Những điều thú vị về âm nhạc cổ đại
Thời cổ đại với chế độ chiếm hữu nô lệ, loài người dần chuyển
sang các giai đoạn mới, cao hơn trong lịch sử phát triển của mình. Thời này xuất
hiện những nền văn minh đầu tiên của loài người.
Đó là một thời kỳ mà trí tuệ của con người mở rộng để hiểu biết
thực tiễn, hiểu biết thiên nhiên, đồng thời triết học đã phát triển. Có những
quốc gia đã hình thành hệ thống chữ viết của mình. Trong các ngành nghệ thuật:
văn học, kiến trúc, tạo hình... đã sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị nghệ
thuật cao, và nghệ thuật âm nhạc cũng nẩy sinh nhiều nhân tố mới, có ý nghĩa lớn
lao, phản ánh trong phạm vi rộng hơn về hình tượng, tư duy.
Chế độ chiếm hữu nô lệ là bước ngoặt trong sự tiến bộ của
loài người. Tuy nhiên, ở chế độ xã hội này lại phân chia thành đẳng cấp nên sự
mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc, liên tiếp diễn ra các cuộc đấu tranh giữa
nô lệ và chủ nô. Điều đó được phản ánh trong nghệ thuật nói chung và âm nhạc
nói riêng.
Nghệ thuật âm nhạc trong chế độ chiếm hữu nô lệ cũng phân
thành hai: của đại đa số nhân dân và của tầng lớp quý tộc, vua chúa.
Ở thời cổ đại, âm nhạc dân gian vẫn tiếp tục phát triển, đồng
thời còn xuất hiện những nhân tố của âm nhạc chuyên nghiệp. Đầu tiên là âm nhạc
chuyên nghiệp bình dân của các ca sĩ, nhạc công dùng giọng hát, tiếng đàn của
mình đi hát rong khắp nơi để kiếm kế sinh nhai. Tiếp đến, do nhu cầu trong cuộc
sống của tầng lớp quý tộc, vua chúa họ được tuyển chọn vào các dinh thự của chủ
nô để thực hiện các nghi thức hoặc thoả mãn các thú vui để trở thành âm nhạc
chuyên nghiệp quý tộc, cung đình. Tất cả những dòng nhạc ấy là dòng nhạc thế tục.
Thời cổ đại, âm nhạc còn phục vụ các lễ nghi tín ngưỡng tôn
giáo trong các đền đài, nhà thờ, (tuy không nhiều), đó là dòng nhạc tôn giáo.
Khác với thời nguyên thủy, âm nhạc thời cổ đại không gắn với
những mục đích có ý nghĩa thực dụng. Âm nhạc thời đại này đã khẳng định vại trò
của nó trong cuộc sống, khiến các nhà triết học đã dùng âm nhạc với mục đích
giáo dục.
Âm nhạc thời cổ đại không những đạt được các thành tựu về
sáng tác, biểu diễn mà còn có cả những kinh nghiệm về chế tác nhạc cụ, về giáo
dục, đào tạo. Đồng thời, đã xuất hiện các môn khoa học về mỹ học, về lý thuyết
âm nhạc và ở một vài quốc gia đã hình thành cách ghi nhạc. Âm nhạc thời cổ đại
phong phú bằng các chủ đề và các thể loại mới. Âm nhạc vang lên trong các đền
đài, cung đình và ngoài xã hội. Sáng tác dân gian là một kho tàng vô cùng phong
phú và là nền tảng cho nghệ thuật chuyên nghiệp cũng như nghệ thuật quý tộc,
cung đình.
Thời cổ đại hình thành các nền văn minh lớn, những trung tâm
âm nhạc nằm rải rác trên lục địa Châu Á,Châu Phi, Châu Âu và ở cả Châu Mỹ. Ở
Châu Phi có nền văn minh Ai Cập; Châu Á có nền văn minh Lưỡng Hà, Syria
(Xi-ri), Palestine (Pa-le-xtin), Ấn Độ, Trung Hoa và cả nền văn minh Văn Lang,
Âu Lạc...., còn ở Châu Âu có nền văn minh Hy Lạp, La Mã, Trung, Nam Mỹ là nền
văn minh Andes (Ăng-đex), nền văn minh của người Maya của người da đỏ.
Nền âm nhạc của các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Palestrina, Ấn Độ,
Trung Hoa, Hy Lạp, La Mã rất phong phú, đa dạng. Nền âm nhạc của họ đã tổng kết
thành những kiểu điệu thức, những tổ chức quy luật của tiết tấu, nhịp điệu...
khiến giai điệu và tiết tấu âm nhạc khá hoàn chỉnh. Các quốc gia này đã đóng
góp rất lớn vào sự phát triển âm nhạc, đặc biệt là sự phát triển về nhạc cụ và
khoa học nghiên cứu âm nhạc.
Những giá trị nghệ thuật được sáng tạo từ những nền văn minh
đầu tiên có ý nghĩa lịch sử rất lớn cho toàn nhân loại.
Những truyền thống của văn hóa cổ đại còn được tiếp nối ở các thời kỳ lịch sử âm nhạc tiếp theo của loài người.
Những truyền thống của văn hóa cổ đại còn được tiếp nối ở các thời kỳ lịch sử âm nhạc tiếp theo của loài người.
1. Âm nhạc Ai Cập:
Lịch sử văn hoá cổ đại Ai Cập được bắt đầu khoảng tự bốn
nghìn năm trước công nguyên và đã để lại cho nhân loại những công trình nghệ
thuật kiến trúc và tạo hình phong phú, hùng vĩ. Cho tới nay, tại nơi đây vẫn
còn nhiều điều bí ẩn mà con người vẫn chưa khám phá được hết. Trong mối liên
quan đến xây dựng và kiến trúc, đã thể hiện rõ sự hiểu biết của người Ai Cập cổ
về môn khoa học toán ở trình độ cao. Đồng thời trong lĩnh vực y học, nông học
và âm thanh học của họ, cũng đạt được những thành tựu lớn lao.
Thơ ca, nhảy múa và âm nhạc của Ai Cập là những loại hình nghệ
thuật phát triển sớm. Dựa vào những công trình văn học và những bức hoạ khắc
trên tường, trong hầm mộ, đền đài và kim tự tháp đã nói lên sinh hoạt âm nhạc của
Ai Cập cổ. Những cảnh nhảy múa và các nhạc công với các nhạc cụ trên tay đã thể
hiện đặc điểm âm nhạc của Ai Cập cổ. Âm nhạc liên quan chặt chẽ với nhảy múa,
thơ ca.
Những câu thơ biểu diễn với âm nhạc được miêu tả trên giấy chỉ
thảo đã nói về nghệ thuật, phản ánh đời sống của nô lệ và chủ nô. Trong đó
không chỉ biểu hiện những tâm trạng, liên quan đến lễ tiết của Hoàng đế Ai Cập
cổ và Chúa trời, mà còn kể về những cảnh tù tội của nhân dân, về những cuộc khởi
nghĩa của nô lệ chống lại chủ nô. Qua những bài ca lao động đã cho ta thấy mối
liên quan tới công việc canh tác, xây dựng kênh đào, nghề biển và đóng tầu biển.
Đồng thời, còn có những bài ca sinh ra từ những nhân tố xã hội, phản ánh sự bất
bình đẳng.
Sự vĩ đại của các bậc thiên tài nhân dân đã mô tả trong hành
động quần chúng - các trò diễn phát triển trên cơ sở thần thoại, là những kịch
tôn giáo biểu diễn với âm nhạc. Kịch tôn giáo là loại hình cao của dân gian Ai
Cập cổ: những bài hát đồng ca luân phiên với những trò diễn, đám rước và những
cảnh sân khấu. Tính quần chúng ấy như thể hiện những yếu tố dân chủ, hiện thực
trong nghệ thuật Ai Cập cổ. Truyền thống của những trò diễn quần chúng này còn ảnh
hưởng đến nghệ thuật âm nhạc Châu Âu sau này. Nó trở thành nền tảng của loại kịch
cổ đại và hàng loạt những phần nghi lễ được đưa vào nhà thờ Kitô giáo và Cơ đốc
giáo.
Ở Ai Cập cổ, ngoài âm nhạc dân gian, còn có âm nhạc chuyên
nghiệp. Đó là việc thờ cúng liên quan đến lễ nghi tôn giáo trong các đền đài và
của giới thượng lưu, biểu diễn trong cung đình. Thể loại chính của âm nhạc cung
đình là các bài ca và những bài chính ca. Ở cung đình có cả dàn nhạc và đồng
ca. Khi hành quân cũng có âm nhạc dẫn dắt.
Cư dân Ai Cập có nhiều loại nhạc cụ như harpe, sáo, luth
(luýt), kèn đôi ([1]), Clarinette... cũng như các nhạc cụ gõ. Một trong những nhạc
cụ gõ điển hình nhất của Ai Cập cổ là sistre ([2]) (xi-xtrơ). Do sự giao thoa với
văn hoá Syrie, Phénicie, và sau này với Hy Lạp, nên trong văn hoá Ai Cập xuất
hiện những yếu tố mới. Ảnh hưởng của âm nhạc Syrie khá mạnh và còn lưu giữ tới
thời Trung cổ. Những bài ca Hymne (Him = chính ca) của Syrie trở thành nền tảng
của âm nhạc Vijanti (Vi-dan-ti) và những bài thánh lễ Kytô giáo.
Từ mối giao thoa giữa văn hóa âm nhạc Ai Cập và Hy Lạp, sau
này phát triển thành một dòng văn hoá âm nhạc mới mà trung tâm lớn nhất là
thành phố Alexandria (A-lếc-xan-đria).
Chú thích:
([1]) Kèn đôi là loại kèn có dăm, cùng họ với kèn Hautbois của
Châu Âu.
([2]) Sistre là nhạc cụ gõ tương tự như những chuông nhỏ.
2. Âm nhạc Lưỡng Hà:
Khoảng từ 3.000 năm trước công nguyên hình thành một quốc gia
chiếm hữu nô lệ chuyên chế hùng mạnh - đất nước nằm trên lưu vực giữa hai con
sông Tigrơ (Ti-grơ) và Euphrate (Ơ-phrát) - đó là nền văn minh Sumère
(Su-me-rơ) ở đồng bằng phía nam Lưỡng Hà và Akhad (Ắc-kát). Sau đó, được thay
thế bằng nền văn minh Babylone (Ba-bi-lon), gắn liền với nền văn minh Hittite
(Hi-tít), cũng như nền văn minh Assyrie (A-xi-ri). Nền văn minh này đạt tới sự
cực thịnh ở khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên.
Cùng với thành tựu của toán học, y học và xây dựng, kiến
trúc... văn học và âm nhạc phát triển cao. Người Assyrie có cách ghi nhạc cổ nhất.
Đó là những ký hiệu riêng trong kiểu tiết hình văn tự (neuma - lối ký âm
"nơm").
Qua những bằng chứng của khảo cổ học, có những cảnh nghi lễ,
trong đó có hình ảnh của những người chăn cừu chơi đàn luth hoặc thổi sáo. Việc
thờ cúng dân gian cho người chết, và tin vào sự tái sinh, trở thành nền tảng
cho việc trình diễn kịch, kèm theo những bài ca trữ tình xót thương. Rất nhiều
cảnh trình bày thành những bức tranh hiện thực, mang tính phong tục từ cuộc sống
thường nhật.
Âm nhạc cung đình xuất hiện trong các lễ nghi. Âm nhạc vang
lên trong lễ hiến sinh, yến tiệc và ngày lễ. Nhạc công ở đây được quý trọng
không chỉ trong nhân dân, mà cả trong cung đình và nhà thờ. Họ được xếp thứ hạng
chỉ sau các thần và nhà vua. Cư dân ở đây tin rằng, âm nhạc có mối liên quan chặt
chẽ với thiên nhiên, vũ trụ và thời tiết trong năm.
Nhạc cụ của họ rất phong phú, đa dạng như đàn lyre (lia),
luth, harpe, sáo đôi có dăm (kiểu Hautbois) và sáo. Nhiều loại nhạc cụ gõ,
trong đó có nhiều loại trống và sistre là nhạc cụ gõ phổ biến nhất. Người ta có
thể hoà tấu nhạc cụ hơi, dây và gõ.
3. Âm nhạc Palestine:
Nền văn hoá âm nhạc có nguồn gốc cổ nhất trên vùng cao nguyên
giữa Syrie và Ai Cập ngày nay là Palestine, sau đó, nhà nước Do Thái được xây dựng
năm 1028 trước công nguyên qua nhiều sự biến động của lịch sử, xã hội.
Nền âm nhạc của cư dân tại đây khá phát triển, mà những chứng
cứ được dựa trên các tư liệu từ nền văn học Hy Lạp - La Mã và từ sử thi tôn
giáo Do Thái cổ. Âm nhạc phục vụ cho các lễ nghi tôn giáo, nơi biểu diễn các loại
nhạc - thơ, điển hình của người Do Thái cổ là Thánh ca. Thánh ca có đặc điểm du
dương, êm ái, nhưng có lúc lại mang tính ngẫu hứng, bi thương. Tính chất ngâm
ngợi thể hiện rõ trong những giai điệu trang sức phong phú. Còn có cả những mẫu
đặc biệt của Thánh ca - giai điệu một bè. Hình thức trình diễn là đơn ca và đồng
ca, thường luân phiên của hai đồng ca hoặc của đơn ca và đồng ca.
Thánh ca không chỉ có đặc điểm ngợi ca, mà trong đó còn miêu
tả những cảm xúc sinh động của con người. Những bài Hymne (Him), là điển hình của
người Do Thái cổ, nó khác với tính chất ngâm ngợi của Thánh ca bằng các âm hình
tiết tấu rõ ràng, ổn định. Các lễ nghi tôn giáo ở người Do Thái có tính chất
sang trọng; còn bài văn thờ cúng lại được hát kèm với nhảy múa.
Nền tảng cấu trúc gam của âm nhạc Do Thái là đặc biệt và khác
với các hệ thống gam khác. Người Do Thái dùng hàng âm thanh gồm 4 nốt nhạc -
chuỗi bốn âm (tétracorde) sau này còn đưa vào âm nhạc Hy Lạp.
Nhạc cụ của cư dân ở đây rất đa dạng như: Sofar (dạng kèn thổi
bằng sừng như tù và), các nhạc cụ hơi giống Trompette, sáo, sáo đôi có dăm...
các nhạc cụ bằng đồng khác và các nhạc cụ dây cùng họ với đàn Lyre.
Nền âm nhạc của họ giữ vai trò quan trọng, tạo bước ngoặt cho
sự phát triển của lịch sử âm nhạc và còn có mối ảnh hưởng đến âm nhạc Tây Âu
sau này. Nền âm nhạc này có mối quan hệ đến đạo Cơ đốc từ lối hát kinh thánh,
mà sau này đạo Thiên chúa cũng tiếp thu từ ảnh hưởng này.
4. Âm nhạc Ấn Độ:
Ấn Độ là một trong những nền văn minh lớn của thời cổ đại.
Trong quá trình phát triển, nền văn minh này có mối quan hệ với văn minh Lưỡng
Hà và văn minh Hy Lạp.
Các cư dân sông Ấn đã sáng tạo nền nghệ thuật cổ, độc đáo của
mình trong điều kiện chế độ chiếm hữu nô lệ chuyên chế, hà khắc và sau này là
chế độ phong kiến. Đó là các công trình kiến trúc vĩ đại như các cung đình, đền
đài, hầm mộ, những tác phẩm điêu khắc, những bích hoạ đồ sộ, lộng lẫy. Nghệ thuật
Ấn Độ phát triển mạnh, trong đó có âm nhạc. Hai bộ sử thi đồ sộ Mahabharata và
Ramayana được ghi chép lại của nhiều thế hệ sáng tạo từ xa xưa trên lá cọ là những
bằng chứng về nền văn minh ở đây.
Những bích họa tại Bhimbetka là những chứng cứ cho thấy người
Ấn Độ cổ đã có sinh hoạt âm nhạc khá phong phú cách đây hàng 5.000 năm. Âm nhạc
của các cư dân tại đây gắn bó chặt chẽ với tín ngưỡng, tôn giáo và âm nhạc còn
có mối quan hệ mật thiết với ca, múa.
Một trong những công trình sáng tạo vĩ đại nhất của thiên tài
dân gian là văn học Ấn Độ, ra đời khoảng từ 2.000 năm trước công nguyên - bộ
kinh Veda ([1]) (Vê-đa) viết bằng chữ Phạn cổ. Dòng nhạc cổ điển Ấn Độ được quy
định rõ ràng trong bộ kinh Rig Veda (Ri-gơ Vê-đa). Một trong bốn tập của bộ này
là Samaveda (Xa-ma-vê-đa), là tuyển tập những bài ca thánh thần. Các bộ sách
kinh là những tư liệu quý báu về nghệ thuật cổ Ấn Độ. Quan điểm thẩm mỹ của người
Ấn coi âm nhạc có vai trò lớn lao trong đời sống của họ. Tác dụng của âm nhạc
không chỉ với con người, mà còn cả với động vật. Có nhiều làn điệu dùng để thuần
dưỡng rắn và voi. Âm nhạc là phương tiện để biều hiện những cảm xúc sâu sắc của
con người và họ còn tin vào nguồn gốc thần linh của âm nhạc. Nhân dân đã sáng tạo
nên chuyện thần thoại về thần Sarasvata (Xa-ra-xva-ta) - đã ban cho người Ấn một
món quà, là một trong những nhạc cụ họ yêu thích nhất là cây đàn Vina, cùng những
âm điệu cơ bản của âm nhạc Ấn là Râga (Ra-ga).
Thời kỳ này, Ấn Độ đã có chữ viết, nên họ đã có những công
trình về lý luận âm nhạc bằng chữ Phạn, những sách dạy về ca hát, cách ghi nhạc...
Họ còn tổng kết những vấn đề về hệ thống thang âm, tiết tấu, nhịp phách.v.v...
Giai điệu và tiết tấu của âm nhạc Ấn Độ rất đa dạng. Hình
thành những mẫu hình giai điệu khác nhau: ngâm ngợi và lối nói nhanh; uyển chuyển,
tình cảm; trang sức hoặc biến tấu. Tiết tấu rất đa dạng, phong phú, được tô điểm
bằng đảo phách và luân phiên của nhịp hai, nhịp ba. Có khoảng 12, mẫu hình tiết
tấu điển hình. Cơ sở của các tiết tấu là các tâla (ta-la). Tâla là tổ hợp của
nhiều anga (ăng-ga). Anga là một đơn vị gồm một số lượng phách cố định. Mỗi
nhân tố âm nhạc phải thể hiện một hình ảnh, tình cảm nhất định. Nền tảng điệu
thức của âm nhạc Ấn Độ là thang âm 7 bậc, cách nhau bởi ba loại quãng khác biệt.
Những quãng này gồm một lượng nhất định của các cruti (xru-ti). Cruti là những
đơn vị cơ bản do quãng tám chia làm 22 phần không đều nhau. Do vậy, hệ thống
này không giống các điệu thức 7 bậc của phương Tây. Họ sử dụng chữ cái đầu của
một số từ viết theo chữ Phạn để gọi các bậc ấy là sa (sadja), ri (rishaba), ga
(gandhara), ma (madhyama), pa (pancama), dha (dhaivata), ni (nishada). Người Ấn
quan niệm mỗi nốt nhạc gắn với một tình cảm nhất định, nên mỗi râga cần phải
liên quan đến một trạng thái tình cảm, tiêu biểu cho các mùa trong năm, có khi
chỉ được dùng trong một thời điểm nào đó của ngày.
Sự phân chia đẳng cấp trong xã hội dẫn đến sự phân biệt cả
trong âm nhạc. Âm nhạc của tầng lớp quyền quý có tính tượng trưng, nổi bật bằng
các nghi thức lộng lẫy, hào nhoáng. Trong đền đài, người ta biểu diễn các bài lễ
nghi tôn giáo từ kinh Regveda. Âm nhạc chuyên nghiệp có cả nhạc đàn, nhạc hát.
Âm nhạc dân gian phản ánh cuộc sống thường nhật của người
dân. Người ta đã tìm thấy những tư liệu về sự tồn tại của các ca sĩ hát rong -
người sáng tạo nên những bài ca. Âm nhạc dân gian là sinh động và liên quan chặt
chẽ đến tình cảm của con người trong lao động và đa dạng về thể loại. Có những
bài ca về canh tác, về những người chăn cừu và thuần dưỡng thú. Còn có cả những
bài liên quan đến phong tục dân gian, những bài lễ nghi, những bài có tính trữ
tình, thơ mộng, ca ngợi thiên nhiên. Trong sáng tác dân gian cũng không thiếu
những bài với chủ đề có tính triết lý, hoặc ngợi ca anh hùng.
Từ những di tích văn hoá, còn cung cấp những tư liệu quý giá
về các lễ nghi trong cung đình có âm nhạc hỗ trợ, và về những buổi trình diễn
sân khấu, hình thành từ các ca sĩ, nhạc công dân gian. Từ thế kỷ thứ III-V sau
công nguyên ở Ấn Độ đã phát triển loại hình kịch, biểu diễn bằng tiếng Phạn với
đồng ca, đơn ca và có nhạc cụ đệm theo.
Âm nhạc của Ấn Độ là một bè, tuy nhiên cũng có những mầm mống
đơn giản của loại nhiều bè. Sự liên kết chặt chẽ giữa âm nhạc, nhảy múa và các
động tác là một trong những tính chất đặc biệt của âm nhạc cổ Ấn Độ. Các vũ sĩ Ấn
Độ đã đạt tới trình độ điêu luyện, để biểu hiện cảm xúc nội tâm phong phú của
con người, đồng thời, họ có thể miêu tả những hiện tượng từ thiên nhiên, những
hình ảnh tượng trưng từ thế giới hiện thực như hoa sen, nước, voi v.v...
Nhạc cụ đa dạng của họ, tạo ra khả năng phát triển cho nhạc
đàn và nghệ thuật biểu diễn đại tới trình độ điêu luyện. Nhạc cụ của Ấn Độ cổ gồm
nhiều chủng loại. Nhạc cụ hơi có sáo, sáo đôi, gaiđa và sau này là các nhạc cụ
hơi bằng đồng và sừng; các nhạc cụ gõ có các loại trống và cồng...; đặc biệt là
nhạc cụ dây, trong đó phải kể đến vina, cithàre (xi-ta) và các nhạc cụ dân
khác. Đàn harpe được cấu trúc thành nhiều dạng và chiếm số lượng lớn của nền âm
nhạc Ấn Độ trước và sau công nguyên.
Chú thích:
([1]) Veda là tuyển tập các bài thơ Hymne, trước hết là lễ nhạc.
5. Âm nhạc Trung Hoa:
Văn hoá Trung Hoa cổ đại đạt tới sự phát triển cao nhất trong
chế độ chiếm hữu nô lệ từ thế kỷ XI trước công nguyên đến thế kỷ thứ III sau
công nguyên. Những đường nét văn hoá cổ này còn được lưu giữ đến tận thế kỷ
XIX, bởi sự thống trị lâu dài của chế độ phong kiến. Trong những điều kiện của
chính quyền thống trị chuyên chế với sự bóc lột tàn khốc và những cuộc khởi
nghĩa của nhân dân, các cư dân ở đây đã sáng tạo nên những báu vật nghệ thuật lớn
lao của mình: công trình kiến trúc; đồ gốm; điêu khắc; những bức hoạ đa dạng về
phong cách, thể loại...; ca dao và dân ca được tuyển chọn. Nền âm nhạc Trung
Hoa cổ đại phát triển sớm. Từ đó đã cung cấp tư liệu quý giá cho âm nhạc.
Theo dã sử Trung Hoa, Phục Hy thời Tam Hoàng và Hoàng đế thời
Ngũ Đế có nhiều công đóng góp cho âm nhạc. Họ cho rằng, Phục Hy đã chế tác ra
đàn sắt gồm 50 dây, còn thời Hoàng đế có nhiều thành tự về lý thuyết âm nhạc đã
hình thành. Các nhà thơ, các nhà triết học thời này đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa
đạo đức với mỹ học và khả năng của nó ảnh hưởng tới con người. Do vậy, họ đã
dùng âm nhạc là một phương tiện để giáo dục đạo đức. Người Trung Hoa còn hướng
tới việc phát hiện bản chất của âm nhạc. Họ xác định rằng, có mối liên quan giữa
âm nhạc, đời sống xã hội, tư tưởng và tâm sinh lý của con người. Do đó, âm nhạc
được sử dụng trong cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng triết học khác nhau. Mối
quan hệ giữa âm nhạc với thiên nhiên, và những hiện tượng trong vũ trụ, được khẳng
định trong mỹ học của người Trung Hoa. Quy luật âm nhạc còn được xem xét trong
mối quan hệ với cả thiên văn học.
Âm nhạc cung đình, đền đài nổi bật với tính chất lễ nghi,
trang trọng. Ở đó người ta trình bày những bài chính ca, ngợi ca, những điệu
múa và cả những cảnh kịch câm. Tính chất của nó là tượng trưng và đệm bằng nhạc
cụ.
Sáng tác dân gian lại đa dạng về nội dung và thể loại. Nhiều
bài ca phản ánh các sự kiện lịch sử - các cuộc chiến tranh và các cuộc khởi
nghĩa của nông dân. Các bài ca phong tục, trữ tình thấm đượm hình tượng của người
lao động. Nhiều bài ca miêu tả những cảnh thơ mộng trong thiên nhiên; có bài
còn có tính chất hài hước, châm biếm.
Công trình cổ nhất của sáng tác dân gian là tuyển tập gồm 305
bài dân ca.
Sự thống nhất giữa âm nhạc, lời thơ, động tác và nhảy múa khẳng
định tính chất độc đáo của nghệ thuật âm nhạc; tăng cường ý nghĩa tư duy của
các từ và phản ánh trong sự thay đổi âm điệu, ngôn ngữ. Việc thay đổi âm điệu
trong cách phát âm của tiếng Trung Hoa có vai trò lớn để khẳng định ý nghĩa, nội
dung của từ.
Âm nhạc Trung Hoa phong phú về âm điệu, tiết tấu và âm sắc.
Nghệ thuật của họ, điển hình là sự tổng hợp giữa nhạc hát và nhạc đàn. Việc sử
dụng giọng kim khi hát là phương tiện tạo vẻ đẹp về mầu sắc âm thanh, đã hình
thành từ truyền thống cổ xưa. Sự phát triển có tính biến tấu và chuyển tiếp
nhanh từ âm vực cao xuống âm vực thấp, hay ngược lại, là bản chất của lối tiến
hành giai điệu. Hình mẫu tiết tấu với sự thay đổi tự do, thường xuyên, giữa nhịp
chẵn và nhịp lẻ, cũng như đảo phách, đã khẳng định tính điển hình của âm nhạc
Trung Hoa.
Từ thời cổ đại, người Trung Hoa đã tìm ra quy luật của âm
thanh, đó là hệ thống luật, lữ. Họ đã xác định được mối tương quan toán học của
các quãng tám, quãng năm và quãng bốn. Trên cơ sở này, đã hình thành phương
pháp để tạo ra chuỗi âm thanh giống như hệ thống 12 bậc biến âm (Chromatic), mỗi
bậc có tư duy tượng trưng. Chúng liên quan đến giờ, tháng, khẳng định màu sắc,
những hiện tượng thiên nhiên và trạng thái tâm lý. Vậy là, lý luận của người
Trung Hoa cổ về luật bình quân đã hình thành từ thời cổ đại.
Từ năm âm đầu tiên trong hệ thống luật, lữ theo lý thuyết
Trung Hoa - tương đương với Pha - Xon - La - Đô - Rê - là thang âm đầu tiên. Đó
là cơ sở cho sự hình thành năm điệu thức năm âm có tên gọi: Cung, Thương, Giốc,
Trủy, Vũ.
Một trong những thành tựu lớn nhất của nền văn hóa âm nhạc
Trung Hoa là loại hình ca nhạc có yếu tố sân khấu, bắt nguồn từ những bài ca,
điệu nhảy và những cảnh kịch câm. Loại hình này xuất hiện từ nghệ thuật cung
đình thế kỷ thứ VIII-V trước công nguyên, và sau này được hoàn thiện thành kịch
nhạc cổ Trung Hoa trong thời Trung cổ (thế kỷ VII-XIII công nguyên).
Nhạc khí Trung Hoa cổ đại rất đa dạng và phong phú về âm sắc,
bởi chúng được chế tác từ nhiều vật liệu khác nhau. Ngoài đàn sắt (như trên đã
nhắc tới), còn có cả trống đất và sáo bằng ống sậy, đã có từ rất lâu đời. Âm nhạc
cung đình sử dụng hoà tấu gồm nhiều nhạc cụ ở các chủng loại khác nhau và bộ trống
có ý nghĩa đặc biệt. Nhạc cụ hơi cũng đa dạng: sáo, tiêu, sênh (cùng họ với
khèn), các nhạc cụ bằng sừng, bằng đồng.v.v... Các loại đàn dây gẩy, và kéo
như: nhị, hồ, gáo, tỳ bà, tranh, nguyệt... Các nhạc cụ gõ rất đa dạng: khánh,
chuông, cồng, chiêng... và trống các loại.
6. Âm nhạc Hy Lạp, La Mã:
Văn minh cổ Hy Lạp là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của
thời cổ đại. Nền nghệ thuật cổ này là một truyền thống phong phú, mà các nhà tư
tưởng tiên tiến của nhân loại ở các thời đại, đã tìm thấy những hình tượng, những
quan điểm, những tiêu chuẩn giá trị thẩm mỹ, để cổ vũ họ đạt tới các khát vọng
táo bạo của mình. Văn hoá cổ Hy Lạp phát triển rực rỡ với những toà kiến trúc
nguy nga, tráng lệ; những pho tượng tuyệt mĩ; những vở bi kịch, những áng thơ
ca, những công trình khoa học, triết học, lý luận âm nhạc nổi tiếng. Sự chinh
phục của nền văn minh cổ Hy Lạp là rất to lớn.
Hy Lạp là đất nước với chế độ chiếm hữu nô lệ đạt tới bước
phát triển cao ở thế kỷ V-IV trước công nguyên. Nguồn gốc nghệ thuật cổ Hy Lạp
là những sáng tác dân gian truyền miệng và những chuyện thần thoại.
Lịch sử nghệ thuật cổ Hy Lạp bắt đầu từ 3.000 năm trước công nguyên.
Nguồn gốc chính của nền văn hoá này ở Crete (Crét) và thành phố Mycène
(Mi-xen); sau này ở Spartes (Xpác-tơ) và Athènes (A-ten). Tư liệu về giai đoạn
này dựa vào những bức họa trên tường và những bức hoạ trên các vật thể khác
nhau. Những hình ảnh của các cảnh kịch câm, những nhạc cụ, đã cho thấy một
trong những tính chất đặc biệt của âm nhạc cổ đại của cư dân ở đây là mối liên
quan giữa âm nhạc, nhảy múa, thơ ca. Điệu nhảy nhanh có tính thượng võ, những
bài ca trang trọng, cùng một vài thể loại khác của âm nhạc đã xuất hiện. Nhiều
nhạc cụ được sử dụng như đàn Lyre, Kytara và đặc biệt là nhạc cụ hơi aulós ([1])
(a-vơ-lốt). Trong văn hóa ở Mycène và Créte người ta còn tìm thấy cả đàn Sistre
của Ai Cập. Từ đây và các thời kỳ tiếp theo, người Hy Lạp đã có mối giao lưu với
phương Đông nên nẩy sinh hàng loạt những yếu tố từ nền nghệ thuật của Ba Tư, Tiểu
Á, Phénicie, Palestine, Ai Cập, Ấn Độ.
Từ thế kỷ X-VIII trước công nguyên, trong các áng thơ ca
Iliade (i-li-át) và Odyssée (Ô-đi-xê) của Homere (Hô-me), người ta đã tìm thấy
những tư liệu quý giá, miêu tả các thể loại nhạc dân gian khác nhau: những bài
ca lao động; cưới xin, hát ru, than khóc, hội hè... Đồng thời hình thành cả nghệ
thuật chuyên nghiệp.
Thành tựu lớn nhất của nghệ thuật cổ đại trong thời kỳ này là
loại sử thi anh hùng, nẩy sinh từ các bài ca và các truyền thuyết anh hùng. Khởi
đầu, chính các anh hùng - người tham gia và chứng kiến các sự kiện anh hùng lớn
lao - đã vừa sáng, biểu diễn, còn sau này do các ca sĩ chuyên nghiệp thể hiện gọi
là aëdön (2) (a-ét). Họ vừa là tác giả, vừa là người biểu diễn, khi hát thường đệm
bằng nhạc cụ dây Phomiene (Phô-mi-en). Sau này, còn xuất hiện cả loại Rhapsodie
(Ráp-xô-đi) cũng thuộc loại sử thi anh hùng.
Khoảng thế kỷ VII-V trước công nguyên hình thành thể loại mới
là lirique (li-rích) để biểu hiện thế giới nội tâm của con người bằng các bài
hát đơn ca và đồng ca. Những bài lirique, nhất là lirique đơn ca thường biểu hiện
tính chất tâm tình, diễn đạt được những khía cạnh tinh tế về tình yêu, và sâu sắc
về tính triết lý. Tuy nhiên cũng có những bài lirique, nhất là lirique đồng ca
có nội dung chiến đấu, hiệu triệu hay ngợi ca.
Đến thế kỷ thứ V trước công nguyên, bắt đầu thời kỳ mới của nền
văn hoá cổ, những loại sử thi và lirique đã trở thành mẫu mực cổ điển, làm cơ sở
cho loại kịch cổ Hy Lạp ra đời.
Ở thế kỷ thứ V trước công nguyên, sau thắng lợi trong cuộc
chiến tranh giải phóng chống Ba Tư, đời sống văn hoá xã hội lúc này rất phát
triển và hình thức nghệ thuật cao nhất của thời cổ đại là bi kịch hình thành.
Bi kịch cổ ra đời từ những phong tục thờ cúng thần Dionysos
(Đi-ô-nít) - người bảo vệ cho việc đồng áng và trồng nho, được nhân dân tôn
vinh là thần rượu nho và sự vui vẻ. Đồng thời, trong bi kịch còn có cả những
huyền thoại phương Đông cổ về thần Ojiride (Ô-di-rít) của Ai Cập và thần
Odinide (Ô-đi-nít) của Phénicie. Hát, múa, đàn kết hợp với các cảnh có tính sân
khấu được thực hiện trong loại hình này. Những bài hát có tính ngợi ca, trang
trọng hay trữ tình, ngâm ngợi hoặc có tính trào phúng... đều có thể được sử dụng.
Sau này, bi kịch trở thành loại hình sân khấu hoàn thiện, phát triển ở Athenes
với các tên tuổi lớn như Aischýlos (Ex-klin: 525 - 456 tr. CN), Sophoklés
(Xô-phốc: 496 - 406 tr. CN) và Euripides (Ơ-ri-pít: 480 - 406 tr. CN). Họ đồng
thời còn sáng tác nhạc cho các bi kịch. Bi kịch gồm các phương tiện nghệ thuật
âm nhạc khác nhau: hát đơn ca, đồng ca với phần đệm của nhạc cụ; đối thoại, động
tác kịch câm và những cảnh đặc trưng sân khấu. Bi kịch của Aischýlos, đồng ca
có vai trò chính. Bi kịch của Sophokles và Eripides, với sự tăng thêm số lượng
diễn viên, nên vai trò của đối thoại được tăng cường và phần đơn ca cũng nhiều.
Song song với bi kịch, thời kỳ này còn có cả hài kịch. Các buổi
trình diễn sân khấu thường có ba bi kịch và một hài kịch, và hài kịch thường
nhái lại bi kịch. Các vở hài kịch đạt tới sự phát triển nhất trong sáng tác của
Aristophanes (A-rix-tô-phan: 446- khoảng 385 tr. CN).
Bi kịch cổ của cư dân ở đây là những mẫu mực hoàn thiện nhất
của nghệ thuật, mang ý nghĩa của toàn nhân loại.
Thế kỷ IV trước công nguyên với những cuộc xâm chiếm của
Alexandros (A-lếch-xăng) ra phía Đông, nghệ thuật Hy Lạp thời kỳ này bao trùm
toàn bộ các nước phía Đông Địa trung hải. Trong nghệ thuật nẩy sinh những yếu tố
mới, là tổng hợp giữa nghệ thuật Hy Lạp với phương Đông. Nền văn hoá này tồn tại
đến nghìn năm đầu sau công nguyên với trung tâm chính là Alexndra (A-lếch-xăng-đra).
Giai đoạn này, các nhạc cụ được hoàn thiện và phong phú. Hình
thành những dàn nhạc lớn và những phòng hoà nhạc đồ sộ. Đàn Organ là nhạc cụ mới
được sử dụng. Cũng trong thời gian này, nền văn hoá La Mã phát triển. Đế chế La
Mã bao trùm các nước Địa trung hải. Cư dân La Mã kế thừa nền văn hoá cổ, phát
triển từ thế kỷ VII-VI trước công nguyên. Từ thế kỷ thứ V trước công nguyên bị ảnh
hưởng mạnh mẽ từ nền khoa học, văn học và nghệ thuật Hy Lạp và từ thế kỷ thứ I
sau công nguyên, nghệ thuật của Syrie, Phénicie phổ cập ở Rôm.
Người La Mã có nền âm nhạc độc đáo. Đó là những bài ca lao động,
phong tục, chiến trận và những trò diễn được đệm bằng đàn aulós. Những nhạc cụ
phổ biến là harpe, lyre, kitara, aulós và các nhạc cụ hơi bằng đồng. Người La
Mã có thể loại mới là kịch câm. Kịch câm được biểu diễn bằng tiếng Hy Lạp, hát
đồng ca và đệm bằng đàn aulós, sáo, kitara, lyre.
Người La Mã tách âm nhạc khỏi thơ ca. Họ còn tổ chức các buổi
hoà nhạc lớn để trình bầy các kỹ xảo nhạc đàn, nhằm thoả mãn sự hiếu kỳ và phần
nào đã mất đi ý nghĩa giáo dục, xã hội như trước đây của âm nhạc.
Với chính sách xâm lược của đế chế La Mã, âm nhạc Hy Lạp đã bị
tiêu diệt hẳn tính cách dân tộc của mình. Phải đến hàng ngàn năm sau, nền âm nhạc
Hy Lạp mới được phục hồi từ thời đại phục hưng.
Như ở trên đã đề cập, âm nhạc cổ Hy Lạp có mối liên quan chặt
chẽ với thơ ca và nhảy múa. Nền âm nhạc này cơ bản là loại hát một bè. Giai điệu,
tiết tấu âm nhạc là phản ánh những chi tiết trong âm điệu, cách phân ngắt nhịp
điệu từ thơ, đồng thời tiết tấu âm nhạc có liên quan chặt chẽ đến các bước đi của
các điệu nhảy.
Các nhà học giả Hy Lạp cổ đại đã hoàn thiện hệ thống âm nhạc
theo thứ tự từ trên đi xuống. Hệ thống ấy chứa các chuỗi bốn âm (tétracorde),
cùng một dạng thức quãng được sắp xếp theo gối đầu hoặc kế tiếp nhau. Căn cứ
vào vị trí của cung và nửa cung, ba chuỗi bốn âm cơ bản là: dori (từ nốt mi),
phrygi (từ nốt rê), và lidi (từ nốt đô).
Những điệu thức cơ bản, mang tên các chuỗi bốn âm Dori,
Phrygi, Lidi hình thành từ hai chuỗi bốn âm đi xuống kế tiếp. Từ các điệu thức
cơ bản ấy, nếu bổ sung chuỗi bốn âm kế tiếp ở hai đầu, ta sẽ được điệu thức biến
thượng (cao hơn điệu thức cơ bản một quãng năm) và điệu thức biến hạ (thấp hơn
điệu thức cơ bản một quãng năm)
Điệu thức Dori: Dạng thức quãng = cung + cung + 1/2 cung
Đầu tiên là các hệ thống diatonic. Sau này, để có thể biểu hiện
lớn hơn, tạo màu sắc đặc biệt của lirique, dẫn đến sử dụng các âm chromatic. Kết
quả là hệ thống điệu thức được mở rộng. Người Hy Lạp cho là, mỗi điệu thức có một
tính chất riêng biệt. Chẳng hạn, Dori biểu hiện tính chất sáng sủa, mạnh mẽ;
Lidi lại có tính trữ tình v.v... Họ còn phân biệt những quãng thuận và quãng
nghịch, cũng như khái niệm về diatonic, chromatic và đẳng âm (enharmonic). Người
Hy Lạp còn sáng tạo cách ghi nhạc bằng các chữ cái, đồng thời còn có cả cách
ghi chuyên cho nhạc đàn.
Ở thế kỷ thứ VI-V trước công nguyên, người Hy Lạp còn sáng tạo
và hoàn thiện hệ thống mỹ học, phát triển trong mối liên quan chặt chẽ với tư
tưởng triết học và vai trò giáo dục đạo đức của âm nhạc. Các nhà triết học cổ
vĩ đại Pythagoras (Pi-ta-go), Aristoteles (A-rix-tô-ten), Aristoxenos
(A-rix-tok-xen)... đã nghiên cứu cả những vấn đề về mỹ học. Người Hy Lạp đã nêu
lên chức năng xã hội và giáo dục của âm nhạc nên đã dùng âm nhạc là một trong
những phương tiện giáo dục mạnh mẽ, nhất là cho thanh niên. Aristoteles và
Aristoxenos còn nghiên cứu một cách chi tiết, rộng rãi và có hệ thống về điệu
thức, tiết tấu và các yếu tố khác cùng sự cảm thụ âm nhạc.
Trong mỹ học cổ đại Hy Lạp thời kỳ này xuất hiện cuộc đấu
tranh giữa những quan điểm âm nhạc khác nhau. Đó là phái harmonikoc (ác-mô-nich
- người ưa sự hài hòa) và phái Kanonikoi (ca-nô-nich - ngưòi tôn sùng luật lệ).
Đứng đầu phái kanonikoc là Pythagoras. Ông đã phân tích âm nhạc trong mối quan
hệ của các con số. Tuy vậy, công trình lý thuyết về âm thanh có ý nghĩa tới
ngày nay đó là hệ thống 12 bậc theo vòng quãng năm. Còn Aristoteles và môn đệ của
ông là Aristoxenos lại lấy cảm thụ thính giác làm tiêu chuẩn và họ đứng đầu
phái harmonikoi.
Về mặt thẩm mỹ, người Hy Lạp đi sâu nghiên cứu vai trò âm nhạc
trong việc giáo dục đạo đức. Họ đã chứng minh một cách khoa học ảnh hưởng của
âm nhạc tới tình cảm con người, dựa trên nền tảng triết học vững vàng nên chúng
có ý nghĩa xã hội rất lớn. Mỗi giai điệu, mỗi tiết tấu, mỗi điệu thức có khả
năng tác động một trạng thái tình cảm rõ ràng: vui vẻ, mạnh mẽ hoặc buồn bã, ủy mị.
Nghệ thuật Hy Lạp cổ giữ vai trò lớn lao trong sự phát triển
của nhân loại.
Chú thích:
(1) aulós - tên gọi bằng tiếng Hy Lạp - là nhạc cụ hơi có hai
ống, có dăm.
(2) aëdön - tên gọi bằng tiếng Hy Lạp - người hát.
Nguồn: Techmusic
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét