1. Mùa hè năm 1965, tôi về thăm quê người bạn học ở Mái
Dầm trên một chuyến tàu xuôi dòng sông Hậu. Ở quê tôi “chiếc tàu” nhỏ bé thế này
chỉ được gọi là “đò máy” và rất ngại mỗi lần ngược sóng
sông Tiền trong mùa gió chướng. Tàu nhỏ, dòng sông cuồn cuộn phù sa, lại thêm
đất trời trắng xóa một màn mưa, nên trong lòng không chút nào yên. Tôi ngồi nhấp
nhổm trên băng gỗ phía trước, mắt cứ ngóng về phía tay phải dòng sông. Theo lời
bạn tôi, khi nào nhìn thấy cột ống khói lò gạch, cũng có nghĩa là tới Mái Dầm.
Một tiếng-rồi hai tiếng trôi qua. Dòng sông dậy sóng, hàng đàn lục bình trôi
tăm tắp, xuôi về đâu mà hối hả như một cuộc đuổi bắt không có điểm dừng
chân? Lẫn trong tiếng máy, trong tiếng sóng vỗ vào mạn tàu, tôi còn nghe được cả
âm thanh của những tràng đại liên vang lên đâu đó trên bờ. Thời chiến, hình như
mọi người cũng ít nói hơn. Nụ cười trẻ thơ cũng tắt hẳn trên môi. Cái cảm giác
phập phồng lo sợ như một ám ảnh không rời.
Khi mọi người trên tàu reo mừng, tôi
nhìn qua cửa sổ, thấy trước mắt mình là cột ống khói xây bằng gạch thức thật
cao đang thả từng ngụm khói lên bầu trời tháng năm bây giờ sau cơn mưa đầu mùa
đã trong vắt gờn gợn mấy làn mây trắng. Bất chợt, nhìn trên bến, dọc
theo bờ sông, những cánh bằng lăng nở tím đung đưa trong gió. Bao nhiêu lo lắng,
băn khoăn bất chợt tan biến để trải lòng ra hòa nhập cùng đất trời vô tận:
Em
Mái Dầm sông xa lớp lớp
Bằng
lăng mọc tím lối lên trời
Khói
tàu bay trắng vàm kinh nhỏ
Đôi
mắt em - màu xanh biển khơi…
Chút lãng mạn thời học trò được gửi qua mấy dòng thơ. Yêu dòng
sông Hậu cuồn cuộn phù sa, yêu bến nước phủ sắc tím bằng lăng, nhưng không khỏi
ngán ngẫm vì chuyến hành trình hơn ba tiếng đồng hồ trong khi khoảng cách giữa
bến Ninh Kiều và Mái Dầm chỉ trên dưới mười cây số! Có lẽ không chỉ riêng tôi,
mà bao nhiêu khách đi tàu buổi ấy, vẫn thầm mong có một con đường nối liền phố
thị với vùng quê. Những ước mơ này sớm chìm trong lửa đạn. Thời chiến, sinh mạng
con người mong manh, nói chi là đắp bồi, xây dựng? Năm tháng dần qua, chiến
tranh kết thúc. Bao nhiêu gia đình trở về chốn cũ. Buổi đầu còn nhiều khó khăn,
di chuyển chủ yếu vẫn là sông nước. Con đường nối các vùng quê được người dân tự
lực sửa chữa, nhưng vẫn là những con đường đất mùa mưa lầy lội. Họa hoằn lắm mới
có một số ít đường quê lót xi măng, nhưng thường ngắn và chủ yếu
dành cho người đi bộ. Như vậy có nghĩa là mơ ước năm nào của tôi và
của những hành khách trên chuyến tàu xa xôi kia ví như những cánh lục bình trôi
về biển cả…
Tháng 12 năm 2010, tôi trở lại Mái Dầm không phải trên chuyến
tàu năm cũ mà bằng xe gắn máy. Qua khỏi cầu Quang Trung, rẻ phải, bỏ lại sau
lưng cái ồn ào của một thành phố đang chuyển mình theo bước đi thời
công nghiệp hóa, con đường nhựa phía trước trải rộng thênh thang. Tháng Chạp
phương Nam thoáng chút gió mùa Đông Bắc, cái nắng không gay gắt nhưng bầu trời
thì xanh thăm thẳm làm lòng ta chợt nôn nao khi trời đất giao mùa. Về mái Dầm lần
này, không chỉ thăm người bạn cũ mà còn để tiễn bạn tôi vào cõi vô cùng. Thời học
trò, chúng tôi đã từng mơ ước một con đường như thế này, nhưng tiếc cho bạn
tôi: sau năm 1975, anh về quê sống cuộc đời nông dân bình dị rồi ngã
bệnh liệt giường suốt mấy năm dài. Điều đó cũng có nghĩa là anh không có cơ hội
để nhìn và để được đi trên con đường dẫn về quê mẹ. Và có bao nhiêu người như
bạn tôi - như những người dân tay lấm chân bùn, giống như cánh đom
đóm nhỏ bé kia lập lòe mơ ước từ một góc quê hương rồi cuối cùng chìm khuất trong
bão táp thời gian?
Mấy mươi năm dài sau chiến tranh, còn nhiều điều chưa
vừa ý và cần thay đổi, nhưng rõ ràng ai cũng nhìn thấy được những thay đổi rất
lớn của Cần Thơ. Con đường nhựa thênh thang đâu chỉ đến Mái Dầm, mà
còn qua Cái Côn, còn về Kế Sách. Cuối năm 2011, tôi và các bạn đồng nghiệp cùng
làm một cuộc viễn du. Từ con đường này, chúng tôi qua Kế Sách, ghé Sóc Trăng,
xuống Vĩnh Châu rồi trở lại Cần Thơ theo quốc lộ. Con đường chúng tôi đi qua
hai bên là những cánh đồng tăm tắp một màu xanh, có lúc là một thị trấn trẻ với
cửa nhà san sát. Đẹp và tự hào biết bao quê hương tôi trong những
năm tháng thanh bình…
2. Thêm một lần đất trời chuyển nhịp. Cũng buổi chiều cuối năm
se lạnh, Thành phố nhộn nhịp chuẩn bị vào Xuân. Con đường Hòa Bình lung linh
ánh đèn với sắc màu rực rỡ. Xuôi theo dòng người hối hả, tôi lại qua cầu Quang
Trung, nhưng rẽ trái theo đường dẫn cầu Cần Thơ về hướng Hậu Giang. Miền Nam
nhiều sông rạch nên đường đi cũng san sát những nhịp cầu! Nhưng có lẽ đặc biệt
và độc đáo hơn, nếu bạn dừng xe, đứng trên cầu và hướng tầm mắt về
xa. Dưới kia là dòng sông hiền hòa, đục nước phù sa, uốn quanh những vùng quê
yên tĩnh. Cặp theo dòng sông, không chỉ một con đường, mà có đến năm bảy lối
đi, kết lại tựa như những cánh hoa tỏa về muôn nẻo. Những con đường này dẫn về
đâu? Một thôn xóm yên bình, một chợ quê ồn ào ban sáng, hay một ngôi trường rộn
tiếng đùa vui?
Yêu biết bao nhiêu - những con đường quê như thế. Những con
đường - giống như đường về Mái Dầm - là ước mơ từ bao nhiêu năm tháng để hôm
nay trở thành hiện thực. Chợt nhớ thời thơ ấu, đứa học trò nhà quê chân đất đầu
trần, mùa mưa phải bấm từng bước chân trên con đường trơn trợt, mùa khô đất nứt
trắng, lại bước thấp bước cao nên hầu như các móng chân không bao giờ nguyên vẹn!
Con đường đi tìm tri thức của thế hệ chúng tôi sao mà vô cùng gian khổ. Có những
ngày bụng đói, phải vượt mấy “gian đồng”, mắt đổ hào quang mà trường tôi vẫn
còn xa thăm thẳm.
Tuổi thơ hôm nay thật vô cùng hạnh phúc. Con đường
quê các em đi bằng phẳng, thênh thang mà lối vào đời cũng phủ kín
hoa hồng. Xin được ghi ơn những hy sinh lặng thầm của bao nhiêu người khai hoang
mở đất. Xin gửi chút ngậm ngùi quá khứ như một hạt bụi chôn vùi để nảy mầm hoa
cỏ. Và, để những con đường Cần Thơ tôi yêu mãi mãi là những nẻo đường xuân…
Cần Thơ, tháng chạp 2012
LÊ PHƯỚC NGHIỆP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét