong Hoá số 40), Tứ Linh cho rằng
báo chí chưa có ảnh hưởng gì đối với xã hội...
Tôi tạm
kể ra đây cho các bạn ít bài tiêu biểu về lối Phong Hoá chế diễu, chửi bới các
báo: Tú Mỡ chửi Trung Bắc Tân Văn trong bài Phong Dao Mới (Phong Hoá số 64);
Tú Mỡ chửi An Nam Tạp chí trong bài "Văn tế Phong Hoá tuần báo viếng An
Nam Tạp chí " (Phong Hoá số 56) ; Thạch Lam, trong bài "Cái túi khôn" (Phong Hoá số 111), công kích Tiểu thuyết Thứ bảy ; Việt Sinh chửi
báo Rạng Đông, nơi bài Bức Tranh Vân Cẩu (Phong Hoá số 70) ; Tứ Ly cũng chửi
Rạng Đông, nơi bài báo Rạng Đông (Phong Hoá số 56) ; Thạch Lam chửi báo Nhật
Tân ở bài Sự thông thái của báo Nhật Tân (Phong Hoá số 105) và bài Ai ngủ, ai
thức (Phong Hoá số 104). Báo Tiếng Dân thì bị Ngộ Không chửi ở bài Báo Tiếng
Dân bá cáo (Phong Hoá số 78), bị Lê Ta chửi ở bài " Lũ mọi, người nhà quê
ăn muối " (Phong Hoá số 92), bị Thạch Lam chửi ở hai bài Câu chuyện con
voi (Phong Hoá số 99) và bài Cuộc Điểm báo (Phong Hoá số 101).
Phan Khôi
và Phụ Nữ Tân văn bị Tứ Ly đem ra chế diễu trong bài Trẻ con hay người lớn
(Phong Hoá số 75). Nhưng xem ra báo Đông Phương là bị chế diễu nhiều nhất, do
Nhất Linh, trong bài " Loài nhai lại" (Phong Hoá số 51), do Thạch
Lam, nơi bài Cuộc điểm báo (Phong Hoá số 126 và số 127), do Tứ Ly nơi bài
" Thái độ quân tử của báo Đông Phương" (Phong Hoá số 35) và bài Cố
lên báo Đông Phương (Phong Hoá số 35) do Nhát Dao Cạo nơi bài " Hoa giấy
trong lọ văn" (Phong Hoá số 124). Phụ nữ Thời đàm bị Tứ Ly chửi nơi bài
" Phong Hoá tờ báo trẻ con " (Phong Hoá số 74) và bài Phụ nữ Thời đàm
tiến bộ (Phong Hoá số 102), bị Tú Mỡ châm biếm nơi bài "Khóc cô Phụ Nữ
Thời đàm" (Phong Hoá số 91), bài " Cô Phụ Nữ Thời đàm lo sợ nước
" (Phong Hoá số 101), bài " Cô Phụ Nữ Thời đàm chết vờ" (Phong
Hoá số 112). Tiểu thuyết Tuần san bị Nhất Linh, Nhị Linh chửi ở bài Con Khỉ
(Phong Hoá số 55) và bài Văn vui (Phong Hoá số 55). Báo Nam Phong của Phạm
Quỳnh, đổi mới, bị đem ra chế diễu rất chua cay do Tứ Ly trong bài Quốc hồn quốc
tuý (Phong Hoá số 125) và do Tú Mỡ với bài " Phong Lãng kỳ duyên: Sự tích
ông Nguyễn Tiến Lãng chim Bà lão Nam Phong " (Phong Hoá số 117). Thạch Lam
cười Khoa học của báo Khoa Học (Phong Hoá số 129). Báo Đông Thanh bị Nhất Linh
chửi nơi bài Nghĩ lẩn quẩn (Phong Hoá số 55), bị Tú Mỡ chửi ở bài Phong dao mới
(Phong Hoá số 28). Văn học Tạp chí bị Nhất Linh, Nhị Linh châm biếm ở ba bài
"Sợ ta nhầm" (Phong Hoá số 35), "Sự thật thà trong làng báo" (Phong Hoá số 47), "Văn học quảng cáo" (Phong Hoá số 119),
và bị Nhát Dao Cạo chế diễu trong bài Hoa giấy trong lọ văn (Phong Hoá số
123). Báo Nhật Tân bị cả Thế Lữ, cả Nhất Linh, cả Thạch Lam tấn công nơi bài
Tạp phí hè (Phong Hoá số 112), bài cùng ông Đỗ Văn (Phong Hoá số 113), bài Bất
lịch sự (Phong Hoá số 131). Báo Loa thì bị chửi liên miên, nhưng ta có thể cử
ra ít thí dụ như những bài chửi rất tàn tệ của Tứ Ly, "Loa hay váy"
(Phong Hoá số 91), Lại mỹ nhân gà (Phong Hoá số 114) của Tú Mỡ, Nhắn lão Bô cả
(Phong Hoá số 94). Báo Annam Nouveau của ông Vĩnh bị Tứ Ly chửi xỏ nơi bài
"Ông Nguyễn văn Vĩnh muốn giật lùi" (Phong Hoá số 32). Báo Tạp chí
Việt bị Tứ Ly chế diễu nơi bài "Ông Hy Tống với tờ Việt Nam" (Phong
Hoá số 116).
Một ít
những bài tôi trích đọc cho các bạn nghe trên đây cho các bạn thấy Phong Hoá đã
tung ra chiến trường những chiến sĩ thời danh nhất của họ gồm có các ông Nhất
Linh, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ... để mà hạ uy tín các cây bút không
thuộc nhóm Tự Lực và hầu hết các báo ngoại trừ Phong Hoá của họ.Thái độ Phong
Hoá là thái độ kẻ lớn, là tiếng nói làm ra bộ đàn anh đối với bọn đàn em. Phong
Hoá thật ra chưa có đứng trên lập trường nghệ thuật, hay nhân danh nghệ thuật
để mà phê bình đồng nghiệp. Trái lại, hầu hết các bài đều có vẻ bêu xấu đồng
nghiệp.
III - Đặc tính của khối C chống Phong Hóa Ngày Nay.
Những
đồng nhiệp bị báo Phong Hoá công kích, bêu xấu, đông đảo vô cùng và thuộc đủ
mọi lứa tuổi, có người thuộc phái cựu học mà rất lắm người còn mới hơn cả anh
em bên Phong Hoá. Chính vì vậy mà một mặt trận mới như được liên kết lại từ năm
1934-1935 : một bên là Phong Hoá, một bên là hầu hết các tạp chí khác ; một
trận tuyến được giàn ra, gay go, kéo dài hàng mấy năm liền giữa hai khối. Nếu
từ 1932 đến 1934 là trận tuyến Phong Hoá giàn ra để đánh tất cả làng báo mà
Phong Hoá coi là cổ lỗ, thì từ năm 1934 trở đi, một sự tổng phản công của các
báo chí khác vừa mới ra đời từ năm 1934, đã liên hiệp lại để đánh thẳng vào
Phong Hoá. Thực ra, ngoài Phong Hoá hầu hết các báo từ năm 1934 trở về trước
đều nằm trong tay bọn học giả khuynh về dung hoà. Bọn trẻ, mới, viết cho các tờ
báo này đông khá lắm, nhưng chưa nắm được các tờ báo, cho nên vẫn bị nhóm Phong
Hóa coi thường. Nhưng từ năm 1934 trở đi, Phong Hóa dù trước kia có trẻ mấy, có
duyên mấy, thì lúc ấy cũng già đi nhiều rồi. Năm 1934 và các năm sau, nhiều tờ
báo mới ra đời, mà phần nhiều ban chủ trương lại là thuộc thành phần trẻ xưa
kia đã cộng tác với các tờ báo từng bị Phong Hóa chửi bới, cho nên ngày nay họ
vô tình mà liên hiệp lại để tấn công Phong Hóa. Phải chăng vì vậy mà Phong Hóa
sắp phải chết để đầu thai dưới một tên khác "Ngày Nay"???
Mặt trận
hay khối thứ ba, mà chúng ta tạm gọi là khối C này gồm có những báo như Tiểu
Thuyết Thứ Bảy (1934), Loa (1934), Hà nội báo (1936), Ích hữu (1936).
Loa là tờ
Tuần báo ra ngày thứ Năm, 15 tháng hai năm 1934. Nếu trước đây, Phong Hoá liên
miên chửi bới các báo, thì bây giờ đến lượt Loa thường xuyên sửa lưng Phong
Hoá. Loa có những cây bút phê bình nghị luận tên tuổi như Lan Khai, nhất là
Trương Tửu.
Nhưng các
bài tranh luận liên miên với Phong Hoá đều không ký tên thật mà thường để một
tên giả "Tư Húi" trong mục "Mép thợ ngói". Nếu ở Phong
Hoá, các mục " Từ cao đến thấp ", " Từ bé đến nhớn " luôn
luôn dành để chửi Loa hay các đồng nghiệp của Loa, thì cái mục "Mép thợ
ngói" là chỗ để Loa bắt loa sang mà chửi Phong Hoá. Các bạn có thể tìm
đọc ở mục Mép thợ ngói của Tư Húi các số 10, 16, 19, 20, 29, 30, 31 hay những
bài như "Sau một năm" Ký Loa, số 54, hai bài Văn tế Phong Hoá, ký
tên Khai Ánh, số 69, các bạn sẽ thấy rằng lối phê bình mà các báo dành cho nhau
chỉ tranh giành độc giả. Nếu Phong Hoá gọi Loa là váy thì Loa bảo Phong Hoá
chuyên "dòm dỏ" váy. Bài "Chính anh chàng ấy dòm dỏ... (Loa
số 29) thật là hài hước, chua cay và xỏ lá đối với Phong Hoá.
Sau Loa
ít lâu, đến lượt Tiểu Thuyết Thứ Bảy ra đời ngày mồng 2 tháng 6 năm 1934.
Tiểu
Thuyết Thứ Bảy có những cây bút cứng cát chuyên giữ mục Văn học như Nguyễn Công
Hoan, Lưu Trọng Lư, Hải Triều, Thiếu Sơn, Hoài Thanh.
Tiểu
Thuyết Thứ Bảy tiếp tay với Loa trong chiến dịch tấn công Phong Hoá. Ngoài rất
nhiều bài ngắn trả lời Phong Hoá, đáng chú ý, là hai bài ký tên Nguyễn Công
Hoan và một bài ký tên Tân Dân, tức nhà xuất bản Tân Dân.
Trong bài
Từ Cô Giáo Minh đến Đoạn Tuyệt, số 92, Nguyễn Công Hoan kết án Nhất Linh là
người gian ngoa, "không biết mình và không biết người".
Trong bài
"Lối trích văn của Phong Hoá", số 97, Nguyễn Công Hoan minh chứng
sự gian ác của Phong Hoá trong lối trích văn cốt ý xuyên tạc để hạ uy thế đồng
nghiệp.
Trong bài
Phong Hoá gièm pha chúng tôi, Nhà Tân Dân viết : " Phong Hoá càng ngày
càng xuống. Tiểu Thuyết Thứ Bảy càng ngày càng lên. Ích hữu tờ báo thứ hai của
nhà Tân Dân mới xuất bản rất được hoan nghênh .
"Ba
sự hiển nhiên ai cũng nhận thấy.
"Các ông bên Phong Hoá lo Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Ích hữu Tuần báo "truy" mất hết độc giả của các ông nên độ rày các ông hoạt động dữ ". Sau
đấy, nhà Tân Dân tố cáo thái độ Phong Hoá cố ý gièm pha đồng nghiệp.
Tờ báo
thứ ba, Hà nội báo, tuần báo ra ngày thứ Tư, số 1, ra ngày 1 tháng 1 năm 1936
là nơi quy tụ nhiều cây bút quen thuộc như Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Lệ Chi, Lê
Tràng Kiều, Nguyễn Công Hoan, Trương Tửu, Lê Thanh, Vũ Trọng Phụng...
Có lẽ
không có tờ báo nào chống đối nhóm Phong Hoá mạnh mẽ cho bằng Hà nội báo. Chẳng
mấy số Hà nội báo không có bài công kích Phong Hoá. Chỉ mới kể ra đây những bài
tiêu biểu, mạnh mẽ hơn, ta đã có thể đếm được 11 bài ký Hà nội báo, 2 bài ký
Thiện Quả, 3 bài ký Văn Tệ, 1 bài ký Nguyễn Công Hoan, 4 bài ký Lê Tràng Kiều...
Tôi kể ra đây để làm chứng những bài tiêu biểu ký tên Hà nội báo:
- Bài
"Một việc tối quan trọng trong làng văn" (H.b. số 6) tố cáo Phong
Hoá đã đưa ra "lời vu cáo hèn hạ" đối với Nguyễn Công Hoan.
- Bài Tổ
ong vỡ (H.b. số 7) đã mỉa mai gọi Phong Hoá là bầy ong, bầy ruồi vỡ tổ.
- Bài
"Cái thái độ hèn nhát của báo Phong Hoá" (H.b. số 9) kết án Phong
Hoá trả lời đồng nghiệp "bằng những câu thô bỉ, bằng một giọng hèn nhát" không đứng trên lập trường tư tưởng hay nghệ thuật để phê phán mà chỉ cố
ý bêu xấu cá nhân của đồng nghiệp một cách rất vô lý như việc Phong Hoá chửi Hà
nội báo chỉ vì ông Lê Cường, chủ trương Hà nội báo là ông chủ một nhà thuốc
lớn, một nhà in bề thế.
- Bài
"Bức thư ngỏ gửi ông Nguyễn Tường Tam", (H.b. số 11), tác giả viết: "Đối với bạn đồng nghiệp cũng như khinh những hạng người không thành
thực, nguy hiểm hèn nhát, bao giờ cũng vì một cái lợi nhỏ, một cái thù vặt, mà
có ý gieo cho người ta những mối nghi ngờ ác hại ".
- Bài
"Tội trạng báo Phong Hoá" có những câu như :
"Những
tội trạng của Phong Hoá không phải chúng tôi mới nhận thấy, hầu hết
những độc giả ngày nay là của Hà nội báo, và ngày trước của Phong Hoá đều
đã thấy cả ". Thế rồi Hà nội báo kể các tội trạng của Phong
Hoá như việc chế diễu, mạ lị người dân quê dốt nát (Lời nói thêm của Hà
nội báo số 13), như việc phê bình thiên vị, dốt nát (Bài Độc giả lượm những cái
dốt của Phong Hoá số 13).
- Khái
Hưng bị đả kích khá nặng nề trong bài "Báo Phong Hoá vu cáo hèn, ông Khái
Hưng ngụy biện" (H.b. số 13).
- Nhưng
không có số báo nào đánh Phong Hoá mạnh bằng số 15 ra ngày 15-4-1936: hai bài
trong một số báo. Trong bài thứ nhất đề " Tội trạng báo Phong Hóa",
tác giả viết: "Tội thứ ba của Phong Hóa. Dìm đồng nghiệp... Bất kỳ một
tờ báo nào mới ra, cũng bị Phong Hóa nói xỏ, nói xiên, nói châm, nói chọc, có
khi kéo cả đại đội ra để công kích. Họ công kích như vậy để làm gì? Cốt cho
đồng nghiệp lui đi, để bãi cỏ xanh chỉ còn một mình họ ăn" (H.b. số 15).
Bài thứ
hai đề "Một bức thư cùng ông chủ bút Hà nội báo" (H.b. số 15), một
độc giả Hà nội báo đã hạ những lời phê bình gay gắt về Tự Lực Văn Đoàn: "Chúng tôi là một bọn độc giả báo Phong Hóa, cũng như phần nhiều độc giả Phong
Hóa trước kia chúng tôi vẫn tưởng báo ấy ra đời là vì xã hội, là vì bình dân,
vì một tôn chỉ cao xa, như ông Nguyễn Tường Tam thường rao trên báo.
"Nhưng dần dần chúng tôi xét ra mục đích của bọn ông Nguyễn Tường Tam chỉ vì
hiếu danh mà làm báo. Muốn đạt cái mục đích ấy, họ dùng đủ cách đê hèn, cái
chương trình của họ gồm có hai phần :
"Trước hết họ xoi bói chế nhạo thô bỉ tất cả những người tài giỏi hơn họ, hoặc
có chút danh vọng giữa xã hội. Làm như thế để quốc dân chán ghét, mỉa mai,
khinh bỉ những người ấy. Sau khi đã đánh đổ những người có tên tuổi họ liền đem
nhau ra mà tâng bốc, Khái Hưng khen Thế Lữ và Nhất Linh, Nhất Linh khen Khái
Hưng vv... để quốc dân tưởng lầm rằng chỉ có bọn họ mới thật là thi sĩ, nhân
tài Việt Nam.
"Cái chương trình của họ ngày nay đã thực hiện. Một phần quốc dân đã bị họ lừa,
hoan nghênh bọn họ một cách quá đáng, còn như những ông Nguyễn Công Tiễu,
Nguyễn Khắc Hiếu, Huỳnh Thúc Kháng bị xem như hạng người đáng cười nhất thế
giới.
"Thấy thế bọn họ càng kiêu căng tự phụ, không nể kiêng gì ai nữa. Hễ họ thấy một
nhà văn sĩ nào có tiếng tăm, hay một tờ báo nào chạy hơn họ, thì họ tìm cách
" dìm " ngay. Hôm qua mạt sát Phan Khôi, Nguyễn Khắc Hiếu, Lãng Nhân,
Nguyễn Lan Khai, Lưu Trọng Lư ... Hôm nay họ cố làm mất giá trị Trương Tửu,
Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh, Nguyễn Công Hoan... Ngày mai cái tính đố kỵ nhỏ
nhen của họ đưa họ đến đâu? "
Trong bài
"Lời nói thêm của Hà nội báo" (H.b. số 56 ngày 16-3-1937), tác giả
vạch rõ sự tàn nhẫn của Phong Hoá : Phong Hoá không những đã dìm những đồng
nfhiệp đương sống mà cả những đồng nghiệp đã chết rồi, Phong Hoá có để yên cho
đâu ! Lâu lâu Phong Hoá lại đào mồ những tờ báo đã chết để nói cho hả giận...
chẳng nói gì cho lắm, thí dụ như tờ báo Loa.
"Cái tin báo Loa chết đối với Phong Hóa là một tin mừng... Ngày được tin ấy,
Phong Hóa liền vẽ ngay lên bìa, một bức tranh ông Bùi Xuân Học ngồi vá váy và
khóc bù lu, bù loa... Cái tranh ấy kể cũng buồn cười thật, nhưng hơi "mất
dạy" một chút". Ngoài loạt bài không để tên tác giả, mà chỉ để Hà
nội báo, ta còn có thể kể thêm nhiều bài ký tên tác giả.
Ông Thiện
Quả là tác giả bài "Tội thứ nhất" (H.b. số 13) và bài "Phong
Hóa với dân quê" (H.b. số 15). Ở cả hai bài, ông Thiện Quả đều bài bác
thái độ của Phong Hóa đối với dân quê.
Ông Văn
Tệ là tác giả ba bài "Trả lời cho báo Phong Hóa" (H.b. số 6),
"Tội trạng báo Phong Hóa" (H.b. số 14), " Báo Phong Hóa yêu
cầu chính phủ trị " (H.b. số 15). Ở cả ba bài, ông Văn Tệ ghi nhận rằng
báo Phong Hóa ngày một xuống, một ế, cho nên báo Phong Hóa ngày một phải cạnh
tranh bất chính bằng các thứ cười rất tục tằn và tàn nhẫn ".
Nhưng
trong số những nhà văn có tên tuổi lên tiếng công kích Phong Hoá, ta phải kể
đến Nguyễn Công Hoan và Lê Tràng Kiều.
Nguyễn
Công Hoan (H.b. số 9 ngày 4-3-1936), đã cố vạch ra cho độc giả thấy cái gian ý
của Tự Lực Văn Đoàn trong khi họ lên tiếng kết án cô giáo Minh là bắt chước
Đoạn Tuyệt.
Vào hùa
và bênh vực Nguyễn Công Hoan, Lê Tràng Kiều viết một thôi một hồi ba bài để bắt
bẻ Phong Hóa vì bọn này đã công kích Nguyễn Công Hoan. Các bạn có thể đọc ba
bài Lê Tràng Kiều phê bình Tự Lực Văn Đoàn phê bình Nguyễn Công Hoan. (Vì lẽ gì
Phong Hoá không trả lời, H.b. số 7, Giọng hèn nhát của báo Phong Hoá, (H.b. số
13). Cuối cùng Lê Tràng Kiều phê bình Thế Lữ phê bình Khói lan chiều của Lan
Khai. Lê Tràng Kiều đã chê Thế Lữ phê bình Khói lam chiều bằng cách đi nhặt
những "hạt đậu dọn", nghĩa là xoi bói những cái nhỏ nhen không đáng
kể.
Cuối cùng
đến Ích Hữu lại mở chiến dịch công kích Phong Hoá hay đúng hơn là Ngày Nay.
Nguyễn
Công Hoan viết hai bài: "Từ Đoạn Tuyệt đến cô giáo Minh" (Ích Hữu
số 2) và bài "Cùng ông Khái Hưng" (Ích Hữu số 4). Ở cả hai bài,
Nguyễn Công Hoan đều trả lời Tự Lực Văn Đoàn về việc công kích tác phẩm cô giáo
Minh bằng đường lối mà Nguyễn Công Hoan cho rằng có gian ý, muốn dìm đồng
nghiệp.
Sau khi
Nguyễn Công Hoan lên tiếng, thì Lãng Nhân Phùng Tất Đắc họa lời bênh vực tác
giả Cô giáo Minh và cho rằng lối phê bình của nhóm Tự Lực Văn Đoàn là thiên
lệch một chiều.
Ngoài ra
còn năm bài ký tên Ích Hữu cũng đều kể tội Phong Hoá hay Ngày Nay là có dã tâm
gièm pha, hạ bệ đồng nghiệp như các bài " Lối trích văn của Phong Hoá
" (Ích Hữu số 6), " Phong Hoá gièm pha chúng tôi" (Ích Hữu số
6), "Cái thói gièm pha của bọn Phong Hoá, Ngày Nay" (Ích Hữu số 56),
"Cái thói gièm pha của bọn Phong Hoá, Ngày Nay, nhiều báo đã công nhận"
(Ích Hữu số 57), "Ngày Nay nhận tội" (Ích Hữu số 58).
Các bài
phê bình Phong Hóa hay Ngày Nay đại để cũng là kết án hai cơ quan này có thái
độ gièm pha đồng nghiệp. Trong số các bài kể trên, có bài "Cái thói gièm
pha của bọn Phong Hóa, Ngày Nay, nhiều báo đã công nhận" (Ích Hữu số 57),
tác giả nhắc đến và trích văn các báo đã có bài công kích báo Phong Hóa, Ngày
Nay. Tác giả có kể đến báo Loa, số 10 ra ngày 19-4-1934, báo Đông Phương hoạt
động số 2 ra ngày 13-1-1937; báo Nhật Tân số 36 ra ngày 18-4-1934; báo Tương
Lai số 8 ra ngày 18-3-1937.
IV - Đặc tính của khối D, khuynh hướng Mác xít.
Song song
và đồng thời với cả khối A, tức khối mệnh danh là cựu học, cả khối B, tức Tự
Lực Văn Đoàn, cả khối C, tức phe mới đối lập, chống báng Tự Lực Văn Đoàn, có
thể kể đến khối D, tức phe nhóm của Hải Triều, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng, một
thiểu số các nhà văn có khuynh hướng duy vật mác xít. Với chủ trương văn nghệ
phải phục vụ cho giai cấp đấu tranh, khuynh hướng duy vật đứng biệt lập ra một
phía, chống đối lại cả ba khối trên.
Thanh Lãng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét