Hoa ban Tây Bắc
Lên Mèo
Lên đỉnh giời nghe sấm đất
Suối quặng
Loáng một luồng thơm
Một bài thơ đường
Cụ Trầm
Lũng Cú
Cô Tô
Một thoáng Vân Đồn
Một đời người, mà trước sau cái đi khác nhau quá!
Trước 1945 Nguyễn Tuân chuyên đi giữa phố, bất kể Bắc Trung Nam tới đâu Nguyễn cũng chủ yếu dạo phố phường chứ chẳng mấy khi thăm thôn quê nói chi chỗ rừng rú. Quanh quẩn những “tiểu phố” trong nước mãi chán, có bận Nguyễn sang tận Hương Cảng “đại phố” để dạo. Nói dạo, nhưng thường Nguyễn ra phố để đến một chỗ nhất định, chẳng hạn nhà hát cô đầu hay tiệm hút thuốc phiện hay ít nhất một quán rượu...
Sau 1954, Nguyễn Tuân thôi không gõ gót giầy khắp các vỉa hè hay chễm chệ trên xe kéo giữa phố cũ phố mới phố bé phố nhớn gì nữa. Nhà văn chuyển qua cái chuyên môn khác. Đi bây giờ không phải đi chơi, mà “đi thực tế”, đi đến những chỗ có nhân dân đang lao động. Kể lao động thì đâu cũng có, nhưng Nguyễn chọn đi thăm dân nơi rừng sâu núi thẳm đèo heo hút gió hoặc đảo xa xôi lồng lộng biển khơi...
Nếu Nguyễn Tuân cứ đi rồi về “không” như hầu hết mọi người, thì chẳng ai cần nhắc tới cái việc đi của ông làm gì. Nhưng Nguyễn cứ hễ lên đường là lại chở nặng về bao nhiêu cảm giác cảm xúc tinh tế, độc đáo. Nguyễn “cảm nặng”, xong đem diễn cái cảm của mình ra thành thứ lời khiến người đọc cũng bị... cảm lây!
Đi, trước với sau khác nhau. Vậy viết về đi, thì thế nào?
Cũng khác đấy. Đại khái, do cái đi sau nó là “đi làm”, viết về nó tất nhiên mình phải có kể những chuyện đã là lý do khiến mình được cử đi. Dễ dàng thấy Nguyễn Tuân đã kể mọi chuyện mắt thấy tai nghe với nhiệt tình chân thực. Nhưng tuy xuất phát từ đáy lòng, cái viết thực sự liên hệ đến công tác, nó bao giờ cũng vẫn khó thành văn chương. May cho văn chương, bên cạnh nhiều dòng ghi chép tỉ mỉ về sinh hoạt lao động của nhân dân, nhiều dòng khác miên man về lịch sử và tình hình đất nước, Nguyễn thường có dăm ba dòng ký những cái cảm riêng tư của mình...
Một phần do bị lẫn vào trong “văn có ích”(1) như vừa nói, mà cái “văn chơi” của Nguyễn Tuân sau 1954 không được chú ý đúng mức. Một phần nữa, là do loại văn chơi về sau dù sao cũng không còn mấy ai thưởng thức.
Không phải những ghi chép, nghĩ ngợi trong tập Ký Nguyễn Tuân không có ích. Nhưng nó lẫn vào vô số những ghi chép, nghĩ ngợi của bao nhiêu người khác. Tưởng chính cái phần “chơi” của sách mới có thể là thêm một đóng góp đáng kể của nhà văn cho văn học Việt Nam. Đã nửa thế kỷ rồi từ ngày Nguyễn “ký” những chuyến lên rừng xuống biển của mình. Sau đây chúng tôi xin trích đăng lại một số đoạn có giá trị văn chương tiêu biểu. (2)
Hoa ban Tây Bắc
Tây Bắc được ưu đãi nhỉ. Mùa xuân đã có hoa đào, lại có hoa ban.
Mùa hoa ban Nguyễn Tuân lên Tây Bắc qua đã trên dưới nửa thế kỷ rồi. Cái khu rừng ban “đi bộ (...) hai ngày liền mà không hết” bây giờ ra sao, mùa xuân 2012 có “pún” hoa thành khói đạn cao xạ trắng trên khắp nền xanh của núi nữa không?
“Pà lầu” làm những “bà già Mèo nhớ lại tuổi thanh xuân”. Thế còn những ông khách miền xuôi lớn tuổi đi giữa “trắng trời trắng núi một thế giới ban” thì sao, có nhớ thời thanh niên không, có ước ngay bên cạnh mình lúc này là một đóa biết nói biết cười không...
Đây bài thơ hoa ban Nguyễn “ký” nhân “ngày xuân công tác vùng cao”.
Hoa ban Tây Bắc, mùa ban pún hoa, nở rộ lung linh, hoa trắng núi trắng giời (cũng trắng núi trắng giời như mưa mùa ở Tây Bắc) hoa nở không kịp rụng (...)
Ban (...) là (...) hoa đặc thù của Tây Bắc (...) Việt Bắc không có hoa ban (...)
Theo chỗ tôi biết ở Tây Bắc, có một khu rừng ban rất dài rất rộng, cứ đi bộ với một đà bước vừa phải, thì đi đường rừng hai ngày liền mà không hết hoa ban. Từ bờ sông Đà qua Nậm Gin rồi bắt qua đường trục số 6, quãng rừng này toàn là ban. Hạnh phúc thay cho người đi công tác mùa xuân mà lọt vào trận địa hoa này vào lúc nó mãn khai thi đua nở cho hết để đóng mùa. Đứng ở bên phía Quỳnh Nhai nhìn sang núi bên Tuần Giáo, cứ thấy (giữa) xanh xanh đùn đùn lên những chòm khói bằng cái nong, giống hệt tán khói đạn cao xạ nổ giữa bầu trời. Sang sông Đà, đi gần mãi lại thì mới sực nhớ là mùa xuân ban pún, rừng ban đang ra những tàn những tán hoa trắng.
Ban ở sau lưng anh, ban ở trước mặt, ban ở bên phải, ban ở bên trái, ban ở trên đầu ở trên đỉnh núi, ban ở dưới chân ở trong lòng lũng. Ban ngang ngang tầm người anh nhưng lại nép ở bên kia mép vực đá. Nếu không thấy sợ sa xuống vực, cứ vừa bước vừa ngước lên, thấy mây trời cứ vờn vào nhị vào cánh ban trong suốt, ánh sáng như lọc qua một thứ giấy thông thảo hồng hồng. Nếu không sợ vấp, vừa bước vừa nhìn xuống vực sâu, thấy rừng hoa trắng như đang loãng ra trên dòng suối thăm thẳm xanh ve dưới lũng sâu. Trắng trời trắng núi một thế giới ban. Người anh ròng rã hai ngày quyện trong một mùi thơm mát nhẹ đăng đắng ẩn ẩn hiện hiện một mùi phong lan rừng cấm. Từ trên thinh không phả xuống cái hương tình của tình sử Thái, luồng thơm này liên tiếp những luồng thơm khác. Đôi lúc, một luồng gió nóng tạt ngang vào, thổi từ một quả đồi người Mèo đang đốt cỏ gianh làm nương tra bắp. Có hơi nóng đốt hương, hương ban bốc mạnh lên như cái ngào ngạt hấp hơi của một gian buồng nhiều vòng hoa hồng nẫu cánh vì tiếng nhị tiếng sáo và hơi trầm hơi nến. Con ngựa thồ tài liệu đi trước, móng ngựa trước móng ngựa sau đều bết những cánh ban vừa giẫm lên, còn hăng lên cái mùi hoa tươi bị nghiến nát.
Hoa ban tiếng Mèo gọi là pà lầu. Pà là hoa. Chữ lầu có nghĩa là già, người già. Một anh bạn Mèo cắt nghĩa cho tôi nghe: “Hoa ban là thứ hoa có thể làm cho người già trẻ lại như là cô gái Mèo mặc váy chếp bằng lanh trắng. Màu trắng hoa ban làm cho bà già Mèo nhớ lại tuổi thanh xuân mình mặc váy trắng in hình lên núi xanh mùa xuân.”
Ngày xuân công tác vùng cao, con ngựa đi trước, anh đi sau. Hoa ban cứ rụng xuống suốt dặm dài, ngày hôm đầu vừa nở vừa rụng, ngày hôm sau vẫn liên tiếp nở và rụng. Con ngựa xem chừng đã mỏi cổ mỏi đuôi lắm rồi. Cả hôm qua cả hôm nay, nó luôn lắc bờm và quất đuôi hất những cánh hoa đã ùn lên mình nó (...) (Trích từ bài Nhật Ký Lên Mèo)
Lên Mèo
Từ bao giờ ta quen nghĩ người Mèo gốc Trung Âu nhỉ? Âu vì có mắt xanh?... Có Âu chăng nữa thì cũng đã lai Á rất đậm lâu lắm rồi, vì đã lang thang qua Á, qua đất bây giờ là Trung Quốc, từ nhiều nghìn năm trước.
Người Mèo gốc gác thế nào chưa biết, chỉ biết, nhờ đọc “Nhật ký”, rằng họ hay nhắc giời, khéo nuôi lợn, mê thuốc lào, thích thổi sáo í ộ, có tài vừa thổi khèn vừa nhảy trên cọc...
“Mèo” thật ngộ, nhưng dĩ nhiên Nguyễn Tuân leo những “đèo dốc võng lên võng xuống như bờm sóng bể động” không chỉ thấy có người. Mà còn thấy “cái thế giới núi cao lồng lộng những nắng những gió những mây”, thấy “mây xô cả cửa mà vào nhà”, thấy “xa xa dưới chân (...) đường quốc lộ trắng nhờ nhờ như con bạch xà xoắn khúc. Và mây chờn vờn dải đường như diều hâu xám là cánh. Con đường rắn trắng hất xuống lòng vực cái đám mây ỡm ờ”... “Nhập” nhiều thế, thảo nào khi “tôi trở về thủ đô đường bằng”, “vẫn thấy tơ vương” cái đất giời Mèo.
Có sống ở cái thế giới núi cao lồng lộng những nắng những gió những mây những giời của vùng cao Tây Bắc thì mới nhập hết được cái ý giời trong tập tục đời sống đồng bào Mèo (...) Ánh sáng trong vô cùng, sáng vô ngần, lọc vô tận (...) Cái chân giời của người Mèo cũng không hoàn toàn giống cái chân giời của người đồng bằng đồng bể có giời có mây nhưng lại có cả nước nữa. Nếu chân giời của người đồng bể là một ngấn nước thẳng tắp, thì chân giời của người Mèo là một cái gì cũng không kém lồng lộng nhưng lô xô nhấp nhổm, một cái gì mở ra lồng lộng ở sau một cái đỉnh đèo họ đang đi miết lên kia. Đã có nhiều lúc, tôi là một cái bóng lẻ sắc cạnh in hằn lên cái chân giời đó, nơi bóng mây thì thừa mà lại thiếu hẳn cái bóng buồm nước (...)
Tôi nghỉ lại một đêm, nửa ngày hôm trước và nửa ngày hôm sau tại nhà một anh bạn Mèo ở cách thị xã Lai Châu khoảng hai chục cây số (...)
Chiều hôm ấy nhiều mây, mây xô cả cửa mà vào nhà vợ chồng anh Giàng. Tôi ngồi nhìn lửa ánh lên những tấm gỗ vách bóng nhậy đầu khói mồ hóng. Những tấm gỗ không bào, chỉ đẽo bằng rìu, gợn lên cái đẹp chạm trổ của vẩy rồng vẩy cá. Con diều hâu phía đường đèo xa tạt nhanh vào xóm đây, liệng cánh chao cánh sà xuống định quắp gà con, cả xóm Mèo la hú lên, con ác điểu lại bay mất, lại liệng ra phía đường cái. Xa xa dưới chân tôi, xa tít ngoài núi kia, đường quốc lộ trắng nhờ nhờ như con bạch xà xoắn khúc. Và mây chờn vờn dải đường như diều hâu xám là cánh. Con đường rắn trắng hất xuống lòng vực cái đám mây ỡm ờ kia.
Tối hôm ấy tôi nghe sáo Mèo, thứ sáo hình như chỉ có hai nốt: í lên rất cao, rồi ộ xuống rất thấp, nghe như một cái gì bừng lên rồi sa làn xuống mà hẫng đi. Nghe hai nốt sáo, tôi cứ thấy nhạc Mèo lên xuống dốc, một thứ nhạc khỏe nhưng dễ mỏi chân người quen đi núi nay phải đi bước bằng dưới xuôi. Tối hôm ấy, trên cái tràn ruộng bé bằng vài cái nong, tôi xem múa Mèo. Gọi là nhảy Mèo thì đúng hơn (...)
Tôi trở về thủ đô đường bằng mà càng thấy nhớ mây Mèo. Giữa Hà Nội, thật khó tưởng tượng cái cảnh mây chiều mây sớm xô cửa mà vào giữa nhà mình. Thấy nhớ nhớ cái đôi mắt cô bé Muờ hút theo cái dốc núi hôm nào, đôi mắt thăm thẳm xanh lắc như cái lối nhìn của người lính thủy bói sóng chân trời. Hà Nội quay tít cù đèn hàng vạn hàng vạn xe đạp boóc-tê nhau. Sau lưng người trai đạp nhanh, cánh tay đàn bà mặc áo ve sầu đang đan len ngay sau yên xe. Vành bánh xe đạp quay, bàn tay đan len quay. Lại thấy nhớ những bàn tay ngón tay cánh tay đàn bà Mèo guộn lanh nối sợi gai quay chỉ lanh, vừa cuốn vừa nối vừa đi trên dốc núi. Đèo dốc võng lên võng xuống như bờm sóng bể động, trên đó nhấp nhô liên hoàn hai nốt nhạc í lên ộ xuống. Hà Nội vẫn loáng xanh phố cây đủ bóng to cũ và bóng mới trồng. Nhưng vẫn thấy tơ vương cái chất diệp lục ở ven sông Thái ở chân đèo Mèo. (Trích bài Nhật Ký Lên Mèo)
Lên đỉnh giời nghe sấm đất
Thời tưởng tượng chuyện “Trên Đỉnh Non Tản”, hẳn Nguyễn Tuân không ngờ sẽ có ngày mình đặt chân tận đỉnh non Phăng. Một đằng cao chỉ 1281m, một đằng những 3143m. Dĩ nhiên về độ cao trong cổ tích dân tộc thì chính non Tản mới là vòi vọi.
Nửa thế kỷ trước trèo lên tới những “mâm núi” đầy hoa đỗ quyên ấy là chuyện rất khó khăn, Nguyễn nhờ theo một đoàn công tác chuyên môn mà được nằm lều đỉnh giời nghe sấm.
Năm 2012 việc đi lại ở Tây Bắc nói chung và việc leo núi Hoàng Liên Sơn nói riêng đã tương đối dễ dàng hơn hẳn khi xưa. Nhưng chúng ta bây giờ chỉ có thể nghe sấm giời của Thiên Lôi mà không còn được nghe tiếng “sấm đất” của những người đồng bằng lên núi cao đánh bộc phá xây đường nữa. Cái âm thanh đồng vọng của một thời phấn đấu cực kỳ vất vả, may nó đã được ghi âm trong những trang ký này...
Tôi có lóp ngóp lên tới tuyến đỉnh Phăng Xi Păng rồi. Trên ấy, tuyệt đối không một con vắt, không một con muỗi, không một con ruồi. Không khí trong lành. Tốt giời thì đêm nhìn thấy quầng ánh sáng công nghiệp Việt Trì. Bụi thì hiếm mà trúc thì giống như cái phất trần và mặt núi thì như mâm xôi. Mâm núi nào hoa đỗ quyên (rô-đô-đen-đơ-rông) ngũ sắc cũng nở bạt ngàn (...)
Đoàn điều tra tài nguyên đất nước ngủ lại hai đêm trên đỉnh Hoàng Liên Sơn. Thị trấn nghỉ mát Sa Pa 1500 thước ở dưới chân mình, trời mùa hè vẫn quang quẻ và tươi nắng nhưng trên đỉnh Hoàng Liên Sơn thì mây vần gió giật và dông bão và mưa to. Lều vải tốt có lót ni-lông nhưng luôn luôn phải chạy dột và lo gió bay mất lều. Cả một ngày mưa to gió lớn, ngồi hứng giọt lều lấy nước thổi nấu. Và mở tờ-răng-xi-to theo dõi tình hình chiến sự (...) Giữa một thế giới buốt lạnh, mây trắng mịt mùng, trên đỉnh ngọn núi cao nhất nước, nghe cái tiếng nói phát thanh (...) nó có một cảm xúc lạ lắm (...) Chúng tôi nằm ép vào nhau, mà nghe mưa như tháo cống trên mái lều. Chật chội ướt át như một cảnh đò dọc neo lại giữa sông mưa (...) Ngoài những người xúm xít trong cái lều vải ướt mưa này, cả khu vực núi rừng quanh đây là không có ai hết! (...) Tôi vừa có thêm nhiều người bạn mới đang sống ở chân Hoàng Liên Sơn, nhiều người quê ở các tỉnh miền xuôi lên miền núi phát triển kinh tế (...) không ít những con người trẻ tuổi quê ở ngay thủ đô Hà Nội (...) Trên suốt tuyến đường từ đèo Ô Quy Hồ vào đến ngã ba Bình Lư, tất cả những người thanh niên ấy đang hăng hái tiến hành một cuộc đấu tranh với thiên nhiên, đang hào hứng mở đường cho ô-tô mai đây nối liền hai tỉnh thượng du Lai Châu và Lào Cai. Từ mấy tháng nay, rừng núi sát dưới chân Hoàng Liên Sơn rền vang lên tiếng mìn bộc phá của đoàn thanh niên đồng bằng lên mở đường cho đồng rừng. Trời quang, đứng trên đỉnh Phăng Xi Păng nhìn xuống, vẫn thấy những cột khói mìn mở đường (...) Cuối xuân sang hè, trên Hoàng Liên Sơn mưa to và động sấm. Nằm trong lều trên đỉnh cao, được nghe cả sấm giời và cả tiếng sấm mở đường vọng lên từ mặt con đường đang xẻ vào lưng núi dưới chân mình. Quả thực là tiếng đồng vọng của một chiến dịch, anh ạ (...) (Trích từ bài Tây Bắc và Lào Cai và bài Vẫn Cái Tiếng Dội Cà Mau Ấy...)
Suối quặng
Nhớ đâu đó, hình như trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài có nhắc chuyện Nguyễn Tuân dùng cao hổ cốt để bồi dưỡng cho đôi chân vận dụng hơi nhiều. Năm 1966 nhà văn miền xuôi đã gần lục tuần, còn “úp mặt xuống đất mà leo miết” lên tận cổng giời, hết cổng này sang cổng khác, thì cao hổ chứ “cao long cốt” e cũng chưa đủ làm cứng chân! Lại còn “tim tôi đập thình thình như tiếng gõ cửa đòi cấp cứu”. Chả cần đến cổng giời Long Bánh Chè Gối với Con Ngựa Trụy Thai, ai chưa biết... tim mình, cứ thử trèo núi Yên Tử một hơi, có lẽ sẽ biết.
Nhờ “xưa” có người cầm... bút trèo non lội suối, mà nay ta mới biết đến công lao của những người cầm búa “dầm ngay mình vào giữa lòng suối nước ngập bụng ngập ngực, rồi cứ thế mà lội ngược dòng (...) càn ngược lên”, vừa càn vừa thỉnh thoảng vung búa đập vỡ đá để “bói” quặng...
Cái công việc tìm kiếm “của chìm” ấy đã làm xong hẳn chưa nhỉ? Có còn con suối nào trong lòng đang chứa những viên đá “vỡ to vỡ gọn” chưa kịp phong rêu?
Một buổi trưa nào đó của Tây Bắc, tôi bước theo một đàn ngựa thồ lội qua một khúc suối trong. Nắng rừng rọi xuống, xuyên qua tấm kính mặt suối. Sỏi, đá cuội, đá lăn, đá đầu sư, đá hộc, đá gốc, hiện lên bằng hết. Bỗng thấy nơi đầu hòn này nơi đầu hòn kia ẩn ẩn hiện hiện, những vết sứt rất mới. Toàn thân viên đá đều một chất rêu lưu cữu, chỉ riêng chỗ vết thương mới là không có rêu, và lộ ra những hạt cấu trúc của đá. Đàn ngựa thồ nào qua đây, chắc là tải hàng nặng lắm, mỗi con chở tới bốn thùng dầu hỏa là đúng 80 cân! Thồ nặng, trượt chân trên trán đá, ngựa vấp mạnh móng sắt vào, làm sứt sẹo lũ đá lòng nước chứ gì! Tôi nhìn kỹ cái sẹo đá lóng lánh cát bạc cát vàng và li ti nổi gân xanh đỏ. Móng sắt ngựa thồ không đời nào vấp bật tóe đá đến như thế được. Chỉ có đánh búa vào thì mới vỡ to vỡ gọn như thế. Thôi, đúng là quanh vùng đây có một đội địa chất nào (...) Tỉnh núi Hà Giang là một tỉnh biên giới có cổng giời, rất nhiều cổng giời, cứ úp mặt xuống đất mà leo miết, và ngẩng đầu lên thì chỉ thấy có mây gần mây xa. Đã thế, anh địa chất Hà Giang lại còn thêm thắt ra một vài cái cổng giời địa chất nữa. Con ngựa chuyên đi lĩnh lương gạo và cốt mìn cho đội cũng xin hàng, không bám được đá cổng giời mà đành đi vòng thúng theo tuyến lũng thấp. Lên được cái cổng giời Long Bánh Chè gối này thì con ngựa cốt mìn phải chết. Cách đây hai ngày đường, bên kia phía Bắc Mê trên lối vào xã Đường Âm, có một cổng giời khác mang tên là đèo Con Ngựa Trụy Thai. Tim tôi đập thình thình như tiếng gõ cửa đòi cấp cứu. Dù sao, tôi cũng hãy quay đầu lại vài lần, để nhìn con suối dưới chân cổng giời mình vừa lội qua lội lại ban nãy tới hai mươi lần. Nhìn lại, mới thấy mình đã lên cao khá nhiều. Con suối trông lại thấy sâu hoắm! Nó bé như một thỏi thiếc chuốt dài, và nó ánh lạnh hệt một thỏi thiếc. Hết cổng giời, trên một thôi rừng lọt thỏm vào đấy một vạt ruộng lầy, nghe có tiếng mõ canh giữa ban ngày. Chỉ nghe mõ mà tịnh không thấy bóng người. Nước bậc thang ruộng trên rót xuống bậc ruộng dưới gõ luôn vào một ống tre. “Nước xanh gõ hòn đá xanh, nửa năm nghe tiếng mõ canh cổng giời”, anh địa chất vừa đọc lên, vừa bước thoăn thoắt. Anh kể chuyện một anh bạn cùng đội. Vừa rồi anh bạn nghỉ phép về xuôi để chuẩn bị tiến tới lập gia đình. “Đối tượng” hạnh phúc lứa đôi ở ngay giữa Hà Nội. Hai anh chị ấy cùng đi bách bộ trong vườn hoa Thống Nhất. Chị đi thong thà, còn anh thì quen chân, cứ tranh thủ mà đi, tưởng đâu như con đường sỏi cuội hoa viên vẫn còn là tuyến lộ trình trên ấy. Chị đối tượng thấy mỏi, gợi ý: “Anh, đi đã lâu rồi, ngồi xuống một lúc ở cái ghế đá trước mặt kia nhé!”. Tính anh bạn tôi cũng giản đơn, liền đáp thẳng thắn: “Đi bộ thế này thấm gì. Tôi quen đi cả ngày, từ sớm đến sẩm tối không nghỉ mấy tí.” Câu chuyện tìm hiểu ấy, hình như chưa tiến lên được mấy, vì cái bước chân chưa đều nhau giữa hai người định đồng hành (...) (Trích từ bài Suối Quặng)
Loáng một luồng thơm
Có một thời la cà ở các nhà hát cô đầu, các tiệm hút, có lúc qua tận Hồng Kông chơi trò “vẽ nhọ bôi hề”. Rồi có một thời trèo non băng rừng lội suối vượt sông... Sống một đời đôi kiếp như thế, thú vị chứ.
Trong cái kiếp thứ hai của Nguyễn Tuân, vì nhà văn không còn sáng tác chỉ vì nghệ thuật nữa, người đọc đi tìm nghệ phẩm thuần túy đành phải bằng lòng với những trang, những đoạn, văn đẹp xuất hiện rải rác trong các tác phẩm... Sau đây là một “chiếc lá rừng xa tôi nhặt về”, ép vào một tập ký. Lá nằm trong sách gần nửa thế kỷ rồi, mà vẫn “xanh tợ thuở mới hái”!
Khừm đã đứng dậy, đi vòng một gốc cây to bây giờ tôi mới chú ý đến. Khừm chém chém con dao rừng vào vỏ, tước ít vỏ, tìm được một cái hốc ở cạnh khóm rễ nổi lên mặt đất. Khừm bảo: “Cây này lúc cần, có thể dùng làm trạm liên lạc đây. Dùng làm liên lạc bí mật được đấy.” Tôi ngắm cái cây bưu điện giời sinh đó và hỏi lại Khừm: “Và lúc hòa bình, dùng cái cây này làm hòm thư riêng của người con gái và người con trai hẹn tìm nhau cũng được chứ?”. Khừm cười đắc ý, lấy ra từ lòng hốc cây một cánh hoa rừng và một nắm lá, rồi dõng dạc: “Đây, thư họ gửi cho nhau đây. Chắc của anh chị nào ở cái bản ban nãy ta đi qua định vào mua bưởi. Đúng là của anh chị nào nhắn nhau gì đấy. Họ lấy hoa lấy lá ra mà nói lóng với nhau, chả có đoán được đâu” (...) Xa xôi, ngan ngát, lăn tăn lá reo gió thầm. Ấy chính lúc đó chân tôi vấp vào một cái cọc nhọn. Một gốc cây con gẫy mục ở giữa lối mòn. Bàn chân dại điếng hẳn đi, tôi tập tễnh mất một quãng. Cùng một lúc đó, mũi tôi đánh hơi bắt ngay vào một mùi thơm. Hương thơm sặc lên như, đánh bốp một cái, đâu đây một dược sĩ nào vừa đánh rơi chai nước hoa cốt mới chế ra. Nó sặc ngát một cách thật là loáng nhanh, rồi lặn đi mau lẹ hơn tiếng động. Nó là một luồng hoa bay, vụt tạt ngang lối rừng giông giống cái ánh chớp trên nguồn. Tôi cố bắt theo tàn dư luồng thơm để lại trong khinh không một buổi chiều đang nhạt nắng. Như có người bôi nước hoa đắt giá thoắt rẽ mất vào rừng sâu. Như có người trêu mình, mà nhìn quanh thì không có vết chân nào, chỉ toàn là rêu rừng và ánh hoàng hôn. Tôi có cái tật đi rừng chợt thấy mùi thơm chỗ quãng vắng là hay trờn trợn (...)
Tôi tạm kể hết mẩu chuyện rừng (...) tôi chưa lường được khả năng gợi cảm của nó đối với anh. Anh tạm coi nó như (...) chiếc lá rừng xa tôi nhặt về (...) anh cho nó vào cuốn sách mà ép lại. Như kiểu ngày nhỏ còn đi học, gặp ngày chủ nhật được về chơi vùng quê, hay ép lá lưu niệm bỏ kín vào vở vào sách ấy. Này, có nhiều người đầu đã trăng trắng rồi, mà nay sách nhỏ mỗi lần mở lại vẫn giữ vẹn cái lá học trò xanh xanh tợ thuở mới hái! (Trích từ bài Đố Ai Quét Sạch Lá Rừng)
Một bài thơ đường
Mùa xuân năm 1964 Nguyễn Tuân vào Điện Biên bằng đường trời và trở ra bằng đường đất.
Cái con đường Điện Biên – Tuần Giáo ấy, Nguyễn biết “từ lúc nó còn chưa tốt chưa đẹp như bây giờ”, lúc bao nhiêu chiến sĩ hóa công nhân của công trường 426 còn đang vất vả làm ra nó.
“Cái xe cứ bon bon mà chạy, mà qua hết cầu này cầu khác. Nhà cửa, lều, lán, kho, trại, sân, cổng, vườn, bến, cột cờ, chòi phát thanh, đâu hết cả rồi? Chỉ còn có rừng xanh một dải và đường trắng cũng một dải (...) nó như là trở lại một cái phố trong lòng rừng Việt Bắc những năm tản cư kháng chiến hàng quán tấp nập là thế, mà nay tìm hỏi thì trước sau chỉ còn thấy có giọt nắng treo trên lá cũ...”.
“Đêm xuân (ở ngã ba) Tuần Giáo”, có một người vừa từ Điện Biên ra, đứng giữa bóng tối mịt mùng mà “thấy hiện lên rất nhiều bóng cũ. Cái bóng những người làm cầu làm đường. Đông lắm. Hình như trên con đường vắng ấy, họ vẫn đang đứng bên đường mà sung sướng nhìn cái xe tôi lúc ban ngày qua hết bấy nhiêu nhịp cầu mới...”.
“Tôi (...) đã sống những ngày nước lửa của công trường 426”, “tay tôi vẫn chưa mất đi cái sẹo Xuân Tre trận cháy mùa xuân 1960”, “tôi cảm thấy (...) mình (...) có hạnh phúc”, nên tôi cầm bút viết “một bài thơ (cầu) đường”.
Tôi ra và vào Điện Biên cũng đã nhiều lần. Lần đi mùa xuân 1964 này mới thật là một chuyến đi hả hê, thoải mái. Đường đã có cầu nổi, chiếc thì bằng sắt và gỗ, chiếc thì bê-tông cốt sắt, xe không phải lội suối như trước đây nữa (...) Tôi nhìn cái cầu bê-tông vừa mới hoàn thành, trên mặt cầu còn phủ lá phủ đất và còn cả cái ngáng tre ở chỗ nối đường vào cầu (...) Rừng vắng. Nhưng tôi vẫn thấy nó như đang lao xao cái tiếng động của đám đông (...) Một vài năm trước đây lúc khởi công làm cầu, những chỗ suối bắc cầu đó, đông đúc ầm ầm rào rào chứ đâu có lặng lẽ im ắng như thế này. Nào là tiếng chí cha chí chát của hiệp thợ chạm ngồi tẩy mặt và góc đá hoa cương dành cho mố cầu. Tiếng lách ca lách cách chàng đục thợ mộc. Tiếng cưa miết đều mạch gỗ của hiệp thợ xẻ. Tiếng cút kít nghiến trục gỗ, tiếng vành sắt xe bò nghiến xuống đá đường. Và cái tiếng máy dũi húc đất. Tiếng búa đập lên đe rèn những đinh đỉa cho ván cầu. Tiếng bễ phì phù, tiếng máy bơm xình xịch, hút cạn nước để đào móng xây mố cầu. Máy bơm hỏng, tắt tiếng, chờ thợ sửa bơm từ khu lên, thì lại có tiếng tát nước bằng guồng đạp. Bên dòng suối, vợ bộ đội công nhật nối nhau mà gánh cát cấp phối mặt đường. Và giữa lòng suối là cái tuyếc-bin thủy điện con con đủ chạy vài chục ngọn đèn, chạy cái máy ra-đi-ô, làm vui thêm sinh hoạt hàng ngày, và làm sáng thêm cái Tết rừng của những người thợ làm cầu bên suối (...)
Cái xe cứ bon bon mà chạy, mà qua hết cầu này cầu khác. Nhà cửa, lều, lán, kho, trại, sân, cổng, vườn, bến, cột cờ, chòi phát thanh, đâu hết cả rồi? Chỉ còn có rừng xanh một dải và đường trắng cũng một dải. Thấy tênh tênh mà tan quạnh cả đi như người và lầu Liêu Trai sau tiếng gà gáy sáng. Nói cho đúng hơn thì nó như là trở lại một cái phố trong lòng rừng Việt Bắc những năm tản cư kháng chiến hàng quán tấp nập là thế, mà nay tìm hỏi thì trước sau chỉ còn thấy có giọt nắng treo trên lá cũ (...)
Đêm xuân Tuần Giáo, điểm vào tiếng ô-tô vượt qua ngã ba, là những tiếng con bắt-cô-trói-cột. Ôn quãng đường vừa chạy xe qua từ trong Điện Biên ra, thấy hiện lên rất nhiều bóng cũ. Cái bóng những người làm cầu làm đường. Đông lắm. Hình như trên con đường vắng ấy, họ vẫn đang đứng bên đường mà sung sướng nhìn cái xe tôi lúc ban ngày qua hết bấy nhiêu nhịp cầu mới. Họ sung sướng và lào xào như trận gió chiều reo vào rừng hôm. Gió chiều nổi lên, con đường vắng mà vẫn như rầm rập tiếng chuyển quân của cả một cái công trường hoàn thành đường Điện Biên – Tuần Giáo (...) (Trích từ bài Một Bài Thơ Đường)
Cụ Trầm
Mới năm 1964 Nguyễn Tuân cho biết “loại trầm tốt nhất giá một cân”... ba bốn chục bát phở bò.
Thế rồi “trầm hương tự nhiên có 6 loại (...) giá từ 1 đến 25 lạng vàng mỗi ký (thời điểm 1980). Còn hiện nay, trầm xuất khẩu sang Nhật được tính từ 2.000 đến 10.000 USD/kg”.(*)
Chênh lệch, trời đất ơi!
Thảo nào trước kia “bố tôi” và sau đó là “tôi” đã “quanh năm, lúc nào (...) cũng có thể (...) đốt trầm”. Cái “một thời” đốt trầm chỉ đắt ngang ăn phở nó chẳng còn “vang” còn “bóng” gì nữa ráo. Trầm giờ xa vời vợi đàn với sách rồi, chỉ ưa quấn quýt các đại gia thôi.
(*) Theo Trương Tất Thọ, “Không ngậm ngải vẫn được trầm”, đăng ngày 6 tháng 7 năm 2010 trên trang truongkha.vn. Làm cái nghề kiếm trầm trên rú, đau khổ nhất và kinh hãi nhất là mỗi khi có người lạc rừng. Cùng đi với nhau lên rừng, bạn lứa thì tìm được ra hết gốc trầm này đến gốc trầm khác, mình thì càng tìm càng không thấy một gốc mô. Cây xanh nhiều hơn cây khô, và cũng đã đục nhiều gốc lụi héo mà lòng cây không có chi. Gạo cá muối ruốc của lái trầm ứng trước ra cho mình đó, ăn mãi đã gần vợi hết đi, mà thuyền lái trầm tiếp tế gạo mắm lên nữa thì còn lâu lắm mới tới kỳ sau. Anh em người ta ai cũng một vài gốc một vài cân trầm rồi. Mà mình thì càng tìm càng chẳng thấy (...) Ông cụ Trầm làng Mỹ Lộc đã kể cho nghe về chuyện những người đi làm trầm lạc đường suýt hóa thành người rừng. Lạc trong rừng lâu ngày, đói, ăn nhầm phải lá rú nấm dại. Rồi mất trí nhớ. Rồi thấy bóng người là lẩn tránh, lủi vào bụi sâu. Những khi có người lạc, đi tìm, hú lên mà thoáng thấy bóng họ tránh mình lẩn vào rừng quãng nào, thì bẻ lá bẻ cây đánh dấu lại. Về lán đùm cơm nắm trở lại chỗ đó, hú to lên, rồi để nắm cơm vắt lên trên tảng đá bên dòng suối. Rồi tránh ra chỗ xa chỗ kín. Người lạc rừng nấp mình kín sau cây lá mắt vẫn theo dõi, chờ ta đi khuất, rồi lâu lâu mới mò ra, nhìn ngang ngửa nhìn trước sau, ngờ sợ mà cầm vào nắm cơm lạnh. Nhìn rõ người bạn đi làm rừng của mình mà mình phải nín tiếng, thấy tội quá. Vì mình động mạnh và hiện ra thì họ vụt biến mất, và có khi lủi đi một khoảnh rừng nào khác. Như thế, càng nguy hiểm, càng khó tìm thêm, và có khi tìm chẳng thấy bao giờ nữa. Cứ ngày ngày đem cơm nắm đặt bên khe lạnh và tránh đi, có trường hợp phải hàng tháng như thế. Có hơi ngũ cốc vào, trí nhớ người lạc rừng dần trở lại (...)
Tôi thích đốt trầm đốt hương (...) Trừ những ngày hè mùa nóng, còn thì quanh năm, lúc nào tôi cũng có thể đốt hương đốt trầm, nhất là khi trời trở lạnh (...) Bố tôi ngày xưa uống trà Tàu, đánh đàn nguyệt đánh đàn thập lục. Tôi đứng cạnh bố tôi làm một thằng hầu lửa, hương tắt trầm hết khói thì tôi lại thắp tiếp lên. Để cho bớt đi cái độ ẩm, để cho dây đàn thật tiếng hơn, để cho không khí âm vang hơn. Mà thật như vậy đó, trời mùa đông, nhà không có lò sưởi như nhà người Âu, đốt lên mấy nén nhang, thấy nó có đỡ lạnh đi thật. Có những lúc nhất định nào đó, làn khói thơm lại có cái giá trị vật chất của tấm áo khoác thêm lên mình lúc ngồi trong phòng sách. (Trích từ bài Đố Ai Quét Sạch Lá Rừng)
Lũng Cú
Đi kịch liệt quá. “Liền mấy năm và bấy nhiêu lần đi Hà Giang...”, Nguyễn Tuân có lẽ đáng gọi là một “dũng sĩ” trong ngành đi để viết.
Thực ra ngay cả không viết lách gì, đi mà thấy, chẳng hạn cái cảnh “sóng đá các triền núi bạn (...) như biển cả đang vỗ bờ”, đã đáng đi.
Cả huyện “mừng nước về, mừng đường vào”! Đường và đường khoét ra từ sừng sững đá, xiết bao công trình các dũng sĩ vô danh ơi!.
Hà Giang là một tỉnh biên giới nằm trên đỉnh đầu Tổ quốc (...) Núi Hà Giang hùng vĩ nhiều cổng trời (...) Trên đường đèo vào Mèo Vạc, xe tôi dừng ở đỉnh dốc Mã Pí Lèng, đúng chân tấm bia đá ghi công những người mở đường. Cả quãng Đồng Văn – Mèo Vạc hai mươi bốn cây số đường núi đá này phải làm mất một năm rưỡi, nhưng riêng chỗ dốc Mã Pí Lèng, Sống Mũi Ngựa này thì phải tốn mất mười một tháng treo mình trên vách đá để đục, đánh mìn, bổ đá khắc đá ra mà cẩn mặt đường vào vách đá đứng thành vại. Ba năm trước, cũng vào tiết thu tôi đứng ở mép vực Mã Pí Lèng nhìn dòng sông Nho Quế như thế này. Hồi ấy, phá để khai đường, ầm ầm cây lao xuống vực, ầm ầm đá lao xuống dòng sông tít tắp dưới kia, có hòn đá to bằng cái tủ áo nhưng chỉ lộn nhào vài chục vòng là tan vụn ra thành khói. Và ầm ầm vang dậy những trận cốt mìn, nhưng tan hết khói mìn, tan hết bụi đá, thì chỉ thấy tắc đường. Con đường chỉ đến chỗ đỉnh dốc Mã Pí Lèng hiểm nghèo này là hết (...) trước mặt chỉ có đá (...) Những người dũng sĩ mở đường ấy nay đều vắng mặt cả, nhưng trước mắt tôi là một con đường cái quan cộm lên một màu đá xanh và ro ro xao động dưới lốp chiếc xe tiến vào huyện Mèo Vạc, càng vào càng mưa to. Mưa cả nửa ngày hôm ấy, mưa suốt cả đêm hôm ấy và không ngớt hạt lúc nào, trận mưa Mèo Vạc kéo dài sang luôn cả nửa ngày hôm sau. Mưa như thối đất ra, nhưng cất cơn mưa một cái là mặt ruộng lại nứt nẻ ra ngay. Đêm mưa không ngủ được, cứ thao thức về nông nỗi khan nước khát nước cổ truyền của bãi ngô cánh đồng Mèo Vạc. Mùa đông hạn hán, đốt đuốc ngồi rình nước rỏ ra từ hang đá, ngồi chờ thùng nước quảy được về, có khi mất cả đêm. Mãi cho đến mấy năm gần đây mới hoàn thành được mương nước chạy về từ trên nách núi cao. Nước xuống dốc, nước uốn khúc trong lòng đá máng, đá đã cạp, bê-tông, nước ngoặt chữ chi, nước nổi gió nổi sóng trắng mà chạy xộc về ruộng thấp. Con đường thủy lợi trông xa xa cũng tựa như một con đường bộ nào trắng bệch trăng ngàn, những khúc rồng rắn cuộn thừng. Cái năm 1965 nước thủy lợi chảy về đến cánh đồng huyện, thì cũng là năm con đường cái quan mở vào tới phố huyện. Mừng nước về, mừng đường vào, cả huyện mở hội liên hoan song hỷ! (...) Nằm ở huyện có hai đêm, nhưng cũng đã phần nào thấm được cái khổ xưa và cái vui hôm nay của huyện núi Mèo Vạc (...)
Ở đây vui quá (...) Chao ôi, mùa thu biên giới (...) cảnh thật là hết chỗ trữ tình. Trên các triền núi láng giềng, nắng hanh như rây bột nghệ, và đá núi lượn chạy như xô bồ những con sóng đời đời không chịu tan. Nhìn sóng đá các triền núi bạn, thấy như biển cả đang vỗ bờ mà sao tự nhiên phim lại mất hẳn đi cái phần lồng tiếng. Ngồi trên núi cao mùa thu, nhìn ra sóng núi tứ bề, cứ thấy nhớ biển (...) (Trích từ bài Mõm Lũng Cú Tột Bắc)
Cô Tô
Nguyễn “lên Mèo” ngắm giời, rồi Nguyễn xuống biển ngắm trai. Trai “nằm dưới rốn bể” mà, quái lạ:
“(Lòng) vỏ trai ngọc (...) tươi ánh thanh khiết, kết tinh lại tất cả những buổi tốt trời trên mặt biển vịnh Bắc bộ (...) xanh hồng huyền ảo, càng nhìn càng ưa (...) thấy như lộng lên cái thảm kịch của sinh vật nằm dưới rốn bể mà vẫn không chịu nguôi lòng tương tư cái nguồn sáng cội gốc đang bị trần sóng trên đỉnh đầu bẻ gẫy hết tia chói (...) kiều diễm như nửa vòng cung cầu vồng bắc lên từ một thế giới đáy biển vẫn hoài bão ánh trời...”! Thì vẫn trai đấy, nước biển đấy, sóng gió đấy, mặt trời lên mỗi bình minh đấy, nhưng có phải ai cũng thấy được như ai đâu. Cô Tô một tuần năm ấy có khách quý. Dấu chân cát xóa lâu lắm rồi, nhưng dấu mực trên giấy còn đây.
Biển càng hướng ra Cô Tô, càng thấy nồng. Vĩnh Thực, Cái Chiên, Núi Miều, Núi Tụi, vùn vụt lướt qua sườn tàu, mà trên boong tàu, mớ tóc trần trên đầu chị bạn vẫn không chịu rung lấy nửa sợi. Đứng gió quá. Chân đảo Thoi Xanh xa xa cát vàng như một nét chỉ mành tơ lưới kéo ngang nền giời hâm hấp của biển chờ cơn dông. Nước đùng đục. Mặt biển lặng lờ và láng mềm đi như dầu mỡ nào đang chảy tràn tới tận cái cuống mây chân giời. Nó gợi gợi một cái chảo khổng lồ nước xuýt vịt béo sôi giấu khói, mới trông qua rất dễ lầm với một nồi canh nguội. Có tí sóng nào dội lên phía chân vịt tàu, thì sóng chỉ xông thêm ong ong oi oi lên mặt tàu. Bầu trời tắt gió càng về quá trưa càng đặc sánh. Thấy nghẹn thở. Trời vàng vàng cái mặt màu da đồng (...)
Mấy chục con trai còn non chưa con nào đậu ngọc. Nhưng tôi vẫn vui như chính mình vừa tìm được ngọc bể. Trong mắt tôi vẫn chưa biến hết cái lung linh ban nãy của những người thanh niên lặn tìm trân châu giữa biển (sắp) bão. Con trân châu tươi vừa bổ đôi ra, hai mảnh vỏ óng lên cái hào quang của một thứ pha-lê nạm sà cừ. Buổi chiều vàng đùng đục trên hòn đảo, cũng như biển bão đang đục ngầu quanh trụ sở hợp tác xã Tô Bắc. Nhưng vỏ trai ngọc vẫn tươi ánh thanh khiết, kết tinh lại tất cả những buổi tốt trời trên mặt biển vịnh Bắc bộ. Màu sắc mát nhẹ của lòng vỏ trân châu đang từ chối mọi cái mờ ám càng giờ càng tăng của bầu trời bão quanh mình. Vỏ trân châu xanh hồng huyền ảo, càng nhìn càng ưa, và thấy như lộng lên cái thảm kịch của sinh vật nằm dưới rốn bể mà vẫn không chịu nguôi lòng tương tư cái nguồn sáng cội gốc đang bị trần sóng trên đỉnh đầu bẻ gẫy hết tia chói. Màu vẻ lòng trai ngọc thật là kiều diễm như nửa vòng cung cầu vồng bắc lên từ một thế giới đáy biển vẫn hoài bão ánh trời (...)
Hình như gió bão chờ chúng tôi lọt hết vào trận địa cánh cung bãi cát, rồi mới tăng thêm hỏa lực. Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim. Gió bắn rát từng chập. Chốc chốc gió ngừng trong tích tắc như để thay băng đạn, thì đầu cổ lại bật lên khi gió giật. Gió liên thanh quạt lia lịa vào gối vào ngang thắt lưng, đẩy cả người chạy theo luồng cát mà bạt ra phía sát bờ biển của một bãi dài ba ngàn thước, rộng chừng trăm thước. Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù đã bắt đầu thả hơi ngạt. Tôi lảo đảo trên sa trường, đi sâu mãi vào sa trường như cố tìm cho bằng hết mọi nỗi thương vong ở chỗ thiên hôn địa ám này. Hòn đảo gần hòn đảo xa, chỉ còn mờ mờ xam xám cái chót đỉnh, còn chân đảo thì đã mất trong cái mịt mùng của bụi muối ẩm. Sóng tung vòi cao và đổ dài, bọt trắng tãi thành hàng thành hàng. Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền như vua thủy cho các loài thủy tộc rung thêm trống trận. Tôi đúng là một cái buồm thuyền chạy vát nhưng sắp đứt dây lèo. Gió đánh bật cả từng cụm sim biển mà lùa ra biển, bụi sim biển cứ thế mà nhảy câng câng, mà lộn tùng phèo qua hết bãi cát rồi nhào đầu xuống những con sóng đứt chân đổ vào bờ. Cát vẫn bắn đón đầu. Cát vẫn bắn theo sau. Cả cái bãi vắng sa trường bỗng trở thành cái boong hoang dại của một chiếc tàu say sóng biển. Và trên đó, tôi như một người lính thủy đang cố lao về phía vị trí đằng mũi tàu. Tất cả những vỏ ốc con đều bay lên như tàn vàng giấy. Gió đặt vỏ ốc vào lòng tay tôi đang che gió. Ốc ở đây màu rất đẹp và hình vẻ nhiều kiểu khác nhau, chưa thấy mấy bãi biển mà ốc đẹp như thế. Và cũng chưa lần nào tôi được trông thấy những cái lâu đài dã tràng nghiêng ngửa tan vỡ đến như thế. Bãi bị gió mài lì, trở thành một mặt bàn bi-a đại cồ lồ trên ấy quay lông lốc hàng triệu hàng triệu viên cát dã tràng đang tìm lỗ nẻ để thụt xuống. Cuối cùng, bàn tay gió, như một anh chơi ngang phá đám đã gạt phăng hết chúng vào bất cứ con sóng đứt chân nào đổ bờ (...) Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân (tức đảo Cô Tô mẹ?) một cách thật quá là đầy đủ. Tôi dậy từ canh tư. Còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mũi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Điều tôi dự đoán, thật là không sai. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể, sạch như tấm kính lau hết bụi. Mặt giời nhú lên dần dần, rồi lên cho kỳ hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng. Lòng đỏ trứng khổng lồ đặt lên một cái mâm bạc rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mặt bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh (...) (Trích từ bài Cô Tô)
Một thoáng Vân Đồn
Đất nước ta có đủ núi, sông và biển. Lịch sử chống ngoại xâm phương bắc của dân tộc ta cũng có đủ chiến trường núi, sông, biển nơi tiếng reo hò thắng trận của quân Đại Việt còn mãi mãi vang: ải Chi Lăng, sông Bạch Đằng, biển Vân Đồn...
Thăm ải thăm sông không biết có được thưởng thức “đặc sản” gì chăng, còn thăm chiến trường biển xưa thì ta có thể “cả người chỉ vẻn vẹn mảnh khố tắm, lên ềnh ra trên (...) cát mỡ cát sữa (...) đẹp hơn đường hoa mơ đường mỡ gà, có chỗ ánh ngần in hệt đường kính”. Nằm trên cát mỡ sữa đường chán, ta có thể ghé vạn nếm thứ “nước mắm cá nục đã hàng chục niên tuổi, mở nắp ngửi thơm lừng như hương quý bốc lên từ một thứ rượu mặn”...
Hóa ra ở miền Bắc cũng có nơi làm nước mắm. Thiết tưởng một hiện diện ngoại lệ không thể thay đổi kết luận của nhiều nhà nghiên cứu rằng nước mắm gốc ở miền Trung, có lẽ là sáng kiến của người Chăm. Mặt khác, Chăm từ lâu đã thành một phần không thể tách rời của “Việt Nam”, vậy nói “rượu mặn” là thành quả xuất sắc của trí tuệ Việt Nam thì cũng không sai.
Cả một vùng biển Vân Đồn cứ theo gió bấc như thế mà ầm ầm sôi bụng mấy buổi liền. Bãi ướt vắng cả đến bóng gầy của những người đi bắt sa trùng càng làm cát trắng Vân Hải tăng thêm độ nhớ và nỗi mình. Đêm đảo về sáng, những gộc củi lấy từ bên rừng Vân đỏ cháy như không bao giờ có thể tàn được; tiếc cái đống lửa đảo Vân mà thành ra như người mắc bệnh không ngủ, tôi nằm xuống ngồi lên nhại đúng cái dáng và cái tâm một gã si đang hờn với một cái hẹn sai nào. Gió mùa đông bắc vẫn lùa gộc lửa bùng và dựng dậy sóng biển ngoài. Trong tiếng lửa trong mùi gió trong hơi sóng, đã trở về quanh đây tất cả cái tấp nập nhộn nhịp cái dẻo bền cái năng động đáng yêu của đời Trần. Trong sóng đứt chân và gió bấc mùa còn nghe rộn lên tiếng xáp trận của thủy quân ta (...)
Chập chờn hết mấy đêm trên sa trường Vân Hải xưa cùng nay, thấy gió lòng quê lộng mãi lên hơn bất cứ thao thức nào đã đu đưa mình bao năm qua các triền núi quẩn gió lũng trong đất liền (...) Đất nước mình có núi, có sông lở, có biển bồi, có đảo, có nhiều đảo. Riêng huyện Vân Đồn (tên cũ đáng yêu của huyện Cẩm Phả bây giờ) có trên sáu trăm hòn đảo lớn nhỏ, chia làm ba quần đảo (...)
Đò trạm của huyện đã trả chúng tôi đúng về bến huyện (...) Chà, vui mắt quá, cái sân chế biến nước mắm, hàng ngàn chum kiệu màu da lươn thẫm dựng đứng theo hàng lối từng khu, mỗi khu xếp theo tuổi của nước mắm. Có những chum nước mắm cá nục đã hàng chục niên tuổi, mở nắp ngửi thơm lừng như hương quý bốc lên từ một thứ rượu mặn. Uống một chén suông, chặc lưỡi một cái, thấy ngọt lừ (...) (Trích từ bài Huyện Đảo)
Lên Mèo
Lên đỉnh giời nghe sấm đất
Suối quặng
Loáng một luồng thơm
Một bài thơ đường
Cụ Trầm
Lũng Cú
Cô Tô
Một thoáng Vân Đồn
Một đời người, mà trước sau cái đi khác nhau quá!
Trước 1945 Nguyễn Tuân chuyên đi giữa phố, bất kể Bắc Trung Nam tới đâu Nguyễn cũng chủ yếu dạo phố phường chứ chẳng mấy khi thăm thôn quê nói chi chỗ rừng rú. Quanh quẩn những “tiểu phố” trong nước mãi chán, có bận Nguyễn sang tận Hương Cảng “đại phố” để dạo. Nói dạo, nhưng thường Nguyễn ra phố để đến một chỗ nhất định, chẳng hạn nhà hát cô đầu hay tiệm hút thuốc phiện hay ít nhất một quán rượu...
Sau 1954, Nguyễn Tuân thôi không gõ gót giầy khắp các vỉa hè hay chễm chệ trên xe kéo giữa phố cũ phố mới phố bé phố nhớn gì nữa. Nhà văn chuyển qua cái chuyên môn khác. Đi bây giờ không phải đi chơi, mà “đi thực tế”, đi đến những chỗ có nhân dân đang lao động. Kể lao động thì đâu cũng có, nhưng Nguyễn chọn đi thăm dân nơi rừng sâu núi thẳm đèo heo hút gió hoặc đảo xa xôi lồng lộng biển khơi...
Nếu Nguyễn Tuân cứ đi rồi về “không” như hầu hết mọi người, thì chẳng ai cần nhắc tới cái việc đi của ông làm gì. Nhưng Nguyễn cứ hễ lên đường là lại chở nặng về bao nhiêu cảm giác cảm xúc tinh tế, độc đáo. Nguyễn “cảm nặng”, xong đem diễn cái cảm của mình ra thành thứ lời khiến người đọc cũng bị... cảm lây!
Đi, trước với sau khác nhau. Vậy viết về đi, thì thế nào?
Cũng khác đấy. Đại khái, do cái đi sau nó là “đi làm”, viết về nó tất nhiên mình phải có kể những chuyện đã là lý do khiến mình được cử đi. Dễ dàng thấy Nguyễn Tuân đã kể mọi chuyện mắt thấy tai nghe với nhiệt tình chân thực. Nhưng tuy xuất phát từ đáy lòng, cái viết thực sự liên hệ đến công tác, nó bao giờ cũng vẫn khó thành văn chương. May cho văn chương, bên cạnh nhiều dòng ghi chép tỉ mỉ về sinh hoạt lao động của nhân dân, nhiều dòng khác miên man về lịch sử và tình hình đất nước, Nguyễn thường có dăm ba dòng ký những cái cảm riêng tư của mình...
Một phần do bị lẫn vào trong “văn có ích”(1) như vừa nói, mà cái “văn chơi” của Nguyễn Tuân sau 1954 không được chú ý đúng mức. Một phần nữa, là do loại văn chơi về sau dù sao cũng không còn mấy ai thưởng thức.
Không phải những ghi chép, nghĩ ngợi trong tập Ký Nguyễn Tuân không có ích. Nhưng nó lẫn vào vô số những ghi chép, nghĩ ngợi của bao nhiêu người khác. Tưởng chính cái phần “chơi” của sách mới có thể là thêm một đóng góp đáng kể của nhà văn cho văn học Việt Nam. Đã nửa thế kỷ rồi từ ngày Nguyễn “ký” những chuyến lên rừng xuống biển của mình. Sau đây chúng tôi xin trích đăng lại một số đoạn có giá trị văn chương tiêu biểu. (2)
Hoa ban Tây Bắc
Tây Bắc được ưu đãi nhỉ. Mùa xuân đã có hoa đào, lại có hoa ban.
Mùa hoa ban Nguyễn Tuân lên Tây Bắc qua đã trên dưới nửa thế kỷ rồi. Cái khu rừng ban “đi bộ (...) hai ngày liền mà không hết” bây giờ ra sao, mùa xuân 2012 có “pún” hoa thành khói đạn cao xạ trắng trên khắp nền xanh của núi nữa không?
“Pà lầu” làm những “bà già Mèo nhớ lại tuổi thanh xuân”. Thế còn những ông khách miền xuôi lớn tuổi đi giữa “trắng trời trắng núi một thế giới ban” thì sao, có nhớ thời thanh niên không, có ước ngay bên cạnh mình lúc này là một đóa biết nói biết cười không...
Đây bài thơ hoa ban Nguyễn “ký” nhân “ngày xuân công tác vùng cao”.
Hoa ban Tây Bắc, mùa ban pún hoa, nở rộ lung linh, hoa trắng núi trắng giời (cũng trắng núi trắng giời như mưa mùa ở Tây Bắc) hoa nở không kịp rụng (...)
Ban (...) là (...) hoa đặc thù của Tây Bắc (...) Việt Bắc không có hoa ban (...)
Theo chỗ tôi biết ở Tây Bắc, có một khu rừng ban rất dài rất rộng, cứ đi bộ với một đà bước vừa phải, thì đi đường rừng hai ngày liền mà không hết hoa ban. Từ bờ sông Đà qua Nậm Gin rồi bắt qua đường trục số 6, quãng rừng này toàn là ban. Hạnh phúc thay cho người đi công tác mùa xuân mà lọt vào trận địa hoa này vào lúc nó mãn khai thi đua nở cho hết để đóng mùa. Đứng ở bên phía Quỳnh Nhai nhìn sang núi bên Tuần Giáo, cứ thấy (giữa) xanh xanh đùn đùn lên những chòm khói bằng cái nong, giống hệt tán khói đạn cao xạ nổ giữa bầu trời. Sang sông Đà, đi gần mãi lại thì mới sực nhớ là mùa xuân ban pún, rừng ban đang ra những tàn những tán hoa trắng.
Ban ở sau lưng anh, ban ở trước mặt, ban ở bên phải, ban ở bên trái, ban ở trên đầu ở trên đỉnh núi, ban ở dưới chân ở trong lòng lũng. Ban ngang ngang tầm người anh nhưng lại nép ở bên kia mép vực đá. Nếu không thấy sợ sa xuống vực, cứ vừa bước vừa ngước lên, thấy mây trời cứ vờn vào nhị vào cánh ban trong suốt, ánh sáng như lọc qua một thứ giấy thông thảo hồng hồng. Nếu không sợ vấp, vừa bước vừa nhìn xuống vực sâu, thấy rừng hoa trắng như đang loãng ra trên dòng suối thăm thẳm xanh ve dưới lũng sâu. Trắng trời trắng núi một thế giới ban. Người anh ròng rã hai ngày quyện trong một mùi thơm mát nhẹ đăng đắng ẩn ẩn hiện hiện một mùi phong lan rừng cấm. Từ trên thinh không phả xuống cái hương tình của tình sử Thái, luồng thơm này liên tiếp những luồng thơm khác. Đôi lúc, một luồng gió nóng tạt ngang vào, thổi từ một quả đồi người Mèo đang đốt cỏ gianh làm nương tra bắp. Có hơi nóng đốt hương, hương ban bốc mạnh lên như cái ngào ngạt hấp hơi của một gian buồng nhiều vòng hoa hồng nẫu cánh vì tiếng nhị tiếng sáo và hơi trầm hơi nến. Con ngựa thồ tài liệu đi trước, móng ngựa trước móng ngựa sau đều bết những cánh ban vừa giẫm lên, còn hăng lên cái mùi hoa tươi bị nghiến nát.
Hoa ban tiếng Mèo gọi là pà lầu. Pà là hoa. Chữ lầu có nghĩa là già, người già. Một anh bạn Mèo cắt nghĩa cho tôi nghe: “Hoa ban là thứ hoa có thể làm cho người già trẻ lại như là cô gái Mèo mặc váy chếp bằng lanh trắng. Màu trắng hoa ban làm cho bà già Mèo nhớ lại tuổi thanh xuân mình mặc váy trắng in hình lên núi xanh mùa xuân.”
Ngày xuân công tác vùng cao, con ngựa đi trước, anh đi sau. Hoa ban cứ rụng xuống suốt dặm dài, ngày hôm đầu vừa nở vừa rụng, ngày hôm sau vẫn liên tiếp nở và rụng. Con ngựa xem chừng đã mỏi cổ mỏi đuôi lắm rồi. Cả hôm qua cả hôm nay, nó luôn lắc bờm và quất đuôi hất những cánh hoa đã ùn lên mình nó (...) (Trích từ bài Nhật Ký Lên Mèo)
Lên Mèo
Từ bao giờ ta quen nghĩ người Mèo gốc Trung Âu nhỉ? Âu vì có mắt xanh?... Có Âu chăng nữa thì cũng đã lai Á rất đậm lâu lắm rồi, vì đã lang thang qua Á, qua đất bây giờ là Trung Quốc, từ nhiều nghìn năm trước.
Người Mèo gốc gác thế nào chưa biết, chỉ biết, nhờ đọc “Nhật ký”, rằng họ hay nhắc giời, khéo nuôi lợn, mê thuốc lào, thích thổi sáo í ộ, có tài vừa thổi khèn vừa nhảy trên cọc...
“Mèo” thật ngộ, nhưng dĩ nhiên Nguyễn Tuân leo những “đèo dốc võng lên võng xuống như bờm sóng bể động” không chỉ thấy có người. Mà còn thấy “cái thế giới núi cao lồng lộng những nắng những gió những mây”, thấy “mây xô cả cửa mà vào nhà”, thấy “xa xa dưới chân (...) đường quốc lộ trắng nhờ nhờ như con bạch xà xoắn khúc. Và mây chờn vờn dải đường như diều hâu xám là cánh. Con đường rắn trắng hất xuống lòng vực cái đám mây ỡm ờ”... “Nhập” nhiều thế, thảo nào khi “tôi trở về thủ đô đường bằng”, “vẫn thấy tơ vương” cái đất giời Mèo.
Có sống ở cái thế giới núi cao lồng lộng những nắng những gió những mây những giời của vùng cao Tây Bắc thì mới nhập hết được cái ý giời trong tập tục đời sống đồng bào Mèo (...) Ánh sáng trong vô cùng, sáng vô ngần, lọc vô tận (...) Cái chân giời của người Mèo cũng không hoàn toàn giống cái chân giời của người đồng bằng đồng bể có giời có mây nhưng lại có cả nước nữa. Nếu chân giời của người đồng bể là một ngấn nước thẳng tắp, thì chân giời của người Mèo là một cái gì cũng không kém lồng lộng nhưng lô xô nhấp nhổm, một cái gì mở ra lồng lộng ở sau một cái đỉnh đèo họ đang đi miết lên kia. Đã có nhiều lúc, tôi là một cái bóng lẻ sắc cạnh in hằn lên cái chân giời đó, nơi bóng mây thì thừa mà lại thiếu hẳn cái bóng buồm nước (...)
Tôi nghỉ lại một đêm, nửa ngày hôm trước và nửa ngày hôm sau tại nhà một anh bạn Mèo ở cách thị xã Lai Châu khoảng hai chục cây số (...)
Chiều hôm ấy nhiều mây, mây xô cả cửa mà vào nhà vợ chồng anh Giàng. Tôi ngồi nhìn lửa ánh lên những tấm gỗ vách bóng nhậy đầu khói mồ hóng. Những tấm gỗ không bào, chỉ đẽo bằng rìu, gợn lên cái đẹp chạm trổ của vẩy rồng vẩy cá. Con diều hâu phía đường đèo xa tạt nhanh vào xóm đây, liệng cánh chao cánh sà xuống định quắp gà con, cả xóm Mèo la hú lên, con ác điểu lại bay mất, lại liệng ra phía đường cái. Xa xa dưới chân tôi, xa tít ngoài núi kia, đường quốc lộ trắng nhờ nhờ như con bạch xà xoắn khúc. Và mây chờn vờn dải đường như diều hâu xám là cánh. Con đường rắn trắng hất xuống lòng vực cái đám mây ỡm ờ kia.
Tối hôm ấy tôi nghe sáo Mèo, thứ sáo hình như chỉ có hai nốt: í lên rất cao, rồi ộ xuống rất thấp, nghe như một cái gì bừng lên rồi sa làn xuống mà hẫng đi. Nghe hai nốt sáo, tôi cứ thấy nhạc Mèo lên xuống dốc, một thứ nhạc khỏe nhưng dễ mỏi chân người quen đi núi nay phải đi bước bằng dưới xuôi. Tối hôm ấy, trên cái tràn ruộng bé bằng vài cái nong, tôi xem múa Mèo. Gọi là nhảy Mèo thì đúng hơn (...)
Tôi trở về thủ đô đường bằng mà càng thấy nhớ mây Mèo. Giữa Hà Nội, thật khó tưởng tượng cái cảnh mây chiều mây sớm xô cửa mà vào giữa nhà mình. Thấy nhớ nhớ cái đôi mắt cô bé Muờ hút theo cái dốc núi hôm nào, đôi mắt thăm thẳm xanh lắc như cái lối nhìn của người lính thủy bói sóng chân trời. Hà Nội quay tít cù đèn hàng vạn hàng vạn xe đạp boóc-tê nhau. Sau lưng người trai đạp nhanh, cánh tay đàn bà mặc áo ve sầu đang đan len ngay sau yên xe. Vành bánh xe đạp quay, bàn tay đan len quay. Lại thấy nhớ những bàn tay ngón tay cánh tay đàn bà Mèo guộn lanh nối sợi gai quay chỉ lanh, vừa cuốn vừa nối vừa đi trên dốc núi. Đèo dốc võng lên võng xuống như bờm sóng bể động, trên đó nhấp nhô liên hoàn hai nốt nhạc í lên ộ xuống. Hà Nội vẫn loáng xanh phố cây đủ bóng to cũ và bóng mới trồng. Nhưng vẫn thấy tơ vương cái chất diệp lục ở ven sông Thái ở chân đèo Mèo. (Trích bài Nhật Ký Lên Mèo)
Lên đỉnh giời nghe sấm đất
Thời tưởng tượng chuyện “Trên Đỉnh Non Tản”, hẳn Nguyễn Tuân không ngờ sẽ có ngày mình đặt chân tận đỉnh non Phăng. Một đằng cao chỉ 1281m, một đằng những 3143m. Dĩ nhiên về độ cao trong cổ tích dân tộc thì chính non Tản mới là vòi vọi.
Nửa thế kỷ trước trèo lên tới những “mâm núi” đầy hoa đỗ quyên ấy là chuyện rất khó khăn, Nguyễn nhờ theo một đoàn công tác chuyên môn mà được nằm lều đỉnh giời nghe sấm.
Năm 2012 việc đi lại ở Tây Bắc nói chung và việc leo núi Hoàng Liên Sơn nói riêng đã tương đối dễ dàng hơn hẳn khi xưa. Nhưng chúng ta bây giờ chỉ có thể nghe sấm giời của Thiên Lôi mà không còn được nghe tiếng “sấm đất” của những người đồng bằng lên núi cao đánh bộc phá xây đường nữa. Cái âm thanh đồng vọng của một thời phấn đấu cực kỳ vất vả, may nó đã được ghi âm trong những trang ký này...
Tôi có lóp ngóp lên tới tuyến đỉnh Phăng Xi Păng rồi. Trên ấy, tuyệt đối không một con vắt, không một con muỗi, không một con ruồi. Không khí trong lành. Tốt giời thì đêm nhìn thấy quầng ánh sáng công nghiệp Việt Trì. Bụi thì hiếm mà trúc thì giống như cái phất trần và mặt núi thì như mâm xôi. Mâm núi nào hoa đỗ quyên (rô-đô-đen-đơ-rông) ngũ sắc cũng nở bạt ngàn (...)
Đoàn điều tra tài nguyên đất nước ngủ lại hai đêm trên đỉnh Hoàng Liên Sơn. Thị trấn nghỉ mát Sa Pa 1500 thước ở dưới chân mình, trời mùa hè vẫn quang quẻ và tươi nắng nhưng trên đỉnh Hoàng Liên Sơn thì mây vần gió giật và dông bão và mưa to. Lều vải tốt có lót ni-lông nhưng luôn luôn phải chạy dột và lo gió bay mất lều. Cả một ngày mưa to gió lớn, ngồi hứng giọt lều lấy nước thổi nấu. Và mở tờ-răng-xi-to theo dõi tình hình chiến sự (...) Giữa một thế giới buốt lạnh, mây trắng mịt mùng, trên đỉnh ngọn núi cao nhất nước, nghe cái tiếng nói phát thanh (...) nó có một cảm xúc lạ lắm (...) Chúng tôi nằm ép vào nhau, mà nghe mưa như tháo cống trên mái lều. Chật chội ướt át như một cảnh đò dọc neo lại giữa sông mưa (...) Ngoài những người xúm xít trong cái lều vải ướt mưa này, cả khu vực núi rừng quanh đây là không có ai hết! (...) Tôi vừa có thêm nhiều người bạn mới đang sống ở chân Hoàng Liên Sơn, nhiều người quê ở các tỉnh miền xuôi lên miền núi phát triển kinh tế (...) không ít những con người trẻ tuổi quê ở ngay thủ đô Hà Nội (...) Trên suốt tuyến đường từ đèo Ô Quy Hồ vào đến ngã ba Bình Lư, tất cả những người thanh niên ấy đang hăng hái tiến hành một cuộc đấu tranh với thiên nhiên, đang hào hứng mở đường cho ô-tô mai đây nối liền hai tỉnh thượng du Lai Châu và Lào Cai. Từ mấy tháng nay, rừng núi sát dưới chân Hoàng Liên Sơn rền vang lên tiếng mìn bộc phá của đoàn thanh niên đồng bằng lên mở đường cho đồng rừng. Trời quang, đứng trên đỉnh Phăng Xi Păng nhìn xuống, vẫn thấy những cột khói mìn mở đường (...) Cuối xuân sang hè, trên Hoàng Liên Sơn mưa to và động sấm. Nằm trong lều trên đỉnh cao, được nghe cả sấm giời và cả tiếng sấm mở đường vọng lên từ mặt con đường đang xẻ vào lưng núi dưới chân mình. Quả thực là tiếng đồng vọng của một chiến dịch, anh ạ (...) (Trích từ bài Tây Bắc và Lào Cai và bài Vẫn Cái Tiếng Dội Cà Mau Ấy...)
Suối quặng
Nhớ đâu đó, hình như trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài có nhắc chuyện Nguyễn Tuân dùng cao hổ cốt để bồi dưỡng cho đôi chân vận dụng hơi nhiều. Năm 1966 nhà văn miền xuôi đã gần lục tuần, còn “úp mặt xuống đất mà leo miết” lên tận cổng giời, hết cổng này sang cổng khác, thì cao hổ chứ “cao long cốt” e cũng chưa đủ làm cứng chân! Lại còn “tim tôi đập thình thình như tiếng gõ cửa đòi cấp cứu”. Chả cần đến cổng giời Long Bánh Chè Gối với Con Ngựa Trụy Thai, ai chưa biết... tim mình, cứ thử trèo núi Yên Tử một hơi, có lẽ sẽ biết.
Nhờ “xưa” có người cầm... bút trèo non lội suối, mà nay ta mới biết đến công lao của những người cầm búa “dầm ngay mình vào giữa lòng suối nước ngập bụng ngập ngực, rồi cứ thế mà lội ngược dòng (...) càn ngược lên”, vừa càn vừa thỉnh thoảng vung búa đập vỡ đá để “bói” quặng...
Cái công việc tìm kiếm “của chìm” ấy đã làm xong hẳn chưa nhỉ? Có còn con suối nào trong lòng đang chứa những viên đá “vỡ to vỡ gọn” chưa kịp phong rêu?
Một buổi trưa nào đó của Tây Bắc, tôi bước theo một đàn ngựa thồ lội qua một khúc suối trong. Nắng rừng rọi xuống, xuyên qua tấm kính mặt suối. Sỏi, đá cuội, đá lăn, đá đầu sư, đá hộc, đá gốc, hiện lên bằng hết. Bỗng thấy nơi đầu hòn này nơi đầu hòn kia ẩn ẩn hiện hiện, những vết sứt rất mới. Toàn thân viên đá đều một chất rêu lưu cữu, chỉ riêng chỗ vết thương mới là không có rêu, và lộ ra những hạt cấu trúc của đá. Đàn ngựa thồ nào qua đây, chắc là tải hàng nặng lắm, mỗi con chở tới bốn thùng dầu hỏa là đúng 80 cân! Thồ nặng, trượt chân trên trán đá, ngựa vấp mạnh móng sắt vào, làm sứt sẹo lũ đá lòng nước chứ gì! Tôi nhìn kỹ cái sẹo đá lóng lánh cát bạc cát vàng và li ti nổi gân xanh đỏ. Móng sắt ngựa thồ không đời nào vấp bật tóe đá đến như thế được. Chỉ có đánh búa vào thì mới vỡ to vỡ gọn như thế. Thôi, đúng là quanh vùng đây có một đội địa chất nào (...) Tỉnh núi Hà Giang là một tỉnh biên giới có cổng giời, rất nhiều cổng giời, cứ úp mặt xuống đất mà leo miết, và ngẩng đầu lên thì chỉ thấy có mây gần mây xa. Đã thế, anh địa chất Hà Giang lại còn thêm thắt ra một vài cái cổng giời địa chất nữa. Con ngựa chuyên đi lĩnh lương gạo và cốt mìn cho đội cũng xin hàng, không bám được đá cổng giời mà đành đi vòng thúng theo tuyến lũng thấp. Lên được cái cổng giời Long Bánh Chè gối này thì con ngựa cốt mìn phải chết. Cách đây hai ngày đường, bên kia phía Bắc Mê trên lối vào xã Đường Âm, có một cổng giời khác mang tên là đèo Con Ngựa Trụy Thai. Tim tôi đập thình thình như tiếng gõ cửa đòi cấp cứu. Dù sao, tôi cũng hãy quay đầu lại vài lần, để nhìn con suối dưới chân cổng giời mình vừa lội qua lội lại ban nãy tới hai mươi lần. Nhìn lại, mới thấy mình đã lên cao khá nhiều. Con suối trông lại thấy sâu hoắm! Nó bé như một thỏi thiếc chuốt dài, và nó ánh lạnh hệt một thỏi thiếc. Hết cổng giời, trên một thôi rừng lọt thỏm vào đấy một vạt ruộng lầy, nghe có tiếng mõ canh giữa ban ngày. Chỉ nghe mõ mà tịnh không thấy bóng người. Nước bậc thang ruộng trên rót xuống bậc ruộng dưới gõ luôn vào một ống tre. “Nước xanh gõ hòn đá xanh, nửa năm nghe tiếng mõ canh cổng giời”, anh địa chất vừa đọc lên, vừa bước thoăn thoắt. Anh kể chuyện một anh bạn cùng đội. Vừa rồi anh bạn nghỉ phép về xuôi để chuẩn bị tiến tới lập gia đình. “Đối tượng” hạnh phúc lứa đôi ở ngay giữa Hà Nội. Hai anh chị ấy cùng đi bách bộ trong vườn hoa Thống Nhất. Chị đi thong thà, còn anh thì quen chân, cứ tranh thủ mà đi, tưởng đâu như con đường sỏi cuội hoa viên vẫn còn là tuyến lộ trình trên ấy. Chị đối tượng thấy mỏi, gợi ý: “Anh, đi đã lâu rồi, ngồi xuống một lúc ở cái ghế đá trước mặt kia nhé!”. Tính anh bạn tôi cũng giản đơn, liền đáp thẳng thắn: “Đi bộ thế này thấm gì. Tôi quen đi cả ngày, từ sớm đến sẩm tối không nghỉ mấy tí.” Câu chuyện tìm hiểu ấy, hình như chưa tiến lên được mấy, vì cái bước chân chưa đều nhau giữa hai người định đồng hành (...) (Trích từ bài Suối Quặng)
Loáng một luồng thơm
Có một thời la cà ở các nhà hát cô đầu, các tiệm hút, có lúc qua tận Hồng Kông chơi trò “vẽ nhọ bôi hề”. Rồi có một thời trèo non băng rừng lội suối vượt sông... Sống một đời đôi kiếp như thế, thú vị chứ.
Trong cái kiếp thứ hai của Nguyễn Tuân, vì nhà văn không còn sáng tác chỉ vì nghệ thuật nữa, người đọc đi tìm nghệ phẩm thuần túy đành phải bằng lòng với những trang, những đoạn, văn đẹp xuất hiện rải rác trong các tác phẩm... Sau đây là một “chiếc lá rừng xa tôi nhặt về”, ép vào một tập ký. Lá nằm trong sách gần nửa thế kỷ rồi, mà vẫn “xanh tợ thuở mới hái”!
Khừm đã đứng dậy, đi vòng một gốc cây to bây giờ tôi mới chú ý đến. Khừm chém chém con dao rừng vào vỏ, tước ít vỏ, tìm được một cái hốc ở cạnh khóm rễ nổi lên mặt đất. Khừm bảo: “Cây này lúc cần, có thể dùng làm trạm liên lạc đây. Dùng làm liên lạc bí mật được đấy.” Tôi ngắm cái cây bưu điện giời sinh đó và hỏi lại Khừm: “Và lúc hòa bình, dùng cái cây này làm hòm thư riêng của người con gái và người con trai hẹn tìm nhau cũng được chứ?”. Khừm cười đắc ý, lấy ra từ lòng hốc cây một cánh hoa rừng và một nắm lá, rồi dõng dạc: “Đây, thư họ gửi cho nhau đây. Chắc của anh chị nào ở cái bản ban nãy ta đi qua định vào mua bưởi. Đúng là của anh chị nào nhắn nhau gì đấy. Họ lấy hoa lấy lá ra mà nói lóng với nhau, chả có đoán được đâu” (...) Xa xôi, ngan ngát, lăn tăn lá reo gió thầm. Ấy chính lúc đó chân tôi vấp vào một cái cọc nhọn. Một gốc cây con gẫy mục ở giữa lối mòn. Bàn chân dại điếng hẳn đi, tôi tập tễnh mất một quãng. Cùng một lúc đó, mũi tôi đánh hơi bắt ngay vào một mùi thơm. Hương thơm sặc lên như, đánh bốp một cái, đâu đây một dược sĩ nào vừa đánh rơi chai nước hoa cốt mới chế ra. Nó sặc ngát một cách thật là loáng nhanh, rồi lặn đi mau lẹ hơn tiếng động. Nó là một luồng hoa bay, vụt tạt ngang lối rừng giông giống cái ánh chớp trên nguồn. Tôi cố bắt theo tàn dư luồng thơm để lại trong khinh không một buổi chiều đang nhạt nắng. Như có người bôi nước hoa đắt giá thoắt rẽ mất vào rừng sâu. Như có người trêu mình, mà nhìn quanh thì không có vết chân nào, chỉ toàn là rêu rừng và ánh hoàng hôn. Tôi có cái tật đi rừng chợt thấy mùi thơm chỗ quãng vắng là hay trờn trợn (...)
Tôi tạm kể hết mẩu chuyện rừng (...) tôi chưa lường được khả năng gợi cảm của nó đối với anh. Anh tạm coi nó như (...) chiếc lá rừng xa tôi nhặt về (...) anh cho nó vào cuốn sách mà ép lại. Như kiểu ngày nhỏ còn đi học, gặp ngày chủ nhật được về chơi vùng quê, hay ép lá lưu niệm bỏ kín vào vở vào sách ấy. Này, có nhiều người đầu đã trăng trắng rồi, mà nay sách nhỏ mỗi lần mở lại vẫn giữ vẹn cái lá học trò xanh xanh tợ thuở mới hái! (Trích từ bài Đố Ai Quét Sạch Lá Rừng)
Một bài thơ đường
Mùa xuân năm 1964 Nguyễn Tuân vào Điện Biên bằng đường trời và trở ra bằng đường đất.
Cái con đường Điện Biên – Tuần Giáo ấy, Nguyễn biết “từ lúc nó còn chưa tốt chưa đẹp như bây giờ”, lúc bao nhiêu chiến sĩ hóa công nhân của công trường 426 còn đang vất vả làm ra nó.
“Cái xe cứ bon bon mà chạy, mà qua hết cầu này cầu khác. Nhà cửa, lều, lán, kho, trại, sân, cổng, vườn, bến, cột cờ, chòi phát thanh, đâu hết cả rồi? Chỉ còn có rừng xanh một dải và đường trắng cũng một dải (...) nó như là trở lại một cái phố trong lòng rừng Việt Bắc những năm tản cư kháng chiến hàng quán tấp nập là thế, mà nay tìm hỏi thì trước sau chỉ còn thấy có giọt nắng treo trên lá cũ...”.
“Đêm xuân (ở ngã ba) Tuần Giáo”, có một người vừa từ Điện Biên ra, đứng giữa bóng tối mịt mùng mà “thấy hiện lên rất nhiều bóng cũ. Cái bóng những người làm cầu làm đường. Đông lắm. Hình như trên con đường vắng ấy, họ vẫn đang đứng bên đường mà sung sướng nhìn cái xe tôi lúc ban ngày qua hết bấy nhiêu nhịp cầu mới...”.
“Tôi (...) đã sống những ngày nước lửa của công trường 426”, “tay tôi vẫn chưa mất đi cái sẹo Xuân Tre trận cháy mùa xuân 1960”, “tôi cảm thấy (...) mình (...) có hạnh phúc”, nên tôi cầm bút viết “một bài thơ (cầu) đường”.
Tôi ra và vào Điện Biên cũng đã nhiều lần. Lần đi mùa xuân 1964 này mới thật là một chuyến đi hả hê, thoải mái. Đường đã có cầu nổi, chiếc thì bằng sắt và gỗ, chiếc thì bê-tông cốt sắt, xe không phải lội suối như trước đây nữa (...) Tôi nhìn cái cầu bê-tông vừa mới hoàn thành, trên mặt cầu còn phủ lá phủ đất và còn cả cái ngáng tre ở chỗ nối đường vào cầu (...) Rừng vắng. Nhưng tôi vẫn thấy nó như đang lao xao cái tiếng động của đám đông (...) Một vài năm trước đây lúc khởi công làm cầu, những chỗ suối bắc cầu đó, đông đúc ầm ầm rào rào chứ đâu có lặng lẽ im ắng như thế này. Nào là tiếng chí cha chí chát của hiệp thợ chạm ngồi tẩy mặt và góc đá hoa cương dành cho mố cầu. Tiếng lách ca lách cách chàng đục thợ mộc. Tiếng cưa miết đều mạch gỗ của hiệp thợ xẻ. Tiếng cút kít nghiến trục gỗ, tiếng vành sắt xe bò nghiến xuống đá đường. Và cái tiếng máy dũi húc đất. Tiếng búa đập lên đe rèn những đinh đỉa cho ván cầu. Tiếng bễ phì phù, tiếng máy bơm xình xịch, hút cạn nước để đào móng xây mố cầu. Máy bơm hỏng, tắt tiếng, chờ thợ sửa bơm từ khu lên, thì lại có tiếng tát nước bằng guồng đạp. Bên dòng suối, vợ bộ đội công nhật nối nhau mà gánh cát cấp phối mặt đường. Và giữa lòng suối là cái tuyếc-bin thủy điện con con đủ chạy vài chục ngọn đèn, chạy cái máy ra-đi-ô, làm vui thêm sinh hoạt hàng ngày, và làm sáng thêm cái Tết rừng của những người thợ làm cầu bên suối (...)
Cái xe cứ bon bon mà chạy, mà qua hết cầu này cầu khác. Nhà cửa, lều, lán, kho, trại, sân, cổng, vườn, bến, cột cờ, chòi phát thanh, đâu hết cả rồi? Chỉ còn có rừng xanh một dải và đường trắng cũng một dải. Thấy tênh tênh mà tan quạnh cả đi như người và lầu Liêu Trai sau tiếng gà gáy sáng. Nói cho đúng hơn thì nó như là trở lại một cái phố trong lòng rừng Việt Bắc những năm tản cư kháng chiến hàng quán tấp nập là thế, mà nay tìm hỏi thì trước sau chỉ còn thấy có giọt nắng treo trên lá cũ (...)
Đêm xuân Tuần Giáo, điểm vào tiếng ô-tô vượt qua ngã ba, là những tiếng con bắt-cô-trói-cột. Ôn quãng đường vừa chạy xe qua từ trong Điện Biên ra, thấy hiện lên rất nhiều bóng cũ. Cái bóng những người làm cầu làm đường. Đông lắm. Hình như trên con đường vắng ấy, họ vẫn đang đứng bên đường mà sung sướng nhìn cái xe tôi lúc ban ngày qua hết bấy nhiêu nhịp cầu mới. Họ sung sướng và lào xào như trận gió chiều reo vào rừng hôm. Gió chiều nổi lên, con đường vắng mà vẫn như rầm rập tiếng chuyển quân của cả một cái công trường hoàn thành đường Điện Biên – Tuần Giáo (...) (Trích từ bài Một Bài Thơ Đường)
Cụ Trầm
Mới năm 1964 Nguyễn Tuân cho biết “loại trầm tốt nhất giá một cân”... ba bốn chục bát phở bò.
Thế rồi “trầm hương tự nhiên có 6 loại (...) giá từ 1 đến 25 lạng vàng mỗi ký (thời điểm 1980). Còn hiện nay, trầm xuất khẩu sang Nhật được tính từ 2.000 đến 10.000 USD/kg”.(*)
Chênh lệch, trời đất ơi!
Thảo nào trước kia “bố tôi” và sau đó là “tôi” đã “quanh năm, lúc nào (...) cũng có thể (...) đốt trầm”. Cái “một thời” đốt trầm chỉ đắt ngang ăn phở nó chẳng còn “vang” còn “bóng” gì nữa ráo. Trầm giờ xa vời vợi đàn với sách rồi, chỉ ưa quấn quýt các đại gia thôi.
(*) Theo Trương Tất Thọ, “Không ngậm ngải vẫn được trầm”, đăng ngày 6 tháng 7 năm 2010 trên trang truongkha.vn. Làm cái nghề kiếm trầm trên rú, đau khổ nhất và kinh hãi nhất là mỗi khi có người lạc rừng. Cùng đi với nhau lên rừng, bạn lứa thì tìm được ra hết gốc trầm này đến gốc trầm khác, mình thì càng tìm càng không thấy một gốc mô. Cây xanh nhiều hơn cây khô, và cũng đã đục nhiều gốc lụi héo mà lòng cây không có chi. Gạo cá muối ruốc của lái trầm ứng trước ra cho mình đó, ăn mãi đã gần vợi hết đi, mà thuyền lái trầm tiếp tế gạo mắm lên nữa thì còn lâu lắm mới tới kỳ sau. Anh em người ta ai cũng một vài gốc một vài cân trầm rồi. Mà mình thì càng tìm càng chẳng thấy (...) Ông cụ Trầm làng Mỹ Lộc đã kể cho nghe về chuyện những người đi làm trầm lạc đường suýt hóa thành người rừng. Lạc trong rừng lâu ngày, đói, ăn nhầm phải lá rú nấm dại. Rồi mất trí nhớ. Rồi thấy bóng người là lẩn tránh, lủi vào bụi sâu. Những khi có người lạc, đi tìm, hú lên mà thoáng thấy bóng họ tránh mình lẩn vào rừng quãng nào, thì bẻ lá bẻ cây đánh dấu lại. Về lán đùm cơm nắm trở lại chỗ đó, hú to lên, rồi để nắm cơm vắt lên trên tảng đá bên dòng suối. Rồi tránh ra chỗ xa chỗ kín. Người lạc rừng nấp mình kín sau cây lá mắt vẫn theo dõi, chờ ta đi khuất, rồi lâu lâu mới mò ra, nhìn ngang ngửa nhìn trước sau, ngờ sợ mà cầm vào nắm cơm lạnh. Nhìn rõ người bạn đi làm rừng của mình mà mình phải nín tiếng, thấy tội quá. Vì mình động mạnh và hiện ra thì họ vụt biến mất, và có khi lủi đi một khoảnh rừng nào khác. Như thế, càng nguy hiểm, càng khó tìm thêm, và có khi tìm chẳng thấy bao giờ nữa. Cứ ngày ngày đem cơm nắm đặt bên khe lạnh và tránh đi, có trường hợp phải hàng tháng như thế. Có hơi ngũ cốc vào, trí nhớ người lạc rừng dần trở lại (...)
Tôi thích đốt trầm đốt hương (...) Trừ những ngày hè mùa nóng, còn thì quanh năm, lúc nào tôi cũng có thể đốt hương đốt trầm, nhất là khi trời trở lạnh (...) Bố tôi ngày xưa uống trà Tàu, đánh đàn nguyệt đánh đàn thập lục. Tôi đứng cạnh bố tôi làm một thằng hầu lửa, hương tắt trầm hết khói thì tôi lại thắp tiếp lên. Để cho bớt đi cái độ ẩm, để cho dây đàn thật tiếng hơn, để cho không khí âm vang hơn. Mà thật như vậy đó, trời mùa đông, nhà không có lò sưởi như nhà người Âu, đốt lên mấy nén nhang, thấy nó có đỡ lạnh đi thật. Có những lúc nhất định nào đó, làn khói thơm lại có cái giá trị vật chất của tấm áo khoác thêm lên mình lúc ngồi trong phòng sách. (Trích từ bài Đố Ai Quét Sạch Lá Rừng)
Lũng Cú
Đi kịch liệt quá. “Liền mấy năm và bấy nhiêu lần đi Hà Giang...”, Nguyễn Tuân có lẽ đáng gọi là một “dũng sĩ” trong ngành đi để viết.
Thực ra ngay cả không viết lách gì, đi mà thấy, chẳng hạn cái cảnh “sóng đá các triền núi bạn (...) như biển cả đang vỗ bờ”, đã đáng đi.
Cả huyện “mừng nước về, mừng đường vào”! Đường và đường khoét ra từ sừng sững đá, xiết bao công trình các dũng sĩ vô danh ơi!.
Hà Giang là một tỉnh biên giới nằm trên đỉnh đầu Tổ quốc (...) Núi Hà Giang hùng vĩ nhiều cổng trời (...) Trên đường đèo vào Mèo Vạc, xe tôi dừng ở đỉnh dốc Mã Pí Lèng, đúng chân tấm bia đá ghi công những người mở đường. Cả quãng Đồng Văn – Mèo Vạc hai mươi bốn cây số đường núi đá này phải làm mất một năm rưỡi, nhưng riêng chỗ dốc Mã Pí Lèng, Sống Mũi Ngựa này thì phải tốn mất mười một tháng treo mình trên vách đá để đục, đánh mìn, bổ đá khắc đá ra mà cẩn mặt đường vào vách đá đứng thành vại. Ba năm trước, cũng vào tiết thu tôi đứng ở mép vực Mã Pí Lèng nhìn dòng sông Nho Quế như thế này. Hồi ấy, phá để khai đường, ầm ầm cây lao xuống vực, ầm ầm đá lao xuống dòng sông tít tắp dưới kia, có hòn đá to bằng cái tủ áo nhưng chỉ lộn nhào vài chục vòng là tan vụn ra thành khói. Và ầm ầm vang dậy những trận cốt mìn, nhưng tan hết khói mìn, tan hết bụi đá, thì chỉ thấy tắc đường. Con đường chỉ đến chỗ đỉnh dốc Mã Pí Lèng hiểm nghèo này là hết (...) trước mặt chỉ có đá (...) Những người dũng sĩ mở đường ấy nay đều vắng mặt cả, nhưng trước mắt tôi là một con đường cái quan cộm lên một màu đá xanh và ro ro xao động dưới lốp chiếc xe tiến vào huyện Mèo Vạc, càng vào càng mưa to. Mưa cả nửa ngày hôm ấy, mưa suốt cả đêm hôm ấy và không ngớt hạt lúc nào, trận mưa Mèo Vạc kéo dài sang luôn cả nửa ngày hôm sau. Mưa như thối đất ra, nhưng cất cơn mưa một cái là mặt ruộng lại nứt nẻ ra ngay. Đêm mưa không ngủ được, cứ thao thức về nông nỗi khan nước khát nước cổ truyền của bãi ngô cánh đồng Mèo Vạc. Mùa đông hạn hán, đốt đuốc ngồi rình nước rỏ ra từ hang đá, ngồi chờ thùng nước quảy được về, có khi mất cả đêm. Mãi cho đến mấy năm gần đây mới hoàn thành được mương nước chạy về từ trên nách núi cao. Nước xuống dốc, nước uốn khúc trong lòng đá máng, đá đã cạp, bê-tông, nước ngoặt chữ chi, nước nổi gió nổi sóng trắng mà chạy xộc về ruộng thấp. Con đường thủy lợi trông xa xa cũng tựa như một con đường bộ nào trắng bệch trăng ngàn, những khúc rồng rắn cuộn thừng. Cái năm 1965 nước thủy lợi chảy về đến cánh đồng huyện, thì cũng là năm con đường cái quan mở vào tới phố huyện. Mừng nước về, mừng đường vào, cả huyện mở hội liên hoan song hỷ! (...) Nằm ở huyện có hai đêm, nhưng cũng đã phần nào thấm được cái khổ xưa và cái vui hôm nay của huyện núi Mèo Vạc (...)
Ở đây vui quá (...) Chao ôi, mùa thu biên giới (...) cảnh thật là hết chỗ trữ tình. Trên các triền núi láng giềng, nắng hanh như rây bột nghệ, và đá núi lượn chạy như xô bồ những con sóng đời đời không chịu tan. Nhìn sóng đá các triền núi bạn, thấy như biển cả đang vỗ bờ mà sao tự nhiên phim lại mất hẳn đi cái phần lồng tiếng. Ngồi trên núi cao mùa thu, nhìn ra sóng núi tứ bề, cứ thấy nhớ biển (...) (Trích từ bài Mõm Lũng Cú Tột Bắc)
Cô Tô
Nguyễn “lên Mèo” ngắm giời, rồi Nguyễn xuống biển ngắm trai. Trai “nằm dưới rốn bể” mà, quái lạ:
“(Lòng) vỏ trai ngọc (...) tươi ánh thanh khiết, kết tinh lại tất cả những buổi tốt trời trên mặt biển vịnh Bắc bộ (...) xanh hồng huyền ảo, càng nhìn càng ưa (...) thấy như lộng lên cái thảm kịch của sinh vật nằm dưới rốn bể mà vẫn không chịu nguôi lòng tương tư cái nguồn sáng cội gốc đang bị trần sóng trên đỉnh đầu bẻ gẫy hết tia chói (...) kiều diễm như nửa vòng cung cầu vồng bắc lên từ một thế giới đáy biển vẫn hoài bão ánh trời...”! Thì vẫn trai đấy, nước biển đấy, sóng gió đấy, mặt trời lên mỗi bình minh đấy, nhưng có phải ai cũng thấy được như ai đâu. Cô Tô một tuần năm ấy có khách quý. Dấu chân cát xóa lâu lắm rồi, nhưng dấu mực trên giấy còn đây.
Biển càng hướng ra Cô Tô, càng thấy nồng. Vĩnh Thực, Cái Chiên, Núi Miều, Núi Tụi, vùn vụt lướt qua sườn tàu, mà trên boong tàu, mớ tóc trần trên đầu chị bạn vẫn không chịu rung lấy nửa sợi. Đứng gió quá. Chân đảo Thoi Xanh xa xa cát vàng như một nét chỉ mành tơ lưới kéo ngang nền giời hâm hấp của biển chờ cơn dông. Nước đùng đục. Mặt biển lặng lờ và láng mềm đi như dầu mỡ nào đang chảy tràn tới tận cái cuống mây chân giời. Nó gợi gợi một cái chảo khổng lồ nước xuýt vịt béo sôi giấu khói, mới trông qua rất dễ lầm với một nồi canh nguội. Có tí sóng nào dội lên phía chân vịt tàu, thì sóng chỉ xông thêm ong ong oi oi lên mặt tàu. Bầu trời tắt gió càng về quá trưa càng đặc sánh. Thấy nghẹn thở. Trời vàng vàng cái mặt màu da đồng (...)
Mấy chục con trai còn non chưa con nào đậu ngọc. Nhưng tôi vẫn vui như chính mình vừa tìm được ngọc bể. Trong mắt tôi vẫn chưa biến hết cái lung linh ban nãy của những người thanh niên lặn tìm trân châu giữa biển (sắp) bão. Con trân châu tươi vừa bổ đôi ra, hai mảnh vỏ óng lên cái hào quang của một thứ pha-lê nạm sà cừ. Buổi chiều vàng đùng đục trên hòn đảo, cũng như biển bão đang đục ngầu quanh trụ sở hợp tác xã Tô Bắc. Nhưng vỏ trai ngọc vẫn tươi ánh thanh khiết, kết tinh lại tất cả những buổi tốt trời trên mặt biển vịnh Bắc bộ. Màu sắc mát nhẹ của lòng vỏ trân châu đang từ chối mọi cái mờ ám càng giờ càng tăng của bầu trời bão quanh mình. Vỏ trân châu xanh hồng huyền ảo, càng nhìn càng ưa, và thấy như lộng lên cái thảm kịch của sinh vật nằm dưới rốn bể mà vẫn không chịu nguôi lòng tương tư cái nguồn sáng cội gốc đang bị trần sóng trên đỉnh đầu bẻ gẫy hết tia chói. Màu vẻ lòng trai ngọc thật là kiều diễm như nửa vòng cung cầu vồng bắc lên từ một thế giới đáy biển vẫn hoài bão ánh trời (...)
Hình như gió bão chờ chúng tôi lọt hết vào trận địa cánh cung bãi cát, rồi mới tăng thêm hỏa lực. Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim. Gió bắn rát từng chập. Chốc chốc gió ngừng trong tích tắc như để thay băng đạn, thì đầu cổ lại bật lên khi gió giật. Gió liên thanh quạt lia lịa vào gối vào ngang thắt lưng, đẩy cả người chạy theo luồng cát mà bạt ra phía sát bờ biển của một bãi dài ba ngàn thước, rộng chừng trăm thước. Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù đã bắt đầu thả hơi ngạt. Tôi lảo đảo trên sa trường, đi sâu mãi vào sa trường như cố tìm cho bằng hết mọi nỗi thương vong ở chỗ thiên hôn địa ám này. Hòn đảo gần hòn đảo xa, chỉ còn mờ mờ xam xám cái chót đỉnh, còn chân đảo thì đã mất trong cái mịt mùng của bụi muối ẩm. Sóng tung vòi cao và đổ dài, bọt trắng tãi thành hàng thành hàng. Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền như vua thủy cho các loài thủy tộc rung thêm trống trận. Tôi đúng là một cái buồm thuyền chạy vát nhưng sắp đứt dây lèo. Gió đánh bật cả từng cụm sim biển mà lùa ra biển, bụi sim biển cứ thế mà nhảy câng câng, mà lộn tùng phèo qua hết bãi cát rồi nhào đầu xuống những con sóng đứt chân đổ vào bờ. Cát vẫn bắn đón đầu. Cát vẫn bắn theo sau. Cả cái bãi vắng sa trường bỗng trở thành cái boong hoang dại của một chiếc tàu say sóng biển. Và trên đó, tôi như một người lính thủy đang cố lao về phía vị trí đằng mũi tàu. Tất cả những vỏ ốc con đều bay lên như tàn vàng giấy. Gió đặt vỏ ốc vào lòng tay tôi đang che gió. Ốc ở đây màu rất đẹp và hình vẻ nhiều kiểu khác nhau, chưa thấy mấy bãi biển mà ốc đẹp như thế. Và cũng chưa lần nào tôi được trông thấy những cái lâu đài dã tràng nghiêng ngửa tan vỡ đến như thế. Bãi bị gió mài lì, trở thành một mặt bàn bi-a đại cồ lồ trên ấy quay lông lốc hàng triệu hàng triệu viên cát dã tràng đang tìm lỗ nẻ để thụt xuống. Cuối cùng, bàn tay gió, như một anh chơi ngang phá đám đã gạt phăng hết chúng vào bất cứ con sóng đứt chân nào đổ bờ (...) Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân (tức đảo Cô Tô mẹ?) một cách thật quá là đầy đủ. Tôi dậy từ canh tư. Còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mũi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Điều tôi dự đoán, thật là không sai. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể, sạch như tấm kính lau hết bụi. Mặt giời nhú lên dần dần, rồi lên cho kỳ hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng. Lòng đỏ trứng khổng lồ đặt lên một cái mâm bạc rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mặt bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh (...) (Trích từ bài Cô Tô)
Một thoáng Vân Đồn
Đất nước ta có đủ núi, sông và biển. Lịch sử chống ngoại xâm phương bắc của dân tộc ta cũng có đủ chiến trường núi, sông, biển nơi tiếng reo hò thắng trận của quân Đại Việt còn mãi mãi vang: ải Chi Lăng, sông Bạch Đằng, biển Vân Đồn...
Thăm ải thăm sông không biết có được thưởng thức “đặc sản” gì chăng, còn thăm chiến trường biển xưa thì ta có thể “cả người chỉ vẻn vẹn mảnh khố tắm, lên ềnh ra trên (...) cát mỡ cát sữa (...) đẹp hơn đường hoa mơ đường mỡ gà, có chỗ ánh ngần in hệt đường kính”. Nằm trên cát mỡ sữa đường chán, ta có thể ghé vạn nếm thứ “nước mắm cá nục đã hàng chục niên tuổi, mở nắp ngửi thơm lừng như hương quý bốc lên từ một thứ rượu mặn”...
Hóa ra ở miền Bắc cũng có nơi làm nước mắm. Thiết tưởng một hiện diện ngoại lệ không thể thay đổi kết luận của nhiều nhà nghiên cứu rằng nước mắm gốc ở miền Trung, có lẽ là sáng kiến của người Chăm. Mặt khác, Chăm từ lâu đã thành một phần không thể tách rời của “Việt Nam”, vậy nói “rượu mặn” là thành quả xuất sắc của trí tuệ Việt Nam thì cũng không sai.
Cả một vùng biển Vân Đồn cứ theo gió bấc như thế mà ầm ầm sôi bụng mấy buổi liền. Bãi ướt vắng cả đến bóng gầy của những người đi bắt sa trùng càng làm cát trắng Vân Hải tăng thêm độ nhớ và nỗi mình. Đêm đảo về sáng, những gộc củi lấy từ bên rừng Vân đỏ cháy như không bao giờ có thể tàn được; tiếc cái đống lửa đảo Vân mà thành ra như người mắc bệnh không ngủ, tôi nằm xuống ngồi lên nhại đúng cái dáng và cái tâm một gã si đang hờn với một cái hẹn sai nào. Gió mùa đông bắc vẫn lùa gộc lửa bùng và dựng dậy sóng biển ngoài. Trong tiếng lửa trong mùi gió trong hơi sóng, đã trở về quanh đây tất cả cái tấp nập nhộn nhịp cái dẻo bền cái năng động đáng yêu của đời Trần. Trong sóng đứt chân và gió bấc mùa còn nghe rộn lên tiếng xáp trận của thủy quân ta (...)
Chập chờn hết mấy đêm trên sa trường Vân Hải xưa cùng nay, thấy gió lòng quê lộng mãi lên hơn bất cứ thao thức nào đã đu đưa mình bao năm qua các triền núi quẩn gió lũng trong đất liền (...) Đất nước mình có núi, có sông lở, có biển bồi, có đảo, có nhiều đảo. Riêng huyện Vân Đồn (tên cũ đáng yêu của huyện Cẩm Phả bây giờ) có trên sáu trăm hòn đảo lớn nhỏ, chia làm ba quần đảo (...)
Đò trạm của huyện đã trả chúng tôi đúng về bến huyện (...) Chà, vui mắt quá, cái sân chế biến nước mắm, hàng ngàn chum kiệu màu da lươn thẫm dựng đứng theo hàng lối từng khu, mỗi khu xếp theo tuổi của nước mắm. Có những chum nước mắm cá nục đã hàng chục niên tuổi, mở nắp ngửi thơm lừng như hương quý bốc lên từ một thứ rượu mặn. Uống một chén suông, chặc lưỡi một cái, thấy ngọt lừ (...) (Trích từ bài Huyện Đảo)
(1) Bài Lo Văn Ế của Tản Đà có câu: “Có văn có ích, có văn chơi”.
(2) Để xem nhiều hơn, xin vào mục Văn Chương/ Tùy Bút, Ký.
(2) Để xem nhiều hơn, xin vào mục Văn Chương/ Tùy Bút, Ký.
Thu Tứ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét