Thứ Năm, 7 tháng 10, 2021

Bông huệ đỏ 3

Bông huệ đỏ 3
Nguyên tác: Le Lys Rouge

XXIII. Hôm sau, trong tòa lầu kín đáo trên đường Anphiêri nàng thấy anh âu sầu. Lúc đầu, nàng tìm cách làm anh khuây khỏa: nàng tỏ ra vui vẻ một cách dịu dàng tha thiết với thái độ khiêm nhường tuyệt vời của một người tình sẵn sàng hiến thân. Nhưng anh vẫn rầu rĩ. Suốt đêm, anh suy tư, trằn trọc, vừa buồn vừa bực dọc. Anh thấy có lý do để đau khổ. Trong óc anh hình thành mối liên hệ giữa cái bàn tay chuồi lá thư vào trong thùng thư trước pho tượng Xan Maccô bằng đồng hun với kẻ lạ mặt gọi tên được nỗi đau của mình. Ngồi trong chiếc ghế bành mà Têredơ đã ngồi hôm nàng đến lần trước và lần nàng chính nàng mời anh ngồi, những hành ảnh ảo não vương vấn trong đầu anh, còn nàng, cúi xuống tay ghế, như ôm ấp lấy anh bằng thân hình ấm áp và trái tim yêu thương của mình. Nàng biết rõ nỗi đau của anh nên tránh không hỏi han.

Nhằm đưa anh trở lại những ý nghĩ êm đẹp, nàng nhắc lại những điều thầm kín trong căn buồng họ đã cùng sống với nhau, nhắc lại ký ức về những buổi cùng nhau dạo chơi trong thành phố. Nàng có những lời lẽ và cử chỉ duyên dáng, dễ thương.
- Chiếc thìa con anh em hôm trước, chiếc thìa có chậm bông huệ đỏ ấy mà, em dùng để uống trà buổi sáng. Mỗi khi thức giấc, em sung sướng thấy lại nó và cảm thấy yêu anh khôn biết chứng nào.
Anh vẫn đáo một cách buồn bã và không rõ ràng. Nàng nói thêm:
- Em đến với anh, ở cạnh anh, thế mà anh không lưu tâm gì đến em cả. Anh bận tâm về một ý nghĩ mà em không biết. Thế mà em thì đang tồn tại thế này, trước mặt anh. Còn ý nghĩ thì chẳng là gì hết, phải không anh?
- Ý nghĩ chẳng là gì hết, em nghĩ như vậy ư? Người ta sung sướng hay đau khổ chỉ vì một ý nghĩ; người ta sống hay chết chung chỉ vì một ý nghĩ. Đúng, quả là anh suy nghĩ…
- Anh suy nghĩ chuyện gì?
- Sao em lại hỏi anh? Em biết rõ rồi mà, anh nghĩ về điều anh được nghe tói qua mà em giấu anh. Anh buổi gặp gỡ của em hôm qua ở ngoài ga, buổi gặp gỡ không ngẫu nhiên mà do một bức thư, bức thu – em còn nhớ chứ? – em bỏ vào thùng thư ở Ô Xan Misen. Ồ! Anh không trách em. Anh không có quyền. Nhưng vì sao em lại đến với anh nếu đang bị ràng buộc?
Nàng nghĩ cần phải nói dối:
- Anh muốn nói tới người em gặp hôm qua ở ngoài ga? Em cam đoan với anh đó là cuộc gặp gỡ bình thường nhất trên đời.
Anh đau đớn thấy nàng không dám gọi tên người nàng nói tới. Anh cũng tránh không muốn nhắc đến cái tên đó.
- Têrendơ, người ấy không phải tới vì cô à? Trước này, ở Phlôrăngx, cô không biết hắn à? Đối với cô, hắn chỉ là người được cô gặp gỡ và đón tiếp bình thường sao? Không phải vì hắn mà cô nói với tôi bên dòng Acnô: “Tôi không thể” hay sao? Đối với cô, hắn không là gì cả hay sao?
Nàng quả quyết trả lời:
- Thỉnh thoảng người đó đến nhà em. Tướng Larivie giới thiệu với em. Em không có gì hơn để nói với anh. Em cam đoan với anh là em không hề lưu âm tới người đó và em không hiểu anh có thể nghĩ thế nào.
Nàng cảm thấy như được hài lòng khi phủ định người đàn ông đã quyết liệt và dữ dội được bảo vệ “quyền sở hữu” của mình. Nhưng nàng vội dừng lại trên con đường quanh co ấy. Nàng đứng dậy nhìn anh với ánh mắt âu yếm và trang nghiêm.
- Anh hãy nghe em: từ khi em hiến thân cho anh, cuộc đời em hoàn toàn thuộc về anh. Nếu thảng hoặc có điều gì nghi ngờ, băn khoăn, anh cứ hỏi em. Hiện tai thuộc về anh, và anh biết rõ trong đó chỉ có riêng một mình anh. Còn quá khứ của em, nếu anh biết nó chỉ là hư vô thì chắc anh phải bằng lòng. Em không nghĩ là có một người đàn bà khác, sinh ra để yêu như em, có thể mang đến cho anh một tấm tình mới mẻ hơn tấm tình của em. Điều đó, em xin thề với anh. Những năm tháng trước đây không có anh, em đâu có sống. Chúng ta đừng nói tới nữa. Em không có gì phải hổ thẹn. Còn ân hận thì lại là chuyện khác: em ân hận được biết anh quá muộn. Vì sao, anh, vì sao anh không tới sớm hơn? Nếu anh tới năm năm trước đây thì em đã hoàn toàn là của anh như bây giờ em hoàn toàn là của anh rồi. Anh có còn nhớ Lôhengri 1. chứ? Nếu anh yêu em, thì đối với anh, em là người kỵ sĩ của chim Thiên nga. Em có hề làm mình làm mấy với anh về chuyện cô Gian Tăngcređơ đâu. Em thấy anh yêu em, anh đau khổ, và thế là đủ đối với em!… bởi vì em yêu anh.
- Người đàn bà không thể ghen tuông cùng một kiểu như đàn ông, và cũng không cảm nhận được cái làm người đàn ông đau khổ hơn chết.
- Em không hiểu gì hết về chuyện đó. Vì sao vậy?
- Vì sao à? Vì trong máu, trong thịt người đàn bà, không có cái dữ dội phi lý và cuồng nghiệt, cái bản năng cố hữu mà đàn ông cho là mình có quyền có. Người đàn ông là vị thần muốn sinh linh của mình thuộc về mình trọn vẹn. Từ bao đời nay, người đàn bà sinh ra để được chia sẻ. Chính quá khứ, quá khứ âm thâm quy định dục vọng của chúng tôi. Khi ra đời, chúng tôi đã già cỗi lắm rồi! Đối với phụ nữ, ghen tuông chỉ là một vết thương của lòng tự ái. Còn ở nam giới, đó là sự day dứt sâu xa như nỗi đau tinh thần, liên tc như nỗi đau vật chất… Cô hỏi vì sao à? Vì, tôi phục tùng và kính trọng cô, tuy cô làm tôi sợ hãi, cô vẫn là vật chất, còn tôi là là tinh thần; cô là sự vật, còn tôi là linh hồn, cô là đất sét còn tôi là nghệ nhân. Ồ! Cô đừng phàn nàn. Bên cạnh chiếc bình tròn trĩnh với những tràng hoa lá trang trí, thì người thợ gốm nhỏ mọn và vất vả là cái gì? Bình thì yên ổn và đẹp. Còn người thợ thì thật là khổ sở. Anh ta day dứt ham muốn, đau khổ; vì ham muốn tức là đau khổ. Đúng, tôi ghen tuông. Tôi biết rõ trong sự ghen tuông của tôi có cái gì rồi. Xem xét nó, tôi thấy trong đó có những thiên kiến truyền thống, một niềm kiêu hãnh của kẻ man rợ, một sự nhạy cảm bệnh tật, một sự pha trộn giữa cái thô bạo ngu ngốc và cái yếu đuối tàn ác, một sự phản kháng dại dột và sự dữ dằn chống lại quy luật của đời sống và của xã hội. Nhưng tôi không sao tìm hiểu được nó là cái gì: nó vẫn tồi tại và giày vò tôi. Tôi như nhà hóa học khi nghiên cứu thuộc tính của chất axit mình vừa nuốt, biết rõ nó kết hợp với những bazơ gì và tọa ra những muối gì. Thế nhưng axit đốt cháy và sẽ đốt cháy anh ta đến tận xương tủy.
- Anh yêu quý, anh thật phi lý.
- Vâng, tôi phi lý, tôi cảm thấy điều đó rõ hơn bản thân cô… Tôi hâm muốn một người đàn bà nhan sắc lộng lẫy và trí tuệ rực rỡ, tự làm chủ bản thân mình, kiên quyết, khôn ngoan và tự do trong lựa chọn lại hiểu biết và dám hành động. Và do vậy cành xinh đẹp hơn, càng khiêu gợi hơn. Tôi h muốn và yêu nàng như nàng đang tồn tại; tôi đau khổ vì nàng không có sự trong trắng ngây thơ, cũng không có sự chất phác dịu dàng, và nếu như có thì đó là điều bất bình thường đối với nàng. Tôi đòi hỏi nàng, đồng thời phải là nàng và cũng đồng thời không phải là nàng. Cuộc đời sinh ra nàng như thế nào thì tôi yêu quý nàng như thế ấy. Tôi sót xa ân hận vì cuộc đời tay đã tô điểm cho nàng hết sức kiều diễm nhưng lại chỉ mới đụng tới nàng mà thôi. Ồ! Như thế quả là phi lý. Tôi yêu cô, cô hiểu chứ? Tôi yêu cô cùng với tất cả những cảm xúc, những lề thói cô mang tới cho tôi, cùng tất cả những gì rát ra từ những kinh nghiệm của cô, tất cả những gì bắt nguồn… có thể từ hắn, từ họ, làm sao tôi biết được?… Đó là hạnh phúc và đó cũng là nỗi đau của tôi. Tình yêu cứ phải là tội lỗi, cái trò ngu ngốc công khai ấy chắc phải có một ý nghĩa sâu xa. Niềm vui là tội lỗi khi nó mênh mông. Anh đau khổ là vì thế đấy, em yêu ạ!
Nàng quỳ xuống trước mặt anh, cầm lấy tay anh và kéo anh vào long:
- Em không muốn anh đau khổ, em không muốn thế đâu. Có điên thì mới thế. Em yêu anh và bao giờ cũng chỉ yêu có một mình anh. Anh có thể tin em: em không dối trá đâu.
Anh khẽ hôn lên trán nàng.
- Dù em có lừa dối anh, anh cũng không giận em đâu, em yêu quý ạ. Trái lại, anh sẽ biết ơn em kia. Có gì chính đáng hơn, “người” hơn là lừa dối nỗi đau khổ? Lạy Chúa! Nếu phụ nữ không vì thương xót chúng tôi mà dối trá thì chúng tôi sẽ ra sao? Em yêu quý, em cứ dối trá, em cứ vì nhân ái mà dối trá! Em hãy đem lại cho anh giấc mơ làm sáng lên những nỗi phiền muộn đen tối nhất. Em cú dối trá, em đừng ngại ngần. Em chỉ đưa thêm một ảo ảnh vào ảo ảnh về tình yêu và nhân sắc thôi mà.
Anh thở dài:
- Ô, lý trí! Sự khôn ngoan tầm thường!
Nàng hỏi anh muốn nói gì và sự khôn ngan tầm thường đó là cái gì. Anh trả lời đó là một câu tục ngữ đúng đắn nhưng thô bạo, và không nên nói ra thì hơn.
- Dầu sao anh cứ nói ra.
- Em muốn anh nói à? Vậy thế này: “Cái miệng đã được hôn vẫn không mất đi vẻ tươi mát”.
Và anh nói thêm:
- Quả là tình yêu duy trì nhan sắc, và thịt da phụ nữ được nuôi bằng sự mơn trớn như ong được nuôi bằng nụ hoa.
Nàng hôn môi anh như gửi gắm lời thề.
- Em thề với anh là bao giờ em cũng chỉ có yêu anh. Ồ! Không, không phải những sự vuốt ve, mơn trớn duy trì chút nhan sắc mà em sung sướng đó được để dâng tặng anh đâu! Em yêu anh! Em yêu anh!
Nhưng anh vẫn nhớ bức thư bỏ ở Ô Xan Misen và người đàn ông nàng gặp ở sân ga.
- Giá cô thực sự yêu tôi thì cô đã yêu một mình tôi thôi.
Nàng đứng dậy, giận dữ:
- Thế là anh nghĩ tôi yêu một người khác à? Điều anh nói thật kinh khủng. Anh nghĩ về tôi như vậy sao? Thế mà anh bảo anh yêu tôi… Anh này! Tôi thương hại anh, vì anh điên mất rồi.
- Tôi điên thật à? Cô nói đi, nói cho tôi biết nữa đi.
Nàng quỳ xuống, hai lòng bàn tay mượt mà ôm lấy thái dương, lấy má anh. Một lần nữa, nàng bảo anh băn khoăn về một cuộc gặp gỡ tầm thường, vô nghĩa và phi lý. Nàng buộc anh phải tin, hay nói đúng hơn, phải quên. Anh chỉ thấy, còn biết, còn thưởng thứ đôi bàn tay thon thả, cặp môi nồng cháy, hai hàm răng cũng nồng cháy, bộ ngực đầy đặn và toàn bộ cái cơ thể hiến dâng cho mình. Anh không còn ý nghĩ nào khác là hoàn toàn tự lãng quên hết làm cho nàng cũng quên hết và cùng nàng mãi quên hết mọi thứ trên đời. Bản thân nàng vừa lo sợ vừa ham muốn trong lòng dâng lên nỗi đắm say vô tận mà chính mình kích động; cảm nhận vừa sức mạnh vô biên vừa sự yếu ớt của mình, nàng đáp lại tình yêu với sự cuồng nhiệt chưa từng có. Và, trong cơn điên dại bản năng, với một ý muốn khăng khăng hiến dâng mình trọn vẹn hơn bao giờ hết, nàng dám cái điều mà mình chưa bao giờ nghĩ là có thể dám làm. Bóng chiều nồng ấm bao phủ cả căn buồng. Những tia sáng vàng rực, chiều từ góc các tấm riđô, rọi lên chiếc làn đựng hoa quả đặt trên bàn cạnh chai vang. Ở đầu giường, bước tượng cô gái Vơnidơ nho nhỏ nợ một nụ cười trên đôi mô cảnh tranh tối tranh sáng. Những bức tượng thánh Becgan và Verôn đứng im lặng tươi cười dọc các bức bình phong. Bông hồng trong lọ rơi từng cánh một. Cảnh vắng lặng dầm chìm trong tình yêu; họ thưởng thức cái một mỏi cửa những phút ái ân nồng cháy.
Nàng thiếp đi trên ngực người yêu. Giấc ngủ mơ màng kéo dài niềm khoái lạc. Tỉnh giấc, nàng nói hớn hở:
- Em yêu anh.
Chống tay lên gối, anh nhìn nàng, lòng âm thầm kinh hãi.
Nàng hỏi vì sao anh buồn:
- Lúc nãy, anh vui vẻ. Sao bây giờ lại thế?
Anh lắc đầu, im lặng.
- Anh nói đi. Em thích anh phàn nàn hơn là anh im lặng.
Anh bèn nói:
- Em muốn biết à? Em đừng giận nhé! Anh đau khổ hơn bao giờ hết, vì giờ đây anh hiểu em cho anh cái gì.
Nàng đột ngột ngồi dậy, đôi mắt chan chứa đau buồn và trách móc:
- Anh nghĩ là trước đây em đã yêu một người khác như lúc này em đang yêu anh sao! Anh làm thương tổn đến nỗi niềm sâu lắng nhất của em, đến tình yêu của em đối với anh. Em không tha thứ cho anh đâu. Em yêu anh. Bao giờ, em cũng chỉ có yêu anh. Bao giờ em cũng chỉ đau đớn vì anh. Anh hãy bằng lòng. Anh làm em đau khổ lắm… Phải chăng anh là người tên ác?
- Têredơ, khi người ta yêu, không bao giờ người ta tốt cả.
Hai chân để trần thõng xuống như một người đang tắm, nàng ngồi một lúc lâu trên giường, im lặng, mơ màng. Khuôn mặt nhợt nhạt đi vì khoái lạc bỗng ửng hồng lên và một giọt nước mắt động lại trên mi.
- Têredơ, em khóc
- Xin lỗi anh. Lần đầu tiên em yêu thực sự và được yêu thực sự. Em sợ.
Chú thích:

1.

Lôhengri là nhân vật trong một truyện cổ Đức. Sau khi cứu thoát một nàng công chúa, chàng cùng nàng kết hôn và buộc nàng khải hứa là không bao giờ hỏi điều bí ẩn về nguồn gốc của chàng. Về sau, công chúa không giữ được lời nguyên nên Lôhengri ra đi trên một quả khí cầu do Thiên nga (trước kia đưa chàng tới) kéo đi.

XXIV. Tiếng chuyển hòm xiểng vang lên ồn ã trên các bậc thang trong tòa biệt thự để đầu chuông lơn, chuông bé; Pôlin mang các gói hành lý nhẹ nhành bước xuống nhà; bà Macmê thận trọng và điềm tĩnh trông coi việc gửi hàng đi, còn Ben thì đã sửa soạn xong. Têredơ trong bộ trang phục màu xanh mặc đi đường, chống tay lên lan can hàng hiên, một lần nữa ngắm nhìn thành phố Hoa.
Nàng quyết định ra đi. Thư nào chồng nàn cũng nhắc nhở. Nếu nàng trở về Pari trong những ngày đầu tháng năm – như anh thiết tha yêu cầu - thì trước ngày trao Giải thưởng Lớn, họ có thể mời khách dự mấy bữa ăn tối, sau đó là mấy buổi tiếp tân. Nhóm chính trị của anh đang được dư luận ủng hộ. Trào lưu đang thúc đẩy anh và Garanh cho rằng xalông của nữ bác tước Mactanh có thể có ảnh hưởng rất tốt với tương lai của đất nước. Nàng không mấy lưu ý tới mấy lý do ấy, nhưng giờ đây nàng đang cảm thấy khoan dung đối với chồng và muốn làm anh vui lòng. Ngày hôm trước, nàng lại nhận được thư công bố. Ông không nói tới quan điểm chính trị của chàng rể, cũng không khuyên răn con gái, nhưng cho nàng biết là ngươi ta bắt đầu nói tới những ngày sống bí ẩn của nữ bác tước Mactanh ở Phlôrăngx, với các thi sĩ và nghệ sĩ; người ta cũng nói là từ xa, ngôi biệt thự đầy những chuồng lớn, chuông bé có một dáng dấp phóng túng khác thường về tình cảm. Bản thân nàng cũng cảm thấy bị theo dõi trong cái xã hội Phidơn bé nhỏ này. Bà Macmê thì quấy nhiễu nàng; hàng thân Anbectinenli thì làm nàng lo lắng. Những buổi hẹn hò ở ngôi lầu trên đường Anphiêri trở nên khó khăn và nguy hiểm. Một buổi tối, giáo sư Arighi, mà Anbectinenli thường lui tới nhà, gặp nàng trong lúc nàng đi trên những quãng đường vắng vẻ, nép sát bên người Đơsactrơ. Ông là tác giả một luận văn về nông nghiệp và là một nhà khoa học hết sức dễ thương. Ông quay mặt mặt đi, bộ mặt dũng cảm đẹp đẽ, có hàng ria mép bạc trắng, và hôm sau chỏ nói với nàng: “Trước kia, khi từ xa có một người đẹp đi tới là tôi đoán được. Bây giờ, khi tôi đã vượt quá lứa tuổi được nữ giới nhìn một cách thiện cảm, thì Thượng đế thương tôi: Người tránh cho tôi không phải nhìn thấy họ. Mắt tôi rất kém-khuôn mặt khả ái nhất, tôi cũng không nhận ra được nữa”. Thế là nàng hiểu và xem như đã được cảnh tỉnh. Giờ đây, nàng mongche giấu niềm hành phúc của mình trong phố phường Pari mênh mông.
Nàng báo cho Vivian Ben nay mai nàng sẽ trở về. Ben năn nỉ nàng ở thêm mấy ngày. Nhưng Têrendơ nghĩ rằng cô bạn vẫn khó chịu về lời khuyên trước đây của mình vào một buổi đêm trong căn phòng có tấm màn cửa thêu hình những cây chanh, rằng có nhẽ cô ta cũng không còn thích thú sống trong tình thân của người bạn tâm tình đã không tán thành việc lựa chọn của cô, và Anbectinenli chắc hẳn đã nói với Ben rằng nàng là kẻ đỏm dáng và có lẽ nông nổi nữa. Ngày ra về được quyết định vào mồng 5 tháng năm.
Bầu trời trong đẹp lóng lánh trên thung lũng Acnô. Mơ màng, Têrendơ từ hàng hiên thấy Phlôrăngx như một bông hồng khổng lồ buổi sớm cắm trong chiếc lọ màu xanh. Nàng nghiêng mình để tìm cái điểm li ti dưới chân những ngọn đồi phủ đầy hoa, nơi nàng đã nếm trải những niềm vui vô tận. Xa xa, khu vườn nghĩa trang làm thành một vệt nhỏ sẫm màu và bên cạnh, nàng nhận ra con đường Anohiêri. Nàng như sống lại trong căn buồng xiết bao thân thiết, nới chắc hẳn không bao giờ nàng còn bước chân tới nữa. Những giờ phút đã qua và không bao giờ còn trở lại hiện lên ảm đạm, tang tóc trong trí nàng. Nàng cảm thấy mắt mờ đi, chân mềm yếu và tâm hồn bạc nhược; hình như cuộc sống không còn ở trong người nàng nữa mà nàng đã để nó ở lại trong cái góc kia, nơi có những rặng thông đen kịt, im lìm vươn lên bầu trời. Nàng tự trách mình băn khoăn một cách vô lý trong lúc nhẽ ra nàng phải bình tâm và hoan hỉ. Nàng biết nàng sẽ gặp lại Giăc Đơsactrơ ở Pari. Hai người những muốn cùng đến Pari một lúc hay nói đúng hơn cùng đi Pari với nhau. Chàng phải nán lại Phlôrăngx thêm mấy ngày, nhưng dẫu sao buổi hội ngộ cùng gần tới nơi, ngày hẹn hò đã được ấn định và ngay bây giờ nàng đã bồi hồi nghĩ tới phút gặp gỡ. Lòng nàng ấp ủ mối tình quyện chặt trong máu thịt. Nhưng một phần con người nàng ở lại trong ngôi lầu có khắc hình đàn dê và tượng các thủy thần, cái phần bản thân nàng ấy không bao giờ được trả lại cho nàng nữa. Giữa sự sôi nổi tràn đầy của cuộc sống, nàng cảm thấy chết đi những cái cực kỳ quý giá. Nàng nhớ những lời Đơsactrơ nói với mình: “tình yêu là một thứ sùng bái linh vật. Anh đã hái và ép làm kỷ niệm những quả cây bên bờ vịnh, những quả mà trước kia em từng nhìn ngắm”. Vì sao nàng lại không nghĩ tới việc mang theo một viên đá cửa tòa lâu đài nơi nàng đã lãng quên cả vũ trụ?
Một tiếng kêu của Pôlin làm nàng đứt mạch suy tư. Từ phía sau rặng kim tước hoa, Sulet bỗng nhảy ra ôm hôn cô gái hầu phòng trên tay đầy những áo khoác và túi đi đường để mang ra xe. Bây giờ ông ta băng qua lối đi trong vườn, hớn hở, râu tóc bờm xờm, hai tai nhọn hoắt dựng đứng lên hai bên trán láng bóng. Ông ta cất tiếng chào nữa bá tước Mactanh
- Thế là phải chia tay bà hay sao, thưa bà?
Ông ta ở lại Ý. Một Phu nhân vẫy gọi ông ta - theo lời ông ta nói - Phu nhân đó là La Mã. Sulet muốn biếng thăm các hồng y giáo chủ. Có thể một đức hồng y giáo chủ mà người ta ca ngợi là một ông già rất biến lẽ phải sẽ tán thành quan niệm về một Giáo hội cách mạng và xã hội chủ nghĩa. Sulet có mục đích của mình: trồng lên trên đống tro tàn của nền văn minh bất công và tàn bạo cây Thánh giá của chúa Giêsu, không phải là cây thành giá chết cứng và trần trụi, mà là cây thánh giá sống với hai cánh tay của Người nở hoa che bóng cho cả cõi trần. Với ý đồ đó, ông ta sẽ lập một giáo đoàn và ra một tờ báo. Giáo đoàn thì bà Mactanh đã biết. Còn tớ báo thì sẽ bán một xu, được viết theo lời văn có vần và thể bi ca. Báo có thể dùng làm lời bài hát. Rốt cuộc chỉ có lời thơ rất mực giản dị, dù dữ dội hay êm ái, mới là ngôn ngữ duy nhất thích hợp với nhân dân. Văn xuôi chỉ thú vị đối với những ai có bộ óc rất tinh tế. Ông ta đã gặp những tay vô chính phủ ở các hàng bán rong rượu vang trên đường Xanh-Giăc. Buổi tối, họ đọc cho nhau nghe những bản tình cả.
Ông ta nói thêm:
- Một tờ báo theo kiểu sưu tập bài ca thì sẽ hợp với tâm hồn dân chúng. Người ta bảo tôi có tài. Tôi không rõ có đúng không, nhưng phải nói rằng tôi có óc thực tiễn.
Ben vừa đi găng tay vừa bước xuống bậc tam cấp.
- Ồ, darling, phố xá và cả trời đất, núi xông đều muốn cô phải luyến tiếc. Hôm nay, tất cả đều tươi đẹp để khiến cô luyến tiếc chúng và sẽ muốn trở lại thăm chúng.
Nhưng chán cái khô khan thanh nhã của cảnh vật Tôxcan, Sulet chỉ luyến tiếc xứ Ôngbri xanh tươi và bầu trời Ôngbri ẩm ướt. Ông ta lại nhớ lại Axxidơ, lúc ông đứng cầu nguyện trên cánh đồng màu mỡ, giữa một vùng đất mềm mại, êm đềm hơn.
- Ở đấy, - ông ta nói - có những cánh rừng à nham thạch, những khu rừng thưa để lộ một khoảng trời và những đám mây trắng. Ở đấy, tôi đã đi dạo chơi theo vết chân thánh Phrăngxoa, và tôi đã phỏng tác bài hát tụng ca Mặt trời của Ngài thành những vần thơi Pháp cổ, đơn sơ và nghèo nàn
Bà Mactanh muốn nghe thơ. Ben cũng sẵn sàng nghe, nét mặt biểu lộ vẻ thành kính như một pho tượng thiên thần của Minô 1.
Sulet báo trước bài thơ là một tác phẩm quên mùa, thiếu nghệ thuật. Tuy số lượng âm tiết lẻ, câu thơ vẫn đơn sơ, nhẹ nhành và cố tình không hoa mỹ. Rồi với giọng chậm rãi, đơn điệu, ông ta đọc bài tụng ca:
Ơn Thượng đế để dày sông sáng tạo
Cõi trần gian làm đẹp lòng người,
Đêm ngọc bích sáng ngời chói lọi
Điểm tô đời kiều diễm, huy hoàng.
Khác nào họa sĩ, từng trang
Vẽ lên tranh ảnh muôn vàn thân yêu
- Ồ! Ông sulet này, - Ben lên tiếng - bài tụng ca của ông đi lên trời giống như vị đạo sĩ trong tháp Campô Xantô ở Pidơ theo sau đàn dê leo lên ngọn núi thân thiết. Tôi định nói với ông là: lấy niềm tin làm gậy, vị đạo sĩ già leo núi và bước chân ông ta không đều vì cây nạng ở một bên, ông ta phải đặt chân này lên chân kia. Bởi thế, những câu thơ của ông nghe ra khập khễnh. Ồ! Tôi hiểu rõ điều đó lắm.
Nhà thơ nhận lời tán tụng ấy, đinh ninh mình xứng đáng mà mình không nhận ra.
- Ông có niềm tin, ông Sulet ạ! - Têrendơ nói - Nhưng niềm tin ấy giúp ích gì cho ông khi chỉ dùng để làm thơ?
- Để sám hối, thưa ngài.
- Ồ! Không có cái đó, chúng ta vẫn sám hối được.
Bà Macmê xuất hiện, trong tư thế sẵn sàng cho cuộc hành trình, với niềm vui thanh thản sẽ trở lại ngôi nhà xinh xắn của mình ở phố La Sedơ, gặp lại ông bạn già Lagrănggơ và con Tôby bé nhỏ. Đã được chứng kiếm những tác phẩm nghệ thuật Etruyri ở Phodơn, bà sẽ sung sướng tìm thấy lại những đám hộp bánh kẹo ở nhà mình bộ xương người chiến sĩ, qua ô cửa sổ ngoảnh nhìn mảnh vườn nhỏ ở Bông-Macsê.
Ben đánh xe ngựa đưa bạn ra ga.
Chú thích:

1.

Nhà điêu khắc Italia, thế kỷ 15

XXV. Đơsactrơ lên tàu chào tiễn đưa Têrendơ và bà Macmê. Phải xa anh, Têrendơ cảm nhận anh có ý nghĩa như thế nào đối với nàng: anh mang tới cho nàng một vị mới của cuộc sống, ngọt ngào, đằm thắm, thiết thực đến mức nàng cảm thấy nó trên đôi môi mình. Nàng sống trong trạng thái đê mê trong giấc mơ gặp lại anh; nàng ngỡ ngàng nhưng âu yếm mỗi khi nghe bà Macmê nói: “Có lẽ chúng ta đã qua biên giới” hoặc: “Hồng nở đầy hoa dọc bờ biển”. Sau một đêm nghỉ lại khách sạn Macxây, lòng nàng vẫn hoan hỉ. Khi nhìn thấy những rặng ô liu mài xám trên các cánh đồng đá sỏi, những hàng dâu, dòng sông Rôn, phố phường Lyông, và những khung cảnh quen thuộc, những rặng cây vươn cao ngọn trước kia màu tím sẫm nay đã nhú mầm xanh tươi, những sườn đồi trải rộng như những tấm thảm nhỏ với những hàng rau dọc ngang và những hàng liễu rủ bên sông. Đối với nàng, cuộc hành trình trôi đi phẳng lặng; nàng thưởng thức trọn vẹn những giờ đang sống và chờ đón những niềm vui sâu lắng. Tàu dừng bánh. Dưới ánh sáng nhợt nhạt của nhà ga, trên môi nàng nở một nụ cười của người đang mơ màng như tỉnh táo khi thấy chồng hớn hở ra đón nàng. Ôm hôn bà Macmê, nàng tỏ lời hết lòng cám ơn bàn. Và quả là nàng cảm tạ mọi thứ trên đời chẳng khác nào thánh Phrăngxoa của Sulet.
Ngồi ở hàng ghế sau cỗ xe ngựa, chạy dọc bờ sông trong đám bụi vàng hoe buổi chiều ta, nàng kiên nhẫn nghe chồng nói về những thắng lợi ở nghi viện, những ý định của nhóm nghị sĩ của anh, những dự định, những hi vọng và sự cần thiết tổ chức hai hay ba bữa ăn tối trọng thể với mục đích chính trị. Nàng lim dim mắt để mơ màng thoải mới hơn. Nàng nghĩ bụng: “Mai, mình sẽ nhận được thứ và tám ngày sau mình sẽ gặp chàng. Xe lăn bánh trên cầu, nàng nhòng sông cuồn cuộn chảy đỏ rực, nhìn những nhịp cầu ám khói, những rặng tiêu huyền, những rặng lật ngọn phủ đầy hoa trông theo hình ngũ điểm trên đại lộ Nữ hoàng. Trước mắt nàng, tất cả những cảnh vật quen thuộc ấy mang một sắc thái mới mẻ hết sức kỳ thú. Nàng cảm thấy như tình yêu của mình tô điểm vũ trụ bằng những sắc màu mới. Và nàng tự hỏi không biết cỏ cây, sỏi đá có nhận ra nàng hau không. Nàng trầm ngâm: “Làm sao sự im lặng của mình, đôi mắt mình, toàn bộ thịt da mình, và cả bầu trời, và cả trái đất lại không tiết lộ sự bí ẩn trong lòng mình?”. Nghĩ là nàng mệt mỏi, Mactanh-Benlem khuyên nàng nghỉ ngơi. Và trong đêm tối, ngồi một mình trong buồng đóng kín, giữa cái im ắng mênh mang khiến nàng nghe rõ nhịp đập trái tim, nàng viết cho người vắng mặt một bức thư chan chứa những lời tựa những cánh hoa luôn luôn tươi tốt: “Em yêu anh, em chờ anh. Em sung sướng. Em cảm thấy anh bên em, chỉ có anh và em trên đời. Từ ô cửa số, em nhìn thấy một ánh sao phơn phớt xanh lấp lánh và em ngắm nó trong lúc nghĩ là từ Phlôrăngx, anh cũng nhìn thấy nó. Em đặt lên bàn chiếc chìa khóa có hình bông huệ đỏ. Anh hãy đến với em. Từ xa anh khiến lòng em như thiêu như đốt. Anh hãy đến với em!”. Và trong lúc nàng sống dậy hoàn toàn mới mẻ những cảm xúc và những hình ảnh vĩnh hằng.
Suốt một tuần lễ, nàng sống cuộc sống hoàn toàn nội tâm, cảm thấy trong lòng cái sức nóng êm ái, du âm của những ngày ở Anphiêri, những cái hôn của chàng vẫn còn mơn man trên da thịt. Nàng tự yêu mình vì chính mình được yêu. Nàng thận trọng, chăm chút may sắm trang phục mới. Hài lòng bản thân mình, nàng muốn làm hài lòng người yêu. Nàng lo sợ đến điên dại khi ở bưu điện không thấy có tin tức; nàng run rẩy, sung sướng khi qua tấm lưới sắt, cầm lấy phong thư trên đó nàng nhận ra chữ viết thoáng đãng, bay bướm của chàng. Nàng ngấu nghiếm những kỷ niệm, những ham muốn, những ước mong. Nàng trải qua những giờ phút khắc khoải đợi chờ.
Riêng buổi sáng chàng hẹn ở Pari, nàng cảm thấy đằng đẵng đến khủng khiếp. Nàng ra ga trước giờ tàu về. Nhà ga báo tàu trễ. Buồn bã biết chừng nào! Vốn lạc quan trong mọi dự định và, cũng như cha nàng, luôn luôn bắt định mệnh phục tình ý chí, nàng thấy sự chậm trễ mình không nghĩ tới này như một sự phản trắc. Từ các cửa kính phòng chờ, ròng rã bốn mươi lăm phút, một ánh sáng xám xịt đổ xuống người nàng như những hạt cát đổ xuống trong chiếc đồng hồ sa thạch khổng lồ để điểm những giây phút mất đi đối với hạnh phúc của nàng. Nàng đang rầu rĩ thì tấy trong ánh nắng mặt trời đỏ rực, đầu máy chuyến tàu nhanh, quái dị nhưng ngoan ngoãn, dừng lại trên sân ga và, trong đám hành khác xuống tàu. Giăc bước về phía nàng. Anh nhịn người yêu, ánh mắt anh hân hoan nhưng vẫn đợm một chút âu sầu và dữ dội nàng thường bắt gặ Ồ! Em đây rồi! Trước khi gặp lại em, anh sợ đến Têrendơ tái. Chắc em không biết và, chính bản thân anh cũng không biết khổ đau khổ biết chừng nào thì phải sống một tuần lễ xa em. Anh có quay lại ngôi lầu ở Anphiêri. Em biết không, trong căn buồng, khi đứng trước bức tranh bột màu ngày trước, anh nhớ em như điên như dại.
Nàng hoan hỷ nhìn anh.
- Thế còn em, anh không nghĩ là em mong chờ anh, muốn có anh, và tuy chỉ ngồi một mình, em vẫn dang rộng hai tay về phía anh hay sao? Em cất thư anh vào hộp đựng trang sức. Đêm đêm, em đem thư anh ra đọc: Thật mê ly nhưng cũng thật dại dột! Thư anh, chính là anh, quá nhiều nhưng cũng quá ít.
Hai người đi qua sân ga. Xe ngựa chờ đầy hòm xiểng lăn bánh trên sân. Nàng hỏi anh có thuê xe không.
Anh không đáp. Hình như anh không nghe tiếng. Nàng nói tiếp:
- Em có đến nhà anh, nhưng em không dám vào. Nhìn qua hàng rào sắt, em thấy những cánh cửa sổ có thanh ngang và những bụi hồng ở phía cuối sân, phía sau một cây tiêu huyền. Và em tự bảo mình: “Đấy đấy!” chưa bao giờ lòng em bồi hồi đến thế.
Anh không nghe nàng, không nhìn thấy gì nữa. Anh cùng nàng bước nhanh qua sân ga lát đá và qua một bậc thang hẹp đi vào con đường vắng vẻ chạy dọc theo phía sau sân ga. Ở đấy, những công trường gỗ và kho than, có một khách sạn với cửa hàng ăn và những chiếc bàn đặt trên hè phố. Biển hiệu sơn màu, và ở cửa sổ treo những tấm riđô trắng. Đơsactrơ dừng bước trước cánh cửa nhỏ và đưa Têrendơ vào một lối đi không thắp sáng.
- Anh đưa em đi đâu? - Nàng hỏi - Mấy giờ rồi? Em phải có mặt ở nhà lúc bảy rưỡi. Chúng ta điên mất thôi.
Và trong một căn buồng lát gạch đỏ, có chiếc giường gỗ bồ đào; thảm vẽ hình sư tử, họ thưởng thức những phút giây quên lãng thần tiên.
Bước xuống cầu thang hạnh phúc biết chừng nào, chúng ta cưỡng đoạt cả cuộc sống.
XXVI. Ngày hôm sau, một cỗ xe ngựa đưa nàng tới một đường phố đông dân cư vắng lặng, nửa buồn nửa vui, với những bức tường vây quanh các khu vườn nằm lọt giữa ngôi nhà mới xây. Xe dừng bánh ở chỗ lòng đường chạy qua dưới vòm tò vò khách sạn Rêgiăngx chắn ngang đường. Khách sạn phủ đầy bụi trong quên lãng. Đó đây, những cành cây xanh vươn lên giữa đám đá sỏi; đem chút tươi tắn đến cho cái góc phố này. Têrendơ bầm chuông trước cánh cửa nhỏ. Giữa các ngôi nhà san sát, nàng nhìn thấy một chiếc ròng rọc trên một ô cửa mở trên mái nhà và hình vẽ một chiếc chìa khóa to tướng mạ vàng, biển quảng cáo trên một cửa hiệu bán khóa. Nàng thu vào mắt tất cả những cảnh tượng ấy - tuy quen thuộc nhưng vẫn mới lạ. Bồ câu bay lượn trên đầu nàng; nàng nghe đàn gà mái “cục cục”. Một gia hân để ria mép, vẻ quân nhân và quê mùa, ra mở cửa. Nàng bước vào một cái sân rải cát, dưới bóng một cây tiêu huyền; bên trái sân, sát mặt đường là nhà người gác cổng, cửa sổ treo chuồng chim bạch yến. Về phía ấy, nhô lên đầu hồi có bọc lưới sắt sơn xanh của nhà bên cạnh. Dựa vào đó là sườn nhà có những ô kính của một xưởng điêu khắc để lộ ra những bức tượng thạch cao im lìm dưới lớp bụi. Bên phải, một bức tường không cao vây quanh sân, trên tường còn gắn những mảnh trụ gạch, những mảng chạm nổi, những đoạn cột nhỏ bị gãy. Cuối sàn, ngôi nhà khch sạn không lớn lắm này mở cả sáu ô cửa sổ cổ thanh ngang ở mặt trước, một phần phủ kín dây thường xuân và cây hồng leo.
Say mê nền kiến trúc Pháp thế kỷ XV, Philip Đơsactrơ đã thể hiện rất tài hoa ở đây những đặc điểm của một tư thất thời Lui XII. Bắt đầu xây dựng vào giữa Đế chế đệ nhị, ngôi nhà vẫn chưa hoàn chỉnh. Con người từng xây dựng biết bao nhiêu lâu đài đã qua đời mà không hoàn tất được ngôi nhà cho riêng mình. Nhưng như thế lại hay hơn. Thiết kế theo kiểu lúc bấy giờ được coi trọng về giá trị, ngôi biệt thự nhỏ của Philip Đơsactrơ nay trở nên tầm thường và lạc hậu, lại nằm giữa những dày tường của những khu nhà cao tầng. Song nhờ cái thô nhám của những tảng đá nguyên khối đã mủn dần ra trong khi chờ đợi bàn tay người thi công qua đời cách đây có lẽ đã hai chục năm, nhờ cái vẻ nạng nề chân chất của ba ô cửa sổ hầu như chưa được đẽo gọt trên mái, nhờ vẻ đơn sơ của mái nhà mà bà quả phị nhà kiến trúc cho lợp lại, nhờ tất cả những may mắn của tình trạng dở dang ngoài ý muốn ấy, tòa biệt thự, có cái vẻ duyên dáng của một ngôi nhà cổ kính nhưng lại mới mẻ và mang dấu vết lãng mạn của những thời xa xưa; nó hài hòa với vẻ khiêm nhường của một khu phố xấu xí đi vì dân cư ngày càng đông đúc.
Rốt cuộc, dưới vẻ bề ngoài đổ nát, giữa cảnh xa tươi của cỏ cây, tòa biệt thự nhỏ có cái hấp dẫn riêng của nó, Bỗng nhiên và một cách bản năng, Têrendơ phát hiện ra những sự hài hòa khác. Trong cảnh hoang vắng kéo dài từ những dãy tường phủ đầy dây thường xuân đến những tấm kính xám xịt ở gian nhà xưởng và cho đến cả cây tiêu huyền nghiêng nghiêng bên trên lớp vỏ cây rơi lả tả trên thản cỏ dại trong sân, đâu đâu nàng cũng tìm thấy tâm hồn của chủ nhân biệt thụ, một tâm hồn chểnh mảng, chẳng được giữ gìn, đầy ưu tư. Nàng vừa hớn hở vừa như thất tim thắt lại trước vẻ thờ ơ của người yêu đối với mọi vật xung quanh chàng. Nàng tìm thấy trong đó vẻ duyên dáng và cao sang, nhưng đồng thời cũng thấy một tinh thần thoát tục trái người với bản tính nàng, và hoàn toàn đối lập với đầu óc vụ lời và cẩn trọng của dòng họ Môngtexxuy. Ngay lập tức, nàng có ý nghĩ là tuy không làm thương tổn đến vẻ đẹp êm đềm trầm tĩnh của chốn hoang dã này, nàng vẫn có thể mang tới nơi đây một hoạt động nề nếp, sẽ cho rải cát trên các lối đi và trong góc vườn có chút ánh nắng mặt trời, sẽ trồng những cành hoa tươi thắm. Nàng nhìn với tấm lòng thiện cảm một pho tượng nữ thần Hoa mang từ một công viên đổ nát nào đó về, đặt nằm dưới đất, thân tượng phủ dầy một lớp rêu đen kịt, hai cánh tay gãy nằm bên cạnh. Nàng nằm mơ màng thấy chẳng bao lâu bức tượng sẽ được bàn tay mình dựng lại và đặt trên một cái bệ có khắc chạm tràng hoa mà nàng đã nhìn thấy trong san một cửa hiệu buôn đồ cổ ở đường Viơ-Côlonbiê.
Đơsactrơ chờ nàng đã một tiếng. Vui mừng, nhưng lòng còn hồi hộp và xúc động về niềm hạnh phúc sóng gió của mình, anh bước xuống tam cấp. Trong bóng râm mát của tiền sảnh, hiện lên lờ mờ vẻ rực rỡ nghiêm trang của những pho tượng bằng đồng và thạch cao. Nàng dừng bước bồi hồi, rạo rực.
Anh ôm chặt nàng vào lòng và hôn mãi lên môi nàng. Nàng nghe anh nói, trong lúc tiếng ong ong hai bên thái dương nhắc nhở niềm khoái lạc bất ngờ ngày hôm trước. Nàng nhớ lại hình con sư tử của thận Atlax trên tấm trái chân giường và chậm rãi, khoan khoái, nàng hôn lại người yêu. Anh dắt nàng đi theo một cầu thang bằng gỗ gồ ghề vào phòng lớn xưa kia là phòng làm việc của thân sinh anh và là nơi hiện nay anh vẽ, nặn tượng và đọc sách. Anh thích đọc sách như người ta nghiệm thuốc phiện và mơ màng trên những trang sách đọc dở.
Trên những bức trướng rực rỡ thế kỷ XVI treo tận trên tường nhà có họa tiết, hiện lên lờ mờ, giữa một cánh rừng kỳ diệu, hình một thiếu phụ đội mũ nhọn với một con kỳ lân nằm dưới chân trên thảm cỏ tươi tốt.
Anh đưa nàng tới một chiếc tràng kỷ rộng và thấp, trên để nhiều gối nệm phủtấm vải lộng lẫy của Tây Ba Nha hay Bidăngxơ. Nhưng nàng ngồi vào một chiếc ghế bành.
- Thế là em đã tới! Em đã tới! Có thể đến ngày tận thế được rồi.
- Em cũng đã từng nghĩ tới ngày tận thế. – Nàng đáp – Trước kia e đâu có sợ. Ông Lagrănggiơ để lấy lòng em, cũng đã bảo em thế và em chờ đợi ngày đó. Khi chưa biết anh, em buồn bã biết chừng nào!
Nàng nhìn xung quanh: những mặt bàn để đầy lọ và tượng, những bức trướng, và về số vũ khí, các thứ men sứ, thạch cao, tranh vẽ, sách cổ.
- Anh có nhiều thứ đẹp quá.
- Phân lớn là của bố anh đấy. Ông cụ sống ở thời đại hoàng kim của những người thích sưu tập. Những câu chuyện về kỳ lân mà phần hoàn chỉnh còn lại hiện nằm ở Cluyni 1, ông cụ tìm thấy năm 1851, trong một quán ăn ở Mông-xuya-Xevrơ.
Nhưng nàng thì tò mò và thất vọng:
- Em không thấy có cái gì là của anh cả, không có lấy một pho tượng, một bức chạm nổi, một tấm huy hiệu, một huy chương nào, kể cả những hình người bằng sáp ông rất được ưa thích ở Anh cũng không.
- Em nghĩ là anh thích thú sống giữa các công trình của anh hay sao?… Các bức tượng của anh, anh biết chúng quá rõ.. Chúng làm anh chán ngấy. Cái gì không còn thầm kín nữa thì cũng hết hấp dẫn.
Nàng nhìn anh với vẻ giả vờ giận dữ:
- Thế mà anh chưa hề bảo là em không còn hấp dẫn đối với anh nữa khi em không còn gì thầm kín đối với anh.
Anh ôm ngang lưng nàng.
- A! Mọi cái trong đời sống đều rất bí ẩn. Và đối với anh, em vẫn là một điều bí ẩn mà ý nghĩa thầm kín của nó c đựng những niềm ngọt ngào của cuộc sống và những nỗi kinh hoàng của cái chết, em yêu quý ạ. Em đừng sợ phải hiểu mình. Anh vẫn luôn luôn thèm muốn em và bao giờ cũng vẫn thấy em xa lạ. Có bao giờ người ta có cái người ta yêu mến không? Những nụ hôn, những sự vuốt vẻ, mơn trớn có phải là cái gì khác ngoài sự cố gắng trong nỗi thất vọng ngọt ngào không? Khi anh ôm em trong vòng tay, anh vẫn tìm kiếm em, và không bao giờ anh có em vì bao giờ anh cũng ham muốn em, vì ở em, anh muốn cái bất khả và cái vô tận. Em là gì, có bao giờ anh biết được. Em thấy không, dù có nặn mất bức tượng gớm guốc, anh đâu phải là nhà điêu khắc. Đúng ra anh là một thứ nhà thơ và nhà triết học đi tìm kiếm trong thiên nhiên những nỗi niềm lo âu và khắc khoải. Ý niệm về hình thức không đủ đối với anh. Các bạn đồng nghiệm vẫn chế diễu anh vì anh không sánh kịp họ về sự đơn giản. Họ có lý. Và cái lão Sulet khốn kiếp cũng có lý khi lão muốn người ta sống mà không suy tư và cũng không ham muốn. Ông cụ thợ giày ở Xanta Maria Nôvenla, người bạn của chúng ta, là một bậc thầy về nghệ thuật sống, cụ không hề biết gì về tất cả những gì làm cụ phải chịu đựng bất công và khổ sở. Nhẽ ra anh phải yêu em một cách chất phác, không có cái lối siêu hình học đối với tình dục, nó khiến anh xử sự tàn bạo và phi lý. Không biết và lãng quên là tốt. Em lại đây, lại đây; trong những nỗi giày vò vì xa vắng, anh đã nghĩ tới em một cách quá đau đớn: em ở lại đây, em yêu quý! Anh phải quên chính bản thân em ở ngay con người em. Chỉ có ở con người em anh mới có thể quên em và quên cả bản thân anh.
Anh ôm nàng vào lòng và nâng khăng choàng mặt lên, hôn môi nàng.
Có phần hoảng sợ trong căn phòng thênh thanh lạ lẫm này và như thế bối rối trước cái nhìn của những đồ vật không quen thuộc nàng kéo tấm mạng đen lên tận cằm.
- Ở đây sao? Anh không có ý nghĩ ấy chứ!
Anh bảo nàng là chỉ có một mình họ.
- Một mình? Thế người đàn ông có bộ râu mép gớm ghiếc lúc nãy mở cửa cho em?
Anh mỉm cười.
- Đấy là Phuydơliê, gia nhân ngày trước của bố anh. Phục dịch anh chỉ có hai vợ chồng ông lão. Em yên tâm. Họ ở trong nhà gác cổng và là những người trung thành, cảnh giác. Em sẽ gặp bà lão Phuydơliê, bà ấy là người dễ thân tình, anh nói trước em
- Vì sao là người Thụy Sĩ và làm đầu bếp, ông Phuydơliê lại để ria tách ra thế anh?
- Tạo hóa cho ông lão đấy, em ạ, và anh sẵn sàng cho phép ông lão cứ để nguyên như vậy. Anh bằng lòng để người đàn ông có dáng dấp một tay cựu thượng sĩ làm người trông nom vườn ươm, và do vậy gây cho anh cái áo giác ông ta là người láng giềng của anh nơi thôn dã.
Ngồi ở góc tràng kỷ, anh đặt nàng ngồi lên đầu gối hôn nàng và được nàng hôn trả.
Nàng đột ngột đứng dậy:
- Anh cho em xem những căn phòng khác. Em tò mò, em muốn nhìn thất hết tất cả.
Anh đưa nàng lên tầng ba. Những bức thủy mạc của Philip Đơsactrơ treo đầy trên tường hành lang. Anh mở cửa đưa nàng vào một căn buồng với bàn ghế, đồ đạc bằng gỗ trắc.
Đấy là căn phòng của mẹ anh. Anh giữ căn phòng y nguyên, trong quá khứ mới mẻ của nó, cái quá khứ duy nhất làm anh buồn và xúc động thực sự. Không có người ở cách đây đã chín năm nhưng căn phòng vẫn chưa có vẻ cô tịch. Chiếc tủ gương vẫn như đón chờ ánh mắt của nữ chủ nhân và, trên một chiếc đồng hồ bằng mã não, bức tượng Xaphô 2. đứng trầm ngâm, vẻ rầu rĩ vì không còn nghe tiếng chuông đồng hồ.
Trên đường có hai bức chân dung. Một tác phẩm của Rica 3, là chân dung Philip Đơsactrơ, xanh xao, mái tóc rối bù, ánh mắt chìm đắm, vẻ mơ màng một cách lãng mạn, miệng biểu lộ sự hùng biện và nhân ái. Bức thứ hai, tác phẩm của một họa sĩ điềm tĩnh hơn, vẽ một phu nhân luống tuổi, khá đẹp, gầy nhưng vẻ sôi nổi: chân dùng bà Philip Đơsactrơ.
- Căn buồng này của bà mẹ tội nghiệm của anh! - Giăc nói - cũng giống như anh.
Têrendơ sự nhớ lại:
- Anh giống mẹ lắm. Anh có cặp mắt của mẹ. Pôn Venx bảo em là cụ quý anh lắm.
- Đúng, - anh mỉm cười và đáp. - mẹ anh tốt lắm, thông minh, tinh tế và phi lý một cách tuyệt diệu. Bà yêu con đến điên dại và không để cho anh một phút nghỉ ngơi; bà tự giày vò mình và giày vò anh.
Têrendơ nhìn một bức tượng đồng hun của Cacpô 4. đặt trên mặt tủ.
- Em có thể nhận ra Hoàng thái tử - Đơsactrơ nói - ở đôi tai như hai cái cánh của thần Tây phong, chúng làm cho bộ mặt lạnh lùng của ông ta hơi vui lên một chút. Bức tượng ấy là quà tặng của Napôlêông III. Lúc đó, bố mẹ anh đi Côngpienhơ. Trong lúc triều đình đến nghỉ ở Phôngtenơblô, ông cụ nghiên cứu sơ đồ toàn lâu đài và thiết kế phòng triển lãm. Sáng sáng, Hoàng đế mặc rơđingôt, miệng ngậm pip bọt biển, giống như một con chim cánh cụt trên đảo đến đứng bên cạnh ông cụ. Vào thời kỳ này, anh là sinh viên ngoại trú trường Bônapaclơ. Anh nghe ông cụ kể lại những câu chuyện đó ở bàn ăn và cứ nhớ mãi. Hoàng đế đứng bên cạnh bố anh, trầm tĩnh và dịu dàng, thỉnh thoảng thốt ra vài lời ồm ồm sau bộ ria mép rậm rạp; rồi hang dần lên và giảng giải những ý nghĩ của mình về máy móc. Ông ta vốn là thợ máy và nhà sáng chế. Ông rút túi ra một cây bút chì và gạch ngang gạch dọc những hình vẽ chứng minh lên trên bản vẽ của bố anh. Ông cụ chán ngán, thất vọng. Cứ thế, mỗi tuần Hoàng đế làm hỏng của ông cụ hai ba công trình nghiên cứu. Ông ta rất quý bố anh và hứa với ông cụ công trình này, danh vọng nọ, nhưng chẳng bao giờ thực hiện cả. Hoàng đế là người tốt bụng nhưng không có uy tín – như mẹ anh vẫn bảo. Thời kỳ đó, anh còn là một thằng nhóc. Từ đó, anh có một cảm tình mơ hồ, đối với con người tuy không có tài, nhưng có tấm lòng yêu thương ấy. Trong những bước thăng trầm lớn của cuộc đời, ông tỏ ra có một lòng dũng cảm tự nhiên và một thái độ phó mặc cho định mệnh một cách hiền dịu… Vả chăng, điều khiến anh có cảm tình là ông ta bị đả kích, bị nguyền rủ bởi những kẻ muốn giành giật vị trí của ông mà thậm chí trong thâm tâm không có được tình yêu nhân dân như ông. Từ đó, họ lên cầm quyền. Trời đất! Họ xấu xa biết bao! Như thượng nghị sĩ Loayê chẳng hạn, kẻ vẫn cuỗm xì gà ở phòng hút thuốc nhà em cho vào túi và bảo anh cũng làm như vậy. “Để hút dọc đường” - hắn bảo anh. Lão Loayê ấy là một kẻ tàn bạo, cay nghiệt đối với những con người bất hạnh, người yếu đuối, người hẹn mọn. Còn Garanh nữa, em không thấy hắn là một kẻ khả ố hay sao? Hôm anh lần đầu tiên ở nhà em, khách khứa nói chuyện về Napôlêông, em còn nhớ chứ? Khi búi lại sau ót và cài một chiếc trâm kim cương, mái tóc em xoắn lại, vẻ vừa dữ dội, vừa rất đáng yêu, Pôn Veux nói những lời rất tinh tế, Garanh không hiểu nổi. Và em hỏi ý kiến anh.
- Em hỏi là để làm anh nổi bật lên. Lúc ấy, em đã quý anh rồi.
- Ồ! Nhẽ ra anh không thể nói năng gì trước những con người tài trí như vậy. Thế nhưng anh muốn nói là anh thích Napôlêông III hơn Napôlêông đệ nhất, vì lẽ ông ấy ít bị xáo động hơn; nhưng ý tưởng ấy có thể gây một ảnh hưởng xấu. Hơn nữa, không phải anh không có chút tài năng nào để lưu tâm đến chính trị.
Anh bước lui bước tới trong phòng, nhìn ngắm đồ đạc với một vẻ âu yếm thân thiết. Anh mở một ngăn kéo bàn.
- Em xem, đây là cặp kính của mẹ. Có nhiều lúc mẹ tìm kính hoài! Bây giờ, anh đưa em đến xem phòng anh. Nếu nó không được ngăn nắp thì em cũng bỏ qua cho bà Phuydơliê vì anh tập cho bà ấy tôn trọng tình trạng mất trật tự của anh.
Giăc để nguyên riđô rủ xuống cửa sổ. Một tiếng sau, tự nàng vén các bức màn xa tanh đỏ lên, những tia sáng tràn ngập trên mái tóc sổ tung làm nàng lóa mắt. Nàng tìm một tấm gương đứng và chỉ thấy một chiếc gương soi kiểu Vơnidơ đã mờ, khung gương rộng màu đen. Nhón chân lên soi gương, nàng tự hỏi:
- Cái bóng ma ảm đạm và xa lạ kia, phải chăng chính là em? Chắc hẳn mọi người đàn bà khác cũng đã soi mình trong gương này như em. Biến những người đàn bà anh chiếm đoạt thành những bóng ma, anh quả là một tay phù thủy khủng khiếp!
Nàng bỗng kinh hãi đột ngột:
- Lạy Chúa! Ông bà Phuydơliê sẽ nghĩ về em ra sao?
Rồi, tìm thấy trên tường một chiếc tượng nhỏ nặng nghiêng hình, một cô gái có vẻ lố bịch, lẳng lơ.
- Cái gì thế này?
- Clara, cô gái bán báo ở phố Đơmua đấy. Sáng cô bé cũng mang tờ Phigarô tới cho anh. Má cô ta lúm đồng tiền, những chỗ sẵn sàng đón nhật những cái hôn ấy. Một hôm, anh bảo cô ta: “đê tôi nặn chân dung cho cô”. Thế là một sáng mùa hè, cô bé đến với đôi bông tai và những chiếc nhẫn mua trong ngày hội Nơii. Sau đó, không thấy cô ta trở lại nữa. Anh không rõ cô ta như thế nào rồi. Cô bé tính tình quả bột phát, không thể là một cô gái lẳng lơ đáng gờm đâu. Em muốn anh cất tượng đi chứ?
- Không, để cô ta ở cái góc nhà này là rất tốt. Em không ghen với Clara đâu.
Đã đến lúc phải về nhưng nàng vẫn chưa định ra đi. Nàng quàng hai tay lên cổ người yêu:
- Ồ! Em yêu anh! Và hôm nay, anh lại vui vẻ, tươi cười. Vẻ vui tươi thật hợp với anh! Nó vừa tinh tế vừa nhẹ nhõm. Em muốn làm cho anh vui. Em cần niềm vui, hầu như ngang bằng với tình yêu. Và ai đem lại cho em niềm vui, nếu không phải là anh?
Chú thích:

1.

Viện bảo tàng nghệ thuật nổi tiếng ở Pari

2.

Nữ sĩ Hy Lạp đầu thế kỷ 6 trước CN.

3.

Họa sĩ Pháp thế kỷ 19

4.

Nhà điêu khắc Pháp, thế kỷ 18

XXVII. Đã sáu tuần nay, từ khi trở về Pari, Têredơ sống trong cảnh nửa hư nửa thực, lòng tràn trề hạnh phúc, trong một giấc mộng tưởng chừng vô tận. Ngày ngày nàng gặp lại Giăc rong ngôi nhà nhỏ núp dưới rặng tiêu huyền; và buổi tối, khi chia tay, trong lòng nàng vẫn ấp ủ những kỷ niệm hết sức trìu mến. Cái cảm giác mỏi mệt khoan khoái và những ham muốn mới mẻ tạo nên một chuỗi liên kết những giờ phút ân ái lại với nhau. Chàng và nàng có những sở thích như nhau, cùng thả mình cho những sự phóng túng giống nhau. Họ vui thú dạo chơi, khi thì ở vùng nông thôn cô tịch và tươi đẹp xung quanh thành phố, khi thì trên đường phố lớn có những quán rượu quét vơi màu đỏ sẫm nấp dưới bóng những rặng keo, khi thì trên những con đường nhỏ lởm chởm đá sỏi với những cây tầm ma mọc dưới chân tường, và có cũng có khi trong những khu rừng nhỏ và những cánh đồng dưới bầu trời mịn như nhung với những cột khói rạch ngang rạch dọc bên cạnh, ở những chốn mà chính nàng cũng không tự nhận ra bản thân mình nữa, mà tưởng như cùng người yêu lạc lối đâu đây.
Hôm ấy, họ bỗng nảy ra ý nghĩ nghịch ngợm là rong ru trên con thuyền mà nàng vẫn thường thấy qua lại ngoài cửa sổ. Nàng không sợ bị lộ. Không có gì phải lo ngại nhiều và từ khi yêu, nàng không còn giữ gìn, thận trọng na. Họ nhìn thấy đôi bờ mỗi lúc một thêm tươi đẹp thoát ra khỏi sự cằn cỗi bụi bặm của chốn ngoại ô, họ đi dọc những hòn đảo có những lùm cây rủ bóng xuống những quán rượu và vô số ca nô buộc dưới rặng liễu. Thuyền cập bến ở Hạ – Mơđông, nàng nóng và khát. Anh bèn đưa nàng qua cửa nách vào một quán rượu với những buồng cho thuê có đồ đạc. Một ngôi nhà gạch với nhiều lan can bằng gỗ, vì vắng vẻ nên đã rộng càng có vẻ thênh thang, nằm im ắng trong cảnh thanh bình thôn dã chờ đợi ngày chủ nhật với tiếng cười rộn ràng của các cô gái, tiếng la hét của những anh chàng chèo thuyền, mùi vị các món xào nấu.
Họ bước lên tầng hai. Thang gác làm theo kiểu thang áp vào tường, kêu cọt kẹt. Một cô hầu gái mang vang và bánh quy lên. Chiếc giường gỗ huê đào trải đra dạ. trên mặt lò sưởi đặt trong góc phòng, treo nghiêng một chiếc gương soi bầu dục, khung xương vẽ hoa. Qua ô cửa sổ để mở, hiện ra dòng sông Xen với đôi bờ trồng cây xanh, và xa xa những ngọn đồi tắm mình trong bầu không khí ấm áp khi mặt trời gần đụng tới ngọn rặng liễu. Trên bờ sông, từng đàn ruồi nhặng bay vo ve. Cảnh trời, đất, nước chìm ngập trong bầu không thanh bình nhưng xao động của chiều hè.
Têredơ mải nhìn dòng sông cuồn cuộn. Con thuyền lướt nhanh, chân vịt phía sau rạch mặt nước; xoáy nước vỗ vào bờ khiến ngôi nhà chênh vênh trên sông đi đưa tựa một con tàu.
- Em yêu sông nước. – Têredơ quay lại nói với người yêu - Lạy Chúa, hạnh phúc biết chừng nào.
Hai cặp môi gặp nhau.
Chìm đắm trong giấc mơ ái ân thần tiên nhưng ảo não, họ chỉ còn biết thời gian qua tiếng sóng vỗ nhẹ nhàng mười phút một vào bờ sông ngoài cửa sổ hé mở, khi con tàu đi qua.
Nàng chống tay lên giường, nhìn đống áo quần trút vội ngổn ngang trên sàn nhà và ngắm trong tấm gương thân hình trần truồng tươi mát của mình. Đáp lại những lời khen ngợi mơn trớn của người yêu nàng nói:
- Quả là em sinh ra để yêu đương.
Biết rõ sức mạnh chinh phục của mình, nàng ngắm nhìn thân mình trong gương. Lu sáng đỏ tươi làm rực rỡ thêm màu hồng trên má, trên môi, trên ngực nàng.
- Em yêu em vì anh yêu em.
Dĩ nhiên, anh yêu nàng, và anh không sao giải thích cho cho chính bản thân mình được tại sao anh yêu nàng với một lòng thành kính say mê, với một thứ cuồng nhiệt thiêng liêng đến thế. Không phải vì nhan sắc của nàng mặc dù là một nhan sắc rất hiếm thấy, vô cùng quý giá. Nàng có đường nét, nhưng đường nét của nàng uốn theo cử chỉ và không ngừng trốn thoát; nó mất đi rồi lại xuất hiện, khiến cặp mắt thẩm mỹ của anh vui đấy rồi lại thất vọng đấy. Đường nét đẹp là tia chớp làm nhức mắt một cách kỳ thú. Người ta ca ngợi nó và làm người ta kinh ngạc. Cái khiến người ta yêu và ham muốn chính là cái sức mạnh vừa êm đềm vừa dữ dội, có uy lực lớn hơn nhan sắc. Trong hàng nghìn phụ nữ, người ta tìm thấy một người mà một khi đã chiếm đoạt được thì người ta không muốn rời xa nữa, người ta cứ ham muốn nữa, ham muốn mãi. Chính hương vị của da thịt nàng mang lại nỗi đau yêu thương không sao chữa khỏi. Và còn điều khác nữa không thể nói ra được, nó là linh hồn của hình hài nàng. Nàng là người đàn bà anh không thể xa rời và cũng không thể lừa dối.
Têredơ kêu lên, sung sướng:
- Anh không thể xa em, phải không anh?
Và nàng hỏi anh sao không nặn tượng bán thân của nàng mà anh thấy nàng đẹp.
- Vì sao à? Vì anh là một tay điêu khắc tồi. Và anh biết rõ điều đó, không phải do một đầu óc tồi. Nhưng nếu em vẫn muốn khăng khăng cho anh là một nghệ sĩ lớn thì anh phải nêu những lý do khác nữa. Muốn tạo nên một bức tượng sống động thì phải xem người mẫu như chất liệu xấu xí mà từ đó người ta rút ra cái đẹp, mà người ta ép, người ta nghiền để chiết ra cái tinh túy. Còn em thì trong đường nét, trong hình hài, trong toàn bộ con người em, không hề có một tí gì là không quý giá đối với anh. Giả sử anh nặn tượng bán thân của em thì anh phải quan tâm một cách nô lệ tới những cái vô nghĩa, những cái vô nghĩa đó là tất cả đối với anh bởi lẽ chúng là một chút vô nghĩa của em. Anh sẽ miệt mại vào đó một cách ngu ngốc và sẽ không sao tạo nên được cái toàn thể.
Nàng nhìn anh, có phần kinh ngạc
- Không phải anh nói không có bằng chứng. Anh đã làm một bản vẽ thử bằng bút chì mà anh luôn luôn mang theo trong người.
Vì nàng nhất thiết muốn xem nên anh đưa cho nàng. Một bức vẽ phác rất đơn giản và rất táo bạo trên tờ anbom. Nàng không hề nhận ra mình, và tìm thấy trong đó những nét khô khan, một tâm hồn mình không hề có.
- A! Anh cho em là như thế sao? Em ở trong lòng anh như thế sao?
Anh gập anbom lại.
- Không, chỉ là một nét thăm dò, một sự ghi chép, chỉ có thế thôi. Nhưng anh nghĩ là ghi chép đúng. Có thể, em không tự nhìn thấy em hoàn toàn giống như anh nhìn thấy em. Cũng chỉ là một con người ấy thôi, nhưng có bao nhiêu cặp mắt nhìn thì có bấy nhiêu cách nhìn khác em ạ.
Rồi anh vui vẻ nói thêm:
- Về mặt đó, có thể nói rằng một người đàn bà chưa bao giờ thuộc về hai người đàn ông. Đấy là ý nghĩ của Pôn Venx.
- Em cho đó là ý nghĩ đúng! - Têredơ nói.
Nàng hỏi:
- Mấy giờ rồi anh?
- Đã bảy giờ.
Nàng giục anh ra về. Càng ngàng nàng càng về nhà muộn. Chồng nàng đã nhận xét như vậy. Anh ấy nói: “Bữa ăn tối nào người ta mời, chúng ta cũng là người tới sau cùng, như một định mệnh ấy!” Nhưng ngày nào cũng bận rộn ở lâu đài Buôcbông 1. - nơi Quốc hội tranh luận về ngân sách - và bị thu hút vào công việc của tiểu ban mà anh là thuyết trình viên, chính bản thân anh cũng về muộn; và vì bận công việc Quốc gia, anh không lưu ý tới tình trạng sai giờ giấc của Têredơ
Nàng mỉm cười, nhớ lại buổi tối nàng tới nhà bà Garanh lúc tám rưỡi. Nàng lo làm chồng phẫn nộ. Nhưng hôm ấy là ngày Nghị viện chất vấn gay gắt chính phủ. Cùng với Garanh, Mactanh ở Nghị viện đến chín giờ mới tới. Cả hai không kịp thay quần áo, mặc nguyên vextông ăn tối. Họ đã cứu thoát nội các.
Rồi nàng trở nên mơ màng.
- Khi nào Nghị viện thôi họp thì em không còn cớ gì để ở lại Pari nữa, anh thân yêu ạ. Bố em không hiểu gì hết về tình cảm giữ em lại đây. Còn tám ngày nữa là em phải đi gặp ông cụ ở Đina. Không có anh thì em sẽ ra sao?
Nàng chắp hai tay lại và nhìn anh, ánh mắt âu sầu rất mực âu yếm. Nhưng anh còn buồn bã hơn:
- Têredơ, chính anh phải khắc khoải tự hỏi mình sẽ ra sao khi không có em. Khi em để anh ở lại một mình thì những ý nghĩ đen tối, xót xa đến bao vây anh, giy vò anh.
Nàng hỏi anh những ý nghĩ gì.
Anh đáp.
- Em thân yêu, anh đã nói với em rồi: anh phải quên chính bản thân em ở trong con người em. Khi em đi rồi thì kỷ niệm về em sẽ giày vò anh. Anh phải trá giá cho niềm hạnh phúc em mang lại cho anh.
Chú thích:

1.

Trụ sở Quốc hội Pháp

XXVIII. Mặt biển xanh rờn, rải rác những hòn đá ngầm màu hồng trên mặt. Sóng bạc uể oải vỗ lên lớp cát mịn mạng trên bờ dọc công trình kiến trúc có tầng bậc, hai đầu mái cong vút vàng rực rỡ. Trên mộ Satôbriăng 1. lấp lánh một tia nắng đẹp như ánh nắng mặt trời Hy Lạp. Têredơ ngồi trong căn phòng căng những tấm riđô thêu hình hoa lá, và từ dãy ban công phía trên các rặng cây mía và liễ bách ngoài vườn, có thể phóng mắt nhìn thấy bãi biển, đại dương, các hòn đảo và mũi đất. Sáng nay, nàng đi nhận thư ở bưu điện Xanh-Malô nhưng không dám bóc thư trong chuyến phà đông người. Giờ đây, ngay sau bữa ăn trưa, nàng đóng cửa phòng lại và ở thư đặt lên đầu gối, nàng đọc ngấu nghiến, vội vã thưởng thức niềm vui vụng trộm. Đến hai giờ, nàng sẽ phải đi dạo chơi bằng xe ngựa cùng với cha, chồng, quận chúa Xơniavin, bà Bechhiê Đâyden - vợ ông hạ nghị sĩ - và bà Raymông – vợ ông viện sĩ. Nàng nhận được một lúc hai bức thức. Nàng đọc bức thứ nhất. Thư toát ra hương vị ngọt ngào của tình yêu. Chưa bao giờ Giăc tỏ ra vui vẻ, giản dị, sung sướng và đáng yêu hơn.
Từ khi yêu nàng – anh nói - anh trở nên nhẹ nhõm và phấn chấn tới mức chân như không còn chạm đất nữa. Anh chỉ có một nỗi sợ hãi là nằm mơ khi tỉnh giấc thì trở nên xa lạ đối với nàng. Dĩ nhiên, anh nằm mơ. Và giấc mơ ra sao! Tòa lầu đường Anphiêri, tiệm rượu ở Mơđông, những cái hôn và đôi vai tuyệt mỹ, những lúm đồng tiền trên da thịt, cái cơ thể uyển chuyển, tươi mắt và ngào ngạt như một dòng suối chảy trong hoa lá. Nếu không phải là người ngủ tỉnh táo thì anh phải là người say đang hát ca. May sao anh như không còn lý trí. Nàng vắng mặt nhưng anh luôn nhìn thấy nàng. “Đúng vậy, anh thấy em cạnh anh, thấy hàng mi trên đôi mắt em màu xanh còn ngọt ngào hơn cả màu xanh da trời và hoa lá, thấy đôi môi em có hương vị của một trái cây diệu kỳ, thấy đôi má em lung linh hai lúm đồng tiền; anh thấy em đẹp và kích thích ham muốn nhưng lại xa vời vợi; và khi anh dang tay ra thì am bỏ đi, rồi anh nhìn thấy em ở xa, rất xa, trên bờ biển dằng dặc vàng hoe dưới anh chiều, em mặc áo dài màu hồng và che cây ô nhỏ. Bé bỏng như một cành thạch thảo nở hoa. Ồ, bé bỏng, giống như hôm anh nhìn thấy em từ trên tháp chuông Campanin ở quảng trường Đômơ, tại Phlôrăngx. Và giờ đây, anh nghĩ bụng như anh đã nghĩ hôm đó: “Chỉ cần một cuộn cỏ là đủ che kín nàng hoàn toàn, mình không sao thấy nữa, thế nhưng đối với mình, nàng là một niềm vui vô tận và cũng là nỗi đau vô tận”.
Anh chỉ than vãn về những nỗi day dứt trong cảnh xa vắng. Nhưng xen lẫn vào những lời than vãn lại là cả một niềm vui của một tình yêu hạnh phúc. Anh dọa đùa nàng là sẽ đến gặp nàng bất chợt ở Đina. “Em đừng sợ hãi gì hết. Không ai nhận ra anh đâu. Anh sẽ cải trang thành một anh chàng bán tượng thạch cao. Như thế, đâu phải là dối trá. Mặc blu màu xám và quần vải chéo, mặt và rây cằm trắng xóa bụi, anh sẽ bấm chuông ở ngoài cổng biệt thự Môngtexxuy. Em sẽ nhận ra anh qua những bức tượng xinh xắn để đầy trên phiến gỗ anh đội trên đầu. Têredơ ạ. Tất cả đều là tượng nữ thần Ái tình: nữ thần Ái tình chung thủy, nữ thần ghen tuông, nữ thần âu yếm, nữ thần sôi động; sẽ có nhiều nữ thần Ái tình sôi động đấy em ạ. Và anh sẽ rao bằng cái giọng lanh lảnh của các nghệ sĩ Pidơ hay Phlôrăngx: Tutti gli Amori per la signora Tersina! 2.
Trang cuối thư, giọng nồng nàn nhưng trầm tĩnh, toát ra những tình cảm thiết tha khiến Têredơ nhớ lại những tập kinh nàng đọc lúc nhỏ: “Anh yêu em và yêu tất cả những gì ở em: mặt đất em nhẹ nhàng cất bước trên đó và ngày càng thêm đẹp dưới bước chân em; ánh sáng cho phép anh nhìn thấy em; bầu không khí em hít thở. Anh yêu cây tiêu huyền nghiêng nghiêng trong sân nhà anh bởi lẽ em đã nhìn thấy nó. Đêm nay, anh đi dạo trên đại lộ, nơi anh gặp em một buổi chiều đông. Anh hái một cành hoàng dương mà em đã nhìn ngắm. Trong phố phường ở đây nơi em không có mặt, anh chỉ thấy có em”. Cuối thư, anh bảo anh sắp đi ăn trưa ngoài phố. Bà Phuydơliê ngày hôm qua về quê ở Nơve nên anh không ăn ở nhà. Anh sẽ đến một quán ăn quen thuộc ở phố Hoàng gia. Ở đấy, ngồi giữa đám đông, nhưng anh sẽ cảm thấy chỉ ngồi một mình với nàng.
Đên mê vì những sự mơn trớn vô hình, Têredơ lim dim mắt và ngả đầu lên trên tựa ghế bành. Nghe tiếng xe ngựa trước tam cấp, nàng sực tỉnh và bốc bức thư thứ hai. Vừa nhìn thấy chữ viết trong thư xấu đi, các dòng chữ viết hối hả và nghiêng ngả, dáng chữ buồn bã và dữ dội, nàng đâm bối rối.
Những dòng thư đầu, ý tứ không rõ ràng để lộ một nỗi lo âu đột ngột và những sự ngờ vực âm thầm: “Têredơ, Têredơ, vì sao em lại hiến mình khi em không hiến mình trọn vẹn? Em lừa dối anh để làm gì khi giờ đây anh đã biết điều anh không muốn biết?”
Nàng ngừng đọc, hai mắt rơm rớm. Nàng nghĩ:
“Vừa nãy, chúng ta hạnh phúc xiết bao! Lạy Chúa, việc gì đã xảy ra? Và mình hoan hỉ về niềm vui của anh khi nó không còn nữa! Thà anh đừng viết vì thư chỉ bộc lộ những tình cảm đã tiêu tan, những ý tưởng đã xóa nhòa”.
Nàng đọc tiếp. Và thấy mỗi lúc anh càng bị lòng ghen tuông giày vò, nàng đâm chán nản.
“Nếu đến nay ta không chứng tỏ được với chàng là ta vô cùng yêu chàng, yêu chàng hết mình, thì bao giờ có thể làm chàng tin được như vậy?”
Và nàng vội vã tìm hiểu do đâu chàng có thái độ điên cuồng đột ngột ấy. Giăc nói cho nàng
Trong một bữa ăn trưa ở một quán ăn phố Hoàng gia, anh gặp một người bạn cũ. Người bạn này, vừa đi điều dưỡng ở suối nước nóng về và trên đường ra biển, ghé qua Pari. Hai người nói chuyện và tình cờ anh bạn, một người quen biết nhiều với giới thượng lưu, nói về nữ bá tước Mactanh mà anh có biết. Và ngay lập tức, cắt ngang câu chuyện, không kể tiếp, Giăc vội vã viết:
“Têredơ, Têredơ, cô nói dối tôi làm gì vì trước sau tôi cũng biết cái điều mà chỉ một mình tôi không biết? Nhưng sai lầm là do tôi hơn do cô. Giá tôi không khăng khăng bám giữ ảo ảnh của mình mặc dù sự thật hiển nhiên thì bức thư cô bỏ ở thùng thư Ô Xan Misen và nhiều buổi hò hẹn của cô ở sân ga Phlôrăngx đã cảnh tỉnh tôi rồi. Tôi không muốn, không, tôi không muốn biết là cô đã thuộc về một người khác trong khi cô hiến thân cho tôi với vẻ duyên dáng táo bạo đến thế, với niềm khoái lạc tràn đầy khiến tôi chết mê chết mệt đến thế. Tôi không biết, tôi không muốn biết. Tôi không hỏi thêm cô gì hết vì sợ cô không còn dám nói dối thêm; tôi dè dặt; thế rồi, bỗng nhiên, một cách tàn bạo, trước một chiếc bàn tiệm ăn, một đứa khốn kiếp làm tôi mở mắt, buộc tôi phải biết. Ôi! Giờ đây khi tôi đã biết, giờ đây, khi tôi không còn nghi ngờ được nữa, thì tôi thấy đối với tôi, nghi ngờ là hạnh phúc xiết bao! Hắn đã nói lên cái tên, cái tên tôi đã từng nghe ở Phidơn, từ miệng cô Ben, và hắn nói thêm: “Chuyện đó ai mà chẳng biết”.
“Thế là cô yêu hắn, cô vẫn còn yêu hắn! Và trong khi một mình trong buồng, tôi cắn vào chiếc gối cô đã từng gối đầu thì có lẽ lúc đó hắn đang ở cạnh cô. Chắc hẳn hắn ở cạnh cô. Năm nào hắn cũng đến đua ngựa ở Đina. Người ta bảo tôi như vậy. Tôi thấy điều đó. Tôi thấy hết tất cả. Nếu cô biết những hình ảnh ám ảnh tôi thì cô sẽ nói: “Anh ấy điên!” và cô sẽ thương xót tôi. Ôi! Tôi muốn quên, quên cô và quên hết tất cả biết chừng nào! Nhưng không sao quên được! Cô biết đấy, tôi chỉ có thể quên cô ở chính bản thân cô thôi. Tôi luôn luôn thấy cô cùng với hắn. Thật là một nỗi giày vò. Trước kia, tôi tưởng là mình đau khổ, cô biết đấy, trên bờ sông Acnô. Nhưng lúc ấy thậm chí, tôi không biết thế nào là đau khổ”.
Đọc xong thư, Têrêdơ suy nghĩ: “Một lời nói ngẫu nhiên đã đưa anh vào tình trạng ấy, ném anh vào tuyệt vọng và điên cuồng”. Nàng tìm xem kẻ khốn nạn nào đã nói về mình như thế. Nàng nghi ngờ hai ba gã trai trẻ mà trước kia Lơ Mênin có giới thiệu với nàng trong lúc bảo nàng phải đề phòng chúng. Và bỗng nhiên sôi lên một cơn giận dữ lạnh lùng vốn thừa kế của cha, nàng nghĩ bụng: “Ta sẽ biết thôi!”. Trong lúc chờ đợi, biết làm gì? Người yêu đang tuyệt vọng, điêni, đau đớn, nàng không thể đến gặp, vỗ về và lăn xả vào lòng anh, phó mặc cả thể xác tâm hồn cho anh để anh cảm thấy nàng thuộc về anh trọn vẹn và anh buộc phải tin nàng. Viết thư thôi! Giá đến gặp anh, im lặng sà vào lòng anh và sau đó nói với anh: “Anh có còn dám tin là em không toàn toàn thuộc về một mình anh nữa không?” thì hơn. Nhưng nàng chỉ có thể viết thư. Nàng vừa bắt đầu viết thì bỗng nghe tiếng cười nói xôn xao ngoài vườn. Quận chúa Xơniavin đã bám vào bậc thang xe ngựa.
Têredơ bước xuống lầu và đứng trên tam cấp, điềm tĩnh tươi cười dưới chiếc mũ rơm rộng vành kết hoa mỹ nhân, lóng lánh đôi mắt màu hạt dẻ.
- Lạy Chúa, nàng đẹp biết chừng nào! - Quận chúa Xơniavin thốt lên - Và thật đáng tiếc là chẳng bao giờ thấy mặt nàng! Từ sáng sớm, nàng đã đi qua phà và nhảy nhót trên các nẻo đường Xanh Malô; buổi chiều, nàng đóng kín cửa phòng. Nàng trốn tráng bọn mình.
Xe ngựa quành qua bãi cát rộng dưới chân các biệt thự và vườn hoa bậc thang trên sườn đồi. Bên trái, thành lũy và tháp chuông Xanh Malô như nhô lên khỏi mặt biển xanh rờn. Xe đi vào một con đường có hàng cây xanh; trên đường phụ nữ Đina không ngớt quay lại, người ưỡn thẳng, đầu đội mũ vải lanh rộng vành, dải mũ bay phấp phới.
- Cách trang phục ngày xưa không còn nữa! - Bà Raymông ngồi hàng ghế trên bỗng cất tiếng - Thật đáng tiếc! Lỗi tại ngành đường sắt đấy!
- Đúng thế - Môngtexxuy tiếp lời - Nếu không có đường sắt thì nông dân vẫn ăn bận những bộ quần áo đẹp mắt ngày trước. Nhưng nếu không có đường sắt thì chúng ta cũng không được thấy họ.
- Chẳng sao! - Bà Raymông đáp - Chúng ta sẽ nhìn thấy họ trong tưởng tượng.
- Thế nhưng thỉnh thoảng bà có trông thấy những điều thú vị không? - Quận chúa Xơniavin hỏi - Tôi thì chưa bao giờ.
Là người chịu chút ảnh hưởng triết học qua sách vở của chồng, bà Raymông tuyên bố sự vật chẳng là gì hết, còn tư tưởng là tất cả.
Không nhìn bà Bechhiê Đâyden ngồi bên phải trên dãy ghế thứ hai, nữ bá tước Mactanh thầm thì
- Ồ! Đúng thế, người ta chỉ biết, chỉ khăng khăng đeo đuổi tư tưởng của mình. Họ bước đi như mù, như điếc. Không sao ngăn họ lại được.
- Nhưng cô xem, - bá tước Mactanh ngồi dãy ghế trước, bên cạnh quận chú nói - không có tư tưởng chủ đạo thì người ta sẽ mò mẫm thôi… Ông Môngtexxuy, ông đã đọc bài diễn văn của Loayê trong buổi khánh thành tượng đài Cadê-Gaxxicua chưa? Phần đầu thật xuất sắc. Loayê không thiếu nhãn quan chính trị đâu.
Xe ngựa vượt qua những đồng cỏ hai bên trồng liễu, leo lên dốc và đi vào một vùng đồi rộng, um tùm. Xe chạy một hồi lâu dọc tường một công viên. Con đường chạy tít tắp dưới bóng râm ẩm ướt của dãy tường.
- Lâu đài Ghêric đấy phải không? – Quận chúa Xơniavin hỏi.
Bỗng nhiên, giữa hai trụ đá trên có tượng sư tử, hiện ra sừng sững tấm cửa sắt đóng kín, phía trên có vành hoa bốn cánh cũng bằng sắt. Qua chấn song sắt, khách nhìn thấy ở cuối một lối đi sâu hun hút trồng điền ma, những viên đá xám của tòa lâu đài.
- Đúng - Môngtexxuy đáp - Lâu đài Ghêric đấy!
Và ông quay sang nói với Têredơ:
- Con đã từng biết rõ hầu tước Đơ Rê… Ở tuổi sáu nhăm, ông ấy vẫn trẻ, khỏe. Ông là người đề xướng thời thượng, quyết định thời trang và được yêu mến. Thanh niên bắt chước lễ phục, kính một mắt của ông, cả cử chỉ, vẻ xấc xược tao nhã và những thói kỳ cục dễ thương của ông nữa. Bỗng nhiên, ông đoạn tuyệt với mọi người, đóng cửa lâu đài, bán hết đàn ngựa và không thấy xuất đầu lộ diện nữa. Con còn nhớ việc ông ta đột ngột rút lui chứ, Têredơ? Lúc đó, con vừa lấy chồng được ít lâu. Ông ta thường tới thăm con. Một hôm, cha nghe tin ông rồi Pari và về vùng Ghêric này vào chính giữa mùa đông. Cha tìm hiểu lý do việc rút lui đột ngột này và nghĩ rằng ông ta xa lánh mọi người vì phiền muộn, vì nỗi tủi nhục lần đầu tiên bị thất bại và vi lo sợ người ta chứng kiến sự già nua của mình. Già nua, đó là điều ông ta kinh hãi hơn hết. Chứng cớ là đã sáu năm nay, từ khi về sống ẩn dật, ông ta chưa bao giờ ra khỏi lâu đài và trang viên, dù chỉ một lần. Ở Ghêric, ông chỉ đón tiếp hau, ba ông già, bạn thân từ tuổi thiếu thời. Cánh cửa sắt kia chỉ mở ra đó. Từ khi về ẩn dật, người ta chưa hề thấy và cũng sẽ không bao giờ thấy ông ta. Trước kia quyết tâm xuất đầu lộ diện thế nào thì nay ông cũng quyết tâm sống ẩn dật thế ấy. Ông không muốn người ta dòm dỏ sự tàn tạ của mình. Ông đang sống nhưng xem như mình đã chết. Chúng ta không thấy như thế là có gì đáng kinh thị.
Têredơ bỗng nhớ lại ông già dễ thương đã từng muốn chinh phục nàng để kết thúc quãng đời phong tình của mình.
Nàng quay nhìn tòa lâu đài Ghêric với bốn bức thành hình chóp sừng sững vượt lên trên những cây sồi xám xịt.
Sau buổi đi dạo về, nàng kêu đau đầu và không ăn tối. Đóng cửa phòng, nàng lấy từ hộp đựng tư trang ra bức thư làm nàng não lòng. Nàng đọc trang thư cuối cùng.
“Cái ý nghĩ cô thuộc về một kẻ khác đốt cháy, giày vò tâm can tôi. Vả lại, tôi không muốn kẻ đó là hắn!”
Một ý nghĩ khăng khăng! Trên cùng một trang thư, anh viết ba lần: “Tôi không muốn kẻ đó là hắn!”
Và nàng cũng chỉ có một ý nghĩ: không để mất anh. Để khỏi mất anh, nàng có thể nói, có thể làm bất cứ điều gì. Nàng ngồi vào bàn, và trong lòng dâng lên cuồn cuộn một tình cảm vừa âu yếm, vừa chua xót, nàng viết thư. Trong thư nàng nhắc đi nhắc lại như lời than vãn: “Em yêu anh, em yêu anh, bao giờ em cũng chỉ yêu có một mình anh. Anh là người duy nhất, duy nhất, anh biết không? Trong lòng em, trong toàn bộ cuộc đời em. Anh đừng nghe một đứa khốn nạn. Anh hãy nghe em. Em chưa bao giờ yêu ai, em xin thề với anh, chưa bao giờ yêu ai trước khi yêu anh”. Trong lúc nàng viết, tiếng thở dài mênh mang của biển cả hòa lẫn vào tiếng thở dài từ trái tim nàng. Nàng muốn, nàng tưởng như mình nói những lời nói chân thật; và tất cả những lời nàng nói đều chân thật, sự chân thật trong tình yêu của nàng. Nàng nghe tiếng chân bước chắc nịch của bố trên cầu thang. Nàng giấu thư đi và ra mở cửa. Rất đỗi âu yếm, Môngtexxuy hỏi nàng đã khỏi chưa.
- Bố đến chúc con ngủ ngon, và hỏi con mợt điều. Có thể ngày mai bố sẽ gặp Lơ Mênin ở trường đua ngựa. Năm nào ông ta cũng đến, ông ta là con người không từ bỏ thói quan. Nếu gặp, bố mời ông ta về đây nghỉ mấy hôm thì con có thấy gì phiền không, con gái yêu của bố? Chồng con cho rằng Lơ Mênin sẽ làm con vui lòng. Chúng ta có thể dành cho ông ta căn buồng quét vôi xanh.
- Tùy ý bố. Nhưng con muốn bố dành buồn đó cho Pôn Venx. Ông ta rất muốn tới đấy. Và cũng có thể Sulet sẽ tới, tuy không báo trước. Thói quen của ông ta như thế mà. Chúng ta có thể thấy ông ta đến bấm chuông ngoài cửa, một buổi sáng nào đó, như một kẻ nghèo đói. Bố biết đấy, nhà con đã nhầm khi nghĩ rằng Lơ Mênin làm con vui lòng. Vả chăng, tuần sau, con phải đi Pari vài ba ngày.
Chú thích:

1.

Nhà văn lớn của Pháp (1798 - 1848)

2.

Tiếng Italia: Tất cả các tượng thần Ái tình cho bà Têredơ đấy!

XXIX. Hai mươi bốn tiếng sau khi viết thứ, Têredơ từ Đina đi đến ngôi nhà nhỏ trên đại lộ Lê Tecnơ. Không khó khăn gì trong việc nàng viện cớ để đi Pari. Nàng cùng đi với chồng: anh muốn gặp các cử tri tỉnh Exne vì họ bị các đảng viên xã hội kích động. Buổi sáng, nàng đột ngột đến xưởng làm việc của Giăc trong lúc anh nặn tượng một mỹ nhân nổi tiếng ở Phlôrăngx đang than khóc niềm vinh quang thuở trước của mình trên bờ sống Acnô.
Người mẫu, một cô gái mảnh mai, tóc hung sẫm, vẫn đứng nguyên trên một chiếc ghế đẩu cao. Ánh sáng trần trụi từ tấm kính phía trên chiếu xuống tấm thân trần truồng, làm nổi lên những đường nét đẹp, nhưng cũng không che giấu những sắc màu không hài hòa, những khuyết tận trên làn da và chỉ ra những sự thật khắc nghiệt của tạo hóa. Đơsactrơ ngoảnh nhìn khách, ánh mắt vừa vui mừng vừa đau khổ. Đặt con dao tạc tượng lên chiếc ghế nhỏ, phủ lên pho tượng một mảnh vải ướt và nhúng hai tay dính đất sét vào một lọ nước, anh bảo người mẫu:
- Hôm nay thế là vừa, cô bé ạ.
Cô ta nhảy xuống sàn nhà, nhặt lấy mớ quần áo và đi ra phía sau bình phong.
Giăc đưa Têredơ ra khỏi xưởng làm việc.
Họ bước đi dưới bóng cây tiêu huyền, nhiều mảnh vỏ cây rơi lả tả trên lớp cát.
Nàng nói:
- Anh không tin em nữa phải không?
Anh đưa nàng vào phòng.
Bức thư nàng viết từ Đina đã làm dịu bớt những cảm giác xót xa. Nàng đến vào lúc anh cần được yên tĩnh và âu yếm sau xiết bao đau khổ. Mấy dòng chữ của nàng làm tâm trí anh bớt nặng nề, một tâm trí chất chứa hình ảnh, ít nhạy cảm với sự vật hơn là với “đường nét” sự vật. Nhưng lòng anh vẫn đượm chút xót xa.
Mọi vật trong căn phòng đều có lợi có nàng: đồ đạc, màn gió, thảm trải nhà, tất cả đều gợi lại ái ân. Nàng thủ thí những lời hết sức dịu dàng: “Anh đã nghĩ là… Thế anh không tự biết mình như thế nào hay sao?… Thật là điên rồ!… Khi biết anh thì làm sao một người đàn bà có thể chấp nhận một người khác sau anh?”
- Thế còn trước đó?
- Trước đó, em chờ đợi anh.
- Và hắn không đến trường đua Đina chứ?
Nàng nghĩ là không; và điều chắc chắn là nàng không tới đấy Ngựa và những người đua ngựa làm nàng bực mình.
- Giăc, anh đừng sợ ai hết, vì anh không thể so sánh với ai cả.
Trái lại, anh biết mình chẳng là gì, và người ta chẳng là cái gì trên cõi đời này, nơi con người đã bị lay động như hạt thóc và trấu trên nia, bị hòa lẫn và tách rời khỏi nhau do tác động của kẻ phàm phu hay đấng thần thánh. Vả lại, khái niệm về kích thước chiếc nia của người nông dân hay chiếc nua huyền bí thể hiện quá chính xác kích thước và thứ bậc, nên không thể áp dụng hoàn toàn đúng đắn cho đời sống. Anh cho con người là hạt trong lòng cối xay cà phê. Hai hôm trước đây, anh có cảm giác ấy rất rõ rệt khi thấy bà Phuydơliê xay cà phê.
Têredơ hỏi anh:
- Vì sao anh không kiêu hãnh?
Nàng chỉ nói thêm vài người, nhưng nàng nói với anh mắt, với hai cánh tay, với nhịp thở làm phập phồng lồng ngực.
Trong sự ngạc nhiên sung sướng được gặp nàng và nghe nàng nói, anh tin tưởng nàng.
Nàng hỏi anh ai nói với anh những lời bỉ ổi vừa qua.
Anh không có lý do gì để giấu nàng và cho nàng biết là Đanien Xalômông.
Nàng không ngạc nhiên. Đanien Xalômông được coi là không thể làm tình nhân một người đàn bà nào, nhưng ít nhất hắn cũng muốn làm thân với tất cả và biết những điều thầm kín của họ. Nàng đoán biết vì sao hắn nói như vậy.
- Giăc, anh chớ giận về những điều em sắp nói với anh. Anh đã không khéo che giấu tình cảm. Hắn nghĩ anh yêu em và hắn muốn biết có chắc chắn như vậy không. Em tin chắc bây giờ hắn đã biết rõ quan hệ giữa chúng ta, nhưng cái đó không hề làm em bận tâm. Ngược lại, giá anh che giấu khéo hơn thì em không yên tâm bằng: em có thể nghĩ là anh không thật yêu em.
Sợ làm anh lo lắng, nàng vội nói sang những chuyện khác.
- Em chưa nói với anh là bức tượng anh đang nặn dở làm em thích thú biết chừng nào. Tượng cũng chính là Phlôrăngx bên bờ sông Acnô đấy thôi. Và cũng chính là chúng ta đấy thôi phải không anh?
- Phải, anh đưa vào tượng nỗi lòng yêu đương của anh. Tượng âu sầu và anh muốn cho tượng đẹp. Em thấy không, Têredơ, cái đẹp bao giờ cũng đau đớn. Bởi vậy, từ khi đời anh trở nên đẹp đẽ thì anh cũng không ngừng đau khổ.
Anh lục túi áo phlanen và rút ra hộp đựng thuốc lá. Nhưng nàng giục anh thay quần áo. Nàng sẽ đưa anh về nhà ăn cơm và suốt ngày hôm ấy họ sẽ không rời nhau. Sẽ êm đềm xiết bao!
Nàng nhìn anh, ánh mắt long lanh một niềm vui thơ ngây. Rồi nàng bỗng âu sầu khi nghĩ cuối tuần sẽ phải trở về Đina, sau đó đi Gioăngvin và trong suốt thời gian ấy, họ phải sống xa nhau.
Ở nhà bố nàng ở Gioăngvin, nàng sẽ bảo ông cụ mời anh đến mấy hôm. Nhưng ở đấy, họ sẽ không được sống với nhau một mình và tự do như ở Pari.
- Quả là - anh nói - Pari thật thuận lợi cho chúng ta trong cái mênh mông mờ ảo của nó.
Và nói thêm:
- Dù không có em, anh cũng không muốn xa Pari nữa. Sống ở những nơi chốn không biết đến em, anh không sao chịu nổi. Một bầu trời, núi non, cây cỏ, giếng nước, tượng đài, tất cả những gì không nói với anh về em đều hoàn toàn vô nghĩa đối với anh.
Trong lúc anh thây quần áo, nàng giở một cuốn sách trên bàn. Cuốn Nghìn lẻ một đêm. Những bức tranh lãng mạn minh họa rải rác trong sách những đại thần, những vương phi, những thái giám người da đen, những chợ búa, những đoàn thương nhân.
Nàng hỏi:
- Nghìn lẻ một đêm làm anh thích thú à?
- Rất thích thú. - Anh vừa đáp vừa thắt ca vát - Có những lúc anh tin là có thật những chàng hoàng tử A Rập mà đôi chân như đã trở thành đá cẩm thạch đen bóng và những nàng cung tần đêm đêm lang thang ở các nghĩa trang. Những truyện cổ ấy mang đến cho anh những giấc mơ ban đêm khiến anh quên cuộc đời. Tối qua, anh đi nằm, lòng hết sức rầy rĩ và anh đọc chuyện ba người hành khuất chột mắt.
Nàng nói, giọng đượm chút xót xa:
- Thế là anh tìm cách quên em rồi, còn em thì dù có đổi lấy bất kỳ cái gì trên đời này, em cũng không bao giờ chịu để mất đi kỷ niệm về nỗi đau buồn anh có thể gây cho em.
Hai người cùng bước ra đường. Lát nữa, nàng sẽ phải đi xe ngựa để về nhà trước anh mấy phú
- Chồng em sẽ chờ anh đến ăn trưa.
Dọc đường, họ nói với nhau về những chuyện không đâu nhưng đối với trái tim yêu thương của họ thì thật quan trọng và thú vị. Họ sẽ thu xếp buổi chiều sao cho có thể tận hưởng những giờ phút em đềm, sâu lắng. Nàng hỏi ý kiến anh về trang phục. Hớn hở cùng anh sánh vai trên những nẻo đường tràn ngập ánh nắng và không khí vui tươi ban trưa, nàng nấn ná không muốn chia tay. Đi tới đại lộ Lê Tecnơ, họ gặp những quán hàng đua nhau trưng bày vô số món ăn: gà vịt treo trước cửa hàng quay thịt, những thùng mận và đào, những giỏ nho, những đống táo trường hàng bàn trái cây. Xe ngựa chở hoa quả đỗ chật lòng đường. Đàn ông, đàn bà ngồi ăn trưa dưới hàng hiên có cửa kính của một quán ăn. Bỗng Têredơ nhận ra Sulet đang ngồi ngậm pip một mình trước một chiếc bàn nhỏ, lung tựa một cây nguyệt quế trồng trong chậu.
Chợt thấy nàng, ông ta hào phóng, bỏ một đồng trăm xu lên mặt bàn, đứng dậy chào, vẻ rất trang trọng. Tấm áo lễ phục dài khiến ông ta có dáng đoan trang, nghiêm khắc.
Sulet bảo rất muốn đến thăm bà Mactanh ở Đina. Nhưng ông phải ở lại Văngđê bên cạnh nữ hầu tước Đơ Riơ. Ông ta vừa cho tái bản tập thơ Vườn kín và bổ sung thêm tập Khu vườn quả Xanhtơ-Clerơ. Ông ta cho là hai tập thơ đã làm rung động những tấm lòng tưởng chừng sắt đá, làm những trái tim cứng rắn cũng phải thổn thức.
- Như thế - ông ta nói - tôi đã như một thứ Môi-dơ 1.
Ông ta lục túi và rút từ ví ra một bức thư nhàu nát, hoen ố.
- Đây là thư của bà viện sĩ Raymông. Tôi công bố lời thư vì chúng mang lại vinh dự cho bà ấy.
Giở những trang giấy mỏng ra, ông đọc:
“Tôi đã đưa sách của ông cho nhà tôi xem. Ông ấy thốt lên: “Đây là thuyết duy linh thuần khiết nhất! Đây là khu vườn kín mà tôi hình dung có một cánh cửa nhỏ mờ về phía những bông hoa huệ và bông hồng trắng trên con đường đến Viện hàn lâm.
Sulet thưởng thức những lời nói ấy và cẩn thận bỏ lại thư vào ví. Miệng ông ta còn thoang thoảng mùi rượu mạnh.
Bà Mactanh chúc mừng nhà thơ được bà Raymông tiến cử.
- Giá tôi phụ trách việc bầu cử ở Viện hàn lâm thì tôi sẽ tiến cử ông, ông Sulet ạ. Nhưng có phải là ông thèm muốn vào Viện hàn lâm không?
Sau giây lát lặng im một cách long trọng, Sulet nói:
- Thưa bà, ngay bây giờ, tôi sẽ đến gặp những nhân vật quan trọng trong giới chính trị và tôn giáo ở Nơiy. Nữ hầu tước Đơ Riơ giục tôi ứng cử trong xứ bà ta, vào một chân thượng nghị sĩ hiện nay còn khuyết sau cái chết của một ông già mà người ta bảo đó là một vị tướng trong suốt cuộc đời vô vọng. Về vấn đề này, tôi sẽ hỏi ý kiến các nhà tu hành, đàn bà, trẻ em - ô! Nguồn trí tuệ vĩnh hằng! - ở đại lộ Binô. Đơn vị tuyển cử, nơi tôi mong thắng phiếu, nằm giữa vùng đất nhấp nhô và cây cối um tùm. Bao quanh các cánh đồng vùng này là những thân liễu bị xén ngọn. Và trong hốc những thân liễu già ấy không hiếm hài cốt những gã lính bảo hoàng siết chặt sung và chuỗi tràng hạt giữa những ngón tay xương xẩu. Tôi sẽ dán tuyên ngôn của mình lên vỏ các cây sồi: “Hòa bình cho giới trưởng lão!” Mong cho đến ngày cầm cây pháp trượng ở tay, các đức giám mục cũng chẳng khác nào người phó mục sư tội nghiệp nhất ở giáo khu tội nghiệp nhất! Chính các giác mục đã đày đọa Chúa Giêsu. Trước kia tên họ là Annơ và Caiphơ 2. Và giờ đây họ vẫn còn giữ những cái tên đó trước Chúa. Và, trong lúc họ đóng Chúa vào thập giá thì tôi là tên trộm tốt bụng cũng bị hành hình với Chúa 3.
Nói xong, Sulet giơ gậy chỉ về phía Nơiy.
- Đơsactrơ thân mến này, đại lộ Binô bụi bặm ở đằng kia, bên phải phải không?
- Tạm biệt ông Sulet. - Têredô nói - Khi trở thành thượng nghị sĩ, ông chớ quên tôi đấy!
- Thưa bà, trong những lời cầu kinh buổi sáng cũng như buổi chiều, tôi sẽ không bao giờ quên bà. Và tôi sẽ tâu lên Thượng đế: “Trong cơn giận dữ, Người đã cho nàng của cải và nhan sắc, cầu mong Người nhìn nàng với lòng độ lượng và đối xử với nàng với đức từ bi cao cả của Người”.
Rồi ông ta bước đi, người thẳng đờ, chân kéo lê trên con đường tấp nập.
Chú thích:

1.

Nhân vật kỳ vĩ trong lịch sử Do Thái.

2.

Hai giáo chủ dính dáng tới việc kết tội Chúa Giêsu (thế kỷ 2)

3.

Thao Kinh thánh, hai tên trộm mt tốt, một xấu bụng, cùng bị đóng đinh lên giá chữ thập với Chúa Giêsu. Tên trộm tốt bụng đã cải giáo trước khi chết.

XXX. Khoác áo choàng dạ màu hồng, Têredơ bước xuống tam cấp cùng với Đơsactrơ. Anh vừa tới Gioăngvin sáng nay. Nàng đưa anh vào nhóm những người bạn thân tình, trước ngày tổ chức những buổi săn thú. Lơ Mênin mà mấy lâu nay nàng không có tin, năm nay cũng có thể được mời tham dự những buổi săn ấy như thường lệ. Điều đó làm nàng lo lắng. Làm gió nhẹ tháng chín khẽ đung đưa mái tóc, và mặt trời chiều tà làm sáng rực cặp mắt màu hạt dẻ sâu thẳm của nàng. Phía sau họ, trên ba cửa tò vò, giữa các ô cửa sổ mặt trước tòa lây đài, những pho tượng bán thân các hoàng đế La Mã được đặt trên các bệ chân quỳ. Phần chính khu nhà nằm giữa hai ngôi lầu cao, và kiểu kiến trúc khác thường của dãy cột theo lối Iôni 1. dưới những mái nhà lớn bằng đá đen cảng làm cho cầu cao thêm. Ở lối kiến trúc này, người ta nhận ra nghệ thuật của kiến trúc sư Lơvơ, người đã từng xây dựng năm 1650 tòa lâu đài Gioăng-vin-xuya-Oađơ cho tay cự phú Marơi, môn hạ của Madaranh 2. và là kẻ đồng lõa gặp may của Phukê, tổng giám đốc tài chính,
Têredơ và Giăc nhìn thấy trước mặt những khu vườn cảnh với những kiểu trang trí theo hình hoa lá của Lơ Notrơ, nhìn thấy thảm cỏ xanh và bể nước, tiếp đến là cái động với năm cửa tò vò mộc mạc và những pho tượng khổng lồ. Xung quanh động là những hàng cây lớn cành lá đã bắt đầu nhuốm màu vàng, màu đỏ và tiết thu.
- Dẫu sao - Đơsactrơ lên tiếng cái màu xanh trải theo lối hình học này cũng đẹp đấy chứ
- Vâng - Têredơ nói - Nhưng em nghĩ tới cây tiêu huyền chênh chếch trong mảnh sân nhỏ cỏ mọc xen giữa các kẽ đá ở nhà anh. Chúng ta sẽ cắm hoa vào đấy, phải không anh?
Đứng dựa vào một con sư tử đá nét mặt tựa như mặt người đặt trên một cái hố đã được lấp đầy, phía dưới tam cấp, nàng quay về phía tòa lâu đài và nhìn ô cửa sổ giống như miệng rồng há rộng trên máu đua:
- Phòng anh ở đấy ở đấy phải không anh? - Nàng hỏi. - Tối hôm qua, em lên đấy. Cùng một tầng gác ấy, phía bên kia, ở tận cuối là phòng làm việc của bố. Một chiếc bàn gỗ thường, một tủ hồ sơ gỗ huê đào, một bình nước trên mặt lò sưởi: chẳng khác phòng làm việc một thanh niên. Tất cả tài sản nhà em đều từ đó mà ra.
Hai người bước trên những lối đi rải cát giữa các bồn hoa, đi tới dãy hoàng dương được cắt tỉa bao bọc khuôn viên về phía nam. Họ đi qua vườn cam mà trên cánh cửa vườn đồ sộ có gắn huy chương Loren của gia đình Marơi và bước vào lối đi trong điền ma dọc theo thảm cỏ xanh. Dưới rặng cây cành lá lưa thưa, những pho tượng nữ thần như run rẩy trong bóng râm ẩm ướt, chốc chốc có những tia sáng nhợt nhạt xuyên qua. Một con bồ câu đang đậu trên vai một pho tượng trắng cất cánh bay đi. Chốc chốc theo làn gió, một chiếc lá khô vàng ruộm rụng xuống, trên đó còn long lanh một giọt mưa. Têredơ chỉ tượng nữ thần và nói:
- Tượng đã nhìn thấy em muốn chết lúc còn nhỏ. Lúc đó, em đau đớn vì ham muốn và vì sợ hãi. Em chờ anh. Nhưng anh xa cách biết chừng nào!
Đến chỗ rẽ có một bể nước lớn thì hết đoạn đường trồng điền ma. Giữa bể nổi lên những tượng thần người cá và thủy thần thổi tù và.
Khi những tia nước phun ra thì bên trên nhóm tượng thần như có một vành vương miệng lung linh và bọt nước nổi lên như những vòng hoa.
- Vương miện Gioăngvin đấy, anh ạ. - Têredơ nói.
Nàng chỉ một lối đi nhỏ từ bể nước chạy ra cánh đồng, phía mặt trời m
- Đây là con đường của em. Em đã nhiều lần đi dạo trên đó, lòng âu sầu! Em âu sầu khi chưa được biết anh.
Họ gặp lại con đường chạy về phía bên kia chỗ rẽ, với những rặng điền ma và tượng nữ thần. Họ đi mãi tới các hang động. Ở cuối khuôn viên là năm cái khám thờ tượng thần theo kiểu non bộ chạy theo hình bán nguyệt, phía trên có những con tiện và đặt những pho tượng khổng lồ. Ở một góc, một pho tượng trần truồng một cách quái dị, cao vượt lên, đứng nhìn xuống phía dưới với ánh mắt vừa dịu dàng vừa man rợ.
- Khi bố em mua vùng đất Gioăngvin thì chỗ hang động này chỉ là một đống gạch vụn đầy cỏ dại và rắn rết. Có đến hàng ngàn con thỏ làm hang ở đây. Ông cụ lập lại các tượng và cửa tò vò theo các bản rập của Peren 3. bảo tồn thư viện Quốc gia. Chính ông tự làm kiến trúc sư.
Lòng ham muốn bóng râm và bí ẩn, họ bước tới một vùng cây cối um tìm bao phủ sườn hang động. Nhưng họ đứng lại chốc lát khi bỗng nghe tiếng chân bước. Qua đám cành lá, họ nhìn thấy Môngtexxuy ôm ngang lung quận chúa Xơniavin, lặng lẽ đi về phía lâu. Nấp sau một bức tượng khổng lồ, Giăc và Têredơ chờ hai người đi qua. Rồi nàng nói với Đơsactrơ lúc đó im lặng nhìn mình:
- Bây giờ thì em hiểu vì sao mùa đông vừa qua, quận chúa Xơniavin hỏi ý kiến bố em về việc mua ngựa.
Têredơ thán phục ông bố đã chinh phục được người đàn bà nhan sắc, nổi tiếng là người khó chiều và giàu có, mặc dù có những rắc rối do lối sống cực kỳ vô tổ chức gây ra. Nàng hỏi Giăc có thấy quận chúa rất đẹp không. Anh thừa nhận bà ta lộng lẫy, nhưng là một thứ lộng lẫy thô bạo, một mùi vị thịt da dữ dội. Anh hình dung một bộ ngực với hai quầng vú to tướng màu nâu, một cái bụng vàng ệch và cặp chân đầy long lá. Điều anh chê nhất là làn da sù sì. Têredơ cho là có thể như thế, song buổi tối quận chúa Xơniavin vẫn làm lu mờ những phụ nữ khác.
Nàng đưa Giăc qua bậc thang phủ đầy rêu phía khu hang động tới một bể nước bằng đá màu hồng ở giữa sum suê một bụi lau sậy xám xịt. Đi hết vườn hoa, hai người bước vào một cánh rừng rậm rạp. Tiếng là rừng xào xạc. Những hàng cây đu vươn lên với tán láượt mà; những dãy bulô và diệp hoàn liễu, lớp vỏ nhợt nhạt còn sáng lên dưới những tia nắng mặt trời cuối cùng.
Anh siết chặt nàng vào lòng và âu yếm hôn lên mắt. Màn đêm buông xuống, những vì sao đầu tiên lấp lánh giữa đám lá cành. Trong lớp cỏ ướt át cất lên tiếng ếch nhái ì ọp. Họ dừng bước.
Trong đêm tối, trên đường cùng anh trở về lâu đài, hương vị những cái hôn và mùi bạc hà vẫn còn phảng phất trên môi nàng. Hình ảnh người yêu đứng tựa thân một cây bulô giống như một vị thần đồng áng vẫn như trong ánh mắt nàng. Hai tay chắp lại sau gáy và được anh nâng bổng lên, nàng ngây ngất trong khoái lạc. Dưới bóng những rặng tiêu huyền, nàng mỉm cười với những pho tượng nữ thần đã từng nhìn thấy những giọt nước mắt của nàng buổi ấu thơ.
Trên bầu trời xuất hiện chòm sao. Thiên nga và mặt trăng lưỡi liềm chiếu xuống bể nước trong vườn. Côn trùng trong thảm cỏ cất tiếng gọi ái ân. Đi hết dãy hoàng dương sừng sững như một bức tường thành họ nhìn tòa lâu đài nổi lên thành ba khối đen kịt, và qua những ô cửa lớn, trong luồng ánh sáng đỏ rực thấp thoáng bóng người qua lại. Chuông nhà thờ vang lên gióng giả.
Têredơ vội nói:
- Em chỉ còn đủ thì giờ thay quần áo để ăn tối.
Và vụt biến đi trước dãy sư tử đá, nàng để lại cho người yêu ảo giác vừa chia tay với một nữ thần.
Trong phòng khác, sau bữa ăn tối, ông Becchiê Đâyden ngồi đọc báo; còn quận chúa Xơniavin thì bói bài. Mắt lim dim trên một trang sách và nghe ngứa ở mắt cá bởi đám gai nàng bước qua khi đi trong rừng thưa, Têredơ rung mình nhớ lại, lúc người yêu ôm ấp nàng giữa rừng cây tựa một vị thần đồng áng đùa giỡn với một nữ thủy thần.
Xơniavin hỏi cuốn sách nàng đọc có gì thú vị không.
- Tôi cũng không biết nữa. Tôi vừa đọc vừa mơ màng. Pôn Venx nói có lý: “Chúng ta chỉ tìm thấy bản thân mình trong sách”.
Qua các bức trướng trên tường, từ phòng bi-a vẳng qua những lời ngắn của người chơi và tiếng bi lăn khô khốc.
- Vận may rồi! - Quận chúa Xơniavin vừa reo lên vừa bỏ những con bài xuống.
Trước đó, bà ta đánh cược một số tiền lớn về một con ngựa hôm ấy sẽ đua ở trường đua Săngtiy
Têredơ bảo nàng vừa nhận được thư từ Phidơn: Ben báo tin sắp làm lễ thành hôn với hoàng thân Ơx-biô Anbectinenli Đenla Xpina.
Quận chúa cười khanh khách:
- Anh chàng ấy sẽ giúp cô ta một việc ra trò.
- Việc gì thế? - Têredơ hỏi.
- Làm sao cho tô ta chán ngấy đàn ông, chứ còn việc gì nữa!
Môngtexxuy hớn hở bước vào xalông, ông ta đã thắng cuộc. Ông đến ngồi cạnh Becchiê Bâyden và cầm tờ báo trải rộng trên tràng kỷ:
- Ông bộ trưởng Tài chính thông báo là vào kỳ họp tới của Quốc hội, ông ta sẽ đệ trình dự luật về quỹ tiết kiệm.
Vấn đề đặt ra là cho phép quỹ tiết kiệm cho các xã vay tiền, và như thế các cơ sở do Môngtexxuy lãnh đạo sẽ mất số khách hàng tốt nhất.
- Becchiê, - Môngtexxuy hỏi - Ông có kiên quyết chống lại dự luật ấy không?
Becchiê nghiêng đầu.
Môngtexxuy đứng dậy, đặt tay lên vai ông nghị sĩ
- Ông bạn Bechhiê thân mến, tôi có ý nghĩ là vào đầu kỳ họp này nội các sẽ đổ.
Ông bước lại cạnh con gái:
- Bố vừa nhận được một bức thư kỳ quặc của Lơ Mênin.
Têredơ đi lại đóng cánh cửa bên phòng bi-a. Nàng bảo để tránh luồng gió.
- Một bức thư kỳ lạ, con ạ. - Môngtexxuy nói tiếp - Lơ Mênin sẽ không đến đi săn ở Gioăngvin. Anh ta vừa mua một chiếc yat trọng tải mươi tonô mang nhãn hiệu Rơdơbuyt, lênh đênh trên Địa Trung Hải. Anh chỉ muốn phiêu lưu trên mặt nước. Tiếc quá! Chỉ có Lơ Mênin là biết tổ chức săn bắn.
Đúng lúc đó, Đơsactrơ bước vào phòng khách cùng bá tước Mactanh. Sau khi thắng ván bi-a và kết thân với anh, Mactanh giảng giải những cái tai hại của thứ thuế lấy lối sống gia đình và số tôi tớ trong nhà làm căn cứ.
Chú thích:

1.

Một vùng ngày xưa của châu Á

2.

Giáo chủ, tế tướng Pháp, thế kỷ 17.

3.

Nhà khắc chạm Pháp, thế kỷ 17.

XXXI. Những tia nắng mặt trời mùa đông nhợt nhạt xuyên qua lớp sương mù trên sông Xen rọi xuống hình vẽ mấy con chó của họa sĩ Uđry trên cánh cửa phòng ăn.
Bà Mactanh ngồi giữa, bên phải là hạ nghị sĩ Garanh, nguyên bộ trưởng Tư Pháp, nguyên thủ tướng nội các, bên trái là thượng nghị sĩ Loayê. Ngồi bên phải bá tước Mactanh-Benlem là Bechhiê Đâyden. Một bữa ăn trưa thân mật và nhẹ nhàng để bàn công việc. Đúng như Môngtexxuy dự kiến, nội các bị đổ bốn ngày trước. Vừa được vời đến điện Êlidê sáng nay, Garanh nhận lời lập nội các mới. Trong bữa ăn, ông ta chuẩn bị danh sách một chính phủ liên hiệp để tối hôm đó đệ trình lên tổng thống. Trong lúc đám đàn ông thảo luận danh sách thì Têredơ hồi tưởng lại những hình ảnh trong cuộc sống thầm kín của mình.
Cùng với bá tước Mactanh, nàng trở lại Pari từ đầu kỳ họp nghị viện và từ ấy, nàng sống những ngày thần tiên.
Giăc yêu nàng. Anh yêu say đắm nhưng với thái độ dịu dàng vừa với kinh nghiệm dày dạn vừa với vẻ chất phác hiếu kỳ. Anh tỏ ra băn khoăn, dễ bực dọc, dễ bị kí động; nhưng khí chất thất thường càng làm tăng thêm niềm hoan hỉ của anh. Niềm hoan hỉ nghệ sĩ ấy đột ngột nổ ra như một ngọn lửa, mơn trớn mà không xúc phạm tình yêu. Và tiếng cười hóm hỉnh của người yêu làm Têredơ say đắm.
Nàng không ngờ là người vốn phóng túng và tính tình dễ thay đổi, anh lại tỏ ra một sở thích kiên định tự nhiên đến như vậy. Trong những thời gian đầu, anh chỉ tỏ ra với nàng một mối nhiệt tình đơn điệu và âu sầu. Và chỉ có cái đó không thôi chinh phục nàng. Nhưng đã mấy lâu nay nàng tìm thấy ở anh một tâm hồn hớn hở, phong phú và đa dạng; một vẻ dễ thương có một không hai trong ân ái, cái khả năng bằng thể xác mơn trớn, thỏa mãn toàn bộ tâm hồn.
- Chúng ta có thể dễ thỏa thuận với nhau về một nội các đồng tâm hợp lực. – Garanh lên tiếng – Nhưng không phải vì vậy mà không chú ý tới những khuynh hướng riêng biệt của các nhóm khác nhau trong nghị viện.
Ông ta tỏ ra lo lắng. Thấy mình đã dựng lên bao nhiêu cạm bẫy thì nay mình cũng bị bấy nhiêu cạm bẫy bao vây. Chính bản thân những người cộng sự cũng trở nên thù địch.
Bá tước Mactanh muốn nội các mới đáp ứng những khuynh hướng của một tinh thần mới.
- Danh sách của ông bao gồm những nhân vật rất khác nhau về nguồn gốc và khuynh hướng. - Bá tước nói - Thế nhưng sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử chính trị những năm gần đây là khả năng - tôi muốn nói là nhu cầu - làm sao cho chính phủ Cộng hòa thống nhất về quan điểm. Đó là những ý kiến mà chính bản thân ông đã bày tỏ rất hùng biện, ông Garanh thân mến ạ.
Bechhiê Đâyden im lặng.
Còn thượng nghị sĩ Loayê thì vân vê những mẩu ruột bánh mì. Là khách quen lâu đời của quán bia, ông ta có thói quen suy nghĩ trong lúc nhồi bóp những mẩu bánh vụn hay cắt gọt nút chai. Ông ta ngẩng khuôn mặt sần sùi với bộ râu cằm lem luốc lên. Và nhìn Garanh với đôi mắt xếch trong đó như long lanh một đốm lửa nhỏ, ông ta nói:
- Tôi đã nói nhưng người ta không muốn tin. Đối với các thủ lĩnh đảng Cộng hòa, việc thủ tiêu cánh hữu quân chủ đã từng là một tai họa không sao cứu vãn được. Nội các vừa qua chống lại cánh hữu ấy. Chỗ dựa thực sự của một chính phủ chính là phe đối lậ Đế chế đã từng chống lại phái Ooclêăng và chống lại chúng ta; chính phủ Mười sáu tháng năm chống lại những người Cộng hòa. Còn chúng ta may mắn hơn, chúng ta chống lại cánh hữu, cánh hữu là phe đối lập ra trò, đáng gờm nhưng thơ ngây và bất lực, rộng lớn, trung thực nhưng không được lòng dân. Cần phải duy trì cánh hữu. Nhưng người ta đã không biết làm như vậy. Thế và phải nói rõ là một cái đều mòn mỏi đi cả. Song chính phủ bao giờ cũng phải chống lại một cái gì đó. Ngày nay chỉ còn những đảng viên xã hội ủng hộ chúng ta, còn trong suốt mười lăm năm, chúng ta đã từng được phái hữu ủng hộ với sự khoan dung không suy suyễn. Chỉ có điều là họ quá yếu. Cần phải củng cố họ, làm cho họ lớn mạnh lên, tổ chức họ thành chính đảng. Đấy là bổn phận đầu tiên của một bộ trưởng nội vụ vào giờ phút này.
Vốn không phải là kẻ vô liêm sỉ, Garanh ngồi lặng im.
- Ông Garanh, - bá tước Mactanh hỏi - ông chưa biết là cùng với cương vị thủ tướng, ông sẽ phụ trách bộ Tư pháp hay bộ Nội vụ à?
Garanh đáp là quyết định của ông ta tùy thuộc vào việc lựa chọn của N…, sự có mặt của ông này trong nội các là cần thiết nhưng ông ấy còn lưỡng lự giữa hai bộ. Còn ông, Garanh, ông hy sinh điều kiện cá nhân cho lợi ích tối cao.
Thượng nghị sĩ Loayê che giấu phía sau bộ râu một vẻ khó chịu. Ông ta thèm muốn bộ Tư pháp, nỗi thèm muốn ấy có nguồn gốc từ lâu đời. Là giáo sư ôn tập luật học dưới thời Đế chế, ông ta đã từng giảng những bài học được đánh giá cao ở các tiệm cà phê. Bản tính thích cãi vã, ông ta mở đầu sự nghiệp chính trị bằng những bài báo việt một cách khéo léo để được truy tố, ra tòa và “hưởng” mất tuần lễ tù giam. Từ đó ông xem báo chí là một vũ khí chống đối mà mọi chính phủ tử tế phải tiêu diệt. Từ ngày 4 tháng chín 1870, ông ta mơ ước trở thành bộ trưởng Tư pháp để người ta thấy một kẻ lang thang trước đây, một kẻ đã từng ngồi trong nhà giam Pêlagi dưới thời Bađanhghê 1. đã từng giảng pháp luật trong lúc chỉ ăn món bắp cải thái nhỏ, kẻ đó có thể là lãnh tụ tối cao của ngành Tư pháp như thế nào.
Hàng chục đứa dốt nát đã từng đè đầu cưỡi cổ ông ta. Già cỗi đi trong những niềm vinh quang tầm thường của Thượng viện, chẳng có mấy tri thức, lại nghèo khổ, lười biếng và cháng chường, ông ta say mê một cô gái phục vụ trong quán bia. Với tinh thần Giacôbanh 2. cố hữu và lòng khinh miệt dân chúng thực sự dai dẳng, ông ta vẫn có thể là một nhân vật nội các. Lần này, được đưa vào chính phủ liên hiệp của Garanh, ông ta những tưởng nắm được bộ Tư pháp. Nhưng quan thầy ông ta không chấp thuận và ông trở thành một địch thủ khó chịu. Ông ta cười khẩy trong lúc mải miết lấy ruột bánh mì vắt hình một con chó nhỏ.
Vẻ rất điềm tĩnh, nghiêm trang và âu sầu, Becchiê Đâdyen mân mê bộ ria mép trắng muốt đẹp đẽ và nói:
- Ông Garanh, ông không thấy cần dành một chỗ trong nội các cho những người đã từng đeo đuổi ngay từ đầu đường lối chính trị mà ngày nay chúng ta hướng tới hay sao?
- Họ đã mất phương hướng trong đó - Garanh đáp vẻ sốt ruột - nhà chính khách không được vuột lên trước hoàn cảnh. Tỏ ra mình có lý sớm quá là một sai lầm. Không thể điều hành công việc với các nhà tư tưởng được đâu. Và chúng ta hãy nói thẳng ra: nếu ông muốn được nội các tả - trung thì ông cứ nói thật; tôi sẵn sàng rút lui. Nhưng tôi xin cảnh cáo ông là cả Nghị viện lẫn dân chúng sẽ không ủng hộ chúng ta đâu.
- Hiển nhiên là chúng ta cần có đa số. - Bá tước Mactanh nói.
- Với danh sách của tôi, chúng ta có đa số. - Garanh đáp. - Chống lại chúng ta, chính là thiểu số ủng hộ nội các cộng thêm những lá phiếu chúng ta đã tách ra khỏi nhóm. Thưa các ngài, tôi kêu gọi lòng trung thành của các ngài.
Rồi họ lại cần mẫn sắp xếp lại việc phân bố các bộ. Lúc đầu, bá tước Mactanh được giao bộ Công chính nhưng ông ta không ưng thuận vì không đủ năng lực, về sau được giao bộ Ngoại giao và ông ta vui vẻ nhận lời.
Nhưng Bechhiê Đâyden được Garanh giao cho bộ Thương mại và Nông nghiệp thì không nhận.
Loayê phụ trách bộ Thuộc địa. Làm ra vẻ rất chăm chú đặt con chó nhỏ vắt bằng ruột bánh mì đứng cho được tấm khăn trải bàn, ông ta nheo mắt nhìn nữ bá tước Mactanh và thấy nàng thật đáng thèm muốn. Ông ta mơ màng trong niềm vui thích được gặp lại nàng sau này trong cảnh ít nhiều thân m
Để mặc Garanh loay hoay, ông lưu tâm đến người thiếu phụ nhan sắc này, tìm cách đoán định sở thích và thói quen của nàng, hỏi nàng có thích sân khấu không, thỉnh thoảng buổi tối có đến tiệm cà phê cùng với chồng không. Têredơ bắt đầu thấy ông ta có vẻ thú vị hơn những người khác với lớp cáu bẩn đóng dày trên người, với cái lối không hay biết gì về thiên ạ và với cái thuyết yếm thế tuyệt vời của ông ta.
Garanh đứng dậy, ông ta cần phải đi gặp N… N… và N… trước khi đệ trình danh sách lên tổng thống. Bá tước Mactanh mời ông dùng xe ngựa nhưng ông đã có xe riêng.
- Ông có nghĩ là tổng thống có thể có ý kiến đối với một vài người trong danh sách không? - Bá tước Mactanh hỏi.
- Tổng thống sẽ căn cứ vào yêu cầu của tình thế - Garanh đáp.
Ông ta bước ra khỏi cửa nhưng bỗng quay lại, tay vỗ vỗ trán:
- Chúng ta quên mất bộ trưởng Chiến tranh!
- Ông sẽ tìm trong số các tướng lĩnh thôi. - Bá tước Mactanh nói.
- A! Ông tưởng dễ chọn một bộ trưởng Chiến tranh sao? Rõ ràng là ông chưa tham gia ba lần nội các và đứng đầu chính phủ như tôi. Trong các nhiệm vụ kỳ bộ trưởng và trong khi tôi làm thủ tướng, những khó khăn gay gắt nhất bao giờ cũng bắt nguồn từ bộ trưởng Chiến tranh. Tất cả các tướng lĩnh đều như nhau. Viên tướng tôi chọn vào nội các trước đây, ông biết rồi đấy. Chúng ta đưa ông ta vào trong lúc ông ta lạ lẫm với công việc. Hầu như không biết có hai viện. Phải giảng giải cho ông ta tất cả các bộ phận của guồng máy nghị viện; chỉ dẫn cho ông ta là trong nghị viện có một ủy ban quân sự, một ủy ban tài chính, các tiểu ban, các thuyết trình viên và có việc tranh luận về ngân sách. Ông ta yêu cầu ghi tất cả những sự chỉ dẫn ấy vào một mảnh giấy. Tình trạng ông ta không hiểu biết gì về người, về việc, khiến chúng ta kinh hoàng… Nhưng chỉ sau mười lăm ngày là ông ta nắm được những mánh khóe tinh vi nhất của nghề nghiệp, biết riêng tất cả các thượng và hạ nghị sĩ và cùng với họ âm ưu chống lại chúng ta. Nếu không có sự giúp đỡ của tổng thống Grêvy là người vốn nghi ngờ phái quân nhân thì ông tướng ấy đã lật đổ chúng ta rồi. Thế mà đó chỉ là một viên tướng rất bình thườngướng như những ông tướng khác. A! không, ông chớ nghĩ bộ Chiến tranh có thể giao phó một cách vội vã, thiếu suy nghĩ…
Và nhớ lại người bạn đồng nghiệp trước đây ở đại lộ Xanh-Giecmanh, Garanh vẫn còn rung mình. Ông bước ra ngoài.
Têredơ đứng dậy. Thượng nghị sĩ Loayê chìa cánh tay cho nàng với những cử chỉ duyên dáng học được từ bốn mươi năm trước ở Buyliê 3.
Nàng để đầm chính khách lại trong phòng khách, vội vã đi tìm gặp Đơsactrơ.
Những luồng ánh sáng đỏ hoe bao phủ dòng sông Xen cùng hai bên bờ sông lát đá và những rặng tiêu huyền vàng rực. Ra khỏi nhà, Têredơ khoan khoái thưởng thức hương vị ngọt ngào của không khí và cảnh đẹp buổi chiều ta. Từ khi trở về Pari, nàng hớn hở thấy mỗi buổi sáng thời tiết lại đổi mới. Gió thổi trong rặng cây trụi lá, mưa nhẹ hạt làm chân trời ướt át, bầu trời lạnh lẽo trong ánh sáng nhạt nhòa, ảm đạm. Nàng tưởng như tất cả những cái đó đều là cho nàng, vì nàng và giúp nàng khi bước vào căn phòng xin xắn ở phố Lê Tecnơ. Có thể nói: “Trời gió, trời mưa, thời tiết thật thú vị” như thể mọi sự vật trên đời này đều quy tụ vào mối tình đằm thắm của nàng. Và đối với nàng, mặt trời ngày nào cũng đẹp vì ngày nào nàng cũng nằm gọn trong lòng người yêu.
Cũng như những ngày khác, ngày hôm ấy, trên đường đi tới căn nhà nhỏ ở phố Lê Tecnơ, nàng nghĩ tới niềm hạnh phúc bất ngờ trọn vẹn xiết bao mà rốt cuộc nàng nắm chắc trong tay. Cất bước trong ánh nắng chiều ta mùa đông, nàng nghĩ bụng:
“Chàng yêu mình, mình tin chàng hoàn toàn yêu mình. Yêu, đối với chàng, dễ dàng và tự nhiên hơn những người đàn ông khc. Trong đời sống, họ có những tư tưởng cao hơn bản thân họ, một niềm tin, những tập quán, những quyền lợi. Họ tin vào Chúa, vào nghĩa vụ hay vào chính bản thân họ. Còn chẳng thì chỉ tin vào một mình mình thôi. Mình là vị thần, là nghĩa vụ, là cuộc sống của chàng”.
Rồi nàng mơ màng:
“Quả là chàng không cần đến một ai, kể cả mình nữa. Tư tưởng của chàng là một thế giới huy hoàng trong đ có thể sống thoải mái. Nhưng mình thì không thể sống không có chàng. Mình sẽ ra sao nếu không còn chàng nữa?”
Nàng yên tâm khi nghĩ tới niềm hứng thú sôi nổi, vẻ say sưa thường ngày của anh khi anh ở cạnh nàng. Nàng nhớ một hôm nàng bảo anh: “Đối với em, anh chỉ có tình yêu nhục dục. Nhưng em không phàn nàn đâu, có lẽ đó là tình yêu chân chính duy nhất”. Và anh trả lời nàng: “Đó cũng là tình yêu lớn nhất, mạnh nhất. Nó có năng lực và vũ khí của nó; nó tràn đầy ý nghĩa và hình ảnh; nó vừa dữ dội vừa bí ẩn, nó gắn bó với thịt da và với cả linh hồn của thịt da. Còn nữa thì chỉ là ảo ảnh và dối trá”. Nàng hầu như yên tâm trong hạnh phúc. Những nỗi nghi ngờ, những niềm băn khoăn tan biến như mây mù trong cơn giông mùa hạ. Thời kỳ xấu nhất trong tình yêu của họ, là lúc họ xa nhau những ngày trước đây. Không bao giờ nên xa cách khi yêu nhau.
Đến ngã ba đại lộ Macxô và đường phố Galilê, nàng đoán ra, đúng hơn là nhận biết một bóng người lướt qua nàng, một hình dạng nàng đã lãng quên. Nàng tin là mình nhầm và muốn mình nhầm. Người mà nàng tưởng nhìn thấy, đâu còn tồn tại nữa, và có bao giờ tồn tại! Chỉ là một bóng ma trong cảnh huyền hoặc của một thế giới trước kia, trong sương mù của một cảnh nửa hư nửa thực. Và nàng vẫn cất bước, giữ lại của cuộc gặp gỡ huyền ảo này một cảm giác lạnh lẽo một sự bối rối mơ hồ, một nỗi đau lòng.
Nàng đi ngược đại lộ. Những người bán báo, hai tay ôm đầy những tờ báo buổi chiều đưa tin bằng chữ to việc thành lập chính phủ mới.
Nàng vượt qua quảng trường Ngôi sao; chân nàng bước theo sự giục giã của ham muốn. Nàng hình dung Giăc đứng chờ dưới chân cầu thang, giữa những bức tường trần trụi bằng đồng hun và cẩm thạch, bế nàng vào lòng lúc đó run rẩy và nhũn người đi vì những cái hôn, đưa nàng lên tận căn phòng tràn ngập bóng râm và khoái lạc, nơi niềm hạnh phúc được sống êm đềm khiến người ta quên cuộc sống.
Nhưng trong cảnh vắng vẻ trên đại lộ Mac-Mahông, bóng người lúc nãy thấp thoáng ở ngã ba đường Galilê bước lại gần, sừng sững đến bên nàng, thái độ thận trọng, âu sầu.
Nàng nhận ra Rôbe Lơ Mênin. Đi theo nàng từ bến xe Đơbiy, anh theo kịp nàng ở chỗ này, nơi yên tĩnh và chắc chắn nhất.
Thái độ, dáng dấp của anh bộc lộ một tâm hồn trong sáng trước đây t làm vui lòng Têredơ. Trên khuôn mặt vốn nghiêm khắc, nay sẫm màu vì nắng gió, hơi gầy đi, nhưng rất điềm tĩnh, bộc lộ một nỗi đau khổ sâu xa mặc dù anh cố tình che giấu.
- Tôi muốn nói chuyện với cô.
Anh đi chậm lại và bước bên cạnh nàng.
- Tôi cố gắng quên cô. Sau tình hình đã xảy ra thì như thế là điều tự nhiên, phải không cô? Tôi đã làm tất cả mọi thứ để quên. Dĩ nhiên, tốt hơn hết là quên cô. Nhưng không sao quên được. Thế là tôi mua một con tàu. Và tôi đã lênh đênh sáu tháng trên mặt biển. Có lẽ cô biết chứ?
Nàng gật đầu.
Anh nói tiếp:
- Rôdơbuyt, một chiếc yat xinh xắn trọng tải tám mươi tonô, với sáu thủy thủ. Tôi cùng lái tàu với họ. Như thế để khuây khỏa.
Nàng im lặng, bước đi chậm chạp, âu sầu và nhất là buồn phiền. Nghe những lời xa lạ ấy, đối với nàng là điều phi lý và khó chịu hơn bất cứ điều gì khác.
Anh lại nói:
- Tôi đau khổ như thế nào trên tàu, nếu nói lại với cô thì thật xấu hổ.
Cảm thấy anh nói thật lòng, nàng quay mặt đi.
- Ồ! Tôi tha thứ cho cô. Một mình một bóng, tôi suy nghĩ nhiều. Ngày đêm tôi nằm dài trên boong tàu, đầu óc vương vấn mãi những ý nghĩ không bao giờ đổi thay. Trong sáu tháng tôi suy nghĩ nhiều hơn là suy nghĩ trong cả đời mình. Cô đừng cười. Không có gì có thể mở rộng trí óc người ta bằng đau khổ. Tôi hiểu để mất cô là lỗi tại tôi. Đáng lẽ tôi phải biết cách giữ cô lại. Và nằm dài trên con tàu Rôdơbuyt lướt trên mặt biển, tôi tự bảo mình: “Mình đã không biết làm như vậy. Ồ! Giá được làm lại từ đầu!” Suy nghĩ và đau khổ, tôi đã hiểu ra: tôi hiểu ra là tôi đã không thâm nhập đầy đủ vào sở thích và tư tưởng của cô. Cô là một người đàn bà khác thường. Tôi đã không nhận ra điều đó, bởi lẽ không phải vì cái đó mà tôi yêu cô. Tôi làm cô khó chịu, làm cô phật ý mà không hay biết.
Nàng lắc đầu. Anh vẫn nói tiếp:
- Cô! Cô! Tôi thường làm cô phật lòng. Tôi không khéo nâng niu sự dịu dàng, tinh tế của cô. Giữa chúng ta có những sự hiểu lầm. Như vậy vì tính chất chúng ta không giống nhau. Và tôi cũng không biết làm cô khuây khỏa, không tìm ra những trò giải trí thích hợp với cô, với một người đàn bà thông minh như cô.
Nỗi niềm luyến tiếc và đau buồn, anh bộc lộ ra thật giản dị và chân thật, và nàng thấy anh dẫu sao cũng dễ thương. Nàng dịu dàng nói với anh:
- Tôi không hề có gì phải phàn nàn anh đâu.
Anh nói tiếp:
- Tất cả những điều tôi nói với cô đó đều là sự thật. Tôi đã hiểu ra tất cả trong khi lênh đênh một mình trên con tàu ngoài biển cả. Tôi đã trải qua những giờ phút mà tôi không mong cho người đàn ông đã làm tôi hết sức đau khổ phải trải qua. Phải chăng do những nguyên lý tôn giáo và những tình cảm gia đình của tôi, hay do tôi không có can đảm? Tôi không hay biết. Có lẽ vì từ xa, cô vẫn giữ tôi lại trong cuộc sống. Tôi bị cô cuốn hút và tôi đã tới đây. Tôi theo dõi cô đã hai ngày nay. Tôi không muốn đến lại nhà cô vì không thể gặp riêng và nói chuyện với cô, và vì như thế cô bắt buộc phải tiếp tôi. Tôi thấy nói chuyện với cô ngoài đường thì hơn. Đấy cũng là một ý nghĩ đến với tôi lúc ở trên tàu. Tôi nghĩ bụng: “Ngoài đường thì có muốn nghe mình nàng mới nghe”, cũng như bốn năm về trước, cô biết đấy, trong khuôn viên Gioăngvin, dưới những bức tượng nữ thần.
Và thở dài não nề, anh nói tiếp:
- Đúng, như ở Gioăngvin, vì phải làm lại tất cả từ đầu. Tôi theo dõi cô đã hai ngày nay. Hôm qua, trời mưa: cô đi xe ngựa. Tôi có thể bước theo cô, để biết cô đi đâu. Tôi thiết tha như vậy. Nhưng tôi không làm. Tôi không muốn làm điều cô không thích.
Nàng chìa tay cho anh:
- Tôi cảm ơn anh. Tôi rất biết là tôi không phải ân hận về lòng tin cậy
Hoảng hốt, sốt ruột, bồn chồn, sợ những điều anh sắp nói, nàng tìm cách cắt đứt câu chuyện và bỏ đi.
- Tạm biệt! Anh có cả cuộc đời trước mặt. Anh là người sung sướng. Anh nên biết rõ điều đó và đừng giày vò mình về cái điều không đáng để anh tự giày vò.
Nhưng nàng ngừng lại trước ánh mắt anh. Anh biểu lộ vẻ mặt dữ dội và kiên quyết mà nàng đã từng biết.
- Tôi đã bảo là tôi cần nói chuyện với cô. Cô hãy nghe tôi một phút.
Nàng nghĩ tới Giăc chắc hẳn lúc này đang chờ đợi.
Vài ba khách qua đường nhìn họ rồi bước đi. Nàng đứng lại dưới một cây thánh giá đen kịt và chờ đợi, trong lòng vừa xót thương vừa sợ hãi.
Anh nói:
- Thế này: tôi tha thứ cho cô và quên hết tất cả. Cô hãy trở lại với tôi. Tôi hứa sẽ không bao giờ nhắc lại quá khứ.
Nàng giật nảy mình và có một cử chỉ kinh ngạc, buồn bã một cách tự nhiên tới mức anh ngừng lời.
Rồi, sau một lát suy nghĩ:
- Điều tôi nói với cô là không bình thường, tôi biết rõ như vậy. Nhưng tôi đã cân nhắc, đã suy nghĩ tới mọi thứ. Chỉ có thể như thế mà thôi. Cô hãy suy nghĩ đi, Têredơ.
- Nói dối anh là điều không hay. Tôi không thể làm, tôi không muốn làm điều anh bảo: và anh biết vì sao rồi.
Một cỗ xe ngựa chậm rãi chạy gần chỗ họ. Nàng ra hiệu và người xà ích dừng xe lại. Anh vẫn giữ nàng lại một lát.
- Tôi đã dự kiến là cô sẽ nói với tôi như vậy. Vì thế tôi đã bảo cô đừng trả lời tôi lúc này.
Vừa bước lên xe là nàng quay đi, không nhìn anh nữa. Phút giây đau đớn đối với anh: anh nhớ lại ánh mắt biết ơn đăm đăm nhìn theo anh trước kia khi phải chia tay, trong cặp mắt màu hạt dẻ tuyệt vời, lim dim vẻ mệt mỏi sau những giờ phút hoan lạc. Anh kìm lại trong lồng ngực một tiếng nấc và thầm thì, giọng nói nghẹn lại:
Cô nghe tôi này, tôi không thể sống không có cô, tôi yêu cô. Chính bây giờ tôi yêu cô. Trước kia, tôi lại không rõ.
Nàng nói bâng quơ với người xà ích địa chỉ của một hiệu mũ. Còn anh thì bước đi, bước chân vẫn mềm mại và nhanh nhẹn nhưng có vẻ lập cập.
Cuộc gặp gỡ để lại trong lòng nàng một cảm giác khó chịu và một nỗi lo lắng. Vì phải gặp lại thì thà anh ấy có thái độ thô bạo như ngày nọ ở Phiôrăngx. Đến ngã ba đại lộ, nàng nói to với bác xà ích:
Chú thích:

1.

Biệt danh của Napôlêông III

2.

Một chính đảng cấp tiến dưới thời Cách mạng Pháp 1789

3.

Nhà kiêu vũ (chủ yếu của sinh viên Pháp) ở Pari.

XXXII. Hôm ấy là thứ sáu. Trong nhà hát vũ kịch, màn vừa bỏ xuống sau một cảnh trong vở diễn Phôxtơ 1. Từ những dãy ghế ồn ã phía sát sân khấu, khán giả giương ống nhòm lên và trong luồng ánh sáng tỏa rộng ra không gian mênh mông, nhìn ngó khắp nhà hát vàng son chói lọi. Trên hàng ghế lô nhô lên những mái tóc rực rỡ, những bờ vai để trần của phái đẹp. Ngồi sát sân khấu là bà đại sứ Áo và nữ công tước Đơ Glađuyn. Trên các dãy ghế trên gác lấp lánh những kim cương, vàng bạc, lụa là, cô Bectơ Đơxiguy và Gian Tuyn, người trở nên nổi tiếng vì vụ người tình tự sát. Trên hàng ghế lô có bà Bêra Đơ La Malơ, mắt khẽ cúi xuống, hàng mi dài rủ bóng xuống đôi má tuyệt đẹp: quận chúa Xơniavin lộng lẫy xòe quạt che miệng ngáp, bà Đơ Mooclen ngồi giữa hai thiếu phụ, học trò của mình; bà Mâyăng yên tâm với ba mươi năm nhan sắc tuyệt vời; bà Becchiê Đâyđen, bộ điệu cứng đờ với những dải băng màu xám găm đầy kim cương. Chứng sần da mặt càng làm cho điệu bộ bà ta thêm đường hoàng. Người ta chăm chú nhìn bà. Sáng nay có tin là sau khi chính phủ liên hiệp của Garanh thất bại, Becechiê Đâynhận lập nội các mới. Các cuộc vận động gần đạt tới kết quả. Báo chí đăng danh sách nội các trong đó Mactanh Benlem giữ bộ Tài chính. Ống nhòm khán giả quay về phía ghế lô còn bỏ trống của nữ bá tước Mactanh.
Tiếng ồn ã ngày càng lan rộng trong nhà hát. Đứng ở vị trí quen thuộc của mình ở hàng ghế thứ ba sát sân khấu, tướng Larivie trò chuyện với tướng La Brisơ
- Nay mai, tôi cũng sẽ làm như ông, ông bạn thân mến ạ. Tôi sẽ đi trồng cải bắp ở Tuarea.
Ông ta đang trải qua những giờ phút âu sầu, thấy trước cái hư vô cuối cuộc đời sắp kết thúc của mình. Ông ta từng nịnh nọt Garanh; nhưng thấy ông ta quá giảo quyệt, Garanh đã chọn một viên tướng pháo binh cận thị và có nhiều ảo tưởng làm bộ trưởng Chiến tranh. Chí ít, Larivie cũng thích thú thấy Garanh bị bỏ rơi, bị hai ông bạn Becciê Đâyđen và Mactanh Benlem phản bội. Ông ta nheo mắt lại cười. Trên khuôn mặt cau có, chỉ có nếp nhăn ở đuôi mắt là có chút tươi cười. Ông ta cười nửa miệng. Đã chán ngấy một cuộc đời giả dối kéo dài, bống nhiên ông ta hớn hở bày tỏ ý tưởng của mình:
- Ông thấy đấy, ông bạn La Brisơ, họ quấy rầy ta với đội dân vệ tốn kém mà chẳng có giá trị gì hết. Chỉ có những đội quân nhỏ là tốt. Đấy là ý kiến của Napôlêông, người thành thục trong vấn đề này.
- Đúng, rất đúng. - Tướng La Brisơ thở dài xúc động đến rơi nước mắt.
Môngtexuy đi trước mặt họ bước tới chỗ ngồi. Larivie chìa tay bắt.
- Người ta bảo ông đã làm thất bại Garanh. Xin hết lời ca ngợi ông.
Môngtexxuy không nhận có một chút ảnh hưởng chính trị nào. Ông ta không phải thượng nghị sĩ, không phải hạ nghị sĩ, đến tư vấn tỉnh Oadơ cũng không. Nhìn cả nhà hát qua ống nhòm, ông ta nói:
- Ông nhìn xem, ông Larivie. Ở phía dưới kia kìa, bên phải ấy, có một người đẹp, tóc hung, hai mái tóc rẽ ra hai bên má.
Rồi ông điểm tĩnh ngồi xuống, thưởng thức quyền lực thực sự
Trong lúc đó, trong phòng diễn viên, trong hành lang, trong cả rạp hát, người ta truyền miệng nhau danh sách các bộ trưởng với thái độ gần như dửng dưng: Thủ tướng kiêm Nội vụ: Becchiê Đâyđen; Tư pháp và Lễ nghi: Loayê; Tài chính: Mactanh-Benlem. Người ta đều biết họ, trừ các bộ trưởng Thương mại, Chiến tranh và Hải quân chưa được chỉ định.
Màn sân khấu kéo lên với cảnh Tiểu thần Bacuyx. Sinh viên hát bài hợp xướng thứ hai. Bà Mactanh xuất hiện trong ghế lô, tóc búi cao, hai ống tay áo dài màu trắng rộng như hai cánh chim và bên ngực phía trái, trên tấm áo len, lấp lánh một bông huệ lớn bằng hồng ngọc.
Ben bận áo dài nhung xanh, ngồi cạnh nàng. Đính ước với hoàng thân Ơxơbiô Anbectinen Đenla Xpina, cô ta đến Pari may sắm đồ cưới.
Trong cảnh ồn ào náo động của buổi chợ phiên trên sân khấu, Ben bảo nàng:
- Darling, một người bạn của cô ở Phiôrăngx vẫn trân trọng giữ kỷ niệm êm đềm về cô. Giáo sư Arighi ấy mà. Ông ta dành cho cô lời ca ngợi đẹp đẽ nhất trên đời: ông nói cô là một con người tuyệt mỹ. Nhưng giáo sư Arighi không nghĩ tới cô sao được trong khi rặng điền ma trong vườn cũng không quên được cô? Cô vắng mặt khiến hoa lá tàn héo và cây cối âu sầu. Ồ! Chúng luyến tiếc cô đấy, darling ạ.
- Cô hãy nói với chúng - Têredơ đáp - là từ Phidơn tôi mang theo về một kỷ niệm mà tôi muốn giữ mãi trong lòng.
Ngồi trong cùng lô, Mactanh-Benlem khẽ nói ý nghĩ của mình với Giôdep Xpringiơ và Duyvickê: “Chữ ký của nước Pháp là chữ ký quan trọng bậc nhất trên thế giới”. Rồi lại nói tiếp: “Trả dần nợ bằng thặng dư, chứ không phải bằng thuế khóa”. Ông ta thiên về một thái độ thận trọng trong vấn đề tài chính.
- Ồ! Darling - Ben nói - tôi sẽ nói với rặng điền ma ở Phidơn là cô luyến tiếc chúng, chẳng bao lâu nữa cô sẽ trở lại thăm chúng trên đồi. Nhưng tôi xin hỏi cô ở Pari cô có gặp Đơsactrơ không. Tôi rất muốn gặp ông ấy. Ông ấy có tâm hồn thanh nhã. Ồ! Darling. Tâm hồn Đơsactrơ thật dễ thương và thanh nhã.
Têredơ đáp chắc hẳn Đơsactrơ có mặt trong nhà hát và thế nào cũng sẽ tới chào hỏi Ben.
- Màn sân khấu bỏ xuống trong điệu vanxơ với những bộ trang phục sặc sỡ. Khán giả chen chúc trong hành lang; các nhà tài chính, các nghệ sĩ, các nghị viên đứng tùm tụm một lát trong phòng khách nhỏ sát cạnh các lô. Họ vây quanh Mactanh-Benlem, chúc tụng, giơ cao tay làm những cử chỉ duyên dáng và chen chúc nhau đến bắt tay ông ta. Giôdep Sơmôn mắt mù, tai điếc, vừa ho vừa than vãn, mò mẫm giữa đám đông mà ông khinh miệt và bước tới cạnh bà Mactanh, cầm tay nàng và vừa hổn hển vừa đặt những cái hôn ồn ã.
- Người ta bảo chồng bà được cử làm bộ trưởng. Có đúng thế không?
Nàng biết người ta nói như vậy nhưng nàng nghĩ chưa có gì chắc chắn cả. Vả chăng, anh đang có mặt ở đây, Sơmôn có thể hỏi anh ấy.
Nhạy cảm với sự thật hiển nhiên, ông ta nói:
- A! Chồng bà chưa là bộ trưởng sao? Khi nào ông ấy được bổ nhiệm, tôi xin được gặp bà một lát về một công việc hết sức quan trọng.
Rồi ông lặng im, cặp kính gọng vàng che giấu đôi mắt mù lòa của con người ảo mộng, đôi mắt khiến ông sống trong một thứ tâm trạng huyền bí mặc dù bản chất là một người chính xác đến thô bạo.
- Vừa rồi bà có sang Ý, phải không thưa bà?
Và không để nàng có thì giờ trả lời, ông nói tiếp:
- Tôi biết, tôi biết. Bà đã đi La Mã, đã nhìn thấy cái cung của Tituyx 2. ô nhục, bức tượng đài gớm guốc bằng cẩm thạch với cây đèn sáp bảy ngọn giữa đống thi hài người Do Thái. Vâng, thưa bà, tôi xin nói quả là một sự nhục nhã cho loài người khi cái di tích ấy vẫn trơ trơ giữa thành phố La Mã, nơi mà các giáo hoàng chỉ sống sót được nhờ nghệ thuật của người Do Thái làm nghề vàng bạc và hối đoái. Người Do Thái đã mang khoa học của Hy Lạp và của phương Đông đến Ý. Thưa bà, Phục hưng là sự nghiệp Ixraen. Đấy là một chân lý không được thừa nhận tuy hiển nhiên…
Rồi ông đi qua đám khán giả, chân đạp rào rào lên những chiếc mũ. Từ dãy ghế lô, quận chúa Xơniavia giương ống nhòm lên nhìn Têredơ; bất chợt nàng có cái lối tò mò như vậy đối với nhan sắc phái mình. Nàng nói với Pôn Venx ngồi bên cạnh:
- Ông có thấy năm nay bà Mactanh đẹp một cách kỳ lạ không?
Trong phòng giải lao của nhà hát chói chang ánh sáng và vàng bạc, tướng Đơ La Brisơ hỏi Larivie:
- Ông có thấy cậu cháu họ tôi không?
- Cháu họ ông? Lơ Mênin ấy à?
- Vâng, Rôbe ấy mà. Lúc nãy cậu ta vừa ở trong nh hát.
La Brisơ trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Mùa hè vừa qua, tôi gặp anh chàng ở Xêmăngvin. Tôi thấy hắn kỳ cục, đăm chiêu. Quả là một chàng trai dễ thương, thông minh, thật như đếm. Nhưng hắn cầu có một công việc, một mục đích trong đời sống.
Chuông đã báo hiệu hết giờ nghỉ được một lúc. Trong phòng giải lao, hai ông già đi đi lại lại. La Brisơ, cao gầy, gù lưng nhắc lại:
- Một mục đích trong đời sống.
Larivie lanh lẹn, trẻ trung bỏ đi vào trong rạp.
Trên sân khấu Macgơrit 3. ngồi kéo sợi và hát sau lùm cây. Khi nàng hát xong, Ben nói với bà Mactanh:
- Ồ! Darling, ông Sulet viết cho tôi một lá thư hết sức thú vị. Ông ta báo cho tôi là ông ta rất nổi tiếng. Và tôi rất mừng được biết điều đó, ông ta cũng bảo tôi: “Niềm vinh quang của các nhà thơ khác dựa trên hương thơm và hoa lá, còn của tôi thì chảy máu và rên rỉ dưới những trận mưa đá và vỏ sò. “My love, có phải là người Pháp báng bổ ông Sulet tốt bụng không?
Têredơ nói cho Ben yên tâm. Bỗng Loayê, vẻ kiêu mãn, gọi mở cửa dãy ghế lô.
- Tôi từ điện Êlidơ về đây.
Trước hết ông ta lịch sự báo tin cho bà Mactanh:
- Sắc lệnh ký rồi. Ông nhà giữ bộ Tài chính. Một bộ ra trò đấy.
- Tổng thống không có ý kiến gì khi nghe đọc tên tôi à? - Mactanh-Benlem hỏi.
- Không. Becchiê trình bày với tổng thống truyền thống liêm khiết của dòng họ Mactanh, tình hình tài sản của ông, và nhất là những mối quan hệ giữa ng với một số nhân vật trong giới tài chính, mà sự giúp đỡ có thể có lợi cho chính phủ. Và tổng thống - theo lời Garanh nói lại – đã căn cứ vào yêu cầu của tình thế. Ngài đã ký sắc lệnh.
Trên khuôn mặt vàng ệch của bá tước Mactanh thoáng gợn hai ba nếp nhăn. Ông ta mỉm cười.
- Ngày mai, sắc lệnh sẽ được đăng Công báo. - Loayê nói tiếp - Bản thân tôi cùng đi xe ngựa với ông tùy viên văn phòng khi ông ta mang sắc lệnh đi in. Như vậy chắc chắn hơn. Thời Grêvy 4, nhiều sắc lệnh đã bị tước đoặt trên đoạn đường từ điện Êlidơ đến đường Vônte, tuy ông ta không phải là kẻ ngu ngốc.
Và Loayê ngồi vào ghế, thưởng thức bằng mắt và bằng mũi đôi vai trần của bà Mactanh.
- Ngày nay, người ta không còn nói - như ở thời kỳ ông bạn Gambetta 5. tội nghiệp của tôi - là Chính phủ cộng hòa thiếu đàn bà. Bà sẽ tổ chức những ngày hội huy hoàng trong các phòng khách của nội các, thưa bà.
Trên sân khấu, Macgơrit đeo vòng c và hoa tai, vừa soi gương vừa hát một điệu hát du dương.
- Lần soạn thảo bản tuyên bố, - bá tước Mactanh lên tiếng - tôi đã nghĩ tới việc đó. Còn đối với bộ của tôi thì tôi nghĩ là tôi đã tìm ra công thức:
“Trả nợ dần bằng thặng dư, chứ không phải bằng thuế khóa”.
Loayê nhún vai.
- Ông bạn Mactanh thân mến, chúng ta không có gì phải thay đổi văn bản lời tuyên bố của nội các trước: tình hình vẫn như cũ thôi.
Rồi ông vỗ vỗ trán.
- Chết chửa! Tôi quên. Chúng tôi đã cử Larivie, ông bạn già của ông, giữ bộ Chiến tranh mà không hỏi ý kiến ông ta. Tôi được giao trách nhiệm báo tin.
Loayê định đi tìm Larivie ở tiệm cà phê ngoài phố, mọi giới quân nhân thường lui tới. Nhưng bá tước Mactanh biết Larivie đang ở trong nhà hát.
- Phải đi gặp Larivie thôi. - Loayê bảo.
Và chào Têredơ, ông ta nói với nàng:
- Nữ bá tước cho phép tôi đi cùng ông nhà chứ?
Hai người vừa ra khỏi thì Giăc Đơsactrơ và Pôn Venx bước vào:
- Tôi xin chúc mừng bà, thưa bà - Pôn Venx lên tiếng.
Nhưng nàng quay về phía Đơsactrơ:
- Tôi mong ông không đến chúc tôi, ông…
Pôn Venx hỏi nàng sau này có đến ở trong khu nhà bộ Tài chính không
- Ồ! Không, cái đó thì không!
- Ít ra bà cũng sẽ đến dự các buổi vũ hội ở điện Êlidơ và ở các bộ chứ. – Pôn Venx nói tiếp - Chúng tôi vẫn sẽ được chiêm ngưỡng nghệ thuật quyến rũ thầm kín của bà và bà cũng vẫn là con người được người ta mơ tưởng chứ, thưa bà?
- Thưa ông Venx, những sự thay đổi nội các khiến ông có những suy nghĩ thật phù phiếm.
- Thưa bà, - Pôn Venx đáp - tôi sẽ không nói như Rơnăng 6, người thầy yêu quý của tôi: “Cái đó có quan hệ gì đến sao Thiên lang?” Bởi vì người ta sẽ trả lời tôi một cách hợp lý là: “Ngôi Thiên lang khổng lồ có quan hệ gì đến trái đất bé bỏng?” Nhưng tôi luôn luôn có phần kinh ngạc thấy người lớn và thậm chí cả người già nữa bị ảo ảnh của quyền lực phỉnh phờ. Như thể đói khát, ái ân và chết chóc, mọi cái tất yếu thấp hèn hay cao cả của cuộc sống không có sức sai khiến tối thượng đối với bàn dân thiên hạ, nên những kẻ cầm cân nảy mực trên đời này vẫn có quyền làm mưa làm gió. Và điều còn “kỳ diệu” hơn là các dân tộc lại còn tin là ngoài cảnh nghèo khổ, những dục vọng và sự khốn nạn của chính mình, họ còn những “vị quốc trưởng, bộ trưởng” khác nữa kia. Khôn ngoan thay kẻ đã nói: “Hãy đem sự mỉa mai và lòng trắc ẩn làm nhân chứng lẫn quan tòa cho loài người!”
- Nhưng - bà Mactanh vừa cười vừa nói - thưa ông Ven xx, chính ông là người viết cái đó. Tôi đã đọc sách của ông mà.
Trong lúc đó, bá tước Mactanh và Loayê đi khắp nhà hát và các hành lang vẫn không tìm thá\ấy Larivie. Theo lời những cô gái dẫn chỗ, họ đi vào hậu trường và vượt qua các phòng màn nâng lên hạ xuống, bước vào phòng khiêu vũ giữa đám diễn viên đóng vai những cô gái Đức bận váy đỏ, những mụ phù thủy, những con quái vật, những kỹ nữ thời cổ đại. Trang trí bằng những tranh ảnh tượng trưng, căn phòng vắng vẻ, rộng thênh thang, có vẻ trang nghiêm như những cơ quan nhà nước hay những tổ chức của kẻ quyền quý.
Hai vũ nữ đứng bất động, một chân đặt lên thanh g chạy dọc tường. Lác đác, đàn ông mặc áo đen và đàn bà bận váy phồng ngắn họp thành những nhóm nhỏ im lặng.
Loayê và Mactanh - Benlem ngả mũ chào. Ở phía cuối phòng, họ thấy Larivie ngồi với một cô gái đẹp, áo chẽn màu hồng chẻ ở hai bên hông để lộ quần nịt bên trong và thắt lưng màu vàng.
Cô gái cầm ở tay một cái giải thưởng bằng cactông mạ vàng. Bước lại gần, hai người nghe cô ta nói với Larivie:
- Ông già rồi nhưng tôi tin chắc ít ra ông cũng không thua kém hắn.
Cô ta khinh khỉnh giơ tay chỉ một chàng trai đứng gần đấy đang cười khẩy, trên khuy áo cài một bông hoa dành dành.
Loayê ra hiệu cho Larivie muốn nói chuyện với ông ta, và bảo, sau khi hai người đến gần thanh gỗ dọc áp tường:
- Tôi vui mừng báo tin là ông được cử làm bộ trưởng Chiến tranh.
Larivie ngờ vực không trả lời. Ông ta khó có thể tin cậy một kẻ ăn mặc lôi thôi, tóc để dài, có vẻ một tay làm trò ảo thuật ở tiệm cà phê trong chiếc áo ngắn lụng thụng và bụi bặm như thế. Hắn có thẻ giương một cái bẫy, cũng có thể làm một trò đùa tai quái.
- Ông Loayê, bộ trưởng Tư pháp. - Bá tước Mactanh bèn giới thiệu.
Loayê là vẻ sốt sắng:
- Tướng quân không thể lảng tránh được đâu. Tôi đã bảo đảm là ông sẽ nhận lời. Nếu ông lưỡng lự thì có thể để cho Garanh quay trở lại tấn công đấy. Hắn là một kẻ phản phúc.
- ông bạn đồng nghiệp thân mến, ông cường điệu đấy. - Bá tước Mactanh xen vào - Có lẽ Garanh chỉ không thành thực chút đỉnh thôi. Và ông Larivie cần nhận lời ngay.
- Tổ quốc trước hết. - Larivie ấp úng vì xúc động.
- Tướng quân biết rồi đấy. - Loayê nói tiếp - Thi hành các đạo luật hiện hành với một sự ôn hòa bất di bất dịch. Ông chớ vượt ra ngoài giới hạn đó.
Ông ta đăm đăm nhìn hai vũ nữ đặt cặp đùi lực lưỡng trên thanh gỗ dọc.
Larivie thì thầm:
- Tinh thần quân dội rất tốt!… Ý chí của người chỉ huy ngang tầm những tình huống nguy kịch nhất…
Loayê vỗ vai ông ta:
- Những đội quân hùng vĩ bao giờ cũng tốt, ông bạn đồng nghiệp thân mến ạ.
- Tôi đồng ý với ông. - Larivie đáp - Quân đội hiện nay đáp ứng được những yêu cầu tối cao của quốc phòng.
- Những đội quân hùng vĩ - Loayê đáp - Quân đội hiện nay đáp ứng được những yêu cầu tối cao của quốc phòng.
- Những đội quân hùng vĩ - Loayê nói tiếp - có mặt tốt ở chỗ ngăn chặn không để xảy ra chiến tranh. Có điên mới đưa vào chiến tranh những lực lượng vô tận mà việc sử dụng vượt lên mọi khả năng của con người. Ý kiến tướng quân quả là như vậy chứ?
Tướng Larivie nháy mắt:
- Tình thế đòi hỏi phải hết sức thận trọng. Chúng ta đứng trước một kẻ địch đáng gờm mà ta chưa nắm được.
Nhìn ông bạn bộ trưởng Chiến tranh với chút khinh thị. Loayê đáp:
- Trong trường hợp xảy ra một cuộc chiến tranh - rất khó có thể xảy ra – ông có nghĩ rằng những vị tướng thực sự sẽ như là những viên trưởng ga không, ông bạn đồng nghiệp thân mến?
Ba ngài bộ trưởng bước xuống tam cấp. Ngài thủ tướng chờ họ ở nhà riêng.
Trên sân khấu bắt đầu màn cuối. Trong dãy ghế lô, bên cạnh bà Mactanh chỉ còn ĐơsactrơBen nói với nàng:
- Darling, tôi vui mừng, tiếng Pháp thì nói thế nào nhỉ? À, tôi hết sẽ xúc động khi nghĩ là cô mang trên ngực bông huệ đỏ của Phiôrăngx. Và Đơsactrơ với tâm hồn nghệ sĩ chắc hẳn sung sướng thấy vật bán dễ thương này cài trên áo cô. Ồ! Tôi rất muốn biết người thợ kim hoàn, tác giả của nó, darling ạ! Bông huệ này mảnh mai, uyển chuyển như một bông diên vĩ. Ồ! Nó duyên dáng, lộng lẫy và trông dễ sợ. My love, cô có chú ý là những châu báu quý giá đều có vẻ dễ sợ một cách lộng lẫy không?
- Người thợ kim hoàn của tôi ấy à? - Têredơ nói - Ông ấy đang ở đây, và đã được cô gọi tên ra: chính là ông Đơsactrơ, người đã vui lòng vẽ vật trang sức này.
Cửa dãy ghế lô bỗng mở, Têredơ hơi quay đầu lại. Trong bóng tối, Lơ Mênin chào nàng.
- Thưa bà, tôi nhờ bà chuyển những lời chúc mừng của tôi tới ông nhà.
Giọng đượm chút lạnh lùng, anh khen khí sắc của nàng và nói mấy mời lịch sự và đứng đắn với Ben.
Vẻ lo âu, miệng hé mở, Têredơ nghe anh nói, cố gắng một cách vất vả trả lời những điều vô nghĩa. Anh hỏi nàng vừa qua có sống những ngày thú vị ở Gioăngvin không. Lúc đó, anh rất muốn đến Giongăngvin trong mùa săn bắn. Nhưng anh không đến được vì anh lênh đênh trên Địa Trung Hải, và sau đi săn ở Xêmăngvin.
- Ồ! Ông Lơ Mênin, - Ben nói - ông đã lênh đênh trên mặt biển xanh. Ông có gặp người cá không?
- Không, anh không gặp người cá; nhưng trong ba ngày liền, một con cá heo bơi theo sau thuyền.
Ben hỏi con cá heo ấy có thích âm nhạc không.
Anh cho là không.
- Cá heo - anh nói - chỉ là những con cá nhà táng nhỏ mà giới thủy thủ gọi là ngỗng biển vì hình thù cái đầu hơi giống đầu ngỗng.
Nhưng Ben không con quái vật đã từng đưa nhà thơ Ariông đến mỏm Tênarơ 7. lại có cái đầu giống như đầu ngỗng.
- Thưa ông Lơ Mênin, nếu năm tới vẫn có con cá heo bơi theo tàu thì xin ông thổi sáo bài thánh ca dâng Apôlông ở Đenphơ 8. Ông có yêu biển không, ông Lơ Mênin?
- Tôi thích rừng hơn.
- Ồ! Thưa ông Lơ Mênin, tôi biết ông rất yêu những cánh rừng và những khu rừng thưa trong đó những chú thỏ con nhảy múa dưới ánh trăng.
Đơsactrơ mặt tái nhợt đứng dậy ra ngoài.
Sân khấu đang diễn cảnh trong nhà thờ, Macgơrit quỳ gối, hai tay xoắn vào nhau, dần nghiêng theo những lọn tóc dài màu hung thẫm, tiếng đàn oocgơ và dàn đồng ca cất lên bài ca tụng người chết:
Khi từ Thượng đế phát ra
Hào quang lấp lánh, chói lòa trên không
Cây thánh giá sáng bừng chấp chới
Ấy là khi thế giới tiêu vong.
- Ồ! Darling, cô có biết bài tụng ca người chết mà người ta hát trong nhà thờ Cơ đốc giáo ấy bắt nguồn từ một ẩn sĩ dòng thánh Phranxit không? Nó vang vọng tiếng gió mùa đông thổi vào những cây thông rụng lá trên đỉnh Anvecnơ đấy.
Têredơ không nghe thấy. Tâm trí nàng bị hút theo cánh cửa ra vào dãy ghế lô.
Trong phòng khách, có tiếng đụng ghế bành. Sơmôn trở lại. Ông vừa nghe tin Mactanh-Benlem được cử làm bộ trưởng, ngay lập tức ông đòi bắc đẩu bội tinh và một căn nhà rộng hơn ở Viện hàng lâm. Căn phòng của ông tối tăm, chật chội không đủ cà vợ và năm cô con gái. Ông phải đặt phòng làm việc trên gác xép. Ông không bớt than vãn và chỉ chịu bước ra sau khi bà Mactanh hứa sẽ can thiệp giúp ông.
- Ông Lơ Mênin, - Ben hỏi - năm tới, ông có đi biển không?
Lơ Mênin cho là không. Anh không muốn giữ lại con tàu Rôdơbuyt. Biển cả buồn bã lắm.
Và điểm tĩnh, kiên nghị, bướng bỉnh, anh nhìn Têredơ.
Trên sân khấu, trong nhà giam Macgơrit, Mêphixtô-phêlex 9. cất lời ca: “Mặt trời đã sáng” và dàn nhạc bắt chước tiếng ngựa phi khủng khiếp. Têredơ thầm thì:
- Tôi đau đầu, ở đây đến chết ngạt mất.
Lơ Mênin bước ra mở hé cửa.
Tiếng hát trong suốt của Macgơrit kêu gọi các thiên thần bay vút lên không trung.
- Darling, tôi muốn nói với cô điều này: cô bé Macgơrit tội nghiệp kia không muốn được cứu vớt về mặt thể xác, và vì vậy, được cứu vớt về tinh thần và chân lý. Tôi tin một điều, darling ạ, tôi tin chắc là tất cả chúng ta rồi sẽ được cứu vớt. Ồ! Đúng thế, tôi tin là rốt cuộc những người phạm tội sẽ được rửa tội.
Têredơ đứng dậy, mảnh khảnh, xanh xao, bông hoa đỏ rực như máu trên ngực. Ben im lặng nghe nhac. Trong phòng khách, Lơ Mênin cầm áo măng tô của bà Mactanh. Trong lúc anh chăng áo ra thì nàng bước qua dãy ghế lô, và phòng khách và dừng lại trước tấm gương bên cạnh cánh cửa hé mở. Anh lướt tay qua đôi vai trần và khoác cho nàng tấm áo khoác rộng bằng nhung đỏ thêu kim tuyến lót lông chồn, và nói rất nhỏ với một giọng sắc gọn, rành rọt:
- Têredơ, tôi yêu cô. Cô hãy nhớ lại điều tôi yêu cầu cô hôm trước. Ngày nào cũng vậy, từ ba giờ, tôi có mặt ở căn phòng của chúng ta, đường Xpôngtini.
Vào lúc đó, khi nghiêng đầu để xốc lại măng tô, nàng nhìn thấy Đơsactrơ đặt tay lên nắm cửa. Anh đã nghe thấy. Anh nhìn nàng với tất cả sự trách móc và nỗi đau đớn có thể chịu đựng trong ánh mắt. Rồi anh đi khuất vào bóng tối hành lang. Nàng cảm thấy tâm can như bốc cháy và đứng sững trên ngưỡng cửa.
- Con chờ bố à? - Môngtexxuy bước tới hỏi nàng. - Hôm nay con thật cô đơn, bố sẽ đưa con và Ben về.
Chú thích:

1.

Kịch của “Gơt, đại văn hào Đức, thế kỷ 18 19

2.

Hoàng đế La Mã, thế kỷ 1 sau công nguyên, người chiếm đóng và phả hủy thành phố Giêrudalem

3.

Nhân vật trong vở Phôxtơ

4.

Nguyên tổng thống Pháp

5.

Nguyên thủ tướng Pháp

6.

Nhà văn Pháp, thế kỷ19

7.

Nhà thơ Hy Lạp, thế kỷ 7 trước CN, bị bọn cướp biển vứt xuống biển nhưng được cá heo say mê tiếng đàn của ông cứu thoát (theo truyền thuyết).

8.

Thành phố c Hy Lạp, nơi có đền thờ thần Apôlông

9.

Ma thần, nhân vật trong vở Phôxtơ

XXXIII. Ngồi trong xe ngựa và sau đó vào phòng, nàng nhớ lại ánh mắt người yêu, một ánh mắt dữ dằn và đau khổ. Nàng biết tính chàng vốn dễ thất vọng, dễ chán nản. Nàng đã từng thấy chàng bỏ trốn trên bờ sống Acuô. Lúc đó vừa sung sướng nhưng vừa buồn bã, kinh hoàng, nàng đã chạy theo kêu chàng: “Anh tới đây!” Cả lần này nữa, bị vây bọc, bị theo dõi, nhẽ ra nàng phải tìm cách nói được một điều gì đó và không để chàng bỏ đi âm thầm, buồn nản. Nhưng nàng đã sững sờ, xót xa. Sự việc xảy ra quá phi lý, quá bất ngờ. Nàng cảm thấy hết sức xa cách Lơ Mênin nên không nghĩ đến chuyện giận dữ anh, và nàng gạt anh ra khỏi tâm tưởng. Chính nàng tự oán trách bản thân mình đã để người yêu bỏ đi, không nói với chàng một lời, không có với chàng một ánh mắt chứa đựng nỗi lòng mình.
Pôlia chờ thay quần áo cho nàng nhưng nàng bực bội đi lui đi tới. Rồi bỗng dừng lại đột ngột. Trong tấm gương đặt trong bóng tối còn le lói mấy ngọn nến, nàng nhớ lại hành lang nhà hát và hình ảnh người yêu bỏ di không trở lại.
Bây giờ, chàng ở đâu? Một mình, chàng nghĩ ngợi ra sao? Nàng hết sức đau khổ không sao gặp lại chàng ngay tức khắc.
Nàng đặt mãi hai bàn tay lên ngực, nghẹn ngào.
Pôlia thốt lên một tiếng kêu nhỏ, khi thấy mấy giọt máu trên tấm áo trắng của Têredơ. Nàng làm rách xước bàn tay vì đụng phải nhị bông huệ đỏ mà không hề biết.
Nàng gỡ viên ngọc quý tượng trưng mà nàng vốn mang trước mặt mọi người như là nỗi niềm thầm kín dữ dội của con tim mình, và cầm nó trên tay, ngắm nghía nó mãi. Thế là nàng nhớ lại những ngày ở Phiôrăngx, nhớ lại căn phòng ở Xan Macô, nơi người yêu khẽ hôn lên môi nàng, trong lúc qua hàng mi lim dim, nàng mơ màng nhìn thấy các thiên thần và bầu trời xanh vẽ trên tường, nhìn thấy bình nước sáng chói của người hàng ren trên tấm thảm đỏ. Nàng nhớ lại tòa lâu đài ở Anphiêri với tượng đài các nữ thủy thần và những con đê đá: nhớ lại căn phòng nàng đắm đuối trong những tiếng kêu hoan lạc và những phút im lặng kéo dài giữa những tấm màn gió vẽ hình người.
Không, tất cả cái đó không phải là hình bóng của quá khứ, không phải là bóng ma của những giờ phút đã qua, mà chính là thực tại tình yêu của nàng. Thế mà chỉ một câu nói của một kẻ xa lạ thốt ra một cách ngu ngốc đã phá tan những điều đẹp đẽ ấy! Nhưng may thay, không thể như thế được. Tình yêu của nàng, người yêu của nàng không tùy thuộc vào một sự khốn kiếp như thế. Giá nàng chạy đến được với chàng như nàng đang đứng đây, trong đêm tối, áo xiêm trễ tràng thế này, và bước vào phòng chàng… Chắc hẳn nàng sẽ thấy chàng ngồi trước lò sưởi, hai tay chống gối, buồn bã ôm lấy đầu. Lúc đó, luồn ngón tay vào mái tóc người yêu, nàng sẽ buộc chàng ngẩng đầu lên để thấy rõ nàng yêu chàng, nàng là của chàng, là kho báu, niềm vui và tình yêu sống động của chàng.
Nàng cho cô gái hầu phòng trở ra. Nằm trên giường trong lúc để đèn sáng, nàng trằn trọc với một ý nghĩ duy nhất.
Việc xảy ra chỉ là một sự tình cờ, một sự tình cờ phi lý. Chắc chàng sẽ hiểu là sự việc ngu ngốc ấy không dính dáng tới tình yêu của họ. Chàng mà phải lo sợ một kẻ khác thì thật là điên cuồng! Làm như thể đối với nàng còn có những người đàn ông khác trên đời!
Mactanh-Benlem hé mở cửa phòng. Thấy đèn sáng, anh bước vào.
- Cô không ngủ hay sao, Têredơ?
Anh vừa mới hội kiến với các bạn đồng nghiệp ở nhfa Becchiê Đâyđen. Anh muốn hỏi ý kiến vợ - mà anh biết là người thông minh - về một vài điểm. Nhất là anh muốn nghe những lời nói chân thành.
- Thế là xong. - Anh nói - Tôi ở trong một hoàn cảnh người ta thèm muốn, nhưng cũng rất khó khăn và thậm chí hiểm nghèo nữa. Tôi chịu ơn cô một phần bởi nhờ có ảnh hưởng to lớn của ông cụ. Tôi tin chắc là trong hoàn cảnh này, cô sẽ giúp tôi.
Anh nàng về việc chọn một viên chánh văn phòng.
Nàng cố gắng bàn bạc với anh. Nàng thây anh biết điều, điềm tĩnh và không dại dột hơn những kẻ khác.
Anh trầm ngâm suy nghĩ:
- Tôi phải bảo vệ trước Thượng viện ngân sách đã được Hạ viên thông qua. Ngân sách này có những sự đổi mới mà tôi không tán thành. Là hạ nghị sĩ, tôi đã từng phản đối. Nhưng nay là bộ trưởng, tôi phải ủng hộ. Tôi nhìn sự vật qua bề ngoài của chúng. Nếu nhìn từ bên trong thì chúng thay hình đổi dạng. Và chăng, tôi đâu có tự do.
Anh thở dài:
- A! Giá người ta biết là chúng tôi không thể làm được bao nhiều khi chúng tôi cầm quyền!
Anh thổ lộ tâm trạng với nàng. Becchiê thì giữ mình. Những người khác thì kín như bưng. Chỉ riêng Loayê là tỏ ra cực kỳ độc đoán.
Nàng nghe anh nói, không chủ ý nhưng cũng không sốt ruột. Với nàng, khuôn mặt và giọng nói nhẹ nhàng của anh điểm những giây phút chậm rãi trôi qua như một chiếc đồng hồ.
- Loayê có những phút hung hăng kỳ cục. Và như thế đúng vào lúc ông ta tuyên bố triệt để hợp tác với Giáo hội: “Giám mục – ông ta nói – là những vị tỉnh trưởng về tinh thần. Tôi sẽ bênh vực họ vì họ thuộc về tôi. Và qua họ tôi sẽ nắm đám “tuần phiên về linh hồn” là các linh mục.”
Anh nhắc lại với nàng là nàng sẽ có mặt trong một thế giới không phải là thế giới của nàng: chắc hẳn thế giới đó sẽ làm nàng khó chịu về cái tầm thường của nó. Nhưng vị trí của họ buộc họ không được khinh miệt một ai hết. Hơn nữa, anh trông cậy vào sự tinh tế và lòng tận tụy của nàng. Nàng nhìn anh, có phần hoảng hốt.
- Đã có gì cấp bách đâu anh, sau này hẵng hay…
Anh mệt mỏi, rã rời. Anh khuyên nàng nằm nghỉ và chúc nàng ngủ ngon, đứng đọc sách suốt đêm để khỏi hại sức khỏe và đi
Nàng nghe tiếng chân anh bước có phần nặng nề hơn thường ngày, khi anh đi qua phòng làm việc chất đầy tư liệu và báo chí để bước vào buồng riêng. Chắc anh ngủ trong đó. Rồi nàng cảm thấy sức nặng của bầu không khí im lặng trong đêm. Nàng nhìn đồng hồ. Đã một rưỡi.
Nàng nghĩ bụng: “Chàng cũng đau khổ… chàng nhìn mình với ánh mắt thất vọng và giận dữ biết chừng nào!”
Nàng vẫn hoàn toàn dũng cảm và đắm say. Điều làm nàng sốt ruột là bị cầm tù ở đây và như thể tách biệt khỏi mọi người. Sáng sớm mai, trở lại tự do, nàng sẽ đi, sẽ gặp chàng; tê tái, nàng nghe tiếng xe bò lăn bánh, từng quãng một trên đường, tiếng trục xe rít lên, tiếng móng ngựa bịt sắt gõ lộp cộp; tất cả yếu dần đi và cuối cùng chỉ còn là một chút ồn ã mơ hồ.
Đêm trường yên tĩnh trở lại thì nàng cũng trở lại trầm ngâm suy nghĩ.
Chắc hẳn chàng sẽ hiểu nàng yêu chàng, bao giờ cũng chỉ có yêu chàng. Khốn nỗi, đêm trường kéo dài lê thê. Nàng không dám nhìn đồng hồ, sợ thấy thời gian bất động.
Nàng rời khỏi giường, bước tới cửa sổ và cuốn riđô lên. Một vệt sáng yêu ớt trên bầu trời u ám. Nàng nghĩ là trời hửng đông. Nàng nhìn đồng hồ. Ba rưỡi.
Một lần nữa, nàng lại đến bên cửa sổ. Không gian vô tận mờ ảo thu hút nàng. Nàng nhìn đăm đăm. Hè phố lấp lánh dưới những ngọn đèn đường. Mưa phùn âm thầm dưới bầu trời nhợt nhạt. Bỗng trong đêm trường tĩnh mịch nổi lên tiếng người, lúc đầu chói chang rồi về sau trầm đục, ngắt quãng như gồm nhiều giọng nói đối đáp nhau. Một gã say rượu lang thang trên hè phố, vấp phải cây cối, ba hoa tranh cãi với những người đối thoại vô hình, hoa chân múa tay, hùng hùng hổ hổ. Têredơ nhìn thấy, dọc bao lơn trên bờ sông, gã say rượu tội nghiệp lùng bùng trong chiếc blu trắng như một tấm giẻ rách trước ngọn gió đêm, và từng quãng một, nàng nghe mấy từ lặp đi lặp lại; “Đấy, ta nói cho chính phủ biết như thế đấy!”
Cảm thấy lanh, nàng lại lên giường. Bỗng nàng kinh hoàng. Nàng nghĩ: “Chàng ghen, ghen một cách điên cuồng. Vấn đề thần kinh và khí huyết. Nhưng tình yêu của chàng cũng là vấn đề khí huyết và thần kinh. Giá một người khác thì sẽ hiểu ra. Chỉ cần thỏa mãn lòng tự ái của chàng”. Nhưng chàng thì lại ghen với một tình dục kỳ quái. Nàng biết như vậy, biết rằng ở chàng, ghen tuông là một sự dày vò cơ thể, một vết thương ngày thêm nghiêm trọng mà những nỗi dằn vặt trong tâm tưởng ngày càng khoét rộng ra. Nàng biết nỗi đau sâu lắng biết chừng nào. Nàng đã từng thấy chàng tái người đi trước bức tượng thánh Mac bằng đồng hun khi nàng chuồi bức thư vào thùng bưu điện, trong lúc chàng chỉ mới chiếm đoạn nàng trong ham muốn và trong mơ ước.
Nàng nhớ lại những lời than vãn nghẹn ngào, những cơn buồn đột ngột của chàng sau này, sau những cái hôn đằm thắm; nhớ lại nỗi đau đớn âm thầm trong những lời chàng nhắc đi nhắc lại: “Anh phải quên em trong chính bản thân em”. Nàng nhớ lại bức thư gửi đi Đina, nhớ lại nỗi thất vọng giận dữ của chàng khi nghe một lời nói bâng quơ ở quán rượu. Nàng cảm thấy miếng đòn đã tình cờ đánh vào chỗ nhạy cảm nhất, vào vết thương đang rỉ máu. Nhưng ngàng vẫn không nản lòng. Nàng sẽ nói hết, sẽ thú hét, và tất cả những lời thú nhận của nàng sẽ chỉ để khẳng định: “Êm yêu anh, bao giờ em cũng chỉ yêu có một mình anh!”. Nàng không hề phản bội chàng. Nàng sẽ chỉ nói những gì đã đoán biết. Trước đây, nàng chẳng dối trá bao nhiêu, chỉ hết sẽ ít thôi, chỉ để khỏi làm chàng buồn đau thôi. Làm sao chàng lại không hiểu điều đó? Thà chàng biết tất cả còn hơn, vì cái tất cả ấy chẳng là gì hết. Nàng không ngừng hình dung trong đầu những suy nghĩ, nhắc đi nhắc lại những lời lẽ trước sau không hề thay đổi.
Ngọn đèn dầu bốc khói. Nàng đốt nến lên. Đã sáu rưỡi. Thì ra nàng đã ngủ thiếp đi. Nàng chạy lại cửa sổ. Trời mù mịt và đất trời lẫn lộn trong đám sương mù dày đặc. Nàng bỗng nảy ra ý muốn tò mò xem đúng mấy giờ thì mặt trời xuất hiện. Nàng chẳng có một ý niệm nào về cái đó. Nàng chỉ nghĩ là vào tháng chạp, đêm rất dài. Nàng cố gắng nhớ lại, nhưng không tìm thấy. Nàng không hề có ý nghĩ nhìn vào cuốn lịch để quên trên bàn. Tiếng rậm rịch của những tốp thợ, tiếng lọc cọc của những người hàng sữa và hàng rau đập vào tai nàng như những tiếng báo hiệu điềm lành. Nàng giật mình trước sự thức giấc đầu tiên ấy của phố phường.
XXXIV. Chín giờ. Trong sân ngôi nhà nhỏ, nàng thấy ông Phuydơliê đang quét dưới trời mưa miệng ngậm pip. Bà Phuydơliê từ trong nhà gác cổng bước ra. Cả hai ông bà đều có vẻ bối rối. Bà Phuydơliê lên tiếng trước tiên.
- Ông Giăc không có nhà.
Têredơ đứng im lặng. Cầm chổi ở tay Phuydơliê bước tới, bàn tay trái trái giấu cái pip ra sau lưng:
- Ông Giăc đi vắng chưa về.
- Tôi chờ ông ấy. - Têredơ đáp.
Bà Phuydơliê đưa nàng vào phòng khách và đốt lò sưởi. Củi bốc khói và không cháy. Bà cúi xuống, hai tay chống lên đùi:
- Trời mưa làm củi không nóng.
Bà Mactanh nhỏ nhẹ bảo không cần đốt lửa vì nàng không lạnh.
Nàng soi gương.
Da mặt nàng tái xanh, hai bên má đỏ rực. Cảm thấy hai chân tê buốt, nàng ngồi sát vào lò sưởi. Thấy nàng băn khoăn, bà Phuydơliê lựa lời nói:
- Ông Giăc sắp về thôi. Mời bà sưởi cho ấm trong lúc chờ đợi.
Cùng với mưa rơi, ánh sáng buồn bã đổ xuống trần nhà có lắp kính. Dọc tường, tượng nữ thần Kỳ lân, cử chỉ cứng đờ, nước da nhợt nhạt, không còn vẻ diễm lẹ giữa đám kỵ sĩ trong khu rừng đầy hoa lá chim chóc nữa. Têredơ không ngừng lẩm bẩm: “Anh ấy vẫn chưa về”, và nói đi nói lại mãi, nàng không còn biết mình nói gì nữa. Hai mắt cay xè, nàng đăm đăm nhìn ra cửa.
Nàng ngồi như vậy không cử động, không suy nghĩ và cũng không biết ngồi đã bao lâu: có lẽ đã nửa tiếng.
Có tiếng chân bước, cánh cửa hé mở. Anh bước vào. Nàng thấy anh ướt đầm, lấm láp những bùn, ánh mắt sáng sực vì sốt.
Nàng ngước nhìn anh với một ánh mắt chân thành, thẳng thắn đến mức anh phải sửng sốt. Nhưng hầu như ngay lập tức, anh nhớ lại tất cả nỗi đau khổ trong tận đáy lòng.
Anh nói với nàng:
- Cô còn muốn gì ở tôi nữa? Cô đã gây cho tôi tất cả nỗi đau cô có thể gây cho tôi rồi.
Nỗi mệt mỏi in trên khuôn mặt anh một nét dịu dàng. Nàng thấy thế đâm kinh hoảng.
- Giăc, anh hãy nghe em nói…
Anh ra hiệu cho nàng là anh không có gì phải nghe nàng nói nữa.
- Giăc, anh hãy nghe em nói. Em không hề lừa dối anh. Ồ! Không, em không lừa dối anh. Có thể như thế được không? Có thể…
Anh cắt ngang lời nàng:
- Cô hãy thương tôi. Đừng làm tôi đau khổ thêm nữa. Hãy buông tha tôi, tôi van cô. Nếu cô biết tôi đã sống đêm qua như thế nào thì chắc hẳn cô không thể có can đảm giày vò tôi nữa.
Anh ngồi phịch xuống chiếc tràng kỷ, nơi trước đây sáu tháng, anh đã âu yếm hôn nàng sau tấm mạng.
Suốt đêm qua, anh lang thang dọc sông Xen, đi ngược lên tận bờ trồng đầy dương và liễu. Để khỏi quá đau khổ, anh tưởng tượng ra những trò giải trí. Trên bến cảng Becxy, anh nhìn vầng trăng luồn trong mây. Trong suốt một tiếng, anh nhìn trăng khi tỏ, khi mờ. Rồi anh tỉ mỉ đếm số ô cửa sổ các ngôi nhà. Mưa bắt đầu rơi. Anh đi vào khu chợ, ghé vào quán uống rượu mạnh. Một cô gái phục phịch, mắt lé, bảo anh: “Sao anh buồn bã thế?” Anh ngồi thiếp đi trên một chiếc ghế đá. Mấy phút giây bình yên.
Những hình ảnh trong cái đêm đau đớn ấy lướt qua trước mắt. Anh nói:
- Tôi đã nhớ lại cái đêm ở Acnô. Cô đã làm tiêu tan tất cả niềm vui và cái đẹp của cuộc đời trong lòng tôi.
Anh năn nỉ nàng để anh ngồi một mình. Trong nỗi chán chường, anh hết sức xót thương bản thân mình. Anh chỉ muốn ngủ giá như ng; chứ không phải muốn chết; cái chết làm anh kinh hoàng. Nhưng ngủ và không bao giờ tỉnh giấc nữa. Song anh lại thấy nàng trước mắt mình, vẫn khêu gợi như xưa mặc dù nước da nhợt nhạt và cặp mắt ráo hoảnh đăm đăm vẻ đau đớn. Và giờ đây nàng đang ngờ vực, bí ẩn hơn bao giờ hết. Anh nhìn nàng. Giận hơn tăng theo đau khổ. Với ánh mắt dữ dằn, anh tìm kiếm trên người nàng kỷ niệm về những sự mơn trớn không phải của anh.
Nàng dang tay về phía anh:
- Anh hãy nghe em nói, Giăc.
Anh ra hiệu là nàng không cần nói nữa. Thế nhưng anh lại muốn nghe nàng nói và anh đã bắt đầu nghe nàng nói với tất cả nỗi thèm khát. Anh ghét điều nàng sắp nói, bác bỏ nó ngay từ đầu, nhưng đấy lại chính là điều anh quan tâm hơn hết trên đời. Nàng nói:
- Anh có thể nghĩ là em phản bội anh, là không chỉ sống trong một mình anh và vì một mình anh mà thôi. Nhưng anh không hiểu gì hết cả hay sao? Anh không thấy là nếu người đó là người tình của em thì người ta đã không cần nói với em ở nhà hát, trong dãy ghế lô ấy. Ồ! Không, anh yêu mến của em, em cam đoan với anh là từ khi em có hạnh phúc - và cả giờ đây, bị đau khổ, bị giày vò, em vẫn nói em có hạnh phúc - được biết anh, em hoàn toàn thuộc về anh. Làm sao em có thể thuộc về một người khác? Thật là khủng khiếp, cái điều anh tưởng tượng ra ấy. Em yêu anh, em yêu anh! Em chỉ yêu một mình anh. Bao giờ em cũng chỉ yêu một mình anh.
Anh chậm rãi trả lời, nhấn mạnh từng từ một cách tàn nhẫn.
- “Từ ba giờ, ngày nào anh cũng có mặt ở nhà chúng ta, đường Xpôngtini”. Không phải là một người tình, người tình của cô, nói với cô như vậy sao? Không phải à? Một người lạ, một người không quen biết à?
Nàng đứng vụt dậy, và với vẻ trang nghiêm đến đau đớn, nàng nói:
- Đúng, em đã từng thuộc về anh ấy. Anh biết rõ rồi. Em đã quanh co, đã dối trá, để khỏi làm anh đau đớn, giận hờn. Lúc đó, em thấy anh khắc khoải, âu sầu. Nhưng em có nói dối bao nhiêu đâu và em nói dối vụng về biết chừng nào! Anh biết như vậy rồi mà, anh thường nói với em về quá khứ, thế là một hôm, ở quán rượu, người ta bao ranh… Và anh tưởng tượng ra nhiều hơn sự thật. Em nói dối nhưng em đâu có lừa anh! Giá anh biết đời em chẳng mướng vui! Thế đây! Lúc đó, em chưa biết anh. Em không biết là ánh sẽ tới. Em buồn tủi mà.
Nàng quỳ sụp xuống:
- Em có lỗi. Đáng lẽ em phải chờ anh. Nhưng giá anh biết cái đó hoàn toàn không tồn tại, không bao giờ còn tồn tại nữa.
Và với giọng than vãn dịu dàng, âu yếm, nàng nói tiếp:
- Vì sao anh không tới sớm hơn? Vì sao?
Nàng lết lại cạnh anh, muốn cầm lấy tay anh, ôm lấy gối anh. Anh đẩy nàng ra.
- Tôi là đứa ngốc. Tôi không tin. Tôi không biết. Tôi không muốn biết.
Anh bật đứng dậy và, trong cơn giận dữ:
- Tôi không muốn, tôi không muốn kẻ đó là hắn.
Nàng ngồi vào chỗ anh vừa đứng dậy, và thấp giọng rên rỉ, nàng giảng giải chuyện quá khứ. Lúc bấy giờ nàng bị ném một thân một mình ra thế giới tầm thường đến kinh khủng. Mọi việc đã an bài và nàng đã nhượng bộ. Nhưng ngay sau đó nàng hối tiếc. Ồ! Giá anh biết đời nàng buồn tẻ xiết bao! Chắc hẳn anh sẽ không ghen tuông, anh sẽ thương xót nàng.
Nàng lắc đầu và qua những mớ tóc xõa tung, nhìn anh và nói.
- Nhưng đấy là em nói với anh về một người đàn bà khác. Em không có chút gì giống người đó cả. Em, em chỉ tồn tại từ khi biết anh, từ khi thuộc về anh.
Anh bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Bước chân giận dữ, cuồng dại, giống như lúc nãy anh bước đi trên bờ sông Xen. Anh bật lên một tiếng cười đau đớn:
- Đúng, nhưng trong lúc cô yêu tôi thì người đàn bà kia, người đàn bà không phải cô, thế nào?
Nàng nhìn a phẫn nộ:
- Anh có thể nghĩ…
- Thế cô không gặp hắn ở Phlôrăngx, cô không tiễn hắn ra ga?
Nàng kể hết sự tình với anh: Người kia tới tìm nàng ở Ý, nàng gặp và đoạn tuyệt với anh ta, anh ta giận dữ ra đi, và từ đó tìm cách chinh phục lại nàng, nhưng nàng không mảy may lưu tâm.
- Anh ơi, trên đời em chỉ thấy, chỉ biết có một mình anh.
Anh lắc đầu:
- Tôi không tin cô.
Nàng phản kháng:
- Em đã nói hết với anh. Anh hãy lên án em, kết tội em, nhưng chớ xúc phạm tình yêu của em đối với anh. Em cấm anh điều đó.
Anh lấy bàn tay trái che mắt.
- Cô hãy buông tha tôi. Cô đã làm tôi đau khổ quá nhiều. Tôi yêu cô tới mức tất cả những nỗi đau khổ cô có thể gây ra cho tôi, tôi đều nhận lấy, đều giữ gìn, mến yêu; nhưng nỗi đau khổ này thì thật khủng khiếp. Tôi căm thù nó. Cô hãy buông tha tôi, tôi đau khổ quá rồi. Vĩnh biệt!
Nàng đứng thẳng dậy, hai bàn chân nhỏ nhắn bám chắc tấm thảm:
- Em đã đến đây. Em đấu tranh cho hạnh phúc, cho cuộc sống của em. Em là đứa kiên quyết đến cùng, anh biết rồi đấy, Em không đi khỏi đây đâu.
Và nàng nói lại tất cả những điều nàng đã nói. Dữ dằn, chân thật và vững tin vào mình, nàng giảng giải nàng đã cắt đứt như thế nào sợi dây vốn đã kết thúc từ ngày nàng hiến thân trong lâu đài Anphiêri, nàng đã chỉ là của anh như thế nào, dĩ nhiên là nàng không ân hận, không một ánh mắt, một ý nghĩ sai lạc. Nhưng trong khi nói về một người khác, nàng làm cho anh khó chịu. Và anh thét lên
- Tôi không tin cô!
Thế là nàng lại bắt đầu nói lại những lời nàng đã nói.
Và bỗng nhiên, một cách bản năng, nàng nhìn đồng hồ:
- Lạy Chúa, mười hai giờ trưa rồi.
Đã nhiều lần, nàng kêu lên tiếng kêu hốt hoảng ấy khi đến giờ họ phải chia tay. Và Giăc giật nảy mình khi nghe câu nói quen thuộc ấy nhưng lần này biết bao xót xa và tuyệt vọng. Nàng vẫn nói những lời sôi nổi và đẫm nước mắt trong mấy phút nữa. Nhưng rồi đến lúc nàng phải ra về; nàng không thu được mảy may kết quả.
Về đến nhà, nàng thấy mấy bà bán hàn ngồi chờ trong tiền sảnh để tặng hoa. Nàng sực nhớ chồng mình làm bộ trưởng. Người ta gửi cho nàng từng tập điện tín, danh thiếp và thư từ, những lời chúc tụng, những điều thỉnh cầu. Bà Macmê viết thư nhờ nàng tiến cử người cháu với tướng Larivie.
Nàng bước vào phòng ăn và rũ rượi ngòi phịch xuống ghế. Mactanh-Benlem vừa ăn trưa xong. Người ta đang chờ anh vừa ở hội đồng nội các vừa ở nhà ông bộ trưởng Tài chính mới từ chức mà anh phải đến thăm xã giao. Thái độ khúm núm khôn khéo của đám nhân viên làm anh hãnh diện nhưng đồng thời cũng làm anh lo lắng, mệt mỏi.
- Em nhớ đến thăm bà Becchiê Đâyđen. Em biết là bà ấy dễ phật ý lắm đấy.
Nàng lặng im. Trong lúc trụng những nhón tay vàng khè vào chiếc bát pha lê, anh ngẩng đầu lên và thấy nàng rầu rĩ, hốc hác tới mức anh không dám nói gì hết.
Anh đứng trước một điều bí ẩn mà anh không muốn biết, trước một nỗi đau thương sâu nặng mà chỉ một lời không thôi cũng có thể làm bùng cháy. Anh cảm thấy lo âu, sợ hãi và trong lòng như dâng lên một cái gì trân trọng.
Anh bỏ khăn ăn xuống:
- Tôi xin lỗi.
Và bước ra.
Nàng gắng ăn nhưng không sao nuốt nổi. Nàng chán ngấy hết tất cả.
Khoảng hai giờ chiều, nàng trở lại ngôi nhà nhỏ ở phố Lê Tecnơ. Nàng gặp Giăc trong phòng. Anh ngậm một cái pip bằng gõ. Một tách cà phê gần cạn hết đặt trên bàn. Anh nhìn nàng với ánh mắt nghiêm khắc khiến nàng lạnh cả người. Nàng không dám lên tiếng, cảm thấy tất cả những điều nàng nói ra có thể làm anh khó chịu, bực dọc, nhưng nếu xuất hiện mà dè dặt, không nói năng gì thì sẽ khơi lại ngọn lửa giận hờn của anh. Anh biết nàng sẽ trở lại; anh chờ đợi nàng với sự nôn nóng của lòng hờn giận, của một trái tim lo âu chẳng khác trước kia, khi anh chờ đợi nàng trong lâu đài đường Anphiêri. Trong óc nàng bỗng vụt một tia sáng và nàng thấy mình đến đây là sai lầm: nếu nàng không đến, anh sẽ thèm muốn nàng, có thể sẽ gọi nàng đến. Nhưng đã quá muộn; hơn nữa nàng không tìm cách xảo trá.
Nàng nói với anh:
- Anh thấy đấy, em đã tới đây, em không thể làm khác. Vả chăng, như thế là hết sức tự nhiên thôi, bởi vì em yêu anh và anh biết điều đó.
Nàng cảm thấy rõ rệt tất cả những lời nàng có thể nói chỉ làm anh bực bội. Anh hỏi nàng có nói như vậy ở đường Xpôngtini không.
Nàng ngước lên anh một ánh mắt buồn vô hạn:
- Giăc, anh đã từng nhiều lần nói với em là trong thâm tâm, anh thù ghét em. Anh thích làm em đau khổ. Em thấy rõ điều đó.
Với một sự kiên nhẫn nồng nhiệt, kéo dài, nàng kể lại với anh toàn bộ cuộc đời mình - cuộc đời mà nàng chẳng mấy quan tâm - những nỗi u sầu trong quá khứ; giãi bày với anh từ khi anh chinh phục nàng, nàng chỉ sống nhờ có anh và trong lòng anh như thế nào.
Những lời nói tuôn ra trong suốt như ánh mắt trong suốt của nàng. Nàng ngồi cạnh anh, chốc chốc những ngón tay nàng nay đã trở nên rụt rè khẽ đụng vào anh, hơi thở nóng hổi của nàng phả vào anh. Anh nghe nàng nói với thái độ vừa khao khát vừa dữ dằn. Giận dữ đối với chính bản thân mình, anh muốn hết tất cả: những cuộc gặp mặt cuối cùng với người kia, sự đoạn tuyệt. Nàng kể lại chân thực những gì đã xảy ra, nhưng không nói là ở khách sạn Anh mà là trên đường Caxxin vì sợ hình ảnh buổi nói chuyện bi thảm của mình trong một căn phòng kín làm anh tức giận. Và giãi bày buổi gặp mặt ở sân ga. Nàng không muốn gây thêm đau thương cho một con người hung dữ đang đau khổ. Từ ấy, nàng không có tin tức gì của người kia, cho tới hôm người đó nói với nàng trên đại lộ Mac-Mahông. Nàng nhắc lại những điều người đó nói dưới bóng cây Thánh giá. Hai ngày sau, nàng gặp lại người ấy ở nhà hát Ôpêr, trong dãy ghế lô. Dĩ nhiên, nàng không khuyến khích người ta tới. Đó là sự thật.
Đúng, đó là sự thật. Song liều thuốc độc ngày trước, chậm rãi tích tụ lại trong người, đốt cháy tâm can anh. Quá khứ, quá khứ không sao cứu vãn được; với những lời thú nhận, nàng làm cho nó trở thành hiện tại trước mắt anh. Anh nhìn thấy hình ảnh quá khứ dày vò mình.
Anh bảo nàng:
- Tôi không tin cô… Và giả sử tin cô thì tôi cũng không thể gặp lại cô khi chỉ cần nghĩ là cô đã từng thuộc về hắn. Tôi đã nói với cô, đã viết thư cho cô - ở Đina, cô còn nhớ chứ? - Tôi không muốn kẻ đó là hắn. Và từ ấy…
Anh ngừng lời. Nàng nói:
- Anh biết rõ là từ ấy k hông hề có gì hết.
- Từ ấy tôi đã thây rõ.
Cả hai người lặng im một lúc lâu. Cuối cùng, nàng nói, ngạc nhiên và rên rỉ:
- Nhưng anh hẳn phải nghĩ rằng với tư cách như của em bây giờ, với tư cách là người có chồng lúc đó… Ngày nào cũng có những người đàn bà mang lại cho người người của họ một dĩ vãng nặng nề hơn dĩ vãng của em, thế nhưng họ vẫn được yêu. A! Dĩ vãng của em, giá anh biết nó có là gì đâu.
- Tôi biết cái mà cô đem cho. Tôi không thể tha thứ cho cô điều mà tôi có thể tha thứ cho một người đàn bà khác.
- Nhưng em cũng như mọi người đàn bà khác thôi.
- Không, cô không phải như những người khác. Đối với cô, không thể tha thứ gì hết.
Anh nói, hai môi mím lại, hàm răng nghiến chặt, giận dữ. Mắt anh, đôi mắt nàng từng thấy mở rộng vừa nồng cháy vừa dịu dàng thì giờ đây ráo hoảnh, lạnh lùng, lim dim giữa hai mí nhíu lại; anh ngước lên nàng một ánh mắt lạ lẫm. Anh làm nàng sợ.
Nàng đến ngồi ở một góc cuối phòng, trong lòng buồn bã, hai mắt mở to kinh ngạc như một đứa trẻ. Nàng ngồi lên trên ghế, run rẩy, nghẹn nào và rơi lệ.
Anh thở dài:
- Vì sao tôi lại biết cô?
Nàng đáp trong nước mắt:
- Em, em không ân hận là đã biết anh. Em có thể chết nhưng em không ân hận. Em đã yêu.
Anh khăng khăng làm nàng đau khổ một cách tàn nhẫn. Anh cảm thấy mình ghê tởm nhưng vẫn không dừng lại được:
- Dẫu sao, cũng có thể là cả tôi nữa, cô cũng đã yêu tôi.
Đầm đìa nước mắt, nàng đáp:
- Nhưng em chỉ có yêu anh. Em đã quá yêu anh. Và chính vì vậy anh trừng phạt em… Ồ! Anh có thể nghĩ là em đã từng với một người khác như em đã từng với anh!
- Sao lại không?
Nàng nhìn anh, chán nản:
- Quả là anh không tin em phải không?
Và rất dịu dàng, nói thêm:
- Nếu em tự sát, anh có tin
- Không, tôi cũng sẽ không tin cô.
Nàng lấy mùi soa lau má, rồi ngước đôi mắt long lanh những giọt lệ:
- Vậy là hết!
Nàng đứng dậy, nhìn lại quanh phòng bao nhiêu đồ vật nàng đã từng sống chung trong tình thân mật êm đềm và khoan khoái. Nàng đã từng xem chúng là của chính mình và bỗng nhiên nay chúng không còn là gì hết đối với nàng, chúng nhìn nàng như một kẻ xa lạ, như một kẻ thù địch, nàng thấy lại những tấm huy hiệu Phlôrăngx khiến nàng hồi tưởng Phiđơn và những giờ phút thần tiên ở Ý; thấy lại bức tượng nhìn nghiêng Đơsactrơ đang nặn dở ở cái đầu cô gái nghịch ngợm nở nụ cười trên khuôn mặt xinh đẹp nhưng gầy gò, đau khổ. Nàng dừng lại chốc lát, với thái độ thiện cảm trước bức tượng cô gái bán báo này. Cô ta cũng đã từng tới đây và cũng đã đi k hỏi nơi đây trong cái mênh mông khủng khiếp của cuộc đời và của sự vật.

Nàng nhắc lại:
- Vậy là hết hay sao?
Anh lặng im.
Hoàng hôn xóa dần mọi hình bóng.
Nàng hòi:
- Rồi ra em sẽ thế nào đây?
Anh đáp:
- Và tôi, rồi ra tôi sẽ ra sao đây?
Họ nhìn nhau, xót thương, vì mỗi người thương xót bản thân mình.
Têredơ lại nói:
- Thế mà em đã từng sợ phải già đi, sợ cho anh, sợ cho em, và ước mong mối tình đẹp đẽ của chúng ta không bao giờ kết thúc. Thà không sinh ra còn hơn. Đúng, giá em không sinh ra thì hơn. Em đã linh cảm ra sao khi tuổi còn thơ dại; em đã muốn chết dưới rặng điền ma ở Gioăngvin, bên cạnh vành Vương miện, trước tượng các nữ thủy thần bằng cẩm thạch!
Hai cánh tay bỏ thõng, hai bàn tay chắp lại, nàng ngước mắt lên; đôi mắt đẫm lệ rực sáng trong bóng đêm.
- Thế là không có cách gì làm cho anh cảm thấy những lời em nói là những lời nói thật, là không bao giờ, từ khi em là của anh, không bao giờ… Nhưng làm sao em có thể? Chỉ nghĩ tới không thôi, em cũng đã thấy ghê tởm, phi lý rồi. Thế ra anh hiểu em ít đến thế kia à?
Anh buồn bã lắc đầu:
- Không, tôi không hiểu cô.
Một lần nữa, nàng nhìn như hỏi han mọi đồ vật đã từng thấy họ yêu nhau trong căn phòng này.
- Nhưng anh là của em, em là của anh… tất cả bây giờ đều vô vọng, vô ích hay sao? Chúng ta chống đối nhau, chứ không còn ôm ấp nhau nữa hay sao?
Nàng phẫn uất. Không sao chấp nhận được là anh không thể không biết anh là thế nào đối với nàng.
Và trong ngọn lửa tình yêu đau đớn, nàng ôm choàng lấy anh, nước mắt đầm đìa, tới tấp hôn anh, cắn anh.
Anh quên hết tất cả, ôm nàng đau đớn, rã rời, sung sướng, siết chặt nàng vào lòng với một nỗi thèm muốn điên dại. Nghiêng đầu trên gối, nàng nở nụ cười trong nước mắt. Đột nhiên, anh bỏ nàng ra.
- Tôi không còn nhìn thấy cô một mình nữa. Tôi nhìn thấy hắn cùng với cô, bao giờ cũng nhìn thấy.
Nàng nhìn anh, lặng câm, phẫn nộ, tuyệt vọng. Nàng đứng dậy, sửa lại xiêm áo và mái tóc, trong lòng dâng lên một cảm giác tủi nhục xa lạ. Rồi cảm nhật thế là hết tất cả, nàng ngơ ngác nhìn xung quanh, nhưng mắt nàng không thấy gì nữa hết, và chậm rãi đi ra.
Anatole France
Dịch giả: Nguyễn Trọng Thịnh
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  CHUNG MỘT DÒNG TRÔI Màu chiều đỏ ối hắt xuống dòng sông nhiều nỗi ưu tư, lũ ve kêu hè dường chừng như đã mệt, “tiếng hát” thưa dần rồi...