Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2021

Năm sắc diện - Năm định mệnh

Năm sắc diện - Năm định mệnh

Thư cho em

Thành phố đang vào mưa đấy em - trời xuống thấp vô cùng. Tưởng chừng cả một khoảng không gian chất chừa đầy nước mắt sa vào tầm tay. Như ngày nào, anh những tưởng đã cầm nắm được tình em - Nhưng trời vẫn mưa và tình người vẫn xa - xa quá em ạ!
Anh còn biết nói gì khi ngày mai em sẽ theo chân “những cô áo đỏ sang nhà khác” - Liệu chúng mình còn gì để cho nhau, còn gì để gửi nhau?
Anh còn nhớ trong một lá thư nào đó, viết cho em, anh có ý nghĩ “chúng mình là những vật hy sinh bị đặt bên miệng hố sâu của thành kiến nệ cổ, là nạn nhân của một thứ quan niệm thiên lệch, bất công sai lầm về danh vọng, về nghề nghiệp, về huyết thống - Giữa lý trí muốn vươn thoát và tình cảm trì níu, em đã ru anh và trạng huống thúc thủ cùng những khao khát ngày càng trở thành hư ảo, những đam mê đắm đuối bị dồn nén cực độ.
Ngoi ngóp trong màng lưới ải dầy đó, anh không còn là anh nữa! Anh biến thái dần theo em, theo những gì là của em và chỉ em mới có - Anh không bắt kịp hiện tại vì anh sống bằng dĩ vãng, bằng kỷ niệm chênh vênh, bằng hy vọng héo tàn. Anh muốn nói với em rất nhiều rất nhiều - nhưng đau đớn thay anh lại không nói được dù chỉ một lời - Cái mù mịt từ quá khứ kéo dài ở hiện tại và anh tin rằng nó sẽ trùm kín tương lai - trùm kín cuộc đời anh!
Hỡi người con gái mang ẩn từ cánh buồm đen - nổi trôi hồn tôi những ngày khô cạn. Thành phố đang vào mưa đấy em - trời xuống thấp vô cùng - tưởng chừng như tay mình có thể hái được những trái sầu đang chín rụng.
Anh thèm viết thư cho em - thèm điên cuồng như thèm một hơi thuốc lá - một ngụm cà phê những đêm thức nghe mưa rơi sâu trong con hẻm tối - Anh thèm viết thư cho em - như ngày xưa, thật dài, thật dài đến đỗi phải dán thêm tem cho tương xứng với trọng lượng hay phải chia hai phong bì mới đủ - Anh muốn nói với em – với em – thật nhỏ, thật nhỏ chỉ riêng em nghe mà thôi - anh muốn nhìn em - nhìn em thật lâu như ngày xưa - Ôi  ngày xưa nào cũng đẹp - ngày xưa nào cũng gấm hoa nhung bướm - ngày xưa nào cũng có người con gái nhìn xuống những ngón tay đang run run - tránh ánh mắt nồng nàn xoắn vít của một người con trai… một người con trai…
Em còn nhớ chứ? Em còn nhớ không hỡi con chim bé bỏng muôn đời sầu não của anh.
Thành phố đang vào mưa - trời xuống thấp vô vùng - Ở đây - sau mùa mưa là mùa nắng ấm phải không em nhỉ? Ngoài Bắc anh, là mùa thu đấy em ạ! Mùa thu là mùa bắt đầu của những đoàn xe nhấn còi từng hồi - đưa người con gái về bến hạnh phúc - Bến hạnh phúc… anh biết rằng trước sau gì anh cũng mất em. Phải rồi! Chỉ với một tình yêu, chỉ với một lòng thành khẩn thiết tha (dù cao độ) làm sao anh giữ nổi em! Làm sao anh giữ được em! Anh biết rõ lắm chứ - anh biết ngày mất em đã gần kề - đã sát cạnh. Ngày ấy là ngày anh không còn chút quyền hạn nào - dù là quyền bé mọn như viết thư cho em - Anh mất hết, anh mất hết rồi em - em còn gì và anh có còn gì đâu - em.
Thành phố đang vào mưa đấy em - trời xuống thấp vô cùng - làm sao bây giờ - làm sao bây giờ? Trong những ngày chót trước đi em đi một lần nhưng vĩnh viễn!
Anh nhớ ngày xưa - đã có lần em thắc mắc muốn biết cuộc sống thực của những người làm văn nghệ - những  người em thường đọc thơ - chép thơ họ - Những người em chuư hề biết mặt dù đã nhớ tên nằm lòng.
Ở đây, một trong những quà mọn gọi là chút “của làm tin” trước ngày em giết anh trong em. Những gì anh biết,  những gì anh hiểu, anh viết ra đây, gởi tới em không ngoài hy vọng em sẽ hiểu được phần nào cuộc sống thực của những người cầm bút…
Ở đây, em sẽ bắt gặp một sự không đều giòng giữa những khuôn dáng này và diện mạo khác - Nhưng anh biết làm sao hơn  khi cái gọi là đủ, hay thiếu - dài hay ngắn - tùy thuộc nơi tài liệu anh thu thập được - cũng như, có điều mình có thể nói lên, và có điều mình không được phép nói ra - nhiều khi không vì áp lực nào nhưng tự mình không cho phép làm như vậy. Em hãy hiểu cho anh - điều quan trọng, nơi đây anh vẫn là cố gắng sao tránh khỏi phụ lòng người mình vốn sẵn mến mộ - đúng như dự tính thì tập sách này còn có sự hiện diện của hai khuôn dáng nữa - như anh đã nói với em hôm nào - Nhưng anh không còn đủ tâm trí, nghị lực làm việc! Động cơ thúc đẩy anh viết chính từ nơi em - bởi em, do em tất cả - nay em báo tin: “chúng mình sắp xa nhau mãi mãi”. "Trời ơi! Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?” Hẳn em còn nhớ tiếng kêu thất thanh đó - hẳn em còn nhớ hơi thở anh lúc đó…
Còn gì nữa không em? Tất cả đã sụp đổ, vỡ nát quanh anh - còn gì - còn gì? Ơi em.
Thành phố đang vào mưa đấy em - trời xuống thấp vô cùng - Anh nhìn chồng bản thảo - cầm lên - bỏ xuống - Làm sao bây giờ - còn biết làm sao nữa!
Khi cuộc sống của anh ngày một thêm bất trắc - khi cuộc sống anh ngày một thêm khó khăn chật vật. Khi đêm đêm anh tìm về ngõ nhà tối tăm bùn lầy và bùn lầy nước đọng hơn - khi em xa dần, xa dần, xa quá…
Anh không thể viết thêm gì được nữa! Trong lúc này - trong lúc này - ngày đã rời xa đêm tối đã gần kề! Như người đi tìm vàng nơi hoang đảo - đường đến kho tàng còn xa đã nghe tin sét đánh ngang đầu - kẻ vô danh nào đó đã làm chủ! Thử hỏi anh còn gì để thiết tha? Anh còn gì để bám víu - anh còn gì để trông vào, ngó tới?
Chúng mình còn gì cho nhau - tất cả sức sống trong xương tủy, trong tim óc, trong đáy cùng tâm hồn - em đã thu hết - em đã vo tròn và bay cao, bay cao - Ơi người con gái tóc bồng áo trắng - ơi người con gái mắt tròn mở to một vùng dĩ vãng!
Anh ngồi đây nhìn mây về và chờ mây tan thành nước mắt - những giọt tình chưa kịp chín đã rụng rơi.
Thành phố đang vào mưa đấy em - trời xuống thấp vô cùng - anh thu vén công trình đằng đẵng từ nghìn đêm mồ hôi tim óc - gửi vội tới em - gửi vội tới em - tới người con gái sắp sang bờ hạnh phúc yên vui - họa may còn kịp - gọi là một chút làm tin khỏi phụ lòng người để người thản nhiên phụ rẫy tình người - tuy chỉ là một trong vô vàn khía cạnh của những tủi nhục - những đớn đau của nghiệp làm tằm - Của những người sinh ra, lớn lên để nhận lãnh sứ mạng làm đẹp cuộc đời bằng chính những đau khổ, những bi thiết mà đời đã trao cho họ.
Tất cả cố gắng của anh chỉ mong sao em hiểu được phần nào sự thật phũ phàng của cuộc đời những người cầm bút làm thơ ở giữa quê hương mình ảm đạm. Anh mong em đừng đặt thành vấn đề tại sao viết về người này mà không viết về người khác - hay người kia mới đáng viết người nọ không xứng đáng - ở đây chủ quan anh quyết định - Hơn nữa anh hy vọng rằng qua từng trang sách, từng giòng chữ, em sẽ tìm gặp được một phần nào cuộc sống của anh. Từ đó em hãy cho anh một giây một phút nào thừa thãi nhất của cuộc đời em hạnh phúc bên chồng, sung sướng bên con - hồi tưởng, nhớ nhung về một người đã làm thơ vì em - một người mà mọi cố gắng, mọi nỗ lực hoạt động trong suốt khoảng thời gian lay lắt - đều hướng vọng về em - Vì em mà bước tới - mà đi vào vùng rỗng trống của tâm hồn em mênh mông quên lãng…
Thành phố đang vào mưa đấy em - trời xuống thấp vô cùng, tưởng chừng đưa tay hái được những trái sầu chín rụng.
Xin em cho anh qua mùa mưa này - qua mùa đông này - mùa đông này chắc rét mướt tìm anh.
Hỡi người con gái mang ẩn từ cánh buồm đen - cánh buồm đen nổi trôi đời anh những ngày lầm lũi - những ngày héo khô…
Hỡi em hỡi em và em.
Sài Gòn mưa đầu tháng sáu một chín sáu nhăm
Chương Nhất: Đinh Hùng
Cảm nghĩ của tôi về Đinh Hùng trước khi được tiếp xúc với ông, ở hai trạng thái thật dị biệt. Ngày còn cắp sách đến trường, cũng như mọi cậu học trò mê thơ văn, tôi tìm gặp Đinh Hùng trong những bài thơ đăng rải rác trong các báo, qua những cuốn sách loại phê bình văn học nghệ thuật như “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân… Tôi đã vẽ trong trí tưởng tượng thơ ngây, non nớt, hình ảnh một chàng lãng tử ngơ ngác giữa giòng đời mà hành trang chỉ là những Mộng ảo, những ước mơ dang dở, những trăng gió bướm hoa, những thiên thai bồng đảo; mà võ khí tự vệ chỉ là một tấm lòng đắm đuối đê mê thiết tha không tưởng về một thiên đường đã mất. Tôi nghĩ về ông bằng một khuôn dáng lý tưởng đó, và đời sống của ông chắc như đời của trích tiên, ngày đêm mơ mộng tiêu dao. Người ấy phải là người có khuôn mẫu thanh cao, dáng đi thật nhẹ nhàng khoan thai, tâm hồn không bao giờ phải rộn phiền thế cuộc…
Và khi lớn lên, tập tễnh làm văn nghệ, mỗi khi viết được một bài thơ, một đoạn văn đắc ý, tôi sung sướng, rộn ràng gò lưng chép lại, nắn nó t từng chữ từng nét (mặc dù càng nắn nót càng xấu) rồi gửi tới một tờ báo thích nhất. Lúc này, tôi bắt đầu giao thiệp với vài người đồng sở thích văn nghệ như tôi. Họ kể cho tôi nghe rất nhiều điều xấu xa về Đinh Hùng. Như  một người tình quá thành thật đắm say mà bị phụ rẫy một cách tàn nhẫn phũ phàng. Tôi bắt đầu có ý nghĩ không tốt về ông. Hình ảnh đẹp về một thi sĩ Đinh Hùng như một con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư trong mùa thu buồn thiếu phụ đã không còn. Nó nhường chỗ cho vóc dáng một tên cai thầu văn nghệ, một trí thức lưu manh! Cũng từ đó, tôi rất bực dọc mỗi khi đọc thơ ông, vì tôi  nghĩ ông đã tự lừa dối ông, lừa dối mọi người, khi hạ bút viết những bài thơ bàng bạc ý nghĩ kiêu sa, khinh mạn cuộc đời. Những bài thơ chan chứa tình người phảng phất nét siêu hình đông phương thuần túy, hay u hoài chua xót như  những giọt lệ còn vướng đọng trên mi người trinh nữ vừa vuột mất thiên đường trong giấc mộng.
Tuy vậy, tôi chưa hề biết mặt ngang mũi dọc ông, cũng như chưa hề biết cuộc sống thực của ông ra sao. Những cảm nghĩ phức biệt, những hình ảnh trừu tượng cứ dềnh lên trong trí tôi mỗi khi nghĩ tới ông… Mỗi khi tiếng nói đầy giai điệu từ đài phát thanh vang vọng đến tận đáy tâm hồn tôi, giây phút đó, tôi nghĩ không lẽ một con người mang giọng nói đầy tình cảm, quyến rũ như thế lại có thể, xấu xa thủ đoạn vậy sao? Không lẽ với cả một “Mê Hồn Ca” lại không mang một chút sắc diện tâm hồn tác giả? Tôi băn khoăn tự hỏi phải chăng những người bạn văn nghệ của tôi đã quá chủ quan, thiên lệch, bất công, hay ghen tức với tài hoa của một thi sĩ khởi nghiệp thi ca từ tiền chiến và in đậm vóc dáng mình ở hậu chiến. Những mâu thuẫn đó càng ngày càng xui khiến, thôi thúc tôi tìm đến ông để nhận diện gương mặt linh hồn đích thực của ông, không son vẽ, không phấn hương giai thoại.
Tôi có quen biết vài người thường giao thiệp với ông, nhưng vì tự ái, vì mặc cảm mình chưa có “một cái gì” cho nên không bao giờ tôi thổ lộ điều ao ước đó với họ. Hơn nữa, giữa tôi và ông cũng như giữa tôi và những vị hữu danh khác, tôi vẫn cảm thấy có một sự cách biệt (mơ hồ thôi) nhưng rộng lớn, xa vời. Dù phục hay không phục, với tôi, họ cũng là một thứ ghê gớm lắm (điều này không có gì đáng lấy làm lạ, vì chính tôi dù không là cái gì mà đã có người bạn mới gặp lần đầu, thú nhận rằng: hồi chưa biết mặt, tôi cứ tưởng ông ghê gớm, thần thánh lắm, hóa ra… cũng như mọi người. Hay: tôi tưởng anh to lớn già dặn lắm, ai ngờ nhỏ bé thế này). Vì thế, từ ngày này qua ngày khác hình ảnh ông luôn luôn biến thái trong trí tưởng tôi, hoặc huy hoàng lộng lẫy, hoặc xấu xa, tệ hại hơn, tùy những giai thoại tôi được nghe về ông. Mãi cho đến khi tôi in xong tác phẩm đầu tay nhờ T.P đưa lại nhà ông để gửi biếu cuốn thơ, với ý muốn nhờ ông giới thiệu trên ban Tao Đàn. Lần đó không gặp. Cách một tuần sau, tôi không còn nhớ rõ ngày nào, nhưng khoảng đầu tháng Ba, tôi lại trở lại. Căn nhà ông ở là một trong ba căn lầu liền nhau, có lối thang đi riêng, nằm ngay tại  ngã ba TQKNVT. Sau khi gõ nhẹ cánh cửa khép kín, im lìm, tôi lắng tai nghe, không một tiếng động vọng ra. Tôi hơi thất vọng. Nhưng đúng lúc đó cậu con trai đầu của ông ra mở cửa. Chúng tôi bước vào. Cảm giác đầu tiên của tôi là cái cảm giác ngơ ngẩn, lạc lõng trước khung cảnh lạnh lẽo, tối tăm của căn phòng ẩm mốc. Bốn bức tường nâu đã ngả mầu đen xám. Tôi nghĩ ít nhất căn nhà này cũng có tới 10 năm chưa một lần được tu bổ. Đối diện với cửa chính, trên tường cao là một trang thờ khá to, màu đỏ xẩm, hình như đây là bàn thờ Phật, hai bên bàn thờ là những câu đối viết trên giấy điều. Ngay dưới chân tường một đống sách được gói ghém cẩn thận và phủ kín bởi miếng giấy dầu (sau này tôi được biết đó là mấy trăm cuốn thơ Đường Vào Tình Sử!). Ngay bên tay phải là một tủ kính nhỏ, với loại tủ kính này tôi nghĩ dùng để bày tách chén thì hợp lý hơn là để những cuốn sách đủ loại tây, tàu, ta, truyện, thơ, biên khảo ngổn ngang… Trên mặt tủ kính, gia chủ bày một bát hương, hai tấm ảnh, cụ bà, cụ ông, có lẽ là song thân của thi sĩ. Bát hương còn trơ vài chân hương lạnh. Đối diện với cái tủ kính này là căn buồng  nhỏ, giống như một nhà bếp, với một chiếc bàn gỗ, trên bày bừa bãi ít bát chén ly tách. Phía trái cửa chính để chiếc bàn tròn, kê sát góc nhà, một bên để một chiếc ghế, bên kia ba chiếc, loại salon gỗ trơn. Một chiếc màn gió ngăn với phòng bên cạnh. Nếu không nhìn kỹ ta có cảm tưởng tấm màn mầu vàng, kỳ thực nó thuộc loại vải sọc.
Sở dĩ tôi dài giòng như vậy, là để bạn có thể hình dung một cách rõ ràng “phòng văn” của một thi sĩ đã hơn một lần tiếng tăm lừng lẫy trên văn giới. Thú thực, tôi không thể ngờ căn nhà ông lại hoang vắng, tẻ nhạt, tiêu sơn đến thế. Cái nghèo đã quá rõ. Làm sao che đậy được khi các đồ vật đều mang dấu vết tàn phai của thời gian, của bụi bám thảm đạm.
Cảnh trí này đã nói lên được một phần nào bản sắc tâm hồn ông, coi thường đời sống vật chất, không điểm trang chưng diện, không có ý dấu diếm. Cái vô trật tự không làm dáng, không giả tạo ngụy trang, thật thơ, thật đáng mến. Một thứ tình cảm dịu nhẹ, hơi buồn nhưng không hẳn là buồn, hơi bùi ngùi nhưng không hẳn là xót xa trải đầy tâm hồn tôi. Tôi không muốn nhìn lâu hơn những đồ vật trong căn phòng này.
Một  lát, Đinh Hùng từ phòng bên đi ra, với dáng dấp vội vàng, hấp tấp, chiếc quần ngủ mầu nâu nhầu nát, chiếc áo sơ mi dài tay trắng tinh, nút vàng chưa kịp cài. Cánh tóc xỏa hai bên tai hệt như hai chiếc cánh của một con gà sau cơn xáp chiến, thả rũ xuống xác xơ mệt mỏi; ông đưa cả hai tay vuốt lên mớ tóc rồi bắt tay chúng tôi với nụ cười cởi mở, duyên dáng nở trọn trên môi. Sau khi nghe T.P giới thiệu, ông nhìn tôi và nói:
- À, à, hay quá, hôm nay mới được gặp đây. Ông đưa tay ra dấu mời chúng tôi ngồi rồi vồn vã hỏi thăm về đời sống của T.P và tôi. Ông nói giọng nhanh, âm thanh reo vui ròn rã. Ông kể lại vài bài thơ của tôi mà ông đã cho ngâm trong ban Tao Đàn. Khi người con đem bình nước ra, ông trở vào phòng bên tìm cuốn Đường Vào Tình Sử tặng cho T.P. Cuốn sách được đề tặng cho T.P từ năm 1961 nhưng chưa có dịp gửi. Ông nói sẽ soạn một số sách tặng tôi sau.
Sau cử chỉ, lời nói, nét mặt ông bộc lộ rõ cái chí tình, không kiểu cách, không đỏm dáng, làm tôi quên bẵng bao nhiêu thành kiến không đẹp về ông.
Tôi có cảm tưởng như gần gũi và quen biết ông thuở nào rồi. Cái ý tưởng cần phải đề phòng, thận trọng không còn nữa. Điều ức đoán của tôi về ông hoàn toàn sai lạc. Tôi cảm động và lúng túng không biết nên nói gì! Từ đó tất cả những câu chuyện dĩ vãng được nhắc nhở lại. Nào là chuyện cách đây 10 năm T.P đến nhậu nhẹt tại nhà ông, say quá phải ngủ lại, tới chuyện in tập thơ Đường Vào Tình Sử, tới thời gian ông làm báo. Xen lẫn là những câu thăm hỏi về đời sống riêng của tôi cũng như những câu tôi hỏi có tính cách tra vấn về một số điều tiếng mà ông đang phải gánh chịu. Chính trong cuộc nói chuyện này, tôi được biết thêm nhiều sự thực đau lòng, nhiều sự thực mà người ta không bao giờ tưởng tới, thế mà nó có, nó là một sự thực hiển nhiên, những nhân vật tạo nên nó vẫn còn hiện diện đầy đủ tại đây (tôi sẽ lần lượt trình bày những sự kiện này ở các trang sau). Ông cũng cho tôi biết hồi ông làm báo NVTD, ông có làm một chương trình đặc biệt dành riêng để giới thiệu thơ của Bùi Giáng, tôi và một người nữa, đại khái là những người có tiếng thơ mang ít nhiều sắc thái cá biệt khó chìm lẫn. Chương trình này đã được thâu nhưng xảy ra cuộc chỉnh lý hình như của Tướng K, lật tướng M. nên đài Phát Thanh không cho phát ra. Buổi chiều qua lúc nào chúng tôi không hay, đèn đường khu Tân Định đã bật sáng. Hai tiếng rưỡi đàm thoại trôi quá mau. Chúng tôi từ biệt ông, sau cái xiết tay thân mật lời dặn dò ân cần nhớ lại chơi.
Hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được về ông trong buổi gặp đầu tiên này là hình ảnh của một thi sĩ tên tuổi, với hai thứ tóc trên đầu và một thân xác héo khô, nhỏ bé, mất hút trong chiếc cầu thang hẹp xoáy trôn ốc. Dọc đường về, T.P có nói thêm với tôi về cái nhiệt tình của Đinh Hùng. Nhưng tôi biết trong chúng tôi mỗi người đều ẩn chứa một cảm nghĩ riêng tư. Ở tôi là cái định mệnh khắt khe, cay nghiệt, là làm thân tằm nhả tơ trong một nước có gần năm ngàn năm văn hiến nhưng nghèo nàn chậm tiến; chỉ dư thừa chiến tranh điêu tàn, khốn khổ; chỉ thừa máu xương nước mắt. Biết đến bao giờ? Chừng nào? Bóng tối xã hội mới thôi bủa vây những con người tự nguyện hiến dâng đời mình cho văn chương nghệ thuật, để ít nhất trong những tháng, năm chót của cuộc đời, họ còn được thấy ánh sáng vinh quang và cũng là ân huệ mưa móc của quần chúng đương thời!!!.
TIỂU SỬ ĐINH HÙNG
Sinh ngày 3-7-1920 tại làng Trung Phụng ngay ngoại ô thành Hà Nội. Ngôi làng này nằm ngay sau lưng khu phố Khâm Thiên. Những ai đã từng ở Hà Nội, đều phải công nhận Khâm Thiên là khu ăn chơi nổi tiếng nhất. Đây là nơi tập trung các nàng ca kỹ tài sắc bốn phương.
Gia đình ông thuộc giòng trưởng giả. Thân phụ ông sinh được sáu người con, hai trai bốn gái. Ông là con út. Theo tập tục, cũng như theo tâm lý học, người ta thấy hầu hết những đứa con út trong gia đình thường được nuông chìu (quan niệm giàu con út, khó con út) và sớm phát triển các tình cảm, trí thông minh, trực giác nhậy cảm hơn các anh chị. Vì ngoài sự được chăm chút, nâng niu của cha mẹ, nó còn được tiếp nhận những tình cảm, những kinh nghiệm trên nhiều bình diện phức tạp từ nơi anh chị.
Đinh Hùng cũng rơi vào định lệ đó. Hơn nữa, ông còn được thừa hưởng giòng máu hào hoa, nghệ sĩ của thân phụ. Thuở đó, thân phụ ông là một trong những khuôn mặt thân quen, một khách chơi thường trực của Khâm Thiên. Không chỉ thế, thân phụ ông còn đem cả cô đầu về nhà, tổ thức thù tạc với bạn hữu thâm đêm, suốt sáng. Do đó tuổi thơ của ông được nuôi dưỡng trong bầu không khí ẩm ướt tiếng ca, câu hò, tiếng sênh, tiếng phách. Trí óc non nớt của ông đã sớm in hằn thanh sắc của những nàng Kiều xóm Khâm Thiên cùng cốt cách phong lưu tài tử của những tay tổ ăn chơi. Cái cảnh trí mộng ảo quyến rũ mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương (cũng là anh rể ông) đã ghi lại trong bài “Nghe Hát”
“Phách ngọt, đàn say nệm khói êm
tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm
canh khuya đưa khách lời reo ngọc
mơ gác tầm dương thoảng áo xiêm
dù lạ nghìn thu xa tám cõi
sen vàng như động phía chân tiên
nao nao khói biếc hài thương nữ
trở gối hoa lê rụng trắng thềm
Sống trong khung cảnh đó, bản chất nghệ sĩ, nòi tình đã được phát triển rất sớm.
Năm lên 6, 7 ông đã chúng tỏ có năng khiếu về hội họa. Một người anh rể của ông là Đ/U, nhiếp ảnh gia Vũ An Đạm cho biết: khoảng thời gian này ông đã say mê hội họa.
Năm 13, 14 tuổi ông đã nghiện thuốc lào (một thứ kích thích cảm giác gấp trăm ngàn lần thuốc lá, cái say của thuốc lào nó cũng ngất ngây mê mẩn gần như thuốc phiện). Cũng tuổi này, ông mê một cô đào hát trẻ mới vào nghề thường được thân phụ ông mời về nhà. Ta có thể coi đó là hành vi hết sức táo bạo, liều lĩnh giữa một khung cảnh xã hội còn chịu ảnh hưởng sâu đậm đạo lý Khổng Mạnh, giữa xã hội mà người ta sống trong sự đề phòng miệng tiếng búa rìu. Người ta hầu như sống không phải cho mình mà sống cho cái khuôn mẫu ước lệ xã hội.
Ngay khi bước chân vào trường Bưởi, ông đã cùng một vài người nữa, làm những tờ bích báo. Hoạt động văn nghệ này đã gây  nên một tiếng vang trong trường, khiến ông phải bỏ học sau này.
Năm đệ tứ, ông bắt đầu làm thơ nhưng còn dấu diếm không dám cho ai biết, vì hồi đó, ông đã cảm thấy: thơ là một địa hạt của chữ nghĩa, kiến thức, kinh nghiệm. Bây giờ ông vẫn còn giữ nguyên quan niệm đó và phủ nhận tất cả những trường hợp người ta gọi là thần đồng thi ca. Như cách đây khá lâu, ở Pháp, người ta đã có một thời xôn xao, bàn tán khi báo chí loan tin thần đồng thơ, cô bé Drouet 11 tuổi với những bài thơ nhỏ thật sâu sắc, trong sáng 1.
Tới năm dọn thi tú tài phần nhất, ông mới bắt đầu để mọi người biết tư cách thi sĩ của mình. Sau khi đỗ tú tài phần nhất, một lần nữa, ông bị ban giám đốc nhà trường cảnh cáo, ý bảo nếu còn muốn theo học thì hãy thôi làm văn nghệ đi. Ngoài ra, ông còn bị nhiếc móc về mái tóc bù rối rất nghệ sĩ nữa. Bị chạm tự ái, ông làm đơn xin thôi học.
Nhờ gia đình khá giả, ông tiếp tục sự học bằng cách tới thư viện. Nhưng cũng từ đó trở về sau, không bao giờ ông thi thêm một khóa nào nữa.
Khi rời bỏ học đường, ông chính thức hoạt động văn nghệ và bắt liên lạc với những văn nghệ sĩ đương thời. Tác phẩm đầu tiên của ông được đăng trong giai phẩm “Mùa gặt mới” của ông Lê Văn Văn, giám đốc nhà xuất bản Tân Việt ấn hành năm 1940. Tùy bút này sau được chọn đăng trong cuốn Việt Nam Văn Học Bình Giảng của Phạm Văn Diêu (chúng tôi có trích dẫn trong phần sau)
Song song với “Mùa Gặt Mới”, phê bình gia Vũ Ngọc Phan cho ra tuần báo Hà Nội Tân Văn. Qua trung gian Nguyễn Đức Chính 2. (bạn học của Đinh Hùng) ông đưa cả một tập thơ cho Vũ Ngọc Phan coi trước, và ông Phan đồng ý nhận đăng dần dần những bài thơ trong tập này.
Vài số sau ông Phan giao hẳn trang thơ cho Đinh Hùng phụ trách. Thủa đó người làm thơ không bao nhiêu nên chẳng có ai gửi thơ tới cả. Chỉ có thi sĩ Vũ Hoàng Chương lúc đó đang in cuốn thơ “Say”, đưa tập bản vỗ cho ông đăng dần với lời giới thiệu của Mạnh Phú Tư. Sau hai tháng cộng tác với HNTV, được 8 số. Ông không làm với HNTV nữa.
Cũng từ đó không còn chỗ đăng thơ, nhưng bù lại ông được quen biết với nhà văn Thạch Lam.
Nguyên hồi đó Thạch Lam cho xuất bản cuốn “Hà Nội 36 phố phường”, ông viết thư cho Thạch Lam đại khái nói là một trong những người hâm mộ từ lâu, nay viết thư xin góp ý kiến về bài “Thịt Chó”. Vì nhà Thạch Lam ở sâu trong xóm làng Trung Phụng, mỗi khi xuống phố đều phải đi qua nhà Đinh Hùng. Một hôm Thạch Lam ghé vào nhà ông, ông sửng sốt, kinh ngạc… những tưởng thư viết gửi Thạch Lam cũng chỉ như trăm ngàn trường hợp khác. Ông nói: “Đây là một khích lệ lớn lao đối với  tôi.”
Nhờ Thạch Lam giới thiệu, ông quen hết các nhà văn trong nhóm T.L.V.Đ như Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ…
Và một số người khác nữa như Huyền Kiêu, Nguyễn Tuân… Riêng Thạch Lam, Huyền Kiêu và ông sau này kết nghĩa anh em… ngoài ra ông kết bạn với thi sĩ Trần Dần 3. và cùng Trần Dần lập một nhóm lấy tên là nhóm Thơ Tượng Trưng.
Năm 1945, khi chiến tranh Việt Pháp lan tràn tới Hà Nội, theo lớp sóng tản cư, ông chạy vào Hà Đông rồi Vân Đình. Thời gian này ông bị V.M trưng dụng bắt làm việc cho Sở Thông Tin khu 2 (Liên khu 2).
Ở đây, họ triệt để khai thác ông bằng cách đưa ông vẽ ảnh của những người đang cộng tác với Pháp tại miền Nam như B.S Nguyễn Văn Thinh, Lê Khắc Hoạch để vẽ truyền thần, rồi cho in vào truyền đơn, kèm theo ít câu vè sỉ nhục…
Một trường hợp đau xót hơn cả là họ bắt ông vẽ lại chân dung nhà văn, lãnh tụ cách mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Họ cho in vào truyền đơn đem phân phát phổ biến tất cả các khu, các vùng, với những lời chửi rủa hèn hạ.
Làm việc cho thông tin khu 2 được chừng 3 năm, khi V.M ngày càng xiết chặt dần, ép nghệ sĩ vào con dường phục vụ giai đoạn, phục vụ chính trị, ông cảm thấy không thể kham nổi nữa, bèn cùng thi sĩ Vũ Hoàng Chương bỏ trốn về Thái Bình. Ở Thái Bình cùng thi sĩ Vũ Hoàng Chương, ông mở một ngôi trường nhỏ trong một làng tương đối còn yên ổn. Nhờ dân làng phần nhiều đều trọng chữ nghĩa nên ông sống êm thấm được chừng 1 năm. Tới đầu năm 1950, quân viễn chinh Pháp cùng quân đội Bảo Hoàng mở cuộc hành quân tảo thanh vùng này. Một số dân chúng không chạy kịp liền bị lùa về vùng do quân Pháp kiểm soát. Trong số những người này có cả thi sĩ Vũ Hoàng Chương và ông. Sau đó ông cùng họ Vũ tìm đường trở về Hà Nội.
Với năm năm trường lưu lạc gian truân, Đinh Hùng đã sáng tác được hai tác phẩm thơ: Tiếng Ca Bộ Lạc và văn: Tiếng Ca Đầu Súng (loại bút ký).
Ở Hà Nội, ông lại tiếp tục hoạt động văn nghệ cùng một số anh em có mặt tại thành như Ngọc Giao với giai phẩm Lửa Cựu, Hoa Sen, Kinh Đô Văn Nghệ (do chính ông chủ trương) rồi cùng Kỳ Văn Nguyên, Thanh Nam trông nom tờ tuần báo Hồ Gươm.
Năm 1951, ông lập gia đình, Bút hiệu Thần Đăng, Hoài Điệp Thứ Lang cũng bắt đầu xuất hiện.
Năm 1954, thi sĩ Hồ Dzếnh, giám đốc nhà xuất bản “Tiếng Phương Đông” sau đổi lại là Bình Minh cho in thi phẩm Mê Hồn Ca của Đinh Hùng. Nhưng bất hạnh cho ông cũng như cho Hồ Dzếnh là hiệp định GENÈVE thình lình được ký kết giữa Việt Minh và thực dân Pháp. Đinh Hùng đành phải lên máy bay với 200 cuốn thơ đầu tay cùng vài bộ quần áo cũ.
Rất may cho Đinh Hùng ở Sàigòn ngay lúc đầu, đã được một số anh em mời cộng tác với tờ Tự Do cùng Như Phong, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan… sau đó ông tiếp tục cộng tác với các báo khác như: Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong, Người Việt Tự Do, Tiểu Thuyết Tuần San v.v… Ngoài ra ông còn dạy học, viết truyện, làm đài phát thanh, đóng kịch…. Tóm lại là ông làm rất nhiều nghề. Năm 1961, ông được trao Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc với thi phẩm Đường Vào Tình Sử.
Ông không bao giờ đặt thành vấn đề Cũ, Mới. Ông quan niệm tất cả chỉ là hình thức diễn tả ý tình, điều quan trọng là có nói lên được điều mình muốn nói hay không và người đọc có hiểu, hay cảm được không? Kỹ thuật cũng không mấy quan trọng (?) - Cần nhất người làm thơ thể hiện được bản sắc thi sĩ mà ông thường dùng câu “gương mặt linh hồn” không trộn lẫn, vay mượn và một điều nữa phải luôn luôn tìm đường hướng mới cho thi ca (thế giới thi ca là thế giới mênh mông vô cùng tận).
Nói về tình trạng thi ca bây giờ, ông cho rằng nhờ phương tiện ấn loát cũng như phổ biến dễ dàng hơn trước rất nhiều, nên thi ca đã bành trướng mạnh, nhanh nhưng chỉ lan tràn về chiều rộng, về lượng mà thôi, phẩm, trái lại rất ít.
Nói riêng về thơ xuất bản trong năm 1964 những thi phẩm gửi tới bắt thi ca phải phục vụ giai đoạn. Cái mình khác và hơn Cộng Sản là ở chỗ mình còn tình, còn mộng, mình không thể sống như con vật theo lối CS được, mình còn cái giá trị làm người, còn giữ được thiên chức cao quý đó. Dù có cưỡng bức nghệ sĩ phải sáng tác theo một đường lối nào đó như Việt Cộng đã áp dụng ở ngoài Bắc, thì rồi cũng có lúc bản năng tự do vùng dậy, (trường hợp Nhân Văn Giai Phẩm là một điển hình).
Ông kết nghĩa với nàng tiên nâu rất sớm, nhưng vẫn giữ được vẻ hào hoa tao nhã của một văn nhân. Có nhiều người tỏ ý khắt khe với Đinh Hùng trên khía cạnh này. Tôi nghĩ với một người như Đinh Hùng nếu không có chất kích thích trên, chắc đâu chúng ta đã có một Mê Hồn Ca. Nói thế không có nghĩa là tôi ca ngợi hay đề cao sự kiện trên. Tôi chỉ muốn nói nếu chúng ta đã chấp nhận một Đinh Hùng thi sĩ thì chúng ta không nên hẹp hòi mà từ chối, lên án một Đinh Hùng “đi mây về gió”.
Cũng như phần đông những nghệ sĩ khác, ông chuyên môn làm việc về khuya, kể cả đọc sách. Ông làm việc khi không còn trông thấy mặt người trong nhà.
TÁC PHẨM
Ngoài Mê Hồn Ca (1954)
Đường Vào Tình Sử (1961)
Đinh Hùng còn một tác phẩm loại dã sử võ hiệp, KỲ NỮ GÒ ÔN KHÂU, do nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng ấn hành, dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang. Tác phẩm chưa xuất bản có:
Tiếng ca Bộ lạc (Thơ)
Tiếng ca đầu súng (Ký sự)
8 truyện dài loại dã sử tiểu thuyết.
Dưới đây chúng tôi xin lục dẫn tùy bút Cảm Thu đăng trong giai phẩm Mùa Gặt Mới xuất bản tại Hà Nội năm 1940 đồng thời đây cũng là sáng tác đầu tiên của thi sĩ được đăng trên báo. 
Cảm Thu,
Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ…
Nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng Cung nữ thời xưa, và trong vườn nhà ai thấp thoáng, hoa phù dung nở trắng như một linh hồn còn trẻ?
Nắng ở đây vẫn là nắng vàng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Tôi vẫn ngờ như không sự thay đổi, vì lại thấy mình đi trên con đường này, thu năm nay, giữa  lúc cây vàng rơi lá. Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về để gặp mùa thu thương nhớ cũ, và nay cũng thấy thu về để nước hồ xanh. Chân ai đi xa vắng đằng kia, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh? Và gió nào vương vấn hồn tôi, hay cũng chỉ là  dư thanh của một ngày xưa cũ? Chao ôi! Buồn lại nhiều rồi, nhưng chỉ buồn như năm trước. Lòng tôi chẳng biết tìm ai mà nhớ, hôm nay nhớ lại buồn qua mới thấy nắng kia nhiều dĩ vãng.
Tôi nhớ một người lữ khách nào xưa, ra đi từ một mùa thu… Thế rồi cũng một mùa thu trở lại những bước đầu tiên trên con đường bạn, mắt buồn như nước, mảng tìm hồn mình hiu hắt trong hồn thu mới…
Thu đã về đây, tôi làm lữ khách đi hết sông này, sông khác, cả núi, cả đèo và lại cả rừng cả suối, bây giờ tôi cũng về đây để buồn thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều.
… Từ hôm rời chân ở bến sông vàng.
Từ biệt con thuyền phiêu bạt, tôi đã hết nhớ dãy núi xanh phơn phớt đằng xa và bâng khuâng trở lại con đường quê thân mật.
Đi trên đất đó, giữa hai ruộng ngô thơm nghe ngào ngạt… Hương này có phải hương xưa? Ôi! Những dây đậu vẫn còn non mà luống khoai lang đã xanh tươi rồi nhỉ? Đi trên đất đỏ, bên những luống rau cải cúc và dẫm lên cỏ may vàng. Đây là những con bướm cũ, những cánh hoa xưa. Và này đây tất cả Ngày xưa: từng cơn gió nhỏ, từng sợi dây buồn…
Thôi! Thôi! Tôi không còn trẻ thơ nữa để say sưa đuổi bắt bướm đồng, và chẳng ngắm gió sầu mây, chỉ hoa lòng nở cũng nhiều bông trắng!
Thương nhớ vì sao! Tôi sớm giã từ hồn niên thiếu, hôm nay đi giữa cánh đồng lại thấy tuổi nhỏ của mình tản mạn trên từng cánh bướm, sắc hoa, và chân bước đi những bước ngậm ngùi, bởi chưng lòng tưởng con đường tan tác cánh hương của đóa xuân hồng thuở cũ.
ĐINH HÙNG
(Trích trong VNVHGB của Phạm Văn Diêu)
Như “từng cơn gió nhỏ, từng sợi dây buồn”, qua đoạn văn này, Đinh Hùng cho ta cái cảm tưởng bắt gặp hồn mình, một tâm hồn thơ trẻ, đang bay bổng cùng hồn thu hiu hắt, cùng cánh bướm đồng nội, cùng hoa nắng dĩ vãng… Để thấy: “… buồn thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều”. Nhưng sự thực linh hồn chúng ta, nhất là một thứ “linh hồn còn trẻ” làm gì có hình thù, có màu sắc cho ta cầm bắt hay nhìn ngắm được chân dung. Chính ở điểm đó Đinh Hùng đã thành công khi ông cho ta cảm tưởng giáp mặt với  linh hồn thơ trẻ mà thời gian đã tàn nhẫn cướp mất, chỉ để lại cho chúng ta  những ngậm ngùi, những dư âm thảng thốt, những mùi hương đã tàn bay theo từng cánh bướm, từng sắc hoa bông phù dung một sáng nào nở trắng…
MÊ HỒN CA (1940-1954)
Sự nghiệp thi ca của Đinh Hùng, cũng như mọi người, nghĩa là cũng bắt đầu với vài bài thơ nho nhỏ, ý vay mượn, ảnh hình khuôn sáo. Mãi cho đến khi ông gặp thi sĩ đàn anh Thế Lữ, dần dà ông tự tìm được cho mình một bản sắc, một lối thoát cho tiếng thơ.
Ta có thể coi Thế Lữ là người khuyến khích và nâng Đinh Hùng rất nhiều trong bước khởi đầu. Chính ông cũng nói: “Hồi đó mỗi khi làm xong một bài thơ tôi thường tìm TL đọc cho ông ta nghe. Nhưng lần nào cũng vậy, nghe xong TL lắc đầu bảo: Chưa được, chưa được, cậu cần phải chịu khó, tìm kiếm hơn nữa. Tôi buồn quá, tự ái nổi dậy, tôi nghĩ thế nào cũng phải làm cho được một bài thật hay, không lẽ cứ để hắn (TL) chê hoài!” Sau một thời gian, khi yêu thầm một nàng cô đầu ở Khâm Tiên, ông có làm một bài thơ lấy tên là “Kỳ Nữ”, đem cho Thế Lữ coi, xem xong, lần này Thế Lữ im lặng một lát gật đầu nói: "Được lắm! Cậu nên làm theo loại này”.
Mê Hồn Ca từ đó bắt đầu hình thành.
TỪ ĐƯỜNG VÀO TÌNH SỬ TỚI GIẢI THƯỞNG VĂN CHƯƠNG 1961
Nếu tính từ năm ĐH in “Mê Hồn Ca” 1954 cho tới “Đường Vào Tình Sử” 1961 thì hai thi phẩm đã cách nhau gần 7 năm trời, “Đường Vào Tình Sử” gồm 60 bài thơ “Truyện Lòng” và “Tiếc Bướm”, in tại nhà in Kim Lai, mang tên nhà XB Nam Chi Tùng Thư, gồm 2000 quyển trên giấy tốt. Với tác phẩm này, ông được lãnh giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc. Nhưng nói tới ĐH người ta thường nhắc tới MHC nhiều hơn, vì MHC mới xứng đáng và tiêu biểu cho những gì là ĐH tức gương mặt đích thực tâm hồn ông.
Tác phẩm “Đường Vào Tình Sử” được in sau MHC tới 7 năm trời nhưng sự thực lại gồm cả những bài đã được làm trước. Nhận xét đầu tiên của tôi khi đọc xong tập ĐVTS là với tập này, Đinh Hùng không đều tay, không tạo cho mình một cõi riêng, một vùng bao la mang tên Đinh Hùng, tập thơ này mang nhiều tánh cách đánh dấu giai đoạn, ghi khắc kỷ niệm chứ không khoác một giòng tư tưởng. Tuy thế với ĐVTS người đọc cũng bắt gặp cái nguồn mang mang, bàng bạc ảo huyền của tinh thần Đông Phương thuần túy, tìm về nguồn, tìm về cõi mộng, về với vũ trụ miên trường, vì kiếp sống phù du, cuộc đời vẩn đục, chỉ có linh hồn, chỉ có tình người, chỉ có những giá trị mãnh liệt của tinh thần mới đáng cho chúng ta tôn thờ đeo đuổi. Giữa một xã hội như xã hội VN ta, những giá trị tinh thần, càng mất giá, vật chất càng là cái đích cho con người suy tôn, lao ném cả cuộc đời, cả thân khiếp mình vào cuộc giành giựt, chém giết thô bỉ đó, Đinh Hùng vẫn cố giữ phong thái “thi sĩ” của mình, ông còn tin tưởng và muốn tìm về nguồn suối ngọt ngào của tâm hồn, của tình người, mang mang nỗi sầu xưa của đất nước, của dĩ vãng quê hương, vẫn nuối tiếc cái mà ta có thể gọi là “thiên đường đã mất”. Giữa những tiếng thơ mặc khoác nhiều hình ảnh, nhiều tư tưởng phá phách, nhiều nôn mửa, vay mượn, tối tăm, tuyệt vọng trong cái thế giới hiện sinh, vay giựt giả tạo của đa số những vị làm thơ hôm nay, ta trở về tìm gặp ĐH trong cái không khí ảo huyền mê mộng, trong cái lớn thật thâm trầm, thật dịu nhẹ của một số thi bản rải rác suốt 110 trang thơ khổ lớn.
Và dưới đây là những bài thơ trong Đường Vào Tình Sử, những bài nói lên phần nào cái bản chất “Nòi tình, kiếp mộng” của thi sĩ, đồng thời là những bài được nhiều người ưa thích.
TÌNH TỰ DƯỚI HOA 4.
Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng
có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
mắt xanh lả bóng dừa hoang dại
thăm thẳm nhìn tôi không nói năng
Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay
ôi mộng nào hơn giấc mộng này
mùi phấn em thơm mùa hạ cũ
nửa như hoài vọng nửa như say
Em đến như mây chẳng đợi kỳ
hương ngàn gió núi động hàng mi
tâm tư khép mở đôi tà áo
hò hẹn lâu rồi - Em nói đi
Em muốn đôi ta mộng chốn nào
ước nguyền đã có gác trăng sao
truyện tâm tình dưới hoa thiên lý
còn lối bâng khuâng ngõ trúc đào
Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ
nắng trong hoa với gió bên hồ
dành riêng em đấy khi tình tự
ta sẽ đi về những cảnh xưa
Rồi buổi ưu sầu em với tôi
nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời
vai kề một mái thơ phong nguyệt
hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười
DẠ HỘI
Đèn quanh thủy tạ, hội đêm hè
Em đến phương nào? Đây ngựa xe
Đây nước hoa chìm giăng ẩn hiện
Thơ phòng khánh tiết nhạc Schubert
Mời các cô em trang điểm vào
má hồng gợn chút  mới thanh tao
thuyền thơ anh đợi nghiêng tình tứ
nghìn chiếc hôn bay thoảng phấn Đào
Khiêu vũ đêm nay,  Mộng trá hình
Trong vườn quên lãng áo ai xanh?
lòng ai hóa bướm phù tang nhỉ
ta chọn nhầm hoa lẫn ái tình
Tha thiết trời tây gái đẹp về
phương này ta hẹn với Tây Thi
thẹn đâu trinh bạch bàn tay phấn
tuyết nguyệt dài chăng, phải đợi kỳ
Tuổi hạ giăng tròn em vẫn si
lẳng lơ, ai nép mặt hoa quỳ
Phượng liên nàng ấy điên vì mộng
lạc gió thần tiên kịch Shakespeare… 
CẶP MẮT NGÀY XƯA
(Gửi hương hồn Thạch Lam)
Ai biết lòng anh thương nhớ đâu
gần nhau không nói nói không sầu
cầm tay hỏi mộng buồn như tủi
thầm hiểu anh thôi, lặng cúi đầu
Tôi cảm thương vì hai chúng ta
tuổi đang xuân mà bóng sang già
đêm nào tôi mộng buồn riêng gối
anh đã nằm yên dưới mộ hoa
Anh lánh mùa xuân nép cửa sầu
đêm nằm ghê gió lạnh canh thâu.
gặp nhau nắm chặt tay lần cuối
anh khép hàng mi,chẳng nguyện cầu
Tôi đến tìm anh, vuốt mắt hiền
đêm sầu chìm đáy mắt vô biên
vọng thanh nghe rợn hồ cô tịch
tôi hiểu lòng anh chưa toại nguyền
Tôi lạc hồn Xuân giữa Cố Đô
hỏi giăng, giăng mọc nước Tây Hồ
hỏi hoa, hoa vẫn thôn đào liễu
lòng hỏi riêng lòng: Đâu bạn xưa
Trăng nước vô tình, gió đẩy đưa
đời tôi muôn vạn ngả tình cờ
chiêm bao phảng phất tôi thường gặp
cặp mắt anh nhìn như trẻ thơ 
XIN HÃY YÊU TÔI
Xin hãy yêu tôi, những lòng thiếu nữ!
tôi chép thơ ca tụng miệng hoa cười
ôi những nàng như liễu mắt xa xôi!
Yêu tôi nhé, tôi vẫn người mê đắm!
xin hãy yêu tôi những lòng hoa thắm
xuân đã hồng, thu biếc tôi làm thơ
cửa phòng tôi, giăng lưới nhện mong chờ
buồn phơ phất mới trông chiều ngóng gió...
Em có má hồng dạo lòng qua đó
bởi vô hình không biết đấy mà thôi
trời của tôi mà Thu cũng của tôi
để em tới em làm người khách lạ
miệng kia xinh sao tình lơ đãng quá
tôi không yêu sao có má em hồng?
tôi không buồn sao có mắt em trong?
tôi không mộng sao có lòng em đẹp?
nay đến trước in yêu hồn khép nép
tự trời xanh rơi xuống để gần em
một thờ hoa đính ước gởi thơ kèm
si tình thế mà sao hiu quạnh mãi
yêu tôi với! Tôi làm thơ ân ái
để yêu người và cũng để người yêu
để các em qua từng bước diễm kiều
trong cảnh nước non tình tôi xếp đặt...
Các em dịu dàng sao tàn nhẫn thế
mà lòng tôi hoài vọng cứ đa tình
Hãy yêu tôi vì tôi biết em xinh
Tôi biết khóc để cho Tình cảm động
hãy yêu tôi vì tôi làm nên Mộng
hãy yêu tôi vì tôi dệt nền trời
em đi trong trời mộng đó em ơi
theo áo nhẹ bay cao hồn vũ trụ
xin hãy yêu tôi, những lòng thiếu nữ
một hôm nay Tình ghé bến thu Hồng
tôi khổ rồi em có yêu không?
TIẾC BƯỚM HAY LINH HỒN HOÀI ĐIỆP
Độ em còn trèo cây khế
vịn hái quả xanh bên tường
có phải chúng mình còn bé
cho nên đời rất thơm hương
Vắng vàng năm xưa đã tắt
cô bé ngày xưa đã lớn rồi
hoa hồng vừa nở hé trên môi
và một trời thu trong mắt
Ngày xưa bướm trắng mây vàng
ta sống trong vườn tiên giới
bây giờ lạc xuống trần gian
tôi đi tìm bồng lai mới
Em là tiên nữ diễm kiều
vịn hái hoa trong vườn quý
dò theo những bước thương yêu
còn tôi đi làm thi sĩ
Ngày mai giấc mộng tan vàng
em cứ giữ lòng xuân đẹp
nếu hoa ngày cũ phai hương
đã có linh hồn Hoài Diệp
TAO ĐÀN NHỮNG GIAI THOẠI QUANH NÓ
Nói đến những hoạt động của thi sĩ Đinh Hùng mà không nói tới ban Tao Đàn, theo tôi đó là một điều thiếu sót lớn. Những hoạt động văn nghệ của ông tại miền Nam, nhất là mấy năm gần đây ngoài việc viết báo, dạy học, đóng kịch… Phạm vi hoạt động hầu như thu hẹp lại và cũng chỉ có việc chủ trương ban Tao Đàn là đáng kể mà thôi.
Thứ nhất: nó là một hoạt động thuần túy văn nghệ.
Thứ hai: nó liên tục gần mười năm nay.
Thứ ba: từ đây người ta thấy có khá nhiều điều tiếng xì xầm.
Cho nên những lần tiếp xúc với ông, cũng như với bạn bè, tôi thâu tóm lại ở đây những nhận định chủ quan, dị biệt, cố ghi lại sự thực về thái độ người chủ trương cũng như về bản chất của nó, để độc giả có một ý niệm tương đối chính xác về một món ăn tinh thần mà quí vị ít nhiều đã tiếp nhận.
Từ lâu, thính giả đài Sài Gòn mặc nhiên công nhận sự có mặt của ban Tao Đàn, tiếng nói tổng hợp của nhiều khuynh hướng thi ca.
Có thể nói, quần chúng thuộc mọi giai cấp, mọi thành phần đều đón nghe chương trình này với tất cả tâm hồn say sưa thích thú.
Người ta khó có thể dửng dưng với giọng ngâm thiết tha, ray rứt, nức nở, đau xót hay nghẹn ngào như ru ngủ lòng người nghe của nam nữ nghệ sĩ tham diễn. Với tiếng tiêu huyền hoặc kỳ diệu của Tô Lang và sau này Nguyễn Đình Nghĩa, tất cả đã giao hòa quyện thành một cơn lốc tình cảm, hay một triều sóng bi hùng xoáy buốt vào tâm hồn khách mộ điệu. Nó bốc cao, bay trải vào từng thớ thịt, thức dậy nơi người nghe ít nhiều bùi ngùi hoài cảm, cái cảm giác đắm chìm trong một không gian thanh thoát bay bổng, chới với.
Sự thoải mái tinh thần này đã giúp ta quên lãng trong chốc lát những đau nhục, những khốn khó của kiếp người, những âu lo phiền tủi vì miếng cơm manh áo… Ban Tao Đàn được thành lập từ năm 1955, do Đinh Hùng đứng tên, cùng sự góp sức của Thanh Nam, Thái Thủy, Tô Kiều Ngân. Buổi phát thanh ra mắt nhằm ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, có mặt của các giọng ngâm. Nam: Tô Kiều Ngân, Hoàng Thư; Nữ: Giáng Hương, Mộng Hoàn, Bích Hiền. Phần nhạc phụ họa có các nhạc sĩ Ngọc Bích, Phạm Đình Chương, Vĩnh Phan. Riêng Vĩnh Phan xử dụng đàn thập lục, đệm cho phần cổ thi, tiếng sáo Tô Lang.
Một hai năm sau, Tao Đàn đã giới thiệu với thính giả hâm mộ một số giọng ngâm mới như HỒ Điệp, Bích Liễu, Lệ Liễu; sau nữa có Quách Đàm, Thái Hằng. Qua một thời gian thử thách, những giọng ngâm không bản sắc, đã bị đào thải như … ngược lại cũng có hai khuôn dáng nổi bật đó là Hồ Điệp và Quách Đàm.
Gần đây, người ta lại thấy xuất hiện trên ban này vài giọng ngâm trẻ, nhưng cũng đã dựng tạo được một vóc dáng khó chìm lẫn, khả dĩ có thể thay thế các bậc cao niên trong tương lai. Tôi muốn nhắc tới Hoàng Oanh, Quang Minh.
°
Trở lại, khi ban thi ca vô tuyến này đang được trớn vươn mạnh trên đường phục vụ quần chúng, thì một vài đổ vỡ đáng tiếc xảy ra.
Số là nhà văn Tô Kiều Ngân, trung úy, không hiểu vì lý do nào, lặng lẽ, rút lui cùng với Thanh Nam.
Khi ông Lê Văn Duyên được cử giữ chức giám đốc nha vô tuyến,  người ta thấy Tô Kiều Ngân ngồi ghế chánh sự vụ sở chương trình. Đồng thời ban Tao Đàn đang từ ba buổi mỗi tuần được rút dần xuống còn hai, rồi một. Song song với sự kiện này trên đài, một ban thi văn khác được thành lập do Thanh Nam, Mai Thảo, đứng tên, đó là ban Tin Thơ. Tuy thế, ông cho biết mỗi khi giới thiệu tên những người phụ trách. Ông vẫn kể Tô Kiều Ngân, Thanh Nam, Thái Thủy, cho tới khi mấy người này yêu cầu bỏ tên họ ra. Vậy, phải chăng đã có một sự ngộ nhận giữa nhà văn họ Tô và thi sĩ họ Đinh. Cũng có thể trong vụ này còn nhiều uẩn khúc khác nữa! Nhưng điều đó chỉ có hai ông biết với nhau mà thôi. Dầu sao, sự xuất hiện thêm ban Tin Thơ, cũng đã gây cho người ngoại cuộc ít cảm nghĩ không đẹp.
Sau hai tháng ngồi ghế chánh sự vụ, Tô Kiều Ngân lại trở về với nhiệm vụ cũ khi giám đốc Duyên bị thay thế bởi ông Thái Văn Kiểm! Ban Tin Thơ do đó cũng bị khai tử.
Nhân cơ hội ngàn vàng này, Đinh Hùng đem vụ Tao Đàn ra trình bày với ông Kiểm, và ông này bảo hãy làm đơn theo thủ tục, ông ta sẽ căn cứ vào đó, cho xếp lại chương trình.
Nhưng mọi việc chưa ngã ngũ thì ông Kiểm đã bị thay bởi ông Nguyễn Ngọc Linh. Một lần nữa đường hướng hoạt động lại đổi khác. Vấn đề ban Tao Đàn coi như được cất kỹ… Chính bởi sự thay đổi luôn luôn, cũng như đường lối phải tùy thuộc vào thời thế, quốc sự, nên ý định ban  đầu của ông là đặt các vấn đề đường hướng thi ca không thực hiện được và ông còn cho biết thêm rằng ngay cả việc cho trình bày những thi phẩm cũng gặp rất nhiều trở ngại, ông muốn nói tính cách nghệ thuật văn chương không được chú trọng bằng tính cách thời thế!
Cuối cùng, phạm vi chỉ còn thu hẹp trong khuôn khổ ngâm nga, nhận định đơn lẻ về một vài thi phẩm, một vài nhà thơ v.v… Thỉnh thoảng ông cũng chọn ngâm dăm ba bài thơ cổ hoặc tiền chiến do thính giả yêu cầu. Khi ban Tao Đàn có sáng kiến giới thiệu những nhà thơ mới cùng tác phẩm của họ, ông đã bị rất nhiều tai tiếng.
Những điều tiếng mà người ta đã gán cho Đinh Hùng, tôi nghĩ điều đó không hẳn là không có căn cứ, mấu chốt. Bởi có những thi phẩm nhiều khi không có giá trị nghệ thuật, nhưng ông vì nể bạn mà đưa lên…
Đây là một điều rất khó khăn đối với một người nhiều tình cảm như Đinh Hùng. Tuy nhiên tôi tin rằng ông sẽ vượt qua được vì ông đã từng nói với tôi: “Chỉ cần một người hiểu cũng đủ bù đắp, lấp đầy những điều tiếng ghen ghét, tỵ hiềm của trăm nghìn kẻ khác!”
Sự trình bày những gì quanh ban Tao Đàn, không có nghĩa là tôi có ý che lấp hoặc làm sút giảm, phủ  nhận công lao của ông trong việc triển khai, thông đường dọn lối cho quần chúng tìm đến, lại gần với thi ca, với nguồn dân tộc. Tôi không quên nghĩ tới công lao của ông trong việc làm sống động sinh hoạt thi ca, phổ biến rộng rãi tới lớp quần chúng thiếu phương tiện, thiếu hoàn cảnh thưởng thức món ăn tinh thần thanh tao này.
Giữa một kỷ nguyên cơ  khí, chiến tranh điêu tàn giữa khi những giá trị thiêng liêng ngày càng bị rẻ rúng mất giá, giữa khi mãnh lực kim tiền nhu cầu vật chất càng ngày càng tiến tới gần địa vị độc tôn, sự có mặt của ban Tao Đàn (cũng như một hai ban khác) trên đài phát thanh quả là cần thiết. Nó sẽ hữu ích hơn nữa khi người chủ trương nó tức thi sĩ Đinh Hùng gạt bỏ được những phù phiếm, hào nhoáng, những thiên tư còn đang vây bủa ít nhiều nơi ông. Tôi chắc, với một tình cảm sẵn có từ Mê Hồn Ca, anh em văn nghệ cũng như quần chúng sẽ nghĩ về ông đẹp hơn trong một khuôn dáng tròn đầy, một gương mặt linh hồn khả ái hơn.
THƠ ĐINH HÙNG
Nói đến Đinh Hùng, người ta thường nghĩ ngay tới Mê Hồn Ca, tác phẩm đầu tay của thi sĩ do nhà xuất bản “Tiếng Phương Đông” của Hồ Dzếnh ấn hành tại Hà Nội năm 1954.

Tập thơ chia làm 4 tiểu mục:
1. Nguyên thủy
2. Chiêu niệm
3. Thần tượng
4. Mê hồn
Với những tiêu đề này, tác giả đã cho người đọc một ý niệm khái quát về vũ trụ thi ca mang tên ông.

Đọc xong tập thơ, gấp lại, trong tôi một khoảng trống lớn dần, lớn mãi lên cùng nỗi buồn nhè nhẹ nhưng thấm thía. Không biết tại sao tôi buồn? Cũng không một hình ảnh, một cảnh sắc nào còn in dấu hình như tất cả đã tan đi, loãng ra theo dòng thơ xuồng xiết trôi vè một trời nào xa vắng, một thiên đường nào mà đôi lần trong vô thức tôi đã mơ tưởng, đã phác dựng. Cùng một lúc, gợi nhớ tới Xuân Diệu, tới Chế Lan Viên, tới Huy Cận, tới Thế Lữ, tới Hồ Dzếnh… Tới những khuôn mặt tiền chiến đã hơn một lần soi đậm vóc dáng  trong vòm trời văn học nghệ thuật Việt Nam…, tới khung cảnh lịch sử thủa Hà Nội 1940-1944.., tới những ca lâu, những tửu diếm, cuối cùng tới Đinh Hùng trong một cốt cách lãng tử cô đơn, lăn vào cuộc sống âm vang tiếng sênh, tiếng phách, của những đêm hoan lạc suốt sáng để quên, để quên thân phận tôi mọi trâu chó của một kẻ mất nước của một tên nô lệ sống trên đất nước mình mà mang tâm thức của một kẻ lạ mặt, một ngoại nhân sống giữa quê người.

Giữa trạng huống đau thương đó, một Vũ Hoàng Chương tìm quên trong Say, một Chế Lan Viên khóc vay thương mướn một dân tộc đã diệt chủng, một Xuân Diện ẩn trốn vào thế giới ái tình tuổi trẻ hưởng thụ vội vàng. Đinh Hùng cũng dựng tạo cho mình một cõi trú, một thế giới khả dĩ dung nạp được tâm hồn đam mê cuồng nhiệt. Thế giới đó là thế giới thủa sơ khai, thủa những bon chen, những trì kéo của kiếp người chưa trở thành những đòi hỏi, những định luật căn bản thiết yếu.
Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản
Mất tinh thần từ những thuở xa xôi
Ta về đây lạ hết các ngươi rồi
Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống
……………………………………
Giữa hoang loạn của lâu đài tình tạ
Ta thản nhiên khi trở lại núi rừng
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng
(bài ca man rợ)
Thế giới thi ca của Đinh Hùng là một thế giới lạ kỳ mang đầy bản chất sơ khai man rợ, có người cho ông thuộc phái tượng trưng hay siêu thực. Nhưng theo tôi thì dù siêu thực, tượng trưng hay gì chăng nữa, Đinh Hùng vẫn là Đinh Hùng với một khoảng trời riêng bi thảm bọc vây cố hữu. Một khung trời hư ảo với những xung động dị kỳ.
Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ
ta nằm trên cỏ lắng tai nghe
thèm ăn một chút hoa man dại
rồi ngủ như loài muôn thú kia
Với cố thi sĩ Hàn Mạc Tử khi sinh thời, cũng có những khát đói thần bí huyền hoặc đó. Nhưng người ta còn có thể giải thích một cách thỏa đáng bởi căn bệnh nan y: cùi, mà nhà thơ này vương mắc. Với Đinh Hùng, tìm một giải đáp quả có phần khó khăn hơn. Người thì cho rằng vì ông muốn trở về đời sống sơ khai, thuở con người còn ăn hoa, ăn cỏ, còn sống hồn nhiên như cầm thú, sống theo bản năng tự nhiên. Người khác lại cho rằng thế giới không tưởng vượt xa, cao trên cuộc sống trần tục thường phàm; giữa không khí hôn mê, u trầm đó, nhà thơ đã hòa tan tâm hồn, quên đi thể xác để hiện nguyên hình hài trong cõi mộng, do đó trong những giây phút xuất thần thi nhân thường mơ hồ trực cảm một đói khát, một chùm hoa, một chút lá…
Trời hỡi làm sao khi đói khát
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
(Thơ H.M.T)
Sự thực không phải như thế, bởi ngoài một khát vọng khác thường bộc lộ trong giòng thơ tha thiết, thế giới của Đinh Hùng vẫn là thế giới của tình yêu, của mộng ảo với những xúc động băn khoăn rất người:
ta thường có những buổi sầu ghê gớm
ở bên em ôi biển sắc rừng hương
em lộng lẫy như muôn ngàn hoa sớm
em đến đây như đến tự thiên đường…
Những dằn vặt tình yêu biểu lộ một niềm tha thiết đắm say cao độ:
Ta trong đó thấy trời ta mơ ước
thấy cả bóng một vầng đông thuở trước
cả con đường sao mọc lúc ta đi
cả chiều sương mây phủ lối ta về
khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ
Sự thương nhớ, tương tư trong cõi khôn cùng vi vút khói sương đã chứng tỏ ở cõi sâu kín vùng yên tĩnh tâm hồn thi nhân, một thần tượng đã hình thành, một ảo giác yêu đương luôn luôn nhen dậy, thôi thúc gào thét, một thứ người tình không bay xa, không lý tưởng mơ mộng trên thiên đường cao vắng nào, tôi muốn nói người tình của Đinh Hùng là nàng kỹ nữ, một người con gái xương thịt trong một xã hội thực thể và mang một số kiếp không những tủi hèn, mà còn bị liệt vào thành phần nhơ bẩn rơm rác của xã hội.
Nhưng với thi nhân thì nàng kỹ nữ đó muôn đời vẫn là thần tượng, là lối thoát cho những đam mê dồn nén. Rồi chính từ ngai vị huy hoàng đó, người tình của thi nhân lại quay trở lại, tạo nên một vùng bão tố dìm đắm người phục vị tôn xưng mình với chính những đau thương, những chua xót mà đời đã đem đến cho nàng:
em đài các lòng cũng thoa son phấn
hai bàn chân kiêu ngạo dẫm lên thơ
Nếu đạo giáo là cõi trú thích ứng nhất của những tâm hồn yếu đuối, của những linh hồn đã quá ê chề thất vọng, là con đường giải thoát siêu hình cần thiết cho tất cả những ai đã hơn một lần đánh mất niềm tin, sa lầy tội lỗi, thì với Đinh Hùng, ta có thể coi như tôn giáo của ông là thứ tôn giáo ái tình hay nói  khác đi ông chủ trương một thứ đạo gọi là ‘đạo ái tình”. Một thứ đạo của hầu hết những kẻ sinh ra trót mang trong hơi thở, trong mạch máu “nòi tình”. Như vậy chúng ta sẽ không mấy ngạc nhiên khi thấy tiếng thơ của thi nhân là tiếng gọi kêu van cầu ân ái, là những tiếng than van, là những giận hờn oán trách người tình phụ bạc.
ta đã muốn trở nên người vô đạo
tất cả em đều bắt ta trở nên khổ não
và oán hờn căm giận tới đau thương
và yêu say mê mệt tới hung cuồng
và khát vọng đến vô tình vô giác
Vị thi nhân chấp nhận tình yêu như một lẽ sống tối thượng để quên, để xa, để lẩn trốn trước thực trạng xã hội ngày một bi đát, ngày một tối đen. Sự tự ru mình vào cõi hôn mê đã đưa linh hồn lênh đênh vào những vòm trời cao rộng với những thương đau khắc khoải không ngờ. Tình yêu, với ý thức thi nhân cần thiết bao nhiêu thì sự đền bồi của nhan sắc, của tượng thần, của giai  nhân cũng tàn nhẫn hắt hủi bấy nhiêu. Bởi thi nhân nhìn thấy, thâm cảm được luật tương đối, cùng những hữu hạn, những bất lực của một thân phận làm người không bao giỡ cưỡng lại nổi định mệnh khắt khe tàn bạo, cũng như nước không bao giờ chảy ngược, hoa phải có ngày tàn. Khát vọng dâng tràn như sóng cuồng, như bão loạn mà đời người thì ngắn hạn, phận người thì nhỏ nhoi trước một vũ trụ vô biên, trước một thiên nhiên huyền bí, cho nên ngay trong giây phút đạt tới cực điểm của nồng độ đam mê, đỉnh cùng của khát vọng, thi nhân vẫn linh cảm trước mắt, những đớn đau, điêu tàn những phũ phàng chua chát của một thực tại trùm vây, níu kéo, xô đập:
Niềm khát vọng ta ghi vào huyết sử
dưới chân em thơ lạc mất linh hồn
ta đau xót trong mỗi giờ tình tự
ta khóc nhiều cả những lúc trao hơn
(ác mộng)
Tôi nghĩ, nếu ai kia bảo Đinh Hùng đã lẩn trốn vào tháp ngà để tìm lấy cho mình những phút giây thần tiên, huy hoàng, rực rỡ, để đắm chìm linh hồn trong niềm hoan lạc hưởng thụ, trốn chạy những đau thương đổ vỡ của cuộc đời  thì e có phần thiên lệch, bất công. Bởi, nếu chúng ta cảm thông được tiếng thơ của một Chế Lan Viên qua “Điêu tàn” – một khoảng trời thâm u, thê thảm, một huyệt mộ vùi sâu cơ đồ của cả một dân tộc – ai dám bảo Chế Lan Viên lánh xa sự thực bi đát phũ phàng để tìm về cõi mộng hầu thỏa mãn nhưng khát thèm êm ái, ve vuốt tâm hồn – trái lại, Chế Lan Viên đã đau khổ gấp trăm ngàn lần cái đau khổ mà thường nhân phải gánh chịu, trong thực thể xã hội đương thời, cũng vậy, Đinh Hùng lẩn trốn thực trạng đau thương của thời thế bằng cách trầm mình trong thiên đường tình ái, nhưng chính tại cõi trú thanh sắc này, nhà thơ đã đau khổ thêm một lần nữa. Thế giới phấn hương, hoa bướm không những đã không giúp nhà thơ quên bớt, rời xa những dằn vặt, vò xé mà còn tạo thêm hoàn cảnh để thi nhân nhìn rõ đau thương, đày đọa – Tôi muốn nói ở mảnh đất đắm đuối truy hoan này, Đinh Hùng càng thấu cảm cái mệnh số cô đơn, cái mình lạc lõng, xa lạ hoang liêu hơn bao giờ.
ôi giữa trời thơ, những đêm hiền hậu
con chim nào kêu vang tiếng trần ai
mấy thu xanh hờn thác lẻ u hoài
thời xa vắng mờ hương lòng trái đất
trong tay nàng ta ngả mình ngây ngất
nghe rõ ràng trên thịt ấm da xuân
ngực dâng cao hơi thở đã mau dần
mùi cỏ lá bỗng thoảng hồn thương nhớ
ta ngẩng lên mặt nàng buồn muôn thuở
ngắm hoa sao lay động dưới khe nguồn
chung mối sầu thơ thẩn với trăng suông
bên sườn núi có con hươu vàng điệp
Loay hoay lặn ngụp trong mối sầu cao ngút, trong khát vọng vô biên khôn đường giải thoát, nhà thơ quay ra thương tiếc vẩn vơ, than trách số mệnh; nhưng từ bước chân vô vọng rạc rời trong thế giới tình yêu, ông lại tạo dựng cho mình một niềm tin mới, một cõi ẩn trú mới, đó là thế giới huyền bí, thế giới linh thiêng của những hồn oan thác, của những hoang sơ điêu tàn từ vạn kỷ:
quên tình ái ta phá tan cung điện
đi ngoài sao thầm lặng khóc trời xanh
xa mắt em xa ánh sáng kinh thành
Chia tay người tình ở đây không có nghĩa là ông đã rời bỏ được những khao khát, những đam mê tình ái, những hương phấn yêu đương mà để tìm về với một tâm hồn siêu thoát của cõi tâm linh vô thức – dĩ nhiên tâm hồn người được thi nhân trao gửi tình yêu, trao gửi thân xác đã dãy đầy đau thương, đã rách nát ân tình, là một linh hồn tố nữ, một  mỹ nhân, một hương sắc u trầm thanh khiết trinh băng:
em mộng về đâu?
em mất về đâu?
từng đêm tôi nguyện tôi cầu
đây màu hương khó là mầu mắt xưa
em đã về chưa?
em sắp về chưa?
trăng sao tắt  ngọn đèn mờ
ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn
(gửi người dưới mộ)
Tới đây, tiếng thơ của thi nhân có phần mong manh, nhẹ nhàng thanh thản hơn, nó không còn là âm hưởng của những cuồng vọng đắm say, điên cuồng. Nó cũng không còn là những giận hờn, những trách móc, oán than của mặc cảm bị ruồng rẫy phản bội  nữa. Mà là những lời tâm sự ngỏ bày, những kể lể, những cầu xin biểu lộ một lòng thành thiết ngưỡng mộ, vời trông:
Hỡi hồn tuyết trinh
Hỡi người tuyết trinh
Mê em ta đã thoát thân hình
Nhập hồn cây cỏ đa tình mỗi đêm
(gởi người dưới mộ)
Nếu thơ là tiếng nói của đam mê cùng cực thì quả thi sĩ Đinh Hùng đã đạt được tới nguồn cội tiếng thơ. Suốt thi tập, với 40 bài là những bản ngợi ca tình yêu cuồng nhiệt, là những điệp khúc của lòng đắm đuối cao độ, của một tâm hồn lạc lõng bơ vơ giữa chợ người, muốn tìm về núi rừng, muốn tìm về nguyên thủy, nguyên khai. Ngay cả với những đam mê không tưởng về một thế giới hư vô thần kỳ, người ta cũng bắt gặp một Đinh Hùng thật tha thiết, thật mê man trong một vóc dáng thật độc đáo của một vũ trụ hoang dại, rừng rú. Trong thế giới mê hoặc, mờ ảo của một ý thức sáng suốt trộn lẫn cùng những trực cảm, những ảo giác thần kỳ của một kiếp nào đã qua đi, đã vắng tạnh trong xã hội xáo động, đầy âu lo thắc mắc trước một viên tượng rạn nứt bế tắc của thân kiếp, của những thúc bách nhân sinh, thi nhân vẫn còn gìn giữ riêng cho mình một niềm tin, một nguồn sáng soi rực tâm thức.
Trận cười tan hợp núi sông
Cơn mê kỳ thú lạ lùng cỏ hoa
Hý trường đổi lớp phong ba
Mượn tay ngụy tạo xóa nhòa biển dâu
Với niềm tin tưởng mãnh liệt đó, thi sĩ đi từ cuộc sống phồn tạp tới cõi siêu thoát, bằng những bước chân kiêu ngạo, khinh bạc, cái kiêu bạc tất nhiên của một kẻ tự tách rời đời sống hiện tại đầy bon chen, đầy tham vọng thấp hèn, với một ý thức tỉnh táo, một khát vọng cao cả trông hướng về một xã hội hồi nguyên thủy, một xã hội – tự tính để nhìn thấy tâm hồn, nhìn thấy chân dung đích thực của ý nghĩa đời sống con người. Sự vươn lên, tự dựng tạo cho mình một thế giới riêng, một thế giới cách biệt ngoài tầm trí tưởng đại chúng đã đưa thi nhân tới mặc thức cô đơn ghê lạnh; vì trên viễn trình về tới thiên đường, về tới nguồn cội, thi sĩ là người duy nhất – kể độc hành không cả một ánh mắt vời theo.
Cuối thời loạn thương một vùng sao mọc
ta bước lên chân nhịp bước thần kỳ
trở về đây xơ xác mảnh tàn y
giữa hoang địa hiện hồn tòa u ngục
bừng mắt dậy lửa hồi sinh đỏ rực
thịt xương về trong cổ mộ xôn xao
hỏa thiêu rồi làn tử khí lên cao
chiều tái tạo bâng khuâng từng ngọn cỏ
hoa thanh quý nở bừng trang diễm sử
thiên tiên đâu về tắm bến sông đào
ta nghiêng mình làm một trái non cao
(mê hồn ca)
trăng bỏ ta đi trăng ảo huyền
mấy trùng biển lạ nhớ bình nguyên
sầu ta đong khắp trường giang thủy
vào cuộc tuần du lại đắm thuyền
ta hát lên trời muôn thuở trước
giờ đây còn lắng khúc giao duyên
thân lưu lạc về sông núi
ngươi gọi hồn ai hỡi đỗ quyên
Từ đó, niềm kiêu hãnh khinh bạc cuộc đời của thi nhân đã đưa thi nhân xa dần, xa dần… để gần thêm, gần thêm mãi cô đơn và cuối cùng cô đơn không còn là một màn lưới bủa vây bên ngoài nữa, mà chính tâm hồn thi nhân là những hình ảnh của cô đơn hiu quạnh đó:
đi vào mộng những sơn thần yên ngủ
em! kìa em! đừng gọi thức hư vô
hãy quỳ xuống, đọc bài kinh ái mộ:
hồn ta đây thành tượng giữa vô cùng.
(trời ảo diệu)
Thế giới thi ca Đinh Hùng là một thế giới thần kỳ mang đầy bản sắc man rợ, rừng rú. Phải chăng, thi sĩ muốn quay về, muốn dựng lại xã hội tự tính tức một xã hội bộ lạc thuở sơ khai, con người sống thuần với bản tính tự nhiên, không với lý trí, với thủ đoạn, với những suy tính, những dục vọng đê hèn, thấp kém của xã hội mang tiếng văn minh tiến bộ nhưng lại là thứ văn minh vật chất, văn minh kỹ thuật, càng văn minh, càng khôn ngoan bao nhiêu, cuộc sống càng bẩn thấp bấy nhiêu.
Bàn về kỹ thuật vận dụng ngôn từ hình ảnh, có người đã cho rằng ông là một “phù thủy ngôn ngữ” – vì sự  khéo lựa chọn những ngôn từ, ảnh hình, âm điệu. Nhưng chính sự kiện này cũng khiến cho một số người khác đã không ngần ngại gọi ông là thợ “ghép vần sắp chữ”. Theo tôi, đấy là một nhận xét quá thiên lệch, quá chủ quan đối với một thi sĩ dù muốn dù không cũng đã được đời chấp nhận từ hơn hai mươi năm nay. Hơn nữa, giá trị thi ca bao giờ cũng được định xét bởi độ lượng thành khẩn, thiết tha chân thực của người sáng tạo - tức cường lực rung cảm truyền thấm của tiếng thơ đối với người đọc. Mà ở đây Mê Hồn Ca là tiếng nói phản ảnh trung thực những đam mê đắm đuối của một tâm hồn chứa chan khát vọng yêu thương, một tâm hồn nhậy cảm với những xung động mặc nhiên, những dầy vò đay nghiến của đời người khốn đốn, của tình người nghiêng ngửa mong manh, tráo trở…
Hãy thử nghĩ, nếu vườn hoa thi ca Việt Nam thiếu vắng một Đinh Hùng, thiếu vắng một Mê Hồn Ca sẽ là một trong những thiệt thòi của chúng ta…
Tuy nhiên, tiếng thơ họ Đinh cũng không thoát tránh được một vài sơ suất, yếu kém, một vài vội vàng thiếu đắn đo cân nhắc. Sự dễ dài buông thả này, đã đưa tiếng thơ ông, thỉnh thoảng rơi vào những khuôn sáo rỗng trống, những ảnh hình, những ý tứ giả tạo, vô nghĩa:
niềm thương ý nhạc mùa xa tắp
bãi bề cồn dâu nổi bấy chầy
thôi nhé mười lăm năm xí xóa
lầu thơ trăng gió lại thơ ngây
hoặc:
thế kỷ thanh bình nức nở hoa
ta nhìn hoa khóc tuổi trăng già
buồn lên, cõi đất chưa than thở
em đã cao sầu ơi Du Hoa
(Hoa sử)
Ở đây tôi xin mở một dấu ngoặc về thái độ thẩm xét giá trị một tác phẩm văn chương, có nhiều người đã vô tình hoặc cố ý nhắm vào một vài sơ suất, một vài  thiếu kém của toàn tập rồi từ đó họ phê phán và rút ra một kết luận. Việc làm thiếu ý thức, vô trách nhiệm này thật không thể nào chấp nhận.
Cho nên, khi nhắc tới một vài khiếm khuyết của tiếng thơ Đinh Hùng, không có nghĩa là tôi đã tự mâu thuẫn với tôi ở những trang trên. Và không phải tại những câu tôi trích dẫn ở đây mà giá trị đặc biệt của ông không còn hay sút giảm - có hay không có khuyết điểm, Mê Hồn Ca vẫn là Mê Hồn Ca với một ngôi vị xứng đáng đặc biệt trong vườn hoa nghệ thuật hậu chiến. Mê Hồn Ca vẫn là Mê Hồn Ca, một đóa hương sắc mà với thời gian vẫn không tàn phai – và vóc dáng người sáng tạo nó với niềm khẩn thiết chân thành vẫn còn bao trùm một khoảng trời vũ trụ thi ca bao la, hay ở đáy sâu vùng yên tĩnh tâm hồn người yêu thơ vẫn còn dành cho Đinh Hùng ít nhiều mến mộ.
Với những thi bản như “Kỳ nữ”, “Mái tóc dạ hương”, “Mộng dưới hoa”, “Xin hãy yêu tôi”, Mê Hồn Ca một ngày kia, nếu người lãng tử tài hoa đơn côi có rời bỏ cuộc đời tục lụy này, tôi nghĩ những tiếng thơ đó vẫn còn vang vọng mãi tới muôn sau…
Cảm nghĩ cuối cùng tôi trước khi tạm rời vùng giông bão tình yêu Đinh Hùng, là niềm trắc ẩn về một loài hoa cô đơn, mọc chênh vênh ven triền núi thẳm, mà hương sắc là những kết tụ những gồm thâu của trăm nghìn loài dã thảo từ tiền kiếp xa xôi để hôm qua ngày mai hương sắc trầm kín kiêu sa ấy, còn tồn tại, còn mang mang trong đời, vi vu trong hồn người.
1964
Chú thích:

1.

Báo chí Việt Nam cũng có đăng tải lại, với hai nguồn dư luận. Một công nhận DOUBÉ là thần đồng. Hai thì phủ nhận vì cho rằng đó là sản phẩm cùa bà vú nuôi Drouet.

2.

Xin đừng nhầm với Nguyễn Đức Chính làm chính trị. NĐC là tác giả những tập truyện: Đứa con chờ đợi, Đứa con nhà nghèo.

3.

"Kẻ này không muốn nghĩ về Đinh Hùng, lại thấy anh em thẳng tay “đập” Đinh Hùng, kẻ này lại thương hại, cái tình thương thật sự đó khiến kẻ này phải hành động… bằng cách gởi cho Đinh Hùng hai tập thơ: Thơ Trần Tuấn Kiệt và NAI với những giòng đề thân mật là Mến Mộ Đinh Hùng (nhớ là hai tập thơ gởi tặng sau khi tạp chí Phổ Thông có bài của Nguyên Vỹ giới thiệu tập thơ Nai, trong đó có trích một câu nói ác ôn về kẻ này: Nó không phải là thi sĩ.
Với hành động đó, Đinh Hùng đã nghĩ sao khi mà thẳng tay xuyên tạc hai tập thơ của kẻ này?... Còn về trường hợp Đinh Hùng, chúng tôi có những ý nghĩ sau đây: - Đài phát thanh còn dành mục Tao Đàn cho Đinh Hùng ngày nào, thì đài đã gián tiếp chịu trách nhiệm để cho một kẻ phá hoại văn học đó tàn phá thi ca nghệ thuật ở miền Nam này, cũng như chín mươi năm nay Đinh Hùng đã cố dìm và ngăn bước đi dũng mãnh của những người làm thơ vậy”.

4.

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc với tiêu đề “Mộng Dưới Hoa”.

Chương Hai: Bùi Giáng
NGƯỜI ĐƯỢC MỆNH DANH CUỒNG SĨ THỜI ĐẠI? GÃ CHĂN TRÂU TRÊN ĐỒNG CỎ VIỆT NAM? HAY LÀ HẬU THÂN CỦA MỘT THÚY KIỀU?
Một dạo, tin Bùi Giáng mất tích đã gây xao xuyến, xúc động cho một số anh em văn nghệ sĩ tại miền Nam này. Đó là lúc mà không ai biết ông đi đâu, làm gì? Sống chết ra sao? – Nhà thơ Xuân Hiến, một trong số những người bạn thân của họ Bùi cũng không biết. Ngay cả những anh em của ông cũng không rõ gì hơn. Người thì bảo Bùi Giáng đã bỏ văn nghệ đi buôn, kẻ lại bảo vào rừng, hay lên núi tu… Tất cả chỉ là những ức đoán, căn cứ vào lời đồn đại mà thôi. Tựu trung, vẫn không ai rõ thực hư ra sao! Từ chỗ mù mờ, nhuốm huyền hoặc đó, một vài anh em khác giầu tưởng tượng hơn,  nghĩ xa xôi hơn nhưng cũng chua chát hơn: “Biết đâu Bùi Giáng đã chẳng chết dấm chết dúi bụi bờ nào rồi (?), mà phải, rất có thể trong một giây phút “xuất thần” nào đó, ông đã tự hủy cuộc đời”…!
Vì anh em, ai cũng biết Bùi Giáng rất gầy còm, ốm yếu, người ông thấp và khô quắt, chỉ có cái đầu to quá khổ so với khuôn mặt chữ điền xương xẩu. Lại thêm tính nết đôi khi không được điều hòa vì sự lao lực tinh thần quá đáng. Những người sống gần ông đều nhận thấy mỗi khi bàn luận nhiều về vấn đề văn chương, tư tưởng, ông thường đưa tay ôm đầu, gục mặt. Nhất là khi đề cập tới truyện Kiều của Nguyễn Du, không những chỉ ôm mặt, ông còn thường bật khóc nức nở, tức tưởi… và rất nhiều đặc điểm khác, khiến cho anh em nghi ngờ, lo lắng, hoang mang về sự mất tin tức chàng họ Bùi.
Trước những dữ kiện ấy, tôi càng nôn nả muốn tìm gặp ông. Nhưng tìm Bùi Giáng đúng như câu nói của một người bạn: “như thể tìm chim”.
Đến căn nhà đường Trương Tấn Bửu không có, trại định cư khu Ngã Tư Bảy Hiền cũng không. Nhớ tới những phỏng đoán trên, tôi nghĩ: Biết đâu chẳng đúng! Rồi, những thôi thúc, náo động trong tôi với thời gian cũng lắng nguội dần. Phần vì việc mưu sinh, phần vì thiếu sức khỏe, chán nản, thất vọng tất cả, tôi quên dần chuyện kiếm tìm Bùi Giáng.
Nhưng một buổi tối, một người bạn đưa anh T.Q. Túy, họa sĩ (cũng là bạn học cũ, xa nhau có tới 6, 7  năm) lại thăm tôi.
Có lẽ gặp Túy nên tôi liên tưởng tới Bùi Giáng. Bởi ngoài con người văn chương thơ phú, Bùi Giáng còn là một họa sĩ chuyên vẽ bằng mầu nước loại trừu tượng và siêu thực. Về khía cạnh này, ít người biết tới, mặc dù rất nhiều họa sĩ tên tuổi tại đây tỏ ý thán phục tranh của ông như N.T, T.T. N.Đ… Riêng tòa đại sứ Đức, đã từng điều đình xin mua một số tranh của ông với giá cao tột bực. Nhưng ông từ chối và chỉ đề tặng cho tòa đại sứ Đức một bức.
Khi người bạn nghe tôi nhắc tới tên Bùi Giáng, anh bảo sẽ tìm địa chỉ giùm và anh tin rằng Bùi Giáng không sao hết, Bùi Giáng vẫn còn ở Sài Gòn.
Quả nhiên, hai hôm sau, anh đến tôi, báo tin đã tìm ra chỗ ở hiện tại của họ Bùi: Khu Ngã Ba Ông Tạ. Tối hôm đó, chúng tôi hẹn gặp nhau ở quán càfé L.C gần bên ngõ vào nhà ông.
Khi dựng xe trước căn nhà quét vôi trắng khá đồ sộ, sâu trong một con hẻm lớn, tôi bồi hồi nghĩ tới lúc gặp mặt tác giả “Tư Tưởng Hiện Đại” 1.
Nhưng như lo ngại lúc ban đầu, bà cụ cùng nhà trả lời ông đã đi khỏi cùng ông Ý (Bửu Ý). Hỏi chừng nào về, bà cụ bảo: “Không chừng, có thể một lát ông ấy trở về ngay, cũng có thể 2, 3 giờ sáng mới về”. Sau đó, bà cụ cố giữ chúng tôi nán chờ ông về. Hy vọng Bùi Giáng sẽ trở về ngay như mọi khi, chúng tôi ngồi chờ ông và nghe bà cụ nói rất nhiều chuyện khá ngộ nghĩnh về ông. Lợi dụng lúc chờ đợi, tôi mượn một ngọn nến (đèn cầy) soi sáng chỗ làm việc của họ Bùi. Nếu không có chiếc “đi văng” nhỏ kê sát tường và đống quần áo vứt bừa bãi trên chiếc giá sách hỏng, trên cả chiếc bàn viết, lẫn lộn cùng những chồng sách cao ngút, chắc tôi sẽ có cảm tưởng gian nhà của Bùi Giáng là một phòng bán sách cũ. Bởi chung quanh phòng, những giá sách cao gần sát trần, chất đầy sách đủ loại, cả những chồng sách để ngay ở dưới sàn nhà lẫn lộn cùng những khung tranh ông vẽ từ 4, 5 năm nay.
Một nửa đi văng cũng được dùng để chứa sách, ông chỉ chừa lại một khoảng nhỏ đủ để đặt lưng mà thôi. Trên đầu đi văng, có hai mẫu nến cháy dở, hỏi ra mới biết ông có thói quen dùng đèn cầy đọc sách, bất cứ ngày hay đêm (mặc dù nhà có điện). Ông còn thích bỏ màn suốt ngày. Theo ông thì để bạn bè đến thấy không có chỗ ngồi, sẽ không ở chơi lâu. Bà cụ thuê nhà cùng ông kể rằng: “Quần áo không bao giờ ông bỏ giặt cả! Mặc bộ này chán rồi thay ra, mặc bộ khác vào, cứ thể hết vòng này tới vòng khác…”
Trong căn phòng, tôi ước lượng cũng có tới gần 100 bức tranh, đa số vẽ những chân dung tưởng tượng. Những khuôn mặt người rách nát đau thương… Như người bạn tôi cho biết thì khi vẽ, bao giờ ông cũng mặc quần áo chỉnh tề, thắt cravat, nhưng đi dép. Ông vẽ rất nhanh và đường cọ đi rất bạo, hầu như không phác trước, không đắn đo, tính toán. Sở dĩ tranh của ông mang một giá trị, một sức quyến rũ  lạ lùng (mặc dù ông không hề theo học một lớp hội họa cũng như không hề nhờ ai chỉ dẫn) có lẽ vì nó là kết quả của những suy nghiệm, những ray dứt, dày vò tâm thức ông từ quá khứ. Nên trong những giây phút thoát thần, cây cọ của ông phóng đi với những đường nét thật thần kỳ, mê hoặc, hầu như ông không cần tới một kỹ thuật nào cả. Ông say sưa nhất khi vẽ chân dung Einstein và nữ nghệ sĩ Kim Cương. Với hai khuôn mặt này, ông thường vẽ đi vẽ lại cả chục lần không chán. Trên tấm kính của mấy tủ sách, tôi cũng thấy hình hai nữ nghệ sĩ Kim Cương và Thẩm Thúy Hằng. Không biết ông lấy phụ bản của một tờ nhật báo nào!
Ngồi chờ khoảng một tiếng sau, vẫn chưa thấy Bùi Giáng về, chúng tôi đành xin phép cáo lui. Trở lại tiệm càfé giữa tiếng nhạc nỉ non, trong một không khí ẩm ướt khói thuốc, mờ mờ những khuôn mặt thanh niên đủ mọi trang lứa, giữa những tiếng cười khả ố, lâu lâu ré lên, tôi nghĩ tới Bùi Giáng không biết giờ này đang ở đâu, làm gì? Nghĩ tới chính mình và những người chung quanh - Thế hệ hiện tại - Tôi thấy cà phê đắng hơn mọi bữa và hình như không có mùi vị gì… Vì có hẹn trước, trưa hôm sau, trở lại, chúng tôi gặp Bùi Giáng đang xúng xính trong chiếc quần ngủ vải thô vàng, chiếc áo sơ mi cụt tay màu xanh với những khoang tròn vàng (loại bán sẵn ở chợ), chiếc kính trắng dày cộm, nặng nề trên sống mũi thấp, ông bắt tay chúng tôi bằng nụ cười nửa như mừng rỡ, nửa như méo xệch, xa xăm…
Ông gỡ kính cất đi và mời chúng tôi ngồi bộ salon nhỏ, lối đi xuống sân nhà bếp.
Tôi lấy cuốn thơ đề tặng từ trước đưa cho ông. Ông ngắm nghía bìa trước, sau, rồi đọc vài trang trong, đăm chiêu, im lặng. Không biết ông nghĩ gì, nhưng được dịp, tôi quan sát kỹ khuôn mặt đầy những vết sậm loang lổ (có thể ông bị tàn nhang).
Đầu ông đã to, lại thêm mớ tóc hớt “cua”, chắc cũng có tới 3, 4 tháng không được bàn tay ông phó cạo sờ tới, nó đâm tua tủa, che lấp một phần trán rộng, to, vuông vắn. Trán ông hình như bị xẻ hai vì tôi thấy ngay ở giữa trán, một vết dài lõm xuống nhưng không phải là sẹo. Cặp mắt nhỏ sâu, miệng rộng, hai gò má nhô cao, cằm bạnh.
Ông cầm cuốn thơ của tôi cất đi và nói: "Để tôi tìm ít sách biếu các anh”. Lát sau, ông mang ra cho tôi 3 cuốn “Mưa nguồn”, “Màu hoa trên ngàn”, thơ và cuốn mới nhất “Dialogue” 2. Chúng tôi say sưa nghe ông nói chuyện về những vấn đề liên quan tới văn hóa, nghệ thuật, tới một vài nhân vật hiện có uy tín đối với giới sinh viên. Nhưng theo ông, họ lại là những  người thiếu ý thức, vô trách nhiệm trong việc hướng dẫn tư tưởng sinh viên. Họ dùng những tiểu xảo, để đánh lừa, dối gạt sinh viên. Họ không dám viết những lời nói đó thành sách hay trên báo, mà chỉ phát ngôn trong vòng 4 bức tường vôi, nên dù ông rất muốn cho họ nhìn thấy lầm lỗi vô cùng tai hại của việc làm thiếu ý thức đó mà đành chịu.
Ông cũng nói tới trường hợp cố văn sĩ kiêm cách mạng gia Nhất Linh. Ông bảo: Nhất Linh có tài viết văn, dựng tiểu thuyết, nhưng Nhất Linh đã lầm lỗi lớn, khi tạo nên những tệ đoan của xã hội Việt Nam ta, đã đi quá xa sự thực, khiến bọn ngoại quốc nhìn vào tưởng rằng xã hội Việt Nam mà căn bản là gia đình, nát bấy như vậy. Thực ra, trạng huống đó không đến nỗi bi đát thế. Chính mấy ông trong TLVĐ tạo cho nó một bộ mặt xấu xa, rồi cũng tự các ông lên án, đập phá. Một Loan của Đoạn Tuyệt mới chỉ có những bề mặt phảng phất Việt Nam, nhưng thiếu vắng hẳn chiều sâu tư tưởng. Tuy nhiên cái chết thật đẹp của Nhất Linh đã cứu vãn lại rất nhiều những gì không hay mà ông để lại cho xứ sở này”.
Ông cũng nhắc tới Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm và cho rằng người ta chửi rủa Phạm Duy Khiêm mất gốc, vong bản, khi ông này dám nói rằng Tiếng Việt Nam không ra gì cả. Nhưng theo ông, chính Phạm Duy Khiêm là người yêu nước nhiệt thành. Vì có ai làm như và hơn được Phạm Duy Khiêm, khi ông này đem những chuyện cổ tích Việt Nam, viết lại bằng tiếng Pháp để các dân tộc trên thế giới, nhìn thấy rõ cái thâm thúy, trầm sâu của dân tộc ta. Chứ bọn văn sĩ lăng nhăng không những chẳng giúp ích gì được cho đất nước này mà còn khiến người ta coi thường, lầm tưởng dân mình mọi rợ man di mà thôi.
Bị quyến rũ bởi giọng nói chuyện và nhất là chiếc miệng duyên dáng của Bùi Giáng, tôi quên cả giờ đi làm. Tới lúc đứng dậy thì buổi trưa đã qua từ lâu. Khi ra khỏi ngõ, giọng nói đặc biệt Quảng Nam nhỏ nhẹ, hơi rè của ông còn văng vẳng bên tai tôi. “Với tôi, điều quan trọng bây giờ là phải làm sao đặt định lại đúng tầm mức quan trọng của văn hóa. Phải làm sao tạo được sự bình đẳng. Vấn đề bình đẳng quan trọng lắm, lớn lắm. Từ đó Đông Tây mới có thể nói chuyện với nhau được.
TIỂU SỬ
Bùi Giáng sinh năm 1926 tại Quảng Nam (Vĩnh Trinh). Ông là người con thứ 6 trong số 13 anh em. Ông chỉ có một người em gái út duy nhất. Người này hiện ở Đà Nẵng. Ông rất quý cô em gái và có một thời gian ông đã sống cùng cô.
Trong số 12 anh em trai, hầu hết đều là giáo sư, sĩ quan. Tuy nhiên, người ta ít thấy ông nhắc tới tên các anh em của ông. Thuở bé, ông đã từng chăn trâu, làm ruộng. Có thể nói, phần lớn tuổi thơ của ông trôi qua nơi hoa đồng cỏ nội.
Năm 18 tuổi, ông lập gia đình. Nhưng chiến tranh và nạn lụt lần lượt cướp mất người vợ và 2 con thơ thân yêu. Riêng trường hợp vợ ông là cả một dĩ vãng đau buồn, tủi nhục, ở đây, tôi tự thấy không được phép nói.
Cho đến bây giờ, mỗi khi nghe ai hỏi tới gia đình vợ, con, ông thường ôm đầu, gục mặt, ra dấu đừng nhắc tới.

Ông bắt đầu hoạt động văn nghệ từ năm 1953 tức năm ông 27 tuổi. Cũng thời gian này, ông là giáo sư Việt Văn tại các trường trung học tư thực. Trước khi xuất bản cuốn sách đầu tiên “Tư Tưởng Hiện Đại”, ông đã viết rất nhiều sách giáo khoa ( 6 quyển) loại bình giải cho nhà xuất bản Tân Việt. Thường ông  viết rất nhanh và viết không biết mệt. Như cuốn “Tư Tưởng Hiện Đại” ông đã viết liên tiếp, ròng rã bảy ngày đêm không ăn. Nên với ông, chỉ có thời gian thai nghén tác phẩm là lâu mà thôi, còn khi đã đặt bút viết, bao giờ ông cũng viết luôn một mạch. Ông đã từng nằm dài ở sàn nhà in mấy ngày đêm liền, viết tới đâu, quẳng cho sắp chữ tới đó.

Ban đầu ông in cuốn “Tư Tưởng Hiện Đại”, rồi “Mưa Nguồn” rồi “Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại” (tập I và II) rồi “Sao Gọi Là Không Có Triết Học Heidegger”, “Lá Hoa Cồn”… Nhắc tới Bùi Giáng mà không nói cuộc “Chỉnh Lý Tư Tưởng” của Bùi Giáng dành cho giáo sư Trần Thái Đỉnh ở đại học Huế, tôi nghĩ sẽ làm điều thiếu sót lớn!

Nguyên khi Bùi Giáng cho xuất bản cuốn “Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại” tập I, ông Trần Thái Đỉnh, giáo sư đại học Huế có viết một bài tựa đề “Heidegger Và Thi Ca” đăng trên Đại Học số 33 có ý ám chỉ Bùi Giáng là kẻ “… chuyên nghề quảng cáo biết nhãn hiệu hơn là nội dung”. Và trước đó, trong phần mở đầu, lời tòa soạn, người ta đọc thấy: “Triết gia ý thức được bản lĩnh của mình thì đôi khi ưa sáng tác hơn là tìm hiểu người khác. Nhưng đối với đa số chúng sinh, triết lý đối thoại, là tìm hiểu người khác, chứ không phải là gán cho họ tư tưởng của mình, thì cho dù thiên hạ đã viết nhiều bằng tiếng Việt Heidegger, có cố gắng để tìm hiểu Heidegger cũng không phải là một công việc dư thừa vậy”. (Thiên hạ ở đây là ai nếu không phải là Bùi Giáng vì ở V.N mới chỉ có Bùi Giáng viết về Heidegger mà thôi - do đó “gán cho họ tư tưởng của mình”, tác giả bài báo trên có ý bảo Bùi Giáng đã gán tư tưởng của mình cho Heidegger?). Sau khi số Đại Học trên phát hành, giới quan tâm tới nền văn học ở đây đã xôn xao, bàn tán một thời gian. Bùi Giáng viết bài trả lời, nhưng báo lại không đăng. Không lẽ đành câm lặng! Ông liền cho in bài trả lời thành một tập sách nhỏ mang tên “Sao Gọi Là Không Có Triết Học Heidegger” để trả lời giáo sư họ Thái. Để quí vị nào chưa đọc qua cuốn sách đó. Tôi xin trích dẫn dưới đây một vài đoạn, hầu cho rộng đường suy luận... ”Không có triết học Heidegger, và giả như có thì chính tôi không tha thiết gì đến nó hết” … nói như thế không phải có triết thuyết Heidegger nhưng triết gia có ý nhắn nhủ rằng đối với công việc còn phải làm trong lãnh vực tìm hiểu bản chất của con người, những thể hiện trước đây của ông chưa đáng kể chi và chưa đáng gọi là một triết học thực sự”.“Triết học thực sự nó ra như thế nào? Những thể hiện của ông chưa đáng gọi…?
Muốn đáng gọi và đáng kể thì phải làm sao? Phải viết theo lối viết “Heidegger và thi ca”? Phải đăng ở phần đầu tờ Đại Học? Phải nấp sau lời tòa soạn để công kích những kẻ nào là “Thiên hạ đã viết nhiều - bằng tiếng Việt - về Heidegger?”
Từ đó về sau?
Từ đó về sau trái đất đã âm u, và trên mặt đất chỉ còn có những “les derniers hommes quicligment de I’oeil”.Nhà tư tưởng viết sách, lắm khi đứng trước sự đời đảo điên, đã đành lòng thốt lời chua chát. "Chém cha cái số ba đào
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”
Nhưng không phải vì vậy mà hạng người “les derniers hommes” được phép tự cho mình là tài. "Nọ nghe rằng có con nào ở đây
Hãy xem có biết mặt này là ai”
Sự việc đã sờ sờ ra đó. Sự thật quá rõ., Nhân tình đã biết rồi ra sao! Ai đã gây nên tội lỗi?
………..
………..
Nguyên cớ chỉ như vậy. Không viết nổi một quyển sách. Chỉ lo cản đường. Làm bóng ma dọa dẫm. Xuyên tạc mãi một tiếng “Hiện hữu”, “Hữu thể”, nhắc đi nhắc lại mãi một điều vô ý thức, và đắm đắm việc lũng đoạn tư tưởng. Do đó, tiếng nói lộn phèo.
Vừa ỡm ờ bảo: Những thể hiện trước đây của ông chưa đáng kể chi và chưa đáng gọi là một triêát học thật sự…
Đã tiếp liền:
Sở dĩ ông nghĩ thế vì ông cho rằng tự khi có triết học đến nay, các triết gia vẫn chỉ mới nhận ra những hữu thể (les étants) mà thôi, chưa vị nào đắm nhìn thâu vào bản chất (daswesen, I’être) của những hữu thể đó.
Tại sao có sự ăn nói như trẻ con vậy? Lý luận gì vu vơ như ngái ngủ vậy? Vừa mưu toan cản lối kẻ tài giỏi hơn mình (mặc dù chỉ quen đọc nhãn hiệu và quen viết quảng cáo) vừa lo sợ bốn phía chị em cười mình hàm hồ xuyên tạc!
Phải chăng đó là nguyên cớ xui giáo sư viết văn bất thành chương cú?”
(Trang 7 và 8) "Trần Thái Đỉnh không phải là kẻ chuyên nghề quảng cáo, Trần Thái Đỉnh biết nội dung hơn là nhãn hiệu, Trần Thái Đỉnh nhiều thận trọng trong cuộc xuyên tạc ra sao? Hãy xem ông nói về Heidegger và tác phẩm Kant et Le problème de la métaphysique: "Trong cuốn Kant và vấn đề Siêu Hình Học, Heidegger đã trách Kant nặng lời,  rằng “Kant đã lùi bước trước cái nền tảng mà ông đã xây được với cuốn Phê bình Lý trí Thuần túy của ông”.
(Đại Học – Trang 298)
Trần Thái Đỉnh vớ vào một câu trong sách Heidegger và lôi nó ra khỏi mạch nguồn tư tưởng, dịch lệch đi một chút ngắt trên, rớt dưới, để bảo Heidegger đã trách Kant nặng lời.
Thật ra chưa có một nhà tư tưởng nào như Heidegger đã mở rộng viễn tượng suy tư của Kant. Chưa bao giờ có kẻ đã phơi rộng phần vô ngôn của Kant như Heidegger. Heidegger trách nặng lời là trách triết gia Âu Châu đã bỏ lạc “MỘT KẾT QUẢ CÓ TÍNH CÁCH QUYẾT ĐỊNH” - un résultat décisil - của Kant trong công việc thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học kể từ Platon tới nay. Heidegger đã dành cho Kant một chỗ ngồi hầu như độc tôn trong lịch sử triết học: thiết lập được, kết xe được Mối Liên Hệ - La connexion - giữa bản thể và bản thể của Căn sơ Siêu Hình Học”.
…..
……
Hãy nghe Heidegger nói:
Mais le Véritable Résultat de I’instauration Kantienne n’était pas d’avoir établi la connexion de la question concernant I’essence de I’homme avec celle du fondement de la métaphysique?
Cette connexion ne doit-elle pas lournir le fil directeur de la répétition de I’instauration?
………..
La critique de I’idée d’une anthropologie philosophique montre cependant qu’il ne suffit pas simplement de poser la question de I’essence de I’homme; au contaire, son imprécision même nous indique que finalement nous ne sommes pas encore entrés, même maintenant, en possession du résultat décisil de I’instauration Kantienne du fondement. 3
(kant el le problème de la Métaphysique – page 2710)
Thật là quá rõ”.
(trang 9-10)
Và một đoạn chót trong tập sách: "Trần Thái Đỉnh không nắm được chỗ cốt yếu nọ trong suy tư. Những tiếng: thực rõ ràng, triết lý không thể là thi ca và thi ca chưa phải là triết lý… thi ca chưa bộc lộ… mối tiếp thông… ý thức phản tỉnh… cái nền chưa phản tỉnh… v.v…. (Đại Học - trang 297) - Những lời lủng củng, va chạm kia bởi đâu mà có? Trần Thái Đỉnh yên trí rằng: không kẻ nào nhận thấy ông đã mập mờ đem tư tưởng Socrate ra, cho len lấn vào lời Heidegger? Để làm chi vậy? Thiên hạ ngờ nghệch cả sao?
Nhưng tư tưởng Socrate có chứa một phần Vô Ngôn của Platon. Ông nên khám phá sự vụ này trước khi “tiếp tục luận địa kia”.
(trang 38)
Sau cuốn “Sao gọi là không có Triết học Heidegger?”, ông còn cho ra tiếp cuốn “Trả lời chung nhân một tiếng Dasein”.
Chung quanh bộ sách “Tư tưởng hiện đại” của ông, có rất nhiều nguồn dư luận, xuyên tạc, đả kích. Như hồi đó, nhật báo Tự Do, trong một bài phê bình, tôi không nhớ rõ tên tác giả bài báo, đã dùng những lời chê bai thật quá đáng, tồi tệ. Khi ông lên tiếng, thì báo này trả lời rằng “với một người như Bùi Giáng phải dùng những tiếng đó mới xứng”.
Tuy nhiên, những chuyện lặt vặt đó, không làm ông quan tâm lắm. Ngay cả trường hợp T.T.Đ, ông bảo: “Tuy thế, hắn còn biết điều là im luôn và điểm đáng khen là dám đăng lên báo. Nhưng cái bọn nguy hiểm hơn cả vẫn là bọn trí thức dùng cái uy tín của mình, hướng dẫn đám hậu sinh vào con đường vong bản, lầm lạc bằng giọng ‘trịnh trọng, uyên thâm, lấp lửng’ ”.
Người ta đọc sách Bùi Giáng, và nghĩ rằng “thằng cha này in nhiều ghê!”, nhưng không mấy ai thấu rõ cảnh đau lòng, chua xót của họ Bùi, vì mỗi khi in một cuốn sách là một lần ông phải bán ruộng đất hương hỏa của song thân để lại, và đã từ lâu, ông không còn một mảnh đất nhỏ cắm dù tại nơi ông sinh trưởng nữa.
Những người thành khẩn, thiết tha vô vụ lợi với nền văn học nước nhà như Bùi Giáng quả là không có bao! Ngoài khía cạnh đam mê, nhiệt thành, ông còn là một người có sức chịu đựng bền bỉ hiếm có. Ông có thể nhịn ăn một tuần liền để đọc sách hay viết sách. Nhờ có căn bản ngoại  như Anh, Pháp và Đức, lại thêm một bộ óc thông minh và một trí nhớ lạ lùng - chỉ nhớ những gì cần nhớ  - còn quên hết, cả ngày sinh tháng đẻ; do đó ông còn có một tầm kiến thức vô cùng sâu rộng - mặc dù ông không hề đỗ đạt bằng cấp này nọ. Đã có người gọi ông là “mọt sách”. Nhưng nói thế là nhầm, bởi ông là người biết tiêu hóa, lọc lựa những gì hấp thụ được. Một bằng chứng cụ thể là bộ sách “Tư tưởng hiện đại” (3 quyển).
Riêng về hội họa, ông có ý định tổ chức một kỳ triển lãm từ lâu. Nhưng sau khi nhờ một người bạn xin phép giùm không được, ông chán nản không thiết vẽ nữa. Gần đây, ông định đốt bỏ tất cả số tranh hiện có (trên 100 bức). Ông bảo: “Tôi không muốn triển lãm nữa anh à! Tôi sẽ đốt hết. Tôi vẽ lúc tôi thích, lúc chán thì thôi! Đốt đi chứ để làm gì! Đời này có ai hiểu mình đâu anh!”
Với một mẫu người đặc biệt, khác thường như họ Bùi, tôi nghĩ, dẫu có viết cả trăm trang giấy về ông, cũng vẫn còn cảm thấy chưa đủ.
Nên chi tôi tạm ngừng tại đây những ghi nhận về khuôn mặt đời của Bùi Giáng và mời độc giả bước qua phần thứ hai. Ở phần này, tôi ghi lại những cảm nghĩ của tôi về tiếng thơ của một người được thời đại mệnh danh là “cuồng si”? hay gã “chăn trâu trên đồng cỏ Việt Nam?” Như ông, thỉnh thoảng vẫn tự nhận bằng giọng bỡn cợt, khinh bạc.
°
Bùi Giáng một trong những thi nhân cách biệt với đám đông, tuy xưa ông đã từng đăng thơ trên  tạp chí Bách Khoa, Mai… Những tiếng thơ rất ít phổ cập đại chúng, ngược lại, ông là người được anh em trong văn giới tại đây nhắc nhở nhiều nhất. Không phải tại thơ ông khiến họ nhớ, cũng chẳng phải tại ông đã xuất bản nhiều trong vòng từ 1963 trở về trước, mà vì cuộc sống khác thường, tinh thần đôi khi bị mất quân bình, cũng như thái độ xử thế với anh em văn nghệ gây nhiều điều tiếng, nhiều giai thoại…
Nếu nghĩ về Bùi Giáng chỉ với chừng đó, tôi thấy quá bất công đối với ông, với một thi nhân ôm cao vọng về nguồn cội - đối với một tâm hồn vang vọng tiếng nói thâm sâu trầm kín của tinh túy đông phương nghìn thuở xa xưa, của lẽ huyền nhiệm đơn sơ đạm bạc. Tôi muốn đi vào thế giới tâm hồn nhà thơ này mong sao chụp vẽ được phần nào khuôn dáng đích thực Bùi Giáng, người đã bị đời  mệnh danh là cuồng sĩ.
Bằng những bước chân thành thiết, tôi tìm vào vũ trụ thi ca họ Bùi. Cảm tưởng đầu tiên trực nhận được nơi quê hương linh hồn chàng là cái cảm tưởng bồng bềnh trôi nổi giữa một khoảng trời bao la, gồm chứa nhiều bỡ ngỡ - hoang mang - lạc lõng hỗn độn. Từ vùng ưu tư này trôi dạt sang vùng ưu tư khác - từ một không gian của Nguyễn Du trầm tư một niềm tin Thiên Mệnh, tới một không gian vang bóng Heidegger cùng những băn khoăn khắc khoải siêu hình.
Trong cái thênh thang rộng mở bốn trời đó - người ta cũng thấy một Bùi Giáng chân phương không son phấn điểm trang với những xung động, những khao khát hướng vọng về một vĩnh thể trì tồn, một vũ trụ miên trường - một Bùi Giáng lửng lơ giữa hai đầu tuyệt đối và hữu hạn - một Bùi Giáng ngụp lặn, khua rẫy trong màn lưới trầm suy bên những quay cuồng, điên đảo của kiếp người. Phải chăng ông cố dựng tạo cho mình một thế giới phức biệt trên từng cao, rồi đưa hồn mình bay bổng, vươn thoát, hầu ẩn trú chiếc hồn đơn lẻ?
Giấc xanh cô độc thề vàng
nguồn tiên nga dậy mơ màng gieo âm
Xưa một Huy Cận với
Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển
suốt một đời như núi đứng riêng tây
Vì tham chiếm, vì khao khát khôn cùng một vũ trụ bao la, một khoảng trời cao ngút, một thế giời mộng tưởng ngoài hư vô, với đôi tay bé mọn, với ý thức bất lực trong tầm định mệnh của thân kiếp trót sinh làm người để đến đỗi nhìn thấy hình hài cô đơn, trơ trọi, lạc bước giữa nhân gian.
Nay ở Bùi Giáng, cũng mang tâm thức tìm về nguồn trời lượng bể, tìm về với tinh thần hoằng viễn phương đông với tinh túy dân tộc luôn bừng bừng cháy rực trong tiềm thức:
Vì thiên cổ và bây giờ gần gũi
vì hôm nay là chính bữa hôm qua
thế nên chi anh xin trở lại nhà
vì hơi thở là linh hồn của phổi
vì máu se là nhịp đập của tim
thế nên chi anh ngồi ở dặm nghìn
"Xin trở lại nhà” và “xin ngồi ở dặm nghìn” quê hương chàng là cõi miên viễn (?), cõi trú của những tâm hồn mang ý thức bị đọa lạc, đầy ải, lãng quên. Đây cũng là tâm thức chung của đa số thi nhân hiện đại. Chỉ khác nhau ở chỗ có tìm cho mình một lối thoát, tự tạo cho mình một tiếng nói, một sắc diện độc đáo không chìm lẫn, một niềm tin siêu việt hay không mà thôi. Ở nhà thơ này, cũng với những khổ đau, những cào xé đay nghiến của kiếp người:
ngủ yên nghe rộng mười phương
mây trời tâm hướng thổi hương lại đèo
sịch bừng suối đá trôi rêu
ghềnh se sắt vó ngựa leo chán chường
Tư tưởng của hầu hết các nhà thơ hôm nay, người ta thường ghi nhận được một thực trạng không biết nên mừng hay nên buồn, đó là sự chịu ảnh hưởng một cách máy móc hay vay mượn, hình ảnh ngôn từ của những khuôn dáng danh nhân Tây phương như của Nietzche, Malrau, Camus, St. J. Perse, Paul Claudel, Jaque Prévert, Eluard… hoặc núp bóng trong những Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,  Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương…
Không mấy ai chịu quay về với Nguyễn Du, một tác giả hậu bán thế kỷ 18, một thiên tài thi ca V.N mà tôi nghĩ không một thi sĩ thế giới nào sánh kịp, họa may chỉ một Tagore của Ấn Độ.
Riêng Bùi Giáng, với khát vọng về nguồn, về với bản thể dân tộc, với tinh túy phương đông, chàng đã chấp nhận Kiều của Nguyễn Du như ngọn lửa thiêng soi sáng tâm hồn khắc khoải, bơ vơ, đưa dẫn chàng tới một vòm trời cá biệt riêng tư.
Nửa năm hương lửa đang nồng
bây giờ cố quâän xuống giòng viễn lưu
cõi cư trú rộng băng cần
nhịp thao thiết gọi về thâu thiên hà
(xuống giòng viễn lưu)
Hoặc:
tôi người viễn khách đa mang
lọ là thâm tạ con đàng ai đi
ngồi trong cỏ mọc xanh rì
cầu xin mưa lại đền nghì cho hoa
Mang trong tiềm thức của một mùa xuân tinh thể đã mất một hình ảnh đã nhạt phai, một thần tượng đã không còn chân đứng. Thi nhân bước vào đời, vào cuộc sống hôm nay như một lãng tử đi giữa quê người mà nắng gió hiền hòa đã chia xa; còn chăng chỉ là những lầy bùn, những thương tiếc đang ngày một lớn thêm, loang rộng.
Buổi về đắm lụy điêu linh
còn nguyên xứ sở nguyên hình chiêm bao
máu se tàn lạnh điệu chào
trên đầu phố lạ vẽ mầu quê chung
Quê chung ở đây phải chăng là cõi trú - là chốn dừng chân cuối cùng của những tâm hồn khao khát tìm ý nghĩa cho cuộc sống xô bồ phồn tạp, mà chiều sâu chỉ là một khoảng trống hãi hùng và bề mặt chỉ là những bon chen tư kỷ, những vật dụng nổi dềnh. Trước thực trạng đen tối đó, tất cả còn gì? Còn gì đâu! Kể cả những biểu tượng của những niềm tin thiêng liêng cũng đã xiêu đổ - khiến bước chân thi nhân trên lộ trình xuyên qua cuộc đời đi về tình người chỉ là những bước chân hẫng, hụt giữa một khoảng không chới với u mê. Cả phần đất mà vết dầu vật chất lẽ ra chưa đủ điều kiện, hoàn cảnh thấm tới, văn minh cơ khí chưa lan tràn xâm lấm được cũng đang xa dần, xa dần truyền thống đạo nghĩa thanh tao.
Tin từ cố quận bờ nương
hoàng  hôn thâm tạ môi hồng bình minh
gửi trăng lục nhạc về ghềnh
bước du tử dựng miếu đền chiêm bao
mọc từ đất trích mòn hao
mùa xuân tinh thể xin chào bồng sơn
cổng xô còn vọng tiếng hờn
xin em ở lại bấm tròn cho cung
Ở Bùi Giáng, người ta thường bắt gặp những tư tưởng thâm sâu nhưng chua xót, những hình ảnh tượng trưng cho một dĩ vãng vàng son nhưng đã mai một. Là những chiếc lá rơi, là những cánh hoa hiu hắt thoáng bay, là những tiếng cười tố nữ mong manh, trong vắt thủy tinh, bàng bạc tiếng hò ruộng đồng, xa vắng như tư tưởng người xưa. Như  một Huy Cận tiền chiến bằng trực giác, bằng linh  khiếu thi nhân đã nhìn ngắm mùa thu đang chuyển mình qua ngàn cây núi thẳm:
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Cũng thế, họ Bùi cam đành dìm đắm thân xác đọa lạc tâm hồn trong vũng lầy cuộc sống, trong những xao động u ẩn của nhân thế để tạo cho mình một kinh nghiệm, một tư-hữu-đau-đớn-xót-xa- rồi từ đó, ông đưa tư tưởng vươn thoát lên cõi miên viễn mà danh từ nhà thơ thường dùng là chốn vĩnh-thể trì-tồn.
sóng đi lớp mọc phiêu bồng
mang về thớ củi chất chồng mưa sa
thư cưu mỏng mắt hiên nhà
tròn như ngược tự người ta ngó người
đất xanh vẽ cỏ xa trời
Với ngôn từ dung dị, trong sáng, những hình tượng mang nhiều sắc thái quê hương Việt Nam cùng những địa danh đất nước, tôi muốn nói đó là những chất liệu chính mà Bùi Giáng đã phối dựng một vòm trời thi ca mang tên ông, một khoảng không gian mang linh hồn Việt Nam, mang linh hồn phương đông cổ kính, không náo hoạt, không sốc nổi hời hợt; mà trái lại, rất dịu nhẹ trầm sâu, phảng phất những nét khinh bạc kiêu sa, những dấy động dằn vặt đã lắng xuống đáy sâu tiềm thức để siêu hóa thành những khắc khoải tư duy:
giết linh hồn lúc nghiêng mày
mù sa xứ sở trùng vây hai miền
(Nietzche)
Hoặc:
Bây giờ tôi ngó bãi ngang
bên này dọc ruộng duỗi vàng hoe nương
Nói theo Hoài Thanh, Hoài Chân, khi kết luận về Huy Cận là: “… đã gọi dậy cái hồn buồn Đông Á, đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”. Thì nay với nhà thơ Bùi Giáng, quả ông cũng đã đang nổi trôi trong nguồn suối sầu vạn cổ. Nhưng không phải vì thế mà Bùi Giáng giống Huy Cận. Bởi ở Huy Cận, đúng như Uyên Thao nhận định “ông là thiên nhiên từ trước khi thành thi sĩ…” 4 còn Bùi Giáng chỉ mượn thiên nhiên làm bối cảnh trải bày như Xuân Diệu hay lẩn vào thế giới nội cỏ mây ngàn, của trăng của gió… làm cõi ẩn trú cho những chán chường, mất mát lòng tin, sút giảm độ thành khẩn. Thiên nhiên trong thế giới thi ca Bùi Giáng là một thứ thiên nhiên phác vẽ, phối dựng bởi lý trí thức thỉnh và tiềm thức ấu thơ, làm bật nổi những đay nghiến khát khao hướng vọng về một giá trị thiêng liêng, một tinh thể sơ khai thánh thiện.
lạc  về đầu rú truông khe
trút linh hồn giữa máu me xương rờn
chuyện đời đau khổ từng cơn
màu hoa cỏ mọc mang hờn phượng xanh
em về mùa hạ mông mênh
dựng hồn sông lục vây thành chiêm bao
hoặc: "Cánh tay trắng vói chùm bông kết trái vói chùm bông em vói hai tay vói nguồn phai nhạt đầu ngày mùa xuân mùa xuân và mùa xuân măng mọc mùa xuân ở lại vòng tay cánh trắng đi về với suối đi về với hoa không về được nữa…”
Trước những biến thái thảm bại,  trước những suy sụp của hiện tại, một thứ hiện tại chênh vênh mất mát trước sự đi xuống, đi xuống mãi của những giá trị tinh thần, trước trào lưu văn minh cơ khí đang vùn vụt tiến tới, trước chiến tranh tàn phá, đục rữa mọi công trình, mọi cố gắng đi đến một đời sống xứng đáng hồn nhiên, thuần hậu, thi nhân tìm vào thiên nhiên, ẩn vào cõi trú thanh thoát của một vũ trụ trong sáng. Ở Bùi Giáng, thiên nhiên còn mang ý nghĩa một tinh thể, một quê hương khả dĩ dung nạp nổi một tâm thức đã quá sôi động, quá ray rứt hoài nghi sự lan tràn của cuồng lưu hiện sinh, của những thúc bách, những hoang mang trước bao nhiêu xung động, bao nhiêu ngược đảo xã hội đã đưa thi nhân đến đỉnh chóp bi thảm, đến chân tường ô nhục:
trong đời cây cỏ á đông
chết về một nửa trong đồng tây phương
một tà áo mỏng bay ngang
quần hoen ố đẹp hai hàng chân đi
(trong đời cây cỏ)
giữa đêm khép mở bùi ngùi
nhìn mơ hồ thấy một người xa xa…
Về với thiên nhiên, thi nhân nhìn nhận mình gần gũi hơn với quê nhà, với những gì Việt Nam thuần chất, những gì của Việt Nam đang tàn rữa, đang hằn in thương tích trên thân thể úa tàn. Càng tha thiết say đắm với tình yêu đất nước, với tình yêu tổ quốc bao nhiêu, họ Bùi càng cảm thấy đau xót, càng quay cuồng trong cái tuyệt vọng khủng khiếp của những bế tắc, những mặc cảm tủi nhục, ươn hèn - nhà thơ càng cảm thấy mình xa lạ - lạc lõng vì bất lực, vì ý thức được những gì đang và còn lụi nát, còn rời xa. Nhưng chỉ với một tâm hồn thành thiết, một nồng độ đam mê, một ý hướng mong muốn kéo lại, ghìm giữ, gọi về không thể nào đưa đến một biến thay. Cho nên, có lẽ chúng ta cũng nên thông cảm với họ Bùi khi ông có vẻ yếm thế, bi quan:
bây giờ sông rộng trời xa
bàn chân đo bóng mù sa chân trời
Cũng như một số nhà thơ khác, ông cảm thấy không còn gì đáng để bám víu, đáng để ngợi ca tôn thờ trong cái hiện tại loạn ly này. Ông về với cõi trú tư duy, nhưng không vì thế mà tiếng thơ ông chỉ là những mộng ảo không tưởng, những thanh sắc rạc rời, hời hợt bóng nhoáng kêu to những âm thanh của khuôn mẫu cũ. Trái lại,  tiếng thơ ông vẫn chảy xiết, vẫn cuộn trôi bên nguồi cội sáng trong của đông phương, của ca dao hay của tinh túy dân tộc, của ý thức rực sáng bộc  lộ một tâm hồn vươn lớn, thoát cao trên mọi thấp mọn thói thường thế nhân, để hòa mình vào vũ trụ thâm sâu, siêu thoát:
ngành cong vẽ lá trong lời
sớm miên mang vọng điệu người cổ sơ
chiều thơ dại nước khe mù
con chim về núi mộng chu-hán-đường
(vào nguyên thủy giục)
hoặc:
Bước qua rào lá nghe chim
chào cây có trái xuân tìm gió đưa
ngàn hoa rớt hột về mưa
(dệt áo)
hoặc nữa
vành cong chim nhớ buổi chuyền
rời sông bến đẩy qua miền đông du
(phusis sơ nguyên)
Trong thế giới cách biệt của riêng thi nhân, họ Bùi cũng không quên dựng vẽ một tình yêu mộng tưởng, một tình yêu mà chỉ có nhà thơ mới có đủ đam mê, đủ đắm đuối đón nhận. Người tình của Bùi Giáng không là một thể thực hiện hữu giữa một không gian hữu hạn như thế giới phàm nhân, người tình của chàng là Thúy, là Kiều, là tố nữ, là tiên nga, đúng hơn là biểu tượng của một tinh thể, một nguồn suối miên trường, thoảng như làn gió, như hơi thở nhẹ, buốt trong như tuyết băng, hay là chính dĩ vãng, chính tiền thân thi nhân.
Tam kỳ Rường quán ra sao
Tòa thiên nhiên nọ mòn hao bây giờ
Cầu xin tinh thể xuân chờ
Em là em của mộng chờ của em
(Em là Em của)
Hoặc:
Xa trời anh bỗng nhớ em
Giữa miền đất cũ xương mềm trong da
Rằng hồng nhan ấy đàn bà
Mà em cũng vẫn như là trăng xanh
Hoặc nữa:
Mở hai hàng cỏ lim dim
Màu phơi vô định mênh mông phượng quỳ
Nước xanh nương tử tên gì
Mỏng thân mở khép tuyết trì ngự da
Nhưng không phải ôm ấp một tình yêu trườu tượng không tưởng đó mà thi nhân không bị những đớn đau dằn vặt của tình yêu, bởi hồn vốn đa mang, tình vốn nồng nàn mê luyến hơn ai hết, cho nên Bùi Giáng trước sau vẫn không thoát khỏi phận kiếp nô lệ vì tình và có thể chết vì tình, vì cái nòi hào hoa, cái nghiệp tài tử
người bước xuống ngựa  ngăn đường bốn vó
nghe âm thanh người khóc ở sau lưng
người tay vói bắt hờ bông phượng đỏ
người phố xanh cây lá rụng vô chừng
…..
sương chìm đắm đời anh trong huyền mộng
hờn nguyên tiêu bờ hy lạp sang đò
Với một tâm hồn đã trốn chạy vào cõi mộng, vào cảnh trí vô cùng của vũ trụ hư không, vẫn còn cảm thấy như bị lãng quyên bị ruồng rẫy đó, thử hỏi thi nhân còn gì để bám víu, còn gì để tin tưởng trông vào? Nhưng với Bùi Giáng thì vẫn còn ông còn - một niềm thành khẩn nơi tương lai, không phải cái tương lai gần gũi, sát kề hiện tại, ở đây tương lai là một kiếp mai sau, một kiếp mà thi nhân tin rằng mình sẽ hiện hữu trong khung trời ảo huyền đó:
một giờ tỉnh thức ra khơi
sầu reo bến trước đi rời cõi sau
hay:
đi về trong thế kỷ sau
nhìn trong mắt thấy trời đau trong mình
(đi về)
Bàn về nguyên nhân dấy loạn tâm hồn của Bùi Giáng, có người cho rằng đó là phản ứng của tri thức bị dồn nén cao độ trước cuộc chiến tranh phi lý đã và đang tiếp diễn. Cái điên loạn của họ Bùi cũng là cái điên loạn chung của đất nước này, của cả những ai có một chút ý thức về thân phận nhược tiểu đất nước; chúng ta đang ngoi ngóp khua vẫy trong cái thế cùng đường. Không bao giờ và không ở đâu có một dân tộc đau khổ vì chiến tranh như dân tộc Việt Nam. Đó cũng là nhận xét của Jules Roy, tác giả tập hồi ký “Trận đánh Điện Biên Phủ”. Thế hệ Bùi Giáng là thế hệ mà vừa sinh ra, mở mắt lớn lên, đã bị dập vùi trong chiến tranh vô cùng đau đớn nhục nhã, vì kẻ chiến thắng chưa chắc đã cần nắm được vinh quang, hãnh diện của sự thắng cuộc, trái lại họ sẽ phải gánh chịu điêu tàn trong mặc cảm ăn  năn phạm tội. Cái phi lý cùng cực một ý thức: “Đều là nạn nhân và vật hy sinh trong thảm kịch tương tranh vẫn là nòi giống Việt”. Một thứ chiến tranh hủy diệt mọi cố gắng của con người muốn vươn, đạt, giành giựt lại quyền làm người. Một thứ chiến tranh đã xô ném loài người tới giấc u mê, đối diện với bất lực, với những khô héo tàn rữa:
Chín mùa đông đổ sau hè
Bây giờ máu đỏ trôi về tràng giang
Xuân rừng tía mộng lang thang
Bước chân về bỗng chìm ngang lưng đèo
(Rừng tía)
Nỗi u uất xót xa của Bùi Giáng không chỉ thu hẹp trong một phạm vi không gian hữu hạn. Ông mang nặng trong tâm tưởng của những nghiệm suy về cái bất hạnh chung của nhân loại và coi đó như một định luật bất biến. Một biểu tượng trong tầm định mệnh mặc nhiên. Trước những gẫy đổ, những mai mỉa của cuộc đời, con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc, nhưng chúng ta đã gọi về được gì, tìm thấy những gì cho nhu cầu tồn sinh thúc bách, ngoài những:
Con người là để chửa hoang
Khóc rưng rức để hai hàng xa nhau
Khép hang hở, để nghiêng đầu
Hốt hoa rụng để chia mầu chửa hoang
(chia mầu)
Ngoài những
Máu se từng sợi chỉ vàng
Chết ngang ngửa sống giấc bàng hoàng mê
Tỉnh say đứng phố ngồi hè
Khi viết về Gabriel Marcel, họ Bùi đã nhận định: “Tâm thức người thời đại chúng ta càng ngày càng duy lý một cách bướng bỉnh. Niềm tin Tôn giáo bát ngát khó mà thấm nhập vào tâm hồn những người có đầu óc khoa học. Hình như những danh từ văn minh tiến bộ, đã phờ phỉnh chúng ta, gạt chúng ta ra ngoài những truyền thống thần bí cương liệt”. 5
Trước những gẫy đổ, xiêu nát chiến tranh, của dĩ vãng, mang trong tâm hồn những chênh vênh, hoài nghi của hiện tại, của nếp sống tinh thần đã bị biến thái, méo mó bởi sự rỗng trống niềm tin, tư duy bế tắc trước những hệ thống tư tưởng thời đại quay cuồng, con người càng ngày càng sa lầy trong cái hố phù phiếm của lý trí, của những khuynh hướng duy lý, bắt nguồn từ Hégel tới những tiêm nhiễm của lý thuyết duy vật biện chứng, khơi dẫn từ Marx, đã đưa chúng ta tới chân tường tuyệt vọng. Tới sự xa lìa tàn rã của tinh thể tâm hồn. Họ Bùi ôm ấp hoài bão muốn dựng lập lại cho mình, cho đời, một thế quân bình giữa lý trí phiến diện nguy hại và bản thể tồn sinh đang rạc rời. Như cơn gió mát, như hơi thở nhẹ, như lời vọng âm vang từ ngôn ngữ yên lặng của thiên nhiên hồn nhiên, dung dị. Nhưng trước mắt nhìn thi sĩ, cái không gian riêng tây, âm vang một tiếng nói tròn đầy truyền kiếp, một danh từ viết hoa từ thuở lọt lòng đã thoát xác, đã trở thành một vùng biển máu hòa chung nước mắt mang tên Việt Nam. Cái thời gian chảy xiết mấy nghìn năm cuốn trôi mệnh nước thăng trầm, có những khoảng khắc thăng hoa, nay chỉ còn là  những con dốc đứng thẳng theo một chiều tăm tối, thảm khốc, gió mưa.
Bùi Giáng buột mất hay chúng ta buột mất, chúng ta buột mất hay nhân loại buột mất cõi trú của tương lai, sân ga của hiện tại, bến đậu của linh hồn đơn lẻ:
Tìm cố quận xanh mờ thủy nguyệt
Kiếm quên hương khóc bích ngạn đào
Nhung nhớ chết đọa đày biền biệt
Gió một vùng huyễn mộng chiêm bao
(Câu hỏi)
Những ray rứt, những đớn đau khoắc khoải của Bùi Giáng khiến ta  nhớ tới một Tarrou trong La Peste của Camus. Chiến tranh cũng là một thứ dịch hạch mà hậu quả của nó là những nhát dao chém xả, lao tới, hay những làn roi cay nghiệt quật vụt xuống thân phân con người. Nó trở thành những ám ảnh siêu hình từ tiềm thức, vây hãm đến cả mộng mị chiêm bao. Vòng dây tuyệt vọng siết dần, thắt mãi, chặt lại, cuối cùng sức trì kéo của trọng lực tinh thần hoang mang, ý thức bi đát, đưa nhà thơ hay chính dân tộc ta chạm kề những điếm nhục thảm thiết:
Những bà mẹ khóc canh thâu
Ngàn năm có biết đất nào nấu nung
Làng kia lửa cháy điệp trùng
Bốn mùa thiêu đốt tận cùng hang con
Nếu chúng ta công nhận rằng tiếng thơ Thế Phong là của người lớn, của những ai muốn tìm vào sự thật của trạng huống xã hội điên loạn này, thì chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng Bùi Giáng là của những ai muốn tìm hiểu ít nhiều khía cạnh siêu hình, có từ một thi sĩ đã bị đời coi như mất thăng bằng trí não!
Quả thế, không những thế giới thi ca của họ Bùi rất bao la mà còn vô cùng phồn tạp, hỗn độn. Bên cạnh những câu thơ chứa chất những ảnh hình, những tư tưởng thâm sâu, thi nhân còn vô tình hoặc hữu ý, sắp xếp những bài thơ không những hỏng từ ngôn ngữ, từ hình ảnh đến cả nội dung nữa. Người đọc dù can đảm tới đâu, dù thân thiết với tác giả bao nhiêu chăng nữa cũng không thể chấp nhận nổi những bài thơ lục bát gần như vè, những bài thơ xuôi suốt một hai trang không hề có một dấu phẩy, cũng như ngôn ngữ lủng củng tới độ người đọc có cảm tưởng: nếu viết một vài giòng ra và không đề tên Bùi Giáng, dám chắc có người sẽ lầm tưởng đó là đoạn thư của một người nhà quê thiếu học với những lời lẽ nôm na dùi đục.
“Mùa lụt năm nay anh chèo ghe bắt cá hai con cả thảy bỏ vô nồi nướng đủ hai con một lần ăn hết trong miệng hàm răng em tròn như tiêu ớt no nê thiên thần trời cao té xuống cười như nắc nẻ…”
(Hạnh phúc)
Hoặc:
trời xanh úp mặt nghe tin
thôi rồi em má ri lyn đi rồi
(Trời khóc Marilyn)
Hoặc:
mở trong nguồn lệ phương tràn
cánh se dâu biển hồng tàn khép xiêm
lệch tà sổ đứt ra xem
mòm con mắt ngó ồ em em ồ
(Ồ em)
Hoặc:
trăm năm trong cõi  người ta
thân còn chẳng tiếc lọ là ô Ri
riêng công chúa nọ Ly Kỳ
là tôi tiếc suốt li bì càn khôn
(Nhớ Chế mân)
Hoặc:
ở ngoài em có làn da
ở trong em có một tòa thiên nhiên
tứ chi là cẳng, tay mềm
trăm năm động đậy gọng kềm thiên hương
(Biết sao nói năng)
Hoặc:
mở hai hàng cỏ thơ ngây
mắt người nương tử đêm dày dạn sương
mở hai hàng cỏ lên đường
liễu in giòng rụng xin nường mở xem
(Tượng số thiên nhiên)
Nhưng xét cho cùng thì chính từ chỗ hỗn độn ngớ ngẩn, lăng nhăng đó đã cho chúng ta thấy rõ khía cạnh tâm thành của họ Bùi. Chính từ chỗ mà thoạt nhìn, chúng ta tưởng là những yếu kém, khiếm khuyết, của thi nhân lại là cả một dụng ý, cố tình của Bùi Giáng trước cảnh huống điên đảo điêu linh của đất nước này.
Bằng vào những yếu tính căn bản của con người, của xã hội đổ nát hôm nay, ông phủ nhận và cố gắng phá vỡ mọi hệ thống được dựng tạo bởi lý trí phù phiếm, khiếm khuyết, có tính cách xảo ngôn, ngụy trá của khuôn tắc duy lý, duy vật, kể cả quan điểm duy linh mà ông cho rằng sự vươn thoát vào cõi hư vô, huyền mộng với ý thức chạy trốn, quay lưng, tìm nguồn an ủi cho riêng mình. Vì theo nhận thức của thi sĩ, chính những hệ thống, những khuôn mẫu lý trí, máy móc đã đưa tới tình trạng phá sản, bầm giập của chủ thể tư duy, cản chắn hoài bão tìm về cõi siêu việt huyền nhiệm. Lối thoát thỏa đáng cho những bế tắc, những tuyệt vọng của tâm tưởng bệnh hoạn thế kỷ. Đây cũng là một lý do, không phải để biện hộ cho tiếng thơ mung lung, không đều giòng của Bùi Giáng vì nó chính là chủ đích của nhà thơ. Niềm ao ước gần gũi nhứt mà ông hằng ôm ấp là sự trở lại, quay về một nếp đời giản dị, tự nhiên như lá trên cây, như trăng sao trên trời, như nước xuôi chiều gió, như hơi thở của nhịp tim, như nụ cười trinh bạch trên môi người con gái. Cho nên chúng ta cũng không nên lấy làm lạ, tại sao thi sĩ có thể làm tới cả trăm ngàn bài thơ chỉ để ca ngợi một chiếc lá - một chiếc lá… mong thông cảm được lời chim chóc hồn bướm hoa vạn vật:
Cúi đầu tuân nhận lời chim
Mở hàng môi đỏ của tin cho đời
(cành cong thu đỏ)
Hoặc nữa:
hai bàn tay ngón tay xin
môi mơ màng đỏ của tin ngực tròn
nghĩa là hơi thở chon von
mở xuân thu sợ hao mòn tiếng chim
quay về ngủ mộng bình nguyên
còn mang trong bụng hình tiên nga ngồi
ngày mai mở mắt ngó trời
còn nghe trái đất suốt đời loay hoay
Tưởng rằng xa mà thật gần kề, tưởng khinh bạc kiêu sa mà thật đơn sơ thuần hậu, tưởng giông bão một vòm trời mê loạn mà thật trong sáng mơn man, tưởng không mà là… Cái hư ảo, thâm thúy phảng phất quạnh hiu, đơn lẻ của tiếng thơ Bùi Giáng ở đó, cái “lớn” của thơ Bùi Giáng ở đó. Phải chăng cái vô cùng nằm ngay trong cái đơn sơ mộc mạc, cái tuyệt đối nhìn thấy từ hữu hạn ý thức, cái siêu thoát, thoát từ nhơ nhớp lầm than. Cái tinh thể trì tồn giao hòa từ cỏ cây gỗ đá, trăng hoa, từ cồn bờ mương, từ chim muôn dã thú. Tiếng nói linh hồn Bùi Giáng là tiếng-nói-im-lặng-thiên-nhiên, của vô-ngôn-vũ-trụ-huyền-nhiệm linh cảm, của tiềm thức đơn thuần. Với một tiếng nói vượt ngoài tiếng nói, một tâm hồn đã lẩn tan trong từng thớ gỗ, sơ cây cọng  lá… Do đó, ngôn ngữ chỉ còn là những xác hình vô nghĩa, và lý trí phù phiếm chỉ còn là lớp bụi bám, những đám mây vẩn đục bao quanh một tinh thể siêu việt mà thôi.
°
Ý nghĩa cuối cùng của tôi có lẽ là lời nhủ thầm cho chính tôi “Mi hãy bước tới bằng bước chân của gió - Mi hãy đi vào bằng cửa ngõ cảm thông - Mi hãy nhìn vào và soi tỏ khuôn mặt bằng ánh sáng của trăng - Mi hãy trút bỏ những hành lý hệ thống khuôn nếp mà đời đã trang bị cho mi - Mi sẽ tiệm cận hay giao thoa với vũ trụ vô ngôn, với cội nguồn tiếng nói đó. Và hãy nhớ - Khi Khổng Phu Tử hỏi các môn đệ cao thêm về khát vọng đời sống - Sự giải bày của các môn đệ tựu trung đều một lòng thành khiết kiến tạo xã hội, nâng cao đời sống con người. Chỉ riêng một Tăng Điểm khi được hỏi tới đã gõ đàn thưa rằng: “Tôi muốn mùa xuân mặc áo bông, rủ một bầy trẻ thơ ra tắm mát sông Nghi, trở lên, hóng gió nền Vũ Vu, rồi hát mà về”. Khổng Phu Tử đã gật đầu, buồn mà rằng: “Ta cũng chỉ muốn được như Điểm thôi”.
--------------------------------

1

Sài Gòn Kim Hải Việt Nam X.B năm 1962. Toàn bộ gồm 3 cuốn, làm một thời xôn xao dư luận thế giới văn hóa tại đây.

2

Đây là một tập sách do nhà xuất bản Lá Bối ấn hành gồm những lá thư của Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện gởi cho Martin Luther King, J. P Sartre, André Malraux, Réné Char., H. Miller.

3

Nhưng kết quả của của sự tạo dựng học thuyết Kant phải chăng đã không tạo lập sự liên lạc của việc hòa hợp giữa ý thức con người và ý niệm căn bản Siêu Hình Học? - Phải chăng sự thiếu liên lạc ấy đã không mang lại đường lối cho sự gây dựng học thuyết Kant?
Tuy vậy lời chỉ trích tư tưởng triết học của một triết thuyết có tính cách văn chương, chứng tỏ rằng không đủ để đặt vấn đề ý thức con người một cách giản dị, trái lại, sự mơ hồ của những lời chỉ trích cuối cùng cũng cho chúng ta thấy rằng chúng ta chưa đi vào vấn đề đó, ngay cả bây giờ, khi có được kết quả chắc chắn của sự tạo dựng căn bản cho học thuyết Kant (lược dịch của DTL).

4

Lược khảo về thơ 1900-1959 quyển 2

5

Trích trong “tư tưởng hiện đại” của Bùi Giáng – trang 9.

Chương Ba: Tô Kiều Ngân
NGƯỜI BỊ MỆNH DANH LÀ VĂN NGHỆ VỊ ĐỊA VỊ -VỊ GHẾ NGỒI - VỊ THỜI THẾ - HAY NGƯỜI TRỞ VỀ KIẾM TÌM MỘT QUÊ HƯƠNG ĐÃ MẤT?
Khi cuốn sách này còn năm trong trí dự tưởng, tôi đã nghĩ đến sự có mặt cần thiết của một sắc diện quân đội. Một sắc diện khả dĩ phản ảnh trung thực những đớn đau, những dằn vặt, khắc khoải, của thế hệ thanh niên hiện tại, của những người cầm súng hôm nay, trong giai đoạn nghiêng ngửa, điêu đứng của quê hương, của nòi giống.
Nói đến những văn thi sĩ tại ngũ quả thật là không thiếu. Nổi danh có, lu mờ có, nửa mùa cũng có. Nhưng cái khó là lựa chọn sao cho được một khuôn mặt xứng đáng, chữ xứng đáng ở đây tôi dùng với một giới hạn đó là phạm vi quân đội.
Số tác phẩm nói về đời sống, cảm nghĩ của người cầm súng, viết bởi những tác giả quân đội, tôi thấy rất nhiều, nhan nhản ở các tiệm sách, các lề đường. Có điều là hầu hết đều rơi vào hai trường hợp đáng tiếc; hoặc quá lãng mạn hóa cuộc sống thực đầy cam go dằn vặt, đầy bi phẫn, hay chán chường chua xót của người xả thân nhỏ máu tại khắp các chiến trường. Hoặc đề cao một cách lố bịch, thiếu ý htức, theo kiểu văn chương tuyên truyền giai đoạn loại rẻ tiền; khiến chính những người được nói đến, không những không vinh dự chút nào, trái lại còn thấy hổ thẹn, buồn tủi vì bị phản bội, lợi dụng một cách trâng tráo. Họ không hề nhìn thấy vóc dáng họ, dù phảng phất qua suốt tác phẩm.
Tôi không thể chịu nổi những vị văn thi sĩ ngoài mặt ngợi ca đời sống chiến binh, trong tâm thần, sự thực lại chỉ nghĩ tới chuyện giải  ngũ, hay lên lon, hay làm cách này, cách nọ, làm sao kéo dài được cuộc sống nhàn hạ “ăn cơm chúa múa tối ngày” tại các văn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất. Hoặc trước khi mặc khoác bộ quân phục, họ đã từng chạy chọt ngược xuôi, tìm đủ mọi cách trốn tránh, cuối cùng sau trăm phương nghìn kế khổ nhục, vẫn không thoát được, họ đành nhập ngũ với bao nhiêu bất mãn than trách… Sau đó, muốn được tiếp tục cuộc sống nhàn hạ cũ, muốn chữ thọ to lớn, đảm bảo hơn kẻ khác, các vị nầy đã không tiếc lời dao to búa lớn, gân cổ, gào thét, hoan hô… Nào là anh hùng dân tâộc, anh hùng cứu quốc, nào là thiên thần nọ thiên thần kia. Một mặt những vị này không bao giờ bỏ lỡ những dịp may chê bai, kết án những tác phẩm, tác giả nào xét ra  không cùng quan điểm, đường lối tuyên truyền rẻ tiền như họ.
Cứ y như chỉ có họ yêu nước thương nòi mà thôi; họ làm cho người bàng quang lầm tưởng rằng nếu đất nước này không có họ thì mất về tay cộng sản từ lâu. Nếu chính phủ có cho họ giải ngũ hoặc cho lên lon, họ sẽ xua tay, lắc đầu nguây nguẩy kiểu “em chả” bà phó Đoan.
Thật mỉa mai và đáng thương thay cho những vị văn thi sĩ quân đội loại này. Trong khi những người thành tâm, thiết tha với vận nước, với quê hương lại âm thầm thể hiện nhiệt tâm của mình bằng những hành động cụ thể, những việc làm thiết thực, không ẩn ý không hèn mạt. Vì thế, tôi thấy khó vô cùng trong việc chọn lựa. Không phải tôi đòi hỏi tác giả đó phải què chân cụt tay vì chiến tranh, cũng không bắt buộc tác phẩm của họ phải lột trần được mọi cảm nghĩ, mọi sự thực của đời sống chiến binh.
Bởi tôi biết, dưới thời nào, chế độ nào, cũng có những điều muốn nói nhưnng không thể nói được vì lý do này, lý do nọ, hay nhiều khi vì chính sự ý thức của người viết. Có khi phải chờ đợi cả năm mười năm sau, cũng có khi chưa kịp nói, chưa kịp viết, đời mình đã không còn! Nhưng tôi mong mỏi nơi họ những cái mà họ có thể nói được bằng tất cả rung động chân thành thiết tha  như thế, họ không tự lừa dối họ, tức đã có phần nào tự trọng, thứ nữa, họ không quá khinh khi độc giả. Còn nếu không thể viết được thì điều hay hơn cả là hãy tự im lặng, chứ đừng bao giờ dùng thủ đoạn, ép gò lý trí, bao bọc sự thực bằng một lớp son phấn phường tuồng.
Sau một thời gian dọ dẫm, cho tới khi tôi viết đã được gần nửa suốn sách này, mà vẫn chưa tìm thấy một mẫu người như tôi muốn. Không phải là không có, tôi chưa gặp, đúng hơn, và tôi đành phải tạm gác ý muốn trên lại, rồi tự an ủi rằng sau này nếu bất chợt bắt gặp khuôn dáng mộng tưởngkia, tôi sẽ viết vào cuốn sau.
Thế rồi hôm đó, một buổi sáng đi thâu thanh trên đài Quân Đội, trong Nha CTTL, đầu đường Hồng Thập Tự, ở đây tôi gặp Đại Úy Tô Kiều Ngân. Ông mời tôi và một người bạn vào phòng chơi. Tôi bước vào căn phòng còn ngổn ngang bàn ghế, tủ sách, tài liệu lung tung. Hỏi ra mới biết ông đang dọn phòng về đây. Ông hỏi tôi: “Toa có cuốn thơ của moa chưa?” Tôi trả lời chưa, nhưng đã nghe nói tới. Ông đi lại  bàn giấy với lấy cho tôi một cuốn thơ Trường ca Người Lính Việt Nam. Tôi đón nhận với tất cả lòng cảm khích, cái cảm khích của một người nhỏ tuổi văn nghệ cũng như nhỏ cấp bậc. Sau đó, Đại Úy thi sĩ  Tô kiếm ghế mời chúng tôi ngồi. Tôi ngắm nghía tập thơ loại bỏ túi này, rồi nhìn ông nói đùa một cậu: “Anh có cái tên thật đẹp, đã Tô (ý muốn nói loài ong) lại còn Kiều, đã Kiều lại còn Ngân”. Cả ba chúng tôi cùng phá lên cười vui vẻ.
Đúng lúc ấy, Tường Linh, Nguyễn Uyên cùng vài người nữa ì ạch khiêng chiếc tủ vào. Trong một dáng điệu hết sức nhanh nhẹn, tự nhiên ông để chúng tôi ngồi đó, đứng lên đẩy chiếc ghế băng dài ra tận ngoài cửa kê tủ. Sự việc xảy ra  làm tôi hết sức ngạc nhiên. Cả một thân hình mỏng dính, gầy nhom của ông uống con xuống, gập hẳn lại, bậm môi, trợn mắt, mặt đỏ phừng phừng trước sức nặng của chiếc ghế dài. Tới đây, độc giả chắc lấy làm lạ và nực cười tôi đã quan trọng hóa một việc cỏn con vặt vãnh này. Nhưng độc giả nào đã  là quân nhân sẽ thông cảm và cùng nghĩ như tôi ngay.
Vì có ở trong quân đội, sống đời sống quân ngũ, mới thấu rõ cái giá trị quyền uy của một ông “quan ba”. Nhất là ông “quan ba” đó lại làm xếp một phòng, dưới có đủ sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ.
Độc giả hãy thử tính, muốn là chuẩn úy phải qua một năm, muốn làm thiếu úy, phải qua ba hay 4 năm quân trường. Tôi còn nhớ, thời gian thụ huấn tại Thủ Đức, trong phòng chúng tôi, trên bàn thường có khắc những phương trình của các khóa đàn anh để lại như “chuẩn úy = xài xể + mồ hôi + nước mắt”.
Từ chuẩn úy muốn lên thiếu úy xưa phải qua mấy năm vô chừng, nếu không có quan thầy hoặc thiếu mẹo vặt.
Từ thiếu úy lên trung úy bình thường phải trải qua 3 năm với điều kiện không bị tù quá số ngày ấn định. Còn từ trung úy lên đại úy ít nhất cũng 15 năm, dĩ nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ… (nay quy chế thăng cấp đã có nhiều cải tiến) ấy là tôi chỉ nói tới những vị có xuất thân từ một trường võ bị nào đó, chứ chưa nói tới những vị hạ sĩ quan. Sở dĩ tôi phải dài dòng như vậy, để giúp những độc giả nào không mấy rõ về ngạch trật trong quân đội cũng có thể có được một ý niệm tương đối về cái lon đại úy nó to tát, nó khó khăn vô cùng. Từ đó, độc giả thấy đại úy họ Tô đáng cho chúng ta cảm phục, khi ông cong lưng đẩy ghế, kê vai khiêng tủ, nhưng không phải vì thế mà tôi nẩy sinh ý nghĩ viết về ông.
Trước đây tôi đã gặp ông nhiều lần nhưng điều tôi ghi nhận nơi ông như trên đã nói, chỉ là giản dị, vui tính, lịch thiệp, thế thôi. Mà đó không phải là yếu tố quyết định sự chọn lựa. Tôi cũng đã từng gặp nhiều nhà thơ, nhà văn cởi mở, cũng dễ mến như ông nhưng cái thôi thúc tôi viết về ông bắt nguồn từ cuốn thơ “người lính việt nam”, trường ca.
Thoạt tiên, những tưởng với tiêu đề này, giỏi lắm, ông chỉ bằng hoặc hơn kém chút ít một vài nhà thơ quân đội đã đôi ba lần in thơ. Với loại này, bài nào nói tới đời sống quân ngũ người đọc cũng bắt gặp một số từ ngữ nay đã trở thành khuôn sáo mòn nhẵn: đó là những danh từ “như thiên thần nọ thiên thần kia, áo hoa nọ áo hoa kia; nào là anh đi chiến đấu, ở hậu tuyến, người em thơ mơ mộng, mắt huyền mắt xanh, thủy chung đợi chờ ngày anh về, choàng vòng hoa chiến thắng, vòng hoa yêu đương. Hay dù cho anh có phiêu bạt nổi trôi đường xa giói bụi, các em cũng không bao giờ quên một giây một phút; nào là trong lúc xa anh, em chỉ biết nhặt hoa ép bướm, thêu thùa, hay thơ thẩn, thẩn thơ với vườn hoa cây cảnh, rồi nhìn mây vàng, mây tím, mây xanh, mây đen… lờ đờ trôi.. các em liền gửi tâm sự vào đó nhờ cánh gió đưa đi… Hoặc nếu các anh có vì non sông mà tử tận, các em sẽ quyết tâm thủ tiết, hay sẽ chết theo anh cho vẹn chữ ân tình… Nào là đêm đêm lòng em mưa gió, lòng anh gió mưa, thầm gọi tên nhau…
Với thành kiến sẵn có, tôi càng tin hơn nữa, khi mở ra, ở phần bìa gấp, ảnh một cô gái đôi tám, tóc thả lơi vầng trán, mắt liếc mơ màng, môi bậu như nũng nịu với bông hoa nylon khá to nở xòe hơn chục cánh màu vàng ối”. Dưới tấm hình này thấy ghi một hàng chữ: “phụ bản em gái Dạ Lan”.
Bỏ hai tờ, đọc 4 câu thơ mở đầu:
Bảy giờ ba mươi mở máy thu thanh
nghe vọng tiếng người em từ hậu tuyến
tiếng em nói thiết tha ngọt ngào mê luyến
như tay ai đang vuốt nhẹ tim mình.
Với nguyên phụ bản “em gái Dạ Lan”, cũng đủ cho tôi có cảm tưởng bị đánh lừa, bị bội phản vì mấy ai không biết, gần đây, mỗi tối trên đài quân đội, một chương trình được mệnh danh là “tiếng nói Dạ Lan” do cô Dạ Lan “nữ sinh thủ đô”! phụ trách đã nghiễm nhiên trở thành một thứ người tình mơ tưởng của hàng ngàn vạn con người khắp bốn phương. Lại nữa, trong dịp Tết vừa qua, nha CTTL đã cho in cả trăm  ngàn tấm hình Dạ Lan, phát không cho anh em quân nhân, nhiều người ở trong quân đội cũng cậy cục tìm kiếm cho được một tấm hình Dạ Lan. Vậy phải chăng đại úy họ Tô đã có dụng ý thương mại hay tuyên truyền khi cho in tấm ảnh trên. Theo tôi, có lẽ gồm cả (?) Sự thực đó đã khiến tôi thất vọng và sút giảm cảm tình sẵn có đối với ông. Lại thêm 4 câu thơ trên, dù cho tác giả muốn xác định vị trí không gian của nhân vật, tức đang tại tiền tuyến cũng chỉ là một cách biện minh thiếu vững chắc, bởi nếu muốn, tác giả có thể bằng nhiều cách khác, vẫn từ đài phát thanh như chương trình “tiếng ca gửi người tiền tuyến” một bản nhạc loại chiến đấu ca tương đối “sạch sẽ”…
Tôi tự hỏi thơ hay gì đây?!
Tôi thất vọng bỏ cuốn thơ xuống phản, tìm về giấc ngủ…
Cái thói quen phải đọc sách báo vớ vẩn trước khi ngủ làm tôi trằn trọc mãi, tôi nghĩ tới một tờ báo, tới tin chó chết, trộm cắp, tìm con, rao vặt, mất bằng khoán…. Nhưng bản tính biếng nhác, đang nằm phải ngồi dậy với tôi là cả một vấn đề vạn bất dắc dĩ. Nhưng không lẽ cứ để đầu óc luẩn quẩn với những lo nghĩ vẩn vơ. Tôi chợt nghĩ tại sao mình không dùng cuốn thơ để dỗ giấc ngủ. Tôi liền cầm lên, mở đại một trang, tôi đọc:
Anh đã qua những xóm tranh lầy lội
những ông già ngơ ngác
những đứa em bụng ỏng xanh xao
những bà mẹ quê má hõm mắt sâu
quen câm nín, quen thở dài, quen khóc
Hai mươi năm chiến tranh tủi nhục
chưa đêm nao giấc ngủ được yên lành
gió đìu hiu bóng tối vây quanh
gian nhà nhỏ ánh đèn leo lét
soi những nét mặt lo âu, kinh hoàng, sợ sệt
trông ngậm ngùi như số phận quê hương

Tôi  ngạc  nhiên bàng hoàng, những giòng chữ, những giòng chữ cứ trôi chảy ùa đầy tâm hồn tôi, cả một bức tranh quê hương nghèo khó lầm than diễn ra trước mắt tôi. Ông già nét mặt đau đớn, bà mẹ quê còm cõi lưng còng, bầy trẻ thơ trơ mảnh thân khô xương vàng vọt. Những hình ảnh thật thường nhưng đã sớm hằn in trong tiềm thức tôi. Từ ngày còn thơ dại, những khuôn mặt kinh hoàng lo sợ của mẹ tôi, của gia đình tôi mỗi khi ngoài đường đêm đó có bước chân vang dội khác thường hay chỉ một vài tiếng chó sủa, một tiếng kêu ú ớ… cũng khiến chúng tôi giật mình hoảng hốt.

Những ngày khói lửa liên tiếp kéo qua mảnh đất nghèo nàn này. Quê hương tôi cũng là thế đó. Quê hương tôi tới hôm nay  cũng còn nguyên đấy nỗi đau nhục, còn nguyên đấy những bộ mặt lạc thần ngơ ngác. Người dân nước tôi, chiếc khăn tang quấn vội đưa tiễn những người thân yêu về tới đất tổ, trên mười năm nay còn mang chung một thứ tang chế cốt nhục tương tàn muôn đời không gột sạch.

Chiến tranh, thiên tai, Cộng sản, những tai họa nguy hiểm, khủng khiếp đó đã không ngớt hoành hành cào xé hạnh phúc quê hương VN.
Thấy bão lụt thổi bay nhà, chết lúa
dân đói dân gầy đắng cay nhiều quá
mà đêm đêm chúng vẫn cứ hiện về
gióng trống đập thùng khua rộn xóm quê
giết bô lão bắt dân nộp thuế
và cứ mỗi đêm bao nhiêu người mất mẹ
bao vợ mất chồng bao trẻ lìa cha
tôi làm thơ mà xót thịt, đau da
mỗi câu viết ra, mỗi lần nhức nhối
đường ta đi vẫn còn nhiều bóng tối’
tiếng ca buồn nghèn nghẹn “Ôi Quê Hương”
Ôi quê hương! Còn tiếng gọi thê thảm nào đau xót hơn nữa, nhưng tất cả cũng chỉ như cơn gió nhẹ thoảng qua, tan biến rất nhanh vì những con buôn chính trị, những tay hoạt đầu văn nghệ, cả những kẻ đang sắm vai tuồng phụ mẫu chi dân cũng chỉ lo “Những bài diễn văn, những thủ đoạn khoa trương - những danh từ nhân dân, dân chủ”. Những cái bánh vẽ ấm no hạnh phúc của chính quyền con buôn, trước thực tế phũ phàng chỉ làm người dân thêm tủi hờn căm tức. Trước những đe dọa tàn sát của bọn Cộng Sản cuồng tín, khuôn mặt quê hương này đã nhàu nát, thảm thê hơn nữa.
Tôi đọc, không tôi đang sống, tôi đang nuốt từng hơi thở u buồn của quê hương. Tác giả đã cho tôi sống lại từng giai đoạn lịch sử, đau đớn thêm một lần nữa những đau đớn đã qua hay đang diễn tiến trên sân khấu quê hương này. Sân khấu nước tôi là sân khấu của những khuôn mặt bi thảm, của tấn bi kịch trường thiên; của những hình ảnh mẹ mất con, vợ mất chồng, con thơ mất tình phụ mẫu. Tôi cho rằng trên bất cứ một giải đất nhược tiểu nào, cơn lốc bi thảm cũng thổi qua, xoáy tít, cái mảnh đất vốn đã sẵn nghèo nàn, cõi cằn này còn hứng thêm nhiều nước mắt, tiếp nhận nhiều máu xương, bếp lửa còn lạnh, vòng tay còn trống trơn, ánh mắt đẫn đờ tê dại. Người chết đi còn ôm theo nhiều tủi nhục, người ở lại còn mê sảng với những viễn tượng, những dĩ vãng hãi hùng kinh tởm, lưng còn còng xuống, vai còn chĩu nặng ê chề, nhọc nhằn khốn khổ của một định mệnh khốc liệt tối tăm. Cái tối tăm dày đặc chuyển lưu từ thế hệ này sang thế hệ khá. Đến đỗi “Những niềm vui không nở trọn bao giờ”. Trời chưa kịp sáng bóng tối đã vây quanh. Bóng tối tràn đầy ngay từ tâm hồn những tên vong thân bán nước, những tên lưu manh chính trị lợi dụng thế nước mong manh lòng dân xao động bàng hoàng:
1-11-1963! ngày bất công chấm dứt
cách mạng rồi tất cả múa như điên
đêm vừa qua đêm dài nhất
đêm đầu tiên
đã bao đêm đêm nhưng đêm nay không ngủ
……
Nhưng niềm vui đậu lại không lâu
lửa cách mạng như hoàng hôn le lói
đợi bay gọi ra về bóng tối
ngày tháng mịt mùng, bất trắc lo âu
từng phút từng giờ đả đảo hoan hô
chỉnh lý biểu tình xuống đường hội thảo
súng vẫn nổ và miền Trung gió bão
nước tràn về người chết nhà trôi
thôn xóm từng đêm nước mắt đầy vơi
thêm từng ngày đói nghèo tơi tả
Bãi mía vườn dâu giàn dưa mái rạ
nhìn vào đâu cũng thấy đau thương
Nhìn vào đâu cũng chỉ thấy đau thương! Mặc dù bao nhiêu thế hệ đã:
Hai mươi ba mươi xuống biển lên rừng
bỏ lại sau lưng tình yêu hạnh phúc
say chiến đấu để xóa hờn rửa nhục
vì tự do ai tiếc rẻ đời trai
quê hương mình từ buổi chia hai
cây cỏ cũng buồn núi sông ứa lệ
này xóm này thôn này trời này bể
này câu ca tiếng hát êm đềm
này tình thương này tiếng võng ru êm
này ruộng vàng thơm cò bay thẳng cánh
này mẹ này cha gác chuông tượng thánh
có thể nào để mất nữa em ơi
chúng anh đi vì mến thương đời
(nhận cách biệt để làm nên hội ngộ)
Nhận cách biệt để làm nên hội ngộ! Thật thấm thía đau đớn, cũng chỉ vì những ước vọng, khát khao (rất đơn sơ, bình dị) trong đó có mẹ già yên giấc, có em thơ nô đùa, có những người yêu nhau không còn tính chuyện biệt ly… Nhưng ao ước vẫn chỉ là ao ước (dù cho ao ước vô cùng nhỏ nhoi nghèo nàn) vì cho đến bây giờ, quê hương này vẫn còn đầy rẫy thê lương thảm cảnh, vẫn còn hoài những bà mẹ thắp nén hương đêm đêm khấn nguyện, con ra đi đầu rừng cuối bể mong sao còn lành lặn trở về.
Với một tâm hồn trung thực, thành khẩn, Tô Kiều Ngân đã đóng trọn vai trò chứng nhân của mình. Với cảnh sắc quê hương đó, với những gì tạo thành khuôn mặt thương tích nát bầm đó, trách nhiệm do ai và bởi đâu? - Dĩ nhiên bởi chiến tranh, bởi Cộng Sản và trách nhiệm trước lịch sử Việt Cộng phải gánh chịu, ngoài ra bọn con buôn xương máu đồng bào nhân dân cũng phải liên đới. Lịch sự sẽ vạch mặt chỉ danh bọn chúng.
Tổ quốc chúng ta chia lìa đôi ngả
Nam Bắc hai phương như dao cắt dạ
mà hôm nay thôn xóm còn cách ngăn
mái tóc xanh lạnh trắng vành khăn
có những người đi không bao giờ về nữa
vì chúng nó mà thôn làng bốc lửa
mà quê hương héo hắt nước sầu đau
chúng nó đi đâu chúng nó về đâu
là có ám sát có đốt nhà bắt cóc
có những tấm lòng héo đi vì tiếng khóc
nước mắt chan cơm, trắng những đêm dài’
giải phóng gì đâu?
giải phóng cho ai?
Tôi đã không dằn nổi  tình cảm đang dềnh lên, bốc cao, xoắn vít tâm hồn. Tôi nghĩ về trường ca Người Lính Việt Nam của ông như  nghĩ về một trận mưa trút xuống miền nắng hạn; như một giòng suối nhỏ ngọt lành chảy giữa đám rừng hoang dại… tôi nghĩ về ông bằng một trí tưởng tròn đầy những thành khẩn thiết tha trìu mến. Qua trường ca, ông đã vẽ lại gần đúng khuôn dáng người lính Việt Nam không son phấn, không điểm trang ngụy tạo. Một sắc diện chứa chất đầy ưu uất, dằn vặt, những cấu xé, những máu và nước mắt, những bội phản trắng trợn, những bất công, những khốn nhục. Nhưng người cầm súng vẫn vững tin nơi truyền thống, nơi tương lai đất nước một cách mãnh liệt:
Quên tất cả để khắc vào tâm tưởng
Rằng Việt Nam nhất định phải sống còn
Xua tan bóng tối héo hon
Dập cho nát những tỵ hiềm cách biệt
Thù trước mắt phải nhìn, phải biết
Để cùng nhau xiết chặt bàn tay
Phấn khởi tin vào thắng lợi ngày mai
Đêm nay,  ngồi trước chiếc bàn viết nhỏ, trước ngọn đèn điện 15 watt, câu qua bao nhiêu chòm xóm của khu lao động mang biệt danh Chuồng Bò;  khi  những âu lo về cuộc sống, những đau nghiến của tình cảm, dĩ vãng, về miếng cơm manh áo đã tạm lắng dịu, tôi phân vân trước vấn đề Tô Kiều Ngân…
Bây giờ những sôi động chứa chan cảm tình lúc đầu không còn nữa, cũng như ngoài ngõ, đêm đã xuống sâu, bóng tối đã quánh đặc. Những bầy chuột cống reo vui rúc rích, bảo nhau lục soát tảo thanh những thùng rác đặt ngổn ngang dọc con hẻm. Những người đàn bà mặt hốc hác vàng bủng từ các căn nhà lụp xụp, chui ra, lột xác trở thành những nàng tố nữ, những nàng “cung phi của bóng tối”. Tôi nghĩ không lẽ mình cũng như họ, cũng phấn son trang điểm, cũng xức nước hoa tình ái rẻ tiền!!! Nên phải thành thực nói rằng tác phẩm TC NLVN của Tô Kiều Ngân đáng lẽ chưa vinh hạnh đại diện cho thực trạng bi đát, cùng quẩn của một khoảng thời gian, không gian chan hòa đau thương chiến tranh này nhưng giữa những tác phẩm dao to búa  lớn, hò hét, hoan hô, ngợi ca một cách vô ý thức như trên tôi đã nói thì NLVN của ông rất đáng để chúng ta bàn nhắc, phơi bày như phơi bày tâm sự chung của những kẻ mất quê hương, mất tuổi trẻ, mất tương lai…
Hai mươi, ba mươi, xuống biển lên rừng
bỏ lại sau lưng tình yêu hạnh phúc
Và:
Nhưng niềm vui đậu lại không lâu
lửa cách mạng như hoàng hôn le lói
Dơi bay ra gọi về bóng tối
ngày tháng mịt mùng, bất trắc âu lo
Và nữa:
Cuộc chiến thê lương, năm tháng kéo dài
gian khổ dựng như trường sơn thiên lý
Nhìn vào đâu cũng chỉ thấy đau thương
Khơi dẫn từ Trường ca Người lính Việt Nam - phối kiểm bởi những lời tâm sự thành thiết, tôi nghĩ chúng ta nên nhìn Tô Kiều Ngân bằng con mắt hôm qua - và trên đường đi về quê hương - trên giòng chảy trôi vào lòng dân tộc ta hãy dõi trông, và ngóng đợi, và cảm thông cùng một Tô Kiều Ngân đang lần bước đi tìm quê hương - tìm về tình người trong một khoảng trời cao rộng.
Tô Kiều Ngân - Tôi bắt đầu chú ý đến 3 chữ này và khoảng năm 1954 xuất hiện trên ban Tao Đàn và sau này trên tạp chí Sáng Tạo. Một vài bài mang tên Tô Kiều Ngân tôi còn nhớ đó là bài “khảo về hò Huế” và “phố hàng Khay”. Năm 1955, ba chữ này lại xuất hiện trên các giá sách với tập truyện ngắn “NGƯỜI ĐI QUA LÔ CỐT” – Đây là tác phẩm đầu tay của ông.
Sau đó, ba tiếng Tô Kiều Ngân mờ dần trong trí tôi. Không phải tại Ông rời bỏ những người cầm bút, trái lại, Ông vẫn còn hoạt động đều đặn và có thể nhiều hơn trước. Nhưng chính sự đều dòng không bật nổi đó khiến đám đông ít người biết tới, hoặc có biết tới rồi cũng lãng quên… Nhưng lý do chính có lẽ tại tôi, trước đây, đã không có những sinh hoạt chung với anh em, nên trong tôi chỉ còn một số vóc dáng hằn sâu với nét độc đáo riêng, lẻ của họ mà thôi.
Sau này, khi giao tiếp với một số anh em như Hiếu đệ, Thế Phong, Đinh Hùng, Uyên Thao, Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Đình Toàn… mấy người này, thỉnh thoảng nhắc tới tên Tô Kiều Ngân nên ba chữ đó bắt đầu sống lại. Khi cho phát hành tập thơ Du Tử Lê, tôi tìm đến nhà ông. Tôi nghĩ, đây là dịp để quen biết với “NGƯỜI ĐI QUA LÔ CỐT”, thứ nữa ông là người phụ trách Nguyệt san Văn nghệ chiến sĩ, tờ báo duy nhất của Quân đội có mục điểm sách. Hai buổi tối ghé qua, không gặp. Buổi chiều hôm sau, khi đem nộp bản tập Thơ để xin phát hành tại Bộ Tâm Lý Chiến, đường Phan Đình Phùng, bất chợt, tôi gặp Tô Kiều Ngân tại đây.
Phải nói rằng lúc đó tôi còn ngờ  ngợ không dám nhìn nhận, vì trong óc tôi hình ảnh về một Tô kiều Ngân là hình ảnh tưởng tượng có sẵn trong tôi từ ngày chú ý tới ba chữ đó, căn cứ vào ngón tiêu hào hoa với giọng ngâm đặc biệt miền Trung. May sao, nhờ có bảng tên đeo ở ngực, tôi liền bước tới.
- Xin lỗi, Đại úy là Đại úy Tô Kiều Ngân?
Ông cũng mừng rỡ:
- Vâng. Còn anh là Du Tử Lê?
Chúng tôi xiết chặt tay nhau trước con mắt mở lớn của những nhân viên trong phòng.
Vì không tiện nói chuyện nhiều, sau năm ba câu thăm hỏi, tôi cáo từ để chạy lên Văn Khố cho kịp giờ. Lúc chia tay ông dặn tôi nếu rảnh ghé qua Tòa Soạn Văn Nghệ Chiến Sĩ chơi.
Cuộc gặp gỡ bất thần,  không kịp cho tôi ghi nhận gì về ông, ngoài cảm nghĩ vui vui và thầm mừng đã không phải tiếp giáp một bộ mặt khinh khỉnh, ra cái điều quan trọng…, bệnh chung của đa số những văn nghệ sĩ của nước Anman có… gần 5 nghìn năm… văn hiến.
Hai hôm sau, nhân dịp đi thâu thanh trên đài quân đội (trong nha CTLL), tôi ghé thăm ông tại phòng làm việc. Ở đây tôi gặp Huy Phương, Tường Linh.  Lần giao tiếp này, không khí có phần cởi mở thân mật hơn.
Ông đưa tôi coi trước bài viết của Mai Trung Tĩnh phê bình tập thơ của tôi. Tôi đọc xong, ông hỏi:
- Sao toa có hài lòng không?
Ngưng một lát, ông mỉm cười nói tiếp:
-Được thì đăng không thì thôi. Theo tôi thấy MTT viết bài này vô thưởng vô phạt, khen một nửa, chê một nửa, dài như thế chứng tỏ cũng nhiệt thành lắm đấy chứ. Có điều tôi không đồng ý với ông Vương Tân khi viết lời bạt cho anh.
Tôi chưa kịp nói gì, Huy Phương đã tiếp.
- Du Tử Lê thế là đặc biệt lắm đấy chứ, trong tủ còn nhiều tập thơ gửi đến từ lâu mà chưa có ai viết cả.
Tôi cười, nói với Tô Kiều Ngân.
- Ồ, anh bảo người viết phê bình cho tôi là quý rồi. Còn khen hay chê tùy thuộc nơi chủ quan họ. Ăn thua gì.
Tô Kiều Ngân cười qua khói thuốc Lucky.
- Tôi sẽ cho sắp chữ ngay số này.
- Vâng, cám ơn anh.
Buổi chiều vào sở, một người hỏi tôi có gặp Tô Kiều Ngân không -Tôi trả lời có.
- Thấy thế nào?
- Chưa có nhận định rõ ràng nhưng đại khái lịch sự, bặt thiệp, hào hoa lắm - Lucky chuyên nghiệp - Thế mới khó chứ!
Rồi báo văn nghệ Chiến Sĩ số 13 phát ra. Nhiều nguồn dư luận tỏ ý tán thành hoặc bất đồng về bài phê bình của Mai Trung Tĩnh. Với tôi, chuyện ấy không mang một ý nghĩ nào khác ngoài điều nhận xét thấy tác giả bài báo đã để lộ quá rõ mặc cảm. Riêng với Tô Kiều Ngân, tôi vẫn giữ nguyên cảm tình quý mến cũ, cũng như tôi quý mến tất cả những người làm văn nghệ đi bước trước tôi. Tôi muốn nhấn mạnh ở chỗ họ đi trước thôi chứ không nói tới văn tài, sự nghiệp…
Khoảng thời gian này, tôi được nghe nhiều người nói về Tô Kiều Ngân hơn. Thường họ nhắc tới ông không ngoài những việc ông đã làm (không văn nghệ chút nào cả) và với ngụ ý không mấy tốt đẹp.
Hôm tôi ghé thăm Nguyễn Đình Toàn trên đài Sàigòn Toàn rủ tôi đi uống cả phê, đúng lúc đó, Tô Kiều Ngân cũng vừa tới. Chúng tôi mời ông đi luôn. Ngồi quán Tầu được một lát thì Tô Kiều Ngân về trước.
Nguyễn Đình Toàn bảo tôi:
- Ngân nó khéo lắm.
Rồi bằng đúng tác phong của “Những kẻ đứng bên lề” 1, Toàn sửa lại gọng kính trắng trên khuôn mặt thư sinh, lắc đầu nhè nhẹ…
Tôi cũng im lặng cố hiểu ngụ ý cái lắc đầu đó…
Lát sau, Toàn tiếp:
- Nó chịu khó đọc lắm, cầu tiến và được cái kiêm nhiều tài…
- Ờ mình biết, “bạn ấy” bao sân gần hết từ họa tới nhạc, thơ văn, kịch, đủ thứ, hầu như món nào cũng có thể là sở trường và cũng có thể là sở đoản. Ôm nhiều là một điều hay và cũng đáng để hãnh diện lắm chứ. Nhưng nhiều quá sợ loãng…
Tới đây, tôi nhớ đến một nhận xét của mọi người đã từng cộng tác, chung lưng với Tô rất nhiều năm: “Lui có cái hay là lúc cần, có thể thản nhiên coi nhẹ tất cả dù là tình bè bạn thủy chung, khiến nhiều anh em bất mãn, nhưng lúc cần chiếm lại cảm tình cũ, lui có thể gây lại được ngay,  mặc dù mình chưa quên chuyện xưa nhưng cũng không thể làm mặt giận dữ nổi”.
Đó là một phần nào những gì bao quanh người mang tên Tô Kiều Ngân.
Riêng tôi, sau một thời gian giao tiếp, tôi nhìn thấy ở ông trong khía cạnh của một người dễ mến, có nhiều cảm tình và thân mật cởi mở. Và có lẽ tôi cũng không mong tìm thấy nhiều hơn các khía cạnh ẩn chìm khác  nữa.
Trong một buổi đi uống cà phê,  một người bạn tôi, có nhắc đến chuyện ngắn “Phố hàng khay” của ông đăng trên Sáng Tạo bộ cũ (tôi cũng không nhớ rõ số mấy), và tỏ ý khen ngơi, thích thú. Phải chăng vì cảm kích lòng chân thực của người bạn kia, ông đã kể cho chúng tôi nghe xuất xứ của câu chuyện dí dỏm  nhưng cũng rất hàm xúc.
Nguyên dạo đó, ông cùng Đỗ Tốn và cố văn sĩ Nhất Linh vào rừng Đà Lạt tìm lan. Lúc trở về, chẳng may ông bị chó cắn. Dĩ nhiên, để sau này khỏi ân hận đã mắc phải bệnh điên bởi chó dại, nhà văn kiêm thi sĩ Tô Kiều Ngân phải đi chích thuốc liền 21 ngày. Mới đi được 2, 3 hôm, thì ông gặp bà cụ người Bắc di cư cũng đưa cháu đi chích ngừa. Trong lúc chờ đợi, để tiêu thì giờ, ông gợi chuyện bà cụ. Nhưng có lẽ tại giọng nói của ông có vẻ “bắc kỳ tính” khá nhiều nên bà cụ lầm tưởng và hỏi ông:
- “Thế ở ngoài TA ông ở đâu?”
Bị “phỏng vấn” bất ngờ, ông không kịp suy nghĩ, trả lời luôn;
- “Dạ, cháu ở phố hàng Khay Hà Nội”.
Kỳ thực thì ông nào có biết Hà Nội ra làm sao đâu! Nhưng ông bảo trước sự say sưa, sung sướng của một người muốn nhắc nhở dĩ vãng. Nhất là người đó là một cụ già,ông cảm thấy không thể trả lời khác hơn được.
Bữa ấy, ông được bà cụ “tâm sự” hơn một tiếng đồng hồ về chuyện quê quán, làm ăn gia đình, con cháu… khi ra về, tìm người hỏi thăm, ông  mới vỡ lẽ rằng phố hàng Khay của Hà Nội xưa là phố của Tây Đen bán vải, may mà bà cụ cũng không biết phố hàng Khay!!!
TIỂU SỬ
Lê Mộng Ngân tức Tô Kiều Ngân sinh năm 1926 tại Huế. Tuổi trẻ của ông được nuôi dưỡng trong bầu không khí trang nghiêm cổ kính của thành phố buồn, thành phố của những dấu tích xa xưa, của bao nhiêu triều đại đã hưng phế, nay chỉ còn trơ lại một nội thành với những lăng tẩm u trầm, một giòng sông Hương “Nông chờ” tháng năm lạnh lùng trôi qua, biểu tượng niềm riêng, nỗi quạnh của người dân xứ Huế.
Thuở còn cắp sách tới trường, Ngân đã sớm tỏ có chất nghệ sĩ luân lưu trong huyết quản. Trò Ngân học hành biếng nhác và thường trốn học, đi chơi đó đây với cây sáo trúc không mấy khi rời tay.
Rồi chiến tranh Pháp Việt bùng nổ toàn diện, Tô Kiều Ngân cũng nghe theo tiếng gọi kêu khẩn thiết của tổ quốc, khăn gói lên đường tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông được sung  vào ban kịch của Vệ quốc đoàn khu IV.
Một ba lô, một ống sáo, ông theo đoàn kịch đi lưu diễn khắp nơi, lang thang suốt từ Huế đến Thanh Hóa. Ông kể:
Vì tính cách lưu diễn, nên chúng tôi đi hết nơi này tới  nơi  khác, có cái thú là  những buổi chiều đi qua những làng mạc, những cánh đồng ruộng lúa bát  ngát, tôi say sưa thổi sáo, những bản hùng ca của Phạm Duy, lòng cảm thấy lâng lâng, chân bước nhẹ nhõm vô cùng. Cảnh đó, bây giờ không còn được hưởng nữa.
Ở ban kịch liên khu IV được một thời gian, ông xin tình nguyện chiến đấu tại mặt trận Đèo Hải Vân. Sau đó Tô kiều Ngân bị Pháp bắt năm 1948.
Sau 3 tháng bị cầm tù, ông được thả về. Lúc đó vào khoảng cuối năm 1948.
Từ đó, Tô Kiều Ngân bắt đầu hoạt động văn nghệ. Tác phẩm đầu tiên của ông là kịch thơ 4 màn “Ngã ba đường”, do ban kịch SÔNG Ô trình diễn trên sân khấu Huế. Tiền bản quyền tác giả đã giúp họ Tô mua được một chiếc xe đạp. Hành động này đã chứng tỏ Tô Kiều Ngân là người rất căn cơ, không bừa bãi, thả lỏng, bốc đồng như hầu hết các nghệ sĩ khác. Ông là người biết điều hòa hai cuộc sống Nghệ sĩ và Thực tế.
Năm 1950 ông gia nhập quân đội. Năm 1952 ông đưa gia đình vào Nam. Tại đây, ông lần lượt viết cho các báo ĐỜI MỚI, NGƯỜI SỐNG MỚI, đồng thời ông cũng cộng tác với một vài tờ báo xuất bản tại Hà Nội như HỒ GƯƠM, GIÁC NGỘ…
Năm 1955 ông cùng Đinh Hùng và vài anh em nữa thành lập ban thi văn Tao Đàn trên đài phát thanh Sàigòn. Sau đó ông cùng Thanh Nam chủ trương tuần báo Thẩm Mỹ, rồi cộng tác với Sáng tạo, Văn Nghệ Tiền Phong, Tiểu Thuyết tuần san v.v…
Về mặt quân độ, có thời, ông làm chủ bút tờ Quân Đội bán nguyệt san (do Nha C.T.T.L . ấn hành) và hiện tại ông đang chủ trương biên tập nguyệt san “Văn nghệ chiến sĩ” của QLVNCH. Ông thuộc loại viết nhanh và rất dễ dàng. Không kể ngày hay đêm, không cần bàn, ghế, bên máy in ông cũng có thể viết được. Ông nói: “Tôi viết theo hứng”.
TÔ KIỀU NGÂN VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC
Một buổi sáng chủ nhật, tôi lại thăm ông ở nhà riêng đường Phan Văn Trị. Vừa dựng xe, tôi đã nhìn thấy ông trong bộ Pyjama sọc đang lúi húi trước giá sách kê sát lối ra vào.
Thấy tôi, ông bở dở công việc, đứng dậy với nụ cười cùng ánh mắt reo vui, ông bắt tay tôi.
- Vào chơi Du Tử Lê.
Lần đầu tiên bước vào nhà Tô Kiều Ngân, tôi bỡ ngỡ, ngồi xuống chiếc ghế salon nệm xanh.
Một lát, sau vài câu xã giao thông thường, tôi bắt đầu quan sát “Tổ ấm” họ Tô. Căn phòng khách tuy hơi nhỏ nhưng được bày biện thật gọn gàng và khéo léo, chứng tỏ chủ nhân là một tay có mắt mỹ thuật thuộc vào hạng khá!
Trên tường trước mắt tôi, một bài thơ Đường do ông dịch được đóng khung kính treo cẩn thận. Trên bức tường dối diện, tôi thấy treo  một bức tranh của Nguyễn Khắc Vinh vẽ ngựa và cây., Ngay cạnh bộ salon là chiếc máy Pick-up loại Hifi. Phía trên tường là một bức tranh vẽ cảnh sông nước thuyền câu của chính ông. Ở góc trái phía ngoài cùng căn phòng, kê một chiếc giường sắt nhỏ bọc nệm. Cảnh trí này đủ nói lên cuộc sống đầy đủ gọn ghẽ, kín đáo của họ Tô.
Đang mải nghĩ ngơi về những gì thấy trong “phòng văn” chợt Tô Kiều Ngân hỏi tôi:
- Nghe nói “Toi” đang viết một cuốn sách gì đó phải không?
- Vâng. Tôi dự tính ghi lại một số nhận xét về cuộc sống của năm ba người quen biết. Sự lựa chọn của tôi hoàn toàn theo chủ quan. Trong số người đó có anh. Nên hôm nay lại anh, xin ít tài liệu…
- “Toi” cứ viết về mấy người kia cho xong đi đã, moi sẽ đưa tài liệu sau.
- Có. Tôi viết đã gần xong kể cả anh.
Tô Kiều Ngân cười nheo đuôi mắt.
Câu chuyện văn nghệ được trao đổi trong không khí chân thành cởi mở. Tô Kiều Ngân cho biết ông đang viết một tập truyện dài nhưng phải chờ đến Hòa Bình mới in ra được.
Lúc ra về, bên tai tôi còn vẳng lời tâm sự (?) Lời than vãn hay lời ăn năn của một người nhìn về quá khứ: rùng mình (?) - hướng tới tương lai: e ngại (?) "… Ngày xưa, tôi viết dễ dàng bao nhiêu thì bây giờ việc viết lách đối với tôi trở nên khó khăn bấy nhiêu…”
Phải chăng con người mang tên Tô kiều Ngân hôm nay không còn là Tô Kiều Ngân của những ngày hôm qua nữa? Khi một người tự nhìn nhận việc viết lách trở nên khó khăn, hệ trọng, vì không thể viết những giòng phù phiếm, vô trách nhiệm; thì ít nhất trong thâm tâm họ, trong thái độ, quan niệm đã có phần biến7 thái, lột xác…
Ở Tô Kiều Ngân, tôi nghĩ có thể hôm nay ông đã nhìn về một hướng khác xưa… Bỏ cái thói thực ôm cái hư, hay bỏ cái hư ông cái thực, giữa cuộc đời hư hư, thực thực này. Đó chỉ là nhận xét của cá nhân tôi. Chúng ta vẫn cần tới thời gian vì chỉ có thời gian mới đem lại cho chúng ta một câu trả lời cuối cùng mà thôi!
PHỤ LỤC
Nhắc đến Tô Kiều Ngân, thường người ta chỉ biết ông với tư cách nhà văn nhiều hơn là một nhà thơ, và người ta lại càng biết ít hơn nữa tính chất lãng mạn, tình ái trong thơ ông.
Sở dĩ có thể, bởi vì ông rất ít đăng thơ tình cảm, hầu như không đăng bao giờ. Ông quan niệm theo kiểu một T.T.KH. ngày xưa: “Chỉ có ba người được đọc riêng” 2 chứ không muốn rao bán “cho khắp người đời thóc mách xem”. 3
Ở đây, bằng tất cả tài nghệ uốn ba tấc lưỡi, rào đón nỉ non tâm sự, kẻ viết mới lấy được dăm bài thuộc loại ‘chuyền tay”… - lục đăng ở đây, để độc giả thấy rằng mặc dù có trên dưới 15 năm “lính” nhưng bản chất “hào hoa”, “đa tình”, của họ Tô vẫn có những giây phút bừng dậy, sôi động, đắm đuối. - Hay đó là cố tật của đa số những ai thuộc giòng họ Thơ - thích thương vay, khóc mướn - thích thương nhớ hão huyền, mơ tưởng không đâu về những bóng hình chưa đến đã rời xa, chưa hiện đã tan biến…
Trong một buổi tối đi chơi với ông, có thêm Chinh Yên, ông nói: “moi không hiểu tại sao cứ mỗi khi uống rượu hơi say một chút là nhớ người ấy - mặc dù đã trên tám  năm yêu nhau trong ngang trái, bế tắc, người ấy vẫn không hề nghĩ tới chuyện đi lấy  chồng…”
Đường ra ngoại ô tối thêm và hẹp dần. Giữa tiếng máy  nổ đều đều của chiếc Simca cũ và bóng đêm tràn đầy lòng xe, tôi không thể ghi nhận khuôn mặt ông lúc đó ra sao. Nhưng tôi nghe rõ một tiếng thở dài nhè nhẹ…
Gió thật lạnh. Tô Kiều Ngân hát nho nhỏ (giọng trầm và buồn bài Sérénade của Schubert. Chinh Yên thiếp trong cơn nóng lạnh đột ngội - tôi nhớ đến một người - và tiếng hát ngân dài “… bóng tối buồn không mầu…”
VỀ KỶ NIỆM
Vẫn biết chừ yêu nhau
Mai rồi không yêu nữa
Tình hôm nay đang nồng
Mai đã tàn hương lửa 
Những bàn tay rời nhau
Mắt thôi nhìn một hướng
Bản tình ca buổi đầu
Nay chỉ còn dư hưởng 
Tình yêu như nắng chiều
Thoáng hiện rồi thoáng tắt
Đời vẫn qua hững hờ
Người gặp người cúi mặt 
Em đã hết yêu anh
Không còn chờ bên cửa
Không nhìn mưa một mình
Tim mềm thôi nức nở 
Anh vẫn đợi em hoài
Để rồi em chẳng đến
Tìm chi trong  ngày qua
Quên rồi câu ước hẹn 
Ôi! Tình như bóng mây
Tan dần theo ánh nắng
Một tháng rồi một năm
Rồi những ngày trống vắng 
Nhưng sao anh vẫn buồn
Phải chăng còn kỷ niệm
Kỷ niệm thì tràn đầy
Bao ảnh hình thương mến 
Này đây em con đường
Này đây em đồng cỏ
Này đây ánh tà dương
Đây vừng trăng mới nở
Này đây tiếng hồ cầm
Này đây hương suối tóc
Này đây tiếng em cười
Này đây lời em khóc
Màu áo em tím buồn
Bài thơ em vẫn thích
Ôi! đây những con đường
Chiều thu mưa rả rích
Thôi… rồi thôi, rồi thôi…
Anh trở về kỷ niệm
Ngồi đợi tháng năm tàn
Xóa phai tình thương mến
°
Chờ cho phai kỷ niệm
Biết bao giờ em ơi
Mà khi chiều mới xuống
Đã thấy tương tư rồi!
TÌNH CA
Khi sao hôm vừa hiện cuối chân trời
Chúng tôi ngồi trên cỏ đếm sương rơi
Trời cao quá, mây vừa trăng mới chớm
Tím xanh lên cho bát ngát khung trời
°
Những hàng cây đứng nhìn nhau im lặng
Những con đường láng đẹp nối nhau quanh
Chiều cứ xuống cho đường thêm im vắng
Rơi êm êm đôi chiếc lá xa cành
°
Chỉ thiếu hương một loài hoa man dại
Là chúng tôi xây đủ mộng bình yên
Nhưng đã có mùi hương yêu êm ái
Từ tóc em buông thả suối u huyền
°
Anh gục xuống vai em tìm giấc ngủ
Ngủ cho say trong hạnh phúc thần tiên
Cầm tay anh tìm hương yêu ấp ủ
Em mơ màng trong mộng thắm triền miên.
°
Hai đứa mình yêu nhau như tiểu thuyết
Như xưa nay chưa từng được yêu nhau
Tình ta đẹp nên thơ và bất tuyệt
Từ bây giờ và mãi đến muôn sau
°
Trăng vẫn theo ta, vơi đầy sáng tỏ
Gió vẫn rất vừa chgo đủ nhớ thương
Những buổi chiều xanh có rừng lá đổ
Và những đêm mơ thao thức canh trường
°
Anh vẫn thiết tha như ngày mới chớm
Mà em thì thêm “thấm” nghĩa yêu đương
Và lòng ta vẫn chứa đầy  hoa bướm
Hoa thêm nồng và bướm vẫn say hương
°
Anh vẫn biết không phải lần thứ nhất
Em yêu anh và hai đứa yêu nhau
Bọn chúng mình mãi sau này mới gặp.
Và chiếc hôn anh không phải chiếc hôn đầu
°
Nhưng anh cảm hình như là số mệnh
Buộc hai người ngàn kiếp mến thương nhau
Dù ngang trái, dù đau thương, gian khổ
Vẫn mê nhau như buổi mới ban đầu
°
Em đã nói với anh lời son sắt
Anh đã hôn lên đôi mắt não nùng
Từng hơi thở, từng nụ cười, tiếng nấc
Đều nói lên tiếng nói của tình chung
°
Trăng còn sáng tình đôi ta còn mãi
Hoa mộng này còn đẹp đến thiên thu
Hãy dìu nhau vào giấc mơ êm ái
Đến xứ tình ta vỗ cánh phiêu du.
VÌ SAO?
Sao em còn cứ hỏi: “có yêu không”?
Sao em còn thắc mắc hở em Hồng
Em không nhớ những đêm rằm dưới nguyệt
Em quên chăng lời thơ anh tha thiết
Đến bên em từng sáng với từng đêm
Em đã quên ư những phút êm đềm
Trong tay anh ta trôi vào ảo mộng
Anh còn nhớ đến phút giây rung động
Tiếng đầu tiên em khẽ nói: anh yêu
Và những đêm thu, những buổi mưa chiều
Những buổi tương tư, những giờ mong đợi
Những lúc tay anh vuốt làn tóc rối
Ôi não nùng: em đã khóc vì anh
Thì  hỏi làm chi, anh tưởng không đành
Đừng hỏi nữa vì thêm thừa em ạ
Tình anh rộng bao la như biển cả
Anh trao em nguyên vẹn một tâm hồn
(Mười năm rồi như hòn đảo cô đơn
Nằm nghe gió hờn tung sóng bạc
Bỗng một hôm hàng dừa lên tiếng hát
Một chiếc thuyền buồm ghé đảo thần tiên
Đảo với thuyền từ buổi ấy nên duyên).
°
Em có nhớ lần đầu tiên gặp gỡ
Tuy đêm ấy trăng rằm không sáng tỏ
Nhưng cũng đủ làm đôi mắt em xanh
Trong mắt em vừa hiện bóng hình anh
Với những nét thân yêu, êm đềm, trìu mến
Và bữa ấy hai mình đã hẹn
Sẽ đưa nhua tìm đến cõi vô cùng
Xứ của thần tiên, ân ái tình chung
°
Ta yêu nhau đẹp như là mộng ảo
Như một vườn xuân thơm tình phương thảo
Như một bài thơ nồng cháy điên mê
Ôi nhớ nhung sao những buổi đi về
Những giọt mưa thu mờ trên cửa kính
Những buổi chia tay ngậm ngùi bịn rịn
Tính giã từ mà chửa muốn rời nhau
Ôi đắm say sao là chiếc hôn đầu
Mà dư vị còn đê mê đầu lưỡi
Hồng ơi, Hồng ơi, sao em còn hỏi?
CHUYỆN THẦN TIÊN
Như trong chuyện thần tiên: anh chợt tới
Cứu em ra thoát khỏi cửa Cung ngà
Ta vỗ ngựa đi vài nơi mộng ảo
Xứ ân tình đầy mây nước, trăng hoa
°
Đường ta đi có mây hồng, lá lục
Có suối đào vờn lượn tắm rừng xa
Có chim Tước trên cành dâng nhạc khúc
Có bướm vàng say hút nhụy muôn hoa
°
Có cả những buổi chiều thu, nắng hạ
Có yêu thương hờn giận với mong chờ
Cả say đắm, cay chua đều có cả
Chỉ vắng người, vì chỉ có hai ta
°
Chỉ hai ta mới thật là tất cả
Nếu không em, anh sẽ khổ mong chờ
Và không anh, em sẽ sầu muôn thuở
Suối với rừng đâu có thể chia xa
°
Anh là rừng gốc xanh và lá đẹp
Vững muôn hàng đùa gió mãi reo ca
Em là gió hiền hòa theo quyến luyến
Chảy quanh rừng in đẹp bóng trăng hoa
°
Em có muốn trở về nơi cung cấm
Giam hãm đời xuân, tủi lạnh phấn hương
Để than khóc với đèn khuya một bóng
Cho mi sầu tràn lệ thắm bi thương
°
Nếu không muốn! Hãy chờ anh em nhé
Khi trăng vàng vừa hiện cuối chân mây
Anh sẽ đến, chuyện thần tiên sẽ mở
Ta cỡi ngựa Hồng đến cõi mê say
Hóc Môn 58
--------------------------------

1

Một truyện của NĐT đã xuất bản

2

Thơ của T.T.KH trong “bài thơ cuối cùng”.

3

Thơ của T.T.KH trong “bài thơ cuối cùng”.

Chương Tư: Thanh Tâm Tuyền




Thanh Tâm Tuyền, Con Ngựa Chứng Của Thi Ca Hôm Nay,
Thanh Tâm Tuyền xuất hiện cùng một lúc với tạp chí Sáng Tạo năm 1955.
Ngay từ buổi đầu ra mắt, ông đã đón nhận được khá nhiều sự chú ý của đám đông quần chúng - với lối thơ Tự Do, đã một dạo được mệnh danh là THƠ HŨ NÚT, tối tăm. Năm 1956, ông cho xuất bản cuốn thơ đầu tay “Tôi không còn cô độc”.
Sự xuất hiện thơ tự do trên Sáng tạo và được tạp chí này phát động rầm rộ, với đa số độc giả Việt Nam còn quá quen thuộc với khuôn nếp cũ, còn quá ư nặng tình với dĩ vãng thi ca, đã là một cái gì “chướng” (mặc dù sự kiện này không phải lần đầu thấy có ở Việt Nam).
Chính Thanh Tâm Tuyền cũng biết điều đó, và dĩ nhiên ông cũng đã nghĩ tới hậu quả của việc làm… Nhưng say sưa với  lý tưởng “làm mới nghệ thuật”, ông can đảm, sẵn sàng đón nhận tất cả mọi phũ phàng, dập vùi. Sự hất hủi, lãnh đạm tất nhiên phải có và kẻ mở đường hay kẻ “Làm Loạn” phải gánh chịu.
Thái độ cương quyết của ông đã làm tôi thầm khâm phục, và muốn tìm hiểu về ông, Mặc dù, có thể, tôi sẽ bị những cái gì đó che mờ ý thức nhận định sáng suốt. Nhưng tôi vững tin nơi sự thành khẩn thiết tha với việc làm, ít nhiều gì, tôi tin rằng sẽ ghi nhận được một vài sắc thái, phải phác vẽ được những nét chính khuôn-mặt-đời và sắc-diện-tâm-hồn ông.
DZƯ VĂN TÂM tức Thanh Tâm Tuyền, sinh năm 1936 tại Nghệ An (Vinh). Tuy sinh tại miền Trung nhưng ông lại lớn lên và theo học tại Bắc Việt (Hà Nội). Cho nên, trong các tác phẩm của ông, người ta thường bắt gặp những hình ảnh, những kỷ niệm thuộc về Hà Nội xưa. Điều đó chứng tỏ rằng “chốn ngàn năm vạn vật” với 36 phố phường đã in hằn, khắc sâu trong tiềm thức nhà thơ. Phải chăng dĩ vãng ấu thơ đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng tác?
Năm 1955, ông chính thức bước chân vào làng văn nghệ.
Thoạt tiên với tạp chí Sáng Tạo, sau đó, ông cộng tác với một số tờ báo khác cũng như có góp mặt trong một số giai phẩm.
Năm 1957, ông cho in “Bếp lửa” truyện ngắn. Với truyện ngắn này, ông đã có được cảm tình của độc giả vốn sẵn có ác cảm với thơ tự do của ông. Dạo đó, truyện ngắn “Bếp lửa” đã làm tôi say mê tới độ đọc đi, đọc lại nhiều lần.
Năm 1962, ông bị gọi động viên khóa 14. Một chuyện vui vui về ông, mà anh em bây giờ còn nhắc tới. Đó là chuyện Thanh Tâm Tuyền say rượu…
Độc giả hẳn thừa biết rằng ở bất cứ một quân trường nào, thời gian đầu không bao giờ khóa sinh được đi phép. Riêng ở Thủ Đức, thời gian để được đi phép sau khi vào trường khoảng từ 2 tháng tới 4 tháng. Có lẽ trong thời gian bị “giam lỏng” và bị xúc động nhiều bởi sự thay đổi đột ngột nếp sống, nên Thanh Tâm Tuyền thường có những buổi tối say sưa ở Câu Lạc Bộ trong trường. Một buổi tối, ông quá chén, trở về đại đội, đã hơi khuya, anh em ngủ gần hết, ông cùng mấy người nữa bốc hứng, gom lá khô, rác rưởi, nổi lửa đốt chơi ngay trước cửa Đại Đội. Rồi trong giây phút thả hồn theo Lưu Linh, ông cởi bỏ quần áo, nhảy như điên trước đống lửa, trước tiếng cười hét cổ võ của bạn bè.
Hậu quả là sáng hôm sau, Thi Sĩ Thanh Tâm Tuyền bị khiển phạt. Tuy là một nhà văn, nhà thơ, nhưng ông lại có tài chỉ huy. Chính vị đại đội trưởng của ông cũng phải ngạc nhiên mà thú nhận rằng “Tôi không ngờ một nhà văn như anh lại có khả năng chỉ huy quân sự khá thế”.
Ra trường năm 1963 ông được tuyển dụng về nha C.T.T.L.
Ông viết cho tờ Bách Khoa với truyện dài “Vũng Lầy” và Văn với truyện dài “Ung Thư”.
Vì chương này được viết trong lúc tác giả đang công tác xa Saigon, do đó phần ghi nhận về khuôn-mặt-đời của Thanh Tâm Tuyền có phần thiếu xót. Nhưng bù lại, phần nói về tiếng thơ của ông lại tương đối đầy đủ hơn cả, vậy xin mời độc giả bước vào căn-nhà-tâm-hồn của người lãnh đạo phong trào thơ hôm nay.
THƠ THANH TÂM TUYỀN
Những ai từng lưu tâm đến nền văn hóa nước nhà đều không khỏi buồn khi nhận thấy: Lịch trình diễn biến của nền văn học nước ta có một lỗ hổng lớn: Đó là khoảng thời gian rỗng không từ kháng chiến chống Pháp năm 1945 tới cuộc chia cắt ô nhục 1954. Đúng hơn, trong khoảng 10 năm đằng đẳng này chỉ có những hoạt động văn hóa đơn lẻ, thiếu tính chất sôi động, cuộn chảy, bừng bốc.
Nếu chịu suy luận một chút, chúng ta sẽ tìm ra nguyên nhân của sự kiện đi xuống, cách khoảng đó. Vì dù muốn hay không, bất cứ trào lưu nào, một khi đã đạt đến mức sung mãn cực thịnh rồi, thì tiếp theo là thời kỳ tàn tạ, suy sụp, nhạt nhòa, mệt mỏi…
Theo một số nhà nghiên cứu, phê bình về quá trình diễn biến của Thi Ca Việt Nam cận đại, đã cho rằng thời gian cực thịnh của thi ca nằm vào khoảng từ 1930 đến 1945. Đây là lúc người ta thấy xuất hiện những Huy Cận với Lửa Thiêng, Xuân Diệu với Thơ Thơ, Lưu Trọng Lưu với Tiếng Thu, Chế Lan Viên với Điêu Tàn, Nguyễn Bính với Lỡ Bước Sang ngang, Bích Khê với Tinh Huyết, Vũ Hoàng Chương với Thơ Say…
Ở những thi sĩ này, vang bóng của một Tô Đông Pha, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Khuất Nguyên, Bạch Cư Dị… đã thiếu vắng. Người đọc được thở hít một bầu không khí mới, sôi bỏng - đắm đuối - hối hả - cuồng điên - ray rứt - nhức nhối - bi thương. Một bầu không khí mê man, gọi réo thảm sầu, thâm trầm, phảng phất vóc dáng những tài hoa lãng tử Tây Phương, ngây ngất men rượu cuộc đời, đắng cay vị tình ái. Và nhất là phong thái chếnh choáng nghiêng ngửa, khật khưỡng của bộ ba Verlaine - Rimbaud - Mallarmé. Ba ông Hoàng Tử được coi là tiên phong đồng thời cũng là nòng cốt của thi phái tượng trưng Pháp, xuất hiện hồi hậu  bán thế kỷ 20, cho lớp thi sĩ hậu sinh soi dáng…
Khi cuộc đại chiến lần thứ II khai diễn năm 1939 đã kéo theo cả một thời đại vàng son, huy hoàng của trào lưu thi ca mới du nhập Việt Nam. Sự tàn rữa của đợt sóng thi ca mới này nhen khởi từ 1940 và kéo dài tới 1954. Cho đến 1955, tại Thủ Đô miền Nam tự do, một tạp chí Văn Nghệ xuất bản hàng tháng lấy tên là Sáng Tạo xuất hiện với một chủ trương rõ rệt: “Văn chương nhập cuộc, Khảo tra cuộc sống”. 1
Sự có mặt của tạp chí Sáng Tạo và nhóm người chủ trương đã làm thức dậy, xao xuyến giòng nghệ thuật từ lâu thiếp giấc, ngưng đọng.
Nếu trì trệ để cuồng xiết, lắng xuống để bùng cao, u mê, đắm chìm để vươn thoát vũ bão cuồng nhiệt hơn - thì quả những Mai Thảo, Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Vương Tân, Cung Trầm Tưởng, Trần Lê Nguyễn, Quách Thoại, Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Nguyên Sa, Nguyễn Sỹ Tế… đã có công khai quật, mở thông mạch nguồn.
Vì xô dồn giòng cuồng lưu tư tưởng, xóa bỏ dĩ vãng, đập tan khuôn mẫu xưa cũ, để phối dựng một vũ trụ, sáng tạo một ý thức hệ mới, nên giông bão, gió mưa đã loạn một vùng trời đất.
Thảm kịch khai diễn ngay khi màn nhung hé mở. Một diễn viên và cũng là nạn nhân được hân hạnh nhận lãnh nhiều tiếng xấu nhất là Thanh Tâm Tuyền với thi phẩm đầu tay: Tôi Không Còn Cô Độc 2
Ở đây, ta phải thẳng thắn nhìn nhận rằng Thanh Tâm Tuyền là một trong những nhà cách mạng tiền phong của thơ Tự Do.
Cái công của Ông không phải là công du nhập thể thơ tự do vào Việt Nam. Vì ngày xưa sân khấu văn học Việt Nam đã xuất hiện cả một nhóm XUÂN THU NHÃ TẬP mà linh hồn của nhóm là Nguyễn Xuân Sanh, một Phan Khôi với bài Tình già, một Triều Sơn với Chiều Mưa 3
Nhưng cái công của Ông nói riêng, của nhóm Sáng Tạo nói chung, là khơi động mạch nguồn và dũng mãnh bước những bước chân ngạo nghễ trên dư luận chống đối, đả phá kịch liệt của một thành phần vô cùng đông đảo, gồm những người quan niệm thơ phải có vần có điệu hay ít nhất đọc lên cũng có thể hiểu được, chứ thơ không thể nào tối tăm bí hiểm, hũ nút, lập dị của lý trí, tiểu xảo ngôn ngữ chắp ghép…
Tôi còn nhớ phong trào chống đối này được phát động mạnh mẽ nhất nơi tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong và nhật báo Tự Do. Riêng ở Văn Nghệ Tiền Phong trong mục Hội Thơ, kỳ đặc biệt giới thiệu những bài thơ tự do của vài ba cây bút trẻ, còn xa lạ – Nhưng như lời người phụ trách thì: Với những bài thơ tự do được giới thiệu khiến người ta có thể tin tưởng vào tương lai thơ tự do sẽ sáng sủa hơn. Trên đó, phần mở đầu Hội Thơ, người phụ trách trích đăng mấy câu thơ của Thanh Tâm Tuyền như: “Chiếc xe đạp không vành không bánh” và “Tôi đi chân tôi trên tay tôi” với mấy bức hí họa kèm bên
Đây chỉ là một dẫn chứng nhỏ trong vô vàn hình thức diễu cợt mai mỉa thơ tự do (mà bao giờ đối tượng cũng là Thanh Tâm Tuyền).
Chính vì thế, mỗi khi nhắc bàn tới thơ tự do, người ta thường liên tưởng ngay tới Thanh Tâm Tuyền.
Đứng trước những diễu cợt, mỉa mai của quần chúng, thoạt tiên Thanh Tâm Tuyền, còn giữ thái độ im lặng, nhẫn nại, chịu đựng. Kiểu im lặng là khinh bỉ, hay “chó sủa mặt chó, đoàn người cứ đi”. Sau phong trào đả kích càng ngày càng lan rộng, giới hâm mộ thơ tự do ngày một thêm thắc mắc, hoang mang, không biết nên có một thái độ như thế nào! Tiếp nhận hay quay lưng? Giữa trạng thái lơ lửng nan giải đó, dường như các lý thuyết gia của nhóm Sáng Tạo cảm thấy không thể im lặng hơn được nữa. Cho nên, thoạt tiên Trần Thanh Hiệp lên tiếng biện minh và xác nhận vấn đề, lập trường đối với thơ Tự do. Kế tiếp Thanh Tâm Tuyền, rồi lại Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền. Nhưng riêng hai bài của Thanh Tâm Tuyền với nhan đề “Trèo lên cây bưởi hái hoa”. (Sáng Tạo số 7), tháng 4-1956) và “Nỗi buồn trong thơ hôm nay” (Sáng Tạo số 31, tháng 5-1959) được dư luận chú ý và bàn nhắc nhiều hơn cả.
Dưới đây, chúng tôi xin trích một vài đoạn trong những bài đó. "Tất nhiên là tôi không thể nào chối một phần cái sự “tối tăm” của thơ Tự Do. Vì như tôi đã có dịp trình bày: Bản vị của một bài thơ Tự Do không nằm trên mỗi câu như ở thơ cũ (chữ cũ gồm cả cho thơ mới) mà đặt trên mọi từ khúc - Đừng tìm ý nghĩa và tiết điệu của bài thơ theo mỗi câu mà hãy nắm gọn từng từ khúc một. Mỗi từ khúc là một toàn thể về ý nghĩa cũng như tiết điệu, ở đấy người làm thơ liên kết những hình ảnh xô đến để diễn một ý lớn và một điều trọn vẹn. Chính ở chỗ này người làm thơ mở cửa tâm hồn tiếp đón rất nhiều hình ảnh cho từ khúc. Khiến thoáng  ngó, người đọc cảm thấy ý tưởng bị ngắt quãng vì những hình ảnh đứng bên nhau với cái lướt mắt sơ sài tưởng không liên lạc gì với nhau. Cho nên người đọc phải tìm được sự thống nhất khắng khít của những hình ảnh ấy.
Nguyên tắc chính của thơ Tự Do là tránh giảng giải phân trần, bài thơ tự nói bằng hình ảnh”.
Trèo lên cây bưởi hái hoa, Thanh Tâm Tuyền
Sáng tạo số 7 tháng 4 năm 1956
“Thêm một lần nữa tôi trở lại vấn đề THƠ TỰ DO. Tuy nhiên câu chuyện sẽ không mang những ồn ào của một cuộc tranh chấp ảnh hưởng và địa vị trên văn đàn. Công việc ấy không cần thiết đối với tôi mà cũng không là một lý do chánh đáng để có thể làm mất thì giờ của bạn đọc. Nhưng chẳng lẽ đành lòng để cho một vài ý niệm rất đơn giản, sơ đẳng về thi ca, một vài tâm trạng đố kỵ, ít nhiều thiên khiến thiếu tinh thần vô tư ngang nhiên tác hại công việc phê bình văn nghệ ở đây sao? Vả chăng còn phải vọng hồi âm tới những đòi hỏi của các bạn yêu thơ tha thiết ưu tư về trình độ thưởng ngoạn của mình. Trong cả hai trường hợp, im lặng có nghĩa như một thiếu sót đáng tiếc.
….
Trở về với thi ca thuần túy, tiếng thơ Tự Do đã chối bỏ không ít thi phẩm công thức hiện tại, đã xa cách nhiều nhà thơ khô cạn, công thức, hủy hoại thi ca để biến thành tù nhân của hình ảnh chế tạo, của vần và của điệu. Thơ  Tự Do cô độc hay đúng hơn, độc đáo vì điểm khởi hành của nó.…
Lại có người lớn tiếng trách rằng thơ Tự Do là một sản phẩm của xã hội Tây phương nhập cảng vào Việt Nam. Chúng ta không thể không công nhận một sự thật; Văn hóa Tây phương đã ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống chúng ta. Chỉ cần tìm xem chúng ta có đủ bản lĩnh chế biến văn hóa Tây phương để tự bồi dưỡng hay không mà thôi”.
(Vài diểm gợi ý về thơ Tự Do- Trần Thanh Hiệp) "Rất nhiều người thường lên tiếng khuyên dạy các nhà thơ hôm nay chỉ nên làm thơ phá thể mà thôi, trong ý họ, câu thơ vẫn được tự do mà giữ được nhạc điệu. Những người ấy không thể hiểu nổi rằng thơ phá thể chính là biểu hiệu của “thơ mới” ở ngõ cụt, nhạc điệu của thơ phá thể là thứ nhạc điệu nghèo nàn và giả tạo nhất.…
Bởi thế thơ hôm nay không đứng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do.
Người ta bất mãn là đúng, với thơ hôm nay, thơ rời khỏi ngôi báu thiêng liêng từ ngàn xưa để họ dùng cho cuộc đời tầm thường quá sức.
Tình ái cũng bị dùng làm phương tiện khám phá đời sống, khai quật ý thức. Chọn một người trong đám đông không phải để phá hủy cô đơn vô ích mà để so đọ cô đơn ở mỗi người”.
(Nỗi buồn trong thơ hôm nay của TTT)
Bây giờ, chín mười năm đã trôi qua. Bao nhiêu vật đổi sao dời - những xung đột - những tương tranh giữa cũ và mới đã chia xa, đã lùi sâu vào dĩ vãng. Sự hình thành của giòng nghệ thuật mới, hôm nay đã vươn mạnh và đang lao đi, tiến tới sung mãn hưng thịnh, những tập thơ tự do đã liên tiếp xuất hiện trên các giá sách, cũng như tràn ngập trên các chương báo. THANH TÂM TUYỀN một lần nữa lại xuất hiện trong khuôn dáng độc đáo cố hữu với Mặt Trời Tìm Thấy 4
Phần lớn những thi  bản của tập thơ thứ hai này được sáng tạo trong khoảng thời gian từ 1956 - 1960. Thoạt tiên nó được khoác danh “BÀI NGỢI CA TÌNH YÊU” . Theo tác giả thì khi chọn lựa tựa đề đó - Ông đã liên tưởng tới “GIÒNG THƠ TÌNH BẤT HỦ KIỂU LE CANTIQUE DES CANTIQUES CỦA THÁNH KINH”. Sau được dự  định đổi thành LIÊN THƠ 5 và lẽ ra đã trình làng từ năm 1960, nhưng mãi tới 4 năm sau mới thực hiện được với tựa đề Mặt Trời Tìm Thấy.
Thoạt tiên, tôi có ý định đi vào THANH TÂM TUYỀN bằng lối ngõ “Mặt Trời Tìm Thấy”, chứ không bằng “TÔI KHÔNG CÒN CÔ ĐỘC”, (mặc dù nhiều người thường quan niệm rằng tập thơ đầu tay bao giờ cũng là tập thơ kết tinh bởi cao độ đam mê thuần khiết nhất. Như một thứ ‘tình đầu” với tất cả những ngỡ ngàng, sơ sót ngây dại, như náo nức, mê man, nồng nàn, thành khẩn đắm đuối hơn cả). Vì ở những nhà thơ tự do hay hôm nay, thơ không còn ý nghĩa một ngọn suối mát, ngọt ngào, một vùng tình yêu yên nghĩ, một cõi hư vô trầm tĩnh với một ngôi sao thần tượng rực rỡ thánh thiện mà là: “… tên ăn mày lẫn giữa đám đông khốn cùng với một mẩu tự do sót lại. Đám đông bị lôi cuốn đi trong  cơn lốc tối tăm khủng khiếp, rất gần gũi nhau để hiện lên cô đơn trong từng kẻ một. Người làm thơ hôm nay không trông từ ngôi cao vĩnh viễn, hẳn có mặt và cùng cô đơn, cô đơn hơn ai hết. Không chuyển cô đơn lên một bầu trời bình yên để hòa đồng trong tĩnh mịch trường cửu, hẳn gục mặt vào cô đơn giữa một giòng náo động bi phẫn đòi gần gũi trước mắt nhau”.
Cũng vì tiếng thơ hôm nay không còn là thơ thuần nhiên nữa, nó là những trận gió bão loạn cuồng giữa một vùng ý thức vật vã, khắc khoải, những tủi nhục, ươn hèn, những bĩ ổi, tội lỗi, những chém giết vô nghĩa, nhầy nhụa đọa lạc, vất vưởng của thân kiếp bất lực trước bao nhiêu thảm kịch dồn dập, xô cuốn - cái đau xót, uất nghẹn của tiếng thơ hôm nay là những “đau như thứ dữ cháy rừng” (Thơ TTT) hoặc thảm thiết của những “rưng rưng mùa hoa gạo - lỡ một ngày mai tôi chết trần truồng không cơm áo” (thơ QT). Nên giá trị của nó, nằm ngay nơi từng mẩu vụn đời sống, từng cơn lốc phẫn nộ mê sảng của ý thức, tôi nghĩ không nhất thiết phải căn cứ vào những gì có trong “Mặt Trời Tìm Thấy” - hơn nữa với “Tôi không còn cô độc” - vì với thi phẩm này, tác giả tự nhận: trong “tôi không còn cô độc”, tôi đã mơ hồ nhận thức điều ấy khi viết: “xin đừng ai gọi tôi là thi sĩ” - Điều ấy T.T.T muốn nói: “với những người làm thơ hôm nay, thơ không còn là một mục đích cuối cùng của một số kiếp hay ngôi báu thiêng liêng mà thi nhân muốn vươn tới - mà chỉ mang ý nghĩa một phương tiện dẫn tới vùng ý thứ sâu thẳm để khai quật, thâm nhập soi sáng đời sống…
Từ đó, tôi đi vào vùng bão biển, rừng cháy, của tâm hồn Thanh Tâm Tuyền bằng tất cả cố tình không máy móc, không tuần tự, hệ thống, giới hạn trong một phạm vi cố định. Bằng ý thứ bất chợt, một thoáng nhìn, thoắt gặp - Bằng sự mở tung, mọi cửa ngõ cảm quan, tâm hồn thành thiết nhập cuộc với cao độ say mê. Cuồng lưu ảnh hình đã lôi cuốn tôi dềnh trôi vào vũ trụ mang tên Thanh Tâm Tuyền. Giữa một khoảng trời hồn người và vật giới giao thoa hay trùng khít nỗi thấm cảm bọt bèo.
Vứt mẫu thuốc cuối cùng xuống giòng sông
mà lòng minh phơi trên kè đá
con thuyền xuôi
chiều không xanh không tím, không hồng
những ống khói tầu mệt lả
(Bao giờ)
Mẩu thuốc tắt, giòng sông trôi, con thuyền trôi - buổi chiều ấm ức thở bằng nhịp chán chường hấp hối của một thân tầu hay một tâm hồn, một thân xác đơn chiếc trong một hoàn cảnh ghẻ lạnh.
Đọc đoạn thơ trên, người ta có cảm tưởng đang phải đối diện với khuôn mặt lạnh lùng, với những vết hằn thâm u, lợm chán - Sa lầy trong vũng cô đơn quánh đặc, trước mắt thi nhân, tất cả hầu như đã rời xa, không còn rễ bám trong cùng sâu tâm thức, tất cả đã rữa tàn, qua đi, qua đi thoáng nhẹ, lạnh lẽo như một lời từ biệt, như một thanh âm cùng thấp chưa rung đã hòa lãng - chưa bay đã gẫy rập…
Như mắt
như  ngõ hoang hồn này
hôm nay
nghe lời hát quen quen
người đàn bà ấy mang tên…
lời từ biệt.
Trên sân ga vắng
tiếng kèn trầm cùa một chuyến ô tô ray
đầy dĩ vãng

chiếc xe vẫn chỉ thuộc một mình
như kẻ say rót rượu lấy mà uống.
Những hình ảnh tiếp theo nhau đi vào tận cùng chán nản. Cái cảm giác lợm giọng đến độ muốn nôn mửa, muốn xé nát vùi chôn cuộc đời, thân xác trong thế giới hiện hữu tối tăm, bủa vây bởi những hệ thống giáo điều những thương đau phẫn uất, những máu, những thép, những hôm qua bất mãn, hôm nay nhầy nhụa. Giữa một cuộc sống mà tất cả mọi  khuôn nếp cổ xưa đã bị đục khoét từ cội rễ. Sự sâu mọt rỗng mòn này, đã xô ném ý thức tới ngưỡng cửa bi thảm.
Mang cơn dông trong một hồn đầy những nhớ thương
cùng dĩ vãng
chiều thứ bẩy có nhớ thành phố tươi cười vườn cây trái mương tràn sông hoa điên cỏ dại
còn muốn sống như nguồn nước đổ, sao em trả lời bằng bệnh viện mắt kín mưa đêm
(Những người gặp một lần)
Ở Thanh Tâm Tuyền, người ta thường chợt bắt gặp, chợt nắm được cái lý trí băng hoại rách rưới. Tâm hồn ông là cả một bãi chiến trường của những tương xung nội tại và ngoại giới. Chính những xung đột, tranh chấp này đã mở lối, khơi màng cho thi nhân nhìn thấy mình. Nhìn thấy khuôn mặt mình, với những dáng vẻ nhữnhg  nếp xếp gẫy đổ thê thiết của thân phận bé mọn mà vốn liếng không ngoài lòng thành khẩn, hành trang không ngoài cô đơn cùng những tham vọng ủ kín dưới đáy sâu tiềm thức. Và, trước mặt là cả một thành trì kiên cố của những tập quán, thành kiến, những tị hiềm đố kỵ, những đường mòn dẫn tới ngõ cụt, và trên đầu một vòng trời trĩu nặng thâm u.

Những giòng nước mắt

Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng

Bằng giọng của máu, của tủy, của hồn bắt đầu ngày tháng

Giữa rừng không lối dừng mãi trống không
Ném mình, ném đám đông vào trần truồng tủi cực xác thịt
Tan vỡ hôm qua, hôm nay, kể gì ngày mai
Người ta không thể trách cứ cũng không thể nặng lời kết án những nhà thơ tự do, nếu ta không  muốn quay lưng lại thực trạng nhơ nhuốc, nếu chúng ta không thể tự lừa dối chúng ta, tự bôi phấn vẽ mặt, ra sân, diễn xuất như một tài tử chuyên nghiệp thượng thặng trên sân-khấu-rộng-lớn-cuộc-đời. Chúng ta phải nhìn nhận, phải tự thú: Cuộc sống hôm nay của chúng ta không hề được mặc áo khoác một ý nghĩa cao đẹp nào, cũng không một giá trị tinh thần nào, còn giữ nguyên ngôi vị, nuôi dưỡng ấp ủ trong nhịp sống quay đảo, cuồng điên hối hả.
Trạng huống đó lại bị sa lầy trong hố sâu của lý trí phù phiếm, bất lực. Chiến tranh, tai họa là những tấn kịch muôn đời còn nghiến ngấu con người, còn là những vòng dây oan nghiệt, trói buộc chúng ta trong không-gian-nước-mắt, thời-gian-máu-se:
Bắt đầu chảy máu những thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu lấy ống kèn, như một bùa thiêng
Chọn ngoài thể xác ngoài thương yêu ngoài dữ tợn
Chọn thế giới va chạm những loài chim réo gọi
Thời gian mềm
Không gặp thời gian
Không gian quay thành những vòng kỷ niệm
Rồi một buổi bào Blues hiện về xanh
(Đen)
Điệu Blue nào hiện về không xanh? Thế giới nào đã lùi xa? Khát vọng nào chỉ là những thanh âm nức nở, nát tan? Tình thương nào được nhen dậy hình thành bằng bóng tối đặc dầy hiện tại:
Bây giờ mùa Thu trời xuống thấp buồn vô cùng
Những kiếp hơi thở còn quyện lấy mọi hồn
Người vắng mặt, có mặt âm thầm ôm đêm tối
Ta ngó thời gian như soi gương
Cuộc đời bao giờ cũng chỉ là một.
(Thánh ca những người đã chết)
Là một với  những:
Chuyến xe buýt chạy trong buổi chiều trời mưa
Mưa ngoài châu thành
Không tìm thấy bến không đỗ lại.
Và:
Thành phố ngã như con vật kiệt sức
Người ta nằm im trên vỉa hè, trong lỗ cống, dưới gầm cầu lòng sông ngoài đất trống
Người ta nằm im, những phiến đá sau cơn địa chấn
Không ai dọn dẹp, không ai chôn cất, không ai vắng mặt
(Khai từ một bản Anh hùng ca)
Và:
Ô! Budapest Budapest Budapest
Người ngồi ở đâu? Hà Nội hay Paris? Newyork hay Varsovie
Ồ! Budapest Budapest Budapest
Nhìn lên sân khấu học thuộc lòng mỗi lời
Ở phần đất thi ca mới mẻ này, người ta ghi nhận được  những hình ảnh mới, ngôn từ mới, không theo một quy luật nhất thiết nào. Những hình ảnh, những ngôn từ đó đã dựng tạo thành một không gian phức biệt lạ lùng, nhiều khi đến độ tối tăm, kỳ bí. Chính sự vượt khỏi tầm nhận thức nhẵn quen, đã trở thành những định kiến ăn sâu trong thái độ thuởng ngoạnm trong thể cách đón nhận rung cảm của quần chúng, cho nên thơ tự do bước khởi đầu đã là bước lạc lõng cô đơn, trước mắt nhìn lãnh đạm, nhạt nhẽo khinh khi của đám đông. Và, Thanh Tâm Tuyền trong một giây phút chân thành khẩn thiết nào đó, đã phải thốt lên lời chán nản:
Tôi nhận rằng thơ vô ích như những trận mưa
Như những cái hôn - bóng gió, những giấc mộng đêm hè
Như tiếng hát họa mi hay chim ca đầu xóm
Bàn lưu ly thảo luyến luyến
Bàn tay hò hẹn đón mình ở ngã tư
Căn nhà cũ không kỷ niệm không thân tình thời gian
Ý thức bất lực là ý thức soi sáng viễn trình đi vào cuộc thế - thái độ nhìn nhận là thái độ tránh thoát ảo tưởng, vấp  ngã, để trút bỏ mặc cảm, để tiến tới, để hô hào, gọi kêu những tâm hồn chí nguyện.
Thanh Tâm Tuyền đã nhập cuộc bằng con đường nghệ thuật Dionysos. Nói đến nghệ thuật Dionysos người ta thường nghĩ ngay tới nghệ thuật Apollpon, vì đó là nhận định của Nietzsche rút từ những tấn bi kịch Hy Lạp. Theo quan niệm của F. Nietzsche thì nghệ thuật Apollon là nghệ thuật được hình thành bởi những lệ luật cân đối, tròn trịa, sự trung hòa giữa ý thức trong sáng và vẻ đẹp thuần nhiên. Không điên loạn, không chà đạp chối bỏ, không bão bùng dấy loạn. Còn nghệ thuật Dionysos là nghệ thuật được tác thành bởi  những phẫn nộ, những dằn vặt của ý thức thống khổ cùng quẫn, giữa những khuôn mẫu hệ thống cũ cần phải được đập nát, xóa nhòa.
Vì tiếng thơ Thanh Tâm Tuyền là những mảnh vụn của ý thức bị dồn nén, của kiếp sống đè nặng trong vùng tâm thức nổi loạn, nổ tung, giòng thơ vút đi, cuộn xiết. Tất cả bị phá vỡ, phủ nhận. Dĩ vãng chỉ còn là chuổi dài ươn hèn, sầu não, mơ mộng ảo huyền. Để đặt định lại, bắt đầu lại, bằng bước chân dũng mãnh, hơi thở nồng nàn chan chứa nhiệt tình, náo động khao khát đào xới, tìm kiếm, xây dựng một niềm tin, một ý nghĩa cho sự hiện hữu của con người hôm nay, cho ngày mai cho tất cả những tấm lòng hướng vọng về một vùng trời cao rộng, phóng khoáng, về một vùng biển mênh mang.
Tôi vốn là một Thi sĩ nghèo hèn
Không gia tài không địa vị không khí giới
Đến đây cất lời kêu gọi
Người nào không có ánh sáng tôi có tiếng kêu ánh sáng
(Và bình minh và mây trắng trời xanh)
Người nào không có ngày mai đây danh dự ngày mai
(Và nhà cửa và trẻ thơ và đầm ấm)
Người nào thiếu tình yêu thiếu tự do
Thì chút mắt, chút môi, chút thở
Tôi mang theo tôi một thế giới
Hoa cỏ chim muôn thời gian vũ trụ
Lòng hy vọng niềm tin tình bằng hữu chiến đấu
Dù khe khắt đến đâu,  dù thành kiến bao nhiêu, ta cũng phải nhìn nhận một điều ở Thanh Tâm Tuyền, đó là nồng độ thành khẩn trông ngóng về cuộc đời với ý thức tự hiến, với tâm hồn thiết tha ôm choàng xã hội. Một xã hội đầy đẫy thảm kịch đau thương - Tất nhiên - của một dân tộc quá nhiều thương tiếc.
Tôi nghĩ ai kia, đã lên án tiếng thơ Thanh Tâm Tuyền và cho là những tiếng gào thét vô nghĩa của một kẻ điên, phản ảnh của một tham vọng làm dáng trí thức, làm bật nổi một sắc diện, vốn bất lực, để che dấu những mặc cảm, những tỵ hiềm nhỏ nhen cuồng dại trước những khuôn vóc lẫm liệt đã đi vào lịch sử văn học; nếu đọc đoạn thơ dưới đây sẽ thấy thương chàng, cảm thông cùng những ước vọng thật người, thật thơ, và cùng thật đau đớn xót xa vì nó là ảnh hình của thực trạng u ám, của đời sống bất trắc, thắm thiết thế hệ chúng ta - Trước những bấp bênh, dềnh nổi những nhơ nhuốc vẩn đục của giòng hiện tại, những phi lý thật vô cùng phi lý.
Tôi là mưa gió xuống những tâm hồn khô nẻ
Đốt lửa cháy những tâm hồn lạnh lẽo
Và sinh ra để ngợi ca cuộc đời, ngợi ca loài người
Tôi nói tiếng yêu đương cùng tương lai
Nhưng hát lời nổi loạn chống kẻ địch
Và:
Anh bảo đừng ngủ em chống mắt lên chờ kẻ địch
Đừng ngủ em, trời sắp sáng, đừng ngủ em
Anh trở xuống lấn vào đám cao ướt sắp vượt đầu
Và lại nghe hát khúc hát mỏng như tơ sợi rét dăng ngang mặt
(Tuần gác. Văn số 18)
Bằng vào những hình ảnh thoạt tưởng như đứt đoạn rạc rời, những ngôn ngữ thoạt tưởng không mang một ý nghĩa; bằng vào những mảnh vụn, những đứt khoảng đó, Thanh Tâm Tuyền đã tạo cho mình một khuôn mặt mà, với đám đông vô cùng lơ  láo, nhợt nhạt, thất sắc - nhưng đó là khuôn mặt Thanh Tâm Tuyền: độc đáo, lẻ loi, bi thảm, phẫn nộ. Thế giới của chàng là thế giới của bão loạn suy tư trong hiện tại, hoài nghi ở tương lai và đoạn tuyệt với quá khứ. Từ thế giới cô đơn lẻ chiếc này, phải chăng chàng đã tự nguyện chọn hiu quạnh, bóng tối như mặc nhiên nhìn nhận sự hiện hữu của mình để từ đó vươn lên, ngó xuống đời mình:
Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ:
Thanh Tâm Tuyền
Còn gì kênh kiệu, ngạo mạn hơn, mà cũng còn gì đau đớn, tủi hờn hơn!
Có người cho rằng đó là thái độ giận lẫy của kẻ đã trót lỡ lầm hiến dâng tất cả nhiệt tình, tâm hồn, đổ trút tất cả vốn liếng trong cuộc thách đố, đỏ đen với định mệnh, với quá khứ hầu tranh ngôi độc sáng, cướp lại nguồn lực sáng tạo nơi tay thành kiến, khuôn mẫu cũ. Nhưng với những lãnh đạm, những quay lưng khiến thi nhân ngó lại cuộc viễn trình đơn độc, chợt thấy rằng mình đã bước những bước chân hẫng hụt giữa khoảng không hư ảo…
Nhưng chê hay khen, ghét hay yêu, chúng ta cũng không thể phủ nhận được sự có mặt của Thanh Tâm Tuyền trong danh sách những nhà thơ có công khai phóng một khuynh hướng nghệ thuật mới.
Nếu xưa, trào lưu văn chương tượng trưng Pháp, đã phối dựng cho chúng ta một Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Bích Khê, Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lưu… thì trào lưu tư tưởng hiện đại cũng đem đến cho chúng ta một Quách Thoại, Vương Tân, Nguyên Sa, Thế Phong, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền…
Nhưng điều quan trọng vẫn là: “Liệu các khuôn mặt đó có còn mãi mãi với cuộc đời hay không?” Vì thế, chúng ta cần phải soi rọi thực chất tiếng thơ Thanh Tâm Tuyền trước khi có một thái độ dứt khoát về ông. Ở “Nỗi buồn trong thơ hôm nay”, ông đã viết: “Theo tôi những người làm thơ hôm nay không muốn được gọi là thi nhân vì thơ đối với họ không phải cứu cánh của cuộc sống, thơ chỉ còn là phương tiện để họ vào sâu trong ý thức, gặp mình, gặp được đời sống và may ra gặp được hồn người. Nên nó không mơ mộng nghĩa là không tạo những hình dáng cho cuộc đời vốn đã là hình dáng. Họ muốn nhìn vào thực tế bằng con mắt trọn tròn căng thẳng, phá vỡ hết mọi hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hỗn loạn không che đậy”.
Nhìn suốt hai thi tập “Tôi không còn cô độc” (1956) và “Mặt trời tìm thấy” (1964) - Quả Thanh Tâm Tuyền đã không còn nâng niu ve vuốt những mộng ước hão huyền, những nhớ thương vu vơ than mây khóc gió, những kết hoa, ép bướm, những mái tóc lơi lả, những đôi môi đào mọng, những ngón tay thiên thần, những áo xanh trích tiên, những canh khuya Tầm Dương. Người ta thấy ông rời xa miền tình yêu, cõi trú ẩn viên mãn của hầu hết các thi nhân lớn, bé… Mà người ta chỉ bắt gặp trong ông những ghế đá công viên, những cột đèn hè phố, những bến tầu kè đá, những trận địa bom đạn, những thép gai móc sắt, những thành phố thây ma, máu, lửa, nước mắt… từ những hình ảnh đó, tôi thầm nghĩ: Thanh Tâm Tuyền đã xô ném, dìm đắm thân xác trong cuộc sống thực chát chúa đó chưa? Khi mà những chất liệu nếm trải được từ giòng đời, bao giờ cũng là điều kiện tiên quyết đem đến cho nghệ thuật những hơi thở nồng nàn, sống động, bừng bừng sinh khí…
Tôi nhớ một đoạn văn: “Tuyền làm lính, ca tụng khói lửa, nhưng là sự sóng gió của tài tử chỉ có trên màn ảnh và trong Studio mà thôi, chứ Tuyền đâu có đủ là một con chim mỏ già đời để ra mặt trận và những loài chim mỏ trắng chỉ ca tụng bằng môi mép về sự gian lao” 6 và “Cuộc sống dẫy rũa đến độ trần truồng như một Lautréamont thì ông là sự vụn đổ mang những thảm trạng kinh hoàng (thì đấy là có hiện diện nghệ thuật Dionysos) rồi đến thảm kịch xẩy ra qua sự nghiệp âm nhạc của Wager cũng như sự vùng vẫy để đưa con người lên cao cả như một Nietzsche… Đều mang hình hài của sự sống thực thêm vào óc não đi trước nhân loại của vỹ nhân. Cho nên Lautréamont, Wagner, Nietzsche đã bất tử” 7. Với những viện dẫn này, tôi chỉ muốn nói tiếng thơ Thanh Tâm Tuyền còn thiếu vắng một sức sống bừng bốc, tương xứng với nồng độ tha thiết đam mê có thừa hay đủ cho ông hình thành một tác phẩm có chiều sâu nhưng thiếu sức chiêu dụ, lôi kéo người đọc đi vào thế giới trơ trụi, đầy mâu thuẫn, đầy dằn vặt đau đớn. Bởi đúng như tác giả “11 nhà thơ Việt Nam tự do” “đã nhận định”: “Nghệ thuật Apollon hay Dionysos đều làm cho thi nhân bất tử nếu có sự thực có thiên tài và lấy đời sống làm chất liệu cho thiên tài nẩy nở”.
Nếu một VERLAINE không từng vào tù ra khám, làm sao có thể cảm động nổi người đọc với thi phẩm SAGESSE một DOSTOIEVSKY không từng bị lên án tử hình, không từng bê tha bạc bài trụy lạc, làm sao có thể bất tử với LESFRÈRES KARAMAZOV, và uy danh vượt trên cả một TOLSTOI: lẫm liệt, hoặc phổ quát hơn một LAMARTINE không từng điên loạn vì ELVIRE, kẻ hồng nhan bạc mệnh, làm sao còn lưu truyền được tới nay với một thiên tình ca bất hủ: LE LAC. Từ đó, tôi liên tưởng ở bước khởi hành, với cao độ thành thiết, Thanh Tâm Tuyền đã vượt lên mọi trở ngại, cản chắn, bưng bít, vùi dập của thành kiến, hệ thống đã từ mấy nghìn năm đâm rễ. Để có ngày hôm nay giòng thơ tự do cuộn chảy vũ bão, bừng bừng xô dạt tới chân trời hưng thịnh…
Nguyên điểm này cũng khiến ta phải ghi công đầu cho Thanh Tâm Tuyền khi tìm về nguyên ủy của sự thoát bốc dũng mãnh của tiếng thơ tự do. Nhưng liệu Thanh Tâm Tuyền còn bắt kịp cuồng lưu đó không? Một khi những kẻ song hành với ông như Tô Thùy Yên, Vương Tân Cung Trầm Tưởng… Và một số khuôn mặt trẻ khác như Nguyễn Đình Toàn, Vương Đức Lệ, Trần Thi Nhã Ca, Trần Đức Uyển.v.v… đang vươn lên bức phá, với nhịp sống quay cuồng lặn ngụp, nổi trôi giữa giòng đời thăm thẳm, với ưu điểm là cường lực đam mê, đắm đuối nhiệt tình và đã quá trầy trụa cuộc đời.
Tôi tin rằng, không những ông còn là Thanh Tâm Tuyền và sẽ là một Thanh Tâm Tuyền độc đáo, rực sáng, khả ái hơn. Nếu năng khiếu bẩm sinh được giao hòa, tôi luyện cùng đời sống nghiêng ngửa cân xứng, tôi chắc sau  này, người ghi chép lịch sử văn học sẽ không còn ngập ngừng so đo, phong cho ông ngôi vị hoàng tử thơ tự do.
--------------------------------

1

Sáng tạo do Mai Thảo chủ trương - số 1 ra tháng 10 -1955, số chót 31 ra tháng 9 năm 1959 với sự trợ giúp tài chánh của một cơ quan văn hóa ngoại quốc, là hậu thân của Người Việt cũ.

2

Sáng Tạo xuất bản 1956.

3

Xem Văn số 34.

4

Sáng Tạo xuất bản 1964.

5

Liên tên một người yêu đã mất của TTT.

6

Thế Phong. Nhà văn tác phẩm cuộc đời: ĐNVH xuất  bản 1965.

7

XI nhà thơ Việt Nam Tự Do của Cao Đan Hồ, Tiết 10, Trang 47.

Chương Năm: Thế Phong
NGƯỜI ĐƯỢC MỆNH DANH CÔN ĐỒ VĂN NGHỆ, CAO BỒI TRÍ THỨC HAY NGƯỜI LỮ HÀNH SUỐT ĐỜI ĐÓNG VAI KẺ LẠ MẶT, KHẬT KHƯỠNG ĐI VÀO CUỘC ĐỜI VỚI NIỀM KIÊU HÃNH TUYỆT ĐỐI TRƯỚC MỘT ĐỊNH MỆNH BI ĐÁT.
Thế Phong, chỉ hai tiếng đó khi đọc lên, âm thanh tỏa ra chưa kịp tan loãng, nét nhăn nhó, khó chịu đã xuất hiện rõ ràng trên gương mặt người đối diện. Vì muốn hay không, ít hay nhiều, những người làm văn nghệ tại đây cũng đã hơn một lần chạm mặt hay đọc tác phẩm của người mang tên đó. Thường thì họ phải đối đầu với cái dáng vẻ lạnh nhạt, cái kiêu căng lố bịch tới “không thể chịu nổi” trong những cuộc giao tiếp hoặc “lật tẩy” hay bị soi đèn vào tim đen. Mặc dầu căm thù, hậm hực nhưng họ vẫn muốn lại gần, phải chăng để tìm hiểu kỹ địch thủ trước khi hạ nhục, đập gẫy đối phương. Hay ở một cõi sâu kín nào của tâm hồn đôi lúc họ cũng cảm thấy khâm phục? - Nhưng có một điều chắc chắn và hiển nhiên là khoảng mười năm trở lại đây, hai tiếng Thế Phong được nhắc nhở nhiều nhất. Năm 1961 trong một cuộc hội thảo ở LE CAIRE, Cù Huy Cận tác giả Lửa Thiêng xưa cũng đã nhắc tới cái tên này với nhiều ngợi ca, khen tặng. Nói như thế không có nghĩa là cai tên đó thơm tho, đẹp đẽ gì, trái lại, chung quanh nó không biết bao nhiêu giai thoại, bao nhiêu điều tiếng xấu xa, ô trọc. Nhưn nếu để ý ] một chút, chúng ta sẽ thấy: càng bị vùi dập, bôi nhọ bao nhiêu, tên Thế Phong lại càng thấy xuất hiện trên các tác phẩm bấy nhiêu (phần lớn là trên các tác phẩm in bằng ronéo). Hầu hết mỗi tác phẩm mang tên này được giới văn nghệ tại đây coi như là một cái gai, một cái gì rất chướng rất bực bội., Hồi đó, nội việc in sách vằng ronéo, in hình, in tên thật to cũng đủ làm mất cảm tình biết bao nhiêu người. Cái tôi vốn đã khó thương, lại còn sơn phết nữa thì làm sao ai chấp nhận cho nổi. Không những chỉ thế mà thôi, sau này những nhân vật góp mặt trong ĐNVH, một số cũng rập khuôn theo người chủ trương. Nghĩa là cũng ngông ngông nghêng nghêng, cũng cố tình làm ra cái vẻ bất cần đời, ra cái vẻ khác người, lấy sự khó chịu của người khác làm một điều vinh hạnh.
Riêng tôi ngay hồi chưa quen biết ông, tôi đã cho rằng thái độ của người bất cần đời là phản ảnh một trạng thái tâm lý bị phản bộ, bị hắt hủi tàn nhẫn. Những kẻ thù ghét khinh bạc cuộc đời bao nhiêu, chính là kẻ yêu cuộc đới tha thiết đắm say hơn ai hết. Những kẻ ra mặt lãnh đạm, chê  bai, không thừa nhận người khác, là những kẻ trong thâm tâm chất chứa quá nhiều mặc cảm nhiều tỵ hiềm, vì họ thấy thua sút, hèn kém hơn kẻ khác, nên cố tạo bộ mặt khinh thị, cố mặt khoác cho mình một thái độ “mục hạ vô nhân” để che dấu mặc cảm tự ty, bất lực, họ ẩn náu và thu hình trong cái thế giới không tưởng tự tạo đó. Thế Phong, con người điển hình cho trường hợp tâm lý dồn nén này? Tiếc thay, những  người làm văn nghệ tại đây lại không ngớt lời chửi rủa Thế Phong. Điều đó tuy có ve vuốt một phần nào tự ái của họ, nhưng vô tình họ đã tạo một lớp màn bí mật, huyền hoặc phủ quanh tên ông. Với bản tính tò mò, độc giả hoặc những người chú tâm tới sinh hoạt văn nghệ phải thắc mắc tự hỏi: “tên đó là ai, làm gì, mặt ngang mũi dọc ra sao mà ghê gớm láo lếu vậy? Rồi từ những, băn khoăn không được giải đáp thỏa đáng, người ta đã vẽ trong trí tưởng một hình thù, một khuôn mặt, một nếp sống, khác nhau tùy theo những giai thoại họ được nghe nhiều hay ít. Đồng thời họ cũng thích thú, ham mê khi được ai nói những gì liên quan tới người đó. Thói thường khi có nhiều người muốn nghe, biết về một trường hợp đặc biệt nào, thì tự nhiên cũng nẩy sinh một số người khác (thuộc loại thích khoác lác huênh hoang, thích tỏ ra ta đây là kẻ thao tin, biết nhiều, giao thiệp rôäng, nhất là được chứng tỏ mình rành rẽ tin tức hậu trường văn nghệ, đã không ngần ngại thêu dệt, bịa đặt thêm bớt  nhiều về Thế Phong. Cuộc sống lang thang khó hiểu của ông lại làm tăng thêm mức độ tin của huyền thoại. Thế Phong làm gì? Tiền đâu đêå sống, tiền đâu đêå in sách nhiều thế dù cho sách RONÉO! Những câu hỏi này cũng được đặt ra cho chính những bạn hữu quen biết với ông nữa. Và tôi khi chưa quen biết ông cũng đã có sẵn cảm tình với ông râát nhiều khi đọc Lược Sử Văn Nghệ Viêät Nam, môät công trình biên khảo nhận định văn học công phu, nhưng tới khi đọc báo, nghe anh em nhắc bàn, xì xầm, tôi cũng đâm ghét và thầm nghĩ nếu có dịp sẽ ‘đập” cho hắn một trận. Tôi còn nhớ trên phụ trang văn nghệ nhâät báo ngôn luận (hồi còn mồ ma Tổng Ngô) cô (?) Kiều Diễm Hồng đã viêát vài lời nhắn nhủ những bậc phụ huynh nào có con em thì hãy nhớ đừng đặt cho nó cái tên Thêá Phong và hãy coi như cái tên đó không có trong từ ngữ VN. Nguyên do có một cô hay cậu học trò nào đó đăng bài trên phụ trang báo kia với bút hiệu Thế Phong, Ông viết thư yêu cầu cải chính!
Khoảng năm sáu năm trước, khi chưa tòng quân, tôi hay la cà vào buổi chiều trên Bonard, mỗi khi ngồi quán cà phê Kim Sơn, Thế Phong đi qua, là y như có người chỉ trỏ hay mách bảo nhau nho nhỏ. Từ hồi đó, trong trí nhớ tôi đã in đậm khuôn dáng ông. Một thân hình cao lớn vạm vỡ, tóc dài như tài tử, da đen xạm, mặt hình như lúc nào cũng đầy  nét nhăn dữ tợn. Nếu không từng xem ảnh trên sách, cũng như nếu không có người cho biết, chắc tôi không thể ngờ rằng con người có vẻ thô lổ như vậy lại có thể là một nhà phê bình văn học, một văn, thi sĩ, kiên cả khảo cứu chính trị… Những thắc mắc, nghi hoặc cứ lởn vởn trong óc tôi. Không hiểu ông thuộc mẫu người nào? Đâu là khuôn mặt thực? Tôi cố để tâm dò hỏi. Nhưng như trên tôi đã nói: ông đi, ở, hiện, biến như một cái bóng. Tình trạng mù mờ kéo dài  mãi cho đến khi tôi nhập ngũ. Tuy cuộc sống đã thay đổi và chính tôi; cũng không còn là tôi ngày nào nữa. Nhưng tôi vẫn theo dõi sinh hoạt  văn nghệ ở đây. Mỗi khi giới văn nghệ xôn xao vì một cuốn sách nào đó dù chưa biết mặt mũi nó ra sao, tôi cũng có thể đoán được và ít lầm: lại Thế Phong tác giả.
Tiêu biểu nhất cho trường hợp này là những cuốn Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh, MƯỜI NĂM VĂN NGHỆ, NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG và gần đây Thế Phong  NHÀ VĂN TÁC PHẨM CUỘC ĐỜI. Tôi xin đơn cử một trường hợp, khi Thế Phong cho in cuốn Mười Năm Văn Nghệ, ông xếp của tôi cũng từng viết văn in sách đã phải lên tòa soạn tạp chí Bách Khoa xem (Thế Phong có gửi biếu một cuốn tại đây). Không phải ông ấy quí hóa hay hâm mô gì Thế Phong, nhưng ông ấy tìm đọc xem trong đó có nói gì tới ông không?
°
Điều mong mỏi, ước ao được tiếp xúc với Thế Phong tiềm tàng trong tôi. Thỉnh thoảng nó lại khuấy động tâm hồn, mỗi khi tôi nghe một giai thoại, đọc một đoạn văn một trang báo có nói tới con người, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” này.
Cho tới một hôm, tôi cùng TTK xuống nhà in Nguyễn Trọng Gia Đình, điều đình in cuốn thơ của tôi. Bất ngờ, tôi gặp Thế Phong ở đầu ngõ cùng anh Năm Cao (chủ nhà in NT), TTK giới thiệu tôi với TP. Vừa bắt tay tôi ông vừa nói: “A! Tác giả mai em lấy chồng em đừng quên tôi đây. Em đã lấy chồng thì hơi đâu em còn nhớ nữa!”. Tôi không kịp nói gì, chỉ mỉm cười vì ông nói rất nhanh, rất nhiều và cũng rất lớn. Ngay từ phút đầu, không khí thân mật, cởi mở đã đến với chúng tôi. Ông kéo chúng tôi đi “vào đây uống tý cà phê nói chuyện thú hơn”.
Suốt buổi, ông nói chuyện huyên thuyên, tiếng sang sảng, giọng cười như thủy tinh vỡ, hầu như ông quên rằng trong quán còn có nhiều người khác nữa. Sau này tôi mới biết rằng đó là bản tính ông: coi thường tất cả, kể cả cuộc đời, mạng sống, tình yêu, tiền bạc…
Ông nói chuyện rất hấp dẫn, lôi cuốn, mặc dù rất lung tung, đang từ chuyện này, nhảy sang chuyện khác. Phần lớn những chuyện ông kể là những chuyện cười ra nước mắt, những gì xấu cũng như tốt về ông. Thí dụ ông kể chuyện trong một bữa tiệc tổ chức tại một biệt thự ở ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Thanh Giản (do Lý Trung Dung thết nhân dịp lễ giáng sinh 1959). Hồi đó ông và Lê Xuân Khoa đại diện cho văn hóa Á Châu. Ông ăn mặc rất xuề xòa, lại không ngồi cùng bàn với LXK, sang bàn Uyên Thao, Lý Đại Nguyên, bàn những người trẻ. Tới lúc vào tiệc, thay vì được như uống sâm banh Moet Chandon bằng ly đặc biệt như những bàn khác thì tên bồi ba lại mang ra ly thường (có lẽ tại thấy bàn này không có vẻ gì là đại khách), ngoài ra tên này còn không mang bánh bích quy “LU” tới. Ông lên tiếng hỏi tên bồi ba lần, tên này lơ đi, không thèm trả lời. Ông liền bảo cho gặp chủ nhân tức LTD , lúc đó, ông bồi giật mình, trở vào nói cho Dung biết, không còn cách nào hơn, LTD liền nhờ Phạm Xuân Thái (Tổng trưởng thông tin 1954 mà Thế Phong làm ủy viên báo chí) ra giàn xếp, nhưng khi PXT ra tới nơi đã muộn, ông đã dùng sâm banh cổ trắng rửa tay, tiếp theo là Uyên Thao rồi Lý Đại Nguyên lần lượt rửa theo ông vì lịch sự… Trước sự cởi mởi, giản dị không kiểu cách, không mầu mè của ông, tôi ngạc nhiên vô cùng.
Với khuôn mặt đen xám, cùng những vết nhăn nheo chằng chịt trên trán, hai bên má, lại thêm cái cằm bạnh, tóc húi “cua” dựng ngược, lởm chởm, vẻ dữ tợn lại tăng thêm nữa. Khi hỏi ra, tôi mới biết lý do cạo tóc “để con nợ khỏi nhận diện”. Ngày xưa, ở ông đã không có cái dáng vẻ nghệ sĩ, nay lại càng không hơn nữa. Tôi có cảm tưởng nếu người nào không biết qua sách báo, lần đầu gặp ông, chắc chắn sẽ có cảm tưởng vừa tiếp xúc với một tên côn đồ, một anh lơ xe, chứ không thể nghĩ rằng ông là nhà văn, hay một người có tâm hồn nghệ sĩ.
Buổi sơ ngộ này, ông đã chiếm trọn vẹn cảm tình của tôi. Tôi cũng không ngờ  cảm tình quý mến lại đến với tôi nhanh thế.
Trước khi về, TTK bảo tôi nên đưa tập thơ của tôi cho ông đề tựa. Ý kiến thật hay. Nhưng tôi còn ngập ngừng e ngại. Vì tuy giữa tôi và ông đã có được cái không khí cởi mở thân mật thật đấy, nhưng tôi cũng từng biết, đã hơn một lần, ông vứt tập thơ của một vị trung úy nhờ ông viết tựa, từ chối đề tựa cho một cuốn sách của nhà văn kiêm ký giả báo Dân Chủ. Nên tôi sợ ông từ chối lời ngỏ ý của tôi. Tôi không sợ thơ tôi dở, khiến ông phải từ chối, nhưng tôi sợ ông từ chối để thỏa mãn bản tính tự kiêu, tự đại, hay để lập thêm một thành tích “hiển hách”. Như vậy chẳng hóa vô tình tôi biến thành một thứ phương tiện để ông quảng cáo cái “TÔI” của ông trong những lúc vui với bạn bè. Cuối cùng tôi  nghĩ: thì cứ thử một lần xem sao, biết đâu từ đây, chả  nhìn thấy khuôn mặt thực của họ. Tôi ngỏ ý, ông nhận lời ngay với lời phụ chú: “nếu thơ anh hay, tự nhiên tôi sẽ viết, còn nếu dở, xin trả lại anh”. Lời nói làm tôi an lòng một phần nào.
Sáng hôm sau trở lại nhà in, ông đã có mặt tại đây. Ông lại rủ tôi và anh Năm Cao ra quán. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều về nhiều vấn đề, từ văn hóa chính trị, tới xã hội, quân sự, lãnh vực nào ông cũng tỏ ra rất thông thạo, nhất là khía cạnh quân sự, ông tỏ ra rành rẽ hơn tôi rất nhiều về chiến thuật, cả về súng ống… Thì ra xưa ông vốn là cựu sĩ quan của quân đội Pháp. Ở đây, ông cũng cho tôi biết đã đọc xong tập thơ tôi đưa và ngỏ ý khen. Bao nhiêu lo âu, áy náy về tập thơ đã tan biến.
Tối hôm đó, tôi lên nhà ông ở ngã tư Bảy Hiền, sát cạnh rừng cao su. Qua chiếc sân rộng, tôi bước vào nhà, gian ngoài, trên tường treo rất nhiều đối trướng. Qua chiếc cửa nhỏ, vào gian buồng trong rộng hơn, kê hai cái giường và hai tủ sách lớn, một bàn viết, trên có một chiếc máy chữ loại nhỏ. Khi thấy tôi, ông reo to, chạy ra. Có lẽ vì đang đánh máy, nên ông ở trần chỉ mặc mỗi một chiếc quần tắm bó sát. Trong lúc đó ông không khác gì một võ sĩ (mà sự thực ông cũng đã từng là võ sĩ hồi còn ở Hà Nội. Tôi được nghe một người bạn: nhạc sĩ Tiên Yên kể rằng, ngày xưa học cùng một lớp với ông ở trường Thăng Long, suốt ngày ông chỉ đánh nhau. Hồi đó người ta chưa dùng tiếng cao bồi như bây giờ mà người ta dùng chữ “Dân Càn” để chỉ chung những tên du đãng, đánh lộn. Có một điều khác biệt là thời Hà Nội 1950, học sinh du đãng cũng đánh nhau, nhưng đùối tượng chính bao giờ cũng là Tây, nhất là Tây đen rạch mặt).
Chỗ làm việc của ông, rất gọn gàng, không bừa bãi vô trật tự. Trên tường phía tay phải, ngay chỗ kê chiếc giường ngủ, tôi đếm được 11 bức hình vừa vẽ vừa chụp đủ loại: nhìn ngang, nhìn thẳng, nhìn nghiêng, có cả một bức ảnh phóng to, chụp năm ông 22 tuổi, mặt mũi trông rất hiền lành,  ngây ngô. Nhìn bức ảnh đó người ta khó mà đoán được rằng sau đó không bao lâu, ông đã thành một kẻ đập phá, ngang ngược nhất trong làng văn nghệ. Với những bức ảnh, tranh la liệt này, tôi có cảm tưởng ông mắc bệnh tự tôn? Một thứ bệnh mà nếu là kẻ thực tài, nó sẽ giúp họ tin tưởng mãnh liệt hơn nơi tài năng và là nguồn động lực đưa họ tới chỗ hăng say trong công việc. Nhưng nếu, nó chỉ phản ảnh một tâm hồn yếu đuối, bất tài, dựa vào đó để tự lừa dối mình, đánh lừa kẻ khác, thì ngược lại sẽ là một điều hết sức nguy hiểm. Bởi lâu dần, họ không còn nhìn thấy con người thật của họ nữa, ảo ảnh đã che mờ lý trí soi sáng chân dung đích thực.
Ông ngồi vừa nói chuyện với tôi vừa đánh máy, cuốn Thế Phong nhà văn tác phẩm cuộc đời. Nghĩ tới đâu ông đánh máy tới đó, không viết trước. Bên cạnh chiếc máy chữ là một ly cà phê to (loại ly sành) cùng hai bao bastos xanh “goũt” đặc biệt của ông. Ông uống cà phê như uống nước trà, và hút thuốc liên miên, ngay cả lúc đánh máy. Ngồi một lát, ông rủ tôi ra quán cà phê.
Sau một thời gian giao tiếp, tôi cũng không biết ông lấy tiền đâu để sống. Vì ngoài việc viết sách, ông không hề làm gì khác, cũng không hề viết báo. Chỉ biết ông về sống tại đây; nhà một người anh họ. Điều lạ hơn nữa là không bao giờ thấy ông than phiền về vấn đề tiền nong, hay kêu ca về những đau khổ mà cuộc đời đã dành cho ông. Không phải đời sống ông đầy đủ, không phải cuộc đời đã hậu đãi ông. Dĩ nhiên là thế! Hay ông là con người vô tư, đang sống trong hạnh phúc trong tình yêu tràn đầy? Tôi biết chắc cũng không phải. Thơ văn và thái độ của ông đã chứng tỏ hùng hồn điều đó. Tất cả những chuyện ông nói với tôi, tuy có chua chát, đắng cay, nhưng ông kể lại với một giọng hài hước dí dỏm, không một chút hậm hực, không một chút oán hờn than trách. Bất cứ ở đâu, chỗ nào ông cũng chỉ có một vẻ mặt: tươi cười, vui vẻ, một giọng nói vang động, vỡ nát. Nhưng tôi không tin tiếng cười, giọng nói đó đã phản ảnh mặt thực của tâm hồn ông.
Ở quán về, đêm đã khuya lắm, ông còn cố giữ tôi lại. Chúng tôi ra ngồi một chiếc ghế băng gỗ ngoài sân, dưới dàn hoa hồng giấy. Chiếc transistor để bên cạnh, phát ra  những âm thanh kích động của một bản nhạc ngoại quốc… Chúng tôi im lặng hút thuốc. Mỗi khi đốm lửa xòe lên, lại một lần soi sáng khuôn mặt nhăn nheo, dữ tợn, lì lợm của ông. Nhưng không như mọi lần, ở đây mỗi khi liếc nhìn, tôi thấy ẩn sau những nét nhăn, có vẻ hung hãn kia, có một cái gì rất mỏng manh, rất khó nhận nhưng cảm được. Một nỗi buồn, một vẻ ưu tư trầm kín; cái cảm giác mơ hồ về một đớn đau, một khoắc khoải quằn quại, một chán chường, khốn nhục… Tôi không biết trong thâm tâm, lúc đó ông nghĩ gì? Hay không nghĩ gì? Tôi bỗng thấy buồn…. Bỗng thấy một niềm thương tiếc không đâu dâng lên rạt rào trong hồn tôi. Xa xa tiếng súng đại bác từ miệt Phú Lâm vọng tới. Ông thở dài nói như một mính: “tôi không còn gia đình thân thích nào ở đây cả. Trong đời tôi, tôi chỉ quý mến và nghe lời một người, đó là mẹ tôi. Nhưng mẹ tôi không có ở đây, bố tôi cũng vậy. Tôi không anh em ruột thịt, một thân, một mình, chả cần! Sống theo những gì mà mình muốn, làm những cái gì mà mình thích làm. Vợ con chưa có, lỡ có chết có tai tiếng, điều gì, cũng chỉ một mình mình gánh chịu!” Dừng một lát, ông tiếp, giọng thật nhẹ, xa xôi, khác hẳn ngày thường, khiến tôi có cảm tưởng như tiếng nói đó không phải của ông mà của một ai xa  lạ: “tôi khôngmuốn để ai biết tôi buồn, nỗi buồn của tôi chỉ có tôi biết mà thôi, tôi cũng không muốn nhận hay mang ơn ai cả”.
Đốm lửa lóe lên soi sáng khuôn mặt u uẩn của ông một lần chót, rồi bị bắn vút vào khoảng tối đen. Tôi cũng rụt nốt mẩu thuốc. Hành động bắt chước, không mang theo ý nghĩa nào… Còn mười lăm phút nữa đến giờ giới nghiêm. Tôi đứng dậy ra về, sau khi nắm chặt bàn tay lạnh lẽo của ông (hay của tôi?) tiếng động cơ chiếc solex cũ, hơi đêm buốt giá làm tôi tỉnh táo. Nhưng nỗi buồn vơ vẩn lại lớn dần, lớn mãi, lấp đầy khoảng trống mênh mông trong lòng tôi.
Từ đó, tôi tìm đến với Thế Phong nhiều hơn, và chúng tôi cùng lang thang nhiều hơn. Mỗi lần giao tiếp, ông lại làm tôi thêm một lần ngạc nhiên vì tất cả những ức đoán ban đầu, cũng như những huyền thoại tôi được nghe về ông mất dần nội ý. Tôi bắt đầu nghĩ về ông với tất cả những mâu thuẫn, tương tranh. Càng muốn vào sâu tâm hồn ông, tôi càng cảm thấy bối rối, mù mịt, bất lực. Tôi không còn phân biệt nổi đâu là hư, đâu là thực nữa. Nếu sự thực ông là con người bất cần đời, coi thương tất cả, thì tại sao ông lại có thể hăng say tới độ cuồng nhiệt, đam mê tới độ khủng khiếp trong một ý thức sáng suốt về những hoạt động nghệ thuật văn chương. Ít nhất ông cũng phải có một niềm tin tưởng khẩn thiết về một giá trị nào đó, ông mới có thể mê man, hiến dâng như vậy.
Một hôm, một người bạn đã từng chung sống với ông trong những ngày đói rách nhất, những ngày chạy vạy từng đồng bánh mì, hay gói xôi, uống nước lã cầm hơi và trốn nợ, đã nói với tôi: “bọn chúng tôi đã bất công rất nhiều với nó (chỉ TP), nó là thằng nghĩ thế nào làm thế đó, không ác tâm, không ẩn ý, tại sao khi đến với nhau cứ phải đeo mặt nạ rồi đòi người ta phải thành thật với mình!”
Tôi băn khoăn rất nhiều về câu nói hàm xúc ý nghĩa này. Và giữa lúc bị dày vò, day dứt, tôi nảy sinh khao khát tìm kiếm đối diện với gương mặt tâm hồn ông.
°
TIỂU SỬ
Thế Phong tên thật là Đỗ Mạnh Tường, sinh ngày 10-7-1932 tại Nghĩa Lộ, Yên Bái. Ông là đứa con cầu tự duy  nhất còn sống sót trong số 5 anh em. Thân sinh ông là một nhà giáo, tham gia VNQDĐ, chống Pháp và Việt Minh, nên bị đày lên vùng thượng du. Bị bất đắc chí vì công đã không thành, danh lại chẳng toại, thân phụ ông sinh ra nghiện hút, bê tha. Tôi thấy hầu hết những người mắc bệnh nghiện thuốc phiệân thường rất ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình và chỉ mình mà thôi, ngoài ra không kể gì hết, dù cho vợ con cha mẹ. Thân phụ ông cũng thế. Nên mặc dù là con cầu tự, nhưng ngay từ hồi bé, ông cũng chỉ nhận được một tình thương yêu nồng nàn của mẹ. Còn cha ông, không  những không thương mà lộ tỏ thái độ ghét bỏ và đánh đập hành hạ ông.
Một kỷ niệm sớm hằn sâu trong trí ông hồi 11 tuổi. Tại một nông trại làng Bửu (thuộc Yên Bái) cha ông sai ông đi mua thuốc phiện. Muốn đến nơi bán thuốc phiện phải lội qua một con suối, mà con suối đó đang ở vào thời kỳ nước lũ, nó chảy xiết vô cùng. Lần đi, trót lọt. Nhưng lần về, phần ngựa đã yếu sức, phần nước lại chảy xiết hơn, thác nước đã cuốn trôi mất ngựa và ông chới với giữa giòng. May sao ông bám được một rễ cây lềnh bềnh trên giòng nước, trong khi đó bên kia bờ cha mẹ ông đang đứng chờ. Tới lúc tìm cách lội về được bên bờ, cha ông không nói một lời an ủi thăm hỏi, cầm thuốc đi thẳng về nhà, chỉ có mẹ ông ôm lấy con mà khóc nức nở…
Mối oán giận người cha nghiện ngập này bắt đầu in hằn trong tâm trí ông. Sống giữa thiên nhiên, giữa núi rừng, suối thác, giữa cái rét thâm da, tím thịt của mùa lạnh trời Việt Bắc, ông sớm có một tinh thần chịu đựng, dẻo dai, cam đảm. Một trí hướng thích phiêu lưu mạo hiểm, tự lập, cộng thêm bản chất vốn hiếu động đã ảnh hưởng rất lớn tới thái độ, sự nghiệp văn chương của ông. Năm 11 tuổi dục tình nơi ông bộc phát.
Người con gái đầu tiên mà ông mê đắm là một cô bé cùng tuổi, học cùng trường, khi chiến tranh Pháp - Việt ngày càng tới độ khốc liệt, gia đình ông phải tạm lánh nạn ở một làng khác, tương đối bình yên hơn. Tại đây, ông gặp một cô gái Thái (đồng bào thiểu số tại miền thượng du BV) vợ một người lính, và đem lòng yêu, mê. Vì chuyện này, một lần nữa ông lại suýt chết, người lính kia dọa bắn ông. Mẹ ông hay biết, sợ quá, vội vàng gửu ông ra Hà Nội.
Thế là chưa quá 12 tuổi, ông đã xa gia đình, xa người mẹ mà ông yêu kính. Ông không ngờ lần đầu tiên và cũng là vĩnh biệt. Sống giữa Hà Nội, một đô thị phù hoa, lại thêm không phải lo nghĩ gì về mặt tài chính, ông cho rằng đó là khoảng thời gian đẹp nhất của đời niên thiếu. Những chuỗi ngày huy hoàng, gấm nhung, kéo dài tới năm 1952 thì ông mất liên lạc với gia đình (quân Pháp thất trận hoàn toàn tại Nghĩa Lộ). Sau này, năm 1957, tại Saigon, ông được một người quen biết xưa với gia đình cho biết: mẹ ông đã chết ngay khi Việt Minh chiếm được Nghĩa Lộ.
Năm đó ông vừa được 20 tuổi. Đang từ một học sinh ngày hai buổi rong chơi, trai gái, không biết lo nghĩ mưu sinh là gì,  nay phải lăn xả vào đời, tranh tìm miếng sống. Nhờ hoàn cảnh xưa đã huấn luyện cho ông một sức chịu đựng, một tinh thần cam đảm, tự lập, nên ông vẫn sống được tại Hà Nội mặc dù lây lất đói khát. Sự mất liên lạc với gia đình đã biến đổi hẳn tâm tính con người ông. Sự tuyệt vọng, linh cảm một ngày mai đen tối, nỗi buồn ghê lạnh của một ý thức mất hết, ông bắt đầu có ý nghĩ mượn thơ văn giải tỏa phần nào nỗi cô đơn hoang mang. Bài đầu tiên được đăng trên báo là truyện ngắn “đời học sinh” nhật báo Tia Sáng tháng 11 năm 1952 với biệt hiệu TƯƠNG HUYỀN.
Sau gần hai năm trường, ngày lang thang ngoài phố, đêm tìm về ngủ dưới mái hiên nhà HÁT LỚN Hà Nội. Nơi đây, đêm đêm tập trung đủ mọi hạng từ ăn cắp, đánh giầy, đấm thuê, chém mướn v.v… Nếu đêm nào về chậm, sẽ không còn chỗ và phải ngủ ngoài trời hay vườn hoa. Từ đây ông bắt đầu làm quen với văn nghệ. Ông viết bài gửi cho các tờ Thân Dân, Dân Chủ. Tuy mỗi khi bài được chọn đăng, mấy ông chủ báo cũng có trả tiền nhuận bút, nhưng chả bao nhiêu vì bài của một tên vô danh tiểu tốt… Trong khi tất cả bạn bè, thân thuộc hầu như đều xa lánh và lẩn tránh ông như lẩn tránh một tên hủi, chỉ có một người bạn đã tận tình giúp đỡ ông đó là ông Nguyễn Thế Hiển.
Qua bao nhiêu cố gắng, chịu đựng, ông vẫn không thoát khỏi cái cảnh màn trời chiếu đất, đói rách. Thêm vào đó, sự hắt hủi xa lánh của mọi người, ông nghĩ không còn cách nào hơn là bỏ đi tìm cách khách.
Ông vào Nam trước khi có hiệp định Genève.
Tôi nhận thấy, thường khi đời sống của một người mà giá trị làm người bị chà đạp phũ phàng thì người đó hoặc sẽ buông trôi và chìm sâu trong cơn lốc của định mệnh bi thảm, hoặc, nếu vượt qua được, họ sẽ trở nên kiêu căng, liều lĩnh, dám làm những chuyện mà một người bình thường không dám làm hoặc không dám nghĩ tới.
Theo tôi có lẽ Thế Phong đã rơi vào trường hợp thứ hai. Dĩ vãng với hai lần suýt chết. Với thiên nhiên, giữa núi rường Việt Bắc. Tất cả đã sớm nung nấu cho ông một lòng tự tin, kiêu hãnh, ngạo mạn, cái vẻ hiên ngang thách đố thiên nhiên, định mệnh. Thêm một tâm hồn  náo nức chân trời xa rộng… Mộng mạo hiểm, phiêu lưu bấy lâu tiềm tàng trong mạch máu, nay lại được dịp bộc phát mãnh liệt với niềm khát khao tìm bắt cả một tương lai huy hoàng sáng rực. Cuộc giang hồ từ Bắc vào Nam đã khơi hứng cho ông viết cuốn “nửa đường đi xuống” (ĐNVHXB 1961).
Những tưởng miền đất phù sa mầu mỡ như miền Nam, sẽ chịu cho người lãng tử bất đắc dĩ, tứ cố vô thân, nương náu; ai ngờ định mệnh vẫn chưa chịu buông tha con người bất hạnh đó. Ở Saigon ông lại tiếp nối cuộc sống tối tăm, khốn khổ, nhục nhã như xưa và có phần còn hơn thế nữa! Những ngày đầu tiên tại đây ông tìm về Xóm Chùa tá túc. Một khu đặc biệt tập trung những người thất cơ lỡ vận,  chờ thời, đợi thế, và những người thuộc giai cấp thấp hèn nhất của cái xã hội công bình bác ái, như xã hội Việt Nam!
Từ đây, những trang sách của cuốn biên khảo phê bình văn học lược sử văn nghệ Việt Nam (4 cuốn), mà theo tôi mang một giá trị đáng ghi nhớ hơn cả trong sự nghiệp văn nghệ của ông.
Cũng bắt đầu từ đây, hoàn cảnh xô đẩy, dồn ép, ông đi đến chỗ không thể dừng: một tên bất nhân, quỵt tiền cơm trọ, trốn nợ tiền cà phê thuốc lá trong suốt sáu tháng liền. Cũng từ đấy, những mối tình lăng nhăng nảy sinh. Kết quả cụ thể nhưng đau đớn: một đứa con rơi, với một người đàn bà cùng xóm có chồng đi làm xa.
Thói thường, sự đói rách, nhục nhã là một mảnh đất mầu mỡ để tài năng bộc phát trọn vẹn. Hoàn cảnh xã hội đã tạo nên một Thế Phong với gần 40 tác phẩm đủ loại.
Thời gian ông sáng tác mạnh nhất có lẽ là thời gian ông yêu LB một cây bút nữ lưu. Sau nữa, CMN một người làm thơ  nhanh như ống nước. Sự có mặt của hai người này đã khiến ông viết điên cuồng. Bằng chứng cụ thể là vì yêu LB mà ông cố gắng hoàn thành bộ lược sử văn nghệ VN. Cũng như nhờ mối tình thiết tha đắm đuối của CMN mà ông thêm vững tin nơi tài năng. Ông cho rằng CMN là người hiểu ông nhiều hơn ai hết và cũng cùng gánh chịu với ông rất nhiều điều tiếng xấu xa, nhiều nhục nhã, dè bỉu của thiên hạ, của cả gia đình nàng nữa.
Sở dĩ tôi chỉ nói về hai người đàn bà này, mà không nhắc tới những người khác, mặc dù họ có tham dự, có chi phối ít nhiều cuộc sống ông, vì ảnh hình họ chỉ là một thứ ảnh hình mờ nhạt, thoảng qua. Hơn nữa tôi khó có thể kể hết, vì họ quá đông đảo, đủ mọi thành phần, mọi giai cấp: lao động, me tây, gái nhẩy, đĩ điếm và cả học sinh… Với ông hầu  như tất cả đều nhẹ, rất nhẹ, kể cả tình yêu, ông có tính thích cái gì thì làm cái đó, càng khó càng thích, nhưng phải làm cho bằng được, xong rồi lại chán và rất dễ quên. Kể cả chuyện hy sinh tính mạng, phẩm giá, ông cũng không ngần ngại, nếu đó là một phương tiện tốt cho mục đích tối hậu là phục vụ văn học nghệ thuật.
Về những hành động ngang tàng ngỗ ngược, khinh mạn kiêu căng ở trên, tôi đã có dịp nói tới với ý nghi ngờ, cho rằng đó chỉ là những hành vi giả tạo, để che dấu cái thực chất yếu đuối  bất mãn, bi quan bất lực. Nhưng sau này, qua những lần đi chơi với ông, tôi mới thấy rằng đó là đặc tính cố hữu, phát xuất từ tâm hồn. Ông đã từng nói với tôi: “tôi biết con đường tôi đi, thái độ tôi chọn sẽ đưa đến cho tôi rất nhiều kẻ thù, rất nhiều điều tiếng, nhưng tôi nghĩ; thà có nhiều kẻ thù còn hơn tự dối gạt lương tâm mình. Nếu cảm thấy rằng không thể chịu nổi búa rìu dư luận, thì tốt nhất là đừng cầm bút, đừng làm văn nghệ, hãy bỏ đi buôn, làm công chức để được nhiều người yêu thích. Riêng tôi khi nào cảm thấy không còn đủ cam đảm để sống thực với cảm nghĩ, với ý thức của tôi, tôi sẽ thôi làm văn nghệ”.
Cũng vì thế, cho nên bước khởi đầu, ông đã gặp rất nhiều gian nan nhục nhã. Không những nhục nhã, đau xót về vật chất mà còn ở cả lãnh vực tinh thần. Chung quanh ông, những người không ưa, những người ghen ghét đã không tiếc lời dè bỉu, họ bịa đặt thêu dệt nhiều giai thoại, với mục đích làm sao loại trừ ông khỏi hàng ngũ những người cầm bút. Dĩ nhiên không phải đó là thái độ của hết thảy những người cầm bút tại đây, chỉ có những tên hoạt đầu, những tên bồi bút, bán rẻ lương tâm, quên hẳn thiên chức cầm bút của mình, mới hằn học, tỵ hiềm như vậy mà thôi. Thêm nữa, ông còn bị một số bạn bè bội phản một cách đê hèn, trắng trợn.
Nhưng, càng nhục nhã, càng khốn khổ bao nhiêu ông càng hăng hái, bất chấp tất cả, vượt lên trên để sáng tác nhiều hơn nữa, càng thẳng thắn phê bình, vạch mặt chỉ tên, phanh phui mọi bỉ ổi thối tha, điếm nhục của bọn đánh đĩ tâm hồn, bán rẻ lương tâm.
Dưới ngòi bút vũ bão, ngang bướng của Thế Phong, bao nhiêu tệ đoan, bao nhiêu bẩn thỉu bất công của xã hội, của chế độ, của cả những người đang được xung tụng là thần tượng v.v… đều bị phơi trần trên giấy trắng mực đen. Cảm kích trước thái độ cương trực của ông, một số anh em nghệ sĩ khác đã quy tụ lại, hợp tác với ông thành lập nhóm Đại Nam Văn Hiến, như Uyên Thao (tác giả bộ Lược khảo về thơ (3 cuốn), Nhị Thu (tác giả “mây Hà Nội” Bùi Khải Nguyên … (tác giả “Thiết Tha”, cũng chỉ vì nhất định in tập thơ này mà nhà thơ họ Bùi Nguyên trung úy, đang tùng sự tại ủy hội quốc tế đã bị thuyên chuyển lên cao nguyên, sau khi công an mời ra cảnh sát cuộc lấy khẩu cung).
Mặc dù dưới chế mật vụ như chế độ Ngô Đình Diệm, ông vẫn cố gắng lần lượt cho in bằng RONÉO (không giấy phép) những tác phẩm nội dung lên án chế độ độc tài áp bức, bất công, thối nát của chính quyền. Hành động gan liều này đã làm điên đầu, gây lo sợ cho những vị giám đốc thông tin thời đó như Trần Văn Thọ, Phan Văn Tạo là những vị giám đốc, tổng lý bộ thông tin. Các ông sợ nếu cứ để Thế Phong tiếp tục in tác phẩm chửi chế độ “ấm no hạnh phúc” của các ông, có ngày các ông sẽ mất ghế, sẽ bể nồi cơm không chừng. Hơn nữa, rất có thể các ông sẽ bị đi ở “tì” vì tội để cho một tên văn nghệ “làm loạn”. Các vị này, ngay cả ông bộ trưởng Hiếu cũng tìm đủ mọi cách khuyên dụ Thế Phong hãy bỏ lối in đó đi, nếu cần in tác phẩm, cứ đưa cho ông ta, ông ta sẽ bảo nhà in Quốc Gia in cho! Nhưng Thế Phong có dại gì nghe theo những lời dụ dỗ ngon ngọt đó! Thấy chiến thuật mềm dẻo không có kết quả, các vị quay ra dùng quyền hành đe dọa, lấy áp lực hầu mong ông sẽ hoảng sợ mà bỏ dở công việc, nhưng Thế phong vẫn thản nhiên, lặng lẽ, âm thầm làm công việc của mình. Tôi xin trích dẫn một thí dụ để độc giả thấy rõ thêm về trường hợp in RONÉO không giấy phép. Tháng 4 năm 59, ông cho in cuốn “Nhà văn tiền chiến”, thấy sách được tiếp đón nồng nhiệt (mặc dầu in RONÉO), ông liền cho in cuốn tự truyện “nửa đường đi xuống”, nội dung lên án gắt gao chế độ độc tài đầy thối nát nhơ bẩn, biết chắc rằng nếu có xin phép cũng chẳng ai chịu cấp cho, nên ông cứ cho in và lấy giấy phép của cuốn “hình ảnh một cái đám cưới” số 300 TXB thời nhà văn phóng sự Trọng Lang phụ trách kiểm duyệt. Thêm nữa, khi cho xuất bản cuốn “nếu anh có em làm vợ” (nói về tình yêu của ông với CMN không những ông không xin phép mà cũng không ghi số kiểm duyệt ma nữa.
Nhờ tựa đề hấp dẫn nên sách đã bán khá chạy và dĩ nhiên các tiệm sách vẫn nhận bày bán. Như bị tát vào mặt, bộ thông tin không còn cách nào khác là mời ông đến bộ để đối chấp và nếu ông tới, có thể sẽ bị áp tải đi luôn.
Nhưng Thế Phong nhất định không đến, mặc dù công văn gửi đi ba lần, đều đề Thượng Khẩn (chúng tôi xin nói thêm để độc giả rõ: thời đó, muốn được cấp một tấm giấy phép in sách phải trải qua đủ ba cơ quan: Văn hóa vụ, hội đồng kiểm duyệt, nha CTTL).
Dưới đây, tôi xin chép lại nguyên văn một trong hai công văn mà ông Phan Văn Tạo tổng giám đốc thông tin xưa và cũng là tác giả tập truyện ngắn “cái bong bóng lợn”.
Saigon, ngày 25 tháng 7 năm 1963
Số 4044 CDV/TT/HĐKD
Tổng giám đốc thông tin
Kính gởi
Ông giám đốc Đại nam văn hiến xuất bản cục Phú nhuận
Thưa ông giám đốc,

Quý ông đã có nhã ý gởi tặng tôi bản dịch cuốn LA CRAVACHE của GHEORGHIU do Đại Nam văn hiến phát hành, tôi xin kính gửi lời chân thành cảm tạ. Song le, trên phương diện kiểm duyệt, nha tôi nhận thấy Đại nam văn hiến xuất bản cục đã hiển nhiên vi phạm luật lệ hiện hành vì đã không nạp duyệt tác phẩm trước khi xuất bản.
Ông tổng giám đốc cũng đã thừa rõ những phiền phức có thể xảy ra với hành vi phạm pháp trên đây, nhất là ngay khi nhận được lá thư gửi “Anh chị em làm nghệ thuật và độc giả” nha tôi đã tùng tại công văn số 3491/TT/HĐKD ngày 2 tháng này lưu ý và yêu cầu ông giám đốc gửi duyệt những tác phẩm mà ĐN VH XBC định cho ra mắt độc giả? Vì  lẽ đó và mặc dù tôi rất quý trọng các văn phẩm, tôi không thể nào với tư cách tổng giám đốc thông tin nhận gởi tặng một bản dịch không kiểm duyệt dù là bản này in RONÉO. Tôi xin phép được gửi lại quý cục cuốn sách trên.
Tôi cũng xin dành lại quyền hành động theo các điều 6 và 7 nghị định số 275-PTT/TTK 5-4-1954 ấn định thể thức kiểm duyệt các ấn loát phẩm xuất bản trong nước.
Vài lời thành thực mong ông giám đốc thông cảm và xin trân trọng kính chào ông giám đốc.
Kính thư Phan Văn Tạo
(chữ ký và con dấu) 1
Đọc kỹ công văn trên, hẳn độc giả đã thấy rõ cái nguy hiểm, cũng như sự liều  lĩnh bất cần của Thế Phong nó nói lên được phần nào thực chất tâm hồn ông.
Tới đây tôi xin nói về nguyên nhân khơi nguồn loại sách RONÉO mà Thế Phong là người đầu tiên thực hiện (sau này cũng có rất nhiều người bắt chước, mặc dù trước kia họ đã từng lên tiếng chỉ trích, chê bai như thiếu tá thi sĩ Hoàng Trinh với tập “Tiếng hát TỰ DO” rồi Minh Đức Hoài Trinh… gần đây có Nguyễn Văn Trung, giáo sư, với tập báo Hành Trình).
Hồi đó, Uyên Thao, người bạn thân nhất của Thế Phong, nói với ông rằng: “tình trạng bế tác này, nếu không tìm ra một lối thoát thích hợp với hoàn cảnh (chính trị cũng như kinh tế, tài chính), bản thảo của mình chắc sẽ thất lạc mất. Hay là mình cho quay RONÉO”. Như bắt được vàng, Thế Phong thực hiện ngay. Hôm sau, Uyên Thao đi mượn ở đâu về được một cái máy chữ cũ tới độ khó có thể khảo trợ nổi. Nhưng ông cũng đem đi sửa chữa qua loa, rồi không nói không rằng gì cả, xoay trần ra đánh máy suốt ngày tại nhà mẹ nuôi của Uyên Thao. Lúc đó khoảng đầu năm 1959, với tên chọn đầu tiên là “loại sách đại nam văn hiến”. Dần dà, ông được một số anh em cùng chí hướng góp sức mới đổi thành ĐNVHXBC, danh hiệu trên còn được dùng tới bây giờ và tôi chắc cũng không còn xa lạ gì với bạn đọc.
Tuy phải chịu đựng khốn khó trăm bề, nhưng đền bù lại ông được giới thanh niên ưa thích. Với ông, đây là một khích lệ lớn lao. Ông kể truyện, có một sinh viên văn khoa đã chặn ông lại ở giữa phố Bonard hỏi ông: “tôi nghe nói ông phải nhịn đói thường xuyên, vậy bây giờ ông đã ăn cơm chưa? Nếu chưa, tôi có thể giúp ông một bữa được”. Những điều trên, đã cho tôi thấy rõ nhận xét sai lầm của tôi về hành vi, tư cách của Thế Phong. Nó không phải là những gì giả tạo, bày đặt cố tình. Nó chính là khuôn mặt tâm hồn ông, không son vẽ, không hóa trang, ngụy tạo. Ở ông, trong cuộc sống cũng như trong tác phẩm, có sự đồng thể? Trường hợp Thế Phong có người cho rằng rất gần gũi với trường hợp một Cao Chu Thần… (theo tôi thì sự thực không hẳn thế, ở một Cao Bá Quát là một tâm hồn muốn vươn thoát, bay trên cuộc đời và không bao giờ muốn nhìn xuống, muốn quay về nhân gian. Cái khinh mạn của cuồng sĩ tài danh họ Cao là cái ngạo nghễ ngất ngưởng của một người biết mình có tài mà không được đời trọng dụng, không được đời biết đến dù đã từng bon chen trên con đường quan hoạn, và số mệnh vẫn là cái số mệnh bi đát. Cho nên họ Cao sinh ra yếm thế, mượn mộng, mượn rượu để quên, để chửi cuộc đời, chửi xã hội tham quan ô lại). Sự so sánh này quá đáng - tuy nhiên, nó cũng nói lên một phần nào khía cạnh nổi loạn, đập phá, tiềm ẩn trong tâm thức ông (tôi sẽ nói rõ hơn trong phần nhận định tác phẩm).
Với những ghi nhận trên, tôi thấy đã tạm đủ độc giả có khuôn mặt bằng những nét phác, nhưng là những nét chính của khuôn mặt đời-Thế Phong.
Để kết thúc, phần này tôi xin trích lại một đoạn văn trong một bài đả kích Thế Phong, đăng trên Văn Hữu 2 “hắn chụp cả ảnh, thuê sao ra để biếu không sợ xẩy ra chuyện gì như bị đưa vào trại tế bần cải hóa chẳng hạn, thì người đời sẽ khỏi quên mất hình ảnh của một thiên tài”.
(Văn Hữu số 6 năm 1963)
THƠ THẾ PHONG
Trong giới văn học và quần chúng độc giả hôm nay thường xem Thế Phong như một nhà phê bình văn học, một tiểu thuyết gia có khuynh hướng xã hội cấp tiến. Sự thực Thế Phong là một nhà thơ. Thơ của ông mới đủ tư cách và bảo đảm cho ông một ngôi vị xứng đáng trong văn đàn dân tộc”
(Trích trong XI nhà thơ tự do của Cao Đan Hổ trang 26)
Tôi đồng ý với tác giả họ Cao, khi ông chủ trương thẩm xét tiếng thơ Thế Phong để định vị, xếp chiếu hay chụp vẽ chân dung linh hồn nhà thơ này. Nhưng với lập luận viện dẫn trên, tôi thấy thiếu phần xác đáng. Sự thực, khi đại chúng coi thế Phong như một phê bình gia vì suốt sản nghiệp tinh thần tác giả này, người ta thấy hầu hết đều nghiêng về loại phê bình nhận định… Hơn nữa, tác phẩm được nhiều người biết tới và cũng là tác phẩm đầu tay của nhà xuất bản ĐNVH là cuốn LSVHVN, một bộ sách gồm 4 cuốn  mang giá trị một công trình biên khảo công phu. Còn nói rằng “coi thế Phong như một tiểu thuyết gia” thì hầu như không ai lầm tưởng như vậy cả, có chăng cũng chỉ là một thiểu số quá ít oi không đáng kể. Nếu chỉ cần có một số truyện ngắn mà trở thành tiểu thuyết gia thì quả là quá dễ dãi, giản dị. Như vậy chắc Việt Nam là một nước có nhiều tiểu thuyết gia nhất thế giới!
Ở đây tôi đi vào thế giới tâm hồn Thế Phong cũng bằng tiếng thơ của ông, Nhưng không phải vì muốn để độc giả nhìn thấy khía cạnh thi sĩ của Thế Phong hay vì chỉ có “thơ của ông mới đủ tư cách và bảo đảm cho ông một ngôi vị xứng đáng trong văn đàn dân tộc”. Nhưng tôi nghĩ: thơ là tiếng nói trung thực, tha thiết nhất của một tâm hồn, được kết tinh bởi những cảm xúc, những dằn vặt, những suy nghiệm của con người trước cuộc đời. Thơ là một cái gì vượt cao trên mọi bày đặt giả tạo của một bối cảnh, một kỹ thuật  bao gồm tình tiết, màn, cảnh… Vì là tiếng nói của linh hồn nên âm hưởng vang vọng đi thẳng vào lòng người, vào tình người, khi tiếng thơ đạt tới mức độ truyền cảm, rung động của nó.
Cho nên, nếu không nhìn về  khía cạnh lớn nhất thời, ảnh hưởng trực tiếp, hiện ngay,  mà chỉ muốn nhận diện vóc dáng đích thực khuôn-mặt-linh-hồn ẩn chìm của một tác giả, tôi nghĩ không gì bằng đến với họ, đi vào vũ trụ tâm hồn họ bằng tiếng nói linh hồn tức bằng cửa ngõ thi ca.
Hơn nữa, nếu phân loại tác phẩm Thế Phong, người ta thấy số  lượng thi phẩm cũng chiếm một phần đáng kể.
Khởi đầu là “Đàn bà với tổ quốc”, qua tới “Nếu anh có em làm vợ”, rồi “Vương miệng Mai A”, “Sai biệt”, “Cho thuê bản thân”, “Trước mắt nhìn thi sĩ”. Và gần đây “Thơ làm lớn dậy con người”. Điều đó chứng tỏ nồng độ đam mê nơi Thế Phong vẫn nghiêng lệch về thi ca - vẫn là thơ, hay thơ vẫn là nguồn suối cuộn chảy, mãnh liệt, sôi réo trong tiềm thức Thế Phong.
Những người đọc báo ít biết thơ Thế Phong, phần vì ông ít đăng báo, phần vì tiếng thơ thiếu quyến rũ, lôi cuốn của âm điệu, ngôn từ trong thơ ông lại không vụ ở sự chải chuốt hào nhoáng, êm tai mà chỉ chuyên chú ý tới ý tưởng, tới những suy tư, phơi bầy, những khao  khát  muốn thể hiện, những dằn vặt, ưu tư muốn giải tỏ mà thôi. Chính sự khó khăn, khúc mắc này, đã khiến đám đông xa lánh và quay lưng lại trước những tiếng gào thét, những vấn đề thiết yếu của giá trị làm người. Tôi cam chắc, với một độc giả ở mức trung bình, hoặc quen coi thơ để mong tìm thấy một phần nào kỷ niệm ái tình, một phần nào những cảm xúc yêu đương mà họ đã trải qua hoặc đang khao khát thèm nếm, sẽ vô cùng thất vọng khi đọc thơ Thế Phong. Họ không thể hiểu nổi cũng như không thể nào cảm nổi tác giả với những câu thơ đại loại như:
chiếc xe đạp dưỡng bệnh về nằm yên một chỗ
để cùng chủ nó nghe cô gái 18 tuổi phê bình về thơ
hay:
bệnh lý hàng ngày nhiều hơn phép lạ
hiện tượng nào đưa đến cho tiếng thở dài chau mày suy tưởng
Dù cho muốn nói đến cái thân phận bi đát, cái sự ô uế, phân rác của xã hội đang khỏa lấp mặt nước trong suốt của cái tâm thánh thiện. Với lối diễn tả mà nhiều người cho là cầu kỳ, lập dị đó, cũng ngăn trở, cản chắn không ít những tâm hồn nhiệt thành muốn bước lại gần, soi dáng trong nguồn hứng thi ca của nhà thơ này, cũng ngại ngần, định xét lại thái độ.
Chính Thế Phong cũng nhìn nhận điều đó, nhưng ông quan niệm, không còn cách diễn tả nào khác hơn trước một hiện tại bế tắc, đầy rẫy bất bình, nhàm chán tới độ muốn tự tử, muốn  nôn mửa, khạc nhổ vào cuộc đời điên loạn này. Giữa những bộ mặt son phấn, trơ trẽn, thi nhau sắm tuồng, đóng kịch không những với đám đông, mà còn đóng kịch phản bội chính lương tri của mình nữa. Những khuôn mặt lợm lì chạy bám theo thị hiếu, thấp kém - thay vì hướng dẫn, nâng cao trình độ thưởng ngoạn của đại chúng - của những tên con buôn văn nghệ, những tên hoạt đầu văn hóa. Nên ông cố gắng giữ  nguyên bản chất cũng  như cố thể hiện ý thức của người làm nghệ thuật là vạch một hướng đi, khai thông một lộ trình vào tương lai, bằng tất cả lòng thành khẩn, cuồng tin nơi việc làm.
nên tôi hiểu thơ văn triết lý của những thi sĩ làm
lớn dậy ngày mai chủ nghĩa đi lên của con người
đàn bà con gái đều ghét bỏ
Khi phẩm bình về tiếng thơ Thế Phong, có đôi người cho rằng ông là thi sĩ thuộc phái hiện thực, hoặc xã hội… Với tôi, đó là một việc làm hết sức gượng ép, một sự bắt chước thiếu cân nhắc, thận trọng. Bởi xã hội Việt Nam nói riêng và Đông phương nói chung, người ta phải nhìn nhận một đặc tính cố hữu, một truyền thống bất di dịch, đó là tinh thần tổng hợp, không phân rẽ, không hệ thống điều lệ gò ép. Thứ nữa, cụ thể hơn, lịch sử văn nghệ Việt Nam chưa ghi nhận một khuôn phép, một hệ thống phân định rõ rệt nào của những người làm văn nghệ để ta có thể căn cứ vào đó mà khẳng định rằng nhà thơ này thuộc phái này, nhà văn kia thuộc phái khác. Tôi cho rằng đó cũng là một trong những yếu tố tạo cho bộ mặt văn chương đông phương thêm phong phú, thanh sắc. Ngày xưa chỉ có một Nguyễn Xuân Sanh tính áp dụng một cách máy móc, rập khuôn theo thi phái Tượng Trưng của Pháp, nhưng đã thất bại đáng thương hại 3 cuối cùng, cũng chẳng đem lại gì cho vườn hoa văn nghệ chúng ta. Sau nữa, ta cũng nên nhắc tới một Nguyễn Vỹ, với Tao Đàn Bạch Nga, nhưng nó chẳng ra phái gì cả, nó chỉ là một trò hề nhố nhăng, quy tụ một số đàn em ngâm vịnh, tâng bấc, công kênh lẫn nhau, cũng như để vị thủ lãnh dễ bề thỏa mãn bản tính háo danh, hảo ngọt mà thôi.
Ở đây, tôi không muốn ép uổng tiếng thơ dũng mãnh, bạo cuồng của Thế Phong vào một khuôn khổ hữu hạn. Vì không một khoảng trời nhỏ hẹp nào có thể dung chấp nổi tiếng thơ giàn trải đủ mọi chiều hướng của nhà thơ này. Chính tâm hồn ông cũng đã là cả một vũ trụ náo hoạt, gồm chứa đủ mọi suy tư, mọi khía cạnh nghịch phản, nhận đón đủ mọi triều sóng tư tưởng cấp tiến âu tây, cộng chung với một vốn liếng to tát, gồm những kinh nghiệm bản thân mua bằng nước mắt, bằng trên ba chục năm chinh chiến, bằng tủi nhục, ê chề, khốn khó, của một thân xác nhược tiểu điêu tàn. "Tôi lớn dậy mang đầy sương mù Việt Bắc
quê hương tôi cây đứng thẳng nhiều hơn chông rừng
người tình đầu đã bỏ tôi vào điểm giờ cách mạng 1945
núi rừng ơi nhớ mãi cũng bằng không
những cái nấp mô gồ ghề, hình ảnh cuộc đời không mềm như thạch trắng”.
Ở cao độ đam mê, tiếng nói linh hồn thi nhân như bước chân cô độc dã thú đi giữa vùng biển cát. Thi nhân kiên nhẫn, âm thầm trong niềm hiu quạnh băng giá ngạo mạn, tìm cho mình một ý nghĩa giữa cuộc sống phồn tạp, chênh vênh của tình người, của cuộc đời, của hiện tại với một ý thức khai thoát, phát huy một nhân bản mới không phải là thứ nhân bản ngụy tạo, mặc khoác làm duyên. Cho nên trước bao nhiêu bội phản, thi nhân vẫn tìm về tình người và tin nơi tình người như một tín đồ tìm về tôn giáo ngưỡng vọng:
Còn gì nữa đâu em?
Thành phố cũ đôi mắt mới  nhìn tôi vẫn khác lạ với mọi người trong thành phố quen
….
Tình cảm vô cùng cần thiết như nhu cầu cơm áo
Không có em rồi anh mới thấy đời buồn nôn
Mỗi thi nhân, ngoài cái thể giới phức biệt của tâm hồn hiếu chân, hiếu thiện hay hiếu mỹ, họ thường phải gánh vác ít nhiều mặc cảm, cái mặc cảm nhiều khi vô cùng phi lý, không giải thích nổi! Thế Phong cũng không thoát khỏi định lệ khắc nghiệt đó, ngoài cái dĩ vãng ấu thơ vướng vít sương mù Việt Bắc, cùng thảm trạng gia đình rách nát, nhà thơ này còn bị cái mặc cảm bị phản bội,  bị ruồng rẫy lãng quên không những của người thân mà còn của cả bạn hữu, tôi không muốn nói tới những người từng chia xẻ với ông một điếu thuốc, một nắm xôi, một vài đồng bạc, khiến ông nhiều khi trở nên hoài  nghi mất niềm tin trước tất cả mọi giá trị tinh thần, ông cũng trở nên ngờ vực chính sự có mặt và giá trị của con người mình:
Mỗi lần tôi muốn làm ngơ rút đôi mắt sáng phản
ứng tự động rằng mình là một thằng hèn nhát
không dám đứng trước gương nhìn khuôn mặt đáng yêu
ở đâu và chỗ nào sự tự khinh mình cũng trỗi dậy
nên tôi lại dán ngươi tròn nhìn đời thẳng tắp
cả đống rác cả ruồi muỗi từng đàn theo ra ngoại ô
Từ mặc cảm dập vùi, phụ rẫy đó, thi nhân lao thân vào cuộc đời với nồng độ đam mê cùng tột, ông tìm đến tình người, mặc dù biết rằng sự tự dâng hiến của mình sẽ chỉ được đền bù bằng những tẻ lạnh, những vùi dập xua đuổi. Nhưng không còn cách nào khác hơn nữa, thà đón nhận những mũi dao đâm chém xuống triền tâm hồn tuyệt vọng để còn thấy mình, còn thấy có một ràng buộc, có một sự nhìn vào, ngó tới để tự tạo một cõi trú tạm thời khoảng khắc giữa cái quen thuộc mòn nhẵn không còn một ghi nhận sinh khí nào:
vẫn là khách quen chào hỏi nhau bằng mắt nhìn
vẫn bồi bàn nhẵn mặt thuộc lòng thức gì khách uống
nhạc thính phòng bao vây tâm hồn cô quạnh
nhìn quanh tôi bạn bè cũ bỏ thành phố xa rồi
trời mưa thu sương mù nào lũng bản xa xăm
tôi đứng dậy góp hình hài mình làm tĩnh vật
"góp hình hài mình làm tĩnh vật” nỗi cô đơn khủng khiếp tưởng chừng như đã kết thành khối, làm ta liên tưởng tới hình ảnh một hòn vọng phu, một thiếu phụ nằm sương mà chinh phu ở đây là tình người, là một khung cảnh đời sống hạnh phúc no tròn giữa những người mang thân xác người và tâm hồn người. Nhưng ao ước bao giờ cũng chỉ là ao ước và khát khao chỉ là khao khát vô vọng mà thôi. Người ta vẫn không ngớt nghe thấy những tiếng than dài, những réo gọi khản giọng trong tuyệt vọng, trong tiêu sơ thảm đạm của thi nhân. Đau đớn và chua xót hơn nữa, khi nhà thơ phải đối diện với ý thức sáng suốt về sự bất lực trước một định mệnh khe khắt, một thân kiếp nhược tiểu tối tăm bên những thương tích quê hương nghèo khó, rỉ máu tương tranh. Thi nhân không dừng được xót xa ngậm ngùi, ông liên tiếp gióng lên những khúc bi ca nhược tiểu trường thiên trên sân khấu hài kịch xã hội đổ nát. Ngày xưa, chúng ta đã hơn một lần xúc cảm trườc tiếng than nức nở âm thầm vang vọng của cả một thế hệ khốn đốn mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã ghi nhận: “lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Thế hệ lạc lõng đó đã lùi dần vào quá khứ cùng những đau thương của nó. Sân khấu nhược tiểu Việt nam nhường lại cho thế hệ tiếp liên kế tục. Họ sống, họ múa may, đi đứng trong một cảnh trạng mới, giai đoạn mới với những vấn đề mới được đặt ra cho họ, nhưng vẫn cùng chung một không gian bi thương tủi nhục, nhục hờn. Là một trong những nạn nhân bất đắc dĩ của thế hệ hiện đại, của  lửa máu hôm nay, thi nhân cũng phải thắc mắc, băn khoăn tự hỏi:
tôi đã nhìn thấy gì ngoài những dây thép vòng xoáy móc máu phun
tôi đã nhìn thấy gì người thị thành ra phố buồn giới nghiêm
tôi đã nhìn thấy gì người nhược tiểu dân tộc đều là công an
tôi đã nhìn thấy gì áo mầu ka ki trận nhiều hơn thác lũ
ở ngã tư thành phố hôm nay áo đen nhiều hơn áo màu sặc sỡ
Giữa cảnh huống bi đát, bi đát từ thân phận tới quê hương, tới tổ quốc, nhà thơ đã rơi vào mặc thức lưu đầy, lìa xa sinh hoạt bình thường như muốn trốn chạy sự thật, trốn chạy những dằn vặt, những âu lo tủi thẹn như đa số những nhà thơ khác. Nhưng ở Thế Phong, con đường giải thoát lại ngược hẳn. Đó là thái độ phản kháng, phá phách. Tính chất hiện sinh sôi động rạo rực trong tâm hồn thi nhân. Ở Thế Phong người ta không tìm thấy cái tính chất hiện sinh  làm dáng, vay mượn ngụy tạo. Nếu dĩ vãng đủ để ta định giá cho hiện tại thì cuộc sống của ông thừa đủ để bảo chứng cho tiếng thơ ông. Một tiếng thơ chất chứa đầy khắc khoải ưu tư. Cũng bởi trung thành với sự thực, dù sự thực phũ phàng, nhơ bẩn, cũng vì không muốn lừa đảo lương tri, phấn son thêu dệt cho tấn kịch xã hội nát rữa, tiếng thơ Thế Phong nhiều khi trở nên sỗ sàng sống sượng, trần truồng:
Mày có biết mày tự do vào buồng mẹ tao bắt nạt
tình mẫu thân được san sẻ qua cái vòng tay của mày
sự khôn khéo làm gì có để cho mày lên mặt mô phạm
những câu thơ đại loại,người ta đã bắt gặp không ít, nhất là trong tập “thơ làm lớn dậy con người” Tôi nghĩ, những nhà “đạo đức vỏ” tức bọn giả đạo đức, nếu đọc đoạn thơ trên, chắc không phải nhăn mặt chau mày, sẽ không ngớt lời lên án tác giả: kẻ phá hoại đạo đức luân thường bằng những lời lẽ thô tục…  Nhưng sự thực bao giờ cũng là sự thực. Xã hội ta càng ngày càng đầy rẫy những thảm trạng xiêu đổ. Trước những tấn hài kịch đầy nước mắt tiếp diễn không ngừng quanh ông, lòng tin nơi một đấng thiêng liêng, cứu rỗi cuộc sống đọa đầy này không hề thấy dù phảng phất trong vũ trụ tâm hồn nhà thơ:
vì xã hội nay nhiều ê chề nhục nhã
cho dẫu có lửa và nước
nhiều nhiều hơn hết thảy gột rửa biến tan
khởi thủy hình thành thiên nhiên
cái gì gọi là tạo hóa
hoặc:
ở đâu có ruồi là có thượng đế,
ở đâu có thượng đế là thanh niên có lứa đôi
Bị ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của NIETZCHE không những ông chỉ chấp nhận sự khai tử từ thượng đế của NIETZCHE, ông còn đem thượng đế ra mỉa mai, riễu cợt, ông ví thượng đế với đàn bà (câu trích dẫn trên) mà đàn bà thời đại này dưới mắt ông chỉ là:
Một chiếc mô tô huê kỳ đáng giá bẩy chục ngàn
xe hạc lây lao vút trên đường không biết nói
xe đàn bà hai xy lanh biết nói chỉ để lao vút lên giường
hai thứ này được trao đổi như truyện thần tiên
Ý nghĩ này ở thi nhân không có nghĩa tuyệt đối. Vì trong thơ ông, người ta vẫn tìm gặp được một vài khuôn dáng, một vài chân dung đông phương thuần hậu, khả ái, thỉnh thoảng lóe sáng trong tầm sâu vùng yên tĩnh tâm hồn. Tôi muốn nói ở nhà thơ đập phá sỗ sàng này, vẫn còn có một niềm tin tiềm ẩn thu vén trong một vài khuôn trang VN khả kính:
tôi đem theo hình ảnh mẹ tôi xưa
tóc đuôi gà khuôn trang đầy đặn, da trắng bóng mầu trong suốt sương thu
miệng nam mô đi về phía quan thánh yên bái từ ba mươi năm ngoài để có tôi là con cầu tự, tôi hành hương với niềm nhớ người…
hoặc:
một bàn tay ngọc ngà cho anh buồn vui theo nét chữ
một lần nhìn âu yếm đủ cho anh tin cẩn cuộc đời
dù phải ghé vai lãnh đủ đời nằm gai nếm mật
thì ý nghĩ còn em có mặt làm anh vui lòng
Theo tôi, ở nhà thơ này, điểm nổi bật nhất là sắc diện khật khưỡng đi từ cô đơn đến nổi loạn - từ đời sống đến thi ca - từ thi ca đến khát vọng cách mạng xã hội - từ cách mạng xã hội tới luận lý nhân sinh - ngay với những giòng thơ tình cảm yêu đương, người ta cùng soi thấy hay trực cảm một hệ thống luận lý ẩn lồng:
nội tâm anh náo động từ khi có em ở bên
sự quấy nghịch làm đời sống hàng ngày anh thôi buồn
để thấy mình trẻ lại con trai 18
soi gương trong đôi mắt em đen giòng nước biếc
hoặc:
em ơi tình duyên xưa bạc bẽo cũng hơn nhiều
chúng ta bỏ quá khứ vì chúng ta làm người tiến bộ
Hơn nữa ta có thể khẳng định: với Thế Phong, thơ là sản phẩm của ý thức bị dằn vặt dồn nén cao độ - là sức đối  kháng quyết liệt trước xã hội ung nhọt, trước viễn tưởng suy sụp, bật gốc của những giá trị tinh thần của nề nếp truyền thống dân tộc, trước cường lực sung mãn của văn minh vật chất… ông ôm hoài bão làm mới xã hội, làm lớn dậy tâm hồn, phục vụ cho những giá trị tinh thần, tình cảm thiêng liêng đang bị dày xéo, xô đạp dưới những bước chân dập dồn, cuốn trôi của một hỗn trạng vong bản nô lệ.
Khát vọng cao xa đó, đã đưa tiếng thơ Thế Phong chạm kể triết lý -  thế giới thi ca của ông không còn là thế giới của vần điệu âm vang ngọt ngào quyến rũ của hình ảnh đẹp, của tình yêu huy hoàng như một Xuân Diệu hay gãy đổ bi thiết như một  Nguyễn Bính xưa - mà mỗi bài thơ của ông là một bản cáo trạng, một tiểu luận về xã hội luận lý nên phần lớn thường khó hiểu, mặc dù ông đã vận dụng tới những ngôn ngữ dung dị hầu làm sáng tư tưởng muốn diễn đạt, nhưng đôi khi cũng không tránh khỏi sự tăm tối bí hiểm, gây cho lớp độc giả trung bình muốn tìm vào vũ trụ tâm hồn nhà thơ gặp nhiều trở ngại, nhiều khó khăn, chán nản:
ong bầu về đây từ sáng sớm đầy vòi
đêm qua chú thắp đèn sáng chú học bài trong màn
chú nhăn mặt trước phút giây ong bầu gẫy cánh
để nhăn nhó khi ngón tay bị thương, con ong đồng bạn trả thù
chú bảo nó sẽ chết vì nọc độc truyền sang qua máu
nên chú phải băn khoăn tại sao nó đốt chú
Từ đây, tôi nghĩ: nếu ai  kia, nói rằng thơ Thế Phong là thơ của người lớn, của những ai băn khoăn muốn tìm một ý nghĩa cho cuộc dời bần cùng, hữu hạn này không phải là lời nói vội.
xã hội nhược tiểu bi thảm chúng tôi
chức vụ gì cao hơn đỉnh chóp
tu sĩ còn là mật thám
thi nhân còn sản xuất phiếu thơ đặt hàng để
có xe hơi chạy nhanh hơn người đi bộ
°
Như cánh chim lần đầu tiên tung chiếc thân vào vùng trời cao rộng, ôm niềm khát vọng tràn đầy trong tâm hồn trinh nguyên bằng đôi cánh tự tin và lòng thành khẩn, thiết tha tin vào một thiên đường nhân bản, Thế phong đã lầm, đã thất vọng, chua cay ngay từ khởi điểm - cánh chim đã nhiều lần rướm máu trước trăm muôn làn tên cung thủ vút tới. Nhưng thành khẩnvới mình, thiết tha với đời, đắm đuối mê say trong cái bập bềnh chới với của những ước vọng thầm kín giữa một không gian tàn rữa, một tổ quốc chênh vênh khắc khoải, thi nhân dám nói lên thực trạng và kêu gọi ý thức trỗi dậy vươn lớn của những kẻ còn quay lưng, ngoảnh mặt, của những kẻ đã tách rời và bội phản quê hương, bội phản nòi giống
ai từ bỏ đời sống căm hờn thiêu thân ngoài kia đó
giòng chữ nổi loạn giòng chữ giải độc
giòng chữ nào mang chính nghĩa
diễn biến sự thật thì không biết không nói như thằng câm
mà lòng tràn đầy hy vọng âm thầm
ngày mai tương lai tổ quốc tương lai đời sống cá nhân
Dù muốn dù không, khuôn mặt linh hồn Thế Phong,soi qua thi ca của ông, cũng là khuôn dáng độc đáo không ẩn lẫn, nhạt mờ với tất cả những gì tạo nên khoảng trời Thế Phong, và chỉ của riêng Thế Phong mà thôi.
Chú thích:

1.

Trích trong TP Nhà văn Tác phẩm cuộc đời, trang 99 - ĐNVHXB.

2.

Văn Hữu là tạp chí của cơ quan Văn hóa vụ xưa, bài của Hoàng Trọng Miên, tác giả cuốn VĂN HÓA TOÀN THƯ, đã bị một số anh em văn nghệ lật tẩy là ăn cắp nguyên văn và từng đoạn trong Lược khảo về THẦN THOẠI của Nguyễn Đồng Chi xuất bản tại Hà Nội. Trong số những người đả kích có cả ThP với bút hiệu Đường Bá Bổn.

3.

Thí dụ muốn diễn tả nước mắt trên mi một người con gái, phái này dùng hai tiếng mi sương.

Tháng 6/1965
Du Tử Lê
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...