Những vụ án văn học thế hệ 1932 - Phần 1
Trên đây, tôi tạm phát về sinh hoạt
phê bình dưới hình thức phe phái, trong khoảng từ 1932 đến 1939 hay 1940. Có lẽ
chưa có thời nào sinh hoạt văn học có vẻ hào hứng, động đạt cho bằng trong
khoảng thời gian này.
Để tóm tắt, chúng ta có thể ghi nhận sinh
hoạt phê bình văn học, hồi đầu thế hệ 1932 như là những vụ án văn học.
1 - Vụ án báo chí:
Chưa bao giờ báo chí Việt Nam
bút chiến với nhau dữ dội như ta thấy ở chương ba ở trên đây. Các cuộc bút
chiến này, trọng tâm có lẽ là sự cạnh tranh nghề nghiệp, tranh dành độc giả,
nhưng cũng gián tiếp đặt ra được nhiều vấn đề, làm sáng tỏ nhiều lập trường văn
nghệ, sửa chữa được nhiều lộn xộn trong nghề viết văn. Các báo chia thành hẳn
bốn khối như tôi đã trình bày ở trên: khối A của các nhà mệnh danh là Cựu học
với các tờ báo ra đời từ 1932 hay trước năm 1932 mà còn hoạt động cho tới năm
1934; khối B của nhóm Tự Lực Văn Đoàn với Phong Hóa và Ngày Nay; khối C của
các báo ra đời từ 1934 trở đi, đối lập, phản kháng lại Tự Lực Văn Đoàn; khối D
của nhóm mác-xít với các ông Hải Triều, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng…
2 - Vụ án cũ và mới:
Mặc dầu được Đông Dương tạp chí
và Nam Phong tạp chí cố gắng đứng ra giàn hòa trong một thời gian khá lâu, phe
mới cũ cũng bất đắc dĩ phải cụng nhau. Cuộc đụng độ bắt đầu khai mào vào khoảng
từ 1931 trở đi. Phan Khôi, từ khoảng 1931 trở đi, đã lái Phụ Nữ tân văn, đi vào
con đường canh tân. Nhiều cây bút, mà đặc biệt là cây bút Phan Khôi, bắt đầu
tấn công nền cựu học, tấn công Nho giáo, kết án chế độ đại gia đình, công kích
kịch liệt chế độ Tam Cương. An Nam tạp chí của Tản Đà nhảy vào chiến trường.
Hai nhà nho, nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu và nhà nho Phan Khôi, giao tranh ác liệt
trong một thời gian khá lâu. Sau này, năm 1932, xem ra Đông Thanh tạp chí và
Văn Học tạp chí, như có vẻ đứng về phe Tản Đà, để phản đối những kết án của
Phan Khôi đối với nền đạo đức Đông phương, nếu không bằng các bài bút chiến
trực tiếp thì cũng bằng các bài trình bày cái hay cái đẹp của đạo đức Đông
phương.
Nhưng từ khi Phong Hoá ra đời,
thì một mặt trận đã giàn ra, đẩy mạnh chiến dịch mà Phan Khôi chỉ mới khai mào.
Cuộc tranh luận mới cũ được Phong Hoá đặt lên làm tôn chỉ cho cơ quan ngôn
luận, và là mệnh lệnh mà mọi nhà văn thuộc văn phái Tự Lực phải tuân theo.
Chẳng những người ta dùng nghị luận để kết án đạo đức cũ mà còn dùng tranh khôi
hài, thơ trào phúng, kịch hí lộng, tiểu thuyết tranh đấu để đánh thẳng vào nền
cựu học, với ý chí quyết liệt là hạ bệ được nền cựu học.
3 - Vụ án Phan Khôi -
Trần Trọng Kim
Phan Khôi phê bình Nho giáo
Đầu năm 1930, Trần Trọng Kim cho xuất bản cuốn I của
Bộ Nho Giáo của ông, trình bày khá cặn kẽ về thân thế, sự nghiệp và học thuyết
Khổng Tử cùng trường phái nho giáo.
Phan Khôi đã đọc Nho giáo của Trần Trọng
Kim rất kỹ lưỡng và trên Phụ Nữ tân văn số 54, ngày 29-5-1930, sau khi ca ngợi
công lao của Trần Trọng Kim, đã công kích ông này lầm lẫn Khổng Học với Tống
Nho.
Sau bài đả kích trên, không còn đợi Trần
Trọng Kim trả lời, Phan Khôi viết một thôi một hồi về nho giáo, khi xa khi gần,
vẫn có vẻ công kích tác giả Trần Trọng Kim như ta thấy trong những bài như: Cuốn sách nho giáo gợi ý cho chúng tôi, nó bảo rằng: người Việt Nam phải
viết chữ quốc ngữ cho đúng (P.N.T.V. số 56, 12-6-1930), Người mở đường cho
luận lý học Á Đông, Khổng Tử và cái thuyết "chính sách" của Ngài (P.N.T.V. số 57,
19-6-1930). Thuyết chánh danh đính chính lại cái tên xưng hô của người Việt Nam
(P.N.T.V. số 58, 28-6-1930 và số 59, 3-7-1930).
Trần Trọng Kim trả lời Phan Khôi
Trần Trọng Kim đã theo dõi công việc làm của Phan Khôi
và để tâm suy nghĩ về những lời lẽ công kích của ông. Chính vì vậy mà Trần
Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi nơi bài "Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo" (P.N.T.V.
số 60, 10-7-1930). Trong bài này, Trần Trọng Kim có chịu là Phan Khôi có lý ở
nhiều điểm, nhưng không trả lời đúng vào cái điểm mà Phan Khôi đã công kích
ông.
Phan Khôi viết bài cảnh cáo các nhà học
phiệt
Có lẽ vì vậy mà trên Phụ Nữ tân văn số 62, 24-7-1930,
trong bài "Cảnh cáo các nhà học phiệt ", cho
dù mục đích là để tấn công Phạm Quỳnh, Phan Khôi cũng vẫn trách khéo cả Trần
Trọng Kim như là cố ý lẩn tránh vấn đề.
Phan Khôi mời Trần Trọng Kim đến chơi
nhà Mr Logique
Và sau đấy, trên Phụ Nữ tân văn số 63, 31-7-1930, nơi
bài "Mời Trần Trọng Kim tiên sinh đến nhà Mr Logique
chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói truyện". Phan Khôi vạch rõ những
điểm mà Trần Trọng Kim đã né tránh không chịu trực tiếp trả lời, đồng thời Phan
Khôi cũng chê trách Khổng Tử và Mạnh Tử là thiếu óc luận lý.
Trần Trọng Kim mời Phan Khôi trở về nhà
học ta mà nói truyện
Lần này, thì Trần Trọng Kim không còn giữ yên lặng
nữa. Trên ba số báo, Trần Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi: bài "Mời Phan Khôi tiên sinh trở về nhà học của ta mà nói truyện" (đăng
lên liên tiếp hai số báo, số 71, 25-9-1930, và số 72, 2-10-1930) với bài "Khổng giáo với khoa học", số 74, 16-10-1930).
Trần Trọng Kim đã tỏ ra phục thiện, chịu lỗi là đã sơ ý mà trở thành bông lông
không trả lời đúng vào các điểm mà Phan Khôi công kích ông. Nhưng rồi Trần
Trọng Kim cũng minh xác với Phan Khôi nhiều điểm, nhất là điểm Phan Khôi trách
triết gia đông phương thiếu óc suy luận khoa học.
Vấn đề Phan Khôi nêu ra năm 1930, và đến
năm 1932, khi cho tái bản Nho giáo, Trần Trọng Kim đã cho sửa chữa, thì Ngô Tất
Tố lại khơi lại để công kích Trần Trọng Kim năm 1940.
Cuộc tranh luận này cho ta thấy hai nhà
học giả họ Phan và họ Trần đã có thái độ trí thức rất đáng phục. Chính thái độ
trí thức ấy đã giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề triết học bấy lâu bị thiên hạ hiểu
rất mu mơ.
4 - Vụ án Tản Ðà - Phan Khôi
Phan Khôi công kích "Cái cười của
Con Rồng Cháu Tiên"
Nhân đọc cuốn tiểu thuyết "Cay đắng mùi đời" của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Phan Khôi đã viết một bài đại luận về cái
cười thường khi rất bỉ ổi, tàn nhẫn của người Việt Nam mình. Bài đó ông đề nó
là "Cái cười của con rồng cháu tiên" (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931).
Phan Khôi đã vạch ra cái khéo léo, tài tình của ngòi bút tả chân Hồ Biểu Chánh
trong việc vẽ ra cái cười man rợ, khả ố, đê tiện của cái nòi giống tự xưng là
"Con rồng cháu tiên".
"Bộ "Cay đắng mùi đời"
hẳn đã có nhiều người nói đến và thấy trong đó tả những gì, khi tôi đọc chắc
tôi cũng thấy như người ta. Một bộ tiểu thuyết vẽ ra nhân tình thế thái. Nhất
là sự khốn nạn của kẻ nghèo, thật là có ý vị thâm trầm lắm. Vậy mà những điều
đó tôi để ra ngoài hết, khi tôi đọc nó tôi chỉ có một cái cảm tưởng về cái cười
trong truyện mà thôi. Hẳn tác giả "Cay đắng mùi đời" là ông Hồ Biểu
Chánh cũng phải nực cười mà cho tôi là tọc mạch". (P.N.T.V. số 84,
28-5-1931). Trong rất nhiều thí dụ về trường hợp lố bịch của cái cười Việt Nam
mình, Phan Khôi đã đưa ra một so sánh:
"Có một phần đông người Pháp ở đây
ta hằng ngày thấy họ cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc Pháp. Ví dụ như
gặp khi trời mưa, đường trơn, có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trợt té, bấy
giờ có năm ba người Pháp đứng đó họ có cười hay không? Tôi, và nhiều người như
tôi nữa dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị
té ấy lên nữa. Còn như Con Rồng cháu Tiên ta, ai không biết chớ tôi, tôi cầm
chắc rằng trước khi chạy lại đỡ, họ phải cười một chặp cho no nê đã".
(P.N.T.V. số 84, 28-5-1931).
Phan Khôi công kích Tống Nho
Sau khi, với giọng bông đùa, Phan Khôi đã dám đưa ra
mà công kích cái cười khả ố, bần tiện của cả một cái nòi giống tự xưng là Con
rồng Cháu tiên, thì, đến ngày 13-8-1931, trên Phụ Nữ tân văn số 95, ông lại cay
nghiệt chửi tùm lum cái phong tục man rợ mà người ta xưng tụng là thủ tiết
trong xã hội Trung Hoa và Việt Nam.
Theo Phan Khôi, cái luật bắt người đàn bà
góa chồng, ở vậy, thủ tiết thờ chồng là một luật rất man rợ, thoái hóa, người
Trung Hoa đã bỏ nó từ lâu rồi mà người Việt Nam mình cứ giữ nó khư khư để đàn
áp người đàn bà. Dù Phan Khôi muốn đổ cái lỗi ấy cho Tống nho, chứ thực tình
Khổng nho chẳng có dạy "cái điều xằng bậy" ấy… Mà ngay đến Tống nho
hồi đầu bên Trung Hoa cũng chẳng ai coi cái luật thủ tiết là quan trọng. Phan
Khôi kể:
"Các nho gia nhà Tống trước Trình Hy
đối với phụ nữ có ý rất khoan thứ, nghĩa là không bắt buộc họ phải thủ tiết,
chịu thiệt thòi cả đời như Phạm Trọng Yêm (sanh năm 989) có lập ra cái nghĩa
trung trang, trong tờ khoán ước có trích ra một phần ruộng để giúp đàn bà cải
giá, còn đàn ông tái thú lại không giúp. Ông có con trai là Phạm Thuận Hựu chết
non để lại một người vợ góa, sau đó, học trò ông là Vương Đào góa vợ, ông bèn
đem người dâu của mình mà gả cho, vả lại mẹ ông Phạm Trọng Yêm trước kia cũng
cải giá cho một người họ Chu. Ông theo mẹ về ở với cha ghẻ, đổi họ tên là Chu
Thuyết đến sau đỗ đạt rồi ông mới lại theo họ Phạm. Phạm Trọng Yêm là một bậc
danh hiền buổi Tống sơ, một nhân vật lớn trong lịch sử mà cũng không hề cho sự
cải giá là phi lệ, không hề bắt đàn bà góa thủ tiết; cho đến mẹ ông cải giá,
ông cũng chẳng hề lấy làm sỉ nhục gì. " (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391).
Chính vì vậy, mà Phan Khôi xem ra có thù
với Tống Nho, nên hễ có dịp là ông đả kích bọn họ. Lần này chẳng hiểu là lần
thứ mấy. Chẳng thế mà ngay ở đoạn đầu số báo này (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391)
ông phải nhắc đến việc ông đã từng hô hào chống Tống Nho ở số 89 Phụ Nữ tân văn:
"Trong bài "Lại nói về tam
cang với ngũ luân" ở Phụ Nữ tân văn số 89, tôi có nói rằng: "Trong
cái vòng luân lý đạo đức tôi muốn lấy Khổng Mạnh làm thầy, mà đồng thời tôi
cũng muốn phế truất Hán Nho và Tống Nho". Tôi nói thế không phải nói bậy
đâu. Hán nho như cái thuyết tam cang của họ mà tôi đã bác đi trong mấy bài trước
đó, đáng phế truất là đường nào. Tống Nho lại còn nhiều điều không hiệp với
Khổng Mạnh mà làm hại cho ta hơn nữa tức như cái luật cấm cải giá là bất công,
vô đạo, cướp mất quyền lợi của đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hóa, ta nên
phế trừ đi là phải."
Thế rồi, trong phần kết của bài Tống nho
này, ông hô hào chị em phụ nữ hãy nên "phế trừ" cái tục "trái
tính trời" ấy đi:
"Tôi lấy làm lạ, cái kêu bằng cái
"tiết đó" không phải tánh trời sanh thì sao lại đem nó để càng lên
trên cái do tính trời sanh? Tôi thì cứ giữ mực quê quê thiệt thiệt, căn cứ ở
câu: "Thực sắc thiên tánh" của Mạnh Tử mà nói rằng: Hễ đàn ông
chết vợ thì lấy vợ khác, đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác. Còn như cặp vợ
chồng nào có cái ái tình đặc biệt, một người chết đi một người đành ở vậy, cái
thì tùy ý họ, xã hội không ép buộc gì. Đến như nói cái thứ hai của tánh trời,
gặp lúc đáng bỏ phải bỏ, thì, đã cấm đàn bà cải giá xin cũng cấm đàn ông tái
thú luôn.
"Trong phụ nữ ta có nhiều
người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ,
vậy mà nói đến truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có
người bóp bụng cắn răng cũng giữ được trót đời; nhưng có người khôn ba năm dại
một giờ, thì ra mang cái xấu lại còn hơn cải giá. Lại thường thấy bà goá nào có
máu mặt thì bọn điêu thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong
đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà
ra; vậy thì nó chỉ làm hại cho phong hóa thì có chớ có bổ ích gì đâu? Bởi vậy
ta nên phế trừ cái luật ấy đi; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và
đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa" (P.N.T.V. số
95,13-8-1931).
Tản Đà khai chiến với Phan Khôi
Hai bài của Phan Khôi viết ra, một bài vào tháng 5,
một bài vào tháng 8 năm 1931, sẽ phải tiếp nhận những nhát búa nặng nề của Tản
Đà bắt đầu từ tháng giêng năm 1932. Thực vậy, trên An Nam tạp chí, bắt đầu từ
số 26, 23-1-1932, Tản Đà bắt đầu khai chiến dữ dội.
Nơi đây, ta không còn thấy Tản Đà nhà thơ
lãng mạn, đôn hậu, mơ màng nữa, mà ta thấy ông khi thì là một quan tòa, khi thì
là một đao phủ nữa. Chính vì vậy, mà ta thấy ngay ở phần mở bài thứ nhất trong
loạt bài được chọn bằng một tiêu đề rất đặc biệt "Một cái tai nạn lưu
hành ở Nam Kỳ: Phan Khôi", Tản Đà mở đầu cuộc chiến của ông như thế này:
"Cứ những lời của ông Khôi viết ở
trong tờ Tân Văn có nhiều những tính chất tầm bậy. (như bài "Cái cười của
Con Rồng Cháu Tiên); mà hại cho phụ nữ về phần nhiều (như lời bài kích Tống
Nho về câu "ngạ tử sự thậm tiểu, thất tiết sự thậm đại"). Sự hại
đó, không phải là ông Khôi có định chí làm hại ; chỉ là ông quá dụng sức về nhẽ
"ăn cây nào rào cây ấy" viết bài cho Tân Văn phụ nữ thời chiều theo
tâm chí của phần nhiều phụ nữ đó mà thôi. Phần nhiều phụ nữ tân thời nay muốn
tự do, muốn giải phóng, ông Khôi phun giải phóng, phun tự do. Đối với các độc
giả có được lòng thời tờ Tân Văn mới phát đạt; tờ Tân Văn có phát đạt thời giá
mua bán bài mới cao. Tờ Tân Văn được lòng độc giả vì ai, thời giá bài người ấy
tất phải đắt. Huống chi chủ nhân là Mme Nguyễn Đức Nhuận tức cũng lại là một vị
độc giả phụ nữ tân thời. Ngoài chiều ý người mua báo, trong chiều ý người mua
bài, ông Phan Khôi mới hết sức viết những lời tầm bậy. Lời tầm bậy đã in lên
báo, thời chiều ai mà tức thị hại ai. Đó là do tâm tình mà những lời viết báo
của ông Khôi thành ra làm hại cho phụ nữ lưu vậy" (An Nam tạp chí số 26,
23-1-1932).
Theo Tản Đà, việc bài trừ, "giết bỏ" Phan Khôi, chẳng phải là điều thích làm thì làm mà là một bổn phận của
"anh em sĩ phu trong phái tân học":
"Thuộc về phần riêng của từng người,
thời nghĩ như ông tú Khôi cùng tôi, có thể cũng kể là hạng sĩ phu về bên Hán
học trong nước ta ở cái thời kỳ hiện tại; nếu ông Khôi mà có làm điều không
phải với công chúng, tôi cùng các người khác trong Hán học đều không được tự
bảo mình là vô can. Cho nên muốn bài trừ những lỗi tầm bậy của ông Khôi, tức
là tôi không có tự vì một phần riêng, mà vì cả các anh em sĩ phu trong phái Hán
học.
Nay xin hãy có lời báo cáo để Phụ Nữ tân
văn và các bạn phụ nữ trong Nam cùng biết trước, công việc bài trừ còn nhiều,
cần phải tra xét tường bạch, và cũng không phải việc cấp bách; xin ai nấy ung
dung chờ coi". (An Nam tạp chí số 26, 23-1-1932).
Sau khi đã hứa như vậy ở số 26, ra ngày
23-1-1932, Tản Đà đã giữ lời hứa. Ông viết một thôi ba bản cáo trạng rất gay
gắt để buộc tội Phan Khôi trước tòa án công luận: bản cáo trạng thứ nhất đăng
trên An Nam tạp chí số 29, 20-2-1932, buộc tội Phan Khôi đã xúc phạm đến cả tổ
tiên trong bài "Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên", hai bản cáo trạng
sau, cũng đăng trên tạp chí trên, ở các số 34, ngày 26-4-1932 và số 37, ngày
16-4-1932) (1).
Ông tự lập lấy tòa án: "Nay tôi
xin, trước mặt quốc dân, đỡ lời công chúng, quyền làm sự thẩm án thuộc về tòa sơ cấp, mong ai nấy cùng nghe" (An Nam tạp chí số 29, 20-2-1932).
Tản Đà dựa vào lai lịch bốn chữ "Con
Rồng Cháu Tiên" là bốn chữ cực cao, cực quí chỉ cả tổ tiên của một dân
tộc và chỉ cả quốc dân có một lịch sử oai hùng để mà kết án. Phan Khôi nhục mạ
chẳng riêng gì người ta đời nay, mà còn nhục mạ cả nòi giống tổ tiên ta xưa kia
nữa. Ông tuyên án Phan Khôi đáng xử trảm; nhưng để Phan Khôi được quyền minh
oan, nên Tản Đà tạm cho ông được hưởng bản án "trảm giam hậu".
Nhưng đấy chỉ mới là một tội. Phan Khôi
còn nhiều tội khác mà Tản Đà tiếp tục đưa ra tòa, đặc biệt là cái tội làm đồi
trụy phong hóa, Tản Đà mở đầu bản xử án thứ hai:
"Trong Phụ Nữ tân văn số 95, ra ngày
13 Aout 1931, ông Phan Khôi có viết bài "Tống Nho với phụ nữ" viết
đại ý ở dưới đề mục rằng:
"Cái luật cấm cải giá là bất công,
vô đạo, cướp mất quyền lợi đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hóa nên phế trừ
đi là phải".
"Xin cứ những lời tầm bậy trong bài
ấy, chỉ trích và thuyết minh ra, để phụ nữ trong Nam và chư vị độc giả cùng
nghe , rồi sẽ kết tội án Phan Khôi ở cuối" (An Nam tạp chí số 34,
26-4-1932).
Tản Đà cho rằng việc thủ tiết của người
đàn bà là một phong tục cao cả có từ đời Khổng Tử chứ đâu phải chỉ mới có từ
đời Tống:
"Cứ vậy ngẫm ra, tự thấy rằng một
đạo trinh tiết của đàn bà Á đông, thực do thượng cổ truyền lại, gốc ở một chữ
trong kinh Dịch nẩy mầm ra, đời đời nối tiếp vun bồi, gây thành cái phong hóa tuyệt thanh quý trong nhân loại. Nay Phan Khôi dám cho những sự đó là đàn bà
chịu sự thiệt thòi, mà lại quy cái ảnh hưởng trực tiếp là chịu của Tống nho.
Thực là loạn ngôn hoặc chúng vậy" (An Nam tạp chí số 34, 26-4-1932).
Tản Đà kết án Phan Khôi là đồi trụy phong
hóa và ví Phan Khôi với bọn hạ lưu đã dám nói ra những lời xàm xỡ, Tản Đà viết:
"Gian thay! ông Phan Khôi, ác thay! ông Phan Khôi, tiểu nhân thay! ông Phan Khôi.
"Cứ mấy lời luận lý của ông Khôi,
nếu không hết sức bài trừ, mà để cho ông được hành những cái gian, cái ác, cái
tiểu nhân, thời nay ông đã viết ra bài này, thời mai ông chắc viết ra bài khác,
ngấm ngầm truyền bá vào trong tâm lý một số người trong xã hội, xui khiến cho
gái bỏ trinh tiết, giai bỏ trung hiếu; phàm những cái tốt đẹp trong đạo làm
người, như nhân, từ, tín, hậu, lễ, nghĩa, liêm, sĩ đều bị những lời luận lý vô
đạo ấy làm cho đến mất hết giá trị. Nếu lo cho quá, thời một phần nhân đạo
chẳng sẽ do đó mà dần dần lấn lún đến trở ra cầm thú cẩu chệ sao? Nguy thật
thay!
"Cùng hai câu thực ý của ông Khôi.
"Ông Khôi nói:
"Hễ đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác; đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác".
"Xưa nay, đàn ông chết vợ mà họ lấy
vợ khác, đàn bà chết chồng mà lấy chồng khác, vẫn là sự thường trong thế tục;
có cần chi đến những nhà học vấn phải ra công luận lý mà khuyên bảo cho chúng
ru?
"Đàn ông góa vợ mà ở yên không lấy
vợ khác nữa, hạng người ấy gọi là nghĩa phu, từ xưa đến nay thật ít thấy trong
sử sách. Đàn bà góa chồng mà ở yên không đi lấy chồng khác nữa (người còn trẻ
tuổi) hạng người ấy gọi là tiết phụ, so với nghĩa phu thực có số nhiều hơn.
Song tóm tự nghìn xưa, nếu có thể cộng được toàn số đàn bà góa chồng còn trẻ
tuổi mà tính xem, chưa dễ nghìn ai mong có một. Vậy thời những người tiết phụ
kia sinh ở nhân gian thế, dẫu chưa hẳn như phụng hoàng, kỳ lân trong phi cầm cẩu
thú, thời cũng là hòn ngọc ở núi đá hạt châu nơi bể chai. Đời đời vua chúa ơn
ban "Tiết hạnh khả phong". Cũng vì là vật quí của đời, đời nên biết quý vậy.
"Tục thuần hậu mỗi ngày càng kém
xưa, giá trinh tiết mỗi ngày càng hiếm có; vật quí của đời lại đến lúc đời
không biết quí, phong dao lý ngữ, nhiều câu nghe thấy đã thương tâm:
"Lẳng lơ chết cũng ra ma
Chính chuyên chết cũng khiêng ra đầy đồng"
- "Ông chết thì thiệt thân ông,
"Bà tôi sắp sửa lấy chồng nay mai"
- "Bà chết thì thiệt thân bà,
"Ông tôi sắp sửa lấy ba nàng hầu"
Chính chuyên chết cũng khiêng ra đầy đồng"
- "Ông chết thì thiệt thân ông,
"Bà tôi sắp sửa lấy chồng nay mai"
- "Bà chết thì thiệt thân bà,
"Ông tôi sắp sửa lấy ba nàng hầu"
"Ba câu ca dao đó, ngẫm như một câu dẫn ở trước
nhất, thực là do phong hóa suy đồi tự ở mồm những kẻ hạ lưu xướng ra. Hai câu
dẫn thứ hai thứ ba ở sau, hoặc giả còn là có ai đó, vì cái bụng thương cho đời,
mới thoát ra những lời chua xót. Tôi tuy chưa dám định nghĩa; song tóm lại chỉ
đều là những câu ca dao mà không phải là lời luận lý. Lập thành thế, luận thành
lý, thời mới thấy như hai câu của ông Khôi là thứ tư.
- "Đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác.
"Đàn bà chết chồng thì lấy
chồng khác"
"Hai chữ "thì" đó, ngẫm
ra cho kỹ không có tình nghĩa, chút tơ vương; chính cũng như trong xóm Bình
Khang thường có câu "Cuốn chiếu nhân tình sạch" vậy! Hai câu đó
trước lúc chưa đem đăng báo, ông Khôi hoặc có cùng ngồi đàm luận với hai vị chủ
nhân và chủ nhiệm tờ báo Phụ Nữ tân văn mà đem ra cùng đọc, thì không biết cái
cảm tưởng của những người nghe kia như sao?
"Nghĩ cho phong hóa đến lúc đã suy
đồi, chẳng ai có sức nào giữ được. Song thuộc hành vi riêng của cá nhân, ai có
muốn sao cứ tự, thực cũng chưa mấy ai nhẫn tâm dụng lực mong tồi hoại cho cái
nền hủ cựu đó chóng đổ đi làm chi. Có chăng, thời là ông Tú Phan Khôi vậy". (An Nam tạp
chí số 37, 16-4-1932).
Sau khi đã buộc tội Phan Khôi như trên,
Tản Đà long trọng tuyên bản án Phan Khôi như các bạn đọc sau đây:
"Hợp hai bài "Bài trừ"
An Nam tạp chí số 34 và 37 đây, thời Phan Khôi viết bài "Tống Nho với Phụ
n " đăng trong Phụ Nữ tân văn số 95 ra ngày 13 Aout 1931 tức là kẻ có tội
với danh giáo:
– Vu hãm tiên hiền.
– Loạn ngôn hoặc chúng.
– Bại hoại phong hóa.
"Nay, chiếu theo hình luật Á Đông từ
đời vua Thuấn mới đặt, có minh văn trong kinh thư rằng: "Phốc tác giáo
hình". Nghĩa là: "Cái roi, dùng làm hình phạt thuộc về sự giáo
huấn". Cứ Phan Khôi phạm về tội danh giáo, vậy nên dùng roi để chừng.
"Chiếu theo các trường dạy nho ta
kia xưa, phàm học trò học dốt, đọc không thuộc, hoặc có tội vô lễ thời bắt phải
nằm sấp xuống đất, đánh ba roi. Cứ Phan Khôi can phạm ba điều như đã yết trên
đây so với những tội học dốt, đọc không thuộc và vô lễ thực lớn hơn gấp trăm.
Vậy nên đánh đòn ba trăm roi.
"Chiếu theo pháp lý Á đông, làm tội
người đem ra ở chợ, để cùng có công chúng dự biết. Cứ Phan Khôi phạm về tội
danh giáo nên đánh đòn ở trước sân Văn miếu, để trên có các vị Tiên Thánh, Tiên
Hiền cùng giám lãm, dưới có các sĩ phu trong phái Hán học cũng được dự biết.
"Cứ các nhẽ đã sơ thẩm như trên, xin
nghĩ kết Phan Khôi phải chịu ba trăm roi đòn, chia đánh ở ba nơi:
- Đánh ở trước sân Văn Miếu Thăng Long là
nơi gốc văn vật của sự học nho của nước ta từ triều nhà Lý.
– Đánh ở Huế, là nơi thủ phủ xứ Trung kỳ.
– Ở Quảng Nam, là nơi chốn của tội nhân
sinh trưởng học tập.
"Ngoài cái tội án Phan Khôi đã nghĩ
kết, chiếu theo thường luật có bắt tội oa chủ; vậy những tiền phí giải Phan
Khôi từ Nam ra Bắc, cho lại về đến Huế, về đến Quảng Nam do Ban Trị Sự
của Phụ Nữ tân văn phải trích tiền quỹ của báo ấy cung nạp.
"Giở lên các điều án nghị theo như
lệ nghị kết về bài Phan Khôi viết: "Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên"; riêng bản án này, trên có Tòa Thượng Thẩm riêng xét về danh giáo là
toàn thể sĩ phu phái Hán học trong nước sẽ cùng phúc thẩm, dưới có tội nhân và
oa chủ, ai có muốn thân oan, cứ được hết lời thân oan". (An Nam tạp chí
số 37, 16-4-1932)
Nguyễn Tiến Lãng đả kích Phan Khôi
Chính trong lúc Tản Đà hăng hái buộc tội như vậy, hình
như Phan Khôi vẫn yên lặng không lên tiếng mà chỉ có bạn bè của Phan Khôi lên
tiếng một cách gián tiếp. Ấy là theo sự ghi nhận của Nguyễn Tiến Lãng trong bài
"Nguyễn Tiến Lãng và Phan Khôi" (An Nam tạp chí số 38, 23-4-1932).
Thực vậy, Nguyễn Tiến Lãng lên tiếng công
kích Phan Khôi trong hai bài đăng trong báo Trung Bắc, viết bằng tiếng Pháp, đề
là Autour d’une Polémique.
Vì bị Nguyễn Tiến Lãng công kích, Phan
Khôi lên tiếng trong bài "Cái học vào lỗ tai ra lỗ miệng" đăng trên
Đông Tây số 160, ngày 6-4-32, trong đó Phan Khôi chê Nguyễn Tiến Lãng là dốt,
dùng sai tiếng Pháp, không hiểu nghĩa chữ Polémique là gì cả.
Nguyễn Tiến Lãng viết bài kể tội Phan Khôi
gửi cho báo Đông Tây, nhưng vì báo Đông Tây không đăng, cho nên Nguyễn Tiến
Lãng gửi đăng trên An Nam tạp chí số 38, 23-4-1932, trả lời ít điểm mà Nguyễn
Tiến Lãng cho rằng Phan Khôi đã xuyên tạc ông. Đây lời Nguyễn Tiến Lãng:
"Nay tôi giả nhời cho Khôi rõ:
"1) – Phan Khôi hỏi: "Ông
Lãng có thử đọc qua những bài ấy của tôi không? …Theo nhời ông Lãng, đủ biết
rằng trong khi viết bài ấy, ông Lãng không có dưới mắt ông tập báo kia có bài
của tôi, nhưng trước kia, thì ông có đọc cả, nên bây giờ mới nhớ mà nhắc lại
cho ".
"Phải, tôi chép nguyên văn đó "nhời văn" ông Phan Khôi hỏi tôi. Nhời văn của Phan Khôi là người chê văn
quốc ngữ của tôi "còn chưa xuôi". Nhưng thôi…Nói làm chi. Tôi chỉ
đáp câu hỏi kia; vậy tôi đáp.
"Chính phải thế Phan Khôi nghe! Mà
tôi không có Phụ Nữ tân văn để giữ luôn ở trong nhà, và không gối văn Phan Khôi
ở dưới giường để xem đi xem lại luôn luôn, sự ấy Phan Khôi lấy làm lạ du ? Xã
hội thì hiểu rồi, hiểu cho tôi rằng tôi còn có việc khác và văn khác để xem chớ
sao? "
"2) – Các câu hỏi của Phan Khôi có ý
bắt buộc tôi phải đọc lại văn (!) của Phan Khôi rồi viết thêm cho báo Đông Tây
mấy cột báo, mà về văn (!) ấy, tôi không đáp; bởi vì ông Tản Đà đã có cái
chương trình bài trừ cái nạn văn (!) và tư tưởng (!) Phan Khôi, mà chương trình
ấy đã đang thực hành trong An Nam tạp chí rồi. Việc đời còn nhiều, các bực sĩ
phu trong xã hội nên chia nhau mỗi người làm một việc. Huống chi "bài trừ
Phan Khôi" tôi cần gì phải làm nữa, vì đã có ông Tản Đà.
"3) – Câu kết của Phan Khôi: "Ai không biết đến đầu đến đuôi hết, thấy bài Nguyễn Tiến Lãng nói như vậy rồi
tin đi, ắt phải cho Phan Khôi là người bậy bạ. Hoặc giả ông Nguyễn Tiến Lãng
dụng tâm như thế chăng? Ông Nguyễn Tiến Lãng nên hối ngộ liền. Đừng còn nhỏ
tuổi mà lập tâm bất chánh như vậy về sau sẽ hỏng!"
"Nguyễn Tiến Lãng tôi đáp:
"Phan Khôi bậy bạ hay không bậy bạ, xã hội đã thừa rõ, cho nên Lãng này
không cần phải nói thêm ; nếu chỉ vì một nhời nói của Lãng mà xã hội từ trước
vẫn nhầm vì Khôi, đến nay mới biết Khôi là người thế nào, thì Khôi dù uất bởi
ngòi bút này mà đã phải lớn tiếng nhưng Nguyễn Tiến Lãng cũng rất vui
lòng vì đã làm được một việc ích. Ông Phan Khôi nên hối ngộ liền! Tuy đã già
đời, nhung cũng còn thì giờ cải tà quy chánh, một đời chưa đến nỗi hỏng tất cả!
"Đối với tôi nói thế là đủ; sau này
mặc cho Khôi lớn tiếng xin để xã hội nghe cáo trạng của thi sĩ Tản Đà mà cùng
cười với tôi". (An Nam tạp chí số 38).
Như các bạn thấy ở đây, giọng điệu của
Nguyễn Tiến Lãng đối với Phan Khôi quả thực gay gắt, phũ phàng.
Vân Bằng đả kích Phan Khôi
Sau Nguyễn Tiến Lãng, đến lượt Vân Bằng lên tiếng chửi
Phan Khôi (An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932) trong bài " Tôi thất vọng về
Phan Khôi".
Trước hết Vân Bằng tố cáo Phan Khôi như là
người hiếu chiến, gây gỗ với mọi người, lập dị muốn làm khác người ta:
"Thật vậy, Ông Phan đã có phen khai
cuộc "bút chiến" - cái này mới thật là "bút chiến" chứ
– cùng ông Trần Trọng Kim về sách Nho giáo. "Đình chiến" được ít
lâu ông lại khởi "thế công", khai một cuộc "bút chiến"
khác – cái này cũng thật là cuộc "bút chiến" nữa chứ – cùng ông Lê
Dư về vấn đề quốc học.
"Ông đã có phen hô hào cảnh cáo
những nhà "học phiệt" (xin mở tự vị Khang Hi) làm cho quốc dân đã
được hưởng cái thú đọc bài trả lời "mát mẻ" của ông Phạm Quỳnh.
"Ông đã có phen đem cái tài hùng
biện ra trước Tòa án dư luận làm trạng sư cãi "thí" để "thân
oan" cho "bà vua Võ Hậu, đã chọn cung nhân bằng đàn ông, để mua vui
trong lúc vạn cơ chi hạ" (theo lời ông).
"Ông đã có phen thuyết lý về cái môn
"Lô dích" (logique) là môn ông rất sở trường, và ông cũng đã đem
cái thuyết "xưng hô" ra dạy đời nữa.
"Vừa đây, ông lại ra công "sáng chế" ra một lối thơ tân thời, tự do đặc biệt" không cần
niêm luật, tự ý vắn dài làm cho nhiều người "Hoài cổ" phải ngậm
ngùi thương tiếc "Tám vế"Luật Đường!!! Có lẽ vì sự phát minh
lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng?
"Đó, cái công trình vĩ đại của ông
Phan Khôi đối với quốc văn là như thế. Cho nên văn tài ông được nhiều người bái
phục, như lời Ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng: "bạn
Phan Khôi" của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là "Léon Daudet" của Việt Nam. Sau khi đã vô tình đề cao tán dương Phan Khôi
như vậy, Vân Bằng trách Phan Khôi là thô lỗ, bỏ cả phong thái nhà nho để dùng
những ngôn ngữ tục tằn khi trả lời ông Nguyễn Tiến Lãng:
"Vậy mà trái đất xoay mình đâu chừng
hai mươi vòng, nghĩa là kể từ ngày tôi đọc bài của ông Phan Khôi đăng trên báo
Đông Tây số 160 (6-4-32) đến nay chừng ba tuần lễ, thì bỗng đã làm cho tôi thất
vọng! Tôi hay vậy, dạo trước đừng coi báo Đông Tây là hơn mà cũng đừng mừng chi về tài ông Phan Khôi
là hơn!
"Xin độc giả chịu khó giở tờ Đông
Tây số 160 ra ngày 6-4-32 mà đọc lại bài của ông Phan Khôi nơi cột năm ở trang
nhất thì liền thấy sự thất vọng của tôi là có căn cứ. Sự thất vọng của tôi về
ông Phan Khôi là do ở cái cái cách "xưng hô" bất lịch sự của ông
đối với ông Nguyễn Tiến Lãng, cái cách xưng hô đó đã tỏ ra rằng ông Phan Khôi
không nhớ cái lễ độ cả độc giả và quên mất cái thuyết "vô bất kính" của làng nho!
"Vậy, tôi cứ theo như cái "sự
ngay thật người luận biện phải giữ" mà kể cái cách xưng hô của ông Phan
trên tờ Đông Tây số 160 như sau này: bắt đầu ông viết "ông Nguyễn Tiến
Lãng", sau đến "Lãng ta" sau đến "Va"! sau đến
"Tiến Lãng" sau lại "Ông Nguyễn Tiến Lãng", Nguyễn Tiến
Lãng, và Lãng trống trơn vân vân…
"Không những riêng cách xưng hô bất
lịch đó, ông lại còn mở cuốn "tự vị riêng" mà dùng những tiếng
"Xỏ lá, ba que" (xin lỗi độc giả tôi cũng không hiểu nghĩa rõ) trên
bài luận thuyết "tràng giang đại hải" của ông (Đông Tây số 160 cột
5 trang 1) như vậy thật là thiếu cái vẻ lễ độ với công chúng nữa".
Để ra ngoài những lời nặng tiếng nhẹ mà
người ta tặng cho nhau trong lúc tranh luận nóng nảy, ta nhận thấy cuộc bút
chiến này cũng đã đặt ra những vấn đề xã hội rất đáng chú ý. Cuộc tranh luận
này còn cho ta thấy Phan Khôi mới lắm. Chẳng những Tản Đà không chịu được cái
mới của ông mà cả đến Nguyễn Tiến Lãng một tiến sĩ Pháp cũng chẳng ưa cái mới
mẻ của Phan Khôi.
Nhân vụ rắc rối đối với Tản Đà này, ta
nhận thấy Phan Khôi là người có tư tưởng rất mới. Ông muốn xã hội Việt Nam phải
đổi mới. Mà theo ông muốn tiến tới phải đánh đổ mọi thứ mặc cảm tự tôn, ỷ lại
vào những là bốn ngàn năm văn hiến, những là Con Rồng Cháu Tiên. Ngoài ra ông
còn đi trước cả các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn trong chiến dịch hạ bệ Nho
giáo, chống chế độ đại gia đình, chống tục cản trở đàn bà goá cải giá.
5 - Vụ án Quốc Học
Lê Dư đặt vấn đề Quốc Học
Quốc học là gì? Thực chất của nó ra sao? Đó là một
vấn đề được đặt ra vào khoảng đầu năm 1930. Nhưng hình như hồi đầu người ta
không có đặt vấn đề nội dung cho từ ngữ này. Cái người đầu tiên đã dùng tiếng
này nhiều có lẽ là Sở Cuồng Lê Dư: ông lập ra một tủ sách lấy tên là "Quốc học tùng san". Tất cả các sách do ông biên soạn đều đề là "Sở
Cuồng Văn Khố Quốc học tùng san". Rất tiếc là lúc viết về vấn đề này tôi
không có trong tay tất cả các tài liệu liên quan đến vụ này mà không biết tìm
đâu cho ra. Các thư viện mà tôi biết đều không có.
Năm 1930, Lê Dư cho xuất bản tập nghiên
cứu đầu tiên của ông trong bộ Quốc học tùng san, đề là "Bạch Vân Am thi
văn tập" với lời ghi chú "giật sử và văn thơ sấm ký của cụ Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm".
Rất tiếc là hiện giờ tôi không có tập này
trong tay. Nhưng tôi nghe rằng trong Bạch Vân Am thi văn tập, Lê Dư đã đề cao
Nguyễn Bỉnh Khiêm như là người có công nhất trong việc xây dựng nền quốc học.
Trịnh Đình Rư phê bình Bạch Vân Am thi văn tập của Lê
Dư. Bài phê bình này, tiếc rằng tôi cũng chưa được đọc, chỉ biết, theo Phan
Khôi, trong bài "Luận về quốc học" (P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) thì
Trịnh Đình Rư không đồng ý với Lê Dư, không công nhận nước ta đã có cái gì gọi
là quốc học trong bài Luận về quốc học, Phan Khôi có trích lại hai đoạn văn Lê
Dư đã trích của Trịnh Đình Rư: "Nước ta từ xưa đến nay chưa từng thấy có
cụ nào dựng ra được một học thuyết gì to tát riêng, xét đến lịch sử những nhà
học giả Đông Tây mà nghĩ lại đến quốc học nhà, ta tương tự lấy làm thẹn"
(trích theo Luận về quốc học, P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) và của Phạm Quỳnh:
"Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta có gì; không dám nói
bậc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương truyền lý học thâm thúy
có cụ Chu An và cụ Trạng Trình nhưng các cụ phát minh được những điều gì, trứ
thuật được những sách gì có ích?"
Cứ theo Phan Khôi thì vì Trịnh Đình Rư và
Phạm Quỳnh đã có ý kiến như vậy về quốc học cho nên Lê Dư đã viết bài "Câu chuyện đọc thơ của ông Trạng" trong đó ông Lê Dư lên án đích danh
Trịnh Đình Rư và ám chỉ ông Phạm Quỳnh bằng việc trích văn của ông này như Phan
Khôi tố cáo mà không gọi tên đích danh Phạm Quỳnh. Trong bài đó Lê Dư kết án
Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh rất gắt gao mà ông gọi là vô ơn và nhục mạ tổ tiên.
Phan Khôi có trích mấy dòng sau đây của Lê Dư: "Ôi! các ông chưa xét
cho kỹ, mà dám to gan dạn miệng bội bạc tiền nhân như vậy ! Sao các ông vụ nhục
nền văn hóa nước nhà như vậy?" (Trích theo Phan Khôi trong bài Luận về
quốc học).
Phạm Quỳnh bày tỏ lập trường ủng hộ Trịnh Đình Rư
Nếu bài phê bình của Trịnh Đình Rư chúng ta không được
đọc toàn vẹn vì chưa biết nó được đăng ở báo nào, chứ bài của Phạm Quỳnh thì
chúng ta có thể đọc được đầy đủ. Thực ra Phạm Quỳnh không có ý bàn về quốc học
mà chỉ bàn đá đến vấn đề mà thôi. Phan Khôi kết án Phạm Quỳnh là học phiệt,
nghĩa là kiêu ngạo, khinh người, không chịu trả lời khi có người công kích.
Phạm Quỳnh trả lời Phan Khôi qua bài "Trả lời bài Cảnh cáo các nhà học
phiệt của Phan Khôi tiên sinh" (P.N.T.V. số 67, 28-8-1930). Trong bài
này, sau khi đã minh xác và thân oan cho thái độ của mình, Phạm Quỳnh, trong
phần kết luận, có bày tỏ nỗi lòng của ông đối với nền học vấn của ta từ xưa đến
nay. Phạm Quỳnh phàn nàn rằng tất cả cái học của ta từ xưa đến nay đều là cái
học thuê viết mướn chưa có gì đáng giá cả. Thế rồi ông hô hào người trong nước
cố gắng gây lấy một nền quốc học mai ngày bằng việc thành lập hội "chấn
hưng quốc học": "Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta
đã có gì? Không dám bội bạc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy.
Tương truyền lý học thâm thúy có cụ Chu văn An, cụ Trạng Trình. Nhưng các cụ
phát minh được những điều gì, trứ thuật được những sách gì có giá trị?
Nào đâu là những phái Vương học, phái Thiền tôn như ở Nhật bản, cũng học chữ
Tàu mà khám phá được nhiều điều người Tàu không nghĩ tới? Nước mình tịnh không
có gì cả. Đó chẳng qua là bởi cái tinh thần học vấn của mình nó bạc nhược quá.
Lại bởi cái mô phỏng của người mình nữa, xưa kia phỏng chép người Tàu, ngày nay
bắt chước người Tây…
"Ấy cái hiểm tượng của học giới ta ở
đó, ở cái tính nô lệ của người mình đó, chớ không phải là lỗi tại người này hay
người nọ…
"Phải nên cùng nhau hiệp lực, cố gây
dựng cho nước nhà một nền "quốc học" đích đáng, không Tây mà không
Nho, có cái tính cách đặc biệt, tiêu biểu được cho cái tinh thần cố hữu của nòi
giống. Cái ý tưởng đó ngày nay Phan tiên sanh mới đề xướng, mà về phần tôi chủ
trương đã lâu lắm rồi.
"Vậy ngày nay chúng ta có nên cổ
động lập một hội "Chấn hưng quốc học", học tập những người có chí
học vấn trong Nam ngoài Bắc, mỗi năm hội nghị một lần để bàn các kế hoạch nên
thi hành cho nước nhà có một nền quốc học xứng đáng không?
"Thiết tưởng thế còn hơn là cãi vã
nhau vô ích. Phan tiên sanh nghĩ sao? (Phụ Nữ tân văn, số 67, 23-8-1930).
Phan Khôi công kích Phạm Quỳnh
Vì Phạm Quỳnh đã hỏi " Phan tiên sanh nghĩ sao?
", nên Phan Khôi đã trả lời Phạm Quỳnh trên Phụ Nữ tân văn, số 70,
18-9-1930, qua bài "Về các ý kiến lập hội chấn hưng quốc học của ông Phạm
Quỳnh".
Trong bài này, sau khi thương xác với Phạm
Quỳnh nhiều vấn đề, Phan Khôi tỏ ý không tán thành việc thành lập cái hội gọi
là hội "Chấn hưng quốc học". Theo Phan Khôi chúng ta đã có quốc học
bao giờ đâu mà nói đến mất hay đến suy vi khiến phải chấn hưng. Phan Khôi viết:
"Cái ý kiến của tiên sanh muốn lập
một hội kêu bằng "Chấn hưng quốc học" đó, theo tôi, tôi tưởng ta
chưa làm được, mà cái hội ấy hình như cũng không cần có nữa. Nhơn rốt bài của
tiên sinh, có lời hạ vấn đến tôi, tôi phải trực trần ý kiến, xin chớ ai thấy mà
trách tôi: Làm không làm, lo phá đám!
"Trước hết xin gạn hỏi cái tên hội
mà tiên sanh phỏng định ra đó. Phàm cái gì từ trước đã có sẵn rồi mà sau suy
bại đi, mình muốn làm cho nó hồi phục lại cái quang cảnh cũ, vậy mới nói là
chấn hưng được. Cái này nền "quốc học" của nước ta tiên sinh đã
nhận rằng từ xưa chưa có, mà tôi cũng từng nhận như vậy, thì sao gọi được là
"chấn hưng"?
Ấy ngay từ hồi này, như các bạn thấy,
chẳng phải chỉ có Trịnh Đình Rư hay Phạm Quỳnh chối ta không có quốc học mà cả
Phan Khôi nữa. Phan Khôi còn chối mạnh hơn cả hai ông Rư và ông Quỳnh. Vậy mà
trong bài "Câu chuyện đọc thơ của ông Trạng" Lê Dư chỉ đả kích có
Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh mà không nói gì đến Phan Khôi. Chính sự yên lặng đó
của Lê Dư đã được Phan Khôi nhắc tới trong bài Luận về quốc học của ông khi ông
viết:
"Còn tôi ai khảo mà xưng "Lạy
ông tôi ở bụi này", cái không những là dại mà là dởm. Nhưng vì nếu tôi có
thú khai tôi ra đây thì cái ý nghĩa bài này mới càng đích xác hơn vậy.
"Cái giọng phủ nhận như ông Trịnh
Đình Rư và ông Phạm Quỳnh đó, thưa thiệt, tôi cũng có thốt ra nhiều lần rồi…
Một lần sau mới đây, lời càng thống thiết
hơn, là trong bài "Hán học ở bên Tây" đăng ở báo Đông Tây cách vài
tháng trước. Trong bài ấy đến nỗi tôi muốn nói rằng nước ta từ xưa đến nay
không có cái gì đáng gọi là cái học nữa kia. Những cái luận điệu của tôi đó
tưởng ít nữa ông Lê Dư cũng có thấy qua, song ông chừa tôi ra, là vì ông cùng
tôi có tình anh em riêng, với tôi, ông càng không muốn rắc rối hơn với ông Phạm
nữa.
Ông Lê có lòng tốt đối với tôi như vậy tôi
nỡ nào đi phụ cái lòng ấy của ông? Song tôi nghĩ, cái chân lý giữa cõi học nó
bắt phải để riêng cái tình anh em trong một nhà. Bởi vậy, trong việc này, tôi
phải để mình về bên hai ông Phạm và Trịnh kia, viết bài này cùng ông Lê thương
xác lại vấn đề ấy". (Phụ Nữ tân văn số 94, 6-8-1931).
Cuộc chiến bùng ra gay gắt từ đấy. Nhưng
trước khi đi vào việc trình bầy tiếp cuộc tranh luận này, chúng ta cần tìm xem
quan điểm Lê Dư từ đấy trở về trước đối với vấn đề quốc học như thế nào.
Tôi không được đọc Bạch Vân Am thi văn tập
là tập I trong bộ Quốc học tùng san của Lê Dư in năm 1930, nhưng tôi được đọc
Vị Xuyên thi văn tập là tập II của bộ Quốc học tùng san, in năm 1931. Nơi đầu
tập sách này có hai bài giới thiệu ngắn một của nhà xuất bản Nam Ký thư quán là
nhà xuất bản đứng ra in tất cả sách vở của Lê Dư, một của Sở Cuồng Văn Khố.
Theo chỗ tôi phỏng đoán thì hai bài giới thiệu này cũng đã in ở đầu sách "Bạch Vân Am thi văn tập" rồi nay lại được giới thiệu lại ở Vị Xuyên thi
văn tập. Bài giới thiệu của Nam Ký thư quán mang tựa đề là "Lời bá cáo
của nhà xuất bản bộ Quốc học tùng thư". Vậy lời bá cáo này mở đầu bằng
những đòn sau đây:
"Quốc hồn ở đâu? ở tại tư tưởng, tư
tưởng phát ra làm văn chương, văn chương của các nhà học giả nước ta, từ xưa
đến nay chính là quốc hồn ở đấy nên quốc học cũng ở đấy.
"Ông Sở Cuồng là một nhà đốc chí
hiếu học, cố sức vun bồi nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của nước
ta, ngót mười năm nay ở trường Bác Cổ, lưu lý sưu tập những tài liệu thuộc về
quốc văn, quốc sử biên tập thành bộ "Quốc học tùng san" kể hơn một
trăm tập nào là lịch sử, nào là văn chương, tài liệu như núi như non, từ tảo
như hoa như gấm, đủ chứng minh kho văn học của ta phong phú như vậy, các bậc
tiền bối ta, có công với nền quốc học như vậy" (Lời bá cáo của nhà xuất
bản bộ Quốc học tùng san, trong Vị Xuyên thi văn tập 1931). Đến chính Sở Cuồng
cũng có mấy lời giới thiệu Quốc học tùng san của ông, cũng in ở đầu cuốn Vị
Xuyên thi văn tập như thế này: "Bản Văn Khố muốn lấy sức mọn vun bồi cái
cơ sở nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của nước ta, ra công sưu tập
văn chương và lịch sử của các nhà học giả xưa biên thành bộ "Quốc học
tùng san" này, phương pháp theo lối khảo cổ, cốt thu thập được nhiều tài
liệu cho tiện về sau này, các nhà văn học muốn khảo cứu về vấn đề gì đều sẵn đủ
cả, cho nên cái nội dung có khác với các quyển giáo khoa và các quyển thi văn
tinh tuyển khác, xin độc giả lượng xét cho". Bài giới thiệu này ký là
"Sở Cuồng Văn Khố".
Cứ những bài giới thiệu trên đây thì ta
thấy quan điểm của Lê Dư chưa được minh bạch rạch ròi cho lắm. Nếu quan điểm đó
không chỉ cho quốc học là văn học thì ít ra quốc học hầu như là văn học. Thứ
nhất ta thấy những sách trong bộ quốc học của Lê Dư gồm toàn sách văn chương:
nơi bìa tập sách Vị Xuyên thi văn tập, tác giả liệt kê "Sách bộ Quốc học" của ông chỉ gồm toàn sách văn chương như : Văn đàn bảo giám, Bạch Vân An
thi văn tập, Bằng quân thi văn tập, Ôn Như Hầu thi văn tập, Vị Xuyên thi văn
tập, Việt văn dẫn giảng…Thứ hai là ta thấy Lê Dư hứa sẽ viết một bộ Việt Nam
văn học sử với dụng ý minh chứng nền quốc học Việt Nam rất phong phú. Thứ ba ta
thấy lời giới thiệu của Nam Ký thư quán cũng hiểu quốc học là văn học như trong
câu: Quốc hồn ở đâu? Ở tại tư tưởng, tư tưởng phát ra làm văn chương, văn
chương của các nhà học giả nước ta từ xưa đến nay chính là quốc hồn ở đấy, nên
quốc học cũng ở đấy". Thứ bốn ta thấy chính Lê Dư trong "Mấy lời
giới thiệu" cũng nói đến việc xây cơ sở nền quốc học bằng việc sưu tầm
văn chương:
"Bản văn khố muốn lấy sức mọn vun
bồi cái cơ sở nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của các nhà học giả
xưa, biến thành bộ quốc học tùng san này".
Phan Khôi đã chẳng hiểu quốc học như Lê
Dư, vì thế ông mới viết bài luận về quốc học.
Phan Khôi luận về Quốc Học
Trước hết Phan Khôi nói đến việc dùng danh từ quốc học
trong văn giới Việt Nam cũng như văn giới Trung Hoa mới là từ mấy năm trở lại
đây mà thôi.
Phan Khôi định nghĩa chữ Quốc học rất rành
rẽ. Ông viết:
"Quốc học là một danh từ mà cũ và
mới có nghĩa khác nhau. Hồi trước ta nói "quốc học" tức là cái
trường học cho cả nước; như trường Quốc học ở Huế là lấy nghĩa ấy: Còn chữ
"Quốc học" ngày nay thường dùng là chỉ về cái học riêng của một
nước, có vẻ đặc biệt, có chỗ khác với nước ngoài. Vậy khi nói "quốc học" cũng gần giống như "quốc phục" là y phục riêng của một nước.
Nói "Quốc kỳ" là hiệu kỳ riêng của một nước.
"Chữ quốc học trong bài này chuyên
nói về nghĩa mới là nghĩa sau đó (Luận về Quốc học).
Như vậy, theo Phan Khôi, Quốc học là nền
học thuật, tức nền tư tưởng, nền triết học riêng của một nước đã thực sự ảnh
hưởng, chi phối đời sống của dân tộc nước ấy khiến cho dân tộc ấy thành khác
biệt những dân tộc trên thế giới.
Dựa theo giới thuyết như trên về quốc học,
Phan Khôi đồng tình với Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh mà quả quyết nước ta chưa
có quốc học. Phan Khôi cho rằng đây là một vấn đề học vấn, vấn đề chân lý; có
thì nói có, không thì nói không, chứ đừng vì tình cảm, vì tự ái dân tộc không
đúng chỗ mà phải nhận là có cái ta chưa có:
"Ông Lê nói có, ông lại hứa rồi đây
ông sẽ đem chứng cớ ra. Song, truyện ấy để lát nữa sẽ nói, đây tôi xin tỏ ra
cái cớ tại sao mà chúng tôi phải hô hào lên cho người ta biết rằng nước ta
không có quốc học.
Sự học tức là sự trí thức, nó chuyên
khuynh hướng về lý trí mà không nên xen vào một chút tình cảm. Đức Khổng cũng
dạy rằng cái học của người đời xưa là vị kỷ và bắt đầu từ thành ý nghĩa là
không dối mình. Khi nói về cái học của một người đã vậy thì khi nói về cái học
của một nước cũng vậy. Nếu nước ta quả không có quốc học thì dầu nó là một sự
nhục cho mình đi nữa cũng phải chịu, không nên vì tình cảm mà nói có, cho thành
ra dối mình. Dối mình là một cái hại lớn lắm, cho người cũng như cho nước. Bởi
vì, nếu không mà nói có, ai nấy tin rằng có, sẽ sanh ra lòng tự phụ, mà tự phụ
một cách hư ngụy, rồi không lo tu tấn nữa, nhơn đó cõi học trong nước lại càng
tối tăm thêm. Do lẽ ấy trước khi muốn người nước mình bắt đầu từ ngày nay lập
nên một nền học thuật chúng tôi phải khai thiệt ra cho ai nấy biết cái tình hình
trong cõi học nước ta từ trước ra thế nào ; thấy không có thì chúng tôi phải
nói không có, đó là chỗ trung hậu thành khẩn của chúng tôi, cũng như một nhà
kia ông cha nghèo, thì phải khai thiệt là nghèo, không có một cục đất nào thì
phải khai thiệt là không có một cục đất; hầu cho con cháu mà lo làm ăn vậy.
"Đó, nếu ai đã tin bụng tôi, hoặc
chúng tôi, thì sẽ không trách sự phủ nhận ấy là bội bạc, là vụ nhục nữa ; bây
giờ đây, cái vấn đề chỉ còn là sự "có" với "không" mà
thôi. Như ai nói "có" thì phải đem chứng cớ ra". (Luận về
quốc học).
Sau khi minh định quan niệm và thái độ
thẳng thắn như vậy, Phan Khôi duyệt qua một ít các nhà học giả xưa mà Lê Dư
thường nâng lên như là các ông tổ của nền quốc học Việt Nam thì chỉ thấy họ là
những nhà văn học chứ không ai kiến tạo được một hệ thống tư tưởng riêng biệt
cho xứ sở này.
Phạm Quỳnh luận về Quốc Học
Đồng ý và tiếp theo Phan Khôi, Phạm Quỳnh viết một bài
đại luận "Bàn về quốc học", đăng liên tiếp trên hai số báo Phụ Nữ
tân văn số 104 (15-10-1931) và số 105 (22-10-1931).
Nơi bài số 104 (15-10-1931) Phạm Quỳnh thử
ngược dòng lịch sử duyệt qua một vòng xem có thể tìm đâu ra được vết tích quốc
học không thì Phạm Quỳnh đã phải thất vọng hoàn toàn.
Theo Phạm Quỳnh, anh hùng ta có, liệt nữ
ta có, danh sĩ, cao tăng ta cũng có, nhưng trong "cõi học nước ta, cổ kim
chưa có người nào có tài sáng khởi, phát minh ra những tư tưởng mới, thiết lập
ra những học thuyết mới, đủ có cái vẻ độc lập một "nhà" đối với các
"nhà" khác như bách gia chư tử bên Tàu ngày xưa" (Bàn về quốc
học, P.N.T.V. số 104). Cái học của ta, Phạm Quỳnh thấy toàn thị là cái học mướn
mà học mướn ấy cũng chưa học cho đến nơi đến chốn… Tổ tiên ta chỉ chú trọng đến
cử nghiệp cho nên rút cục sau hàng ngàn năm các cụ học hành mà con cháu ngày
nay nhìn về các cụ chẳng tìm thấy gì gọi được là học thuật tư tưởng đứng đắn
cả. Về việc định nghĩa quốc học là gì, ý tưởng Phạm Quỳnh giống ý tưởng Phan
Khôi, duy có điều Phạm Quỳnh nói sau nên có chiều khúc chiếc gẫy gọn hơn. Ông
nói: "Quốc học là gồm những phong trào về tư tưởng học thuật trong một
nước, có đặc sắc khác với nước khác, và có kết tinh thành ra những sự nghiệp có
trước tác lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả trong nước ấy" (Bàn về quốc học, P.N.T.V. số 104).
Cứ theo định nghĩa ấy Phạm Quỳnh đã đồng ý
với Phan Khôi mà bảo rằng nước ta chưa có quốc học. Rồi từ đó ông đi tìm nguyên
nhân đã xui khiến nên tình trạng buồn tủi kia. Phạm Quỳnh cắt nghĩa sự thiếu
vắng kia bằng ba lý do vừa địa lý, vừa lịch sử, vừa chính trị. Về địa lý, nước
ta quá bé nhỏ cho nên hầu như bị Trung Hoa nuốt chửng nên bị mất hẳn độc lập về
tinh thần.
Về lịch sử, nước ta càng bị nước Tàu đè
nén hơn nữa. Ngoài 10 thế kỷ nô lệ, Việt Nam trong suốt thời độc lập vẫn phải
đối phó gay go cơ cực với Tàu. Ấy là chưa nói đến việc ta coi các học thuyết
truyền từ Tàu sang đều là tôn giáo cả cho nên không khi nào dám bàn cãi.
Thuộc về chính trị, thì nước ta xưa kia bị
cái nạn quân chủ chuyên chế. Nhà vua đã đặt ra một lối học rất gò bó để làm
tiêu chuẩn tuyển chọn người tài thành ra bao nhiêu sáng kiến tư nhân bị tiêu
diệt dần đi.
Sau khi đã nhìn về dĩ vãng mà nhận định
vấn đề như vậy, Phạm Quỳnh đã hướng về tương lai mà đặt vấn đề: làm sao để xây
dựng được một nền quốc học? Nếu đã tố cáo cái học nô lệ theo Tàu xưa kia thế
nào, thì Phạm Quỳnh lại chống cái học hòa đồng theo Tây như vậy. Cả phần thứ
hai của bài bàn về quốc học, tức bài số 105 (P.N.T.V. số 105, 22-10-1931), Phạm
Quỳnh dành cho việc phân tích nghiên cứu vấn đề để tìm một lối thoát cho tương
lai đang lúc Tây phương chi phối chúng ta nặng nề chẳng kém gì Tàu đồng hóa các
cụ ta xưa kia. Phạm Quỳnh muốn đề ra một triết lý văn hóa, nó sẽ là linh hồn,
là cơ sở cho nền quốc học tương lai. Triết lý đó là triết lý dung hòa. Ông viết: "Muốn cho gây được thành một cái quốc học riêng của mình, thì phải dùng
phương pháp phê bình khảo cứu của khoa học mà phân tích những học thuyết cùng
nghĩa lý cũ của Á đông ta rồi đem ra nghiền ngẫm, suy nghĩ, đối chiếu với những
điều chân lý cùng những sự phát minh của khoa học thái tây. Kết quả của sự phân
tích cùng tổng hợp đó, tức là tài liệu để gây ra quốc học sau này vậy"
(P.N.T.V. số 105).
Lê Dư trả lời cả Phạm Quỳnh lẫn Phan Khôi
Sau loạt bài của Phan Khôi đến của Phạm Quỳnh, đến
lượt Lê Dư lên tiếng. Không như những lần khác, lần này quan điểm của Lê Dư
được trình bầy khá minh bạch. Người ta có thể không đồng ý với ông nhưng biết
rõ ông muốn gì chứ không như trước đây. Có lẽ những lời công kích ông trước
đây, đã khiến cho Lê Dư suy nghĩ và cô đúc lại để đặt ra một lý thuyết cho chữ
quốc học mà trước kia có lẽ ông chưa có ý kiến rõ rệt.
Lê Dư cũng tự nhận thấy rằng sự không rõ
rệt đó đã xui khiến nên những cuộc tranh luận mà ông cho là vô ích cho nên ông
viết bài "Vấn đề quốc học" ghi rõ định nghĩa và nội dung quốc học
(P.N.T.V. số 107, Nov 1931).
Lê Dư đã định nghĩa quốc học: "Quốc
học là học vấn, kỹ thuật của một nước: học vấn kỹ thuật ấy là cái cố hữu của
mình hay là cái mình học của người nhưng đã thay đổi nhiều lắm, nay trở thành
cái cố hữu của mình mà người ta không ai có" (P.N.T.V. số 107).
Sau khi định nghĩa, Lê Dư mô tả nội dung
của quốc học : " Quốc học là đối với các học vấn ngoại lai như: Hán học,
Phật học, mà nói có chỗ đặc biệt mà từ xưa đến nay đã có học phái, có ảnh hưởng
đến nhân quần xã hội ta; người ngoại quốc bàn đến cái học ấy, phải cho là cái
học đặc biệt của người nước Nam, không giống nước nào hết" (Bàn về quốc
học).
Rồi Lê Dư kể lễ các yếu tố làm nên quan niệm quốc học theo ông hiểu:
"Đã là quốc học thì nội dung phải
bao hàm cả quốc văn, quốc sử, quốc túy ở trong.
"Quốc văn – lấy nhất ban quốc văn
học làm chủ như các học thuyết, lý thuyết những sách vở của tiền nhân đã trứ
thuật để lại và những quốc ca, quốc ngữ (chữ nôm và chữ quốc ngữ) đặc biệt của
ta.
"Quốc sử – lấy nhất ban chính trị sử
làm chủ như cách tổ chức, cách hành động về chính trị và những pháp luật, chế
độ, phong tục, tập quán, kỹ thuật đặc biệt của ta.
"Quốc túy – lấy nhất thiết trường sở
mỹ điểm thuộc về vật chất, về tinh thần của dân tộc tính cố hữu mà do cái tình
hình địa lý và nguyên nhân lịch sử đã dưỡng thành trong mấy mươi thế kỷ nay.
"Ba cái ấy, tôi đã nhận thấy là quốc
học của ta và là chủ nghĩa của tôi chủ trương đó (P.N.T.V. số 107).
Sau đó Lê Dư bảo đó chẳng phải ý kiến lập
dị riêng của ông mà là chủ trương của cả cái dân tộc cực văn minh là dân tộc
Nhật Bản. Và chỉ ai dốt nát không biết như vậy mới dám phủ nhận nền quốc học
phong phú của ta. Ta đọc thấy những dòng đại khái như sau đây của Lê Dư ám chỉ
về những người bảo ta chưa có quốc học: "Ôi! sao các ông không xét đến
sự thật và tình hình học vấn nước nhà xưa nay, mà đã vội mạt sát tiền nhân như
vậy?
"Ôi! không căn cứ theo sách vở,
thì dễ nói bậy bạ, cho nên tôi thường có một câu cách ngôn rằng: không biết
pháp luật thì dễ nói ngang, không xem sách vở thì sẽ nói càn"
(P.N.T.V. số 107)
Lời lẽ của Lê Dư như các bạn thấy trên đây
quả là kết án bọn các ông Phạm Quỳnh, Trịnh Đình Rư, Phan Khôi là dốt nát.
Nguyễn Trọng Thuật giàn hoà
Sau bài công kích của Lê Dư, Nguyễn Trọng Thuật đứng
ra hòa giải qua bài "Điều đình cái án quốc học". Đây nguyên
là một bài diễn thuyết ông đọc tại Hội Trí Tri Hải Dương ngày 26-11-1931, rồi
sau lại đăng tải trên Nam Phong tạp chí số 167 ra tháng 12 năm 1931.
Nói là hoà giải, là điều đình, nhưng thực
ra Nguyễn Trọng Thuật đứng hẳn về phe Lê Dư, công kích phe Phan Khôi, có điều
là Nguyễn Trọng Thuật công kích bằng lời lẽ phải chăng mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật mở bài diễn thuyết của
ông bằng việc ghi nhận nội dung và lý do vụ án mà ông gọi là "vụ án quốc
học".
"Hiện nay trong nước ta đang có một
cuộc tranh luận về vấn đề quốc học, là cái học riêng của một nước. Nó khác với
nghĩa quốc học cũ nghĩa là cái nhà trường học của cả nước như xưa. "Khởi
xướng ra hai chữ quốc học về nghĩa mới ở ta đây là ông Lê Dư; cãi lại rằng
nước ta không có cái học đáng gọi là quốc học là ông Phan Khôi. Hai bên tranh
luận ở báo Đông Tây Hà nội, thành ra một cái học án cho học giả trong nước đang
bàn xét".
Nguyễn Trọng Thuật có trách Lê Dư, nhưng
điều ông trách Lê Dư là điều rất nhẹ. Theo ông, cái lỗi của Lê Dư, nếu có, chỉ
là Lê Dư "sơ ý một chút" mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật viết:
"Nay xét đến nguyên nhân cuộc
tranh luận này, thì chỉ ông Lê Dư sơ ý một chút để nên chuyện mà thôi. Nguyên
ông làm trong trường Bác Cổ Hànội đã lâu năm, khảo cứu sưu tập được nhiều những
tập văn thi nôm của nước ta, nay ông muốn đem in dần ra làm một bộ sách tùng
thư thuần về bản quốc. Ông lấy việc làm như thế là nó thuộc vào một phần trong
khoa quốc học như của Nhật Bản đó. Ông bèn đặt tên cho bộ sách ấy là "Quốc học tùng san". Cuốn in mở đầu là "Bạch Vân Am thi tập",
trên đầu bìa có bốn chữ tên bộ sách như thế…"
Ngoài ra, cũng theo Nguyễn Trọng Thuật,
cái sơ ý của Lê Dư là ở chỗ dùng một từ ngữ với một nội dung mới mà không minh
định trước cho độc giả biết cái nội dung mới mẻ ấy.
"Đại phàm mới phát minh ra một danh
từ về chủ nghĩa gì hay là mới thâu thái nó ở đâu mà đem xướng lên cho xã hội
thì phải giải thích cho rõ cái tính cách của nó ra trước. Bởi vì ngày nay
thường một danh từ mà nghĩa mới nghĩa cũ, nghĩa rộng nghĩa hẹp nhiều lắm, thế
mà ông Lê không giải thích cho cái tên quốc học mà ông mới dùng ấy một câu nào
cả. Lại quyển "Bạch Vân Am thi văn tập" ông Lê giữ tính cách biên
tập và tồn cổ, cho nên ông không có bình luận gì vào đấy một câu nào. Nghĩa là
chỉ để cho học giả được đủ nhiều tài liệu để nghiên cứu mà thôi. Nhưng ông cũng
không dặn cho người ta biết thế. Ở cái đời khoa học thực nghiệm này, trông
ngoài bìa sách thấy hai chữ "quốc học" mới mẻ to tát, mở cuốn sách
thấy một ít lời sấm, thì ai cũng phải ngờ. Ấy vì thế nghị giả nhận sai nghĩa
chữ quốc học đi mà thành lầm".
Nguyễn Trọng Thuật cho rằng chính bởi thiếu
minh định nội dung từ ngữ như vậy mà làm cho Phan Khôi hiểu lầm. Ông phân tích
và bàn giải về sự lầm lẫn của Phan Khôi một đàng vì không hiểu biết nội dung từ
ngữ quốc học theo nghĩa của Nhật bản, một đàng vì thiếu sự tìm tòi và đối chiếu
các tài liệu cũ của ta với nhau vì so sánh chúng với các nước khác. Đó là ý
nghĩa của đoạn văn sau đây:
"Nay xét ra nghị giả lầm vì hai cớ
này: một là không biết đến cái nghĩa quốc học đan thuần của Nhật Bản, nhận
thấy ở Trung quốc đâu đầu đời Dân quốc, có một phái nào đó xướng lên lấy sách
bách gia chư tử làm quốc học để đối với Tây học đang tràn vào. Quả như lời nghị
giả thì nghĩa quốc học ấy là ngoan cố khoa đại đấy, quả thế thì lầm. Hai là
nghị giả không đem thời đại học thuật của nước nhà mà so sánh với xa gần, và
đồng thời không chịu lượng xét cho học giới ta xưa bị những trở lực gì mà dù có
ít nhiều điều biệt kiến cũng phải tiêu trầm, rồi không chịu khó bới móc trong
chỗ giấy rách mà nhặt nhạnh lại, nhất diện cứ câu chấp ở đống sách bề bộn của
Tàu mà kết án cho cổ nhân mình, kết luận rằng: "Nước ta không có cái học
gọi là quốc học". Xét ra thì ý nghị giả muốn nói về cái học chung của thế
giới kia, mà gọi lầm là quốc học đấy, chứ quốc học thì nước nào mà chả có.
"Song le dù đối với cái học chung
của thế giới đi nữa, so với cụ Khổng, cụ Phật cùng Đông châu chư tử thì cổ nhân
ta không những không có mà lại còn là học đồ, nhưng so với bạn học cùng cái
thời đại học thuật với nhau, nghĩa là so với các học giả Hán, Tống, Minh Thanh,
mà đời kêu là đại nho thì cổ nhân ta đời nào cũng có như thế đấy, chỉ vì số
nhiều không biết trọng mà để trầm mai đi, thì còn lấy đâu mà thành lập lưu hành
được. Chứ nếu đều được thành lập lưu hành đến nay cả thì đã chả có cái cảnh
tượng học thuật khủng hoảng như bây giờ…"
Đoạn văn trích trên đây cho ta thấy Nguyễn
Trọng Thuật chủ trương rằng tổ tiên ta có thua kém thì chỉ thua kém cụ Khổng,
cụ Phật thôi, chứ có thua kém gì bách gia chư tử của Tàu và các học giả của
Nhật.
Để minh chứng cho lập trường trên, Nguyễn
Trọng Thuật phân biệt cái học ra làm quốc học và thế giới công học rồi lần lượt
định nghĩa, mô tả thế nào là quốc học và thế giới công học: "Cho
được hiểu rõ hai điều lầm của nghị giả trên này, tôi xin bàn giải, so sánh và
chứng dẫn luôn làm một bài khảo cứu như sau này, các ngài tự suy xét phán đoán
lấy, chứ tôi không muốn theo cách biện luận tỉa tách từng lời, cãi vặt từng câu
nữa".
"Dưới đây trước tôi phân giải cho
hai cái học ở trong học giới các nước ngày nay là quốc học với thế giới công
học khác nhau thế nào. Rồi tiến lên xem học thuật Việt Nam đối với hai cái học
ấy; về quốc học thì lấy nghĩa của Nhật Bản rồi xem Việt Nam sẽ có những gì, về
thế giới công học thì trước xét ở Trung quốc, ở Nhật Bản về đồng thời xem thế
nào, rồi xét đến Việt Nam xem thế nào.
"Hai cái học trong học thuật thế
giới:
"Học thuật các nước thế giới đến
ngày nay là hoàn bị và tinh tế, song lấy quốc tính mà phân ra thì có hai loại là quốc học và thế giới công học. Quốc học là cái học riêng chỉ một mình nước
ấy có. Thế giới công học là cái học chung của các nước học lẫn của nhau.
"Coi đó thì biết quốc học tức là cái
học bất dịch, chỉ một nước ấy có, chỉ người nước ấy cần phải học, hoặc là chỉ
người nước ấy mới có thể học thâm thấu được, còn nước khác không có, người nước
khác không cần phải học, hoặc là có học cũng không thâm thấu được. Đến như thế
giới công học thì là cái học chung, là cái học biến dịch, nghĩa là tùy thời mà
đổi mới tùy thời mà khứ thủ không nhất định được.
"Ví như một người, quốc học là phần
bản thể; thế giới công học là phần bồi dưỡng. Bản thể thì cần phải nuôi cho
lớn khôn khỏe đẹp ra mà không bỏ và thay chỗ nào được, nếu bỏ hay là thay chỗ
nào thì là bất cụ, quá thì chết. Còn bồi dưỡng thì nếu nhà có thì chớ, bằng có
mà thiếu, hoặc có mà xấu, hoặc không có đi nữa thì cứ lấy ở ngoài…
"Xem thế thì về thế giới công học,
thiếu đâu cứ cầu ở ngoài, đã hủ rồi thì cứ cải lại, hoặc khử cả đi, hoặc phát
kiến thêm ra được để đóng góp với đời càng tốt. Đến như quốc học thì phải có
sẵn cả rồi, là cũ kỹ tích lũy chứ không phải là mới. Hoặc có nhãng bỏ thì nay
đem ra, có tản mát thì nay thu tập lại, chứ không phải đi chuốc ở đâu đem vào
được".
Như vậy, theo Nguyễn Trọng Thuật, cũng như
theo Lê Dư, quốc học gồm có "quốc sử, quốc văn, quốc thần, địa dư
chí, cổ điển, ca dao và văn thi. "Quốc sử thì gồm có" sử ký, liệt
truyện, gia phả và bi ký"; Quốc văn tức là "ngôn ngữ văn tự",
tức cũng là "cái gốc của cõi học một nước", quốc thần thì gồm
"những vị thần từ Hùng Vương trở xuống nào quốc tổ, nào vĩ nhân cùng
những vị có công đức", địa dư chí thì biên chép các nơi danh thắng trong
nước; cổ điển tức là "chính trị của lịch triều"; chế độ của xã
hội, phong tục của dân gian; ngạn ngữ phong dao là "cái kho tự điển văn
luật, vừa là một pho kinh, điển của cả một dân tộc kinh nghiệm hoặc sở đắc về
luân lý, về phép hành vi, về mỹ cảm", văn thi là "kho tàng văn học
thơ của các văn nhân thi sĩ".
Sau khi đã phân tích và mô tả quốc học và
thế giới công học là thế nào rồi, Nguyễn Trọng Thuật dựa vào các quan niệm đó
mà duyệt lại lịch sử của Việt Nam, của Trung Hoa, của Nhật để minh chứng, ở mọi
địa hạt, ta không có thua kém gì Trung Hoa hay Nhật Bản, có chăng ta chỉ thua
kém là không có một "cụ Khổng", một "cụ Phật" mà thôi.
Cuối cùng Nguyễn Trọng Thuật, căn cứ vào
lịch sử để trình bày một cách cụ thể nền quốc học và nền thế giới công học như
là đã có cơ sở liên tục qua suốt cả lịch sử Việt Nam. Cái học của Việt nam dưới
con mắt của Nguyễn Trọng Thuật quả cũng đã có trường phái đàng hoàng. Ông viết:
"Tóm lại học thuật Việt Nam trong
một thời đại, cả Nho học Phật học đều có ba cái tính chất khác nhau là hợp
sáng, biệt sáng và toàn mô phỏng." Ba tính chất ấy có những học phái này: "Về Nho học, tính chất hợp sáng có Hán nho đích Việt Nam học phái, tính
chất biệt sáng có Chu An thực hành học phái, Hoa Việt Nho học phái, Quế đường
học phái hay là Lê Nguyễn nho học phái, tính chất toàn mô phỏng có Tống nho học
phái".
Như vậy, chẳng những ta không thua kém Tàu
hay Nhật mà cũng không đến nỗi hổ thẹn nếu so sánh với các nước trong thiên hạ.
Nguyễn Trọng Thuật diễn tả ý tưởng đó ở đoạn sau:
"Bởi vậy tôi đã ví quốc học là bản
chất, ví những cái học cũ ở Á Đông là nhà trường Đông phương học; mà những cái
sở đắc cũ là những cái bằng tốt nghiệp trước vậy. Bây giờ bạn học cũ đã đều lên
trường cao đẳng mới, ta dù chậm chạp cũng đã tìm thấy cổng trường, nhưng trước
khi thụ giáo, ta phải tự sát hạch lại cái bằng tốt nghiệp cũ của ta là phải
lắm. Cái bằng tốt nghiệp cũ của ta, về món quốc học, những tài liệu về bản
chất, so với bạn học cũ dẫu chẳng được toàn ưu điểm gì, nhưng cũng ưu liệt
tương bán. Về món công học dù bị nội giới ngoại giới cùng số nhiều ham mê về cử
nghiệp khiến cho có sở đắc mà không được lưu hành, có lưu hành mà được một số
ít người hoặc được một thời kỳ ngắn ngủi ; song những tinh thần chủ nghĩa như
là điều hòa siêu việt với thực tế, thực hành minh đạo hóa dân, tự tín, tự giác
về quốc âm thổ sản như trên ấy, thực đã biết đem cái học công hữu của thế giới
biến hóa ra làm cái học độc hữu của một nước rồi đó".
Qua sự phân tích bài "Điều đình cái
án quốc học" như trên đây, các bạn đã nhận thấy Nguyễn Trọng Thuật, tuy
nói là không bênh bên nào, mà kỳ thực thì đã bênh Lê Dư và kết án Phan Khôi. Có
điều là lời lẽ Nguyễn Trọng Thuật nó thanh lịch, kín đáo, nhẹ nhàng.
Phải chăng vì vậy mà Phan Khôi không chấp
nhận sự hòa giải của Nguyễn Trọng Thuật qua bài "Bất điều đình" của
ông đăng ở báo Đông Tây số 133. Tiếc rằng bài "Bất điều đình" của
Phan Khôi tôi chưa được đọc cho nên không biết Phan Khôi đã trả lời Nguyễn
Trọng Thuật những gì: hiện giờ tôi chưa làm sao tìm ra được tờ Đông Tây nào.
Phan Khôi chống sự giàn hòa của Nguyễn Trọng Thuật
Nhưng cứ đọc bài Siêu Việt công kích Phan Khôi vì Phan
Khôi không chấp nhận sự điều đình của Nguyễn Trọng Thuật thì cũng biết qua được
thái độ của Phan Khôi đối với Nguyễn Trọng Thuật. Để phản đối cái việc Phan
Khôi không chịu nhận sự hòa giải của Nguyễn Trọng Thuật, Siêu Việt đã trích
những lời Phan Khôi buộc tội những ai muốn điều đình đều là hạng người hèn nhát:
"Người ta mà ưa làm kẻ điều đình là
chỉ vì có ý sợ khó, có ý chiều đời, có ý thích làm lớn, bằng không có ý đó thì
bản thân cái thuyết điều đình chẳng đứng một mình được vì nó vừa đen vừa trắng
hay là không đen không trắng, dễ nói quá, mà chẳng có nghĩa gì" (theo bài
"Đọc bài Bất điều đình của ông Phan Khôi" trong báo Đông Tây số
133, An Nam tạp chí số 43, 1-6-1932).
Sau khi đã trích câu văn của Phan Khôi,
Siêu Việt lấy nó để mà đả kích Phan Khôi là ngụy biện thiếu tư cách của một học
giả tự xưng là trọng luân lý: "Ông Phan Khôi thường tự nhận là một nhà
học giả, song đọc đoạn văn trên vừa rút ở bài của ông, tôi không thể coi là cách
lý luận của học giả được; gọi là cái luận điệu của trạng sư thì đúng hơn. Cái
bản thân của sự điều đình thế nào? Nó có hại và vô giá trị không, ông Phan hãy
cùng tôi nghiên cứu" (Siêu Việt, An Nam tạp chí, số 43).
Phản đối việc Phan Khôi không chịu điều
đình, Siêu Việt đã định nghĩa thế nào là điều đình theo nghĩa triết học. Ông
viết: "Điều đình hay là tổng hợp cũng vậy, có khi thì là cái chung cục
của một cuộc biến, mà có khi lại là cái mầm của một cuộc biến khác. Một lý
thuyết dù hay dù dở, bao giờ cũng có một phái tán thành, hết sức duy trì lấy
nó. Đồng thời lại có một phái khác phản đối lại. Bởi đó, sự xung đột của hai lý
thuyết mà rút lại thì là sự điều đình vậy. Hết cuộc biến thiên này lại kế tiếp
một cuộc khác, nhân loại tiến hóa không biết tới đâu mới là cùng" (An Nam
tạp chí số 43).
Sau khi đã tranh luận với Phan Khôi về ý
nghĩa của chữ điều đình, Siêu Việt lại thương xác với Phan Khôi về thái độ cực
đoan của Phan Khôi. Cũng nhờ Siêu Việt mà ta biết Phan Khôi có chủ trương cực
đoan. Siêu Việt trích lời Phan Khôi: "Đại phàm sự học nhờ ở sự cực đoan
mà mới có tiến bộ. Nói về triết học, ai có khuynh hướng về duy vật thì cứ duy
vật đi. Mỗi bên đều cứ theo chỗ mình tin tưởng dựa vào luận lý học và phát huy
nghĩa lý cho tới cùng như vậy nền triết học mới càng ngày càng chói sáng thêm.
Học giả bên Tây sở dĩ tấn tới mau lắm là nhờ đi theo con đường đó. Con đường đó
là gì? Chẳng phải là sự quan ma tư ích cho nhau của hai cái thái cực duy tâm
và duy vật là gì?" (Siêu Việt An Nam tạp chí số 43).
Trích lời Phan Khôi rồi, Siêu Việt lại bàn
giải về vấn đề cực đoan như là một phương tiện trên đường khám phá chân lý. Như
chỗ tôi hiện biết, thì hình như cuộc tranh luận đã ngừng lại ở đấy. Vấn đề tuy
chưa ngả ngũ hẳn ra đàng nào, vụ án quốc học cũng khai mào cho việc đặt ra rất
nhiều vấn đề văn hóa xã hội và hối thúc học giả đi vào con đường tìm kiếm, giải
quyết: Văn học nhờ vậy mà tiến bộ rất nhiều.
6 - Vụ án thơ cũ thơ mới
Phạm Quỳnh chê thơ Đông Phương
Chẳng phải đột ngột, bất thần mà có cuộc cách mạng về
thơ. Cuộc cách mạng ấy, thực ra, đã âm ỉ chuẩn bị từ lâu. Năm 1917, trên Nam
Phong tạp chí, số 5, nơi bài "Bàn về thơ nôm", Phạm Quỳnh nhân đọc
cuốn Cổ xúy nguyên âm của
Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến đã tỏ thái độ về thơ cũ mà ông coi luật lệ thực không
có khác luật hình: "Người nào thuộc luật thì bằng trắc tất không lộn,
vẫn tất áp, luật tất niêm, điệu tất xứng, đối tất chỉnh, sánh những khóe thôi sao, giỏi những cảnh xuất sáo mà gây nên những bức thanh âm tuyệt điệu; người
nào không thuộc luật thì phạm phải những tội ghê gớm, đọc đến mà rùng mình:
nào là tội thất luật, tội thất niêm, tội khổ độc, tội cưỡng áp, tội trùng ý,
trùng chữ, điệp điệu". (Bàn về thơ nôm, Nam Phong số 5, Nov, 1917). Sau
khi đã nêu lên những lề luật chật hẹp như vậy, Phạm Quỳnh chê tâm lý của cái
thứ thơ ấy là thứ tâm lý đã bị sửa chữa thành ra giả tạo: "Người ta
thường nói thơ là cái tiếng kêu tự nhiên của con tâm. Người Tàu định luật
nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại cái tiếng kêu ấy cho nó
hay hơn, trúng vần, trúng điệu hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng
thiên nhiên đi vậy (Bàn về thơ nôm, Nam Phong số 5).
Sau đó, Phạm Quỳnh giới thiệu hai bài thơ,
bài "Qua đèo ngang" của bà Huyện Thanh Quan, và bài "Soir en
montagne" của Léonce Depont và trình bày cho độc giả nhận thấy thơ Tây
tình tứ, dồi dào, siêu việt bao nhiêu, thì thơ ta giả tạo, tiểu xảo, gò bó bấy
nhiêu. Và ngay từ hồi này Phạm Quỳnh hình như cũng mong có một sự đổi mới bằng
sự bắt chước Pháp trong khi ông viết:
"Bọn ta ngày nay thực là đứng giữa
nơi giao giới của hai cái tinh thần ấy, hai cái gặp nhau ở ta, nếu ta khéo ra
thì có thể điều hòa được cái hay của hai đằng mà không mắc phải những khuyết
điểm. Ta cứ nên giữ lấy cái lối tranh cảnh của ta nhưng ta nên rộng cái khuôn nó
ra một tí mà bắt chước lấy cái vẻ thiên thú của người" (Bàn về văn nôm, Nam
Phong số 5).
Phan Khôi chê thơ cũ trên Đông Pháp
Nếu năm 1917 đối với thi ca cũ, Phạm Quỳnh mới chỉ dám
trách nó là quá ư nghiêm ngặt nhưng vẫn nhận nó là tuyệt xảo thì năm 1928 trên
Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã dám táo bạo chê luật lệ thơ cũ của ta là trói
buộc, tù hãm đã vậy mà lại còn thô tục nữa: "Song từ ngày đem thất ngôn
luật vào khoa cử rồi thì thể ấy trở nên bó buộc quá mà mất cả sanh thú... Ấy chỉ
là luật riêng dạy về lối làm thi trong việc khoa cử mà thôi, nào có phải cái
phép tắc chánh truyền của nghề thi như vậy? nhưng mà ngày nay người ta cũng
tuân theo, không biết cởi mình ra khỏi trói. Thấy có
một vài cuốn sách quốc ngữ tự xưng dạy phép làm thi mà cũng dạy theo lối thi
khoa cử ấy, thì thật là tục quá. Thi quý cho nhã; mà đã tục thì còn dạy ai?" (Chương dân thi thoại, tr 46).
Nguyễn Văn Vĩnh và bài thơ con se sầu và con kiến
Cũng năm 1928 này, lần đầu tiên ta thấy xuất hiện
trên Trung Bắc Tân văn, bài thơ đầu tiên không
niêm, không luật, không hạn chữ, hạn câu: bài thơ dịch của Nguyễn văn Vĩnh La
Cigale et la Fourmi:
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối.
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối.
Trịnh Đình Rư công kích thơ Đường
Năm 1929, Trịnh Đình Rư viết một loạt bài về vấn đề
thi ca trong mục "Văn thơ với nữ giới" đăng trên Phụ Nữ Tân Văn mà
ta có thể kể ra làm thí dụ tiêu biểu các số sau đây: số 18 (25-8-1929), số 19
(5-9-1929), số 26 (24-10-1929), số 29 (21-11-1929), số 31 (5-12-1929), số 33
(19-12-1929), số 62 (20-2-1930).
Trước hết ông trình bày cho ta thấy thi ca
của ta từ xưa cho đến nay không phải dừng bến bỏ neo ở mãi một chỗ mà vẫn biến
hóa từ đời này qua đời khác, từ chỗ nô lệ hoàn toàn đi đến chỗ vay mượn chế
biến cho tới hình thức sáng tạo độc lập đặc thù.
Thực vậy, nơi số 13 ngày 25 Juillet 1929
Trịnh Đình Rư viết: "Văn chương theo từng thời vận mà biến đổi. Từ triều
Lê trở về trước nhân dân ăn ở dưới quyền quân chủ, dân trí hãy còn thuần ngạc
cho nên thơ văn về những thời kỳ ấy toàn là những giọng chất phác cả...Từ cuối
đời Lê cho tới triều Nguyễn gần đây dân trí hơi mở mang dần, văn chương có điều
lịch sự hơn trước, song cái tư tưởng về xã hội chưa có cho nên các nhà làm văn
phần nhiều là chỉ tả cái chí khí, cái tâm sự cùng cái hứng thú của mình...
"Cách mười năm về trước đây, sự học
nước ta đã thay cũ đổi mới, các nhà học giả đua nhau chuộng về văn quốc âm,
song buổi đó là buổi quốc văn mới phôi phai, lại chưa chịu đủ cái sức trào lưu
ở ngoài thúc giục, cho nên những tập văn thơ xuất bản về hồi ấy, toàn thấy
những bài phi tình thì sầu, phi sầu thì phiếm, ngày nay thức giả cho là vô vị
mà hồi đó ai cũng ưa chuộng ngâm nga?
"Văn chương là hồn nước. Hồn nước
tỉnh dần thì văn cũng phải đổi mới...
"Ta thử xem ngay ông Nguyễn Khắc
Hiếu. Năm xưa xuất bản những tập "Khối tình con" "Còn chơi" kể có biết bao nhiêu là văn thơ gọt nặn tỉ mỉ.
"Thế mà đến hồi năm kia ra chủ
trương tạp chí An Nam cho đến sau vào viết bài ở Đông Pháp thời báo, thì thơ
văn của ông thấy đã đổi hẳn ra giọng khẳng khái và hùng hồn không?" (Phụ
Nữ Tân Văn số 13).
Trịnh Đình Rư cũng tố cáo sự chuyển hướng
mãnh liệt nơi chính bản thân ông: "Kẻ viết bài này nhân cũng xin thú
thực rằng: hồi năm 1919 đã có xuất bản một tập văn thơ nhưng sau tự xét thấy
thiệt là vô vị nên sau đó những thơ văn làm ra có thể tiếp tục in thêm được vô
số tập nữa, lại tự xét cũng không thấy ích gì cho xã hội, vậy đã quả quyết mà
đem các bản thảo phó cho thần lửa thu hết." (Phụ Nữ Tân Văn số 13).
Sang đến số 19 (5-9-1929), nơi bài "Vì đâu mà chuộng thơ sầu cảm?", Trịnh Đình Rư nhìn nhận rằng hầu hết thi
ca của ta lúc bấy giờ đều là thứ thơ sầu cảm rỗng tuếch, vô vị chứ đâu có được
thứ sầu cảm to tát, sâu xa.
Sự sầu cảm vô vị và rỗng tuếch của thi ca
Việt Nam, theo Trịnh Đình Rư, có lẽ vì nó bị gò bó bởi luật thơ Đường quá ư
chật hẹp.
Có lẽ chính bởi vậy mà bài khảo luận sau
đó, đăng Phụ Nữ Tân Văn số 26, 24-10-1929, Trịnh Đình Rư đã kịch liệt chống đối
bài bác thơ Đường.
Trong bài này, Trịnh Đình Rư đả kích thơ
Đường luật khá gắt gao: "Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó
cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời,
song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ
bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường
luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề
thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy.
"Chính những nhà văn sĩ, nữ sĩ ở Trung
Hoa gần đây, họ cũng ít chuộng thơ Đường luật này nữa, vì họ cho là một lối thơ
bó buộc, làm cho người ta khó tả được hết cái cảm hứng. Cho nên họ có làm thơ,
thì hoặc dùng lối "trường thiên" không có hạn vần, hạn câu, hoặc
dùng các lối từ khúc không cần phải đối ghép tỉ mỉ. Ấy là lối thơ của họ mà
ngày nay họ cũng đã tự cải cách rồi đó. Ta còn cứ thần phục lối thơ Đường, nô
lệ thơ Đường mãi sao?".
Trịnh Đình Rư, tuy đả kích thơ Đường mạnh
mẽ là thế, nhưng chưa có đề nghị một lối thơ mới nào cả mà chỉ mới dám đề nghị
lấy thơ "lục bát", "song thất lục bát" thay thế mà thôi
:
"Ngày nay ta nên biết rằng, hai lối
thơ đó mới thiệt là thơ nước nhà, nó không có bó buộc người ta hạn câu, phải
nặn chữ như là lối thơ Đường luật. Nề nếp của nhà, văn chương của nhà, tiếng
nói của nhà, mà ta theo đòi luyện tập thì còn gì dễ hơn và hay hơn?"
(Trịnh Đình Rư, "Có nên chuộng thơ Đường luật hay không?" Phụ Nữ
Tân Văn số 26, 26-10-1929).
Ngoài ra Trịnh Đình Rư còn viết thêm ba
bài ca ngợi những thể thơ hoàn toàn Việt Nam. Số 29 (21-11-1929 cực tán lối thơ
lục bát: "Viết một bài thơ lục bát, chữ đã không cần phải đối, vần lại
không phải đeo nhiều, vui bút kéo đến trăm câu, muốn gọn viết một bài vắn, cái
thú hạ bút tự do toàn ở tác giả cả. Vả lại thơ lục bát còn có một cái thú nữa,
là một bài thơ nếu có lời lẽ khá, có ý tưởng hay, thì người đọc dễ biết và dễ
cảm".
Đến số 31 (5-12-1929) ông ca ngợi thơ song
thất lục bát. Theo Trịnh Đình Rư, song thất lục bát chẳng những hay hơn thơ
Đường mà còn hay hơn cả lục bát vì nó tự do, nó uyển chuyển hơn.
Sang số 33 (19-12-1929) ông đề cập đến một
lối Ca mới mà ông cho là cũng thuần tuý Việt Nam và rất tự do: "Nay tôi
lại xin nói đến một lối ca mới này, là một lối ca do điệu thơ lục bát mà thêm
đặt ra thành từng câu. Lối ca này hiện ở ngoài Bắc đang thịnh hành lắm, thường
đi chơi khắp kẻ chợ nhà quê, đến đâu cũng nghe có người hát điệu ca này; giọng
hát thì nhiều người cho là giọng "sa mạc" còn điệu văn thì nhiều
người cho là điệu ca "anh khóa"!
"Bởi sao gọi là điệu ca "anh
khóa" bởi vì họ cho rằng khởi đầu từ bài "Tiễn chưn anh khóa"
của ông Trần Tuấn Khải đặt in ở quyển "Duyên nợ phù sanh" xuất bản
năm xưa" (Phụ Nữ Tân Văn số 33).
Cuối cùng đến số 42 (20-2-1930), nơi bài
"Văn thơ nên trọng về ý tưởng", Trịnh Đình Rư lại đả kích thơ cũ vì
gò bó về niêm luật mà ý tưởng phải bị hy sinh: "Cái nghề thơ Đường luật
khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới
lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng
dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái
qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ
này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy". (Phụ Nữ Tân Văn số 42).
Cái ý tưởng này, Trịnh Đình Rư nhắc đi
nhắc lại luôn qua tất cả năm sáu bài ta đã kể trên đây.
Phan Khôi kịch liệt đả kích thơ cũ và đề nghị cải cách: Làm bài thơ Tình
Già
Nhưng phải đợi mãi đến ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phụ
Nữ Tân Văn, số 122, mới cho nổ trái bom nguyên tử vào thành trì thơ cũ làm cho
nó hầu bị sụp đổ tan tành. Phan Khôi là người chỉ huy cuộc tấn công này. Thật
vậy, trên Phụ Nữ Tân Văn số 122, ra ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phan Khôi đã viết
bài "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ". Trong bài này,
trước khi "trình chánh" một lối thơ mới của ông, Phan Khôi đã chĩa
súng bắn tới tấp vào thành trì thơ cũ. Từ xưa ông vẫn làm thơ, mà rồi bẵng đi
ông chẳng sáng tác được bài thơ nào nữa. Ông gặp ông Phạm Quỳnh, ông này khuyên
ông nên làm thơ như cũ vì Phạm Quỳnh cho rằng đấy là nghề của Phan Khôi. Học
giả họ Phan suy nghĩ và lấy lời ông Phạm Quỳnh làm phải và đã cố gắng làm theo
ông Phạm Quỳnh nhưng chẳng đi đến kết quả nào cả. Phan Khôi đã bộc lộ tâm sự buồn
chán, bất lực của ông mặc dầu trước đấy trong làng thơ ông cũng là tay đáo để,
đã không làm thơ thì thôi chứ đã làm là phải hay cả. Ông viết: "Ông Phạm
bảo tôi nên lấy lại thái độ ngâm thơ hồi trước. Trong đó tỏ ra rằng bấy lâu tôi
đã bỏ mất hay là đã đổi cái thái độ ấy đi, nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm
thơ. Và quả thế, gần mười năm nay, tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ
gì cũng không có.
"Trước kia dầu tôi không có tên tuổi
trong làng thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần Tuấn Khải, song ít ra trong
một năm tôi cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng chữ hán, hoặc bằng chữ nôm. Mà
năm bảy bài của tôi, không phải nói phách, đều là năm bảy bài nghe được. Vậy mà
gần mười năm nay mót lắm chỉ được một vài bài mà thôi, thì kể như là không có".
Mà Phan Khôi bảo ông không làm chẳng phải
vì ông không muốn, không thèm làm mà thực là ông "mót" làm lắm mà
làm không được. Ông đưa ra các lý do khiến ông không làm nổi bài thơ nào:
"Xin thú thực với mấy ông thợ thơ. Không có không phải là tại tôi không
muốn làm hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được!
"Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan
giở ra ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi như nó lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì
ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô cho án trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? thì cụ
Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi làm cho tôi thở không ra. Cái
ý nào mình muốn nói, lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói
rồi.
"Cái ý nào họ chưa nói mình muốn nói
ra, thì lại bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té
ra mình cứ loanh quanh luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật đã dễ tức".
Mà bởi tức như vậy, cho nên Phan Khôi chửi
thơ cũ là giả dối, là đáng bỉ. Các bạn nên chú ý đến chữ "bỉ" mà
Phan Khôi dùng để nói về thơ cũ: "Đại phàm thơ là để tả cảnh tả tình, mà
hoặc tình hoặc cảnh cũng phải quý cho chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất
ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng theo ra lối
thất cổ...cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị câu thúc thì nó mất cái chơn đi,
không mất hết, cũng mất già nửa phần.
"Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một điều đáng bỉ, là bài nào cũng như
bài nấy. Cứ rủ nhau khen hay thì nó là hay, chớ nếu lột tận xương ra mà xem thì
chẳng biết cái hay ở đâu"
Nếu chỉ có thế thôi thì chẳng có gì là đặc
biệt. Trịnh Đình Rư mà có lẽ cả Phạm Quỳnh nữa cũng đã chê trách thơ cũ gay gắt
rồi.
Cái mới đặc biệt, có thể coi như quái gở
nữa là khác đối với học giả đương thời là ở chỗ ông bày ra một lối thơ mới mà
ông chưa biết gọi tên là gì.
"Bởi vậy tôi rắp toan bày ra
một lối thơ mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên là lối gì được, song có thể
cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là: đem ý thật có trong tâm khảm mình tả
ra bằng những câu, có vận mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết".
Sau khi giới thiệu sơ lược như vậy về thơ
mới của ông, Phan Khôi đã trình làng một bài thơ mới, bài Tình Già.
Tuy là một bài thơ mới đầu tiên, bài Tình
Già của Phan Khôi đã táo bạo hơn cả những thơ mới ra đời sau đấy xét cả về cách
gieo vần, cách đặt điệu, cách dùng tiếng vv... Câu thơ của Phan Khôi dài lượt
thượt, câu ngắn nhất cũng trên mười chữ, câu dài nhất có tới mười sáu mười bảy
chữ... Luật bằng trắc đã bị phá vỡ hoàn toàn, cho nên câu thơ của Phan Khôi còn
gần văn xuôi hơn cả các thơ tự do ngày nay.
Sau khi trình làng thơ rất "hỗn loạn" của ông, Phan Khôi phải thanh minh rằng chẳng phải bởi lập dị hiếu sự mà
ông làm như vậy, nhưng bởi ông thấy trên miếng đất thơ cũ ông đã mất chỗ đứng
cho nên ông phải đi tìm đất mới. Ông chẳng dám tin rằng bài thơ của ông sẽ
thành công vì mươi năm trước đã có người làm như vậy mà đã thất bại nhưng nói
tiên tri rằng có người sẽ làm như ông mà sẽ thành công: "Chẳng phải là
tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi
kiếm đất mới; mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng biết có ở được không, nên
mới đem ra mà trình chánh giữa làng thơ.
"Chẳng phải tôi là người thứ nhất
làm ra việc này. Hơn mười năm trước ở Hà Nội cũng đã có một vị thanh niên làm
việc ấy mà bị thất bại. Tôi dại gì lại đi theo cái dấu xe đã úp? Nhưng tôi tin
rằng cái lối thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một chỗ đế đô mà cái
vượng khí đã tiêu trầm rồi ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc
đề xướng của tôi đây sẽ thất bại lần nữa, nhưng tôi tin rằng sau này có người
làm như tôi mà thành công".
Lưu Trọng Lư hưởng ứng thơ mới
Gương Phan Khôi có người soi ngay và lời tiên tri của
ông đã ứng nghiệm (tôi tin rằng sau này có người làm như tôi mà thành công) đó
là trường hợp của Lưu Trọng Lư.
Lưu Trọng Lư đã gửi cho Phan Khôi một bức
thư đính kèm hai ba bài thơ mới được Phụ Nữ Tân Văn đăng số 153 đầu tháng 6 năm
1932, tài liệu mà sau này báo Phong Hoá cho đăng vào số Xuân, tức Phong Hoá số
31 ra ngày 25 Janvier 1933.
Trong bức thư này trước tiên Lưu Trọng Lư
như có ý trách Phan Khôi đã đánh trống bỏ dùi trong lúc thi ca Việt Nam đang ở
trong thời kỳ ngấp ngoải vì thi đàn lúc nhúc toàn tụi thị nhân rỗng tuếch; rồi
ông mô tả thế nào là một "chân thi nhân"; sau đó ông hô hào canh
tân thi ca nếu cần phóng túng buông lung thì cứ phóng túng buông lung đừng do
dự ngần ngại; sau cùng ông khuyên người ta tin vào tương lai của thi ca lúc
này mờ tối bấp bênh:
"Phan Tiên Sinh,
"Cách đây đã lâu, Tiên Sinh đã có
đưa trình chính giữa làng thơ một lối thơ mới. Tôi đọc bài rồi tôi cứ đợi mãi
đợi mãi mà sau tiên sinh không thấy có ai nối gót theo mà chính tiên sinh hình
như cũng không muốn giở dói việc ấy nữa. Thế là thôi. Cái "của mới"
ấy có lẽ chưa thích hợp với đời này. Mấy muôn độc giả đã yên trí như vậy, mà
hẳn Tiên Sinh cũng từng chau mặt giậm chân mà nói rằng: Thôi, không ai ưa thì
ta xếp nó lại đã, đợi khi khác ta lại mang ra". Thưa Tiên Sinh, đợi khi
khác, khi nào nữa. Thi ca ta ngày nay đang lúc ngấp ngoải, không còn có lấy một
chút sinh khí. Nếu không xoay phương cứu chữa gấp, thì ôi thôi, còn chi là tính
mạng của thi ca?? Đừng có nói láy lắt như vậy tiên sinh ạ! Nếu tiên sinh cứ
giữ mãi cái thái độ tiêu cực ấy thì bọn thi nhân "rỗng tuếch" kia
còn cứ ca đi hát lại những câu sáo hủ nghìn xưa mà không thấy nở ra được những
bậc thi nhân chân chính.
"Hẳn tiên sinh cũng hiểu rằng, những
bậc chân thi nhân không bao giờ lại chịu đứng trong cái "lãnh thổ"
hẹp hòi ngột ngạt, mà có thể đưa tâm hồn người ta lên tận mây xanh phảng phất
trên những sự nôm na, phàm tục, vật chất hàng ngày.
Những nhà chân thi nhân, thà là chỉ rung
động (vibrer) trong mình mình chứ không chịu xuất phát ra ngoài, mà để cho
những cái niêm luật khắc khổ, làm đẹt mất cái hồn thơ lai láng mênh mông. Người
ta thường khen Anatole France Tiên sinh trọn đời giữ được cái cốt cách thuần
túy của thi nhân, chính là vì lẽ đó. Trong thi giới ta dễ thường được mấy người
như thế? Phần nhiều nhà thi nhân cần phải xuất phát ra ngoài để cho nỗi lòng
được nhẹ nhàng, hể hả.
"Nếu cứ phải uốn nắn theo khuôn khổ
chật hẹp, như hiện tình thi ca nước nhà, thì họ phải thất vọng biết dường nào!
Vậy ta còn ngần ngừ gì nữa, mà không mở rộng cái "lãnh thổ" kia ra,
để mặc sức cho họ đem những cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi vùng vẫy. Làm
vậy, hoặc giả có kẻ hoài nghi mà bảo rằng: "Phóng túng buông lung quá
rồi thành ra lộn xộn, mất cả nề thơ". Trong cái lúc quá độ, ắt phải như
thế, có buông lung, có phóng túng mới có thể phát triển hết những cái rất hay,
rất quí, rất đẹp trong mình, tuy có nhiều lộn xộn, nhưng một ngày kia thành
thục rồi, sẽ trở vào trong những cái nguyên tắc lề lối, rộng rãi hơn, tự do
hơn.
"Cái lối thơ mới của chúng ta là
đương ở vào thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu. Không biết rồi
đây nó đi được đến chỗ thành công, hay là nửa đường bị đánh đổ! Đó là sự bí
mật của lịch sử văn hóa mai sau! Dầu thế nào đi nữa nó cũng có giá trị là giúp
cho sự tự do phát triển của thi ca, đưa thi ca đến một chỗ cao xa rộng lớn, nó
như thúc giục, như khiêu khích, như kêu gọi nhà thi nhân ra làm một cuộc canh
tân dầu có thất bại, thất bại vì lòng mong ước quá cao, thì nó cũng đã hiến cho
ta một cái công lớn: nó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc
đương triền miên trong cõi "chết".
Trong lúc ban đầu mà đã mong có những tay
"Thầy thợ" chơn chính (véritables maitres) thật là không thể nào
được. Nhưng trái lại, nếu có ai xem thường những người sáng kiến ra cái lối
"thơ mới" kia, tưởng e rằng cũng đắc tội với tiền đồ văn học nước
nhà lắm vậy". (Phụ Nữ Tân Văn số 153, tháng 6-1932).
Đồng thời với việc Lưu Trọng Lư làm công
việc khen ngợi, hối thúc Phan Khôi bên Phụ Nữ Tân Văn, thì trên An Nam tạp chí
số 39, ra ngày 30-4-1932, Vân Bằng, trong bài "Tôi thất vọng vì Phan Khôi", nhân trách Phan Khôi thất lễ với Nguyễn Tiến Lãng, đã mô tả Phan Khôi
như là con người ưa lập dị, việc gì cũng muốn làm khác người. Vân Bằng đã có
những mỉa mai sau đây về Phan Khôi tác giả một lối thơ mới. "Vừa
đây, ông lại ra công "sáng chế" ra một lối thơ "tân thời" tự do, đặc biệt, không cần niêm luật, tự ý vắn dài làm cho nhiều người
"hoài cổ" phải ngậm ngùi thương tiếc. Tám vế "luật đường" có lẽ vì sự phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng?
"Đó, cái công trình vĩ đại của ông Phan Khôi
đối với quốc văn là thế, cho nên văn tài ông được nhiều người bái
phục, như ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng
"bạn Phan Khôi" của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi
là "Alphonse Daudet của Việt Nam" (Vân Bằng, An Nam tạp chí số 39,
30-4-1932).
Như vậy, có lẽ Vân Bằng là người đầu tiên
chống lại nhà thơ mới Phan Khôi. Có điều là những điều nói mỉa mai của Vân Bằng
về Phan Khôi chẳng dè lại hóa thành lời tiên tri. Quả thực là tám vế luật
đường sẽ vì sự phát minh của Phan Khôi mà bị mai một, và quả thực Phan
Khôi đã làm một công trình vĩ đại.
Nhưng ở ngay buổi đầu này, hình như những
người nghĩ như Vân Bằng có lẽ đông hơn nhưng những người lên tiếng như Vân Bằng
chưa có đông mà ngược lại những người làm công việc như Lưu Trọng Lư có
lẽ đông đảo hơn. Phong Hóa ngay từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, đã lên
tiếng kịch liệt đả kích thơ cũ và hô hào bênh vực thơ mới. Bài hô hào đó được
trích nhắc lại trong Phong Hóa số xuân 1933, tức số 31, 24 tháng giêng năm 1933
với lời mở thế này: "Trong số báo 14, Phong Hóa đã bàn về những chỗ không
hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của thơ đường luật". Tác
giả bài ấy kết luận rằng "bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ,
nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới
văn thể, mới ý tưởng. Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương đề gửi
cho ông Phan Khôi, nói về lối thơ điệu mới của ông, ý tưởng có nhiều chỗ giống
với ý tưởng bản báo" (Phonh Hoá số 31, trang 16).
Lưu Trọng Lư đã từng gửi bài đăng ở Phụ Nữ
Tân Văn số 153, vào tháng 6 năm 1932, rồi lại gửi đăng ở Phong Hoá số 31 ra
ngày 24 tháng 1 năm 1933 vẫn chưa lấy làm thoả mãn nên tháng 5 năm 1933, khi
cho xuất bản tập tiểu thuyết đầu tay, Người Sơn Nhân, ông còn cho đính kèm ở
phần hai một bài đả kích thơ cũ ca ngợi thơ mới. Đó là bài "Một cuộc cải
cách về thi ca".
Bài "Một cuộc cải cách về thi ca" này còn được kèm theo 14 bài thơ mới. Xét về nội dung bài "Một
cuộc cải cách về thi ca" này, ta không thấy có gì mới mẻ hơn bức thư đã
gửi cho Phan Khôi gần một năm về trước. Có điều là ở bức thư trước kia, Lưu
Trọng Lư phàn nàn là chưa có ai hưởng ứng, còn ở đây Lưu Trọng Lư ghi nhận là
trên văn đàn đã có khuynh hướng, tức đã có phong trào thơ mới:
"Gần đây trên trường văn học nước
nhà thấy nảy ra một cái khuynh hướng mới lạ, mệnh danh là thơ lối mới, muốn cởi
trói thi ca ra khỏi cái niêm luật khắc khổ. Biểu hiệu cho cái khuynh hướng ấy,
đáng kể nhất có ông Nguyễn Thế Lữ ở báo Phong Hóa và cô Nguyễn Thị Kiêm ở Phụ
Nữ Tân Văn. Cả hai coi bộ sốt sắng lắm. Nhưng cái "thi trào" ấy còn
nóng mãi hay là sẽ nguội dần, đó là sự bí mật của lịch sử văn học tương lai ta
không thể đoán trước được" (Người Sơn Nhân).
Sau khi nhận định như vậy về sự phôi thai
của thơ mới, Lưu Trọng Lư tấn công thơ cũ, chửi thơ cũ, nhất là cái thứ thơ cũ
được chế tạo rất giả hiệu đang bày biện ở các cửa hàng. Nó là thứ thơ chẳng thơ
tí nào: "Một hôm tôi vào một rạp hát nọ tôi không biết là người ta diễn
vở tuồng gì, nhưng khi tôi vào là nhằm khi một chú hề đương pha trò trên sân
khấu. Chú bông lơn thế nào mà thiên hạ cười như lười ươi nắc nẻ mà tôi
thì...khóc không được. Tôi tiu nghỉu ra đi, vẫn nghe tiếng cười vỡ rạp.
"Cái tiếng cười của rạp hát nọ đã
chết rồi, vì nó lạt lẽo, vô duyên quá. Ai bảo thi ca nước nhà với tiếng cười ấy
chẳng cùng chung một số phận. Ta thử tìm trong những cái vườn thơ của ta có gì
là hoa thơm cỏ lạ đâu nào? Trong những bài thơ xuất bản trên các báo ngày nay,
dưới ký cái biệt hiệu mỹ miều đó, rặt là những câu trần ngôn sáo ngữ, đúc đi
luyện lại từ xưa đến nay, không thêm bớt, không sứt mẻ. Các tay thợ kia chỉ
chuyên một mặt từ chương âm vận: lựa chữ cho kêu, tìm điển cho lạ, đem cái áo
văn chương hoa hòe sặc sỡ mà mặc cho những cái tình cảm yếu đuối, những cái tư
tưởng tầm thường.
"Cả một đám thanh niên rỗng tuếch,
mềm nhũn, ươn hèn đều tấp tểnh tập thói rung đùi, nặn câu, cũng khóc thời khóc
thế, khóc gió khóc giăng...Họ ca đi ca lại mà không thấy chán, những cái mà một
Cống Quỳnh hay một cô Xuân Hương đã quên nhãng. Họ gây lên một cái phong trào
làm thơ rất náo nhiệt, tưởng họ đưa được tâm hồn người ta lên phảng phất, tiêu
diêu trên sự nôm na chật hẹp hàng ngày, nào hay chỉ tổ làm cho người ta thêm
long tai điếc óc" (Một cuộc cải cách về thi ca, Người Sơn Nhân).
Một đoạn như đoạn trích trên đây cho ta
thấy Lưu Trọng Lư đã đi xa hơn Phan Khôi. Phan Khôi mới chỉ chê thơ cũ xưa kia
và thú nhận chính ông bất lực không làm nổi thứ thơ ấy nữa. Chứ Lưu Trọng Lư
chẳng những chửi thơ cũ mà chửi tùm lum tất cả các người đang làm thơ cũ lúc
ấy. Phải chăng vì vậy mà gây nên phản ứng mãnh liệt trong làng thơ cũ như các
bạn thấy sau này.
Sau cùng Lưu Trọng Lư đã bộc lộ tâm tình
của thế hệ trẻ đang khao khát cái gì mới mẻ, đang say sưa chờ đón những thay
đổi, đến nỗi ông dã ví người "thanh niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi
tìm người thi nhân của mình, như người con đi tìm mẹ". (Người Sơn Nhân):
"Ai cũng biết người thanh niên Việt
Nam ngày nay đã chán nản về những sự chính trị ồn ào mà vô hiệu, đã thất vọng
về những cái mộng tưởng mỹ miều mà giả dối. Người thanh niên Nam Việt ngày nay
chỉ ao ước có một điều, một điều mà thiết tha hơn trăm nghìn điều khác là được
có một nhà thi nhân hiểu thấu mình mà yên ủi mình, một bậc thiên tài lỗi lạc đi
vào tận tâm hồn của mình, đến những chỗ cùng sâu, mà vạch những cái kín nhiệm
uất ức, rồi đưa phả vào những cái âm điệu du dương cho mình được nhẹ nhàng thư
thả. Một việc khó khăn như vậy, tưởng các người Tùng, Tuy ngồi đếm câu, chọn
chữ mà làm được ư?
"Người thanh niên Nam Việt ngày nay
đau đớn về những cái đau đớn mà nhà thi nhân Nam Việt chỉ ngồi ca hát những nỗi
khổ buồn xưa. Còn gì chán bằng bắt ta buồn mãi cái buồn réo rắt, u uất của
người cung nữ đời Tần? Còn gì khổ bằng bắt ta sầu mãi cái sầu dằng dặc, âm
thầm của nàng chinh phụ?"
"Người thanh niên Nam Việt ngày nay
đương bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình, như con đi tìm mẹ. Có ai thấy cái
tình cảm thảm thiết ấy không?" (Người Sơn Nhân).
Lưu Trọng Lư xuất bản "Người Sơn
Nhân" vào khoảng tháng 5 năm 1933. Cuộc chiến giữa thơ cũ và thơ mới bùng
ra dữ dội từ đấy. Hoài Thanh và Hoài Chân, trong bài tựa "Một thời đại
trong thi ca", đã phác họa lịch sử thi ca trong vòng mười năm 1932 đến
1942, nhất là đã ghi nhận cuộc chiến bùng ra giữa thơ cũ và thơ mới.
Các phe bênh thơ cũ
Sau đây là phe phái bênh thơ cũ:
"Aout 1933, một tuần sau cuộc diễn
thuyết thứ nhất của cô Nguyễn Thị Kiêm, ông Tân Việt, bỉnh bút báo Công Luận,
bênh vực thơ cũ tại diễn đàn hội Khuyến học Saigon. Octobre 1933: Văn học tạp
chí, Hànội, chê các nhà thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng.
"Novembre-décembre 1934: Tản Đà nói
chuyện thơ mới, thơ cũ trên Tiểu thuyết thứ bảy.
"Décembre 1934: Trên Văn học tạp
chí ông Hoàng Duy Từ phản đối bài diễn thuyết của ông Lưu Trọng Lư tại nhà học
hội Qui Nhơn.
"9 Janvier 1935: Ông Nguyễn Văn
Hanh diễn thuyết tại hội Khuyến học Saigon.
"6 Janvier 1935: Ông Nguyễn Văn
Hanh lại diễn thuyết tại hội Khuyến học Saigon cùng hôm với cô Nguyễn Thị Kiêm
(diễn thuyết tranh luận).
"Avril 1935: Hai ông Tường Vân và
Phi Vân xuất bản tập thơ cũ "Những bông hoa trái mùa" ở Vinh.
"Juin 1935: Ông Tùng Lâm Lê Cương
Phụng công kích thơ mới trên Văn học tuần san, Saigon.
"Avril 1936: Ông Thái Phỉ công kích
thơ mới trên báo Tin Văn Hànội.
"Aout 1937: Ông Nguyễn Văn Hanh
diễn thuyết ở hội Quảng Trị Huế.
"Juin 1941: Ông Huỳnh Thúc Kháng,
sau nhiều lần chỉ trích và mạt sát, nói quả quyết rằng thơ mới đã đến ngày mạt
vận" (Hoài Thanh, Thi Nhân Việt Nam, trang 22).
Các phe bênh thơ mới
Về phía các nhà bênh thơ mới, Hoài Thanh ghi: "Từ hai tháng trước, hôm 26 Juillet 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn
Thị Kiêm, đã lên diễn đàn hội Khuyến học Saigon hết sức tán dương thơ mới. Hội
Khuyến học Saigon thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên
diễn đàn và cũng lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như
thế.
"Nối gót cô Nguyễn Thị Kiêm, còn
nhiều diễn giả cũng theo một mục đích: dành lấy phần thắng cho thơ mới.
"Juin 1934: Ông Lưu Trọng Lư diễn
thuyết tại nhà Học hội Qui Nhơn.
"Janvier 1935: Ông Đỗ Đình Vượng
diễn thuyết tại hội Trí Tri Hànội.
"Janvier 1935: Cô Nguyễn Thị Kiêm
lại diễn thuyết tại hội Khuyến học Saigon để tranh luận với ông Nguyễn Văn
Hanh.
"Novembre 1935: Ông Vũ Đình Liên
diễn thuyết tại hội Trí Tri Nam Định.
"Février 1936: Ông Trương Tửu diễn
thuyết về thơ Bạch Nga tại hội Khai Trí Tiến Đức Hànội". (Thi Nhân Việt
Nam trang 19).
Cứ kể bằng ấy mà thôi thì đã thấy Vụ án
Thi ca đã là rầm rộ, gay go, sôi nổi lắm. Rất tiếc rằng hầu hết các bài diễn
văn đôi bên bài bác nhau mà Hoài Thanh Hoài Chân nhắc đến trong bài "Một
thời đại trong thi ca", hiện lúc này tôi không có trong tay. Tôi mong các
bạn sẽ bồi bổ vào bằng việc đi tìm ở các thư viện ở tỉnh, ở các thư viện tư
gia.
Nhưng dù thiếu chưa tìm ra các tài liệu mà
Hoài Thanh nhắc tới, nhưng một tài liệu tôi hiện có trong tay đã thấy nhiều rồi
và càng chứng tỏ chưa có một vấn đề nào, ngoài vấn đề truyện Kiều, đã được văn
giới sốt sắng tham gia góp ý kiến hay quyết liệt bênh vực cho bằng vấn đề thơ
Mới thơ Cũ.
A- Mặt trận bênh thơ mới (1)
Phong Hóa bênh Thơ Mới
Tôi nghĩ gọi phe bênh thơ mới đả
kích thơ cũ là một mặt trận cũng không là quá đáng: chính bọn họ khai chiến,
ngay cả lúc bên mà họ cho là địch không có ai ra ứng chiến. Thực vậy, lai rai từ
lâu trước với Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trịnh Đình Rư và ngay cả chính Phan
Khôi, nhưng đến năm 1932 lại cũng chính cái ông Phan Khôi lai rai lúc đầu đã ra
tay làm cách mạng. Bỏ ngoài phần lớn các tài liệu mà Hoài Thanh và Hoài Chân đã
trưng ra ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam của các ông vì chưa tìm ra, tôi xin phép
trình bày với các bạn theo tài liệu những sách vở báo chí mà tôi có trong tay.
Tôi mong các bạn hợp tác với tôi để bổ túc vào sau. Vậy cũng theo chỗ tôi biết
hiện nay thì, tuy báo Phụ Nữ Tân Văn đã là nơi xuất phát trận tuyến do Phan
Khôi chỉ huy, nhưng tham gia thật sự vào trận mạc lúc ban đầu này lại không phải
Phụ Nữ Tân Văn mà là tuần báo Phong Hóa của Tự Lực Văn Đoàn.
Ngay từ số 14, ra ngày 22-9-1932, Phong Hóa, như các bạn đã thấy ở
trên, đã có lời chửi thơ cũ và hô hào theo thơ mới: "Bỏ luật, niêm, đối,
bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô
lệ. Thơ ta phải
mới, mới văn thể, mới ý tưởng".
Thực ra, đòi cho thơ phải mới
về tinh thần tức mới ý tưởng thì đã có nhiều người nói từ lâu rồi, nhưng mới về
văn thể thì chỉ có từ Phan Khôi (Phụ Nữ Tân Văn số 122, 10-3-1932).
Tiếp sang Phong Hoá số 15 ngày
29-9-1932 nối bài "Sầu thảm nhiều rồi", Việt Sinh chẳng những chửi
thơ cũ mà chửi tất cả văn chương theo lối cũ là chỉ biết khóc, khóc một giọng
rên ư ử từ ngàn xưa: "Xã hội ta xưa nay vốn là một xã hội tiêu điều nhạt
nhẽo. Hơn một nghìn năm chịu đè nén dưới đạo Khổng đứng đắn nghiêm trang, hiểu
lầm chăng, nên chỉ khuôn con người ta vào vòng lễ phép chật hẹp vô cùng.
"Nói không dám nói mạnh,
cười không dám cười to, cái gì cũng như bó buộc, cằn cỗi già sói...
"Văn thơ của ta gần đây
thực như khóc như đầm đìa huyết lệ. Một chữ là một giọt nước mắt để ngậm ngùi
cho "Đạm Thủy với Tố Tâm", xót thương cho "Lê Ảnh với Mộng Hà"...Ta hãy nghe ông Trần Tuấn Khải an ủi lòng người "Anh ơi! anh
ngồi xuống đây, anh xơi chén rượu này, anh nằm ngủ, anh ngủ cho say...kiếp trần
thong thả ngày là tiên!". Ấy thế mà chưa ai ngủ, chỉ riêng Trần Tuấn
Khải đó "phận kém duyên hèn" này mới tự mình ru ngủ lấy mình đến
nay ông thật ngủ yên rồi mà ngọn bút quan hoài hẳn từ nay ráo mực. Ông Đặng
Trần Phất cũng đã yên giấc ngàn năm không bao giờ dậy nữa...
"Mà nào đã hết cái "thái sầu muôn kiếp không tan được" của bà Tương Phố, cái "tân sầu" khóc ve kêu hoa soan rụng của ông Nguyễn Tiến Lãng đã làm rơi biết bao
nước mắt" (Phong Hóa số 15, 29-9-32).
Rồi cũng trên Phong Hóa số 15
ấy, nơi bài "Quốc văn nó đi như sao?" với một giọng châm biếm tác
giả khi thì nhái văn Tản Đà, khi thì nhái văn Hoàng Tích Chu, đã viết một lối
văn bông đùa để chửi khéo tất cả các nhà thơ cũ: "Cho đến ngày nay thì
biết bao nhiêu văn nhân thi sĩ toàn loạt trứ danh nào Hiếu Nguyễn Khắc, nào Bi
Hoàng Tăng, nào Quỳnh Phạm, nào Dư Lê, nào Việt An họ Nguyễn, nào Tuấn Khải họ
Trần kể có vài muôn, nhớ tên sao viết vậy (Phỏng theo lối văn Đức Trần Hưng
Đạo)...số văn sĩ nhiêu phong như thế thì đáng lý ra quốc văn được bành trướng
một cách cấp tốc lắm mới phải! hà cố các áng văn tuyệt tác về vận văn, về tản
văn vẫn hạn hữu? Vì cứ tầm quan sát của bỉ nhân thì chỉ về vận văn mấy tập Kim
Vân Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán ngâm khúc,còn dáng đăng lục luận đề, chứ về
tản văn thì thực tịnh vô nhất quyển" (Phỏng theo văn Phạm Quỳnh)...
"Thiếu ý sáng kiến, lối
văn mới ta không có một. Thành thử không ai có "Xịch tin" riêng. Ta
viết bá láp: lăng nhăng. Hoặc ta theo người xưa: lòng thòng. Còn ý tưởng?
Càng tệ càng cũ không mấy khi dám bước ra ngoài lũy tre trí thức nước Lỗ (Khổng
Mạnh) và nước Sở (Lão Tử).
" Quốc văn muốn
giàu. Phải có nhiều
lối, nhiều lối mới. Lối cũ nào không hợp thời: ta phích!
"Lại phải có tư tưởng mới!
"Mới lên!
"Nào chúng ta nhúng tay
vào làm việc" (Phỏng theo lối văn Hoàng Tích Chu)
Từ đó, hầu như chẳng có số báo
nào mà Phong Hóa không dành dăm ba bài để chửi bới, trêu chọc tất cả các nhà
văn, nhà thơ cũ. Nhưng mũi dùi hình như chĩa thẳng vào lãnh tụ của thơ cũ là
Tản Đà.
Phong Hóa, số 28, 30-12-1932,
nơi bài "Họa nguyên vận", đã mô tả Tản Đà là anh say rượu:
"Anh lên giọng rượu
khuyên Phong Hóa
Sặc sụa hơi men khó ngửi quá
Đã dạy bao lần tai chẳng nghe
Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa!
Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu!
Lưỡi ngắn thì nên co lại nhá!
Phong Hóa mà không hóa nổi anh,
Túy nhân quả thực là nan hóa "
Sặc sụa hơi men khó ngửi quá
Đã dạy bao lần tai chẳng nghe
Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa!
Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu!
Lưỡi ngắn thì nên co lại nhá!
Phong Hóa mà không hóa nổi anh,
Túy nhân quả thực là nan hóa "
Chẳng phải vô tình mà Phong Hóa đánh các nhà thơ cũ:
nó nằm trong chính sách văn học của Tự Lực Văn Đoàn mà chính sách của hội nhà
văn này là theo mới. Dĩ nhiên, Thơ Mới phải được Tự Lực Văn Đoàn tích cực bênh
vực. Như tôi đã nói gián tiếp ở phần trên, nơi bài "Lối Thơ Mới (P.H. số
31, tức số Xuân 1933), trong khi cho đăng bức thư Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới,
Phong Hóa đã nhắc lại lập trường của họ đối với thơ mới, lập trường mà họ đã
bày tỏ từ số 14 ra ngày 22-9-1932: "Trong số 14, Phong Hóa đã bàn về
những chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của lối thơ
Đường luật...Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương để gửi cho ông Phan
Khôi, nói về lối thơ điệu mới của ông, "ý
tưởng có nhiều chỗ giống với ý tưởng của bản báo. Vậy
bản báo vui lòng đăng lên mục văn học và sẽ lục đăng các bài thơ mới của các
bạn thi nhân" (Phong Hóa số 31, 25-1-1933).
Thế là từ đây, ngoài việc viết bài chửi
thơ cũ, bênh thơ mới, Phong Hóa còn chú trọng nhất đến việc đăng tải "thơ
mới của các bạn thi nhân" như họ vừa hứa.
Việt Sinh chê thơ cũ
Thực vậy, cùng ở nơi số 31, tức số Xuân này, Việt Sinh
và Nhất Linh đã chế giễu các ông làm thơ cũ:
Việt Sinh chế Nguyễn Tiến Lãng làm thơ
sáo, đánh cắp văn mà không biết: "Trong bài nhớ Tết năm ngoái "ở
sách" Xem tết", ông Lãng hồn thơ lai láng, cảm vì xuân nên "vụt nghĩ" ra hai câu thơ:
Bức tranh vân cẩu treo rồi xóa
Gánh nợ tang bồng trả lại vay!
Gánh nợ tang bồng trả lại vay!
"Vì ông Lãng "Vụt nghĩ" nhanh quá,
nên ông quên không nhớ đến hai câu thơ Vịnh nhà hát San nhiên năm xưa:
"Bức tranh vân cẩu treo rồi cuốn
"Một cuộc tang thương xóa lại bày!
"Một cuộc tang thương xóa lại bày!
"Nếu chúng ta không nhầm thì hai câu dưới cũng
hơi hơi giống hai câu trên. Mà nếu chúng ta không nhầm thì cái "Vụt nghĩ
ra" của ông Lãng nó "cũng lâu lâu thì phải".
Sau Nguyễn Tiến Lãng thì đến Trần Tuấn
Khải là một nhà thơ lừng danh ở thế hệ trước, cũng bị Việt Sinh chửi là nhai
lại cái cũ rích thành ra đạo văn:
"Trong "Sách chơi xuân"
của Nam Ký, ông Á Nam vì Xuân làm bài thơ rất hay, rất mới:
"Một đời được mấy gang tay,
Một năm được mấy mươi ngày là xuân
Gặp xuân ta phải chơi xuân
Kẻo mai hạ tới thì xuân không chờ!"
Một năm được mấy mươi ngày là xuân
Gặp xuân ta phải chơi xuân
Kẻo mai hạ tới thì xuân không chờ!"
"Hay tuyệt! Câu đầu, cả ý lẫn chữ là câu sáo cũ.
"Câu thứ hai cũng hay như câu thứ nhất.
"Câu thứ ba cũng hay như câu thứ hai.
"Còn câu thứ tư không hay thì là của ông Á Nam".
"Câu thứ hai cũng hay như câu thứ nhất.
"Câu thứ ba cũng hay như câu thứ hai.
"Còn câu thứ tư không hay thì là của ông Á Nam".
Còn Nhất Linh thì chế diễu thơ của Phương
Lang: "Vậy tôi chỉ nói đến bài thơ của ông Phương Lang và xin chép lại
bài thơ ấy ra đây lần nữa:
"Thơ như thế sao gọi là thơ được. Đó chỉ là mấy
câu sai con mà có vần. Bài sai đầy tớ của Ôn Như Hầu cũng chỉ là mấy câu sai
đầy tớ mà có vần và đúng khuôn phép niêm luật. Nó cũng như thơ con cóc mà
thôi...
"Nhất Linh lại xin bắt chước ông
Phương Lang làm bài thơ như thế nữa:
LẠC QUAN
Trông vào nồi, cơm hết.
May còn miếng cháy ròn
Ăn với cá kho mặn,
Ngon!
May còn miếng cháy ròn
Ăn với cá kho mặn,
Ngon!
MỪNG KHỎI BỆNH
Tay tôi mụn ghẻ đầy
May sao gặp thuốc hay
Bôi được một tuần lễ
Khỏi ngay!
May sao gặp thuốc hay
Bôi được một tuần lễ
Khỏi ngay!
"Chắc ông Công Luận phục hai bài thơ này lắm, vì
theo ý ông tôi đã tránh được những tiếng cao nhã (mots nobles) mà toàn dùng cái
giọng thông thường (langage vulgaire) đi thẳng một hơi trôi chảy vô cùng"
(P.H. số 31).
Tứ Ly chế diễu Tản Đà
Sang số 34, 17-2-1933, Tứ Ly lại diễu Tản Đà trở lại:
"Ông Hiếu với thầy Nhan Hồi. Trước kia Tứ Ly ví ông Hiếu với anh Tề Ngã.
Nhưng nghĩ cho kỹ, có lẽ ông Hiếu giống thầy Nhan Hồi. Thầy Nhan Hồi đeo bầu,
ông Hiếu cũng đeo bầu. Bầu Thầy Nhan Hồi đựng nước. Bầu ông Hiếu cũng đựng
nước. Nước trong bầu Thầy Nhan Hồi không có men. Nước ông Hiếu lại có men. Cũng
vì thế, ông Hiếu giống thầy Nhan".
Nếu Tứ Ly viết văn xuôi nhạo Tản Đà thì
Vân Dương làm thơ, mà là thơ mới chửi xỏ Tản Đà, tuy không có gọi tên tuổi Tản
Đà:
"Ngày xuân ngồi ngắm hoa
thuỷ tiên
Lòng thơ bỗng thấy sôi nổi lên
Bắt chước thi nhân ngồi bóp trán
Cố vịnh một bài "đứng ngoài hiên".
Ngoài hiên đứng chờ người bạn quen
Chờ mãi khống thấy dạ ưu phiền
Mây bay, gió thổi, lá bàng rụng
Thi nhân bất nguyện càng buồn thêm
Không thấy bạn quen, ôi ! một thú
Thà vào trong nhà đắp chăn ngủ
Nghĩ vậy vừa toan quay lưng vào
Bỗng thấy một người nắm cái hũ,
Người đó ung dung đi lại gần
Cất giọng lè nhè "Kìa Dương quân,
Ngày tết sao không say túy lúy
Tội gì đứng đấy, rét cực thân".
Chưa kịp trả lời, khách lại nói:
"Người trần ai cũng có tội lỗi
Nên ngày hăm ba cúng ông Táo
Để ngài lập bô cho ít tội.
Chẳng biết ông có cúng gì không?
Riêng tôi chẳng dám để ngài giận
Một cái tầu bay, nghìn tờ công,
Gọi chút "vi thiền" dâng ngài nhận
Thế giới có lắm sự khốn nạn
Tôi đều liệt vào tờ cáo trạng
Đốt, nhờ ông Táo đem lên trời
Để Đức Ngọc Hoàng coi, xét đoán
Này, đứa ngông cuồng, ưa theo mới
Đứa đem quốc tuý, riễu trên báo
Bọn gái đua nhau, mở, lập hội
Tôi đều liệt vào trong tờ cáo
Phải chăng lời tôi nói là đúng
Bác có cùng tôi cùng một bụng
Thôi, nói lâu rồi, tôi xin về,
Về nhà còn phải sửa cỗ cúng..."
Khách khom lưng chào, ung dung đi,
Tôi nhịn không được, bật cười khì
Khách ngoái cổ lại, trợn mắt quát:
- Ô hay Bác này giống người gì!"
Lòng thơ bỗng thấy sôi nổi lên
Bắt chước thi nhân ngồi bóp trán
Cố vịnh một bài "đứng ngoài hiên".
Ngoài hiên đứng chờ người bạn quen
Chờ mãi khống thấy dạ ưu phiền
Mây bay, gió thổi, lá bàng rụng
Thi nhân bất nguyện càng buồn thêm
Không thấy bạn quen, ôi ! một thú
Thà vào trong nhà đắp chăn ngủ
Nghĩ vậy vừa toan quay lưng vào
Bỗng thấy một người nắm cái hũ,
Người đó ung dung đi lại gần
Cất giọng lè nhè "Kìa Dương quân,
Ngày tết sao không say túy lúy
Tội gì đứng đấy, rét cực thân".
Chưa kịp trả lời, khách lại nói:
"Người trần ai cũng có tội lỗi
Nên ngày hăm ba cúng ông Táo
Để ngài lập bô cho ít tội.
Chẳng biết ông có cúng gì không?
Riêng tôi chẳng dám để ngài giận
Một cái tầu bay, nghìn tờ công,
Gọi chút "vi thiền" dâng ngài nhận
Thế giới có lắm sự khốn nạn
Tôi đều liệt vào tờ cáo trạng
Đốt, nhờ ông Táo đem lên trời
Để Đức Ngọc Hoàng coi, xét đoán
Này, đứa ngông cuồng, ưa theo mới
Đứa đem quốc tuý, riễu trên báo
Bọn gái đua nhau, mở, lập hội
Tôi đều liệt vào trong tờ cáo
Phải chăng lời tôi nói là đúng
Bác có cùng tôi cùng một bụng
Thôi, nói lâu rồi, tôi xin về,
Về nhà còn phải sửa cỗ cúng..."
Khách khom lưng chào, ung dung đi,
Tôi nhịn không được, bật cười khì
Khách ngoái cổ lại, trợn mắt quát:
- Ô hay Bác này giống người gì!"
Tứ Ly chế thơ cũ trong vở kịch "Tuồng cổ tân thời"
Chẳng
những viết văn xuôi chửi Tản Đà, làm thơ diễu Tản Đà, Phong Hóa còn soạn kịch
bêu xấu thi sĩ Núi Tản Sông Đà. Tứ Ly soạn vở tuồng lấy tên là "Tuồng cổ
tân thời đăng liên tiếp trên năm số Phong Hóa, tức các số 38
(17-3-1933), số 39 (26-3-1933), số 40 (31-3-19363), số 41 (7-4-1933), số 42
(14-4-1933).
Trong vở "Tuồng cổ tân thời"
này, các nhà văn nhà thơ cũ được trình bày như là tập hợp nhau uống máu ăn thề
lập sào huyệt để đánh cướp và thanh toán bọn Phong Hóa Tự Lực Văn Đoàn. Chủ
trại là Hoàng Tăng Bí, tham mưu là Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Văn Vĩnh, lâu la
là các ông Nguyễn Tiến Lãng, Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Trịng Đình Rư, Lê
Công Đắc vv... Còn bên địch là cả tụi Phong Hoá, nhất là Tứ Ly, Việt Sinh, Nhất
Linh, Nhát dao cạo... Cuộc tranh hùng được trình bầy cực gay cấn, sôi nổi, tàn
nhẫn nhưng cũng cực là trò hề, buồn cười, tố cáo cái ngây ngô, nhiều khi ngu
xuẩn của phe cũ.
Cuộc giao phong của phe cũ tuy nói thì
hăng lắm mà vào việc chưa gì đã mỗi anh chạy tháo thân, kết cục bị Phong Hoá
đánh tan tành. Sự tan tành của đảng bí mật trong Tuồng cổ tân thời là sự tan
tành của lớp văn sĩ, thi sĩ cũ trước sức đi lên của bọn văn sĩ thi sĩ mới vậy.
Thực thế, Tứ Ly đã đặt vào miệng của các nhân vật cũ những lời lẽ ngây ngô, và
để vào người họ những cử động điên khùng, khiếp nhược. Tôi chỉ trích cho các
bạn nghe một vài đoạn Tứ Ly đặt vào miệng Tản Đà, vị tướng soái của làng thơ
cũ. Đây Tản Đà hét nhạc:
"Tản Đà thi sĩ, Khắc Hiếu nãi danh,
làm tham mưu lạm dự chút quyền, chỉ một việc rượu chàn quí tị, thơ sẵn có khối
tình bé tí, văn thời nào mộng lớn, mộng con, rượu càng say ngâm giọng càng ròn,
tiếng ngông đã vang trời dậy đất.
"Ngâm:
Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười
"TÁN: Rứa mà chừ, có tin chủ trại triệu đến
trướng tiền việc dữ lành chưa rõ căn nguyên, mau tới đó cho tường hắc bạch.
"Cười nói: Kha kha! hay chủ trại
nhớ tên lính cũ, phố hàng Bông bán đủ hạng văn, mà bây giờ cho uống cho ăn, để
cho được say lăn lóc (Tham mưu Hiếu cầm hũ ra)...
"Hữu tham mưu Hiếu rót rượu uống.
"Hữu tham mưu Hiếu rót rượu uống.
"TÁN: Say chuyếnh choáng non xanh
còn chẳng thấy, thời mưu cao kế diệt biết đâu tìm, hay bây giờ bọn ta hoá ra
chim, theo giấc mộng bay về nơi tiên cảnh, hay bây giờ ta đem rượu cúc rủ quân
thù đặng chén say sưa, bao giờ cho say đứ say đừ, khi ấy sẽ ra tay trừ khứ!
"(Nói đến đây, hữu tham mưu tuý luý,
gục xuống bàn không còn biết gì nữa) (Hồi thứ thứ nhất số 38 17-3-1933).
Sang đến hồi thứ hai (Phong Hoá số 40,
31-3-1933), Tứ Ly cho Tản Đà ra nghênh chiến với bọn Phong Hoá :" Trong
thành Phong Hoá vẫn có tiếng cười đáp lại : Ha ha ! (Tả tham mưu Hiếu a bạch :-
Thét -): Bớ a!
"Phong Hoá! Phong Hoá! Bọn ngươi
thực là láo quá, ta đây còn chẳng xá kể chi, ta say sưa nào có hại cái gì, mà
chẳng để tuỳ ta sở thích. Ta đây giống Lưu Linh thủa trước, đích thực là Lý
Bạch đời nay, trừ bọn mi, ta quyết ra tay, đem thành quách thu vào trong hũ.
"(Hát khách):
Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tham mưu Hiếu mở hũ ra say lảo đảo)
Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tham mưu Hiếu mở hũ ra say lảo đảo)
"TÁN: Cái thành, cái quách nó ngả,
nó...với giềng, hỡi đồ mách qué.
"NGÂM:
Văn minh Đông Á trời thu sạch
Này lúc luân thường đảo ngược ru? " (Hồi thứ hai).
Văn minh Đông Á trời thu sạch
Này lúc luân thường đảo ngược ru? " (Hồi thứ hai).
Cũng lại Tứ Ly trong mục "Từ nhỏ đến
lớn" (P.H. số 56, 21-7-1933), đã lấy số tử vi cho nhà thơ Tản Đà một cách
rất ư là "xỏ lá" nói theo tiếng Phan Khôi:
"Số ông Nguyễn Khắc Hiếu
"Lấy văn chương mà suy xét thì ông
ấm Hiếu đáng lẽ cũng được văn khúc, văn xương như ông cử Trạc, nhưng xét đến
đường công danh thì không có thể được: hoặc giả văn xương phùng
hình cho nên lao lực linh đinh, chịu làm ông ấm suốt đời chăng? Nếu thế thì di
hận biết thủa nào nguôi.
"Nhưng ông được sao tham lang thủ
mệnh, nên lòng hận của ông không lâu. Vì có câu rằng:
"Tham lam tính bẩm thung dung,
Say miền gái đẹp rượu nồng mùi ngon.
Say miền gái đẹp rượu nồng mùi ngon.
"Gái đẹp thì không có, hay có cũng không được
biết, chứ rượu nồng thì hẳn ông không còn chối vào đâu được!
"Nhưng thế cũng chưa đủ: ông còn là
người cả lo, ông lại còn là một nhà thi sĩ. Nếu vậy thì mệnh ông còn phải có
các sao bạch hổ, tang môn quan phù điếu khách, hoặc chính vị hoặc phụ chiếu. Vì rằng:
"Hổ tang chẳng việc mà lo.
"Quan phù điếu khách hay phô rộng nhời.
"Quan phù điếu khách hay phô rộng nhời.
Rồi cũng nơi Phong Hoá số 56, 21-7-1933,
Tú Mỡ đã làm bài văn tế viếng báo An Nam tạp chí của Tản Đà vừa chết một cách,
theo tiếng nói của Phan Khôi, vừa xỏ lá vừa ba que.
Đây các bạn thử đọc bài văn tế đó. Thật là
tàn tệ.
"Ngày 12 tháng năm dư năm Quý dậu:
"Ngu hữu là Phong Hóa tuần báo đứng
trước linh vị An Nam tạp chí, hậm hực mà than rằng:
- Đỉnh non Tản mây đen mù mịt, quấn băng tang lặng lẽ âu sầu (1),
- Giải sông Đà nước xám lờ đờ, cuộn giòng lệ rền rĩ buồn bã (2).
- Than như không mà khóc cũng như không,
- Im cũng giở mà nói ra cũng giở.
- Nhớ bạn xưa:
- Giấy trắng mực đen,
- Nhà không tiếng cả,
- Dượng tiểu nghiệp văn chương đất Bắc, kế sinh nhai khen đã cố công thay!
- Lấy đại danh tạp chí nước Nam, tuyên chủ nghĩa thực đà to truyện quá!
- Duy trì đạo đức, dương Đông kích Tây.
- Bồi bổ văn minh, dung Âu, hợp Á.
- Giải sông Đà nước xám lờ đờ, cuộn giòng lệ rền rĩ buồn bã (2).
- Than như không mà khóc cũng như không,
- Im cũng giở mà nói ra cũng giở.
- Nhớ bạn xưa:
- Giấy trắng mực đen,
- Nhà không tiếng cả,
- Dượng tiểu nghiệp văn chương đất Bắc, kế sinh nhai khen đã cố công thay!
- Lấy đại danh tạp chí nước Nam, tuyên chủ nghĩa thực đà to truyện quá!
- Duy trì đạo đức, dương Đông kích Tây.
- Bồi bổ văn minh, dung Âu, hợp Á.
"Nhồi độc giả năm pho kinh cổ, nhai lại chi, hồ,
giả, dã, rõ cơ quan tiến thủ giật lùi,
"Ru quốc dân hay hũ thơ sầu, mơ màng tiên, cuội, trời, răng, khiến niên thiếu liên miên bả lả.
"Ố kim Nệ cổ, đã từng phen nắm đuôi ngựa Phan Khôi. Ghét cợt, chê cười, còn nhớ trận vuốt râu hùm Phong Hóa.
" Dằng dai như đỉa đói, chết đi sống lại bao lần,
"Siêu bạt tựa vịt trời, nay đó mai đây mấy thủa.
"Hơn bẩy, tám năm lăn lóc, khi Hà-thành, khi Nam-định ngoẻm trăm ấy, veo nghìn khác, than ôi, thua vẫn hoàn thua ;
"Non ba mươi tháng vật vờ, hết Hàng lọng đến Hàng khoai, thay dạng nọ, đổi hình kia, ngán nỗi khá không thấy khá.
"Vẻ vang thay nghìn rưởi số in,
"Hân hạnh lắm được một trăm độc giả.
"Cứ tưởng tạm ngơi ít bữa, lấy đà dưỡng sức, cho qua thời kinh tế lung lay.
"Nào hay đánh giấc nghìn thu, bặt tiếng im hơi, chẳng thoát nạn lý tài trắc trở.
"Hay là ngán trần tục, viết văn không kẻ hiểu, luống uổng công phu.
"Cho nên thăng thiên đường, tái bản để Trời xem cho cao phẩm giá.
"Ru quốc dân hay hũ thơ sầu, mơ màng tiên, cuội, trời, răng, khiến niên thiếu liên miên bả lả.
"Ố kim Nệ cổ, đã từng phen nắm đuôi ngựa Phan Khôi. Ghét cợt, chê cười, còn nhớ trận vuốt râu hùm Phong Hóa.
" Dằng dai như đỉa đói, chết đi sống lại bao lần,
"Siêu bạt tựa vịt trời, nay đó mai đây mấy thủa.
"Hơn bẩy, tám năm lăn lóc, khi Hà-thành, khi Nam-định ngoẻm trăm ấy, veo nghìn khác, than ôi, thua vẫn hoàn thua ;
"Non ba mươi tháng vật vờ, hết Hàng lọng đến Hàng khoai, thay dạng nọ, đổi hình kia, ngán nỗi khá không thấy khá.
"Vẻ vang thay nghìn rưởi số in,
"Hân hạnh lắm được một trăm độc giả.
"Cứ tưởng tạm ngơi ít bữa, lấy đà dưỡng sức, cho qua thời kinh tế lung lay.
"Nào hay đánh giấc nghìn thu, bặt tiếng im hơi, chẳng thoát nạn lý tài trắc trở.
"Hay là ngán trần tục, viết văn không kẻ hiểu, luống uổng công phu.
"Cho nên thăng thiên đường, tái bản để Trời xem cho cao phẩm giá.
"Than ôi!
"Cùng làng ngôn luận, tân cựu đôi đường,
Nửa kiếp kinh doanh, âm dương hai ngả,
Bâng khuâng luống xót xa lòng,
Tưởng nhớ thêm ngao ngán dạ,
Vừa độ nào ta đây bạn đó,
điều phải chăng còn rũa bút luận bàn,
Mà bây giờ kẻ khuất người còn,
thơ chua chát biết cùng ai xướng hoạ.
Thôi ! chẳng may mỏng phận ngắn đời,
Song nay đã yên mồ đẹp mả.
Ngu hữu gọi là lễ mọn vi thiềng :
Rượu lậu một bầu, trứng tươi hai quả ;
Mực nướng vài con, sò huyết một tá,
Bạn có khôn thiêng,
Xin về chứng quả.
"Cùng làng ngôn luận, tân cựu đôi đường,
Nửa kiếp kinh doanh, âm dương hai ngả,
Bâng khuâng luống xót xa lòng,
Tưởng nhớ thêm ngao ngán dạ,
Vừa độ nào ta đây bạn đó,
điều phải chăng còn rũa bút luận bàn,
Mà bây giờ kẻ khuất người còn,
thơ chua chát biết cùng ai xướng hoạ.
Thôi ! chẳng may mỏng phận ngắn đời,
Song nay đã yên mồ đẹp mả.
Ngu hữu gọi là lễ mọn vi thiềng :
Rượu lậu một bầu, trứng tươi hai quả ;
Mực nướng vài con, sò huyết một tá,
Bạn có khôn thiêng,
Xin về chứng quả.
Tứ Ly chế thơ cũ trong hài kịch "Hội nghị Văn học"
Trong một hài kịch, một
hồi một cảnh, tiêu đề là "Hội Nghị văn học", diễn viên gồm có các
ông Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Phạm Lê Bổng, Phan Khôi,
Nguyễn Công Tiểu, Lê Dư, Tùng Vân, tay hài hước Tứ Ly lại một lần nữa đưa các
nhà học giả ra làm trò cười. Mà nhân vật được chọn làm hề số một vẫn là vị
nguyên soái của làng thơ cũ, thi sĩ Tản Đà:
"Ông Nguyễn Khắc Hiếu (ngồi một xó,
mặt đỏ gay, từ nẫy, chốc lát lại thò tay vào bọc lấy bầu hồ lô ra nốc, loạng
choạng đứng dậy): Thưa các ngài, Viện ta là Hàn lâm viện về... (giọng rượu) văn
chương, không phải về khoa học, ông tú Khôi lý luận xằng xì! (lau trán). Văn
chương là...là... (lưỡi líu dần) mâm gỏi... là... rượu. Cổ nhân có câu "hỏa nhập thi xuất", tưởng anh em ta nên uống rượu cho nhiều, rồi làm việc mới
có ích cho nước.
"Nhát dao cạo: Cho rượu...
"Ông Hiếu: -..Tôi nói gì rồi
nhỉ...(cố nghĩ) À phải...nên nhắm rượu...(rút hũ rượu ra) mời các ngài, văn
chương là... thịt chim (say quá ông ngã gục xuống hũ rượu ngủ...) "
Như vậy, các bạn thấy, buổi đầu này, Phong
Hoá xem ra chưa bày tỏ lập trường minh bạch về thơ mới, thơ cũ mà thường chỉ
làm hai công việc : một là đem ra chế diễu các nhà thơ cũ, nhất là vị lãnh tụ
thơ cũ là Tản Đà được mô tả như là anh chàng hề điên điên khùng khùng; hai là
trịnh trọng cho đăng vào chỗ đích đáng trên hầu hết các số báo những bài thơ
mới của Tú Mỡ, của Thế Lữ, của Nhất Linh, của Tứ Ly, của Huy Thông v.v...
Nhưng vào khoảng cuối năm 1933 sang đầu
năm 1934, thì Phong Hóa đi hẳn vào con đường bênh vực, biện hộ cho thơ mới, phê
bình ca ngợi thơ mới. Nhị Linh trên Phong Hóa số 67 (6-10-1933) đã lên tiếng
chống báo Văn Học tạp chí để bênh thơ mới trong bài điểm báo:
"Một cuốn tạp chí văn học ngoài Bắc
nơi nổi tiếng là đất văn vật - mà luôn mấy kỳ nay toàn rút bài của báo khác làm
xã thuyết, thì cái giá trị của báo ấy cũng đáng ngờ lắm. Dẫu sao Văn Học tạp
chí đã lấy những ý tưởng của báo khác làm ý tưởng của mình, chịu những ý tưởng
ấy là đúng, là hay mà nêu lên trang đầu thì ta cũng cứ bình phẩm bài xã thuyết
kia như là của Văn Học tạp chí.
"Tác giả TR, GI bắt đầu:
"Thường thường các tay thợ thơ ta
bây giờ hay có cái khẩu khí : thơ cốt sao tứ cho cao, lời cho mạnh là được rồi,
chứ hơi nào mà ngồi đẽo từng chữ."
"Biết bao ý tưởng mâu thuẫn trong
một câu nhập đề.
"1. Dù ở Tây phương hay ở Đông
phương, trong làng thơ bao giờ cũng có hai hạng: một hạng là thi sĩ (poète),
hai là thợ thơ (versificateur). Các thi sĩ thì trước hết cốt tứ cho cao, lời
mạnh rồi mới nghĩ tới văn thể. Còn hạng thợ thơ thời chỉ hì hục ngồi gọt đẽo
đục, chạm từng câu, từng chữ như người thợ mộc hay người thợ khắc đục chạm
gỗ...
"2. Người đẽo từng chữ là công việc
một thi gia tầm thường. Đây có lẽ tác giả muốn nói cân nhắc cẩn thận từng chữ.
Song muốn có lời mạnh mà không chịu lựa từng chữ đích đáng thì mạnh sao được .
Muốn tả một sự hùng vĩ mà không chọn những chữ có ý nghĩa, có âm điệu hùng vĩ
thì tả sao nổi.
"Ta coi đó đủ biết tác giả viết chỉ
để viết chứ không có nghĩ ngợi gì."
Nhất Linh công kích thơ cũ
Cũng Nhất Linh, tức Nhị Linh, nơi Phong Hoá số 69,
20-10-1933, đã đi xa hơn bài công kích trên đây mà làm công việc so sánh thơ
mới với thơ cũ : thơ cũ chỉ cần chọn tiếng, chọn chữ cho thật đối, đọc cho kêu,
còn thơ mới cần chọn chữ cho hợp ý. Nhất Linh cho rằng xét chung, về điểm này,
thơ mới hơn hẳn thơ cũ. Ông viết bài "Sự cân nhắc chữ trong thơ cũ và thơ
mới".
"Trong mục "Cuộc điểm báo" số Trung Thu, Nhị Linh có nói đến bài xã thuyết của Văn Học tạp chí, mục
đích chỉ để công kích bọn thi sĩ mới, cho bọn này có tứ cao lời mạnh, nhưng
không biết cân nhắc chữ dùng.
"Văn Học tạp chí, một tờ báo văn học
mà như không muốn khuyến khích các trào lưu mới về văn học, vì chân thành thủ
cựu hay vì không có tài theo kịp bọn mới, nên mới tìm cách dìm bọn này đi. Có
biết đâu là làm như thế mà tự mình dìm mình.
"Đây tôi không muốn bàn xem thơ cũ
hay thơ mới hơn, nên làm thơ cũ hay nên làm thơ mới.
"Tôi chỉ xin nói ngược lại ông TR,
GI ở Văn Học: các nhà làm thơ mới cũng chọn chữ như các nhà làm thơ cũ. Nhà
làm thơ cũ cân nhắc từng chữ, cốt ý để câu văn được chỉnh, đọc lên nghe cho
kêu, có những chữ đối chọi một cách thần tình, khéo léo.
"Nhà làm thơ mới cân nhắc từng chữ
để đo đắn xem chữ nào diễn được cái cảm của mình, tả được cái ý của mình đúng
hơn hết,xem phải cần đến chữ nào, câu thơ mới có cái điệu khả dĩ diễn được sự
rung động của linh hồn mình một cách rõ rệt hơn.
"Đó, hai bên cùng chọn chữ cả: khác
nhau chỉ ở mục đích của sự kén chọn ấy.
"Xin lấy mấy câu thơ cũ nổi tiếng là
những câu tuyệt tác làm thí dụ:
Hai bàn tay trắng làm nên thế,
Một tấm lòng son ở với đời,...
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Một tấm lòng son ở với đời,...
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
"Cái hay của mấy câu thơ cũ này không phải ở ý
nghĩa mà ở những chữ: hai một, trắng son, thế đời, nhớ thương, nước nhà, lòng
miệng, cái con, quốc gia đối với nhau chan chát, hay ở chữ quốc (là con cuốc)
vận lên chữ nước; chữ gia (con gia gia) vận lên với chữ nhà mà chữ nhà lại đối
rất chỉnh với chữ nước. Kể về cách xếp chữ thì thật là một công trình tuyệt
sảo. Nhưng tiếc thay vì quá thiên về cách xếp cho tài tình nên quên mất cái hồn
của câu thơ.
"Trái lại nếu lấy câu thơ mới như:
"Nào đâu những đêm vàng
bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan...;
Mau! bay, trèo mau! đừng lần nữa!
Phải cao, cao nữa, xa, xa nữa...
Ái ân, bờ cỏ ôm chân trúc...
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô...,
...Như khuyên van, như dìu dặt,
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan...;
Mau! bay, trèo mau! đừng lần nữa!
Phải cao, cao nữa, xa, xa nữa...
Ái ân, bờ cỏ ôm chân trúc...
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô...,
...Như khuyên van, như dìu dặt,
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may
"Ta sẽ thấy nhà làm thơ mới chọn chữ một cách
khác hẳn.
"Chữ vàng không cần phải đối với chữ
bạc, mà cốt tả cho thật đúng cái mầu của một đêm trăng trong rừng. Những chữ ái
ân, ôm, để tả sự dịu dàng sự âu yếm của cỏ cây, những chữ hắt hiu, hơi gió heo
may phần nhiều bắt đầu bằng chữ h để tả đúng được tiếng sáo.
"Vẫn biết rằng trong thơ cũ cũng có
chữ dùng đúng chỗ, diễn đúng ý, và trong thơ mới cũng nhiều câu chỉ kêu mà
không có hồn, song nói về toàn thể, thì khác nhau như trên.
Một bên chỉ cốt cân nhắc để tìm những chữ
nào đối chọi nhau, cho ý là phụ, một bên cố cân nhắc để tìm những chữ nào hợp
điệu thơ, diễn đúng ý."
Nguyễn Tường Bách công kích thơ cũ
Cũng như Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách, trong bài
"Thơ mới" (P.H. số 97, 11-5-1934) tuy có công kích một ít thơ mới
lố lăng, thơ thẩn, nhưng đã cực tán thơ mới, cho thơ mới chẳng những không lo
bị tiêu ma, trái lại đã xây dựng được cơ sở rất vững chắc mà còn cho thơ mới về
hầu hết các phương diện đã hơn hẳn thơ cũ: thành thực hơn, mạnh mẽ hơn, hợp
tình hợp cảnh hơn:
"Thơ mới đã bị nhiều người công
kích, cho là chỉ mới ở ngoài vỏ, còn bề trong vẫn cũ rích, và khó đọc khó nhớ
vì không có âm điệu âm luật gì cả.
"Lẽ tự nhiên là trong bao nhiêu bài
thơ mới thế nào cũng có bài chỉ nhặt nhạnh những ý tưởng sáo nhét vào một hình
thể mới. Nhưng đấy chỉ là một số ít. Ta có thể mang nhiều bài ra làm chứng rằng
thơ mới bây giờ đã xứng đáng với tên gọi.
"Thơ cũ chưa bao giờ tả được như thơ
mới,những cảnh vui buồn, âm thầm hay lộng lẫy, những nỗi yêu thương, nhớ tiếc
hay lo sợ, những tính tình trong lòng người, cao hơn nữa, những sự huyền bí
nhiệm mầu của đời người và của vũ trụ. Những bài thơ của ông Thế Lữ, đã tỏ ra
rằng thơ mới đã vượt qua những khuôn sáo chật hẹp của thi văn cũ mà đi vào một
con đường khác rộng rãi, tốt đẹp hơn nhiều.
"Nhưng thơ mới bị công kích nhất là
về phần hình thức. Vì nhiều người làm thơ không biết đặt câu cho có điệu, thành
ra bài thơ chỉ là những câu nói thường có vần thơ. Như thế, không thể gọi là
thơ được. Ta thử nghe mấy câu sau này:
(Trích trong Nhật Tân)
Như những hạt lệ của
người bạn lẻ loi,
Khóc chồng trong lúc đêm khuya lòng sôi
Khóc chồng trong lúc đêm khuya lòng sôi
(Trong Bạn Trẻ)
...Anh khen cái nhăn
mặt của Tây Thi
Anh quên cơn cau mày của gái quê
Anh để ông dật khách là cao phẩm
Anh quên bác thợ cày bùn lấm...
Anh quên cơn cau mày của gái quê
Anh để ông dật khách là cao phẩm
Anh quên bác thợ cày bùn lấm...
(Trong Phụ Nữ Thời Đàm)
...Vừa rao vừa lạy mãi mới có người mua
Tiền chưa kịp trả xe chạy vù...
Tiền chưa kịp trả xe chạy vù...
"Đọc lên nó lủng củng, chúc chắc, lại có vẻ ngớ
ngẩn, tuy rằng ý tưởng cũng mới.
"Thơ mới hay thơ cũ cũng cần phải có
điệu, chỉ khác là làm thơ mới phải tìm lấy điệu chứ không theo khuôn mẫu sẵn.
Như thế tìm được điệu cũng khó, nhất là khi dùng câu không có hạn chữ.
"Dùng những câu tám hay chín chữ để
đặt điệu hơn cả, tuỳ ý mình muốn dùng vần liền (rimes plates) hay vần cách
(rimes croisées). Trong một câu lại phải biết đặt những chỗ nghỉ (coupes,
césures) cho điệu lên xuống.
Mấy câu thơ của Thế Lữ để làm mẫu:
VẦN LIỀN:
Trời xanh dịu, sợi mây
hồng vơ vẩn
Trên bờ sông, cô em đương thơ thẩn
Đứng lặng nhìn, mặt nước chiếc thuyền trôi.
Với ánh chiều thu, bầm tím chân trời...
Chính vì, hồn thu vi vút ban chiều
Trên bờ sông, cô em đương thơ thẩn
Đứng lặng nhìn, mặt nước chiếc thuyền trôi.
Với ánh chiều thu, bầm tím chân trời...
Chính vì, hồn thu vi vút ban chiều
Đã nhắc cho cô, thấy
lòng cô yêu
VẦN CÁCH (BÀI HOÀI XUÂN):
Tiếng ve ran, trong
bóng cây râm mát
Giọng chim khuyên, ca ánh sáng mặt trời
Gió nồng reo trên hồ sen rào rạt
Mùa Xuân còn, hết? Khách đa tình ơi!
Tiếng vi vút như khuyên van như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may.
Giọng chim khuyên, ca ánh sáng mặt trời
Gió nồng reo trên hồ sen rào rạt
Mùa Xuân còn, hết? Khách đa tình ơi!
Tiếng vi vút như khuyên van như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may.
"Đọc những câu thơ trên đủ biết rằng thơ mới đã
có điệu cũng ngâm được, du dương, êm ái không khác gì thơ cũ. Mà âm điệu lại có
thể thay đổi theo những cảnh, những tính tình êm đềm hay dữ dội trong bài thơ.
Trong bài "Con Hổ" của Thế Lữ có những câu rất mạnh mẽ:
... Ta sống mãi trong tình thương, nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa,
Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng!...
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa,
Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng!...
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,
"Những ý tưởng ấy, nếu diễn ra bằng thể thất
ngôn hay là lục bát sẽ thấy yếu ớt ngay.
"Hai bài thơ cũ chỉ khác nhau về ý
tưởng, nhưng bài thơ mới vừa khác nhau ở tinh thần lại vừa ở hình thức nữa.
"Người ta đã có thể làm một bài
"thơ mới" nhưng ý tưởng cũ hay một bài "thơ cũ", nhưng
ý tưởng mới (xem bài: Lời than thở của nàng Mỹ thuật, Tiếng sáo Thiên thai của
Thế Lữ):
"Tuy theo luật thơ cũ, nhưng chỗ
nghỉ và chỗ xuống câu khác hẳn trong thơ cũ:
Em thấy chàng yêu mới nhớ ra
Tên em là Đẹp, bạn em là
Bao nhiêu cảnh tượng muôn hình sắc
Ánh sáng, non sông, mây, cỏ, hoa...
Trời cao xanh ngắt ! Ơ kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng lai .
Tên em là Đẹp, bạn em là
Bao nhiêu cảnh tượng muôn hình sắc
Ánh sáng, non sông, mây, cỏ, hoa...
Trời cao xanh ngắt ! Ơ kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng lai .
"Nhưng hay hơn cả là đạt diễn những tư tưởng mới
vào một hình thể mới.
"Thơ mới chắc sẽ đưa văn nghệ nước
ta trên con đường tương lai rực rỡ, vì hiện nay đã sản xuất được nhiều tác phẩm
có giá trị!"
Tứ Ly tính sổ văn học để ca ngợi thơ mới
Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn đã là theo mới, mới trăm
phần trăm, thì dĩ nhiên Phong Hoá phải ủng hộ thơ mới triệt để và phải coi đó
là một bổn phận nữa là khác. Thực vậy, Phong Hoá đã tranh đấu cho Thơ Mới và
sau hơn hai năm tranh đấu cho thơ mới, Phong Hoá đã tự kể công lao mình. Đây
lời Tứ Ly tính sổ văn học năm 1934 đã có mấy lời về thơ mới như sau, đăng Phong
Hoá số 134, 30-1-1935, nơi bài "Thơ mới và quần áo mới".
"Về phương diện văn chương và
mỹ thuật, thì trong năm vừa qua, Phong Hoá gây nên hai phong trào mới: phong
trào kiểu áo mới và phong trào thơ mới.
"Thơ mới bắt đầu có từ bài "Tình già" của ông Phan Khôi. Nhưng vì thiếu người bênh vực có can đảm,
thiếu thi sĩ mới có kiên chí, nên độ ấy không ai ngó tới nó nữa. Đến nay, thơ
mới nghiễm nhiên chiếm một địa vị quan trọng trong làng văn: thi sĩ làm thơ
mới rất nhiều, tương lai của thơ mới rất là rực rỡ. Tuy vậy, các nhà thi sĩ lối
xưa vẫn nhất định rằng chỉ có thơ làm theo lối xưa là thơ, còn mới không phải
là thơ, tuy nó vẫn là thơ.
"Phong trào mặt áo tân thời cũng
bồng bột lên như phong trào thơ mới. Kẻ công kích, người khuyến khích. Những áo
tân thời kể cũng đã làm tốn mực, giấy cho các nhà văn. Dẫu sao, có thay đổi mới
có tiến bộ. Mỹ thuật bắt họ phải ăn vận mỗi người mỗi khác, nhưng nền luân lý
chặt chẽ của Tống nho lại bắt họ phải ăn vận giống nhau: để lệch một bên ngôi
cũng đã là phạm một tội nặng, huống hồ lại đổi cả kiểu một cái quần! Tội thật
đáng đầy chung thân...Đến bây giờ chính những bà những cô lên giọng đạo đức ấy
vội vàng đi cạo răng, đi may áo mới...Ý chừng họ lấy làm sung sướng được chung
thân...chung thân với áo quần kiểu mới.
"Mong rằng sau hai thứ mới này còn
có nhiều thứ khác cần phải mới mà năm trước chưa phải lúc có thể thực hiện
được."
Ngộ Không phê bình Nguyễn Văn Hanh
Đàng khác hình như từ trước tới nay Tự Lực Văn Đoàn có
chửi thơ cũ, cũng chửi bâng quơ, chửi trống không vậy, chứ chưa có ra mặt bắt
bẻ đích danh ai bằng những bài tranh luận. Nhưng từ đầu năm 1935, thì Tự Lực
Văn Đoàn đã tiến thêm một bước. Ngộ Không đã ra mặt bắt bẻ Nguyễn Văn Hanh từng
điểm một bài diễn thuyết mà ông này đọc ngày 9 tháng 1 năm 1935 tại hội quán
S.A.M.I.P.I.C., Saigon.
Ông Nguyễn Văn Hanh đưa ra năm lý do để
bảo thơ cũ hay hơn thơ mới. Trước khi vào việc bác bỏ năm cái lý của ông Hanh
và đưa ra năm cái lý là thơ mới hay hơn thơ cũ, Tứ Ly đã dùng cái ngón châm
biếm để vẽ ra một Nguyễn Văn hanh dốt đặc mà lại kênh kiệu muốn học làm sang.
Các bạn nhận thấy tất cả sự cay cú của Tứ Ly nơi bài "Một cuộc diễn
thuyết ở Saigon: Vấn đề Thơ Mới...và Thơ Cũ (P.H. số 135, 8-2-1935).
"Tối thứ tư, 9 janvier vừa rồi, tại
hội quán S.A.M.I.P.I.C. đường Galliéni, ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết về thơ
cũ và thơ mới bằng tiếng Nam, người ta tới đông lắm, vì hai năm nay mới lại có
diễn thuyết bằng tiếng Nam. Thấy báo "Tân Văn" giới thiệu ông Hanh
là một nhà giáo "có học vấn" và đã từng có " thịnh danh trong
văn giới" nên Ngộ Không tất tả chạy tới S.A.M.I.P.I.C. thì thấy quả nhiên
là ông Hanh "có học vấn": ông tỏ cho bà con cái học vấn của ông
bằng những tiếng Pháp chen luôn luôn vào bài diễn thuyết tiếng Nam, tuy rằng
những tiếng Nam ông dùng, bà con đều hiểu cả.
"Nhưng ông không cần, cứ mỗi tiếng
Nam ông lại dịch ra bằng một tiếng Pháp, ngộ nhỡ người Nam không ai hiểu tiếng
Nam chăng. Chu đáo lắm vậy!
"Ông nói: "Một bài thơ là một
cõi thế giới, "univers"... "thơ không nên coi là một món chơi
phiếm "bagatelle"... " thuyết nghệ thuật vì nghệ thuật "l'art pour l'art"...trụy lạc; "dégénéré"...những tay thợ
"les artistes" (tuy artiste không phải là tay thợ, nhưng có hề gì
cái đó)... "những cái hay ở ngoài và những cái hay ở trong, beauté
extérieure et beauté intérieure"... "tiếng ta là tiếng độc âm,
"monosyllabique" còn tiếng Pháp là tiếng liên âm, "polysyllabique", chữ tây không có dấu, "accents"... "
thơ ta không nên làm "enjambement" ... vân vân.
"Mỗi lúc ông đọc nhầm, ông vội chữa
ngay bằng một tiếng "à, bạc đồng!" rất cứng cỏi. Có lúc ông đọc
một câu rất dài bằng tiếng Nam, rồi tiếp ngay một câu rất dài bằng tiếng Pháp: "c'est le langage..." làm cho ai nấy giật mình tưởng ông sẽ tiện
mồm diễn phăng ngay bằng tiếng Pháp thời nguy to.
"Nhưng may sao ông hãm phanh kịp,
nên ai nấy mới hoàn hồn. Ông bảo đó là câu văn của một thi sĩ người Anh. Nhưng
ông đọc bằng tiếng Pháp? giá ông đọc luôn bằng tiếng Ăng lê có phải càng tỏ
cái học vấn của ông một cách hùng hồn không. Ông còn có chỗ hở, tuy rằng ông đã
có thịnh văn trong văn giới" theo lời báo Tân Văn...
"Chưa xét đến nội dung bài diễn văn,
cứ nghe ông nói đã thấy vui tai, vì tiếng Pháp, tiếng Nam chen lẫn, thật là: "nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau". Đến nỗi người ta có thể
nói là ông Hanh diễn thuyết bằng tiếng Pháp, chen lẫn tiếng Nam cũng được.
"Người ta chỉ tiếc rằng có một vài
chữ (rất hiếm) ông không dịch ra tiếng Pháp như chữ " tôi " chẳng
hạn. Giá ông cứ dịch là " moa " có phải lý thú bao nhiêu: "Hôm
nay moa nói chuyện về thơ với các toa, moa lấy làm bố cu hân hạnh honoré, vân
vân et coetera".
"...Nhưng ông vẫn chê thơ mới. Lạ
nhất là ông đọc mấy bài thơ cũ, thất ngôn, ông nhất định bảo đó là thơ mới, rồi
ông nói: "Tôi không thấy mới ở chỗ nào". Thế thì còn ai cãi được
nữa. Ông lại có cái nhã nhặn đọc mấy câu thơ của cô Nguyễn Thị Kiêm, vừa đọc,
vừa nhìn vào tận mặt cô Kiêm ngồi trước mặt ông, rồi ông cười một cách ranh
mãnh mà hỏi cô Kiêm: "Thơ của cô như thế thì mới ở chỗ nào, mà hay ở chỗ
nào?". Ông nghiễm nhiên đóng vai ông giáo "chuy" học trò của
mình, ông lấy thế làm khoái trí lắm. Tuy vậy, ông còn chưa cho là nhã nhặn lắm,
ông còn muốn nhã nhặn hơn nữa kia, ông nói một cách tinh quái: "Của cô
dài lắm, đây là tôi bỏ đầu, bỏ đuôi, chỉ lấy quãng giữa thôi"...và
"cô còn cứng đấy, tuy thơ của cô có chữ "xìu dégonflée". Chắc
hẳn tối hôm ấy, ông về ngủ ngon giấc lắm vì đã rất nhã nhặn với thính giả, và
tự cho mình là hóm hỉnh hơn người, tuy cô Kiêm có cự cho ông mấy câu làm ông
lúng túng một lúc lâu và chối bay chối biến: "Không, không, tôi có công
kích cô đâu, tôi, tôi...tôi có mạt sát cô đâu!"
"CÁI ĐINH VÀ... CÁI ROI"
"Nhưng lúng túng nhất là
khi ông đánh rơi một cái đinh ! Vâng, ông đánh rơi một cái đinh, loay hoay mãi
không tìm thấy. Thính giả cũng có mấy ông đứng dậy quanh co tìm hộ ông hồi lâu
mà không thấy. Ông tìm đinh để đóng hai bức tranh lên bảng đen, hai bức tranh
dùng để cắt nghĩa thế nào là loi de symétrie (A) và loi d'alternance (B):
"Ông nhổ lên, cắm xuống trong nửa giờ đồng hồ
không treo xong hai bức tranh, rồi ông lúng túng mãi với cái đinh đánh rơi.
Mất mười phút đồng hồ mới xong cuộc tìm
đinh đóng tranh. Xong hai tay nắm chặt một cây gậy tre, ông chỉ lên hình A bảo
đó là symétrie, lên hình B bảo đó là alternance. Ông kết luận hình B đẹp hơn
hình A, vì ông có một người bạn "học mathématiques supérieures" bảo
ông như vậy. Xem chừng thính giả không tin mấy, ông tức mình hỏi phăng ngay ông
Hồ Văn Lái họa sĩ, ngồi ngay đó: "Ông Hồ Văn Lái là nhà mỹ thuật hẳn ông
đồng ý với tôi rằng hình B đẹp hơn A? " Ông Lái gật đầu thế là ông Hanh
đắc chí lắm, vênh mặt lên nói với thính giả, rồi bỉu môi mà leo lên diễn đàn.
"Thính giả ngơ ngác nhìn nhau có ý
hỏi: hai bức tranh đó có liên hệ gì với thơ? hay có bao hàm ý nghĩa gì sâu xa? Nhưng chẳng ai hiểu hết.
"Sau mới vỡ lẽ là ông định cắt nghĩa
cái hay của luật Bằng Trắc của thơ Đường.
"Nếu bằng bằng bằng bằng bằng ...thì
không hay, nếu trắc trắc trắc trắc trắc...cũng không hay phải BBTTTBB thì mới
hay. À ra thế! Chỉ có thế thôi mà ông phải cầm lăm lăm cái gậy tre ở tay gõ
mãi lên bảng đen như nhà giáo dạy học, làm cho thính giả cứ tưởng mình là học
trò, mà nơm nớp sợ cái roi vô tình của ông. Nhất là cô Kiêm. Biết đâu lúc cáu
tiết, ông lại không nện cho vài roi, theo thói quen của nhà nghề.
"Cái roi của ông từ đấy không rời
tay ông ra. Khi ông lên ghế ngồi, vẫn để cái roi trên bàn, và luôn tay mân mê
đến nó một cách khoái lắm.
"Đồng hồ đánh mười tiếng mà ông
không cho học trò ra chơi, à quên, ông không cho thính giả về ngủ!
Ông Hanh bênh thơ cũ một cách rõ rệt, tuy
ông nói là "Không nghịch với thơ mới". Cứ kể ông đã có công trình
vất vả chép đầy hai cái bảng đen hai bên, nào những bài thơ cũ của Yên Đổ, nào
những TTBBBTTB, BBTTTBB,BBTTBBT, TTBBTTB...
"Trước hết ông đậy kín bằng mấy tờ
giấy nhật trình, sau mới long trọng bóc ra để giảng nghĩa cho thính giả, ông
thích chí lắm, hình như đã cho chúng ta biết một cái kỳ quan.
"Tóm tắt đại ý của ông, ông cho thơ
cũ là hay, vì có những đặt điểm sau này:
"1.- Câu trước câu sau đối chọi
nhau, đọc câu trên cố ý đợi chữ đối ở câu dưới, khi đọc đến chữ mình đương đợi
thì sướng lắm. Cũng như trông thấy một cái tai, rồi lại trông thấy một cái tai
nữa thì sướng lắm. Vả khi trông thấy một cái mũi, có lẽ nếu thấy một cái mũi
thứ hai ở sau gáy thì chắc cũng sướng lắm. Chắc ông Hanh này thích cửa sổ giả
(fausses fenêtres) như ông Pascal đã nói.
"2.- Thơ cũ có những lối yết hậu,
chiết hạ...mà thơ mới không thể có được. Những câu thơ tuyệt cú mà ông thích là:
"Ước gì ta được mà ta để...
"Ta để đem về để nữa ta... "
"Ta để đem về để nữa ta... "
"Ông thích nhất là những chỗ có chấm lửng (...)
hóm lắm!
"3.- Thơ cũ có lề lối, có khuôn khổ.
Còn thơ mới chẳng có lề lối, khuôn khổ gì cả thì hay làm sao được. Vậy con chim
phải ở trong lồng mới đẹp, nếu bay lượn không trung thì còn có lề lối gì nữa,
đẹp sao được.
"4.- Thơ cũ theo luật bằng trắc, nên
mới có âm hưởng nhịp nhàng, chứ thơ mới có theo luật nào đâu, ai muốn viết sao
thì viết. Nói đến âm hưởng, ông đọc câu thơ của cụ Nguyễn Du :
" Tiếng mau rập rập như trời đổ mưa
". Cụ Nguyễn Du có nghe thấy cái âm hưởng của hai chữ " rập rập
" cũng phải đến bực tức mà gắt :
"- Đọc láo đến thế thì thôi!
"5.- Lẽ thứ năm ông yêu thơ
cũ...vì...vì lẽ gì không biết. Ông liền hỏi thính giả: "Những bài thơ cũ
còn sống đến giờ là vì lẽ gì? Nếu không hay sao còn sống mãi đến tận bây giờ?
Rồi ông đứng dậy, không kịp để thính giả hỏi lại ông: "thế cái búi tóc của
đàn ông nếu không hay ho, sao còn lủng lẳng mãi tới bây giờ trên đầu Lý Toét?
Vậy nó hay vì cái gì?.
"ÔNG HANH CŨNG LÀ THI SĨ"
"ÔNG HANH CŨNG LÀ THI SĨ"
"Không những ông là thi sĩ, mà ông
lại là thi sĩ của phái thơ mới nữa mới kỳ. Nói đáng tội, ông có làm hai câu thơ
mới thật, song làm để chế riễu thơ mới. Nhân công kích cái lối câu trên rớt
xuống câu dưới (enjambement) ông liền đọc hai câu thơ của ông làm và viết sẵn
trong bảng đen:
"Tôi đi đầu trần. Vì tôi không
"Biết trên đầu có ai "
"Biết trên đầu có ai "
"Rồi ông chế nhạo lối rớt chữ của thơ mới. Kỳ thực, ông không hiểu "njambement" là gì cả. Và hai câu thơ của ông, ngớ ngẩn đã đành là ngớ
ngẩn, mà chẳng chế giễu được ai hết. Nhất là ông thích rung đùi lúc ngâm thơ,
nên ông lại càng là thi sĩ nữa. Ông có hứa sẽ nói tại sao khi ngâm thơ lại rung
đùi, nhưng trước khi kết luận, ông tự hỏi:"Tại sao rung đùi?" Rồi
chính ông cũng không biết tại sao cả, nên ông lại thôi không cắt nghĩa cho ai
biết nữa.
"CÁCH LẬP NGÔN CỦA ÔNG
HANH"
"Ông chê thơ mới mà ông chỉ đọc những câu ngớ ngẩn của những
thi sĩ lơ mơ. Mà ông bênh thơ cũ, ông lại đọc những câu thơ vô nghĩa của Thượng
tân Thị, và đôi câu đối viếng ông toàn quyền Pasquier cũng của Thượng tân Thị.
Thành thử ông cũng không che chở cho thơ cũ được tí nào.
"Một điều nhầm to của ông
là ông tưởng lầm rằng người ta thích làm thơ, là vì không có lề lối bắt buộc,
nên dễ làm. Ông khoái chí lắm, kêu lớn lên, làm ai nấy đương lim dim ngủ đều
giật mình tỉnh dậy: "À, tôi biết rồi, làm thơ cũ có khuôn khổ, lề lối, nên
khó, còn thơ mới không có lề lối dễ làm, nên họ thích làm thơ mới...
"NHƯNG ÔNG HANH LẠI LÀ TRI
KỶ CỦA PHONG HOÁ"
"Và nhất là tri kỷ của Tú Mỡ và Lê
Ta (Tất nhiên là ông không đội trời chung với Thế Lữ). Ông đọc đến tên báo
Phong Hoá luôn, hân hạnh cho báo Phong Hoá lắm thay mà cũng ân hận cho Thế Lữ
lắm thay vì ông thích văn của Lê Ta, đọc thơ của Tú Mỡ, chứ không hề nói đến
Thế Lữ.
"Ông yêu Tú Mỡ, vì Tú Mỡ làm
thơ...lối cũ, như bài "Văn sách bà nghị khuyên ông nghị". Ông đọc
trọn bài cho thính giả. Ông yêu Lê Ta vì...Lê Ta công kích thơ mới của Nguyễn
Vỹ, ông đọc từng đoạn văn rất dài của Lê Ta, lấy làm yêu mến lắm. Nhưng ông yêu
ông nhất, vì ông đã công kích thơ mới, lối thơ yêu của Phong Hóa.
"Thành thử đối với ông, P.H. không
biết nên cám ơn hay nên trách. Cứ kể trong cuộc diễn thuyết này, ông nói đến
P.H. rất nhiều và giới thiệu Tú Mỡ với thính giả, cũng là tri kỷ lắm vậy.
"CÒN CÔ KIÊM?"
"Cô Nguyễn Thị Kiêm bất bình vì ông
Hanh đã mạt sát cô, và đã trái ý cô về vấn đề "mới cũ", nên cô đứng
dậy nói với thính giả sẽ tiếp câu chuyện ấy bằng một bài diễn thuyết tối thứ tư
sau (16-1) cũng ở S.A.M.I.P.I.C.
"Chắc hẳn tối hôm đó, ta sẽ được xem
cô Kiêm mắng lại ông Hanh như ông Hanh đã mắng cô ngày hôm nay, chắc là kịch
liệt lắm.
"Rồi ông Hanh lại diễn thuyết cốt để
mắng lại cô Kiêm, rồi cứ như thế mãi cho đến ngày nào cả hai người hoá đá có lẽ
cũng vẫn còn mắng nhau. "
Ngộ Không tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Sau khi thuật lại cuộc diễn thuyết của Nguyễn Văn Hanh
công kích thơ mới và công kích đích danh cô Nguyễn Thị Kiêm, Phong Hóa có loan
báo là cô Nguyễn Thị Kiêm sẽ có bài trả lời vào tuần sau. Cô Kiêm đã giữ lời
hứa. Ta sẽ nói đến bài diễn thuyết của cô Kiêm khi nói đến Phụ Nữ tân văn với
vấn đề thơ mới. Đây ta chỉ thuật lại bầu không khí rất hài hước của buổi nói
truyện của cô Kiêm do Ngộ Không, đặc phái viên của Phong Hoá tường thuật. Theo
lời Ngộ Không thuật như các bạn sẽ đọc sau dây, thì hôm cô Kiêm nói truyện,
Nguyễn Văn Hanh đã huy động lâu la đến để yểm trợ ông ta hầu phá rối cuộc nói
chuyện của cô Kiêm. Đây là một tài liệu rất đặc thù, nó tố cáo sự hăng say của
hai phe cũ mới, coi như là một cuộc ganh đua canh bạc chứ không phải chỉ là một
cuộc thảo luận về thơ là cái gì mông lung mơ mộng. Bài của Ngộ Không thật linh
động và hài hước hết chỗ nói, nó cho ta thấy thương cô Kiêm, thương thơ mới và
khinh ông Hanh làm trò "mất dạy" và mất cảm tình với thơ cũ.
"Đúng như tối hậu ngôn của cô Kiêm
quả nhiên tối thứ tư 16-1, hội quán Samipic biến thành một chiến trường rất náo
nhiệt, hay nói cho đúng hơn, diễn đàn ở Samipic hôm đó đã thành ra một lôi đài
thí võ. Người đi nghe thì ít, người đi coi rất đông, mà người trợ chiến lại
đông hơn hết. Chưa đến 9 giờ, trong gian phòng ẩm thấp dưới nhà hầm của hội
Samipic đã đông chặt những người, không còn chỗ nào lách chân, mà những cái mũi
của thính giả ngơ ngác không biết đặt đâu để thở được một chút không khí. Không
khí trong hầm lúc đó nồng những hơi người và đầy những sát khí.
"Cuộc tranh đấu bắt đầu. Cô Kiêm,
sau mấy lời giới thiệu của bác sĩ Trần Văn Đôn, lên diễn đàn. Cô đứng trước bàn
trong 10 phút đồng hồ, mà chưa nói gì được.
"Ngay hàng ghế thứ nhất, ông Nguyễn
Văn Hanh ngồi lăm le chỉ chực vọt lên diễn đàn tuy không phải là phiên ông diễn
thuyết. Tay xách một cái cặp da, đựng những giấy má gì không biết, làm cho mấy
người chưa trả xong tiền nhà, tiền điện, cứ giật mình thon thót. Mấy ông bạn
ngồi cạnh ông và xun xoe khắp mấy góc phòng đều mắm môi mắm lợi, xắn tay áo, để
cố ý trấn tĩnh và cũng để nạt cô Kiêm nữa.
"Cô Kiêm biết mình dại, không sớm đề
phòng thuê một ít người...trợ lực... Nhưng đã chót lên đến thì thôi cũng phải
nói qua loa cho xong truyện. Thành ra cô bênh vực thơ mới không được hùng hồn
lắm, và công kích ông Hanh cũng rất là nhè nhẹ.
"Ngay bên cạnh chỗ tôi ngồi, có một
ông to béo, ý chừng là phe đảng ông Hanh. Mỗi lần cô Kiêm đọc một câu thơ mới
của Thế Lữ, hay của Tường Bách hay của một thi sĩ nào ở báo Phong Hoá, thì ông
rún vai bỉu ra một cái môi rất dài và "ứ ừ" một tiếng dài gần bằng
cái môi ấy. Tiếng ứ ừ của ông ta được những cái mồm đồng đảng họa theo làm cho
cô Kiêm xịu hẳn nét mặt lại và ông Hanh thì nở phồng hai lỗ mũi vốn nó cũng
không nhỏ gì cho lắm. Cái ông to béo, có lúc nóng nảy dạng hai cái đùi u những
thịt ra, như người đứng tấn một bài võ tầu làm cho mình suýt nữa bắn xuống đất,
vì...thiếu chỗ ngồi, tôi chỉ được ghé một mẩu ghế của ông và một mẩu ghế nữa
của ông bạn nhỏ người. Cũng may ông ta chỉ đứng vậy thôi chứ không đi bài võ
tầu nào, nên không đến nỗi thành án mạng.
"Cái không khí lúc bấy giờ không
phải là không khí một phòng diễn thuyết mà rõ là không khí một đài thí võ.
Trong khi cô Kiêm khua môi trên võ đàn, như nàng Sử Cẩm Bình (trong truyện Anh
hùng náo) múa võ trên lôi đài, thì ở dưới bọn đi xem, phe đảng ông Hanh cũng
xắn áo, xắn quần, mắm môi mắm lợi như chư anh hùng, phe đảng của Lý Quảng.
"Cái không khí ấy đè nén một cách
nặng nề, mãi cho đến khi cô Kiêm nói xong. Cô vừa đứng dậy thì ông Hanh lấy hơi
vọt lên ...lôi đài.
"Xưa nay ông giáo Hanh trước mặt học
trò vẫn phải giữ dè lời nói, thì tội gì hôm đó được dịp nói nhảm lại không nói.
Người ta phải tuỳ từng lúc mà lịch sự, chứ lúc nào cũng lịch sự, cũng nhã nhặn
thì còn có nghĩa lý gì. Vì thế, nên ông Hanh hôm đó quyết trút hết những cái
lịch sự, nhã nhặn để lộ hẳn chân tướng trên diễn đàn một lần nữa, để tỏ cho bà
con biết rằng nếu con em ít giáo dục thì về sau ăn nói như vậy.
"Ông Hanh leo lên diễn đàn, hỏi
thính giả:
- Anh em chị em có muốn cho tôi nói không?
" Những tay trợ chiến của ông đều trả
lời:
"Có, có
"Tức thì ông Hanh toét một cái miệng
rất tình và rất rộng, cười mà trả lời cô Kiêm một cách đắc chí lắm. Ông gọi cô
Kiêm là " Nữ thi sĩ " rồi ông quay lại thính giả cười một cách ranh
mãnh...Những người trợ chiến lại vỗ tay và cười rất hùng hổ.
"Ông Hanh nói: "Tôi, Nguyễn
Văn Hanh, cô, Nguyễn Thị Kiêm, hay là cô, Nguyễn Thị Kiêm, và tôi Nguyễn
Văn Hanh lật lại theo lối tây... "Rồi ông ra hiệu cả hai tay, cười một
cách khoái lắm. Trong đám thính giả, có bao nhiêu con nít láu lỉnh, đều cười rộ
lên. Những người đang ngáp hay đang cãi nhau cũng giật mình quay lại rồi cười
theo và vỗ tay theo.
"Ông Hanh nói tiếp: "Tôi với
cô cùng đi trên một con đường tối tăm, mà cô không biết. Ông định nói: Ông
không phản đối thơ mới và đồng ý với cô Kiêm. Nhưng ông có một lối nói bóng bẩy
mà xuyên tạc làm vui lòng một số đông thính giả.
"Ông lại nói: Cô đẩy một cái cửa đã
mở rồi "vous enfoncez une porte ouverte. Một số đông lại cười rộ vì họ
tưởng rằng cô Kiêm đến đẩy cửa nhà ông Hanh. Nhưng ông Hanh chỉ định nói là cô
Kiêm phản đối ông vô ích, vì ông có công kích thơ mới đâu. Phải, ông không công
kích thơ mới ông chỉ chê thơ mới thôi. Nhưng ông không dám nói là: "Tôi,
Nguyễn Văn Hanh chê thơ mới" ông chỉ chê thôi, mà ông không nói là chê.
Nhưng ông Hanh lại được mãn nguyện quá sức mong, là vì không một mình cô Kiêm
"mắc cỡ" mà tất cả bao nhiêu nữ thính giả đều mắc cỡ, vì những lời
lẽ, những dáng điệu của ông. Thực là kết quả mỹ mãn không ngờ.
"Ông nói với cô Kiêm: "Cô bảo
cô không xìu (dégonflée) thế là cô còn cứng, vậy tôi xin xìu trước". Rồi
ông lại toét miệng ra cười và lom khom bước xuống ghế ngồi.
"Thế là ông lại được hoan hô một lần
nữa.
"Có mấy bà ngồi hàng ghế đầu nhấp
nhỏm đứng dậy mắng cho ông mấy câu, nhưng thấy vây cánh ông lớn quá, và nhất là
cái quả đấm của ông nắm chặt quá, nên lại ngậm ngùi mà ngồi im. Có một bà, trái
hẳn lại, vỗ tay dữ hơn mọi người để khen ông Hanh ; mọi người trông lại thì
bà...bà Nguyễn Văn Hanh.
"Bỗng một ông nữa vọt lên diễn đàn.
Thôi nguy to rồi, cô Kiêm lại phải một phen run sợ. Nhưng may sao, ông này tuy
đem một cái mũi rất lớn lên diễn đàn cũng không đáng sợ bằng ông Hanh. Ông ôn
tồn nói một hồi, không ai hiểu ông nói gì, chỉ thấy ông quanh quẩn mắng hết ông
Hanh, lại cự đến cô Kiêm cho là hai bên đều vô lý hết, rồi ông lại cự cả ông,
vì ông cũng vô lý nốt.
"Ông Hanh ngứa tiết lại nhẩy lên lôi
đài. Hai ông giở tài ngọn lưỡi trước mặt cô Kiêm, làm cho cô Kiêm hậm hực muốn
khóc ; cô muốn chui xuống đất, nhưng hiềm đất rắn quá, cô lại muốn bay lên
trời, thì cái hầm lại thấp quá. Cô Kiêm cầu cứu ông huyện Tri, nhưng ông huyện
Tri không động đậy; cô cầu cứu ông Phan Văn Hùm, nhưng vẫn thấy ông Phan Văn
Hùm nét mặt thản nhiên, lạnh lùng làm cho cô cuống quít ở giữa cái mồm rộng của
ông Hanh và cái mũi lớn của ông nọ.
"Ông đốc tờ Đôn lúc bấy giờ
vẻ mặt hớn hở lắm. Ông chắc lẩm: thế nào chẳng có anh vỡ đầu, sát trán, dập
sọ, gẫy xương. Nếu không cũng có một vài ba thính giả hoảng sợ mà ngất đi
chăng.
"Nhưng bà con thấy quang cảnh nguy
ngập, xô nhau mà chạy trốn làm cho người ngao ngán nhất là ông đốc tờ Đôn".
Thạch Lam tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Cùng một buổi diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm mà
Phong Hoá có tới bốn bài tường thuật. Sau bài tường thuật của Ngộ Không tôi còn
kể thêm ba bài tường thuật của Thạch Lam, của Lê Ta và của Ngym. Tất cả chúng
đều cho ta thấy thính giả say mê tới vấn đề, đến chen chúc nhau thừa sống thiếu
chết. Đây mấy lời mở đầu bài tường thuật của Thạch Lam:
"Đến cuộc diễn thuyết của cô Nguyễn
Thị Kiêm ở quán hội K.T.T.Đ.
"Người đến nghe và đến xem chắc hẳn
là đông lắm. Vì một cái lẽ rất giản dị, diễn giả là một người con gái. Một cô
con gái diễn thuyết tất có nhiều cô con gái đến nghe, những cô tân thiếu nữ ở
Hà thành, áo tha thướt và nhiều màu tóc mượt và đen nhánh.
"Người ta đến đây cũng như một cuộc
vui chơi. Trong một sự hỗn độn, bao giờ cũng lắm cái bất ngờ, lắm cái may rủi.
"Buổi tối hôm ấy không một ai nghe
rõ được câu gì. Người ta chỉ thấy cô Kiêm chốc chốc lại đưa khăn tay lên lau mồ
hôi trên trán, thấy đôi môi mấp máy. Thành thử không phải như bà Lê Dư diễn
thuyết cho bà ấy nghe ở hội Trí Tri. Cô Kiêm dẫu có muốn nghe lời mình nói cũng
không nghe thấy gì".
Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Và đây đến lượt Lê Ta tuờng thuật:
"Công chúng mỗi lúc một đông thêm.
Tiếng ồn ào mỗi lúc một lớn. Trên kia cô Kiêm vẫn nói. Dưới này họ lục đục
chen nhau, cãi nhau về chỗ ngồi. Một ông to béo luôn tay run người này ấn người
kia để bênh vực cái đồng hồ đeo tay của ông.
"Giữa lúc mồ hôi dang đua nhau làm
ướt áo mọi người, thì bỗng cái quạt điện bừng chạy.
"Một ông dẫm lên chân một cô ngồi
cạnh để tỏ ý bất mãn, rồi đứng lên diễn thuyết với hai người đằng sau xô lên.
"Dần dần, cả những người ngồi đầu
đều đứng lên, rồi muốn cho cao hơn, họ đứng cả lên ghế.
"Một vài ông cố sức mở một đường
"huyết đạo" xông vào gần chỗ tôi, phàn nàn rằng mình vẫn mộ tiếng
diễn thuyết mà không được nghe lấy một tiếng nào. Các ông đứng lau mồ hôi một
lúc trèo mám lên một cái ghế nghiển cổ trông. Lúc thấy được mặt diễn giả các ông
sung sướng chen ra tỏ ý mãn nguyện lắm.
"Cái nóng bức trong hội quán cùng
với sự náo động cứ tăng mãi lên, đến lúc những cánh quạt vì lòng nguyện vọng
nhiệt liệt của công chúng lại bắt đầu quay, mà trật tự vẫn không giữ
được...Những người ở dưới muốn nghe rõ lần lượt rủ nhau lên gác muốn mát lại rủ
nhau xuống. Cứ thế mãi không thôi".
Nguym tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Sau cùng là lời thường thuật của một người ký tên là
Ngym, chẳng biết là ai:
"Thính giả, cả hai giống, có đến bảy
tám trăm đầu.
"Các bà các cô đến đông. Phần nhiều
không được trắng như mọi khi, ý chừng nóng quá mồ hôi ra trôi cả phấn.
"Nhưng vì đến sau, phải đứng cả. Có
độ hơn 400 ghế thì các ông râu mày ngồi mất đến ngoài ba trăm rưỡi ghế. Ông
huyện Trị thân sinh ra cô Kiêm, đứng lên xin các ông râu mày nhường chỗ cho các
bà quần thoa "íu đúi". Cái gì chứ cái ấy thì cố nhiên là thính giả
phái khỏe không chịu nghe viện lẽ rằng họ không lẳng (nếu tôi có thể dịch chữ "galant" là lẳng được).
"Muốn cho thính giả lẳng lặng mà
nghe, các tổ chức viên dùng "suỵt". Sau có người "chừng cũng
thạo về khoa học", nghĩ ra được một kế rất điệu là đi mượn cái chuông.
Anh hàng kẹo hay anh hàng dầu nào cho mượn cái chuông ấy, chắc cũng được biệt
đãi.
Sau đấy Lê Ta, nhân đọc một tập cũ "Những Bông
Hoa trái mùa" của hai ông Tường Vân và Phi Vân làm ra để thách đố, đua
vai với thơ mới. Lê Ta đã phân tích tập thơ của hai ông và trích những câu văn
vừa sáo, vừa rỗng, vừa đạo văn, vừa ngây ngô để minh chứng thơ cũ mà các ông ca
ngợi đã hết sinh khí rồi. Thực bài trả lời của Lê Ta là cay độc, khiến cho làng
thơ cũ phải một phen bể mặt. Đây bài phê bình "Những Bông Hoa trái mùa" của Lê Ta (P.H. số 148, 10-5-1935).
"Sau khi góp sức chế tạo ra được
ngót ba mươi trang thơ (Những bông hoa trái mùa) hai nhà văn Tường Vân và Phi
Vân "một ngày tốt đẹp kia", đem in thành sách. In sách để tỏ cho
thiên hạ biết hai ông cũng có triết lý về cuộc đời, mà hai ông coi như một buổi
hát:
Còn lạ lùng chi cái thói đời.
Trăm năm cũng một lớp tuồng thôi
Trăm năm cũng một lớp tuồng thôi
(Cuộc Đời)
"Để trách trăng, trách gió, trách người bạn gái,
khóc ý trung nhân và để than cái nỗi đời xoay chuyển mãi, "dặm liễu" đã mòn chân "ngựa ký" mà "đường mây" chưa thẳng
cánh "chim đồng" cho nên "anh hùng" còn thẹn mặt trần
ai, luống lo tưởng đến "nợ kiếm cung" (!) chưa biết đến bao giờ
trả được.
"Tác giả thực là người có tâm huyết,
có khí khái, có tình cảm và có những giọng cụ đồ cổ bất đắc chí ngồi cạy ghét
móng tay mà giận đời không biết đến mình.
"Bởi thế, cái mới là cái đáng thù,
cả sự chân thực cũng vậy. Đứng trên núi cao trông cảnh giang sơn dưới ánh trăng
vằng vặc, các ông ngẫm, các ông cảm động bằng đôi mắt và trái tim của bà Huyện
Thanh Quan:
Tuế nguyệt thành xưa trơ lớp đá,
Tang thương ngõ cũ nhạt làm meo.
Tang thương ngõ cũ nhạt làm meo.
(Trên núi Thiên nhẫn)
"Các ông tả cái sắc đẹp của giai nhân trên
thuyền bằng văn Cung oán:
Cá dưới nước ra chiều lảng bảng,
Hoa trên giòng ra dáng lênh đênh.
Hoa kia ngơ ngẩn với tình,
Cô kia ngơ ngẩn như hình ai nghe.
Hoa trên giòng ra dáng lênh đênh.
Hoa kia ngơ ngẩn với tình,
Cô kia ngơ ngẩn như hình ai nghe.
(Trên mặt hồ tây)
"Các ông phục cái khí phách của bà Triệu Ẩu bằng
lời của một nhà làm thơ cũ, tôi quên mất tên, nhưng vẫn nhớ kỹ cái nghệ thuật
giở hơi và kiểu cách :
Dãi nắng dầm mưa đôi má phấn,
Xông tên đột pháo một đầu voi
Xông tên đột pháo một đầu voi
(Triệu Ẩu)
"Các ông khen âm điệu thơ cũ thánh thót âm thầm
như tiếng đàn năm cung. Không ai cãi hai ông, nhưng tiếc rằng khi nghĩ đến đàn,
các ông lại nghĩ đến tính tình của người khác, các ông lại xúc động bằng tâm
hồn của người khác vì trong lòng các ông không có một thi cảm riêng nào.
"Thi sĩ Nguyễn Du tả tiếng đàn như
thế này:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối mới sa nửa vời;
Tiếng êm như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sậm sập như trời đổ mưa.
Đục như nước suối mới sa nửa vời;
Tiếng êm như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sậm sập như trời đổ mưa.
"Các ông liền lấy những ý trên lập lại. Các ông
cũng viết:
Trong như tiếng hạc mới bay qua,
Đục tựa lưng vời nước suối pha,
Êm ái tiếng khoan như gió thoảng,
Tiếng mau sầm sập lại mưa sa.
Đục tựa lưng vời nước suối pha,
Êm ái tiếng khoan như gió thoảng,
Tiếng mau sầm sập lại mưa sa.
"Cái tài của các ông là cái tài xào nấu lại
những món ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm của người khác làm của
mình. Trong văn thơ các ông đầy rẫy những cành tuyết, mai, thông, liễu, ở những
chỗ sông Tân, vườn Thuý, chơi sông đêm trăng các ông bắt chước người ta nhớ câu
thơ Xích bích, ngắm nước hồ Tây các ông cũng chỉ nghĩ đến cảnh Bắc quân xô xát
với truyện con trâu vàng. Các ông đi sau cổ nhân để lượm nhặt những rơm rác ấy
là "Những bông hoa trái mùa".
"Các ông đem bó hoa không đáng gọi
hoa kia dùng làm thứ khí giới để công kích lối thơ chân thực dồi dào, phóng
khoáng mà người ta thường gọi là thơ mới.
"Là vì các ông không làm được thơ
mới.
"Các ông không phải là người biết
tìm cái đẹp mới mẻ, biết tả đúng tâm sự mình trước cảnh vật, cái cảm hứng của
các ông không thể ra ngoài khuôn sáo, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã
mấy nghìn lần người ta nhắc đến, nghe quen tai quá, chẳng khác gì những lời
chúc tụng của bọn người hát "súc sắc súc sẻ" đầu năm.
"Các ông trách lối thơ bây giờ không
theo niêm luật cũ, vì các ông không biết rằng thơ bao giờ cũng phải có luật.
Không phải cái luật hẹp hòi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những
người khúm núm thi thố cái tiểu xảo của mình. Nhưng thơ phải có thứ luật cao
siêu hơn, thiêng liêng hơn: mình biểu lộ cảm tưởng, tâm trạng mình một cách êm
ái, tha thiết hay hùng tráng du dương theo cái bản lĩnh riêng mình, không bao
giờ chịu theo tư tưởng, tình cảm của người khác. Như thế thì trái với thứ biệt
tài của hai ông lắm, nên hai ông không bằng lòng.
"Các ông chỉ ưa và chỉ tìm được
những lời văn hoa sẵn có để tra vào cái khuôn khổ sẵn có. Khi tiễn đưa, tất
nhiên phải dùng đến những chữ : chuốc chén qua nhà với duổi dong dặm kỳ; khi
vinh hoa tất nhiên phải chắp nhặt những tiếng : sắc nước hương trời. Mà cuộc
đời bao giờ cũng là một tấn tuồng cũng như lúc mặt trời về chiều, bao giờ cũng
là ác, là chênh chếch, giọt sương dùng để chỉ nước mắt, là ngô vàng rụng để tả
mùa thu. Các ông cũng không quên những chữ cảnh biếc, biển quế, bụi hồng, mắt
xanh, không quên những câu:
Lơ thơ dăm cụm lục chen hồng,
Thượng uyển là đây có phải không?
Hương ngự (!) ngạt ngào đôi khóm cúc,
Nhạc thiều (!) reo rắt mấy cành thông (trang 15)
Thượng uyển là đây có phải không?
Hương ngự (!) ngạt ngào đôi khóm cúc,
Nhạc thiều (!) reo rắt mấy cành thông (trang 15)
"Để tả những cảnh...trong vườn bách thú (!).
Nghĩa là những câu thơ có thể tả được bất cứ cảnh vườn nào, mà tả cảnh vườn nào
cũng rỗng, cũng sáo, cũng không có nghĩa lý chi hết.
"Ấy thế mà các ông đi công kích bọn
làm thơ lối mới; các ông lấy những giọng oanh liệt để mắng họ:
Lạy bác xin đừng nói đến thi,
Nghĩa thi chưa hiểu hãy im đi.
Nghĩa thi chưa hiểu hãy im đi.
"Và gọi họ là bọn mù:
Chẳng khác anh mù lại nói mơ,
Chẳng qua một bọn dốt làm thơ...
Chẳng qua một bọn dốt làm thơ...
"Vâng, họ dốt vô cùng, dốt vì không biết theo
kinh điển, vì không biết nhai lại những lời cổ nhân mà các ông quý trọng, vì
không biết để cho cái khuôn khổ buồn cười của thơ (bát cú) kìm kéo, thắt buộc
tính tình, cảm hứng của họ.
"Vâng, họ dốt và mù lắm, họ không
thể sáng như hai ông Tường Vân và Phi Vân được, mà như thế, theo ý tôi, thì
thực là may cho quốc văn.
"Vì quốc văn cần phải tiến. Quốc văn
không phải thứ trò chơi dí dỏm ở trong ấy có những luật lệ bày ra để một ít
người thợ khéo chắp nhặt cái tiểu sảo nọ để ghép vào cái tiểu sảo kia. Thơ văn
của ta bây giờ mới biết theo khuynh hướng mới cũng đã quá chậm rồi, không cần
phải có những bọn văn sĩ như hai ông Tường Vân và Phi Vân với cô Bích Ngọc ngăn
cản lại.
"Nói đến cô Bích Ngọc, người đề tựa
cho quyển "Những bông hoa trái mùa" tôi lại tưởng tượng đến một bậc
nữ lưu đoan trang, trầm mặc. Tôi còn tưởng tượng lên thêm một bực nữa, tuy
không được vừa ý cô nhưng tôi cũng cứ mạn phép cô tôi nói: tôi tưởng tượng ra
một bậc nữ lang... bà già.
"Bởi vì những ý tưởng của cô cũng đã
già như cái cây cổ thụ.
"Cô cũng đồng lòng với hai nhà thi
sĩ của cô ham mến cái cổ, coi lối thơ luật cũ rích như những bông hoa thơm, cô
lại viết một bài thơ tám câu, có ý cho chúng tôi thấy thí dụ. Cái cụm hoa thơm
là bài thơ quý hoá ấy cũng có đủ những biền ngẫu: nhị vàng đi dôi với cành
thắm, lòng bướm với kiếp hoa, dậu cúc với cành hồng, nghĩa là những chữ sáo đi
đôi với những chữ sáo.
"Cô thực là người biết yêu trọng
quốc hồn, quốc tuý. Nhất thiết cái gì là mới, là lạ, cô đều ghét cay, ghét đắng
lấy lẽ rằng cái mới lạ ấy không phải là của nhà. Câu phong dao :
Ta về ta tắm ao ta,
"Có lẽ là câu châm ngôn của cô. Cô thiết tha
khuyên người ta chê bỏ và tự mình chê bỏ "ao ngoài", để về tắm
"ao nhà" dù ao nhà ấy đầy những bùn, những vẩn.
"Tôi buồn rằng người "thục nữ" có duyên đến thế lại kém vệ sinh.
A- Mặt trận bênh thơ mới (2)
Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn bênh thơ mới
mà bênh rất găng, rất tận tình nhưng không đồng ý cho rằng hễ cái gì không phải
thơ cũ đều là thơ mới cả. Buổi đầu các ông chưa tỏ thái độ gì với các loại thơ
rất dở mà người ta tôn xưng nó là thơ mới. Nhưng từ giữa năm 1935 - có lẽ lúc
này thơ mới đã có cơ sở rồi - thì các ông lên tiếng loại bỏ những thơ mà theo ý
các ông, không đáng là thơ mới hay cho dù có là thơ mới, thì cũng là thơ mới
hạng bét, rất dở chẳng kém gì thơ cũ.
Nhị Linh công kích nhà thơ mới Đỗ Đình Vượng
Ngày 18-1-1935, Phong Hoá số 133, Nhị Linh công kích
và phê bình Đỗ ĐìnhVượng bằng một giọng mát mẻ. Ông Vượng diễn thuyết ca ngợi
thơ mới, nhung Nhị Linh phàn nàn rằng giá ông đừng đi nghe ông Vượng thì còn
biết thơ là gì, và thơ mới ra sao, chứ "lúc tôi ra về không còn hiểu thơ
và thơ mới là cái quái gì nữa, tuy diễn giả đã chịu khó tra cứu, khảo sát, lục
lọi trong đủ các sách cổ, kim, tây, tầu, An nam, nào của Boileau, nào của Hồ
Thích, nào của Nguyễn Du, nào của các thi sĩ cổ điển, lãng mạn".
Ngày 25-3-1935, P.H. số 142 Thạch Lam viết
bài "Thơ mới" để công kích một số đông các tờ báo có đăng thơ mới,
các sách có xuất bản thơ mới. Theo Thạch Lam, thơ bọn họ chẳng cũ mà cũng chẳng
mới. Các bài thơ đó có năm đặc tính sau đây:
"- Cái đặc tính thứ nhất - và cũng
lạ lùng nhất - là những bài đó không phải là thơ.
" - Cái đặc tính thứ hai là không có vần.
" - Cái đặc tính thứ ba là đọc lên nghe sang sảng như những mãnh sắt vụn người ta để trong bao gai mà xóc lên.
" - Cái đặc tính thứ tư là không có nghĩa lý gì hết.
" - Còn cái đặc tính thứ năm nữa, cái đặc tính này không phải của thơ, mà của người viết ra những thơ đó, cái đặc tính ấy là ...xuẩn.
"Nếu ta có cái đặc tính cốt yếu ấy, và nếu thơ ta có đủ bốn cái đặc tính như trên thì ta thành ra một người làm thơ mới.
"Thơ mới trong một vài tờ báo chẳng hạn".
" - Cái đặc tính thứ hai là không có vần.
" - Cái đặc tính thứ ba là đọc lên nghe sang sảng như những mãnh sắt vụn người ta để trong bao gai mà xóc lên.
" - Cái đặc tính thứ tư là không có nghĩa lý gì hết.
" - Còn cái đặc tính thứ năm nữa, cái đặc tính này không phải của thơ, mà của người viết ra những thơ đó, cái đặc tính ấy là ...xuẩn.
"Nếu ta có cái đặc tính cốt yếu ấy, và nếu thơ ta có đủ bốn cái đặc tính như trên thì ta thành ra một người làm thơ mới.
"Thơ mới trong một vài tờ báo chẳng hạn".
Thạch Lam chửi thơ mới của Phan Văn Kỳ
Cũng Thạch Lam, ngày 3-5-1935, (P.H. số 147) đã chửi
thơ mới của ông Phạm Văn Kỳ. Thạch Lam ví điệu thơ của ông Kỳ như đám cháy nhà.
"Đấy là một cảnh thương tâm lắm;
những "khổ chủ" thấy thần hỏa đến thiêu nhà khóc vang như ri. Còn
những tiếng "hì hục" của vạn người không tên đó, có lẽ là tiếng của
những người đến chữa cháy...
Của vạn người không hạnh phúc,
Đợi chết dưới hầm than,
Của vạn người đang nhui nhúc
Tù tội của thời gian...
Đợi chết dưới hầm than,
Của vạn người đang nhui nhúc
Tù tội của thời gian...
"Kể không có hạnh phúc thì những người bị cháy
nhà không có hạnh phúc thật! Nhất là họ bị đốt cháy trong những cái nhà như
những cái "hầm than" nữa.
Rồi câu thơ ngươi, thi sĩ,
Sẽ bọc những tiếng than,
Góp thành một tiếng rền rĩ,
Kêu động cả không gian.
Một tiếng mạnh như tiếng sấm
Đớp lửa và động mưa,
Phát hoả từ trong rừng rậm,
Lặn đến thành phố xưa...
Sẽ bọc những tiếng than,
Góp thành một tiếng rền rĩ,
Kêu động cả không gian.
Một tiếng mạnh như tiếng sấm
Đớp lửa và động mưa,
Phát hoả từ trong rừng rậm,
Lặn đến thành phố xưa...
"Cái tiếng mạnh như sấm đó là tiếng tre nứa nổ
đấy. Ta thấy nhà thi sĩ nói đến thành phố: Ô hay, thế thì xe cứu hoả, vòi rồng
tưới nước đâu? A, đây rồi! Thi sĩ thật là người cẩn thận:
"Nghĩa là cái vòi rồng của thành phố không đủ.
Phải cần đến tiếng của nhà thi sĩ:
Rồi tiếng của người thi sĩ
Khi sấm hết rền vang
Sẽ đọng lại thành tiếng nỉ
Non...như của khúc đờn.
Rồi chung quanh ngươi, cả chủng
Tộc...đều mở xiềng gông
Rồi Nàng Thơ của ngươi cũng
Yêu ngươi một cách nồng...
Thế là thơ hết và cháy cũng hết.
Khi sấm hết rền vang
Sẽ đọng lại thành tiếng nỉ
Non...như của khúc đờn.
Rồi chung quanh ngươi, cả chủng
Tộc...đều mở xiềng gông
Rồi Nàng Thơ của ngươi cũng
Yêu ngươi một cách nồng...
Thế là thơ hết và cháy cũng hết.
"Chỉ còn lại tro tàn, lửa bụi, một đống than
lủng củng những vôi, những gạch, những mảnh tre, mảnh nứa, lá gồi...
"Thơ của thi sĩ Phạm Văn Kỳ âu cũng
thế. Âm điệu thì réo rắt như tiếng tre nổ, tiếng vách sụp, tiếng nhà cháy.
"Còn vần thơ thì lủng ca lủng củng
như một đống than đầy vôi, những gạch, những tre, mảnh nứa, lá gồi...
"Mà đọc xong bài thơ "Ngươi,
thi sĩ" của ông ta, ta có cái cảm giác thoát được một việc nguy nan như
khổ chủ thoát tai nạn cháy nhà."
Lê Ta phê bình thơ mới của Đức Văn
Đến Lê Ta ông đã bênh thơ mới bao nhiêu thì ông lại
chửi người làm thơ mới bấy nhiêu. Phải chăng bọn làm thơ mới này không thuộc
phe Phong Hoá? Không dám quyết, nhưng người ta có thể ngờ rằng thế.
Ngày 14-12-1934 (P.H. số 128), Lê Ta phê
bình để chê bai cuốn Mơ Màng của Đức Văn là thứ thơ "văn kêu và rỗng là
món sở thích của những nhà văn mới mà chẳng biết mình nói gì, "khinh miệt
tập "Tình em" của Nhuệ Thuỷ có cái "biệt tài là thơ văn ông
viết bằng những câu văn và ý tưởng người khác".
Lê Ta phê bình thơ mới của Nguyễn Vỹ
Về thơ của Nguyễn Vỹ, Lê Ta có hai bài phê bình một
bài đăng Phong Hoá số 127 (7-12-1934), và một bài đăng số 129 (28-12-1934).
Ở bài thứ nhất, Lê Ta nhắc lại lời phê
bình của Nhất Linh về Nguyễn Vỹ,và nhân đấy chửi mát Nguyễn Vỹ:
"Nhà "thi sĩ" Nguyễn Vỹ,
tác giả tập thơ đầu là một nhà có nhiều tài, tình cảm nhiều, mà lòng tự ái lại
nhiều hơn. Cho nên khi ông ra mắt quốc dân, mắt đầy lệ, cây bút cầm tay, ông
không muốn cho ai khinh ông cả. Ấy thế mà Nhất Linh lại bảo tập thơ đầu của
người tên là đuôi kia không có ruột! Muốn khỏi mất lòng "thi sĩ"
tôi phải nói chữa hộ Nhất Linh: thơ ông Vỹ có ruột đó chứ, chả tin cứ giở cuốn
sách của ông ra mà xem: Chỉ tiếc cái ruột ấy đặc quá, mà khốn một nỗi là người
ta lại không biết nó đựng những cái gì!"
Sang đến bài thứ hai, Lê Ta phũ phàng với
Nguyễn Vỹ hơn, đã ví thơ Nguyễn Vỹ như thơ của con sen, thơ của vú già:
"Ông Nguyễn Vỹ là một nhà học rộng.
Bàn về thơ ca, ông đã cho chúng ta biết nhiều điều mới lạ: ông hiểu rõ hết
được các âm điệu thơ, khuôn phép thơ, mỹ thuật của thơ, tuy ông không hiểu thơ
là cái gì, và tuy ông thấy mình là thi sĩ.
"Ông lại khéo nói nữa. Khéo nói lắm,
khéo nói quá! Ông bênh vực ông một cách rất có duyên, rất chu đáo, mà ông phản
đối ông lại chu đáo gấp đôi. "Tập thơ đầu" của ông là một tập thơ
có khuynh hướng về cải cách, nhưng người làm "Tập thơ đầu" lại sợ
cải cách, hay cải cách bằng lối riêng của ông. Ông bỏ cái gông cùm biền ngẫu
với phép hạn chế phá, thừa, luận, kết của luật thơ Tàu, để mang cái gông cùm
mới của luật thơ Tây.
"Thơ của ông Vỹ thiếu cái chi chi
kia, chứ "chân" (pieds) thì đủ lắm. Xin đọc thử ít câu sau này:
Những cặp mắt xinh đẹp, mà ta thấy thoáng qua
Ban ngày, lúc ta thủng thỉnh đi trên đường phố
Bây giờ một mình ta trằn trọc trong đêm tối
(Lối thơ 10 chân)
Hai bàn chân linh thiêng ấy, những ngày rằm và ngày hội
Tôi đã được nhìn rất cảm động những trẻ mồ côi nhỏ
Những bà già và những cô thiếu nữ xinh đẹp, ngây thơ
Hôn hít hai bàn chân Thánh hoặc lấy tay vuốt ve, sờ
Hay là với khăn mùi soa, vạt áo, miếng nhung, miếng vóc
Mà họ áp hôn vào môi, hoặc đưa lên đầu tóc
(Lối thơ 12 chân)
Ban ngày, lúc ta thủng thỉnh đi trên đường phố
Bây giờ một mình ta trằn trọc trong đêm tối
(Lối thơ 10 chân)
Hai bàn chân linh thiêng ấy, những ngày rằm và ngày hội
Tôi đã được nhìn rất cảm động những trẻ mồ côi nhỏ
Những bà già và những cô thiếu nữ xinh đẹp, ngây thơ
Hôn hít hai bàn chân Thánh hoặc lấy tay vuốt ve, sờ
Hay là với khăn mùi soa, vạt áo, miếng nhung, miếng vóc
Mà họ áp hôn vào môi, hoặc đưa lên đầu tóc
(Lối thơ 12 chân)
"Soi đến kính hiển vi cũng không thấy thiếu một
chân nào. Thơ ông quả thực không phải thơ quê. Nhưng quả thực là ngô nghê.
"Đem so sánh thơ ông Vỹ với hai bài
thơ "Đồng Hồ" của tôi ông không bằng lòng là phải, vì nó không đủ
chân, nhưng giá đem so sánh với bài "Son nê" sau này của cô N.T.G.
thì hẳn ông ưng ý lắm:
TẶNG VÚ GIÀ CỦA TA
Hỡi
vú già của ta ơi; Hỡi vú già của ta ơi!
Vú đến ở hầu nhà ta, may mắn ấy thực bởi trời.
Vú tuy người chẳng xinh tươi, mà lại cũng không còn trẻ
Nhưng rất chắc chắn, vững vàng, và vừa nhanh và vừa khỏe.
Gọi thì dạ, bảo thì vâng chưa hề phải mắng một lời.
Suốt từ sáng sớm đến chiều, chỉ làm lụng chẳng rong chơi
Nào việc bếp nước nấu ăn, nào giặt quần áo, nào chẻ
củi, nào quét dọn nhà cửa, hết việc lớn đến việc bé.
Vú đến ở hầu nhà ta, may mắn ấy thực bởi trời.
Vú tuy người chẳng xinh tươi, mà lại cũng không còn trẻ
Nhưng rất chắc chắn, vững vàng, và vừa nhanh và vừa khỏe.
Gọi thì dạ, bảo thì vâng chưa hề phải mắng một lời.
Suốt từ sáng sớm đến chiều, chỉ làm lụng chẳng rong chơi
Nào việc bếp nước nấu ăn, nào giặt quần áo, nào chẻ
củi, nào quét dọn nhà cửa, hết việc lớn đến việc bé.
Tôi lấy hết can đảm để đọc đi đọc lại, lúc thì nhẩm
thẩm, lúc thì cất giọng ngâm nga, mà buồn thay cho tôi, tôi nghe nó vẫn làm sao
ấy.
"Nhưng đối với tác giả thì nó có
nhiều thi vị lắm, nó có một thứ thi vị ngầm, cũng như người đàn bà xấu số ở
trong phong dao có duyên thầm vì được chồng yêu quý:
Lỗ mũi em tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o;
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o;
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
"Ông Vỹ có quyền yêu thơ của ông lắm.
"Am hiểu âm luật, biết nói đến những
chữ trật tự, quy tắc, biết chê sự hỗn độn, hồ đồ, lại biết ghét những cái ngớ
ngẩn ngây ngô, mà viết ra những thơ như trên kia, thì viết làm gì? ".
Ngày 12-1-1935 (P.H. số 132), Lê Ta, trong
bài " Cuộc điểm...mấy Nàng Thơ", đã gọi thơ của Từ Bộ Hứa là "một đứa con xam xám: Vậy mẫu thân của nó hẳn là một nàng tây đen"; bảo "Nàng thơ của Nguyễn Vỹ không hay nói tiếng Việt Nam, người cay
nghiệt chặt chẽ từng dòng, từng chữ, nên đứa con của nàng không thiếu một chân,
một tay nào hết. Nhưng nó phải cái ngẩn ngơ cũng như nàng";
Về thơ Đức Văn, Lê Ta viết:
"Ông Đức Văn thì vớ phải con mẹ quê
mùa, dở hơi, sống sượng. Chị chàng này chỉ biết có thơ văn như hạng Phạm Công,
Cúc Hoa ở miệng bọn hát xẩm. Cũng có khi tâm hồn xúc động, "nàng"
cất thứ giọng lệnh vỡ của người nhà quê vùng bể mà ngâm rằng:
Tách nòng hờ hững mấy nòng
Nửa hương nuống để nạnh nùng bấy nâu
Nửa hương nuống để nạnh nùng bấy nâu
"Bởi vì nàng vừa ngớ ngẩn lại vừa ngọng."
Về thơ của Nhuệ Thuỷ, thì Lê Ta viết:
"Ông Nhuệ Thuỷ thì kết duyên với một
chị có họ gần với nàng Đông Thi. Nghĩa là một người xấu và hay bắt chước vẻ đẹp
của Tây Thi. Thấy Tây Thi nhăn thì nàng cũng nhăn. Nhưng Tây Thi nhăn thì thêm
duyên, mà nàng nhăn thì người ta chết khiếp".
Còn nàng thơ của Lan Sơn thì ôi thôi mỉa
mai làm sao!
"Nàng thơ của ông Lan Sơn là một
người hay vòi. Tôi thấy lúc nào nàng ta cũng lẽo đẽo đi lải nhải theo sau thi
sĩ, tay cầm cái mùi soa ướt đẫm, mặt thì mếu xếch mếu xác. Chẳng biết có bị thi
sĩ bạt tai cho cái nào không".
Đến nàng thơ của Huy Thông thì theo Lê Ta
nó thuộc vào loại "tăng gia sản xuất":
"Nàng thơ của Huy Thông là một nàng
thơ có nhiều tình cảm, nhiều tư tưởng hay. Nàng lại là người "mắn"
ta sẽ thấy nàng sinh sản được đông đàn. Vậy nàng có thể tự an ủi nàng rằng hỏng
đứa này, còn đứa khác.
Nói thế không phải có ý bảo tập "yêu
đương" - đứa con đầu lòng của nàng thơ Huy Thông là một tập thơ dở cả.
Những ý tưởng mạnh mẽ, những tình tứ không thường, những hình sắc lộng lẫy hay
dịu dàng với những vẻ đẹp trong trẻo, ngây thơ, mong manh, tôi thấy đầy dẫy
trong tập sách trên một trăm trang giấy tốt.
"Người thiếu niên thi sĩ của tôi
biết cảm xúc vì cái vẻ hùng vĩ, mênh mông của bể cả, biết mong gửi lại tiếng
lòng "thì thầm lời nước mây kiều diễm" theo tiếng sóng, biết cùng
tiếng sóng ca ngợi "lòng kiêu căng không bờ bến với "nỗi
buồn gớm ghê, niềm ngao ngán của một trái tim đau đớn bởi điên cuồng".
"Huy Thông biết ghi cái vẻ mơ hồ của:
"Ngàn liễu nơi xa trong sương hồng
chìm đắm ".
"Biết thổi khúc tiêu êm ái để buồn
ca những lời tự tình của người tiêu bất tử thiết tha khuyên nhủ chàng mục đồng.
Những nỗi niềm âu yếm, nồng nàn và lòng
yêu đương đằm thắm của một trái tim sớm đắm đuối vì tình, ông Huy Thông biết
đem thả vào tiếng rộng rãi của gió trên bể bạc và thu vào trong vỏ hến nhỏ để
người yêu nghe.
"Nhưng bao cái hay cái đẹp kia, tiếc
thay chỉ là những hạt trai lóng lánh lẫn vào trong đống đá sỏi sù sì. Nếu ví
thơ ông là bát chè thì người ăn chè là chúng ta đến thành móm hết".
Nhưng cách đấy năm tháng, tức đến
24-5-1935, nơi Phong Hoá số 150, Lê Ta lại có một bài phê bình thơ mới của Huy
Thông. Lần này, tuy có còn chê mát Huy Thông, nhưng Lê Ta đã dành nhiều chân
tình cho Huy Thông. Phải chăng Huy Thông đã cộng tác với Phong Hoá. Đây lời Lê
Ta :
"Gớm! Làm gì mà ầm ĩ lên thế nhỉ?
Truyện tình tự là truyện kín đáo mới phải chứ, là những truyện một người yêu
nói cho một người yêu nghe.
"Nói ở phòng riêng, bên bờ nước, ở
nơi âm u, nơi tăm tối hay trong ánh trăng khuya.
"Nói bằng cái giọng nỉ non, êm ấm,
dịu dàng hay khê nặc, hay khàn khàn như ống bơ rỉ, hay nặng nề như tiếng vịt
đực, hay ồm ộp như tiếng ễnh ương...
"Nhưng mà người ta nói nhỏ.
"Nói nhỏ để cho những lời ở cái
miệng đa tình lọt được vào cái tai đa tình,
"Thế thôi! Chứ người ta không gào
tướng lên cho bất cứ hòn đá nào với bất kỳ một "nhân vật" nào cũng
nghe thấy được.
"Ông bạn Suối Đào của tôi lại không
nghĩ thế.
"Bởi ông là suối. Là suối, nên ông
róc rách, kể lại hết cả các tiếng cây, tiếng gió, điều hay truyện dở, và thiên
tình sử rất đáng cảm động của cô Tần Ngọc với ông Huy Thông. Ông Huy Thông,
"nhà thi sĩ đã bao nhiêu người biết tiếng và mến tài... ", ông Huy
Thông mới 17 tuổi đã đổ tú tài triết học. Có lẽ từ xưa đến nay chưa từng thấy
ai thông minh đến bực ấy", ông Huy Thông là một nhà đẹp trai và "có
vẻ một nhà thông thái với trán rộng và mái tóc bờm sơm".
"Đó là lời trong bức thư cô Tần Ngọc
mà cái suối bép xép kia một hôm đã nghe thấy. Rồi bây giờ đi học lại cho chúng
ta cùng nghe (Trong Văn Học tạp chí đổi mới số 1).
"Suối Đào lại cho chúng ta nghe
những lời tha thiết hơn, chân thật hơn trong những bức tình thư nồng nàn của
một vị nữ lang mới mẻ vô cùng - là cô Tần Ngọc - Cô yêu ông Huy Thông lắm. Cô
muốn gặp ông Huy Thông sau buổi chiếu bóng ở Palace lắm. Cô muốn cho ông Huy
Thông không "lọ" lắm. Cô cũng muốn cho ông Huy Thông " làm mấy
bài thơ đăng ở báo Phong Hoá để tặng "cô lắm...Trời! Biết bao nhiêu lời
cảm động, làm tê tái lòng ông Huy Thông đẹp trai lắm của tôi!
"Cả một truyện tình của một tài tử
với một giai nhân. Một truyện tình riêng, nghĩa là chẳng có ích gì cho ai hết
thảy.
"Vậy mà Suối Đào kể lại tường tận,
rất chu đáo, rất có duyên nữa. Người thóc mách đến thế là cùng.
"Có lẽ là vì Suối Đào quá yêu Huy
Thông nên không hề biết gì là giữ gìn, là dè dặt nữa. Ông này quá yêu ông nọ và
muốn quảng cáo cho sự đẹp trai và sự... "đa tình" của tác giả tập
"Yêu đương". Có biết đâu rằng truyện thóc mách của Suối Đào sẽ làm
cho ông Huy Thông và cô Tần Ngọc không bằng lòng.
"Tôi biết ông Huy Thông là người rất
khiêm tốn không bao giờ ưa người ta nói đến tài của ông lắm, hay có ai nói thì
không bao giờ ông đem khoe ai...Ông Huy Thông phải đâu là người chuộng sự phô
trương trên mặt báo. Không, người thi sĩ của tôi ưa ca trong lầu vắng, và chỉ
muốn để cho thiên hạ thấy có khúc nhạc réo rắt của mình thôi.
"Cô Tần Ngọc cũng vậy. Cô không muốn
cho ai biết truyện riêng của cô. Tình yêu đối với cô là thứ tình kín đáo, mầu
nhiệm. Cô yêu ông Huy Thông vì Huy Thông "đẹp trai có tài" chứ có
phải vì để được người ta làm thơ tặng cô trên báo đâu. Khi cô xúi ông Huy Thông
rằng: "Số Phong Hoá sau thế nào cũng có một bài thơ tặng tôi (cô Tần
Ngọc) đấy" có phải là vì hiếu danh đâu? Đó chỉ là một tấm tình yêu thiết
tha, chân thực, nồng nàn và kín đáo...nhất là kín đáo.
"Ông Suối Đào thực không biết ý tứ
một chút nào hết. Những điều kín đáo như thế mà đem nói toạc cả ra!
"Làm như ông Huy Thông cũng muốn đem
việc riêng của ông ra công bố.
"Làm như ông Huy Thông đã thấy mình
bất tử và thấy thiên tình sử kia đáng lưu lại hậu thế.
"Làm như ông Huy Thông mong mỏi cho
người ta ca tụng cái tài thi sĩ, cái tài học, cái đẹp như thần tiên...
"Ông Huy Thông của tôi đọc bài của
Suối Đào chắc bây giờ đang nổi giận".
Cuộc cách mạng về thơ đã bùng ra ở Phụ Nữ
Tân Văn với bài "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ" ngày
10-3-1932, Phụ Nữ Tân Văn số 122.
Sau đó im bặt cho đến số 153 ra vào tháng
6 năm 1932, Lưu Trọng Lư, dưới tên giả cô Liên Hương, mới lên tiếng hưởng ứng
Phan Khôi. Rồi hình như viên đá thứ hai của cô Liên Hương ấy cũng không gây
được tiếng động nào trên cái hồ văn học Phụ Nữ. Tờ báo đầu tiên hưởng ứng nồng
nhiệt là Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn, chứ không phải báo Phụ Nữ Tân Văn của
Phan Khôi, vì suốt năm 1932 Phụ Nữ Tân Văn không có một bài nào đề cập thêm về
vấn đề thơ mới. Chưa hiểu nửa năm đầu 1933 thế nào, vì các thư viện mà tôi tra
cứu thì thiếu những số từ Janvier 1933 đến Juin 1933.
An Điểm phê bình thơ mới trên Phụ Nữ Tân Văn
Nhưng từ Juillet 1933, thì trên Phụ Nữ Tân Văn thấy có
nhiều bài đề cập đến thơ mới.
Ngày 6-7-1933 (P.N.T.V. số 207) An Điễm,
viết bài "Lối thơ mới". Theo An Điễm thì trên Phụ Nữ Tân Văn đã có
phong trào thơ mới rồi và nó đã ảnh hưởng mạnh đến văn giới cả trong và ngoài
Phụ Nữ Tân Văn :
"Thiệt, "lối thơ mới" là
một cái khuynh hướng đương phát triển trong văn giới Annam.
"Không những là thơ lối "Manh
Manh" đăng ở P.N.T.V. được nhiều độc giả hiểu ý nghĩa, tình tứ, mà hoan
nghênh ; và nhiều thiếu niên thi sĩ bắt đầu bỏ thiên kiến mà sấn bước vào con
đường mới lạ, đặt cảm tình tư tưởng vào khuôn mới, khác hẳn phạm vi Đường thi.
"Hình như nhiều giới thi sĩ khác ở
ngoài cơ quan PNTV cũng hưởng ứng mà dạn dĩ đặt cho thi cảm của mình vào khuôn
mới, khác nào thi nhau mà thách sự mai mỉa của hủ tục ".
Sau đó, An Điễm tuyên bố P.N.T.V. muốn giữ
vai trò lãnh đạo phong trào thơ mới:
"Phụ Nữ Tân Văn muốn làm một cơ quan
tiền quân cho nên trong sự sửa đổi khuôn khổ của thơ ta, cũng như trong mọi vấn
đề kinh tế xã hội, thoát ra ngoài thiên kiến, mà dạn dĩ gọi bạn làm thơ đi vào
con đường mới, con đường mới hợp với sự sanh tồn mới.
"Khuynh hướng trong vài giới thi sĩ
xứ ta đã thay đổi, thế là bạn làm thơ không phải lãnh đạm đối với kẻ thanh niên
thi sĩ của báo Phụ Nữ Tân Văn.
"Ước gì các bạn sẽ tiến mau cho đến
ngày đánh vỡ được thành trì giam hãm làm sỉ hổ tình tứ của nhà mỹ thuật là luật
nhà Đường; "hồn thơ" trong xứ ta sẽ có cơ tới gần cái thiệt tế hơn" .
Thạch Lam phê bình thơ mới của Hồ Văn Hảo
Ngày 20-7-1933, P.N.T.V. số 208, Thạch Lam, trong bài
"Lối thơ mới" đã giới thiệu bài thơ "Con nhà thất nghiệp" của Hồ Văn Hảo:
"Thanh niên thi sĩ Hồ Văn Hảo ra mắt
bạn đọc báo lần này là lần thứ hai. Hai lần thách sự mỉa mai của hủ tục, sự áp
chế của kỷ luật nhà Đường; hai lần tỏ ra một sự tiến bộ lớn.
"Lần đầu trong "P.N." kỳ
số 205, ra ngày 22 Juin vừa rồi thi sĩ Hồ "Tự tình với trăng"...
"Hôm nay xem bài thơ sau này, các
bạn sẽ có dịp cùng chúng tôi nhận một sự tiến bộ lớn".
CON NHÀ THẤT NGHIỆP
"Ngọn đèn leo lét,
Xác xơ một nóc nhà tranh;
Trên chiếu tan tành,
Một trẻ thơ nằm im, xanh mét...
Ngoài, trời mưa xào xạt;
Gió tạt
Vào, vách thưa
Mấy hạt mưa
Mảnh mùng tơi tan tác...
Lạnh lùng đứa bé
"Cựa mình, cất tiếng ho rang,
Người mẹ vội vàng
Vuốt ve rằng: "nín đi con nhé!
Cha con gần về tới,
Con ôi,
Nín đi nào!"
Dạ như bầu,
Miệng cười, hàng lệ xối
Cánh cửa tre từ từ mở...
Một luồng gió lạnh chen vô.
Đèn vụt tắt; tối mò...
Ai đó?
Ai? Mình về đây...
Chút nữa đã bị còng;
Mới chun vào, họ la: ăn trộm!
Nếu chân không chạy sớm,
Mặt vợ con còn thấy chi mong!...
Thôi! bây giờ tiền đâu mua thuốc
Cho con; chết nỗi đi Trời!
Túng quá mới ra nghề nhơ nhuốc.
Chắc mai đây nhịn đói lắm, mình ơi!
Hồi làm cu li,
Đến mua, tiệm còn bán chịu;
Nay sở đã đuổi ra, thì
Một đồng điếu
Họ cũng bảo: đi!...
Âm thầm, vợ đốt đèn dầu
Ra chiều buồn bã.
Chồng quên lạnh dạ.
Ngồi thở ra, chắt lưỡi lắc đầu...
Ngoài, vẫn mưa xào xạc
Trong, đứa bé ho rang...
Ngọn đèn tàn
Hết dầu nên lu lạt..."
Xác xơ một nóc nhà tranh;
Trên chiếu tan tành,
Một trẻ thơ nằm im, xanh mét...
Ngoài, trời mưa xào xạt;
Gió tạt
Vào, vách thưa
Mấy hạt mưa
Mảnh mùng tơi tan tác...
Lạnh lùng đứa bé
"Cựa mình, cất tiếng ho rang,
Người mẹ vội vàng
Vuốt ve rằng: "nín đi con nhé!
Cha con gần về tới,
Con ôi,
Nín đi nào!"
Dạ như bầu,
Miệng cười, hàng lệ xối
Cánh cửa tre từ từ mở...
Một luồng gió lạnh chen vô.
Đèn vụt tắt; tối mò...
Ai đó?
Ai? Mình về đây...
Chút nữa đã bị còng;
Mới chun vào, họ la: ăn trộm!
Nếu chân không chạy sớm,
Mặt vợ con còn thấy chi mong!...
Thôi! bây giờ tiền đâu mua thuốc
Cho con; chết nỗi đi Trời!
Túng quá mới ra nghề nhơ nhuốc.
Chắc mai đây nhịn đói lắm, mình ơi!
Hồi làm cu li,
Đến mua, tiệm còn bán chịu;
Nay sở đã đuổi ra, thì
Một đồng điếu
Họ cũng bảo: đi!...
Âm thầm, vợ đốt đèn dầu
Ra chiều buồn bã.
Chồng quên lạnh dạ.
Ngồi thở ra, chắt lưỡi lắc đầu...
Ngoài, vẫn mưa xào xạc
Trong, đứa bé ho rang...
Ngọn đèn tàn
Hết dầu nên lu lạt..."
Đó là
một trong những bài thơ mới của khoảng giữa năm 1933 nghĩa là một năm sau bài
Tình Già (10-3-1932).
Cô Nguyễn Thị Kiêm bênh thơ mới
Thơ mới tuy phát xuất từ Nam Kỳ với Phan Khôi, là
người Trung, nhưng dư luận học giới Nam kỳ lúc ấy cũng phân tán lắm. Nguyễn Văn
Hanh phản đối chống thơ mới bao nhiêu thì cô Nguyễn Thị Kiêm, bút hiệu Nguyễn
Thị Manh Manh sốt sắng bênh vực thơ mới bấy nhiêu. Ngày 26 Juillet 1933,
cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết bênh vực thơ mới tại hội
Khuyến học Saigon. Theo Phụ Nữ Tân Văn số 211 ra ngày 10-8-1933, số đăng bài
diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm thì cô Kiêm nói truyện lâu trong tiếng rưỡi
đồng hồ "mà vì ứng khẩu mà diễn" cho nên báo Phụ Nữ Tân Văn chỉ
thuật lại được những đoạn cốt yếu.
Vì bài diễn thuyết này gây xúc động mạnh
trong thi giới miền Nam, nên ta cần biết qua về bài diễn văn này. Đây các bạn
nghe cô Nguyễn Thị Kiêm nói truyện về thơ mới:
"Trước khi nói về vấn đề thơ mới tôi
xin thử giải thơ là gì. Thơ là một danh từ để chỉ chung các vận văn. Làm thơ là
gì? Làm thơ tức là lựa một vận văn trong các thứ vận văn, hay là đặt ra một
vận văn để phô tả tánh tình, ý tưởng của mình, những quan niệm của mình đối với
sự đời, với vũ trụ, những cảnh vật, những hiện tượng của sự sống.
"Thi sĩ An nam hồi nào tới bây giờ
thường dùng ba lối thơ : thơ Đường luật; lục bát; song thất lục bát. Không kể
thơ Đường luật, là thơ của người Tàu, ta chỉ có hai lối thơ sau, còn bao nhiêu
lối khác chỉ cho chung về điệu ca (như hát sẩm, hát nhà trò vân vân...). Phần
nhiều thơ Đường luật là thơ tả tình cảm về thân thế của tác giả, còn thơ lục
bát và song thất lục bát thì hay thiên về lối tả cảnh, thuật truyện (Style
narratif).
"Thơ Đường luật là một lối thơ rất
bó buộc về từng câu từng chữ, chặt chịa về luật bình trắc, về phép đối câu, đối
chữ. Vì khuôn khổ luật phép phiền phức nên người làm thơ Đường luật phải ở
trong một phạm vi eo hẹp lúng túng, hễ cảm hứng ra bài nào thì câu văn như nhái
lại mấy trăm bài khác; còn ý tưởng thì dường như đã có nhiều người "phát
minh" ra trước rồi. Bằng muốn bỏ hết mấy "sáo cũ", diễn những
tư tưởng mới mẻ thì không trúng khuôn khổ. Ta có thể nói rằng thơ Đường luật
không dùng được nữa, vì bao nhiêu cái đề hay, bao nhiêu cái ý tưởng sâu, đều đã
có một hạng thi sĩ tài đời xưa, phô tả hết rồi, người sau đây vì cái vòng niêm
luật ấy, phải lập lại câu cũ ý xưa mà thôi, thành ra lời văn không thích hạp
với sự đời bây giờ mà ý tưởng thì không tả ra hết được.
"Hai lối sau, lục bát và song thất
lục bát thì giản dị hơn : cách đặt câu định vần cũng không cần phải đối, phải
hạn câu. Tuy vậy, về nội dung của nó, ý tưởng ít bị khép hơn thơ Đường luật,
song cái hình thức cũng còn ép ta phải lập những sáo cũ.
"Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ
mà bị "đẹt" mất thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối
nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xưa nên gọi là thơ mới.
"Năm ngoái, trong báo Phụ Nữ Tân
Văn, ông Phan Khôi "trình trong làng thơ" một lối thơ mới, nhưng
ông cũng kể rằng, mười năm trước, có một thiếu niên thi sĩ ở Hà Nội có sáng
kiến này đầu nhứt. Chưa thấy được bài thơ mới đầu nhứt, tôi chỉ đọc bài thơ
"Tình già" của ông Phan Khôi.
"Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa
gió lại vừa mưa, dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau
than thở vv..."
"Bài thơ này ít người thích. Người
ta cho nó là dài lắm và không có nguyên tắc. Thật, về hình thức thì bài
"Tình già" không được gọn,
nhưng về nội dung, tình tứ giãi ra một cách rõ ràng, dễ hiểu mà thật thà. Chỉ
đọc qua là nghe khác hẳn lối thơ xưa, có vẻ thiết thực và cảm hoá được người
đọc. Chính ông Khôi đã nói đó là một lối thơ làm thử (un essai) cốt đem tình tứ
có thật trong tâm hồn mình mà tỏ ra bằng những câu thơ có vận chớ chẳng buộc
niêm luật, hạn câu chi hết."
"Sau ông Phan Khôi chẳng bao lâu,
báo Phụ Nữ Tãn Văn có đăng bài hưởng ứng lối thơ mới của cô Liên Hương (Trung
Kỳ) và một bài thơ mới của ông Lưu Trọng Lư sau đây:
TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI:
Lần bước tiếng gieo thầm, bóng ai kia lủi thủi?
Lẳng lặng với sương gieo im đìm cùng gió thổi,
Không tiếng, không tâm, không thưa không hỏi.
Không hát, không cười, không than, không tủi.
Lận đận với năm canh, bóng ai kia lủi thủi.
(P.N.T.V. số 211, 10-8-1933)
Lẳng lặng với sương gieo im đìm cùng gió thổi,
Không tiếng, không tâm, không thưa không hỏi.
Không hát, không cười, không than, không tủi.
Lận đận với năm canh, bóng ai kia lủi thủi.
(P.N.T.V. số 211, 10-8-1933)
"Tôi chắc là bài "Trên đường đời" được nhiều người thích hơn bài
"Tình già". Câu văn bài sau nghe thâm trầm, có nhịp có vần hơn,
song nên để ý rằng ý nghĩa của bài này không rõ rệt hơn bài trước mà lại có hơi
mờ ám. Nhưng phải biết rằng bài này rút trong một tiểu thuyết (Hai cái thời
đại) chớ chẳng phải một bài thơ riêng, vậy muốn hiểu nghĩa của nó phải biết
chuyện trong tiểu thuyết hay là hiểu sơ bài ấy nói về khúc nào trong tiểu
thuyết. Theo ý tôi là người chưa đọc quyển tiểu thuyết kia, đọc bài "Trên
đường đời", định phỏng rằng tác giả (ông Lưu Trọng Lư) muốn tả thân cô
độc, đau khổ, của một người trên đường đời có khác nào một bóng người âm thầm
đi một mình trong cái đêm tối. . . . . . .
"Bài "Trên đường đời"
không gọi được là một bài vì nó vắn lắm, sau nầy khó làm mẫu để tỏ tư tưởng
khác, chỉ kêu là một khúc trong một bài (une strophe). Bây giờ muốn làm ra một
bài một điệu thì nên thêm một khúc nữa tương tự mẫu khúc trên rồi hai khúc sau
chỉ có bốn câu hay ba câu tùy ý, như vậy hình thức điệu này rõ rệt, chắc chắn,
có hơi giống điệu sonnet của thơ Pháp. (Đọc một sonnet Pháp). Đây là tôi bày
một ý kiến cho các thi sĩ (une proposition) chớ không phải nói ông Lưu Trọng Lư
bắt chước theo thơ Pháp mà các ngài hòng la lên:
"Bỏ thơ Tàu lại vớ thơ Tây!
"Sau bài "Trên đường đời" còn có một lối thơ mới. Tác giả Ký Thanh Tâm (không biết của ông hay là
bà nào) gởi đăng báo P.N.T.V.
"Tôi thử đọc bài này, tựa là "Vắng khách thơ". Hình thức bài này chia rõ ra ba phần: phần đầu: Xuân
năm ngoái, phần thứ nhì: ly biệt, phần thứ ba: Xuân năm nay: ý tưởng rõ rệt
dễ hiểu. Nên để ý rằng bài nói về sự buồn (ly biệt, nhớ thương) mà câu văn lại
gọn gàng, phe phẩy như nhảy nhót (style sautillant) vì tại câu văn vắn, chấm
phết nhiều. Thành ra đọc bài " Vắng khách thơ " xong, người đọc sẽ la: "cái bài ngộ nghĩnh quá!" chớ không có cảm tưởng buồn. Đây, ta
thấy rõ cái hình thức bài văn có quan hệ lớn đối với nội dung.
"Đó là ba bài thơ mới đầu hết mà ít
có ai để ý tới. Bây giờ tôi sẽ bàn đến thơ mới sau này, của tôi và bạn hưởng
ứng như Hồ Văn Hảo, Khắc Minh vân vân là bọn người làm đại náo trong làng thơ.
" Đầu năm ngoái, trong số báo mùa
xuân của Phụ Nữ Tân Văn, có bài thơ mới đầu nhứt của tôi, tựa là "Viếng
phòng vắng" (Đọc bài thơ) tả những tư tưởng của người khách, đến một
phòng xưa, phòng của người bạn yêu đã quá cố. Bài này thấy rõ rệt 7 strophes,
mỗi strophe giống nhau, strophe đầu và trong strophe chót hơi đồng chữ mà khác
ý. Khúc đầu và khúc chót:
Gió lọt phòng không Gió lọt phòng không
Tạt hơi đông Tạt hơi đông
Lạnh như đồng. Lạnh như đồng.
Ngồi mơ tưởng... Ngồi mơ tưởng..
Ngày xưa phất phưởng Tình xưa phất phưởng
Dấy động tơ lòng Ấm dịu cõi lòng.
Tạt hơi đông Tạt hơi đông
Lạnh như đồng. Lạnh như đồng.
Ngồi mơ tưởng... Ngồi mơ tưởng..
Ngày xưa phất phưởng Tình xưa phất phưởng
Dấy động tơ lòng Ấm dịu cõi lòng.
"Một khúc có 6 câu. Câu thứ 1 và 5, 6, thì mỗi
câu có bốn chữ, câu 2, 3, 4 mỗi câu có 3 chữ. Vận thì câu 1, 2, 3, 6 ăn nhịp
với nhau; 4, 5 vần với nhau. Khúc đầu là nhập đề liền, lại là cái giàn cảnh:
Người khách đến viếng phòng vắng, ngồi trong phòng. Cửa phòng mở he hé, luồng
gió lạnh tạt vào làm cho khách rúng động ; tưởng ngày xưa phất phưởng; lòng lại
bồi hồi. Khúc thứ 2, 3, 4, 5, 6 tả những tư tưởng của khách. Do theo mấy tư
tưởng ấy, ta có thể thấy cái phòng không.
Trải đã mấy trăng
Hỡi nhện giăng,
Với rêu lan,
Tấm vách cũ...
Từ khi người chủ
Một giấc lặng trang?
Hỡi nhện giăng,
Với rêu lan,
Tấm vách cũ...
Từ khi người chủ
Một giấc lặng trang?
"Khúc chót là cái kết luận của mấy tư tưởng nọ,
là cái tâm hồn (état d'âme) của người khách sau khi ôn truyện xưa nhớ người
xưa...Tình xưa phất phưởng, ấm dịu cõi lòng.
"Sau bài này, tôi cũng theo điệu này
mà viết một bài khác, tựa là "Thơ gửi cho em Vân" (đọc và cắt nghĩa
bài sau...). Còn đây là là một điệu khác. Điệu này tôi có làm hai bài "Canh tàn" và "Mộng du" (đọc hai bài ấy). Tôi xin chép một bài
ra đây để tiện chỉ cách đặt.
CANH TÀN
Em ơi, nghe lóng nghe
Gió đêm thoáng qua cửa,
Lụn tàn một góc lửa,
Lạnh ngắt chốn buồng the!. .
Gió đêm thoáng qua cửa...
Não dạ, dế tỉ te.
Lạnh ngắt chốn buồng the.
Em ôi, khêu chút lữa,. . .
Não dạ, dế tỉ te.
Gió ru... " thiết chi nữa!"
Em ôi, khêu chút lữa,
Rồi lại ngồi đây nghe
Gió ru... " thiết chi nữa! "
Sụt sùi mấy cành tre...
Em ngồi đây có nghe.
Tơ lòng chị đứt nữa?...
Gió đêm thoáng qua cửa,
Lụn tàn một góc lửa,
Lạnh ngắt chốn buồng the!. .
Gió đêm thoáng qua cửa...
Não dạ, dế tỉ te.
Lạnh ngắt chốn buồng the.
Em ôi, khêu chút lữa,. . .
Não dạ, dế tỉ te.
Gió ru... " thiết chi nữa!"
Em ôi, khêu chút lữa,
Rồi lại ngồi đây nghe
Gió ru... " thiết chi nữa! "
Sụt sùi mấy cành tre...
Em ngồi đây có nghe.
Tơ lòng chị đứt nữa?...
Bài này có 4 khúc, mỗi khúc 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Khác
là câu thứ 2 và 4 của khúc trước đem vô khúc kế làm ra câu thứ 1 và 3. Tôi ngụ
ý đặt điệu này theo bài (... Soir) của thi sĩ Pháp Charles Baudelaire. (Đọc bài
ấy) có mấy câu lập đi lập lại. Không phài là túng vận hay là chỉ để êm tai, mà
thật là cái dụng ý để tả cái buồn, một cái ý tuởng đang vấn vít theo mãi.
"Trong một điệu khác, tôi cũng dùng
lối lập đi lập lại câu văn, nhưng cái dụng ý lại khác và vấn đề bài cũng khác
xa bài này. Ấy là bài "Hai cô thiếu nữ" (đọc bài ấy).
"Bài này cũng có nhiều khúc. Mỗi
đoạn có 4 câu, câu 1 và 3 có 7 chữ, câu 2 và 4 có 8 chữ. Câu 1 và 9 là câu lập
lại. Cái đề là "Hai cô thiếu nữ" thì bài này chỉ thuật chuyện hai
cô thiếu nữ, tác giả không để mình vô trong đó, không nói cảm tưởng của mình,
cũng không phê bình câu chuyện; để cho mặc ý người đọc phán đoán.
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng;
(Một cô ở chợ một cô ở đồng)
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng,
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen.
(Một cô ở chợ một cô ở đồng)
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng,
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen.
"Mấy câu lập lại vừa là cái giây liên lạc (lien
de transition) trong bài vừa là cái điệu riêng của bài. Có nhiều người cho rằng
lập lại câu văn là đỡ kiếm vần và dễ làm lắm, kéo dài bao nhiêu cũng được, làm
mấy chục bài như vậy cũng được. Tha hồ cho mấy ông cứ làm! Nhưng lập lại câu
văn như trong bài "Canh tàn" và bài "Hai cô thiếu nữ"
mà không khéo lập, cho ăn nhập với câu trên câu dưới, thì mấy câu lập đi lập lại
sẽ làm "nghẹt" bài thơ, lui không lui, tới không tới, khác nào
người dui là chàng "Vân Tiên cõng mẹ" vô không vô mà ra không ra.
Tôi nói như vầy là có một bài thơ ngộ nghĩnh, giọng khôi hài, không biết tác
giả là ai, hình như của Cổ Nguyệt Nguyên thì phải.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra,
Đụng lấy cột nhà cõng mẹ trở vô.
Vân Tiên cõng mẹ trở vô,
Đụng lấy cột bồ cõng mẹ trở ra.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra... vân vân..."
Đụng lấy cột nhà cõng mẹ trở vô.
Vân Tiên cõng mẹ trở vô,
Đụng lấy cột bồ cõng mẹ trở ra.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra... vân vân..."
"Tôi cũng có dùng lối song thất lục bát, rồi xen
một lối vận khác vào, để thành ra một lối thơ mới như trong bài "Sa đàn" (đọc và chỉ nguyên tắc bài ấy).
"Gần đây người mình có dịch văn Pháp
nhiều lắm. Dịch ra bằng lối bát cú, tứ cú cũng có, lối lục bát, song thất lục
bát cũng có. Song hai lối sau thường dùng hơn vì theo hình thức, dễ phô tả ý
tưởng của tác giả hơn hai lối nọ. Dịch các thơ Tây bằng lối song thất lục bát
tôi chẳng nóigì, đến như dịch mấy bài thơ của thi sĩ Pháp Paul Verlaine là một
lối thơ đặc biệt quá mà dịch bằng lối lục bát thì không trúng ý tác giả. Ông
Verlaine muốn cho thơ đặt làm sao mà đọc nghe như tiếng đờn. Thế nên ông có một
lối văn riêng. Nhưng vậy, không phải thơ ấy không có nghĩa. Đọc nghe êm ái mà
lại cho người "thấy" được thưởng thức được cảm giác khác.
"Tôi xin đọc hai bài thơ của ông,
hai bài này có nhiều dịch giả (đọc bài La lune blanche và Chanson dautomne). Rồi bây giờ tôi
đọc mấy dịch văn. Đây là bài "Khúc ca hay" (La bonne chanson hay là
La lune blanche) của ông Phạm Đình Nguyên dịch "Khúc ca hay" theo lối
lục bát, lời văn hay, ý tưởng trúng, nhưng lối lục bát khác với lối văn riêng
của Verlaine quá thành ra không tả hết cái hay. Bây giờ tôi đọc bài "Vầng
trăng bạc" của ông Đào Thanh Phước cũng dịch bài La lune blanche mà dịch
bằng lối thơ mới. Tôi cũng xin đọc hai bài dịch "Chanson dautomne" của hai ông
Đào Thanh Phước và Dương Quang, bằng một lối thơ mới, ý tưởng trúng mà câu văn
dồi dào có lẽ đạt được ý muốn của tác giả. Nãy giờ tôi nói đến dịch văn tây là
có ý tỏ rằng với lối thơ mới người ta sẽ dịch được nhiều bài hay.
"Trước khi dứt câu chuyện thơ mới,
tôi xin bàn đến vài bài thơ mới của thi sĩ Hồ Văn Hảo. Tiếc rằng tôi không đủ
thời giờ để nói đến các bạn hưởng ứng khác như Khắc Minh vân vân ... Bài thơ
của Hồ Văn Hảo là " Tự tình với trăng " (đọc và chỉ nguyên tắc bài
ấy) câu văn thật êm đềm mà rõ rệt, người xem bài này có thể vẽ ra một cảnh.
Màn trời ai vén,
Để chị Hằng mặt thẹn đỏ tươi tươi
Một nụ cười,
Ra chiều xẻn lẻn...
Để chị Hằng mặt thẹn đỏ tươi tươi
Một nụ cười,
Ra chiều xẻn lẻn...
"Tiếc là ý tưởng bài này có hơi cũ, tác giả chê
cõi đời là "bể khổ trầm luân" không thiết gì đến đời, muốn lên ở
cung trăng cho êm tịnh.
"Nhưng bài sau thì lại khác hẳn. Ấy
là bài "Con nhà thất nghiệp" mà người ta cho là chẳng phải thơ. Chỉ
vì chẳng phải than thân trách phận, tả cảnh hoa tàn, nguyệt xế, suối chảy chim
ngâm mà là một cảnh thiết thực, một cảnh khổ có thực trong đời: người thất
nghiệp.
"Có lẽ trong thơ văn, người cu li ờ
trần quần vẫn là một động vật không có gì lãng mạn chăng? Có lẽ cái bi kịch
một người nghèo khổ phải đi ăn trộm "hụt", chúng ta hay được la
"ăn trộm"! rồi anh chạy trốn, kịch ấy không có gì lạ, đáng để ý
chăng? (đọc bài "Con nhà thất nghiệp" và phê bình).
"Kết luận tôi xin nhắc rằng chúng
tôi chẳng hề nói mình đặt ra những "thơ mới" hoàn toàn xuất sắc bao
giờ, chỉ mong rằng lối thơ mới được nhiều người để ý đến và nó có thể trở nên
một lối thơ thông dụng để tả một cách thiết thực rõ ràng những thi cảm của các
nhà thi sĩ hiện thời."
Phụ Nữ Tân Văn bênh thơ mới
Cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết ngày 26 Juillet 1933.
Bài diễn thuyết của cô tuy mãi sau này mới đăng lên Phụ Nữ Tân Văn số 211 (10-8-1933)
đoạn đầu và đoạn sau mãi đến số 213 (24-8-1933) mới đăng hết, bài diễn thuyết
ấy đã được báo Phụ Nữ tường thuật ngay từ số 210 và liên tiếp các số sau.
Nơi số 210 (3-8-1933), nghĩa là một tuần
sau khi cô Kiêm đọc diễn văn, bài xã thuyết của trang nhất tựa là "Đáp
lại một cuộc bút chiến" tác giả ký Phụ Nữ Tân Văn đã cực tán dương cô
Kiêm như là người đầu tiên dám can đảm dạn dĩ đi "hẳn vào con đường mới,
không quản sự mỉa mai của nhiều người thủ cựu" (P.N.T.V. số 210):
"Cô Nguyễn Thị Kiêm đã diễn thuyết ở
hội Khuyến học Saigon về lối thơ mới.
"Tất cả bạn độc giả có xem qua cuộc
bút chiến to tát của vài tờ báo đối với thơ mới đăng ở Phụ Nữ Tân Văn sẽ nhận
được ý nghĩa cuộc diễn thuyết này.
"Vài năm nay, đành rằng vẫn có nhiều
người bảo phải bỏ những khuôn khổ cũ trong thi ca An nam, vì nó không còn thích
hạp với tình tứ và tư tưởng của thi sĩ đời nay, là đời điển khí.
"Có người cũng đã bắt chước lối tây
hay là tự ý bày ra lối mới để làm thử một hai bài thơ.
"Nhưng, thật ra, chưa có thi sĩ nào
dạn dĩ bước hẳn vào con đường mới, không quản sự mai mỉa của "nhiều người
thủ cựu".
"Không ai có thể cãi rằng cô Nguyễn
thị Manh Manh đã đem thi cảm thật mà đặt vào khuôn khổ mới, tỏ ra là một tân
nhân vật chịu ảnh hưởng trực tiếp của thơ Tây.
"Người nào chịu bỏ thiên kiến không
kể những lời chế diễu quá dễ dàng của vài ông túng "câu chuyện hằng ngày"; người nào có huấn luyện về văn thơ, người nào chịu khó suy nghĩ trong
khi đọc, tất nhận được thi cảm trong những bài thơ mới của cô Nguyễn, và đã tự
hiểu rằng: tinh tứ mới cần diễn ra trong thơ mới ...
"Cô Nguyễn đã tỏ ra quan niệm mới
đối với thơ vần; cô lại là người có thi cảm cho nên sự sáng kiến của cô có ảnh
hưởng và nhơn đó mà sinh bất tiện cho cô. Ta cứ xem cuộc bút
chiến to lớn và phi thường về thơ lối mới thì đủ biết.
"Người thi sĩ của báo P.N.T.V. đối
phó với sức phản động ra thể nào?
"Cô đã đăng dàn diễn thuyết để đáp
lại những lời chỉ trích ; cô đã tỏ ra nghị lực phấn đấu một cách rõ rệt.
"Thái độ của bạn nữ lưu nầy sẽ có
ảnh hưởng hay cho vận động phụ nữ; bạn đàn bà có thể tự phụ vì cô Nguyễn đã
dạn dĩ phấn đấu như thế ! chúng tôi xin chị em lưu ý tới thái độ của bạn nữ
biên tập chỉ là vì cơ vận động phụ nữ; chúng tôi nêu mục này ở mục xã thuyết
là vì cái ảnh hưởng của nó đối với trào lưu phụ nữ, chớ không phải vì nhà diễn
thuyết là bạn của chúng tôi đâu.
"Chị em đọc báo tất đã nhận chủ tâm
của chúng tôi"...(Phụ Nữ Tân Văn số 210, 3-8-1933).
Các bạn nên ghi nhận kỹ lưỡng đoạn văn
trên đây. Nó không phải của một nhà văn nào nhận định về cô Kiêm, về thơ mới,
về cuộc tranh luận giữa thơ cũ thơ mới, mà nó là bài xã thuyết, bài lập trường
của báo Phụ Nữ, tức là nó nằm ở trong chính sách, nằm trong đường lối của Phụ
Nữ Tân Văn.
Huấn Minh ca ngợi thơ mới của cô Kiêm
Rồi cũng trong số 210 này, sau bài lập trường kể trên
đây, còn có một bài tường thuật của Huấn Minh tựa là "Cô Nguyễn Thị Kiêm
diễn thuyết tại hội Khuyến Học về LỐI THƠ MỚI". Đây là một bài tường
thuật rất có ý nghĩa, bởi nó hợp với điều mà Ngộ Không đã tường thuật ở Phong
Hoá nghĩa là nó tố cáo sự hăng say của văn giới đối với vấn đề. Trong bài tường
thuật này Huấn Minh đã ghi nhận bảy điểm bằng bảy tựa đề in chữ to :
1. Tựa đề thứ nhất "Cuộc diễn
thuyết về lối thơ mới". Huấn Minh ghi: "Một tuần lễ nay, đi đến
đâu cũng nghe bàn bạc về "lối thơ mới" của cô Nguyễn Thị Manh Manh,
và cuộc diễn thuyết về lối này.
Văn sĩ Tần Việt và nữ sĩ Tịnh Đế dùng lối trào phúng mà biên "nhàn đàm" và "câu chuyện hàng ngày để kích bác Nguyễn nữ sĩ, tự nhiên làm cho công chúng chú ý tới cuộc diễn thuyết của bạn chúng tôi."
Cuộc diễn thuyết này là một lời thanh minh; nó mở ra trong văn học xứ này một trương mới; nó có hai đặc sắc. Một lần đầu, ở xứ này có cuộc tranh biện kịch liệt về thơ, về khuôn khổ cũ và mới, lần này là lần thứ nhứt, một thiếu niên nữ sĩ đứng ở trước chỗ đông người làm án một bọn văn sĩ thủ cựu".
Văn sĩ Tần Việt và nữ sĩ Tịnh Đế dùng lối trào phúng mà biên "nhàn đàm" và "câu chuyện hàng ngày để kích bác Nguyễn nữ sĩ, tự nhiên làm cho công chúng chú ý tới cuộc diễn thuyết của bạn chúng tôi."
Cuộc diễn thuyết này là một lời thanh minh; nó mở ra trong văn học xứ này một trương mới; nó có hai đặc sắc. Một lần đầu, ở xứ này có cuộc tranh biện kịch liệt về thơ, về khuôn khổ cũ và mới, lần này là lần thứ nhứt, một thiếu niên nữ sĩ đứng ở trước chỗ đông người làm án một bọn văn sĩ thủ cựu".
2. Tựa đề hai "Đông nhứt các
buổi hội". Huấn Minh ghi: "Buổi diễn thuyết tối hôm thứ tư 26 Juillet vừa rồi
được đông người nghe nhứt...
"Tân Việt và bọn của ông ngồi rải
rác các nơi, tức là đại biểu cho sức phản động. Trong thi giới cũng như trong
các phạm vi khác vẫn có lắm kẻ bảo thủ ".
Điều ghi nhận ông Tân Việt và bọn ông kéo
nhau đi để phá cô Kiêm là điểm các bạn nên ghi chú.
3. Tựa đề ba "Thơ hăm dọa", Huấn Minh ghi: "Cô Nguyễn Thị Kiêm tới hội quán! Người trong hội
trao lại cho cô một xấp dày những thơ hăm dọa".
4. Tựa đề bốn "Từ hai
mươi lăm năm nay!", Huấn Minh ghi: "8 giờ rưỡi ! ông hội trưởng
hội Khuyến học, đốc tơ Trần Văn Đôn, đứng ra giới thiệu nữ diễn giả.
- "Hội Khuyến học có đã hai mươi lăm
năm nay: lần này là lần thứ nhứt, một người phụ nữ đăng đàn! "
5. Tựa đề năm "Diễn giả nói
một tiếng rưỡi đồng hồ", Huấn Minh ghi: "Cô Nguyễn nói về
lối thơ mới. Cô bác những lời nghị luận vô giá trị của ông Tân Việt và cô Tịnh
Đế, vân vân, bảo rằng những thơ cô cho đăng trên báo P.N.T.V. không niêm luật.
Cô giải thích chữ thơ...
"Cô giải rõ ràng vì sao mà phải bỏ
khuôn khổ cũ, không phải vì phạm vi 8 câu 56 chữ không thể giúp cho thi sĩ diễn
tả cái thiệt tế ngày nay, bày rõ vấn đề sự sống, cho đến những lối cũ mà hơi
rộng hơn là lối lục bát và song thất lục bát cũng không thể làm khuôn cho tình
tứ mới được. -Lời quả quyết này quả đúng sự thật!"...
6. Tựa đề sáu "Thái độ của
người phản đối", Huấn Minh ghi: "Tuy những nhà phản đối cô Nguyễn đã cao rao là sẽ
xin đứng lên phản đối cô tại hội quán, mà họ vẫn ngồi im...Diễn được một tiếng
đồng hồ thì chừng mươi người trong bọn phản đối ấy rút về êm. "
7. Tựa đề bảy: "Cảm giác", Huấn Minh ghi: "Trừ những kẻ tật đố, còn thì ai cũng nhận rằng buổi diễn thuyết hôm thứ tư rồi
có ảnh hưởng tốt trong mọi đường.
"Dầu sao, lối thơ mới đã chiếm được
quyền sống còn trong văn học An Nam.
"Hết thảy bạn nam nữ thấy cô Nguyễn
nhận chơn trách cứ của mình và cổ động cho cuộc biến đổi trong thi giới như vậy. Có người đã gọi là một cuộc cách mạng trong làng thơ, - đều hưng khởi
trong lòng.
"Văn sĩ An nam phần đông rất lãnh
đạm với mọi sự biến đổi, nhờ cử động cương quyết của cô Nguyễn kích thích mà sẽ
đổi thái độ của mình ". (P.N.T.V. số 210, 3-8-1933)
Chủ nhiệm Phụ Nữ Tân Văn ca ngợi thơ mới
Cũng trong P.N.T.V. số 210, sau bài của Huấn Minh,
chính bà chủ nhiệm Nguyễn Đức Nhuận cũng có bài "Nghe cô Nguyễn Thị Kiêm
diễn thuyết". Các bạn có thể ghi mấy dòng tiêu biểu hơn sau đây: "Một người thiếu nữ đứng trước gần ba trăm thính giả nam nữ mà giảng về thơ, văn
chương, cắt nghĩa chức vụ của thơ là thế nào, thỉnh thoảng cầm mấy tờ để đọc
những lời chỉ trích của bạn đồng nghiệp mà thái độ rất tự nhiên, rất vững vàng!
"Cái quang cảnh ấy làm cho lời nói
của bác sĩ Trần thêm có ý nghĩa.
"Hội Khuyến học ra đời hai mươi lăm
năm nay, mới có lần diễn thuyết này diễn giả là một người thiếu nữ! Một người
thiếu nữ có tư tưởng, có văn tài. Một người thiếu nữ đã dám bảo rằng phải bỏ
những khuôn khổ cũ của thơ ta, phải ngâm vịnh trong khuôn khổ mới!
"Một người thiếu nữ chống lại bao
nhiêu nhà thủ cựu trong thi giới mà nói rằng cần phải tả sự thật đời nay trong
khuôn khổ rộng hơn khuôn khổ Đường thi.
"Một người thiếu nữ dám ca tụng
những thơ rất mới như là bài "Con nhà thất nghiệp" của thi sĩ Hồ
Văn Hảo, làm cho bọn công kích thơ mới khó chịu phải kéo nhau ra về!
"Quang cảnh hay thay!
"Tôi ước ao các ngài phản đối lối
thơ mới cứ tha hồ phản đối, nhưng giữ phép lịch sự đối với một nữ đồng nghiệp
đã dạn dĩ đi vào con đường mới lạ....
"Nếu các ông chịu nhận như vậy rồi
đem sự tranh luận về lối thơ mới lên trình độ cao, chớ không nói pha lửng về
"bài thơ con cóc" một cách vô vị, thì các ông sẽ được người nghịch
nể vì ".
Sau cùng, cũng ở P.N.T.V. số 210, còn có
bài "Lối thơ mới" của Thanh Lan (ký tên T.L.) giới thiệu bài thơ
"Tình thâm" của Hồ Văn Hảo. Thanh Lan nhận định cái gì ở xã hội ta
cũng đang đổi mới. Mà theo tác giả, về sự đổi mới của văn vần, có người chỉ
muốn đổi mới về nội dung còn giữ y nguyên hình thức cũ. Thanh Lan không chịu
thế: "Những sự biến đổi kịch liệt trong xã hội An Nam về kinh tế và chính
trị đã có vang bóng trong văn chương An Nam.
"Về văn xuôi, lối văn đối từng câu
từng vế, luộm thuộm lòng thòng, dần dần thối bộ để nhường chỗ cho lối văn mới,
hợp với đời mới này hơn.
"Về văn vần, tuy rằng thơ của các
thi sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, Hồ Văn Hảo, Khắc Minh và các bạn khác nữa đăng ở
Phụ Nữ Tân Văn vẫn còn đương bị chỉ trích dữ, nhưng số độc giả đã đổi thị hiếu
mà cảm biết cái thi vị của lối này mỗi ngày mỗi đông.
"Kẻ bảo thủ thấy mỉnh có mòi thất
bại, thì đổi chiến sách. Bấy giờ họ bảo rằng:
"Đã đành là thi sĩ phải diễn cái
thiệt tế mới trong xã hội, nhưng can chi lại phải bỏ lối thơ Đường luật là lối
thơ đã từng nhờ những bài thơ tuyệt bút của bao nhiêu thi sĩ đời xưa mà nổi
danh? Can chi mà đổi cái hình thức? Chỉ vụ tất ở hình thức chẳng là nông nổi
lắm ru? Chi bằng ta lo về nội dung, nghĩa là cứ diễn đạt tư tưởng và cảm tình
mới trong khuôn khổ cũ.
"Tôi xin đáp ngay với người phản
động :
- Hình thức và nội dung quan hệ cùng nhau
mật thiết lắm.
"Cái áo đà không đủ tỏ là kẻ tu hành
chân chính (lhabit ne fait pas le moine) ; nhưng mà cái áo đà (hình thức) cũng đã tỏ ra
một cái tinh thần (nội dung) đặc biệt. Vì, quả nhiên, người mặc áo đà có tâm lý
khác với người vận y phục thường. Dầu không phải là thầy tu chân chánh chăng
nữa người vận áo đà vẫn không phải tâm lý như người thông thường.
"Nói thiết thực hơn về vấn đề thơ
mới, thi sĩ nào có tình tứ mới mà chịu diễn đạt trong khuôn tám câu năm mươi
sáu chữ, thì sẽ thấy kết quả nầy.
"Tình tứ thật của mình không thấy
phát biểu ra được, mà chỉ thấy mình nói những lời mình không muốn nói. Cái
khuôn khổ cũ giam mình trong một hoàn cảnh không thật".
Tác giả L.Đ ca ngợi thơ mới
Ngày 7 tháng 9 năm 1933 (P.N.T.V. số 215), một tác giả
khác, ký tên L.Đ. đã viết bài "Nên bàn về lối thơ mới". Bài "Nên bàn về lối thơ mới" đã được báo Phụ Nữ Tân Văn giới thiệu như thế này:
"Bổn báo đăng bài sau này của ông
L.Đ. để mở đường tranh luận về lối "thơ mới" trong tập báo này. Phụ
Nữ Tân Văn không thể làm cơ quan cho đảng phái chính trị hay là văn học nào hết; trên tờ báo chúng tôi có thể đăng bài tả ra những khuynh hướng khác nhau để
cho công chúng tranh biện rồi tự kết luận lấy". B.B.
Bài này, trước hết, thuật lại nền học của
Việt Nam từ đầu, là một nền học lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Hoa cho nên các kỹ
thuật làm thơ viết văn, nhất thiết đều bắt chước Tàu :
"Nước ta từ xưa đến nay vẫn là một
nước có một nền văn hiến; song xét ra cho dùng văn cho đúng, văn hiến ấy phần
nhiều chuyên chú vào các hạng nhà nho.
"Còn về mặt quốc âm vẫn còn kém sút
nhiều lắm, kém sút về hình thức mà về phương diện tinh thần cũng quá eo nghèo.
"Ngày nay hán học đã sắp điêu tàn, e
có ngày phải tuyệt diệt. Vậy thì cần nhứt là ta phải kiếm một lối học thuật mới
để thay vào. Đó là lẽ cố nhiên ai ai cũng đều công nhận; nhưng trong nước hiện
thời có hai nền văn học. Thứ nhất: Pháp văn; thứ nhì: Quốc văn. Pháp văn cần
phải học đã đành rồi, song học để mà làm một cái lợi khí để hấp thụ lấy tinh
thần Âu Mỹ hầu truyền bá trong dân gian, chớ không thể lấy đó mà thay cho Quốc
văn được.
"Vậy thì điều cần thiết hơn hết là
ta nên lấy quốc văn làm một môn học phổ thông. Dân ta là An Nam, lại học nói,
học viết tiếng An Nam, há chẳng phải là một điều tiện lợi lắm ru. Thế mà từ xưa
đến nay có mấy ai cho rằng tôi học quốc văn ở trường này...trường kia ra chăng? Hẳn là không! Ta định lấy Quốc văn là môn học phô thông, mà hồi nào đến giờ
không có trường, không có cơ quan cho đúng dắn thì người thức giả phỏng ai lại
chẳng đem lòng lo nghĩ .
"Người nho học thi ngồi chễnh chệ,
run đùi, tấm tắt khen thầm văn ông Lý, ông Đỗ là hay. Còn hạng tân học khen
Pháp văn, là cao thâm uyên bác, khen thơ ông Victor Hugo là khéo, khen văn ông
Lamartine là não nuột thâm trầm. Nhhũng hạng có học thì tuỳ theo sở thích của
mình mà ưa chuộng, không mấy ai chịu ngóng ngàng đến Quốc văn ; thành thử từ
xưa đến nay, cái tình đối với Quốc văn thật là nguội lạnh lợt lạt. Vẫn biết
rằng Quốc văn đã phát hiện từ hồi đời nào kia, cũng có người quan tâm đến,
nhưng đó là phần ít. Nếu không có thì sao lại có cuốn Kim Vân Kiều, cuốn Tần
Cung Oán, cuốn Chinh Phụ Ngâm, cuốn Lục Vân Tiên là mấy bộ văn chương kiệt tác
như thế. Song xét cho kỹ thì các nhà văn sĩ hồi xưa làm ra những áng văn ấy vì
một cơn ngẫu hứng, hoặc là đem tả lấy cái tâm sự của mình nó uẩn khúc trong
lòng chớ chưa phải là vì vấn đề Quốc văn mới sản xuất ra mấy tập văn kia vậy.
"Các nhà nho kia hễ mỗi khi cảm hứng
thì làm toàn là thơ bằng Hán văn, mấy ông cho rằng nôm na là mách qué. Bởi thế
có mấy ai ngó ngàng đến vận mạng, đến tiền đồ Quốc văn làm chi. Có lẽ vì duyên
cớ ấy mà làm cho lắm điều trở ngại về Quốc văn, sự tấn bộ về Quốc văn cũng phải
dần dà chểnh mảng. Hiện nay chúng ta đã biết rằng Quốc văn là eo hẹp, nên chỉ
lật đật tu bổ, trau dồi lại cho tốt; xây tường đắp móng cho nền Quốc văn được
rực rỡ thêm nhiều. Kẻ lo tìm kiếm nhiều tiếng mới, người lại lo bày bố nhiều lối
thơ. Nói tóm lại ai ai cũng đều lo sửa đổi "cái kho hương hỏa" của
mình cho hoàn toàn thiện mỹ, hầu chẳng hổ rằng người nước ta là một giống dân
hiếu học, văn chương nước ta chẳng kém chi người.
"Nay thử hỏi ý kiến bày ra "thơ mới" phát hiện vào thời kỳ nào?
"Người nước ta thuở xưa phần đông
chuyên về hán học. Cứ theo sách cũ tra cứu ra thì nước ta biết chữ Hán tự đời
Hồng Bàng, nghĩa là lúc ban sơ mới khai quốc thì trong nước ta đã có chữ Hán.
Tiền nhân của chúng ta học hán văn tất phải dùng chữ, dặt câu theo Hán. Trở về
sau, dần dần Hán mạt, cải Đường là lúc chữ Hán thịnh hành mới biến chế và phân
ra nào là : ngũ ngôn cố thể, ngũ ngôn cận thể, ngũ ngôn bài luật, ngũ ngôn
luật, ngũ ngôn tuyệt cú ; thất ngôn cổ thể, thất ngôn cận thể, thất ngôn luật,
thất ngôn bài luật, thất ngôn tuyệt cú vv... song thể cách thơ từ cũng chưa
phải là vào tình trạng quá gắt gao. Trở về sau, từ đời Trung Hưng trong nước ta
sấp xuống chuyên dùng lối thơ thất ngôn luật, trong một bài thơ phải có câu:
phá đề, nhập đề, thượng trạng, hạ trạng, thuợng luận, hạ luận, thượng kết, hạ
kết, bó buộc bách xúc thái quá, xưa nay không có thế bao giờ.
"Về sau, các nhà nho nào là văn nhân
thi sĩ, hễ mỗi cơn khiển hứng thì mượn lối đó mà làm, thét rồi đời này sang đời
kia thành di truyền ra một tánh quen, nói trắng ra thành một "cái tật" là đúng hơn, không thế nào trừ bỏ dặng.
"Đến sau - không biết vào thời kỳ
nào? - Hoặc giả vì lối thơ ấy câu đã ngắn, lại có hạn; phần niêm luật quá gắt
gao, trang nghiêm, hiểm hóc, sao là "bình", sao là "trắc", lại còn "âm vận", hãm người làm thơ phải theo lấy đó. Thành
thử cái ý kiến của mình không thể nào đem tả ra cho hết nội trong "năm
mươi sáu" chữ ấy. Phải cân nhắc tỉ mỉ từng câu, từng chữ, thật là trong
óc lúng túng, bực bội vô cùng những người làm thơ đều biết - vì thế mà ngòi bút
không đặng một tí tự do, và câu văn cũng kém mất đôi phần linh hoạt.
"Thật vậy, có nhiều khi tôi tập làm
thơ trên nầy, hễ bị "bí" một cái, xuất mồ hôi hột chẳng chơi! Cào
tai, gãi cổ; chọn tiếng này, lựa tiếng kia mãi rồi trọn một ngày thơ đâu chẳng
thấy, chỉ thấy trí óc nó dật dờ chóng mặt, mà dầu có đặng đi nữa đọc bài thơ
nghe cũng "xẳng lè". Vì sao? Vì trong bài thơ có nhiều chữ tôi
không muốn để mà buộc lòng tôi phải để. Trước sự bức bách của thể cách Tàu,
chẳng phải bây giờ mới có người nghĩ ra thơ mới, mà đã có người nghĩ ra thơ mới
từ thủa nào rồi kia: đó là hai thể lục bát và song thất lục bát.
"Thiết nghĩ, vì duyên cớ ấy mới có
người phát minh ra hai lối thơ mới - ngày nay đã cũ rồi - chính là thơ lục bát,
và song thất lục bát kia vậy. Ấy đó, vấn đề thơ mới này sanh ra trong óc tiền
nhân ta lâu rồi; chớ không phải đến nay mới có chúng ta là trước nhứt. Song đó
chẳng qua là mấy tay thi sĩ đại tài sáng kiến ra một lúc mà thôi. Trở về sau cái
tình ấy tưởng đâu là phải tiêu diệt mất, vì người ta đối với nó một cách hờ
hững lơ là; khác nào một luồng gió vừa thổi lai rai, một đốm lửa con con trong
đống củi".
Lần thứ hai, văn sĩ ta, theo ông L.Đ., đã
lại nghĩ ra thơ mới, đó là ông Trần Tuấn Khải với điệu "Anh khóa".
"Về thời kỳ gần đây thấy trong quyển
"Duyên nợ phù sinh" của ông Á Nam Trần Tuấn Khải có một bài thơ mới
tựa là: "Tiễn chân anh khoá xuống tàu".
Anh Khoá ơi em tiễn chân anh xuống tận bến tàu (1)
Đôi tay em đỡ lấy cái khăn giầu (trầu) em lấy đưa anh
Đôi tay em đỡ lấy cái khăn giầu (trầu) em lấy đưa anh
"Ấy cái điệu thơ mới của ông Trần là như thế.
"Ông khéo sáng kiến dùng điệu thơ
lục bát thêm tiếng thêm điệu vào thành ra bài thơ, không có hạn câu, hạn chữ,
dễ đạt được ý tứ và phô bày ra rõ ràng tình tiết. Khi đọc lên lại nghe rất êm
tai, dễ cảm hoá được lòng người, vì câu văn thật là não nùng uyển chuyển lắm.
Các nhà làm thơ mới sau ông Trần Tuấn
Khải, cũng theo ông L.Đ., hình như cũng chỉ là theo đà tiến hoá chung mà gây
thành phong trào rầm rộ hơn chứ không có gì là lạ lùng hay lập dị.
"Về sau phong trào "thơ mới" sôi nổi, không khác nào luồng gió lai rai kia hoá thành luồng giông lớn,
đốm lửa con con kia bừng cháy. Lửa càng cao, giông càng lớn: bao nhiêu người
tỉnh giấc đều đối với vấn đề thơ mới một cái tình cảm rất nồng nàn". Sau
đấy, ông L.Đ. kể tên và khen một số nhà thơ mới như Phan Khôi, Lưu Trọng Lư,
Hoàng Xuân Mộng, Nguyễn Thị Kiêm:
"Đến đây có lẽ là thời kỳ giải
quyết. Nào là bài "Tình già" của ông Phan Khôi, "Trên đường
đời" của ông Lưu Trọng Lư, "Trên con đường cũ" của ông Hoàng
Xuân Mộng vân vân... Lại cô Nguyễn Thị Kiêm là một nhà tân nữ lưu, sốt
sắng đứng lên diễn thuyết tại nhà hội Khuyến học để bàn về lối thơ mới; thì
thật là hay lắùm, tốt lắm.
"Tôi xin biểu đồng tình cùng cô, và
tôi còn trông mong, khuyến khích sau này sẽ còn nhiều cô Nguyễn Thị Kiêm nữa.
"Tôi lấy làm tiếc không đặng lên mục
kích và nghe mấy lời của cô phun châu nhả ngọc, song xem trong báo chương thì
cũng đủ biết rằng lời của cô là chánh đáng.
"Một đoạn cô bình luận bài thơ "Tình già" của ông Phan Khôi
có câu "Bài thơ này ít có người thích. Người ta cho nó là dài lắm và
không có nguyên tắc. Thật, về hình thức thì bài Tình già không được gọn...
"Cô cho nó không có nguyên tắc và không được gọn tôi xin đồng ý cùng cô; còn cô bảo nó là "dài lắm" thì tôi cho rằng trái.
"Ý kiến phát minh ra thơ mới là để
tránh lối thơ Đường vì câu nó quá ngắn không thể nào đạt hết ý. Đã cho đó là
phiền phức, rấp toan kiếm một con đường mới mẻ rộng rãi, thênh thang để mặc sức
ngòi bút vẫy vùng, tình tứ hoạt bát, mà cô còn câu nệ "dài lắm" tôi
e trái chăng? Thế thì ta cứ theo lối cũ, cứ tám câu bảy chữ, hoặc 5 chữ 3 vần
càng tốt hơn, hà tất phải bày ra lối mới?
"Mong rằng cô suy xét và biết giùm
cho, vì chính cô cũng có nói: "Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị
"đẹt" mất, thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên
tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xưa nên gọi là thơ mới ".
Nhưng L.Đ. mong rằng thơ mới, tuy hình
thức có tự do hơn thơ cũ, nhưng cũng phải đặt ra thể cách cho nó đàng hoàng,
chứ không thể để cho ai nấy muốn tự do sao cũng được :
"Còn về nguyên tắc một bài thơ thì
cần phải có: Những nhà phát minh thơ mới cũng nên biết rằng thơ mới là để cho
ta đặng tự do; song cái tự do ấy có mực thước, có chuẩn bằng, có qui tắc. Lời
thơ phải ở trong một cái phạm vi nhất định. Nếu kẻ làm thơ muốn vuợt ra ngoài
lề lối ấy, thì tôi tưởng rằng bài thơ không phải là vận văn mà là "tản
văn" là phải.
"Ngoài cái nguyên tắc ấy thơ lại
phải có âm hưởng véo von. Khi đọc bài thơ nghe ra như khúc đờn êm ái: khi
khoan, khi nhặt, lúc bổng, lúc trầm; người xem thơ tư tưởng rằng đứng vào cảnh
ngày hè hoặc đêm thu, nghe dế ngâm ve hót.
Đó là kể sơ qua phương diện bề ngoài bài
thơ lại phải có ý tứ sâu xa, lời lẽ hùng hồn, câu văn chánh đáng. Thơ có hồn mà
không có xác thì chưa phải là thơ toàn; mà có xác lại không có hồn thì khác
chi đoá hoa tươi không hương nhụy; chỉ đáng cho ta vất bỏ đi mà thôi!
"Tôi nói nghe ra hơi lạc đề, nhưng
muốn luận cái đặc tính về hình thức, về tinh thần bài thơ ra thể nào, cùng cô
Nguyễn nên mới dông dài như thế. Tưởng lại bà con cũng chẳng đem lòng cố chấp.
Bây giờ tôi nói lại chánh đề "thơ mới!".
Sau đấy ông L.Đ. đề nghị đặt cho thơ mới
một cái tên riêng, chứ chẳng nhẽ cứ gọi nó mãi là thơ mới sao cho tiện. Bây giờ
là mới, chứ sau này, dăm bảy chục năm, một trăm năm, cũng cứ gọi là thơ mới
thì không khỏi vô nghĩa.
"Thơ mới là gì? Đã có người nói đến
rồi ! Kêu rằng "thơ mới" chỉ là một cái tên kêu đỡ, tạm một lúc vậy
thôi. Về sau, trải qua năm nầy tháng kia lối "thơ mới" mà ta đang
kêu đây cũng phải cũ. Chừng ấy không lẽ ta cứ gọi hoài "thơ mới".
"Thơ mới" hay là ta cứ để tên đó, rồi dậm thêm như vầy: "Thơ
mới mà xưa" chăng? Vậy thì mỗi lối "thơ mới" buộc phải có
một cái tên riêng, để sau này khỏi lẫn lộn.
"Vấn đề đặt tên thơ mới là một vấn
đề cần nên bàn đến và giải quyết ngay mỗi khi có một lối "thơ mới"
xuất hiện. Song cũng không phải là dễ!
"Ít nữa phải có nhiều người hiệp ý
kiến lại đặng công đồng ; kẻ đa người giảm bao giờ tột lẽ mới thôi. Làm như vậy
một lối thơ đối với cái tên của nó mới xứng. Khi kêu đến "tên" nó
thì người đọc có thể hiểu ngay tính cách riêng của nó ra sao? Tỷ như thơ
"Lục bát" thì hiểu thơ ấy là thơ câu trên 6 chữ câu dưới 8 chữ;
thơ "Song thất lục bát" thì tự hiểu rằng: hai câu 7 chữ, kế đó một
câu 6 một câu 8...
"Thấy đó thì đủ biết sự đặt tên cho
thơ mới tưởng cũng không phải là vô ích; nhưng hiện thời nó cũng lắm nỗi khó
khăn, vì mỗi lối thơ mới còn phải để cho độc giả lựa chọn cho xác đáng rồi mới
công nhận".
Nhưng bàn thì bàn chứ thực ra chính tác
giả cũng không biết đề nghị được cái tên gì cho ổn, thành ra tác giả đành phó
cho thời gian thôi:
"Bao giờ lối thơ đã đăng "nhập
tịch" rồi, thì chừng đó cái tên của nó cũng có lẽ phải xuất hiện ra.
"Chính tôi đem hiến cho bà con một
lối thơ mới, mà bài của tôi cũng là một lối thơ "vô danh". Suy nghĩ
hoài, định cho nó một cái tên nhưng không biết tên chi?...
"Ấy mới biết "bày ra một lối
thơ" có lẽ dễ hơ "đặt tên một lối thơ" nhiều lắm.
"Hiện thời phong trào "thơ mới" lôi cuốn bao nhiêu người có nhiệt huyết với quốc văn đều quan tâm chú ý
đến rồi, sắp sửa làm cho cái lâu đài quốc văn cực đẹp thêm lên. Bản đồ (plan)
đã vẽ, còn chờ có nhân công thì khởi cất ".
Tác giả L.Đ. chẳng phải phải là người đứng
ngoài mà bàn suông. Ông bàn rồi ông cũng hăng hái góp công sức. Ông cũng đã làm
một bài thơ mới để góp mặt với làng thơ mới :
"Thấy cái nhà ấy là một cái nhà
chung, sau này chúng tôi sẽ trông mong nhờ cậy vào nó nhiều lắm nên không dám
làm lơ. Đã biết bao nhiêu người lo tạo tác chúng tôi tuy rằng bất tài, không
dám dương lên là "tay thợ" lên tường đấp móng dựng cột, ra kèo
chúng tôi làm không nổi, song chẳng lẽ điềm nhiên ư? Hoặc là để chúng tôi tiếp
phụ công vào ôm gạch, chở cát, trộn hồ tưởng cũng nên.
"Một ngày kia cái lầu cao, mát mẻ ấy
gầy dựng hoàn thành rồi, chúng tôi bước đến ở mới là không thẹn và tự nghe
trong mình vô cùng thơ thới vui vẻ lạ thường.
"Vì vậy chúng tôi cũng xin đem sau
đây "Một lối thơ mới trình chính giữa làng thơ" để cho văn nhân,
thi bá liệu lượng chấm giùm. Bài thơ ấy như vầy:
NHẮN AI
Ai
chẳng bảo rằng duyên đôi ta là duyên đầm ấm?
Rày đường xa muôn dặm,
ai có biết vì đâu mà nên cuộc bể dâu?
Kìa trời nước một màu,
ai tỏ lời thề hẹn,
giành giữ nguyền không vẹn?
Đã lắm lúc đôi phen,
nguyện đá vàng liêm tiết dẫu cuộc đời giải kiết...
Quan san rày vĩnh biệt
ngao ngán bấy tình trường lại xẻ gánh chia đường
Nào! luân lý cang thường
thử xem dường bao nã?
Ôi ái tình nước lã!
Danh dự xem bã giả
vì thế lực kim tiền,
nên lỗi ước phụ nguyền.
Tất thành lại khuôn thiên,
âu thả gièo giòng nước,
thà phụ lời sau trước.
Miễn sao là mình được phú quí
với công danh thì thỏa nguyện bình sanh
Ôi! duyên nợ mỏng manh,
nhân tâm thường tráo chác
hỡi ơi người quá ác!
Hồng nhan thường phận bạc,
nàng biết thế hay chưa,
cuộc đời lại nắng mưa.
Nhắn ai khéo lọc lừa,
tài tai thường đi cập mấy ai người khỏi gặp!?
Rày đường xa muôn dặm,
ai có biết vì đâu mà nên cuộc bể dâu?
Kìa trời nước một màu,
ai tỏ lời thề hẹn,
giành giữ nguyền không vẹn?
Đã lắm lúc đôi phen,
nguyện đá vàng liêm tiết dẫu cuộc đời giải kiết...
Quan san rày vĩnh biệt
ngao ngán bấy tình trường lại xẻ gánh chia đường
Nào! luân lý cang thường
thử xem dường bao nã?
Ôi ái tình nước lã!
Danh dự xem bã giả
vì thế lực kim tiền,
nên lỗi ước phụ nguyền.
Tất thành lại khuôn thiên,
âu thả gièo giòng nước,
thà phụ lời sau trước.
Miễn sao là mình được phú quí
với công danh thì thỏa nguyện bình sanh
Ôi! duyên nợ mỏng manh,
nhân tâm thường tráo chác
hỡi ơi người quá ác!
Hồng nhan thường phận bạc,
nàng biết thế hay chưa,
cuộc đời lại nắng mưa.
Nhắn ai khéo lọc lừa,
tài tai thường đi cập mấy ai người khỏi gặp!?
Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới
Đến
ngày 15-9-1933 (P.N.T.V. số 216) Lưu Trọng Lư lại cho đăng lại bài "Một
cái khuynh hướng mới về thi ca", bài mà ông đã viết và cho in trong tập
tiểu thuyết "Người sơn nhân" xuất bản vào tháng 5
năm 1933.
Nguyễn Thị Kiêm ca ngợi thơ mới
Ngày 14 tháng 12 năm 1933 (P.N.T.V. số 228), cô Nguyễn
Thị Kiêm lại gửi một bức thư ngỏ, tựa đề là "Bức thư gửi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới ".
Chính bức thư là một bài thơ mới khá dài
ký tên Nguyễn Thị Manh Manh, nhưng bài thơ này được giới thiệu bằng những dòng
văn xuôi sau đây ký tên Nguyễn Thị Kiêm:
"Tờ phụ trương văn chương của Đuốc
Nhà Nam ngày 3,4-12-33 vừa rồi, có một bài của ông Hoàng Tâm giở ra câu chuyện
thơ mới, thơ cũ mà cãi nữa. Trong bài ông ấy có nói đến tôi, nói rằng tôi đã
thất trận, đến đỗi phải gởi thơ mới đăng trong báo Phụ Nữ thời đàm ! ông Hoàng
Tâm lầm đấy, Nguyễn Thị Kim ở Phụ Nữ thời đàm với Nguyễn Thị Kiêm viết cho Phụ
Nữ Tân Văn là hai người, chớ không phải một: Đến chuyện ông cho tôi "rút
cờ" lại là một việc sai nữa. Lâu nay trong báo Phụ Nữ Tân Văn không có
đăng thơ mới chỉ vì không trống giấy mà thôi. Người ta vẫn gởi thơ mới đến cho
chúng tôi nhiều lắm và chính tôi cũng có làm nhiều bài. Vì có nhiều vấn đề đáng
quan tâm hơn là thơ nên chúng tôi hoãn lại chưa có dịp đăng lên báo. Nay ông có
nhắc đến, sửa soạn ăn mừng cuộc thắng trận của ông, tôi xin soạn một bài thơ
mới của tôi viết cách đây hai tháng nay đăng lên báo. Nếu ông có dư thì giờ và
báo Đuốc Nhà Nam có thiếu bài, ông cứ cho tôi hay, tôi sẽ đưa mấy bài thơ mới
để cho ông đăng lên báo Đuốc Nhà Nam và phê bình luôn thể".
Đây bài thơ, tức bức thư ngỏ mà Nguyễn Thị
Kiêm gửi cho người ưa và người ghét thơ mới. Nó bộc lộ một tâm hồn thiếu nữ đất
Lục Tỉnh, thẳng thắn, đột ngột, hăng say:
Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à!
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng "nột dạ"?
Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à!
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ?...
Bọn yêu tựu hỏi nhỏ: "E... chỉ sợ?
Tội nghiệp chớ! Người thì trẻ nên có hơi khờ"...
Bạn ghét xúm hét to: "Á! nó sợ!
Đáng khiếp chửa! Người thì đẹt mà muốn vát cờ"
Nghiêng mình thưa: "Hỡi các bạn quí yêu,
Gì mà sợ? Nghe tôi nói nhỏ: Manh chưa "xiều"
Khoanh tay gọi: "Hỡi các ông trớ trêu,
Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều
Thật, lâu nay tôi vắng đến "làng thơ"
Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ,
Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ,
Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ.
Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động.
Há được ngồi không mà sấp "mấy sợi tơ lòng".
Trước là hành động, thơ không mấy trọng,
Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phòng!
Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở,
Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ.
Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở!
Thôi, lấy "túi văn chương" vét một vài bài thơ.
Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ,
Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới?
Nó chơi chớ có gì đâu mà chờ,
Đây một bức thơ, thơ mới! thơ mới! thơ mới!
...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới.
Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh
Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới,
Ưa đến nghe, ghét đến "bới" làm tôi tái xanh
...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm,
Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt!
Kẻ nghịch la: "ả đảo! chẳng để êm!"
Bạn thích gật đầu nói: "Cái lối thơ hay thiệt"
Kết luận chuyện mới gần thành chuyện cũ
Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi
Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ:
Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi;
Đất trước để yên, đất sau lo xới,
Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi.
Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới,
Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi.
Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ:
Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở,
Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở".
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng "nột dạ"?
Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à!
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ?...
Bọn yêu tựu hỏi nhỏ: "E... chỉ sợ?
Tội nghiệp chớ! Người thì trẻ nên có hơi khờ"...
Bạn ghét xúm hét to: "Á! nó sợ!
Đáng khiếp chửa! Người thì đẹt mà muốn vát cờ"
Nghiêng mình thưa: "Hỡi các bạn quí yêu,
Gì mà sợ? Nghe tôi nói nhỏ: Manh chưa "xiều"
Khoanh tay gọi: "Hỡi các ông trớ trêu,
Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều
Thật, lâu nay tôi vắng đến "làng thơ"
Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ,
Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ,
Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ.
Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động.
Há được ngồi không mà sấp "mấy sợi tơ lòng".
Trước là hành động, thơ không mấy trọng,
Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phòng!
Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở,
Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ.
Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở!
Thôi, lấy "túi văn chương" vét một vài bài thơ.
Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ,
Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới?
Nó chơi chớ có gì đâu mà chờ,
Đây một bức thơ, thơ mới! thơ mới! thơ mới!
...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới.
Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh
Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới,
Ưa đến nghe, ghét đến "bới" làm tôi tái xanh
...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm,
Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt!
Kẻ nghịch la: "ả đảo! chẳng để êm!"
Bạn thích gật đầu nói: "Cái lối thơ hay thiệt"
Kết luận chuyện mới gần thành chuyện cũ
Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi
Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ:
Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi;
Đất trước để yên, đất sau lo xới,
Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi.
Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới,
Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi.
Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ:
Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở,
Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở".
Thanh Lãng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét