Cát bụi chân ai
CHƯƠNG 1
Tôi kém Nguyễn Tuân mười tuổi. Trước kia, tôi không quen Nguyễn
Tuân.
Quãng đầu thập kỷ bốn mươi, báo Hà Nội Tân văn, báo Chủ Nhật
mới in của tôi mấy truyện ngắn: Nước lên, Mê gái (Con gà ri), Bãi ô-tô, Một đêm
sáng giăng suông. Hình như Nguyên Hồng đã chỉ cho tôi biết Nguyễn Tuân đương lững
thững bên kia hè đường Bờ Hồ. Những tiểu thuyết Thiếu quê hương đương in từng kỳ
trên tuần báo Hà Nội Tân văn và những truyện ngắn của Nguyễn Tuân đăng các báo
Tiểu thuyết Thứ bảy, Tao đàn, Thời vụ, Bạn đường cũng có phần hơi hướng dấu vết
trong chữ nghĩa bước đầu đời viết của tôi mà Vũ Ngọc Phan, ở sách Nhà Văn Hiện
Đại đã đe tôi nên dè chừng cái giọng khinh bạc học đòi ấy.
Đi bên này hồ Gươm thấy Nguyễn Tuân ngồi trong nhà hàng Hoàng
Gia, cái quán rượu kiểu Pháp che cánh sáo ra kín vỉa hè. Nhà văn chơi chua khác
đời. Khăn lướt vố, áo gấm trần, tay chống dọc chiếc quạt thước thay ba toong,
chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định. Năm ấy, Nguyễn Tuân cũng chỉ khoảng
trên ba mươi đôi chút. Ngoài đường phố chẳng ai ăn mặc kiểu cách khác thường thế,
nếu không phải quan tri phủ, quan thương tá ngồi xe nhà, áo sa phủ áo gấm, áo
đoạn, vừa ý tứ vừa khoe chiếc bài ngà dây kim tuyến thấp thoáng trong ngực áo.
Quán Tavec Royan này chỉ Tây lui tới. Bên trong, nhảy đầm, dàn nhạc. Nhạc sĩ
Nguyễn Xuân Khoát vươn cổ cò trên cái đại vĩ cầm cao ngang mặt người chơi, những
tiếng nảy ra rên gầm gừ.
Nhưng những con người dị dạng này cũng chẳng làm khác mắt mấy
cái thành phố không còn đìu hiu, vài năm nay đã nhốn nháo bọn dựa thế Nhật, đầu
trọc để trần, áo ka ki ống tay rộng vàng nhạt đi ghệt da cao, lầm lì và nhâng
nháo. Chẳng đoán được, Nhật thật hay Nhật mỹ ký. Rồi thì tôi xem Nguyễn Tuân
đóng vai người đi săn ở kịch Ngã ba của Đoàn Phú Tứ. Tôi thấy Nguyễn Tuân
thoáng mấy giây một cái bóng người y tá khiêng cáng trong phim Cánh đồng ma của
Đàm Quang Thiện.
Cũng thấy chán. Nhưng đọc bút ký Một chuyên đi viết về Hương
Cảng thì bâng khuâng nhiều. Mấy lần ở cuộc họp tổ bí mật, nghe Như Phong báo
cáo thuyết phục Nguyễn Tuân vào Văn Hóa Cứu Quốc, chưa có kết quả. Nguyễn Tuân
bảo Như Phong: ở Hà Nội này, đứa nào Việt Minh, đứa nào tờ-rốt-kít, đứa nào Đại
Việt, Quốc dân đảng, đứa nào bố láo cách mệnh mồm khoác lác, đứa nào ăn tiền mật
thám, tớ biết cả. Nghe nói tợn tạo trắng trợn, Như Phong mượn một quyển sách rrồi
ra về.
Những cái biết của tôi về Nguyễn Tuân hồi ấy chỉ mang máng thế.
Đem cái duyên đẹp đẽ mọi bề quàng cho Nguyễn Tuân có thể chưa
kín nghĩa, mà cũng không hẳn đúng. Về văn và cả về đời. Có người mê Nguyễn Tuân
như điếu đổ, từng chữ. Có người chỉ lướt một đoạn đã không chịu được cái giọng
khụng khiệng, khệnh khạng. Triết lý và câu văn Nguyễn Tuân không giống vị hoài
sơn trong thang thuốc bắc, ghẻ bổ một tý, lại vô thưởng vô phạt. Cái chơi của
Nguyễn Tuân cũng thế. Với người này, không thể thiếu Nguyễn Tuân. Người kia thì
không chịu đựng được. Ô hay, người ta ra người ta thì người ta phải là người ta
đã chứ.
Nhớ lại năm ấy, ở gian hàng quà chợ Đồng Xuân còn cái bà nạ
dòng khăn nhung áo cánh phin nõn đeo chuỗi hạt cẩm thạch phơn phớt xanh - hàng
bún thang ngon có tiếng. Chỉ một bát thang con bún lá, giọt cà cuống thơm một
cách khó chịu mà lại không có không được, cũng có thể viết lên một cái gì. Nói
bâng quơ, chẳng ra nhủ mình, chẳng ra cho người khác. Những cái ấy phải viết,
viết. Như những đêm áp tết, năm cùng tháng tận, lại lấy ra mấy cái đĩa hãng
Pa-thé mua được ở chợ Giời, mà nghe ả Đàm Mộng Hoàn... Gió hỡi gió, phong trần
ta đã chán... Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong... Thế nào ông ấy cũng lại
nói: Cái hơi của Mộng Hoàn thì sang, nhưng không đẹp bằng giọng bà Chu. Phải viết,
cái này phải viết thôi. Những năm về sau, Nguyễn Tuân vẫn làm việc cho viết, khắc
khoải sự viết, mà không viết bao nhiêu. ở đây nữa, chính bởi hơi sức và trong
tâm sự. Phải đến Nguyễn Tuân viết ra thì cũng một vùng phố xá ấy mới thành tên
gọi, mới thành Phố Phái - hai chữ của Nguyễn Tuân sáng tạo đặt tên cho tranh
Bùi Xuân Phái. Và trong cuộc chơi, ông cửa hàng trưởng Bôđêga, chú nhà bàn, nhà
bếp khách sạn Thống Nhất hay bác Chữ bán cháo gà gõ ống thổi làm phách hát ả
đào giọng chèo ở ngã sáu dốc Hàng Kèn, hay khi lên chơi nhà ông Ba trên Nghĩa
Đô thì dẫu cho Nguyễn Tuân chưa hề quen, cũng không phải là trùm trò, các chủ
quán, chủ nhà đều trân trọng như ông ấy mới là chủ cuộc. Cái duyên ấy xưa nay vẫn
như một.
Những năm trước 60, cái dốc ngã sáu Hàng Kèn ban đêm thanh vắng
lắm. Những cây sấu, cây sữa cũng chưa như mấy năm sau phải một trận bom Mỹ đánh
sập hai ngôi nhà và mấy gốc cổ thụ. Bờ hè dưới hai hàng cây hiu hắt khơi lại cảnh
xưa cũ, còn cái bờ tường đắp dòng chữ xi măng nổi Phúc Đình cha, tên hiệu thuốc
sốt rét nổi tiếng một thời. Nhớ Cây Thị Hàng Kèn đầu Lê Lợi, cuối Hàng Giò nhiều
hơn tên phố mới, đối với chúng tôi. Mấy hàng phở gánh và quán cóc. Nơi ăn đường
ăn chợ này không chè chén xô bồ như trên ngõ Sầm Công, chim quay Tiểu Lạc Viên,
cà phê phin Ca, cà phê đá Lý Hảo... cũng không ví được với cơm tám Tân Việt, Việt
Hương quanh chợ Hôm gần đấy.
Dốc Cây Thị không còn cây thị, hàng quán chỉ rải rác có buổi.
Ngồi đây, đầu phố Hàm Long nhìn sang sở Văn Tự, tưởng như lão Tàu Bay còn gánh
phở bán buổi sớm. Cũng cạnh đấy, bên dãy nhà mà thời tạm chiếm Pháp đặt đài
phát thanh Con Nhạn của quân viễn chinh, hồi Tiền Khởi Nghĩa, đội AS (ám sát) của
Việt Minh đã bắn chết Thiên Nga, nữ đặc vụ của Nhật trong quán cà phê này.
Nhưng không phải chỗ hàng cà phê của ông cắt tóc ở hợp tác xã chỗ ngã sáu mới về
mở, đêm B52 ấy, một vỏ tên lửa rơi gãy võng cái mái hiên. Những biến thiên của
con người phố xá, chắp nối lại mà chỉ có ngòi bút Nguyễn Tuân mới phát hiện cho
người đọc thấy được những lăng cạnh gốc gác, như muôn vật trong trời đất, khác
nhau mà lại dính líu với nhau. Những ngã năm, ngã tư, ngã bảy, người đi lại
sinh ra đường cái và mọi sinh hoạt, làm ăn, đắp đổi, người hút thuốc lào thì có
người bán đóm, phường chợ thì có người đóng đinh đế giày, ông bán hàng nước chè
tươi, ông lão chữa giày dép với khách dừng chân.
Phở Tàu Bay - mà bây giờ ở Sài Gòn có vài ba quán của các bà
phòng nhất, phòng nhì và con cháu ông Tàu Bay đã quá cố, cũng đôi chút phảng phất
mùi vị phở Bắc, gánh phở ông Tàu Bay xưa đỗ cạnh dốc bên gốc cây thị đầu sân
vào sở Văn Tự - không biết tại sao người qua đường lại đặt tên công sở ấy là sở
Văn Tự. Có lẽ cũng như chỉ tình cờ một câu bông đùa cái mũ da lưỡi trai hơi dài
khác thường của ông hàng so sánh với chiếc mũ phi công mà thành tên phở Tàu
Bay, một hàng phở gánh buổi sáng. Thời ấy, sáng, trưa, tối đều đặn cho người ăn
quà phở mà không phải là dùng phở đến no. Hiếm cửa hàng phở, hiệu phở, rặt phở
gánh, chuyên phở nước. Phở hiệu xào ròn, xào mềm, tái lăn, sấm vang, bát phở
bên đĩa mùi, húng và cút rượu trắng. Phở gánh, món quà nhẹ. Ngủ trưa dậy, tối
khuya trước khi đi ngủ. Không ai khai tâm chén rượu lúc ăn phở bát. Thịt bò
chín từng tảng, cũng chưa rạch ròi mấy chỗ nạm, gầu, mỡ hay nhừ. Trong cái bát
chiết yêu loe miệng thắt đáy, nước dùng bốc khói mà trong như nước mưa li ti nổi
chút váng mỡ vàng, lơ thơ mấy lát hành hoa, rau mùi. Làm bát nào, thịt thái bát
ấy. Đảo phở, bánh chồi lên quá, bánh chương, ăn phải bỏ dở. Nhưng đạo ăn phở của
Nguyễn Tuân có cách riêng.
Trong lòng và vỉa hè ngã sáu quang đãng cứ khoảng mười giờ tối
trở đi mới lập loè hàng quán. Những tối thứ bảy, từ đầu Hàng Đào xuống Tràng
Thi, đến tận chợ Đuổi, mọi ngã ba ngã bảy đều kê bục, cắm cờ. Các đoàn văn công
nhảy xạp ràm rạp. Tiếng Trần Chất hát Chiếc khăn piêu đến đinh tai trong loa.
Người xem chen chúc lúc ấy mới vãn. Đội quân cảnh đeo băng đỏ đã bắt đầu đi tuần
đêm thiết quân luật. Các gánh lục tào xá cháo gà phải hai ba giờ sáng mới hết
hàng. Đã quảy về còn có người gọi theo. Bình yên, chẳng ai nhớ thành phố hãy
còn phải quản trị theo chế độ quân sự. Dọn hàng quá khuya đã thành lệ.
Khi có hàng quà, những ngã ba đã văng vắng lại hiện ra bộ mặt
khác. Chốc chốc, thong thả qua một xe đạp lênh khênh, tiếng vòng nan hoa quay
gió vù vù. Cái xe trâu Trung Quốc nặng như cùm được người ta vác từ chiến khu
Thái Nguyên Việt Bắc về. Gánh cháo gà bác Chữ đã dênh hẳn xuống mặt đường nhựa.
Chiếc chậu nhôm đựng nước, cậu con trai thả chồng bát vào chậu rồi nhặt ra từng
cái, khăn lau miết quanh miệng chiếc bát rếch của những khách ăn mở hàng. Rồi
bác Chữ thừ ra. Như còn tiếc đám múa xạp lúc nãy hay sao. Bác Chữ cầm chiếc ống
nứa thổi pho pho vào cửa lò mới được cời, mẩu củi hồng rực.
Rồi lại quay ra, ngồi lên bó củi, một tay đấm lưng, tay kia
gõ cái ống nứa giả vờ điểm tiếng róc phách, chốc lại tom chát đánh nhịp xuống
thành thùng bát, miệng ư ừ giọng mũi như rên:
Nam nhi đứng ở trong trời đất Quyết ăn chơi cho đủ mùi đời Sự
cùng thông bĩ thái tự trời Sông có khúc con người có lúc...
Bộ quần áo nâu dày mo nang dưới ánh ngọn điện chao lắc lư
trên dây giữa đường. Mặt nhăn nhó đăm đăm, chẳng biết đương phởn hay buồn nỗi
hóng khách. Chốc lại cầm ống nứa thổi bếp, xong lại rền rĩ: Nam nhi đứng ở....
Tôi không trông rõ thật mặt cái bác cháo gà Chữ ấy ban ngày bao giờ. Như người
với ma, nửa đêm đến rạng sáng thì lặn. Bác Chữ nhìn hò háy trước ánh lửa, mắt ấy
không viền vải tây điều tất cũng lông quặm. Dần dần người ngợm ở đâu cứ lẩn thẩn
ra, như cỗ tam cúc phải đủ xe pháo mã với năm quân tốt hỉn. Gánh lục tào xá lù
lù đến ghé cạnh. Cái ông chè đậu xanh lục tào xá thoạt hiện ra thật oai. Như đức
Quan Ngài hồi tiền nhật còn ở ẩn kết nghĩa với ông cháo gà Lưu Bị dưới gốc dâu
cây sữa xoè tán lá ba tầng ba lọng vàng điềm về sau làm vua. Lão râu đen dài,
trán nhẵn hói bóng lên nửa đầu, khi chưa gặp thời thì quảy hàng mà thôi. Nhưng
ngắm kỹ, chưa chắc lão đã bằng tuổi tôi băm lăm lúc ấy. Có lẽ chỉ mới năm trước
còn thói quen nuôi râu giả già để trốn quân dịch, nhiều người mắt đảo như chớp,
nhưng râu ria lõng thõng.
áp chân tường số nhà 81, ông hàng cà phê bít tất. Cũng là
trông hình thù mà tưởng ra, cà phê pha vào ấm nhôm, mảnh vải lọc thõng xuống
như chiếc bít tất nâu. Ngọn đèn hoa kỳ lom đom giữa mặt chõng tre, ngổn ngang mấy
cái ghế con đặt quanh. Khách ngồi xuống, trông lên mới thấy mặt ông hàng lom
khom, bóng loáng nắng gió đồng chiêm. Bộ quần áo nâu non nhờ nhếch, dáng ngơ
ngơ như đương lẩm nhẩm ai trả tiền, ai lỉnh mất. Nguyễn Tuân không thích cái cà
phê hâm nóng đầu đường thế này. Nhưng vẫn thường ghé xe đạp dựng lên gốc cây xà
cừ. Không biết có phải chỉ bởi thói quen xưa cũ cứ tối tối, tôi lại rước tôi ra
đường!. Những đêm gió lùa rào rạt mặt nhựa, nhồi thêm thuốc vào tẩu, ngồi tránh
vào bên gốc xà cừ gồ ghề - Nguyễn không chịu được mùi hoa sữa, ghét lây cả cái
cây. Chén cà phê sành nâu lồi lõm, có khi chỉ nhấp một ngụm, rồi bỏ lạnh ngắt.
Dường như ngại tôi có thể vì ông ấy mà áy náy không biết cà phê hạt muồng hay
ngô rang.
Nguyễn Tuân nói: Mặc kệ mình. Cậu cứ việc hồi tưởng. Ông anh
nghĩ tôi đương nhắm phía một kỷ niệm đâu đó nên mới ưa lai vãng tới đây, bởi biết
tôi vốn cũng lạnh nhạt với cà phê. Vào quãng giữa thế kỷ này thành phố và con
người đều trải nhiều quãng đời chằng mắt xích với nhau. Tôi cũng như vậy. Tôi đến
cái ngã năm, ngã sáu này không phải ngẫu nhiên. Mười năm trước, ven hồ đằng
kia, còn những toà biệt thự mọc lên giữa những bụi chuối um tùm. Mặt trận đã
lan đến đấy, tan hoang cả. Tôi làm phóng viên của báo Cứu Quốc thường qua lại
đây, khi xuống tuyến phòng thủ phía chợ Mơ. Có hôm ngủ đêm lại trong ngôi nhà bỏ
không. ở chỗ chúng tôi đương ngồi, tiếng súng và người núp ngã xuống bên mỗi gốc
cây. Báo Thủ Đô đăng tin chiến sĩ Nguyễn Thành ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch
từ hồ Thiền Cuông tới. Quả bom đầu tiên của quân giới ta tự tạo có lẽ được tung
ra ở chỗ kia đấy. Thành phố đương tổ chức tìm đào hài cốt liệt sĩ và người chết
đường. Ban ngày, trên vỉa hè đặt hàng dãy những chiếc tiểu khói hương nghi
ngút.
ở cái ngã sáu đường đời ấy vẫn leo lét ngọn đèn con của lão
cà phê 81, ánh đèn chai và lửa bếp thùng cháo bác Chữ. Mấy cái xích lô tã chốc
lại lạch xạch lượn lờ qua. Trông mặt người đạp xe cũng có thể đoán được tông tích,
mỗi người đều hằn nét bộ mặt thời gian và tờ lịch hàng ngày của thành phố. Có
lão râu xồm khuya về uống rượu húp cháo rồi nằm vắt người trên đệm xe, sàn xe
ngủ bên gốc cây. Đấy là các ông chánh, ông lý tề vừa chạy Tây càn, vừa sợ Việt
Minh trả thù đã bỏ các vùng trắng ven nội vào đây. Đám cơ sở ta hốt chết trốn
vào thành, trẻ hơn và đỡ lầm lì, có thể lại công tác bí mật, không ác ôn như mấy
lão xích lô râu rậm kia. Nguyễn Tuân bảo: Cậu có để ý đường phố bên Bắc Kinh
lúc gần sáng, những xe la, xe lừa bánh gỗ cao lênh khênh, những lão đánh xe đầu
hói như quả dưa hấu ngồi ngất ngưởng trên đống củ cải, vẫn oai phong chẳng khác
Tưởng Giới Thạch, Uổng Tinh Vệ thất thế!.
Tôi bàn theo:
- Lão xế lô, lão lục tào xá này nhất định là tề ngụy cũ. Cả
lão cà phê bít tất, lão cháo gà dấm dớ thế nhưng trông tay thoăn thoắt nhặt tiền,
xếp tiền thế kia đủ biết.
Nguyễn Tuân hỏi:
- Có nhớ Két không?
- Tay Két trinh sát tiểu đoàn 54?
- Cứ ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu sao.
Khói thuốc trong nõ tẩu phầm phập bốc xanh trắng um lên.
Thì ra, ở cái đầu đường đêm hôm chẳng thú vị mấy chút, chính
Nguyễn Tuân mới đương hồi tưởng. ở mỗi cái cùng trông thấy, nhưng từng người lại
ngờ khác nhau. Thế nào mà ở đây Nguyễn Tuân lại nhớ tới Két chiến dịch sông
Thao mùa hạ 1949. Chập tối ấy, bộ đội qua sông xuống đò bến đền Đông Cuông gần
Mậu A, rồi hành quân suốt đêm vào hậu địch để kịp chiều hôm sau đánh đồn Đại Bục.
Tình cờ, chúng tôi gặp lại Két ở Mậu A, Nguyễn Tuân quen Két của Trung đoàn Thủ
đô. Chiến dịch ấy, trung đội trưởng trinh sát Két đã hy sinh, nằm lại bờ bên
kia sông Thao.
Đi và đi thực và mộng cả đời Nguyễn Tuân. Làm thế nào đi được,
chỉ cất đi được. Năm 1937, Nguyễn Tuân ra Hương Cảng làm tài tử màn bạc. Phim
truyện Việt Nam, chủ Trung Quốc thuê một số người ở Hà Nội sang đóng. Tôi đã
xem Cánh đồng ma ở rạp Hiệp Thành phố Hàng Bạc - rạp chèo cải lương, thỉnh thoảng
chiếu phim phong thần, kiếm hiệp bán vé một hào đồng hạng. Phim Cánh đồng ma đầu
Ngô mình Sở. Nguyễn Tuân đóng một vai phụ - có thể lôi người đi ngoài đường vào
sắm vai cũng được, đấy là người y tá mặc áo lui trắng, nâng đầu cáng thương, lừ
lừ qua ống kính chớp nhoáng một hai giây. Có thế thôi, mà Nguyễn Tuân lặn lội
sang Hương Cảng trong lúc năm hết tết đến.
Cũng không phải chơi bời đua đả. Đám hổ lốn đóng phim còn lục
đục lừa nhau, chửi bới nhau vì các chủ phim tranh nhau xé đám phu mộ đóng phim
này đã làm thêm phim Trận phong ba tồi quá gửi về nước tranh khách trước nhưng
không có người xem. Nguyễn Tuân ở trong đám phu đóng một phim. Cũng không ăn
cánh với ai. Bà phô tô Phú ho lao gày rạc dâm đãng đến quái dị, chùm trò Đàm
Quang Thiện và Nguyễn Doãn Vượng, điểm mặt cũng không phải ai tri âm tri kỷ khiến
Nguyễn Tuân phải đắm đuối bỗng dưng lênh đênh đi. Mà cái thúc giục vẫn là những
cơn đói đi của mình. Không khó không dễ, không biết ai, chỉ biết một mình. Nguyễn
Tuân muốn đến Hương Cảng, nặng nề và nhẹ nhàng, thế thôi. Trong đêm trừ tịch ở
hòn đảo phồn hoa nhất châu á, hứng thú và buồn với hồn cốt những trang bút ký Một
chuyến đi, chỉ có tâm sự ấy đã giục giã nhiều.
Một đời ao ước phương trời với một cung cách đi. Trong tiểu
thuyết Thiếu quê hương, cả một chương mười mấy trang về vùng than với những cảng
Rơđông, cửa Điền Công, những cơn gió ngoài vịnh vào đen nhuyễn màu than trùm
lên phố biển Hòn Gai. Hồi ấy, Mộng Tuyết - Đông Hồ trong Hà Tiên ra chơi Hà Nội.
Hôm về, Nguyễn Tuân tiễn ngoài ga Hàng Cỏ. Nguyễn Tuân có viết về cuộc tiễn biệt
ấy trên báo Bạn Đường ở Thanh Hoá, đã cười tiên sinh Đông Hồ, tàu sắp chạy, mà
vẫn cùng bạn bè lắc lư ngâm vịnh thù tạc suông không có chén. Còn cô Mộng Tuyết
thì lại khéo tưởng tượng ra như trông thấy con người ấy hôm nào mới ở vùng gió
than, bão than còn cuốn theo đến tận sân ga. Trên khuôn mặt cháy nắng của người
lữ hành, hai lỗ mũi cũng xám đen những than là than.
Cô con gái làm thơ ở Phương Thành nhìn Nguyễn mà cảm động, bởi
từ xưa kia cô đã ước mơ thèm một hơi gió lạ, khát thở một bầu không khí trời,
nước lênh đênh hàng tháng trên biển cả để rồi đổ bộ trên một bến bờ xa. Trải
qua khắp kinh tuyến, vĩ tuyến của địa cầu, để đi tới chỗ bốn mùa tuyết rơi,
băng đóng đến vùng sa mạc gió nắng lửa than, trèo tuyết núi Hy Mã Lạp Sơn lạnh
cóng và tắm nước sông Hằng, vượt biển Đại Tây dương, qua Hy Lạp, rồi trên lưng
lạc đà xem Kim Tự Tháp rồi trở lại thưởng hoa anh đào trong một ngày hội ở Nhật
Bản. Ngày hè thì lưu liên các vùng bãi biển ý Đại Lợi. Thu về thì ngồi xem lá
vàng rụng theo các pho tượng của Lúc Xem Bua. Bao nhiêu tiếng gọi của Cao Rộng
Xa Xăm đã thúc giục ám ảnh mãi lòng thích sống một cuộc đời bấp bênh có nhiều
xê dịch, biến đổi của thiếu nữ. Cô thiếu nữ mà ngày còn thơ đã có ý muốn đi tận
chân trời. Thuyền khách sông Hương đêm thất tịch. Lạnh lùng trăng nước khúc nam
ai... mà ai cảm chung một mối tâm sự não ruột của khách Giang Châu Tư Mã (Trạnh
niềm nhớ cảnh giang hồ, bút ký, Phương Thành một ngày thu muộn 1939 của Mộng
Tuyết).
Cũng một nòi tình mơ màng như cô Mộng Tuyết, chỉ có rày ước
mai ao, thật ra Nguyễn Tuân chưa đi đường bộ quá Mông Dương và đường nước chưa
ra khỏi cửa Điền Công tới Móng Cái bao giờ. Phải đến hơn hai mươi năm sau viết
trang sách về vùng than, Nguyễn Tuân mới tới Hải Ninh lần đầu, cùng đi với
Nguyên Hồng, Vạn Lịch và tôi. Tưởng như khó tin, mà sự thật như thế. Thiên bút
ký mênh mang sóng biển Cửa Đại kia, đọc kỹ thì nhận ra phải nhờ tác giả có người
nhà ở Cửa Đại, mới đến được. Ngày ấy, Nguyễn Tuân đã viết một truyện ngắn đăng
báo Tiểu thuyết Thứ bảy, trên đề: Tặng ông Đỗ Ngọc Côn, nhà máy đèn Móng Cái.
Khi này, Phạm Duy làm thợ phụ nhà máy điện, ở nhờ ông Đỗ Ngọc Côn (Phạm Duy: Hồi
ký thời cách mạng, kháng chiến - Californie, 1989). Mà ông bạn làm nhà máy đèn
Móng Cái ở phố chính Clamoocgăng ấy cũng chưa lần nào gửi tiền tàu xe rủ Nguyễn
Tuân ra chơi thưởng thức cái hiu hắt nơi địa đầu. Hàng chữ đề tặng chỉ là một
ao ước. Mà phải đến dịp nhờ xe của cán bộ Vạn Lịch, mới ra được bãi Trà Cổ, xuống
lái thán ngược sông Mang lên cầu Bắc Luân - Móng Cái, đến Thán Pún - sự bôn tẩu
của chúng tôi có công lệnh và dấu đóng giấy đi đường cẩn thận.
Cầu kỳ và khó tính cũng là tính riêng trong cái thích thú ham
đi mà không được đi. ở phương Đông còn có cái chơi đi mà không đi, ngồi nhà ngắm
tranh sơn thuỷ, nuôi muông thú lạ, uốn cây, gẩy cái lá trúc rụng xuống thế giới
bể nước nho nhỏ rêu nổi hòn đá cây si bên hòn non bộ có ngôi chùa mái cong, có
chú tiều vác củi qua cầu. Cho thoả cái tưởng tượng mà thôi.
Nguyễn Tuân ở vế người thứ nhất, không phải các ông ngồi rung
đùi chơi trời đất thu nhỏ vào cái bể sành và núi non bộ. Mà đôi khi chơi cây cảnh,
một chút chắp nối. Ơ hờ, hờn dỗi, bực bội, nhớ thương không đâu gửi vào một nhánh
địa lan cánh tím, một con chó đá canh cửa, một quả phật thủ, một hòn cuội suối,
một chiếc gối sứ mới đây được bưng ra từ một tiệm hút chợ Cũ Sài Gòn. Nguyễn
Tuân chỉ thích đi, nhưng trong mọi sửa soạn còn kỹ lưỡng hơn đi. Mùa hạ năm
1949, Nguyễn Tuân và tôi theo tiểu đoàn 54 Trung đoàn Thủ đô tiến quân vào mở
chiến dịch tiêu diệt một chuỗi cứ điểm hành lang bờ sông Thao án ngữ Tây Bắc,
các đồn Đại Bục, Đại Phác, Khe Pịa, Ngòi Mác, Mã Yên Sơn lên đến đồn tiểu khu
Phố Ràng. Chuyến áy, tôi đi cùng Nguyễn Tuân - được làm quen với Nguyễn chuyến
đi đầu tiên. Tôi đã ghi lại:
Nguyễn Tuân xắm nắm quanh cái bi đông nước bọc dạ xanh của
anh. Lần đầu tiên ở mặt trận, đi lâu với Nguyễn, tôi mới thấy quá nhiều đức
tính của người lên đường. Khoẻ, vững, hành trang không thừa, cũng không thiếu một
cái gì. Trên lưng, gọn gàng chiếc ba lô Nhật. Một sợi dây nhỏ cũng có chỗ để rồi
dùng đến sợi dây. Cuối cùng, mọi thứ giấy má có thể lộ liễu của riêng mình đều
phải để lại căn cứ, không được đem theo vào vùng địch. Chỉ một cuốn sổ nhỏ, cái
áo mưa, bỏ vào ba lô vừa phải. Một bao cơm nắm, thêm cái thắt lưng lương khô cuốn
chéo ngang mình. Đầy bi đông nước, Nguyễn Tuân đã cẩn thận buộc ghì vào thắt
lưng cho khi bước đỡ xóc (Ngược sông Thao, phóng sự, Nhà xuất bản Cứu Quốc
1949).
Trong nghề đi - nghề, chứ sao, cẩn thận đã thành thói quen và
cầu kỳ đến đam mê. Sửa soạn cũng là khai thác để thưởng thức được chu đáo.
Không phải cứ đứng đắn và khôi hài như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. ở trường lục
quân bên Vân Nam về, anh Khoát dạy tôi thuật đi đường giữ được dai sức của Bát
lộ quân. Nhanh mười bước lại thong thả ba bước, cứ thế cả ngày chân không biết
mỏi. Cẩn thận, mọi thứ trên mình và trong ba lô đều gọi thành con số. Ví như cả
thảy đồ đạc có mười lăm thứ. Sáng ra, trước khi đi đếm chỉ có mười bốn. Thế là
còn thiếu một. Rõ thật buồn cười, nhưng nếu cười, anh Khoát không bằng lòng. Mọi
cẩn thận của Nguyễn Tuân thiết thực hơn, nhưng không thành con số như trên.
Ngòi bút chì gài trên túi áo, ngồi đọc cũng ghi lên sách. Không biết đến thế kỷ
nào có cái hơn, chứ bút chì trên giấy thì không bao giờ phai. Một tiệp bìa cứng
với cái bút chì. Lắm lúc thấy ông bạn đường chịu khó đến vậy, mình vừa để ý, vừa
thích vừa ngán ngẩm cho những khó nhọc của nghề đi không biết thế nào là cùng.
Lo cho việc đi là yêu đi và biết hưởng thụ đi. Mải mê quên ngày tháng, nhưng
tính đếm sửa soạn cho mải mê thì phải nhớ từng ly. Cái phóng khoáng của ông ấy
không lẫn với buông tuồng, cẩu thả.
Mà sự chuẩn bị tỉ mẩn của con người muốn khi ta chết đi, da
ta được thuộc làm cái va ly cũng khá khác thường. Năm 1961, Nguyễn Tuân lên Hà
Giang dự khánh thành đường Bắc Quang - Hoàng Su Phì. Hoà bình thảnh thơi rồi,
nhưng vẫn lại là về rừng, lại đeo cái ba lô Nhật với những sợi dây dù Mỹ buộc
màn, không quên chiếc bi đông chiến dịch sông Thao hơn mười năm trước. Giữa đám
các thứ lỉnh kỉnh, một xếp giấy bản lau chén bát, một quyển sách đang đọc và mấy
thẻ hương mua thửa ở hàng quen cửa chợ Đồng Xuân. Khánh thành đường mới trên rừng
thì nhà khách cũng là mấy cái lán cắm ven đường. Hương chống ẩm, chống muỗi
đây. Hương chống muỗi, chứ Nguyễn Tuân kỵ mùi tỏi và không chịu được mùi thơm ở
các thứ hương ấn-độ cứ thoang thoảng rờn rợn như có ma lẩn quất trong nhà.
Quả nhiên là những nơi ngả lưng dã chiến ở Hoàng Su Phì khách
nghỉ đêm ở các lán dân công, nền đất và phên vách mới được sửa sang lại đôi
chút. Tối đến, mùi hương ở lán ông khách văn ngào ngạt ra. Vù Mí Kẻ, bí thư huyện
Đồng Văn hỏi nhỏ tôi:
- Nó cúng ma hả?
Làm thế nào cắt nghĩa cho ông bạn người Mông này hiểu cho cái
thú chơi sưởi mùi hương như thế. Mới như hôm qua, Vù Mí Kẻ năm trước lần đầu về
Hà Nội. Nhiêu khê quá, xe liên vận Đồng Văn xuống Hà Giang, lại chuyển ô-tô
khác về Phú Thọ. ở đấy, lên tàu hoả. Đoàn tàu xuôi về đến ga Hàng Cỏ, vẫn ngồi
thản nhiên ngắm ra phố phường, đường xá, nhà cửa ngoài cửa toa thấy mãi chưa tới
Hà Nội. Khi tàu lên đến Bắc Giang mới hỏi ra.
Tôi bảo Vù Mí Kẻ:
- Không phải bác ấy cúng ma. Bác ấy đốt hương cho ấm như ta
ngồi sưởi lửa ở trên quê, lại chết được muỗi. Mùi hương sưởi thơm cũng như khói
củi gỗ thông ấy mà.
Có lần, Vù Mí Kẻ về Hà Nội, đến chơi uống rượu nhà Nguyễn
Tuân. Tôi nhắc lại chuyện hương sưởi ấm ở Hoàng Su Phì. Vù Mí Kẻ trả lời: Bây
giờ nói thế thì mình hiểu ngay.
Hồi ấy, Vù Mí Kẻ không tin câu cắt nghĩa của tôi. Có những việc...
Nhưng thôi, lại trở về chiến dịch sông Thao mùa hạ 1949. Nguyễn
Tuân gặp lại Két - người chiến sĩ trinh sát mà Nguyễn Tuân vừa hỏi tôi có nhớ
không, lúc nửa đêm giữa cái ngã sáu bên gốc cây sữa, cây xà cừ này.
Lần đầu tiên, quân chủ lực mở trận đánh phối hợp lớn, mặt trận
dài suốt bên kia sông Hồng ở Yên Bái vắt sang sông Chảy, lên Lào Cai. Chúng tôi
theo tiểu đoàn 54, đơn vị chủ công của Trung đoàn, Nguyễn Tuân bỗng gặp lại
Két, không ngờ, khi qua sông.
Chập tối, tập kết ở Mậu A. Các chiến sĩ quần áo bà ba đen như
chúng tôi. Bộ đội được phát như thế nào thì mặc nấy, áo nâu, áo đen, có khi nhuộm
lá cơi, nhuộm pin xanh sẫm, thâm xịt. Đã xế chiều, người ngồi đen ngòm sân đền
Đông Cuông. Trung đội trưởng Két trong đám chiến sĩ, người hầu bàn nhà hàng Thuỷ
Tạ Bờ Hồ năm trước, bây giờ là trung đội trưởng trinh sát đã trông thấy cái ông
nhà văn hay uống uýt ky, quăng trô xếch ở Thuỷ Tạ lúc chặp tối sao ông ấy lại
lên tận đây thế này. Mà đội mũ vải ka ki xám, mặt lành lạnh như phái viên cấp
trên xuống. Két đến trước mặt Nguyễn Tuân:
- Ông...
Nguyễn Tuân giơ cái gậy tre, nắm tay Két.
- Anh Két! Đồng chí Két! Tôi cũng sang sông đêm nay. Đồng chí
ở 54 à?
- Vâng ạ.
Chỉ một thoáng, mọi người hối hả về sửa soạn. Suốt chặng đường
vào sâu trong kia, Nguyễn Tuân mong gặp lại Két. Như còn bao nhiêu chuyện máy
năm qua chưa nói hết. Suốt đêm ấy, mù mịt bóng sương, hơi nước và lầy lội, hầm
hập. Liên tiếp, từng chiếc thúng, chiếc tam bản của các vạn chài cả mấy tỉnh từ
Vĩnh Yên, Phú Thọ lên Yên Bái đưa bộ đội qua sông. Đi suốt đến sắp sáng, qua mấy
làng tề gần đồn Đại Bục, trông lên quả đồi đồn Tây lù lù đây rồi mà tiểu đoàn bộ
với các đơn vị trực thuộc vẫn loanh quanh lố nhố dưới ruộng chưa tìm ra nơi ém
quân. Du kích địa phương dẫn lạc đường! Chúng tôi lõm bõm trên những cánh đồng
nước. Sau lưng, anh nuôi quảy nồi chảo va vào nhau lông chông, như nhạc ngựa đồn
Tây ra đuổi.
Ban chính trị trung đoàn có nhạc sĩ Lương Ngọc Trác và cả hai
người Pháp hàng binh thu được trong trận tiểu đoàn 54 luồn sâu tập kích đồn Bá
Giang ở chỗ Phùng ra cửa sông Hát. Hai lính Pháp đã lái xe vận tải chạy ra giữa
đồng. Bây giờ họ làm công tác địch vận. Ra trận, mỗi gã đeo một cái loa giấy
bìa các tông dài ngoằng như chiếc sừng trâu. Mấy hôm trước đóng quân tập kết ở
bàn đạp. Mỗi ngày mổ lợn, các cu cậu được anh em thương tẩm bổ thêm cho miếng
gan, quả tim ngoài xuất ăn. Hành quân ban ngày từ Phú Thọ qua dọc sông lên, dưới
mưa rào vẫn đi. Hai người Pháp gày nhẳng, tóp lại, cao lêu đêu, tóc ướt bết
trán, vai nhô lên, cung cúc như con gà chạy mưa.
Nhưng rồi tất cả cũng lên được một quả đồi nứa um tùm, trước
khi trời rạng. Vừa tới lưng dốc đã ran tiếng súng dưới ruộng. Tiếng nổ lúc sáng
bạch nghe toác toác như cháy rừng nứa. Có người làng ra làm đồng sớm thấy nhiều
vết chân lạ dẫm nát lúa mới cấy. Sợ quá, về bẩm chánh tổng, chánh tổng lên báo
đồn. Quan đồn đoán đêm qua có du kích về. Sắp đến ngày 19 tháng 5 kỷ niệm của
Việt Minh. Đồn cho một tiểu đội lính Thái ra sục các đồi. Bọn lính Thái với người
cai Tây cởi trần, xách súng, bắn vào bụi rậm rồi hô nhau xông lên. Thế nào mà
chúng nó lại lên đúng đồi ban chỉ huy tiểu đoàn và cả ban chỉ huy Mặt trận.
Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng cho hai tiểu đội xuống chặn. Lệnh:
Tuyệt đối không lộ hoả lực mạnh, chỉ được bắn súng trường, phát một. Nếu giáp
lá cà, đánh dao găm.
Chúng tôi ngồi xổm cạnh bụi tre xế đỉnh đồi. Ngổn ngang gồng
gánh, những càng chân SKG - súng không giật, từng bộ phận súng cối chưa lắp và
những đùm lá cọ trong gói từng chồng truyền đơn tiếng Pháp, tiếng Thái. Hai người
pháp địch vận mắt xanh nhờ đứng chơ vơ như hai cái cột. Giữa im lặng thấp thỏm,
không biết bao nhiêu con người núp trong cỏ, trong bóng lá những quả đồi có thể
sắp nổ tung trong ánh nắng. Nguyễn Tuân chống hai tay lên chiếc gậy tre, lom
khom nhìn xuống đất. Tôi ngồi không yên chỗ, lại nhấp nhỏm đứng. Quái đản, Tây
sắp đánh lên đây mà lại có hai thằng Tây lù lù cạnh mình thế này! Đại đoàn phó
Cao Văn Khánh - chỉ huy phó chiến dịch đến bên, nói nho nhỏ, trấn an chúng tôi:
- Đạn không bao giờ dính tôi! Các anh ngồi yên đây, không có
gì phải lo.
Câu nói nửa đùa nửa thật về cái mệnh con người. Nguyễn Tuân
đã gặp Cao Văn Khánh trong chuyến đi Nam Trung bộ giữa năm 1946. Cũng năm ấy
tôi vào mặt trận phía Nam cùng Cao Văn Khánh và Thu Sơn đã làm một chuyến đi ngựa
từ Tuy Hoà qua Củng Sơn lên tiền tuyến Cheo Reo. Đã biết nhau và câu nói thân mật
của con người trải trận mạc có tác động tâm lý. Tôi cảm thấy thánh thơi hơn,
không bị hút vào sự im lặng ghê rợn. Chỉ còn thấy hai người hàng binh Pháp lớ rớ
loay hoay cạnh bụi tre. Họ cũng tự biết chớ có loanh quanh đi lại. Chiếc loa giấy
khoác bên nách chốc chốc lại đổi bên lắc một cái. Những con ruồi vàng bụng mọng
máu to thô lố ở ống chân lông lá lăn xuống. Ruồi vàng, bọ chó, gió Than Uyên...
Bỗng súng rộ lên một chặp dưới lưng đồi rồi lại tắt ngay.
Trong im lặng, liên lạc lên báo ta đã tiếp cận đâm chết một thằng. Tiếng nổ, đấy
là chúng nó bắn chặn để khiêng xác thằng chết về. Rồi cứ im im thế đến quá
trưa. Vẫn quạnh như tờ (sau mới biết trong đồn vẫn đoán là sắp đến ngày kỷ niệm
sinh nhật Hồ Chí Minh, du kích đến quấy). Đồn Tây ra lệnh phòng thủ và canh gác
nghiêm ngặt hơn. Trèo lên cây đồi bên này, tôi trông rõ những người vác hòm đạn
vào lô cốt như kiến tha mồi. Chúng tôi lo bữa ăn cho chắc dạ, ăn cơm nắm, thịt
rang, các bếp đã chuẩn bị từ chiều qua.
Mặt trời đã ngả vàng khè trong làn sương các khe núi dâng
lên. Năm giờ chiều, giờ này máy bay dưới xuôi không lên nữa. Một tiếng ầm, vang
bốn phía. Đại bác ta nã thẳng nổ xanh lè bên lô cốt. Nhưng chỉ đoàng đoàng được
vài quả, nền đặt pháo của ta bị lún, pháo câm. Một khẩu súng, ngay phát đầu đã
văng cả chốt đuôi, suýt chết thằng Tây địch vận ngồi đằng sau. Nhưng các khẩu cối
thì nhả đạn đều đều, tiếng rền liên tiếp. Lương Ngọc Trác ngồi trên cây nhìn
sang phía bên trái, kêu lên: Bên Đại Phác nổ súng rồi.
Bộ binh xông lên đồn, lúc ấy trời đã tối hẳn. Khoảng gần tám
giờ tối chúng tôi vào được sân đồn Đại Bục, cái chỗ lúc trưa trông sang thấy
lính Tây, lính Thái trần trùng trục vác hòm đạn. Bóng tối và khói mù mịt. Bờ
rào dây thép gai tan tác. Thằng đồn Tây mặc váy áo giả làm đàn bà Thái chết dưới
chân một luỹ đất. Nhưng trên cái lô cốt cao cắm cờ tam tài giữa sân, đạn vẫn nã
xuống. Những mũi xung kích chiến sĩ cầm mác dạt được vào núp ngay bên bờ tường
lô cốt, chặn bọn trên chòi thoát xuống. Chúng tôi vào làng tề cạnh cổng đồn
đương đùng đùng cháy. Không biết lửa du kích chiếm làng đốt hay đạn trên lô cốt
bắn xuống. Chiếm được đồn rồi mà khắp nơi cứ loạn xạ.
Cái trống nhà chánh tổng treo đầu hồi ngoài sàn không biết ai
đã khiêng ra vứt lăn lóc đấy. Một đám vác xác người chạy qua. Nguyễn Tuân, quần
áo đen như hung thần hiện lên, tay cầm dùi trống, mấy chiến sĩ quay ngược nện
báng súng vào mặt trống. Cả đám người đánh trống ngũ liên thúc trận hạ lô cốt
cuối cùng lừng lững trước mặt. Mấy tên lính Thái gan lỳ vẫn dai dẳng bắn xuống
phát một. Nhiều chiến sĩ ta bị đạn tỉa chết. Một tổ tiêm kích bắc thang trèo
lên thả lựu đạn vào lỗ châu mai. Im lặng hết trong lô cất. Đã hơn tám giờ tối.
Những cái đầu lâu được ném từ trên lô cốt xuống. ở tấm ảnh Hạ đồn Đại Bục trong
pho sử Quân tiên phong, giữa hàng quân ta có hai chỗ chấm trắng trên đầu gậy. Đấy
là vết hai thủ cấp hai thằng trên lô cất cố thủ.
Nửa đêm, cả ban chỉ huy lên một cái nhà sàn còn sót lại trong
xóm xung quanh vẫn cháy rực. Chiếc dùi trống thò một đầu trên ba lô Nguyễn
Tuân. Cạnh bếp, một thùng rượu vang to bằng cái vại sành bên gốc cau đã toang một
mặt ván. Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng, mới chiều hôm qua ở bên kia sông, mặt mắt
còn phẳng phiu, bây giờ hàng râu quai nón đã trổ đen ngòm. Tiểu đoàn trưởng giơ
bát rượu vang: Đúng hẹn với các anh nhé. Chúng ta vào uống rượu vang giữa đồn Đại
Bục. Nào, các anh? Mời ông Nguyễn? Một lúc, Nguyễn và tôi nâng hai bát trước mặt,
nhưng không mừng đụng cốc. Chúng tôi vừa được tin về Két, Két đã ngã xuống
ngoài lô cốt. Chúng tôi uống im lặng viếng hương hồn người bồi bàn chiến sĩ
trinh sát trung đội trưởng Két.
Mấy hôm sau chiến dịch chuyển sang sông Chảy, Nguyễn Tuân vẫn
ở lại với 54. Tôi theo đội võ trang tuyên truyền lên các làng Mán Sừng trên rặng
núi Voi rồi xuống với Trần Đăng lên mặt trận Phố Ràng.
Bao nhiêu lâu rồi, chúng tôi vẫn thường có dịp thăm hỏi 54,
tiểu đoàn em nuôi. Trú quân ở Kép Le, về Lai Xá, ở Hoà Lạc. Luyện quân ở Định
Hóa, lửa trại đêm Hà Nội giữa rừng. Chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952. Lại mới
năm trước, cuộc tiễn đưa đơn vị tiến vào đánh bao vây Khe Sanh. Lần lên với đơn
vị đóng quân trên Hoà Lạc ở Sơn Tây, thoắt đấy mà ba mươi năm đã qua, cả đoàn
người chiến dịch sông Thao bấy giờ còn lại mỗi một bộ đội Sửu thợ rèn, tự vệ Ô
Cầu Dền, nay là chính trị viên trung đoàn.
Cái tình với chiến sĩ và với trung đoàn Thủ đô của Nguyễn
Tuân tuyệt nhiên không phải ngẫu nhiên. ấy là thói quen đến nơi đến chốn, chăm
chút, ý nghĩa của một kỷ niệm. Người con trai lớn của Nguyễn Tuân đã là một
trong những cán bộ chỉ huy đầu tiên của đơn vị từ sáu mươi ngày đêm chiến đấu
trong lòng Hà Nội ở Liên khu I. Có khi, đi chơi với Nguyễn Tuân và Xuân Trường,
người con trai ấy bây giờ là một tướng lĩnh trong quân đội. Chúng tôi về quê
Nguyễn Huy Tưởng ở Dục Tú. Ba cái xe đạp thong dong sang Đông Anh. Thời cụ tú Hải
Văn bố dắt con vào nhà ả đào Hàng Giấy, đến thời bác Nguyễn, khác mà không
khác, cái tình vẫn một cha con ấy. Cũng như khi gặp lại Két trên bến Mậu A. Ông
khách kỳ lạ để nhớ vẫn thường khai vị bằng rượu mạnh.
Hai người cũng vào Đại Bục nhưng không bao giờ còn gặp lại
người nhà bàn cũ ấy nữa. Mỗi khi ngồi trông ra sóng hồ lăn tăn lẫn bóng liễu,
bóng chiều, bóng bia hơi và sáng đèn quanh chân cột sàn nhà Thuỷ Tạ, lại nhớ.
Thế mà là thật, những gắn bó xưa sau. Vui chuyện, Nguyễn Tuân hay nói một câu,
một câu nói đi nói lại:
- ừ! Phải viết chuyện ấy rồi phải viết.
Những từng trải và kỷ niệm cả đời thúc giục, đã viết ra đấy,
nhưng chưa được mấy. Mỗi ngày qua trở thành một thấm thía, khi chợt nhớ, đêm
nay ngồi quán cóc ông lão 81 lại nhớ người hầu bàn nhà Thuỷ Tạ Bờ Hồ xưa kia.
Những cái thích và vui ẩm thực của Nguyễn Tuân không chỉ dễ
dãi vì miếng ăn miếng uống sang trọng, mà phải là hợp khẩu vị, ngon theo ý
mình. Lọ muối vừng, hộp nước mắm chưng, cái gác-măng-dê trữ trên ba lô, thời
chiến và thời bình, vẫn thế. Nguyễn Tuân sành ăn và kỹ tính tuyệt nhiên không
xô bồ. Nắng oi quá, nhắm rượu mướp đắng giải nhiệt, nhưng không xơi mướp đắng mắm
tôm như người ta. Không bao giờ đụng đến mắm tôm chợ. Ăn tinh đến thế, mà lại kỵ
tỏi, mùi tỏi.
Tôi vừa đến, mới ngồi đã bị hỏi:
- Có phải cậu vừa ăn tỏi?
Nếu tôi ừ chắc Nguyễn Tuân sẽ bảo tôi đi đâu mai hãy trở lại.
Tôi đáp:
- Không phải.
Cái mũi thính có vẻ bớt khó tính với tôi, nhưng lại lẩm bẩm:
- ở nhà dưới lùa lên?
Sợ mùi tỏi, ông voi to đùng sợ con kiến. Cũng lạ, cái lạ mà
bình thường. Bài bút ký Phở đã đưa tác giả vào hàng những tay cực thạo món quà
này. ít ai biết Nguyễn Tuân chỉ ăn một thứ phở, phở chín, phở thịt bò chín.
Không đụng đũa vào bất cứ thứ phở nào khác. Thịt bò chín, nạm hay mỡ, bánh vừa
phải không nẫu vồng lên, không thái săn và thái máy như Sài Gòn mà Nguyễn Tuân
gọi đùa là vằn thắn phở. Xúc bánh xong, thái thịt lồi bày lên rắc hành hoa và hạt
tiêu - không ớt, mặc dù thích ớt cay. Ông nào phở xào, tái sách, tái dúng hay
tái lăn, sốt vang lại đập quả trứng, thêm một cục mọc thịt lợn, một miếng giò lụa,
hay phở thịt gà, thịt ngỗng, thịt chó rựa mận, thì tùy. Tôi không ăn phở để tẩm
bổ. Lùa thật nhanh, ăn thật nóng, lên hết chất phở, thú nhất. Không hành tây,
mùi tầu, húng chó, không thêm nước mắm, dấm ớt, tương ớt, không mỡ váng, không
mỳ chính, cốt thưởng thức cái tinh tuý của nước dùng xương.
Tập ký Băm Sáu phố phường của Thạch Lam khen cái ngon của một
hàng phở gánh đỗ cạnh cây hương trong sân nhà thương Phủ Doãn, bát phở rỏ mấy
giọt cà cuống. Cả thành phố chỉ có một hàng phở cà cuống ấy. Nguyễn Tuân thường
cười: cái nước chè tươi nóng bỏng môi, cái bánh đậu xanh ngọt xít cổ, lại đến
phở cà cuống, cái sự thích của anh nghiện vừa buông dọc tẩu xuống ngon hay
không ngon kể cũng đáng viết cho ra nhẽ.
Khoảng những năm 55, đôi lần Nguyễn Tuân còn ăn phở gánh ở tầng
trệt nhà Địa ốc Ngân hàng, chỗ quán rượu Hoàng Gia cũ. Hàng phở này mở từ những
năm thành phố còn bị chiếm. Rồi đến dạo quà phở thành cơm phở, người thành phở
ăn phở lấy no, thì Nguyễn thôi ăn phở. Bút ký Phở cũng là vang bóng một kỷ niệm
mà thôi.
Nguyễn Tuân có nhiều cái không thật bất ngờ. Nguyễn chưa bao
giờ cưỡi ngựa, không biết ngồi ngựa. Đạo diễn Phạm Văn Khoa làm phim Chị Dậu,
Nguyễn Tuân đóng vai chánh tổng cưỡi ngựa đi đốc thuế. Chủ nhiệm phim đi thuê
ngựa, phải thuê cả người chủ ngựa đóng vai dõng đứng giữ cương cho ông chánh tổng
ngồi trên yên, chưa đến nửa phút. Nguyễn Tuân chỉ đi chơi biển, không tắm biển.
Dễ hiểu: Nguyễn Tuân không biết bơi, dù bơi chó hai chân đạp tầm phòng. Đọc ký
sự Ra đảo của Nguyễn Khải kể về hành trình Nguyên Khải vượt biển ra đảo Cồn Cỏ,
Nguyễn Tuân khoái riêng cái anh nhà văn trẻ này ngồi thuyền ra Cồn Cỏ dưới bom
và tàu chiến địch quần xung quanh mà không biết bơi, nhát nước chẳng khác Nguyễn
Tuân.
Nguyễn Tuân chẳng thiết cái quán bát nháo của ông lão 81.
Nhưng đến đây là một cơ hội để nhớ. Tách cà phê bít tất hay chén rượu có nhạt,
cũng không quan tâm, chỉ bởi nó đem lại được cái cớ Nguyễn Tuân kéo mẩu ghế ngồi.
Dáng ông lão gày gày, bộ quần áo nâu non còm cõi, lom đom. Nguyễn Tuân nhớ những
cái khác. Mỗi đêm ngã sáu, từng người lại tìm về những kỷ niệm của mình. Những
năm ấy chưa có mấy quán cà phê, quán nước bán kèm nước trắng. Tôi không được biết
Nguyễn Tuân thời xưa kênh kiệu tàn nhẫn thế nào, chỉ thấy bây giờ cũng chịu khó
chơi tạp, chỉ có điều là ngồi đối diện đấy, nhưng không nhìn mặt ai. Cái ác khẩu
của nhà văn này thì khỏi nói. Tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê
bình, ai đã bịa ra mà kể lại thế, nhưng giá ở dưới âm ty, thằng phê bình chẳng
may nào đó bị chôn sống, lại mời ông đi uống rượu rồi đi chơi đảo Cát Hải thì
chắc ông cười xoà, làm lành ngay. Vẫn cái khó khăn hay cái dễ dãi chỉ vì mình.
Đã thích thì cứ cầm lấy, một quyển sách mượn không bao giờ trả, một nhánh hoa địa
lan cắt thẳng ở chậu vừa hỏi chủ nhân vừa cắt.
- Ông 81 mới đổi mặt hàng. Có cái rượu hay lắm.
Trước cái chõng, ngọn đèn hoa kỳ nhoè nhoẹt. Cũng không ai để
ý những bày biện mới, lọ lạc rang lại lọ kẹo bi xanh đỏ nhờn nhợt, quà dỗ tiền
trẻ con. Ông lão đương cù rù, lẩn mẩn bóc củ hành khô. Vỏ hành kêu tanh tách
như bật ngón tay. Cái chảo mỡ bắc ngay cạnh. Đậu nghệ chấm muối hay đậu rán, những
mặt hàng mới. Thêm mấy cái ghế lõi giấy ép cuộn chỉ nhà máy sợi bên gốc cây đã
xây vuông viền quanh thành cái bàn. Bập bênh như chiếc ghế ngất ngưỡng trước quầy
rượu, cũng hay hay.
Tôi nói:
- Ra cái ông 81 này đã làm bồi cho Grapphơi ở Huế, ông Nguyễn
ạ.
Nguyễn Tuân gật gật:
- Grapphơi công sứ Trung Kỳ.
- Tôi mới nghe ông ấy kể.
Chờ đợi sự ngạc nhiên, nhưng Nguyễn Tuân chỉ ừ thế rồi nhìn bộ
quần áo nâu bạc của ông lão đồng chiêm xa lạ. Ông lão mọi khi cứ lặng lẽ lúc có
khách, tự dưng bỗng bật nói:
- ở Huế làm bồi, tôi kiêm cả chân bếp. Chả là mỗi lần cả nhà
nó đi pích ních, Bạch Mã tôi phải lo các thứ, đâm ra thạo. Miếng giăm bông hun
khói tôi cũng làm lấy được, khét bỏ mẹ lại khen ngon. Người Tây lắm cái ngược đời,
còn An Nam mình thì khôn ngoan, hay xỏ ngầm. Thế mới chết chứ. Tôi làm ăn lương
gấp rưỡi. Nấu nướng cho Tây chẳng khó như cao lâu Tàu. Hành mỡ phi thơm lừng,
Tây nở mũi, thế là khen buồng. Các ông để ý xem, hèn nhất là cái mặn muối, thế mà
Tây ăn cứ phải có lọ muối trắng như bát hương mả tổ nhà nó để giữa bàn. Động một
tý lại rắc muối, thế thì mất hết mùi vị, các cụ nhà ta kén đến hàng chục loại
nước mắm vẫn còn chưa bằng lòng kia mà.
Câu chuyện của ông lão quê mùa mỗi lúc một sang trọng phố phường,
bắt đầu từ Huế lên Bạch Mã đến khi Grapphơi hết hạn ở Đông Dương về Pháp đem
theo cả thằng bếp giỏi. Thế là tôi phú bà đầm nhà tôi về quê, bảo là cho tôi đi
kiếm cái vốn. Tôi đi xêlibạt ba năm bôông bêêng bên Tây. Các ông ạ, nói thực chứ
ngủ với đầm chán bỏ xừ. Nó bắt phải đùa cả đêm, nhọc lắm.
Thế là ông lão hơn đứt chúng tôi rồi. Cao hứng, Nguyễn Tuân
chốc lại hỏi một câu về núi Bạch Mã, chén rượu để vào vè gốc cây sấu đã cạn từ
lúc nào. Phong tục và khách khứa ở những quán còm cõi chủ hàng hay đuổi khéo
khách không uống thêm mà còn bè nhè, thế mà ông lão vẫn để yên. Những câu chuyện
của ông 81 đã làm chúng tôi lẫn lộn gốc sấu, gốc xà cừ, gốc cây sữa với những gốc
thông và bậc đá tảng boongalô trên Bạch Mã. Tôi ngồi hớp những chuyện trên vùng
núi nghỉ mát ấy và chuyện chơi bời bên Tây mà tôi chưa được biết đến bao giờ,
chỉ nghe cũng như thuộc. Ông lão 81 vẫn bóc hành. Bây giờ tôi mới để ý bàn tay
bồi bếp suốt đời ấy to bè bè, mỗi ngón như trái chuối mắn khác hẳn khổ người thấp
bé, gày úa. Gia vị chuyên có củ hành Cái hành củ già mới hăng, không như hành
hoa, hành lá nhạt thếch. Rồi khách hàng cũng đâm ra nghiện hành khô theo chủ
quán. Các ông ạ, hôm nay có ngầu pín. Từ dạo chú khách ngoài phố Huế đóng cửa
món cháo ngầu pín, thỉnh thoảng ông 81 xuống lò mổ mua chui được mấy cái. Da
bò, thịt tái và dái trâu dái bò hồi này hiếm hẳn. Nghe nói mậu dịch thu mua, da
thì vào nhà máy thuộc da, còn ngầu pín để xuất khẩu đi Hồng Công. Lão 81 hay
khoe của lạ, mà không bao giờ vui chén với khách.
Lão chỉ nhìn người ta uống và đợi được khen hành phi thơm sực
mũi. Lão giữ đúng quy lát nhà bếp nhà bàn có cái thú ở sự ngắm người ta thưởng
thức - Nguyễn Tuân bảo thế. Nhưng vẫn rôm rả chuyên Bạch Mã và bên Tây. Mỗi câu
đối đáp như nói cho mình nghe. Lão ấy cũng khoái nhớ chứ! Nhớ vui hay nhớ buồn,
nào biết được với lão. Có lần tôi nói với Thanh Tịnh khi đọc những hồi ký ông
viết về thời làm nghề hướng dẫn du lịch rằng ông nhớ lâu quá, Thanh Tịnh sáng
tác ra một câu ngạn ngữ, nhớ lắm, khổ nhiều. Ôi tội cho những người nhớ lâu.
Chúng tôi đưa một khách Ba Lan ra ngồi gốc cây ở đấy. Nhà văn
Dukôpsky đã lên mặt trận Điện Biên nhưng A.Covanepsky, nhà văn Ba Lan này đến
Việt Nam khi hoà bình đã lập lại. Ông nhà văn hình thù cổ quái ấy chuyên viết
phóng sự về đời sống loài vật. Covanepsky đã ở rừng châu Phi, đã qua suốt mùa
hè trên ngọn sông Amagiôn và ở cả năm trong vùng muỗi rừng đương khai hoang mở
đồn điền chuối bên Braxin. Ông đã lặn lội hầu khắp rừng núi thế giới, chụp ảnh
và viết về những con vật kỳ lạ. Cơvanepsky đã bảy mươi lăm tuổi, thế mà bạn đọc
ông nhiều nhất lại là thanh thiếu niên.
Ông đến làm khách của Hà Nội cuối tháng chạp. ở lại tết
Nguyên Đán, mấy khi được ăn cái tết cổ truyền mùa đông ở một thành phố nhiệt đới,
nhưng Cơvanepsky lại muốn đến xem mùa xuân tận nơi rừng thẳm có muông thú hoang
dã. Ông lên Lai Châu. ở tỉnh lỵ, tết xoè Mường Lay trên các nhà sàn cũng không
quyến rũ nổi ông. Ông đã cưỡi bốn ngày ngựa lên Mường Tè. Những địa danh Mường
Thanh, Lũng Cú, Mường Tè, Mèo Vạc, ngay đối với người Việt Bắc cũng tận đâu
đâu.
Trời rét ngọt, gió cuốn dưới lòng đường lên như cắn vào mặt.
Chúng tôi vác đến một chai rom Sanh Giam mua ở khách sạn Mêtrôpôn. Uống cà phê
bít tất pha rượu hảo hạng Nhưng không ai lưu tâm cà phê hạt muồng với cái rượu
ngon nhất nước Pháp mà là ngồi ở chỗ này để tưởng tượng ra đồng không mông quạnh
cho ông nhà văn rừng rú quê ở châu Âu ấy trò chuyện. Ông kêu chán phòng ăn,
phòng ngủ khách sạn từ hôm ở Mường Tè về. Ông đòi đổi khách sạn Mêtrôpôn cho
ông đi ở nhà sàn. Kiếm đâu ra của hiếm ấy ở đây.
Nhưng rồi vài hôm đã quen lại dần. Cây sáng kiến ăn chơi Nguyễn
Tuân nghĩ ra cách tối ấy đưa khách ra ngã sáu. Vừa đẹp trong ý nghĩ chúng tôi.
Cái lão nhà văn thế giới Cơvanepsky này có thể được gợi hứng thú khác. Rằng ở
giữa nơi chơ vơ trông nghiêng qua mặt đường nhựa phẳng lặng bóng ngọn cây cao
cao đằng xa, ánh đèn lốm đốm nhứ đêm sa mạc. Tôi đã cưỡi lạc đà qua sa mạc Gô
bi, vào Mông Cổ. Nhưng chưa được tới nơi nào như Mường Tè - Ông cười, một chiếc
răng hổng. Có điều không nơi nào như Mường Tè, ông vừa kể lại và đưa tấm ảnh chụp
ở sân huyện uỷ.
Cơvanepsky vịn vai một con gấu ngựa, gấu thật. Con gấu áng chừng
hai ba tuổi cao to bằng người. Hai chân sau đứng, một chân trước đặt lên vai
áo. Một tay ông nhà văn, ông già tuyết Nôen để trên đầu con gấu.
- Không phải gấu độn rơm của thằng thợ ảnh ở vườn hoa các nước
châu Âu. Gấu thật. Tôi chưa được thấy đâu nuôi gấu trong nhà. Đến bữa ăn, gấu
ngồi chầu gầm bàn, nhặt cơm vãi. Lạ nhất thế giới!
Tôi không dám nói, làm ông cụt hứng. ở giữa thành phố này người
ta cũng nuôi gấu, mua bán gấu như chó con. ít lâu sau, tôi trông thấy con gấu
Mường Tè ấy ở một trang họa báo Ba Lan của một ông nghề chào hàng phụ tùng ô-tô
đem đến. Nguyễn Tuân vốn thích tranh áp phích Ba Lan. Ông chào hàng mới quen
này lại là một ông Ba Lan. Cũng chuyện thường ngày mà lạ, cái ông chào hàng bỗng
nhiên chúng tôi quen. Hôm ấy, sân khấu ngoài trời Nhà hát Nhân dân diễn tuồng hồ
quảng tích Lương Sơn Bá Trúc Anh Đài của một đoàn hát Quảng Tây sang. Chúng tôi
đi xem, tình cờ ngồi cạnh một người Âu. Trong lúc đợi mở màn, ông ấy đã mau miệng
tự giới thiệu. Biết tiếng Pháp, tiếng Anh, Mariam Stvensky người của hãng sản
xuất phụ tùng ô-tô du lịch chuyên đi chào hàng. Nghe đệm họ Mariam, đã biết là
một người Do Thái Ba Lan. Ông nói lần đầu tôi đến Việt Nam. Lần thứ hai tôi đi
xem nghệ thuật kịch Việt Nam. Nguyễn Tuân bảo là tuồng Trung Quốc. Ông Stvensky
nhất định rằng đây là kịch hát Việt Nam. Hôm nọ tôi được xem rồi. Có những người
tốt bụng, nhưng tính ương bướng thế. Không thể lay chuyển được cái điều lão đã
đinh ninh.
Nhưng lão rất vui, nhận lời hôm sau lại gặp nhau để tiếp tục
tranh luận xem vở kịch hát là của Trung Quốc hay của Việt Nam Gặp cái lão gàn dở
vô lý cù không cười kiểu Saclô, Nguyễn Tuân tỏ ra thú vị. Chúng tôi hẹn Mariam
đến nhà Buđa. Buđa ở phố Hồ Xuân Hương yên tĩnh, lại ở một mình, tha hồ nói to.
Thực đơn: chai rượu vang của Nguyễn Tuân, lão kia sẽ đem đến rượu vốt ca Ba Lan
và xúc xích hun khói - đúng khẩu vị Nguyễn Tuân và kết thúc bằng bát cháo gà ở
ngã sáu dốc Hàng Kèn gần đấy. Buđa không biết lão Mariam, nhưng tôi đến đặt tiệc
thế, Buđa nhận lời ngay.
Tôi mới quen Buđa những ngày ở Thái Nguyên về Hà Nội, nhưng
đã nghe kể về Buđa từ khi còn trên Tuyên Quang. Làm việc nhà xuất bản Ngoại
Văn, Buđa đã dịch ra tiếng Pháp Dế mèn phiêu lưu ký và Truyện Tây Bắc của tôi.
Giáo sư một trường trung học Sài Gòn, Buđa đã trốn ra kháng chiến ở miền Đông rồi
được lệnh vượt Trường Sơn bảy tháng ròng rã ra Việt Bắc năm 1952 để làm việc ở
đài phát thanh. Cuộc đời thật dữ, mà anh chàng thì ngơ ngác hiền lành. Bạn bè gọi
tắt chứ tên anh là Gioóc Buđaren! Buđa cũng có nghĩa là ông phật, hợp với con
người lù đù ấy. Có những tù hàng binh Pháp, thằng An, thằng Bình hay đóng các
vai Tây trong các phim Chung một dòng sông và Vợ chồng A Phủ - những bộ phim vỡ
lòng của Xưởng phim truyện, bọn này cả ngày loăng quăng xe đạp lượn phố tán
gái. Khối cô mê thằng An. Buđa thèm lấy vợ mà đành chịu. Anh chàng chỉ thạo
sách vở. Một lần, Buđa đi thăm Điện Biên Phủ, gặp ở Tuần Giáo một cô gái Thái
lai Tây. Buđa mê quá. Nhưng cả một buổi tối ngồi uống cà phê cô ấy pha và im lặng.
Chỉ say sưa khi về Hà Nội kể lại. Và câu chuyện tình ngậm miệng ấy cũng qua đã
nhiều năm rồi.
Chai vang Pháp của Nguyễn Tuân đặt giữa bàn. Lịch sự, chủ nhà
mua thêm hai chai Boócđô. Mặc dầu chỉ nửa cốc vang Buđa đã bị dị ứng mẩn ngứa đỏ
khắp người không chịu được. Tây mà không uống được rượu.
Ai đã tổng kết từ lâu rằng uống vang với phó mát - cách uống
cổ điển, ngon nhất. Ông bạn tình cờ đã tự đổi thực đơn, tự khen mình và có nhận
xét thế. Bởi vì cái ông Ba Lan vui tính bán phụ tùng ô-tô đã mang vốt ca đến với
một bọc phó mát và bánh mỳ gối. Ông này cũng không bợm rượu mấy. Thành thử, chỉ
còn có hai người chúng tôi không tế nhị. Cái vang Pháp đỏ sẫm sao mà nó chát sướng
đến thế.
Một Tây, một Ba Lan khoái chí nâng cốc và nhìn hai tôi cạn cả
cốc như uống bia. Ông Ba Lan nói to:
- Tôi đã nghe Dukôpsky nói chuyện về Việt Nam trước khi sang
đây. Một người Ba Lan đã có mặt trên chiến trường Điện Biên Phủ. Tuyệt vời. Còn
con gấu chụp ảnh với một nhà văn đồng bào của tôi đây này, tôi tặng các bạn tờ
họa báo. Rồi lão lại giở chuyện hôm qua.
- Vâng, những tối kịch hát Việt Nam, hay lắm. Không thể thêm
một câu nào khác với một người chỉ cho là mình đúng. Nhưng Buđa ngơ ngẩn hỏi:
- Đoàn kịch hát Trung Quốc đương diễn ở nhà hát Nhân Dân?
- Không, đoàn nghệ thuật Việt Nam. Tôi đã đến Bắc Kinh, Trung
Quốc hát khác.
- Có diễn viên Hồng Tuyến Nữ nổi tiếng.
- Đều là Việt Nam. Tôi biết mà.
Câu chuyện đùa cợt dằng co, miên man, buổi tối không hẹn mà
nên. Mariam Stvensky kể bốn giờ sáng mai đã sang sân bay. ở đây về là xếp va
li.
- Không sao, phải tranh luận cho đến được sự thật, sự thật chỉ
có một!
Chốc chốc lại hura: nghệ thuật muôn năm. Ông Ba Lan ôm tôi đứng
dạy nhảy, một tay giơ cái ảnh con gấu Mường Tè. Hu ra, hu ra. Phụ tùng ô-tô, phụ
tùng ô-tô cũng là nghệ thuật. Buđa hào hứng: Cho tôi uống! Cho tôi uống! Rồi sẽ
nằm gãi một tuần lễ, không sao, không sao.
Mariam tiếng Pháp giọng mũi, giơ cốc trịnh trọng:
- Hãy nghe tôi nói. Người bán phụ tùng không chào hàng đâu,
mà nói về triết học. Thứ nhất, chúc con người tiến tới bằng cái ô-tô, nhân loại
sẽ đến được thời kỳ trong người hỏng hóc bộ phận nào thì thay bộ phận ấy. Thứ
hai, bấy giờ ở ô-tô cơ thể của các bạn có cái gì cũ, cái gì hỏng hãy cho tôi biết.
Hãng tôi sẽ gửi sang, tôi sẽ đi theo, tự tay lắp máy mới cho các bạn, máy liệt,
máy hóc lại chạy ngay. Con người bằng cái ô-tô, hơn cái ô-tô. Hua ra... hua
ra...
- Nhưng không có bánh mata (*) (*Bánh mỳ Do Thái mỏng như
bánh đa, người Do Thái ăn với súp lạnh trong các dịp lễ lớn) - Cũng được. Đây
là một lời chúc hạnh phúc.
Khuya rồi, chúng tôi mới ra ngã sáu. Không nhớ chốc nữa ông
bán phụ tùng ô-tô - và tương lai, bán cả phụ tùng người phải sang sân bay Gia
Lâm. Hơi vang đã nhạt, người cười nhiều quá cũng đâm buồn, những cái bóng chúng
tôi đi lẳng lặng.
Phó mát làm bứ bụng, không muốn ăn cháo gà. Vả lại, các bạn
Tây không khoái chén súp đêm. Chúng tôi vào chõng cà phê bít tất của lão 81.
Làm như phong tục Nga, khi tiễn đưa, mọi người đặt tay lên đầu gối ngồi im với
nhau trong giây lát.
Một bác xích lô về khuya, ghếch cái sàn xe rên ken két lên bờ
hè. Bên gốc sấu bành rễ sù sì, mảnh gỗ làm bàn, những mẩu gỗ, cái lõi cuộn chỉ
dựa cây, dựa tường, mỗi người trầm ngâm nhìn đi đâu. Cả cái lão cà phê số nhà
81 kia nữa, chắc đã làm một chén trước khi dọn hàng. Biết đâu ông lão này, bác
Chữ cháo gà, những ông xích lô đầu hói râu rậm, các cụ ngơ ngác vác cả luỹ tre
trong làng về đây, hỏi ra thì lão nào, lão nào cũng đã đi bồi bếp, cho tây đầm
ăn ra sao thì chúng phải ăn thế đấy, lại đã sang đánh nhau bên Pháp, bên Ma rốc
từ thế chiến thứ nhất. Ai cũng đã bôn tẩu sông hồ bằng mây chúng tôi. Ông cà
phê đương lơ mơ trời đất ở đâu. Thấy người lố nhố vào, hai cái đầu gối quần nâu
lòng thòng đứng dậy.
- May quá, còn cái ngầu pín.
Bác xích lô ngồi ngủ gà trên cái đệm xe, chọt tỉnh nói to
vào:
- Tôi, tôi, để cho tôi.
- ừ, chứ bảo mấy ông Tây này ăn dái bò thì các ông ấy chết
khiếp.
Lão bếp già 81 cười tủm, vẻ thành thạo:
- Cứ bảo xúc xích nhồi, thì cũng nuốt tất.
Bác xích lô lại nài:
- ấy, để cho tôi. Người mình thì phải dùng cái bổ thẳng một
lèo mới kiến hiệu được. Ông Chữ cho tôi bát cháo trắng, rồi thì tống vào đấy
dái bò, dái dê, dái chó bao nhiêu cũng cân.
- Được được. Ai cũng đủ. Các vị chơi khuya thế? Ông này người
nước nào mà trông giống quan công sứ Grapphơi. Các vị dùng cái đen hay cái trắng?
Lại vẫn quan công sứ, quan công sứ với cà phê hay rượu trắng,
lẩn thẩn ăn người đấy.
- Này cụ bít tất, năm nay tuổi giời cụ được bao nhiêu?
- Thưa ông, nhà cháu thất thập rưỡi.
- Thế thì cái thằng quan công sứ của cụ xuống chơi với giun
lâu rồi.
Ông cà phê bít tất nói một câu ngắn thôi, nhưng ý nghĩa thì địch
được với câu triết lý của ông Ba Lan sắp bán phụ tùng cơ thể con người.
- Các cụ xá cho. Chuyện chiêm bao ấy mà.
Đêm thành phố trên ngã năm ngã sáu bờ hè. Khách đến, khách
đi, lủi thủi trong bóng tối, không có báo in, báo tường mà mọi chuyện đâu cũng
theo người tụ lại, mỗi người đem đến một chuyện. Những ông Ba Lan và Buđa và
ông Aki chẳng bao giờ gặp nữa, mà cứ nhớ như hôm qua, như lão 81 lúc nào cũng
quan khâm sứ Grapphơi. Vâng, đã là nhớ lại thì dẫu vui xưa kia cũng là nỗi buồn
bây giờ.
Shoisi Aki, mà có tên là Nguyễn An Nghệ, cái người Nhật ấy đã
ở với chúng tôi suốt chín năm kháng chiến. Aki đến khi chúng tôi ở núi Thượng
Yên, trong một làng dân tộc Dao đỏ giữa một cánh rừng rậm bờ sông Lô trên bến
Bình Ca.
Chưa bao giờ cơ quan rúc vào một nơi hóc hiểm đến thế. Nguyễn
Tuân ngại nơi này nhất. Đến Thượng Yên, trong cánh rừng ẩm ướt Nguyễn Tuân mới
thực sự bị những cơn sốt rét hành hạ. Trước, tiếng là yên rừng, nhưng còn ở
ngoài đồi chân Tam Đảo và bên sông Thao. ở xóm núi Yên Dã, đi một quãng ra huyện
lỵ Đại Từ, đã là Hà Nội nhỏ của chúng tôi. Câu thơ ngao ngán Sớm nay ra khỏi u
tì quốc của Xuân Diệu là để lưu niệm nơi này. Thế mà đến khi chui vào rừng sâu
Thượng Yên u tì và ma quái nhà thơ Xuân Diệu lại lặng im. Có lẽ đã quen rồi, mặc
dầu ở đấy, trong cơ quan, nửa đêm anh Truật làm kế toán quê Thái Bình đã chết sốt
rét ác tính. Nguyễn Tuân cứ đi đâu về, chỉ nằm giữa tre nứa âm u mươi hôm lại sốt,
lại rên rẩm thấp khớp. Trần Mai Thiên, con trai Nam Cao, khi bố cháu hy sinh,
chúng tôi đón được Mai Thiên, mẹ cháu gửi ở Đại Hoàng hậu địch chiến trường khu
Ba ra, cháu đương ở với chúng tôi. Có hôm, cả buổi Mai Thiên ngồi bóp chân cho
bác Tuân. Cụ bếp Ban vác củi ngoài rừng về qua, đi xuống bếp, lại lẩm bẩm: Rõ
nhà giàu đứt tay. Mời ông vào rừng với tôi đi vài chuyến củi thì khỏi chân ngay
thôi. Chẳng khi nào Nguyễn Tuân bớt nghiến ngả tôi về cái chỗ mới của cơ quan ở
Thượng Yên. Có khi giận cá chém thớt. Tôi ở Tây Bắc về, đem theo trong ba lô một
cái sáo Mèo. Sáo Mèo như ống trúc có cái lưỡi gà bằng đồng. Tôi không biết thổi,
những chập tối trong rừng sâu hay lấy sáo ra rên rỉ lên độc một tiếng toè...
toè... tôi nhớ tiếng sáo vắt vẻo núi cao trên những thung lũng ruộng bậc thang.
Nguyễn Tuân bảo:
- Ông cất đi cho tôi nhờ. Nghe ông thổi sáo, tôi đau tai hơn
đau chân thấp khớp.
Tôi ở bên báo Cứu Quốc đổi công tác về, được phân công tìm địa
điểm mới. Cơ quan chuyển ở cây số 7 đường Hà Giang trong xóm Động Móc chân núi
Là sang đây. Nguyễn Tuân rỉa róc: Chỗ núi Là không đủ kín mà lại phải chui sang
rừng Thượng Yên. Theo thằng này rồi thì sốt rét, rồi bụng báng chết hết. Có thể
nhiều người nghĩ như thế, nhưng không nói ra. Chỉ Nguyễn Tuân không dứt ca cẩm.
ối giời ơi, ông ở Chợ Rã, ở Tủm Tó, ông nằm đất, ông rang bọ hung ăn, ông xơi
thịt lợn không muối thối um lên, ông uống rượu men lá cũng khỏi ốm, ông còn thiết,
còn nghĩ đến ai.
Bác Ngô Tất Tố chén thịt lợn lửng cụ bếp Ban đã kho riềng cạn
khô vẫn tanh đến lộn mửa. Nguyễn Đỗ Cung ngoài bờ sông vào bắt châu chấu ăn sống.
Nguyễn Tuân từ lán ở xuống nhà bếp lững thững đi sau con kỳ đà ra rình bắt gà.
Có con trăn gió nằm phơi mình ở bãi cỏ ven suối trên đám lá cải soong chúng tôi
sắp xuống hái. Những cái đó thấm đâu với khi tôi ở suối Lửa trong vùng rừng Yên
Thế Thượng, ở Píc Cáy núi Phía Bioc làm báo Cứu Quốc Việt Bắc. Tôi hoá ra máu
cá, khi nghe những lời ca thán.
Đến Thượng Yên, Shoisi Aki sốt rét dòng dã, mặt trắng nhợt. Đặng
Thai Mai chủ tịch ủy ban Hành chính Kháng chiến Thanh Hoá đã gửi Aki ra cho
chúng tôi. ở Tokyo, Aki sang Đông Dương thực tập tốt nghiệp đại học kinh tế.
Đương ở Vinh thì Nhật thua trận đầu hàng Đồng Minh. Aki trốn vào trong làng. Đặng
Thai Mai nhắn: Aki biết tiếng Anh, có thể dạy Aki tiếng Việt để Aki dịch tiếng
Anh. Ai cũng gọi Shoisi Aki là Nguyễn An Nghệ, cái tên Nghệ An kỷ niệm nơi Aki
đi với kháng chiến Việt Nam.
Lán chúng tôi ở và làm việc bên bụi nứa rậm rạp góc đồi. Mỗi
lán thành một tổ tăng gia. Nuôi gà trồng đậu, rau muống, cải soong. Nguyễn Tuân,
Aki với tôi và Nguyễn Đình Nghi. Đôi khi có Phan Khôi Đào Duy Anh, Phan Ngọc
bên bến Ngọc sang. Nguyễn Đình Nghi ít tuổi nhất, chủ lực cuốc xới, làm chân tổ
trưởng tăng gia.
Mấy năm ở rừng Thượng Yên mà nhớ lại tưởng như đâu một vài
ngày. Bởi chỉ khi ra ngoài, đi công tác, đi chiến dịch, quang cảnh và mọi việc
mới đổi khác. Trở về trong rừng, ngày ngày lại như thế. Dậy theo hiệu còi, tập
thể dục, vác xẻng cuốc xách ống vầu nước tiểu xuống sườn đồi tăng gia rồi lên
làm việc, đến giờ sang nhà bếp ăn cơm, họp kiểm điểm cuối ngày, vào xóm người
Dao dân vận, dạy học, làm vệ sinh quét dọn nhà, chuồng trâu... Aki nằm phủ phục
trong màn, lồm cồm chui ra. Sáng sớm, mở mắt trong đám sương đặc quện. Hình như
nằm ngủ, các đốt xương dính lại, bấy giờ duỗi chân tay ra đau ê ẩm.
Aki đã ra ngoài đầu nhà lúc nào. Chắc đã dứt cơn sốt. Mặt
vuông bạnh quai hàm, khung xương người cao to gầy rạc. Không phải Aki tập thể dục.
Aki ngồi phệt trên mặt đất ẩm. Hai chân xếp bằng tròn, tay đặt trong lòng, mắt
nhắm nghiền, mặc mọi người vung tay vung chân, vặn mình, nhảy nhót. Đến lúc ai
nấy đã xuống vườn sườn đồi, Aki lẳng lặng đứng dậy, cầm ống nước đái, bước
theo. Thỉnh thoảng Aki lại ngồi như thế. Chưa bao giờ tôi hỏi vì sao.
Suốt ngày, Aki cắm cúi bên cái bàn vỉ tre trước giường nằm.
Aki chỉ đứng dậy ra cạnh bụi nứa khi nghe tiếng khu trục Spitphai, kinh côbra cổ
ngỗng theo sông Lô lên lướt qua. Aki dịch sang tiếng Anh các truyện anh hùng
chiến sĩ của chúng tôi viết về Nguyễn Quốc Trị, Giáp Văn Khương, nữ du kích
Nguyễn Thị Chiên, lão nông Hoàng Hanh... Bản thảo giấy tờ ngổn ngang trên mặt
dát giường nứa ngộ.
Những hôm trời nắng, Aki ngồi lặng yên ngoài rừng. Mặt nhợt
nhạt màu đau gan. Aki đăm đăm như ban sáng nhập thiền. Một lúc lâu lại vào ngồi
trước bàn. Ngày nào cũng thế không nói một câu. Nếu không trông thấy Aki đọc
sách, tưởng Aki không biết tiếng Việt. Nghe tiếng gà kêu quét quét, Aki nhỏm
lên. Aki ra đuổi kỳ đà. Con kỳ đà mốc thếch như con thằn lằn to bằng bắp chân từ
hang hốc nào ra cả ban ngày đương rướn cong cổ nghe ngóng. Cái chuồng gà của mỗi
người đặt giữa sân trước mặt, tối lại khiêng vào trong nhà. Những khi con cáo,
con rắn bò đến Aki cầm cái sào nứa ra đuổi.
ở nhà bếp, Aki ngồi một góc, ăn nhai hững hờ, nhưng bao giờ
cũng hết xuất cơm muối vừng. Không có lọ kem nước mắm, ống bơ thịt kho, nhưng
thỉnh thoảng, Aki tẩm bổ một món đặc biệt: chuối tiêu thái từng khoanh mỏng để
vào bát, rồi đập quả trứng gà quấy lên. Món sống sít hổ lốn ấy không ai dám bắt
chước.
Thế rồi nghe đồn tù binh ở Điện Biên Phủ được giải về thị xã
Tuyên Quang. Chỉ mấy hôm không ra mà ven sông Lô đã san sát một dọc những nếp
nhà mái nứa. Thị xã mọi khi ban ngày vắng ngắt bỗng đông như hội. Bọn tù ốm nặng
và tù bị thương ngày nào cũng được đưa xuống bè xuôi về nơi trao trả dưới bến
Việt Trì. Tây trắng Tây đen đi lêu đêu, ngất nghểu. Người da đen chỉ còn thô lố
hai con mắt trắng dã. Những tù binh gày yếu quá trước khi thả được giữ lại vỗ
béo cho ít ngày.
Quanh thị xã đổ cả ra xem tù binh. Không còn những máy bay cổ
ngỗng, B26 lên bom bắn. Người đi đông như mít tinh. Aki ra thị xã, trở về đứng
trước lán, nước mắt ràn rụa. Không biết khóc buồn hay khóc vui. Nhớ chín năm
trước, khi chạy vào làng, bây giờ Aki bồi hồi sắp được trở về. Vợ Aki dạy đàn
piano. Đứa con gái, khi ra đi còn nhỏ. Nếu được bình yên, năm nay mười một tuổi.
Thế rồi về Hà Nội. Mỗi tháng có một chuyến tàu Nhật vào cảng
đón những người Nhật lưu lạc còn sống sót ở Việt Nam. ở thành phố mọi việc mới
bận rộn. Một hôm, Aki đến chào mọi người, Aki sắp xuống Hải Phòng. Bấy giờ bỗng
thấm thía cái xa cách.
Chúng tôi đêm hôm ấy la cà ra ngã sáu. Lui hủi ánh đèn chai,
đèn hoa kỳ, gánh cháo gà, chõng cà phê, rượu trắng, đậu nghệ, ngầu pín, lạc luộc
như ngày trước đầu xóm các nhà hát ngoại ô hiu quạnh bên Thượng Cát, trong Ba
La Bông Đỏ. ở Khâm Thiên bây giờ vẫn còn lác đác vài nhà tom chát không bỏ đi
Nam. Loáng thoáng tiếng đàn tưng tửng, tiếng phách... Nhưng chẳng hiểu sao,
không phải vì sợ phạm nội quy vào vùng mới giải phóng, chúng tôi chẳng còn háo
hức thú chơi như năm xưa. Mà chỉ lang thang tha thẩn các hàng quán phố đông, phố
vắng, quanh các rạp Chuông Vàng, Kim Phụng, đương diễn các vở cải lương diễm
huyền La Mã kèm cái kịch ngắn chống di cư chẳng mảy may ăn nhập với nhau.
Tôi bảo ông lão 81, ông này là người Nhật. Ông 81 kêu lên: ối
giời ơi, nước ta lắm thứ người quá. Lúc nghe ông Nhật sắp về nước, ông 81, quên
cả thói tục dửng dưng của người hầu bàn, đã uống góp một chén với khách. Chúng
tôi ra ngồi sưởi trước cửa lò sau nồi cháo đã cạn sôi sùng sục. Dễ đã quá nửa
đêm. Gió ào ào lòng đường, sột soạt miếng ny lông trên lưng ông xích lô đầu quả
gáo như lão quan tàu Tưởng thất thế vào giờ này tà tà đến làm chén rượu với bát
cháo ấm bụng rồi ra ga Hàng Cỏ đón tàu chợ dưới Phòng lên. Lão cà phê bít tất
nói vọng ra như khoe cho mọi người biết:
- Ông ấy là người Nhật?
Bác cháo gà Chứ nhăn nhó ngước cặp mắt lông quặm kèm nhèm
nhìn đám khách muộn. Chắc chẳng rõ ra người nào người nào, nhưng bác gật gù: Nhật
à, giô tô nay, giô tô nay. Tự nhiên nhớ mấy chữ cóp nhặt chế giễu của người
thành phố này mỗi thời kỳ biến động đều vẽ nên được bức tranh thế sự bằng chữ
nghĩa, ai cũng xì xồ vài ba câu: mét xì bô cu, măng giê ca ca... hẩu sực, tả lớ
và vài năm có người Nhật đến lại thêm arigatô... giôtônay... Bác Chữ chắp tay,
cung kính: Mời các ông ngồi. Mấy chiếc ghế con được khớp lại thành bàn. Những mẩu
củi trong lò đã vạc than được vét ra mặt đường làm đống lửa sưởi cho mấy ông
khách sau cùng. Bác moi ra cái chai rót đều, lại bưng một chén vào lão 81.
- Chẳng nói giấu gì chư vị, nhà em vừa làm một chén rồi. Lâu
lắm mới lại trông thấy ông giôtônay, em xin hầu chư vị chén nữa.
Gió sởn quanh gáy, không ai biết cơn lạnh thít người. Bác Chữ
cất chai vào ngăn kéo lại lôi ra hai thanh tre mà mỗi hôm vừa đặt gánh, thằng
con trai bác đã đi các phố quanh quanh chõ vào đầu ngõ gõ sực tắc, sực tắc cho
mọi người biết cay hạp trúc sực tắc cháo gà đã đến.
Thanh tre kê xuống mặt đường nhựa, thanh tre sực tắc thành
cái phách.
- Nhà em xin hầu cán bộ một khổ.
Hãy còn giăng gió gió giăng Đừng lo lắng thanh xuân bất tái
Biết rằng ai đã hơn ai...
Nguyễn Tuân hứng chí cầm cái ống khói bếp gõ ngón tay đánh trống
chầu nhịp. Ông xích lô đầu quả gáo tưởng đi ngay, nhưng đã lại đương thiu thiu
lúc ấy cũng nhỏm dậy. Mỗi người một tâm sự ở cái ngã sáu đường đời này. Chẳng
ai đoái hoài đến Aki ngồi yên, nước mắt lã chã. Aki khóc. Cũng không ai để ý những
câu ư ử rên rỉ bát nháo gió giăng của bác hàng cháo. Im lặng một lúc lâu. Nguyễn
Tuân vỗ lưng Aki:
- Mai đã đi rồi, Tokyo đương đợi anh. Tôi hò chúc Aki một bài
đường trường từ biệt Hà Nội.
Hãy giữ lâu được nỗi nhớ cái đêm đạm bạc này.
Chiều chiều mượn ngựa ông đô Mượn kiệu chú lính đưa cô tôi về
Ngựa ô đi đến quán Lau Ngựa hồng đủng đỉnh đi sau gò Điền Không rõ mấy câu ca
dao Phú Yên ấy Aki hiểu đến đâu. Tôi thì tôi bồi hồi nhớ xưa kia những khi họp
mặt thanh niên hay truyền bá quốc ngữ nghe Trường Đình Thi giọng Bắc lại hò Phú
Ơn kể về người đàn ông lặn lội dắt vợ cõng con vượt đèo xa xứ kiếm miếng ăn.
Người đứng cất tiếng hò cũng hốc hác não nề như người tha hương kia. Mỗi khi uống
và buồn, Nguyễn Tuân thường bắt chước giọng Trường Đình Thi hò Phú Ơn. Có phải
những câu hò ngơ ngẩn não lòng trong đêm lạnh giữa những con người đã trải mấy
cuộc đời làm rơi nước mắt xuống đường thành phố như dòng sông miên man, nhớ
nhà, mà mừng trở về, không còn lệ ai chan chứa biết đi đâu về đâu như khi ở rừng
Thượng Yên, mà khóc cũng chẳng vì lẽ gì. Nguyễn Tuân nhìn Aki. Nguyễn Tuân rút
khăn tay chấm mắt. ở câu hò Phú ơn của con người ấy còn ngổn ngang bao nhiêu
hơn cái thằng Aki trở về. Làm sao hiểu được những giọt nước mắt kia vì nỗi niềm
ai.
(Về Tokyo, Shoisi Aki làm tổng thư ký đầu tiên của hội Nhật
Việt hữu nghị. Hai năm sau, Aki lại sang Hà Nội. Nguyễn Tuân gửi tặng vợ và cô
con gái Aki đương học nhạc viện mấy thước lụa vân tím màu mận hậu. Chuyến ấy về,
Aki bị bệnh gan và mất).
Cụ tú Hải Văn đã cho cậu con trai mới lên mười theo đến nhà
hát ả đào Hàng Giấy. Thơ Đỗ Mục, cụ tú dịch:
Mười năm tỉnh mộng châu Dương Hời thêm một tiếng phũ phàng
ngày xanh Cụ tú Hải Văn, tác giả bài thơ tám chữ độc vận Ai, mà năm 1981, Nguyễn
Tuân in tuyển tập đã viết tay trang đầu để trả lời một người chị có nhã ý hỏi về
thơ cụ tú H.V. nhớ Huế, xin chép hầu chị bài thơ độc vận ai.
Những là dặm liễu bay hồn khách Nào thấy mành hoa thoáng bóng
ai Buồm thuận gió xuôi vui mặt bạn Canh tàn rượu tỉnh giật mình ai Cầm tay dặn
với ba câu chuyện...
Cuộc đời phóng túng và nếp nhà quan các cụ nội đại thần trị
nhậm đất Sơn Tây, đã in đậm, đã mờ chồng lên ngày tháng đời con đời cháu từ bao
giờ. Nhiều lần Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng và tôi thường lên Sơn. Chúng tôi ngồi
bên hào thành, dưới cây sữa. Mặc Nguyên Hồng với bà cai ách bán hàng - khuôn khổ
người đẹp kiểu của ông ấy. Tôi hỏi Nguyễn Tuân: Chữ người tử tù, Đỉnh non Tản
và tất cả vang bóng của ông đều phảng phất Sơn Tây, thế ông đã đi ả đào ở Đông
Tác chỗ gần chốt Nghệ kia chưa?, Nguyễn Tuân tủm tỉm và lặng yên.
Truyện ký Vang bóng một thời, hình ảnh những ngày qua xa xưa.
Vang bóng một thời Tây mà Nguyễn Tuân lúc nào cũng định viết, đã công bố trên
trang Cùng một tác giả từ khi tập truyện ngắn Vang bóng một thời in lần thứ nhất.
Thời ấy, thời Tây, mới thực Nguyễn Tuân, những nông nỗi, những vang bóng của
Nguyễn Tuân. Cái này tôi phải viết... Cái này ông phải viết... Viết chứ! ở Tuỳ
bút 1, Tuỳ bút 2, Một chuyến đi hay Chiếc lư đồng mắt cua, hay ở những tuỳ bút
kháng chiến, những cái đã viết và những cái chưa viết mới chỉ là mành hoa
thoáng bóng ai chứ chưa bao giờ Nguyễn Tuân thực đã viết.
CHƯƠNG 2
Kháng chiến, Nguyên Hồng và Kim Lân đưa gia đình tản cư lên ấp
Cầu Đen trên Nhã Nam. Các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Tạ Thúc Bình, cả nhà bác Ngô Tất
Tố cũng lên quây quần trên cái đồi thấp bấy giờ còn hoang vắng. Những vùng ở
Xuân áng (Phú Thọ) hay Quần Tín (Thanh Hoá) cũng tụ hội lại những làng văn nghệ
sĩ kháng chiến. Nghe kể hoạ sĩ Trần Văn Cẩn được xã cấp cả ruộng, anh đi cày đã
thạo. Tên cúng cơm ấp Cầu Đen, Nguyên Hồng đặt lại là ấp Đồi Cháy.
Chẳng hiểu vì sự tích gì. Các nhà ở đấy cho đến khi hoà bình
lập lại. Về Hà Nội, Nguyên Hồng và vợ con thuê cái gác hai một nhà ở phố
Miriben cũ bên cạnh viện Mắt gần chợ Hôm. Nhớ những lần Nguyên Hồng rủ đến chơi
nhà thường vào chiều thứ bảy. Dựng xe đạp ở cái sân chung nhớp nháp nhà dưới rồi
lên gác. Nhà một buồng lủng củng ba lô, tay nải. Chẳng khác trước kia ở dưới
bãi Nghĩa Dũng. Chỉ thêm trẻ con chạy ra chạy vào lít nhít rối cả mắt. Chị ấy
đã xin được làm nhân viên cửa hàng quốc doanh sách, đứng bán ở quầy góc nhà
bách hoá tổng hợp bây giờ, phía cửa đường Hàng Bài.
- Ngồi vào đây lấy chỗ cho mẹ nó kê cái hoả lò. Chả rán phải
chén nóng tại chỗ mới hay.
Nguyên Hồng lui cui dẹp quanh cho tôi ngồi tựa lưng vào tường
trông ra chằng chịt dây điện ngoài cửa sổ, lá xà cừ rụng bay rào rào. Nguyên Hồng
không nói, nhưng tôi đã biết cái chả rán này rồi. Nguyễn Tuân chỉ nghe, đã lắc
đầu, rủa chả rán Nguyên Hồng đãi cái thằng xơi được bọ hung thì nó còn từ cái
gì. Nguyên Hồng không khi nào mời Nguyễn Tuân và biết tôi thưởng thức được món
tiểu táo cao cấp ấy, chủ nhà cũng chẳng cần báo trước. ấy là cái nem Sà Goòng
nhân rau đàn bà đẻ đã xin hay mua được ở nhà hộ sinh nào đấy. Nguyên Hồng thường
ca tụng sức thần kỳ bổ và chứa bách bệnh của rau đàn bà đẻ. Khi bị đày lên Bắc
Mê, tao ngồi viết được cả tập bút ký Cuộc sống lại còn sống mà dò được về đến
Nam Định rồi lấy vợ cũng là nhờ cái phải gió ấy của trẻ sơ sinh. Mẹ tao ngâm rượu
mật ong gửi lên Bắc Mê. Bây giờ thi một cái rau ăn tươi cả nhà được tẩm bổ!.
Nguyên Hồng cười hể hả.
Miếng chả giò nóng ròn. Bát dấm pha không có ớt - chủ nhà
không ăn ớt. Đĩa xà lách trắng ngần. Nhân trộn mộc nhĩ và miến. Kể ra cũng cảm
thấy hoi hoi khác vị, nhưng vốn tính dễ ăn, tôi nhắm ngon lành bình thường.
Giữa năm 1957, Hội Nhà Văn được thành lập. Nguyên Hồng phụ
trách tuần báo Văn của Hội. Đã nhiều năm làm nghề viết và trong kháng chiến có
làm báo, làm xuất bản nhưng cũng là ngồi trong rừng điều khiển đôi quang gánh
sách báo đi các chiến khu, chúng tôi bỡ ngỡ và háo hức những công việc mới.
Chín năm ở rừng, không có lương, quần áo phát theo mùa, xà
phòng tắm và giặt cũng lĩnh ở kho từng miếng. Cơ quan sắm dao kéo, tông đơ mọi
người húi đầu cho nhau. Văn Cao cắt tóc đẹp có tiếng, chỉ dùng kéo. Trở lại
thành phố, khó đâu chửa biết, nhưng thức ăn và hàng hoá ê hề. Chiều chiều, uống
bia Đức chai lùn bên gốc liễu nhà Thủy Tạ. Nhà hàng Phú Gia, vang đỏ vang hồng
vang trắng vỏ còn dính rơm như vừa lấy ở dưới hầm lên. áo khoác da lông cừu
Mông Cổ ấm rực, người ta mua về phá ra làm đệm ghế. Hàng Trung Quốc thôi thì
thượng vàng hạ cám. Kim sào, kim khâu, chỉ màu, củ cải ca la thầu, sắng xấu, mì
chính, xe đạp cái xe trâu cao ngồng. Cả xi rô ngọt pha vào bia cho những người
mới tập tọng uống bia. Bắt đầu được lĩnh lương tháng. Không nhớ bao nhiêu,
nhưng tối nào cũng có thể la cà hàng quán được. Có cảm tưởng cả loài người tiến
bộ đổ tiền của đến mừng Việt Nam Điện Biên Phủ.
Chúng tôi ngỡ ngàng một cách khoan khoái. Đất nước như cánh đồng
cày vỡ, chưa biết cấy hái ra thế nào. Vết thương cải cách ruộng đất, chỉnh đốn
tổ chức còn đỏ hon hỏn khắp chợ thì quê. Các thành phố đã bắt đầu cải tạo tư sản.
Báo chí hô trăm hoa đua nở, tràm nhà đua tiếng. Chẳng biết căn do của nước người
ta ra sao, nhưng nghe khẩu hiệu khá sướng tai. Đến khi thấy nói có hoa thơm, có
hoa thối! lại mới ngỡ ra là có hoa thơm, có hoa thối!. Năm 1956, Hungari đề xướng
đổi mới. Thủ lĩnh Jmrê Natgiơ bị treo cổ.
Chưa kịp ngỡ ngàng, lại đùng đùng đổi khác lại ngay cả trong
thành phố. Nhà máy diêm, nhà máy gạch thời Pháp họ đã để làm trại lính, tanh
bành như bãi hoang. Điện Yên Phụ, xe điện Thuỵ Khuê cổ lỗ 1899, nhà máy rượu cạnh
nghĩa địa Tây, Chính phủ phải mua lại của các công ty tư nhân Pháp. Nghe nói mỏ
Hòn Gai, đường sắt Hải Phòng Vân Nam ta cũng chuộc mất nhiều tiền. Chiến thắng
rồi mà cũng chẳng lấy không được. Các thành phố đương cải tạo tư sản. Cách làm
dịu dịu và lặng lẽ. Nhưng cũng xanh mắt. Nhà máy thuộc da Thuỵ Khuê, nhà máy gạch
Cầu Đuống mấy vị có tiền vừa chung nhau tậu, bây giờ lo sốt vó phải lên tư sản.
Nhà giàu khoá cửa im ỉm, người ra vào khuân lén đồ đạc lúc chập tối. Quanh tường,
đại sứ quán Pháp cắm tấm biển đất riêng. Cơ quan lãnh sự Mỹ đã dọn vào Sài Gòn,
bây giờ chỗ ấy là căng tin của sứ quán và Pháp kiều. Tổng giám mục Đuy-lây ngày
ngày sai mấy bõ già đến mua đồ và thức ăn về dùng. Từng bao tải các thức được
thuê xích lô kéo sang nhà thờ Hàng Trống.
Bỡ ngỡ và sôi nổi, những trái ngược và mới mẻ ấy dội vào mỗi
chúng tôi. Bây giờ nhìn lại, nghe kể chuyện lại, tưởng như câu chuyện lạ lùng một
lúc. Nhưng đường đi và những quanh co bối rối đến mỗi con người lẵng nhẵng cả mấy
năm trước và sau 1957. Ngại nhất những lần họp chi bộ ở cơ quan. Cuộc chiến đấu
lớn đã kết thúc ở Điện Biên Phủ, nhưng chúng tôi lại không êm ả như ở Tuyên
Quang. Thêm nhiều tổ chức mới có cán bộ các khu và từ miền Nam tập kết ra. Họp
cơ quan, họp chi bộ, tranh luận miên man. Dần dà, hình thành cái nhìn ở một số
người, thành mốt chỉ trích cơ quan cản trở, hạn chế, có thế mới là mới. Mọi việc
không phải của cơ quan hình như đều đúng hơn.
Tôi làm nhà xuất bản Văn Nghệ rồi nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Khi in tiểu thuyết Giông tố của Vũ Trọng Phụng, tôi về Mọc xin phép gia đình
tác giả, gặp chị Phụng và bấy giờ cụ bà thân sinh Vũ Trọng Phụng vẫn còn. Mẹ chồng
nàng dâu sinh sống gieo neo ngày ngày cắp cái thúng mấy lọ thuốc viên ra chợ
Ngã Tư Sở. Bao nhiêu năm, sách của Vũ Trọng Phụng bây giờ lại được in, cả nhà mừng
lắm. Quý tôi như bạn bè cùng thời với nhà văn đã khuất. Thật ra, tôi không biết
mặt Tản Đà và Vũ Trọng Phụng. Tôi vào nghề viết, các nhà văn này đã qua đời.
Khi ấy, các nhà xuất bản Minh Đức, nhà Thép cũng rục rịch in Vũ Trọng Phụng, quảng
cáo rầm rộ. Ngay ở cơ quan cũng lây nhau cái cảm tưởng tư nhân in mới phóng
khoáng, nhà xuất bản của đoàn thể gò bó và dường như lỗi thời. Người ta lên nước
và cạnh tranh như thời trước. Nhà Minh Đức yêu cầu được kỷ niệm Vũ Trọng Phụng
chung với chúng tôi ở Nhà Hát Lớn thành phố vì lý do nhà ấy cũng in Vũ Trọng Phụng.
Chúng tôi định in lại tiểu thuyết Một mình trong đêm tối của Vũ Bằng. Tôi tìm gặp
chị Vũ Bằng. Biết tin, lão Minh Đức nhưng nháu mắt trố xộc đến luôn. Chúng tôi
in kịch Kim Tiền của Vi Huyền Đắc, Nhà xuất bản Minh Đức cũng in Kim Tiền, đã
đưa đơn kiện vi phạm bản quyền tác giả. May, được bác sĩ Vi Huyền Trác, con
trai cụ Vi bảo đảm, nhà xuất bản chúng tôi không bị thua kiện.
Chỉ được trôi chảy khi in lại tập truyện ngắn Vang bóng một
thời của Nguyễn Tuân. Cũng ngẫu nhiên không bị giành giật. Nguyễn Tuân không để
ý tướng số nhưng Nguyễn Tuân bảo: Trông mặt thằng Minh Đức đã thấy khó chịu.
Mình cũng đã đả tiền nhiều nhà xuất bản, nhưng chưa cầm của thằng này một xu. Vả
chăng mưu sĩ Nguyễn Hữu Đang của nhà Minh Đức thậm ghét văn Nguyễn Tuân. Văn
Nguyễn Tuân, Nguyễn Hữu Đang đọc một đoạn cũng không nổi. Âu cũng là lẽ đời,
các đấng cao ngạo thường không nhìn mặt nhau.
Nguyễn Tuân nhớ lâu và ghét dai. Không biết bao nhiêu năm,
Minh Đức đi tù về vẫn ôm mộng xuất bản. Anh phác một kế hoạch chiến lược về xuất
bản nhờ tôi giới thiệu với những cơ quan có trách nhiệm. Việc không đến đâu,
Minh Đức rnở quán cà phê và bán sách cũ trên phố Hàng Bút. Khai trương quán,
Minh Đức nhờ tôi mời Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân không trả lời. Rồi Minh Đức mất bệnh,
Nguyễn Tuân cứ vặn tôi: Sao ông đi đưa đám thằng ấy?. Tôi bảo trong đầu tôi
không thấy có câu trả lời nào về việc như ông hỏi tôi. Nguyễn Tuân vẻ không
tin. Song cũng không vặn nữa, chúng tôi tránh đi bằng cách đụng cái chén hơi mạnh.
Hồi ấy, đến nhà xuất bản Minh Đức, tôi quen Minh Đức và Tô
Thuỷ Nguyễn Văn Kiện, cùng người Thái Bình, một trong những cây bút làng thơ mới,
thời kỳ đầu, lúc đó làm thư ký nhà xuất bản. Từ năm 1945, Minh Đức ở Thái Bình
lên Hà Nội làm xuất bản. Nguyễn Công Hoan giới thiệu cho tôi làm quen và bảo bố
thằng này ở phố Pi kê buôn đồng nát mà giàu có, chẳng biết thực hay đùa. Nhà xuất
bản Minh Đức ở phố Phan Bội Châu. Trương Tửu như chủ nhà ngồi đấy. Tôi cũng
chưa được biết Trương Tửu trước kia. Ông Trương mở rượu, đàm đạo. Dễ thường chỉ
có tôi uống, cảm thấy dễ chịu. Lững thững về cơ quan. Buổi trưa, trải chiếu,
Nguyễn Bính, Hoàng Tố Nguyên và tôi nghỉ lại trong buồng làm việc. Hoàng Tố Nguyên
hỏng một chân. Nhưng có một chiếc giày đánh bóng lộn, đặt tượng trưng trên ghế
- chiếc giày đẹp đẽ, không bao giờ được xỏ chân. Khi đó mọi người tự do ra báo,
mở xuất bản.
Trong thành phố nhan nhản báo hàng ngày Thời Mới báo tuần
Nhân Văn, Tre Xanh, Trăm Hoa và những tập san định kỳ Giai Phẩm, Đất Mới... Ông
Phùng Ngọc Long nhà xuất bản Hưng Văn ngoài khu 8 về tìm tôi bàn mở xuất bản.
Ông Long chính là chú Luyến ngày trước ở phố Hàng Mã mà tôi đã xuống ở hai năm,
đến khi thi trượt vào trường Cửa Đông mới trở về quê. Nguyễn Công Hoan và tôi đến
nhà ông Vũ Đình Long. Những năm về sau, ông yếu bệnh tim, bệnh thở. Vẫn chịu
khó ngày nào cũng đi quanh hồ Hoàn Kiếm. Và hăng hái muốn mở lại nhà Tân Dân.
Nguyễn Công Hoan bảo: Làm gì thì làm, đừng làm xuất bản, ông ạ. Mặc dầu khi ấy
có ông Thuật hiệu sách cũ dốc Bà Triệu, em ông xuất bản Đời Mới Trác Vỹ xưa
kia, ông Thuật định làm xuất bản sẽ in mở đầu hai tác phẩm của Nguyễn Công
Hoan, thì Nguyễn Công Hoan không khuyên can câu nào. Hai nhà giáo bè bạn lâu
năm, Nguyễn Công Hoan nói thật điều mình nghĩ và tính toán hộ ông Long.
Dần dần, ở cùng cơ quan tuy hằng ngày gặp và làm việc, nhưng
cách sống của mỗi người cũng úp mở nửa thật, nửa giấu. Chơi với nhau đấy, rồi
đi đâu, làm gì không biết. Và xem nhẹ cả những việc tình nghĩa. Tôi đã lo toan
cho Lê Đạt bỏ được cô Nguyện người vợ lấy lúc đi cải cách ruộng đất, Hoàng Cầm
êm thấm ra toà dứt khoát với cô hàng xén chợ Hanh. Sự giao thiệp hai mặt và
cánh hẩu nảy nở ngay cả trong việc đáng lẽ một lòng và phải trái cần ngang mặt,
bởi tôi làm bí thư, Lê Đạt phó bí thư chi bộ Đảng. Nhưng cũng chỉ thế thôi.
Tuần báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính mới xuất bản. Nguyễn Bính tập
kết ở miền Nam ra. Mấy năm sau ở trong ấy Nguyễn Bính thôi không công tác đâu nữa,
nhưng vẫn ở vùng giải phóng Đồng Tháp Mười. Vui thú điền viên nơi kênh rạch và
bạn bè qua lại giúp đỡ. Khi đất nước bị chia đôi, Nguyễn Bính được gọi đi tập kết,
cũng như cán bộ được phân công ra miền Bắc. Nguyễn Bính về công tác nhà xuất bản,
cùng làm việc với tôi. Gặp lại nhau thì hơn mười năm đã qua mà tưởng như mới
hôm nào cùng anh em nhà thơ Việt Châu Lông ngỗng gieo tình và Tân Phương đi ăn
cháo cá chợ Cũ. Những người lang thang bất đắc chí ngày ấy như xưa nhưng cũng
thật khác xưa:
Có lần tôi xuống Nam Định, đến tìm Võng Xuyên công tác ở thư
viện thành phố. Người nhỏ nhắn, già đi nhưng vẫn khoẻ. Tay bắt mặt mừng xong
cung cách thì thưa gửi đồng chí, báo cáo anh, đề nghị thủ trưởng, lôi thôi quá.
Trong khi tôi tưởng như vừa mới đấy, cái thằng Võng Xuyên tên là Truật mở bàn
giấy biện sự phòng mà chúng tôi gọi đùa là sinh sự phòng, ông thày cò chạy kiện
tôi không nhớ ở cái phố vắng, phố hàng Nâu hay bến Củi. Thày cò Truật với Nguyễn
Bính, Vũ Hoàng Chương đốt thuốc phiện và làm thơ, đọc thơ suốt đêm trong cái
phòng hẹp nhà Truật được gọi là lò luyện linh đan. Khách ròng rã ở chơi không
chịu nhổ rễ, hôm nào cũng say thuốc đến bóng môi, bóng mắt. Chị Truật người đãy
đà, phúc hậu vẫn cơm rượu đãi bạn chồng ngày hai bữa tươm tất Không hiểu tại
tôi hay tại anh mà bây giờ lại ra sự cách bức và khách sáo đến thế. Cái năm
Võng Xuyên về hưu rồi, lên ở với con trên Hà Nội tôi mới rõ hồi ấy ở cơ quan,
anh chỉ làm việc giữ mấy quyển sách thư viện mà cái ông sinh sự phòng kiếm ăn hồi
xưa đương bị đấu cật lực vì ly lịch thầy cò và những chơi bời. Cái vô ý của tôi
thật tàn nhẫn.
Khi đó nhiều người còn ăn và ở cơ quan, phòng làm việc cũng
là nơi ở. Tính nết Nguyễn Bính thì chẳng khác xưa. Đời là một cuộc chơi dài, mà
thiên hạ phải cung phụng nhà thơ. Bọn mắt trắng, hiểu thế không? Những trò ấy
nhiêu khê, tần phiền, cổ quái lắm. Tôi nghĩ thế. Làm biên tập báo, xuất bản như
làm khoán, chẳng cần giờ giấc bàn giấy. Mà cũng vẫn không hợp với Nguyễn Bính.
Có mỗi việc giao cho Nguyễn Bính tự tuyển tập thơ Nước giếng thơi - tác giả làm
lấy tập thơ cho nên mới có được cái tên sách không phải tên một bài thơ nào
trong tập, mà cũng trầy trật mãi. Hứng làm thơ lên thì tung hê công việc, thích
đi chơi thì vay tiền, cơ quan lúc nào chẳng có tiền. Cho tao vài ba đồng là
bao. Say khướt tối ngày, uống tợn hơn xưa nhiều. Nhà hát lớn có kỷ niệm Nguyễn
Du. Nếu tối ấy không có ban tổ chức Hoàng Châu Ký ra can thiệp, còn lôi thôi
nhiều. Đã muộn, ở cuộc rượu nào vừa đứng lên, Nguyễn Bính ngồi xích lô đến Nhà
Hát Lớn.
Những người giữ cửa không cho vào. Thế là Nguyễn Bính làm
toáng lên:
- Không phải giấy má gì cả! Giỗ Nguyễn Du mà Nguyễn Bính
không vào được a!
Người ta phải lập lại trật tự với người say rượu. Rồi Nguyễn
Bính cũng vào được. Chắc được vào rồi cũng ngồi ngủ mà thôi.
Một lần Nguyễn Bính bảo tôi, giọng bình thường không hơi men:
- Mày phải kết nạp hội viên Trúc Đường chứ!
- Nói anh Trúc Đường làm đơn rồi hai thằng chúng mình giới
thiệu anh, theo thủ tục.
Nguyễn Bính nổi cáu, hỏi lại:
- Trúc Đường mà phải làm đơn xin vào Hội Nhà Văn à?
Rồi vùng vằng bỏ đi.
Tập thơ Cửa biển của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Trần Dần đã
được Hoàng Cầm chọn xong và đưa in. Vẫn phải chòng vòng chèo chống hàng ngày với
Nguyễn Bính những chuyện tương tự trên mà chưa xong được Nước giêng thơi. Những
cố nhân như Yến Lan và tôi bây giờ đã mát tính, không như các bạn Mai Lộc, Đoàn
Giỏi ở miền Đông trong Nam, trên ghe đò hay trong rừng, phải cho chính thằng mắt
trắng ấy một bài học, chứ chẳng phải thiên hạ nào, giã cho nó một trận rồi mới
lại thương lại. ít lâu sau, Nguyễn Bính cũng thôi, không công tác ở đâu nữa.
Không biết ai đã giúp tiền cho Nguyễn Bính ra những số báo
Trăm Hoa đầu tiên. Tôi vẫn đến chơi, hồi này có tiền, tôi được Bính rủ đi đánh
chén luôn. Cái cô mọi khi vẫn giới thiệu là người yêu thơ, là thư ký đánh máy,
bây giờ đã là vợ. Nhà thuê một tầng dưới rộng rãi, gần phố Hoà Mã treo bảng
Trăm Hoa - máy chữ đánh rào rào, người ra vào toà báo nhộn nhịp.
Trên có sáng kiến lấy giấy và tiền nhà xuất bản giúp báo Trăm
Hoa. Tôi được giao thuyết phục làm sao ra được một báo tư nhân nhưng có tiếng
nói chống những luận điệu ngang ngược của báo Nhân Văn. Công tác không khó khăn
đối với tôi, nhưng đã thuộc tính lung tung của Nguyễn Bính, tôi liền kéo cả anh
Trúc Đường đến. Nguyễn Bính cảm kích được giúp đỡ. Trúc Đường đã có kinh nghiệm
làm báo lâu năm, từ ích Hữu đến Đàn Bà và rồi Công Dân ở đồng bằng sông Hồng
trong kháng chiến. Chúng tôi bàn về Trăm Hoa lâu dài và cả từng số báo. Tôi mua
hộ giấy in, xe đến. Tờ Trăm Hoa rõ ra một vẻ khác. Không về bè với Nhân Văn,
như chẳng đi với ai. Trên nhận xét từng số, từng bài cho là vẫn chưa đủ hơi sức
hỗ trợ cần thiết. Tôi bàn lại với Nguyễn Bính. Nguyễn Bính cười mỉa:
- Trăm Hoa phải thế mới là báo của Nguyễn Bính chứ. Nếu không
thì mày làm quách, cho xong?
Tôi nghe cũng có lý. Có lẽ vì thế tôi không còn hào hứng vận
động cho chuyển được Nguyễn Bính. Có lần Nguyễn Bính nhắn tìm tôi. Chắc lại đòi
giấy và tiền. Tôi không đến. Mấy lỵ cũng không phải tiền của tôi. Biết ăn nói
thế nào. Một buổi tối, Nguyễn Bính rủ tôi ra nhà hàng Lục Quốc, phố Huế. Nguyễn
Bính nói:
- Hôm nay ăn cỗ đám ma Trăm Hoa!
Tôi hỏi:
- Trúc Đường đâu?
- Ông ấy không đi.
Có thể vì tôi bỏ Trăm Hoa anh Trúc Đường không bằng lòng tôi.
Mấy lâu sau, Nguyễn Bính được giới thiệu về ty Văn hoá Nam Định.
ở Hà Nội một dạo, vài ba tháng hay một hai năm cũng không để ý, thỉnh thoảng gặp
chỉ thấy nhăn nhó, rầu rĩ. Xưa nay thì cái thằng này vẫn thế. Những cùng quẫn tự
chuốc, những thương đau vơ vào, mình lại đầy ải mình, thân làm tội đời, cả những
ngày còn lại này mà vẫn không nguôi.
Người con gái ấy yêu thơ tuổi đương thì. Những mối tình như
thế của Nguyễn Bính, chẳng rõ khi ở Huế, ở miền Nam thế nào, nhưng ở ngoài này,
bạn bè đã biết tính, biết tật Nguyễn Bính, thấy gái như quạ vào chuồng lợn, như
ếch vồ hoa. Thề bồi đấy rồi lại nhăng cuội ngay đấy. Kiểu như những câu thơ đố
tài hoa: Nhà em ở dưới cây mai trắng (Bạch Mai) Bên gộc mai vàng (Hoàng Mai) cạnh
đế kinh (Phố Huế), những người con gái, biết bao nhiêu con gái đã theo thơ đến
với Nguyễn Bính. Nhưng cuộc đời hoa thơm bướm lượn không giống thơ, không như
thơ. Thế thì lại vứt bỏ. Người con gái đến với Nguyễn Bính khi làm báo Trăm Hoa
cũng chẳng ở được bao lâu. Chỉ tội đã có với nhau một mụn con.
Từ lâu, tôi muốn viết một truyện ngắn. Chưa viết nhưng đặt
tên trước truyện ngắn: Tên cháu là Hiền. Câu chuyện đôi vợ chồng bỏ nhau. Đã được
một con trai tên là Hiền, mới bập bẹ. Mẹ cháu trẻ quá, còn như ở tuổi son rỗi,
đã đi bước nữa. Mẹ đem Hiền về trả bố Hiền.
Hiền bụ bẫm, phúng phính rồi chẳng bao lâu Hiền còm nhom, ghẻ
lở, mụn nhọt ghê người. Ngày ngày bố ẵm vác Hiền trên một bên vai, như mèo tha
con. Đến đâu, từng đám ruồi nhặng xanh xám đuổi theo. Một tối kia, bố rượu say
rồi bố bế Hiền thẩn thơ ra phố. Đến ngã sáu Bà Triệu - Ô hay, làm sao mà bao
nhiêu tâm sự nước mắt nụ cười của người viết truyện này, trong những năm ấy, cứ
quẩn quanh chỗ cái dốc Hàng Kèn oan nghiệt thế nhỉ?
Chợt nghĩ thế nào, hai tay bố Hiền giơ Hiền ra, đưa Hiền cho
một người đàn ông đương đi tới. Trở về, cơn say vật bố thiếp đi. Quá nửa đêm,
quờ tay không thấy con. Bố vụt nhớ lại tất cả. Bố lật đật chạy đi đấm cửa nhà mấy
người bạn. Chúng tôi đã đi báo hầu khắp các đồn, các trạm công an trong thành
phố. Nguyễn Bính thất thểu suốt đêm. Sáng ra, nhợt nhạt thẫn thờ bước giữa trống
không. Tìm thế nào bây giờ vì không phải là cháu lạc. Chỉ còn cầu mong biết đâu
là cái người hốt nhiên được có người dúi cho đứa bé, lại chẳng là một người
đương hiếm trẻ.
Bấm đốt ngón tay, đã trên ba mươi năm rồi. Ai là người đã đi
qua ngã sáu tối hôm ấy - nếu trời để cho chứng sống, ông ấy cũng phải đến trong
ngoài sáu bảy mươi rồi, nếu vẫn nhớ có người đưa cho một đứa trẻ, thế thì tên
cháu là Hiền. Thôi bây giờ viết vào đây câu chuyện thương tâm ngày ấy. Biết
đâu, chuyện này - như một cái nhắn tin tìm người ruột thịt thường đọc trên báo.
Chẳng đã có bao nhiêu cha mẹ anh em ly tán những năm đói những năm chiến tranh
ngót nửa thế kỷ, mà rồi cũng tìm được nhau. Đột nhiên, tôi hy vọng. Tên cháu là
Hiền nhé.
Có lần qua Nam Định, được nghe Kim Ngọc Diệu kể rằng câu chuyện
đau đớn ấy, mỗi khi nhắc lại lần nào Nguyễn Bính cũng khóc.
Báo Nhân Văn đã ra được mấy số. Có dư luận báo chống đối. Người
thành phố nghe ngóng và tò mò. Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở
vài bài báo trên Nhân Văn, mà cái chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số
giới không phải là những người làm báo Nhân Văn trong tình hình nhạy cảm ở các
đô thị lúc ấy. Báo Nhân Văn đương hô hào dân chủ và in một số sáng tác phong
cách mới. Bạn đọc chú ý và chờ đợi sự đổi mới của văn nghệ. Nhưng không ai lưu
tâm những người bỏ tiền cho vốn in báo và những hoạt động chính trị đòi thay đổi
và chia quyền lãnh đạo đã âm thầm dấy lên, trong giới tư sản đương bối rối,
trong một số trí thức ở vùng mới giải phóng và ở đảng Dân Chủ. Báo Nhân Văn chỉ
là một phần bề ngoài và là một thủ thuật chính trị dựa vào trăm hoa đua nở. Mấy
cây bút cộng tác với báo Nhân Văn không biết được tình hình thật sự như trên.
Đâm ra ngộ nhận tai hại về hoàn cảnh, về văn học và cả về tài năng của họ nữa.
Chiến thuật thâm hiểm ấy gây nên cách nhìn lẫn lộn số đông
tác giả với lòng chân thành ở mỗi người và ở tổ chức. Khí còn ở rừng, chúng tôi
đã thuộc tính Nguyễn Huy Tưởng, đôi lúc còn chế giễu, những lúc Nguyễn Huy Tưởng
tròn miệng tròn mắt thao thao ca tụng khấn vái L.Tônxtôi, Ifxen... và ở mỗi người
bạn mà anh quý, mỗi cán bộ cấp cao, Nguyễn Huy Tưởng đều tìm ra những ưu điểm
tô hồng rầm rộ. Ai nấy đều cười và quen đến độ, Nguyễn Huy Tưởng sắp khen, đã
biết khen thế nào rồi. Nhưng về thành phố, từ lúc nào xuất hiện một Nguyễn Huy
Tưởng lầm lỳ, đăm chiêu, ít nói và nói cũng khác mọi khi. Nguyễn Huy Tưởng
không bằng lòng mấy anh em quanh mình giấu diếm làm báo Nhân Văn, nhưng Nguyễn
Huy Tưởng cho rằng chúng nó cũng vẫn là chúng mình cả thôi, chẳng lẽ chỉ biến
đâu một lúc, trở lại là thằng khác à?
Những cơn nghĩ dày vò Nguyễn Huy Tưởng lúc ấy là tình hình thế
giới. Vốn phục Ti tô, Nguyễn Huy Tưởng không bằng lòng với việc nước Nam Tư bị
đuổi khỏi cục Thông tin quốc tế - một tổ chức tập hợp lực lượng dân chủ và tiến
bộ thích ứng với tình hình mới. Dồn dập, tháng mười năm 1956, xảy ra sự kiện
Hungari. Mấy đêm Nguyễn Huy Tưởng không chợp mắt được. Mở cửa trông sang cái hiệu
Tàu vằn thắn mì hôm trước đông khách suốt ngày tới khuya, bỗng có thì thào: vằn
thắn thịt chuột. Khách vắng hẳn. Buồn thiu như Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Huy Tưởng
nói:
- Nước Hungari trong phe xã hội chủ nghĩa, nhưng trước nhất
nước Hungari là nước Hungari đã ông thấy thế nào? Các ông thấy thế nào? Tôi
không hiểu, tôi không thể hiểu.
Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn. Nguyễn Huy Tưởng có những ý kiến
khác những lời bình trên các báo. Nguyễn Huy Tưởng vốn kỷ luật, chịu khó viết
nhật ký và sưu tầm tài liệu. Nhưng chắc Nguyễn Huy Tưởng đã không ghi lại những
trăn trở, những khủng hoảng như tôi vừa kể trên. Bấy giờ, những ý kiến khác lạ
không mấy ai dám nói ra và ghi lại. Thà chôn sâu trong lòng. Trò chuyện với
Nguyễn Huy Tưởng cái cười vẫn đôn hậu thế, nhưng khác trước rồi. Có người bảo gần
đây bác sĩ Phạm Ngọc Khuê dưới Hải Phòng hay lên chơi với Nguyễn Huy Tưởng. Khi
còn trẻ, Nguyễn Huy Tưởng mê và phục thuyết Sinh lực mới của anh bạn có khuynh
hướng tờrốtkít này. Nguyễn Huy Tưởng thân với Nguyễn Hữu Đang. Chúng tôi đã
cùng hoạt động hội truyền bá Quốc ngữ và Văn hoá Cứu Quốc. Nguyễn Huy Tưởng quý
bạn, bao giờ cũng phát hiện ra những khía tốt của bạn, nhưng tôi không tin Nguyễn
Huy Tưởng thay đổi vì ảnh hưởng ai. Con người chân thành ấy chỉ nghĩ thực, nói
thực Có khi tôi đùa:
- Ông là thằng cộng sản dân tộc.
Nguyễn Huy Tưởng cười hiền lành.
- Cậu bảo tớ bắt chước Ti tô? Không phải.
- Nguyễn Huy Tưởng là cộng sản Việt Nam. Nhưng mà nguy hiểm đấy.
Chẳng nên đùa nhau thế.
Nguyễn Huy Tưởng nói nho nhỏ, cặp mày rậm rên con mắt hồn
nhiên nhíu lại, buồn hẳn. Chúng tôi không bao giờ đùa cợt và nhắc lại như vừa rồi
nữa.
Bấy giờ Nguyễn Huy Tưởng đang ấp ủ dự định viết tiểu thuyết
Sông mãi với Thủ đô. Sự tích hai tháng chiến đấu trong lòng Hà Nội của Trung
đoàn 102 những ngày đầu. Đề tài ấy Nguyễn Huy Tưởng theo đuổi đã lâu, từ khi
trung đoàn được thành lập giữa liên khu 1 ở nội thành, đến hôm trung đoàn vượt
vòng vây ra, chúng tôi đã đi đón ở cánh đồng Gối, Nguyễn Huy Tưởng càng mê. ở
Việt Bắc, Nguyễn Huy Tưởng đã có dịp đi nhiều chiến dịch với Trung đoàn Thủ đô.
Nguyễn Huy Tưởng vốn có nghị lực và thiết thực, đã chuẩn bị thì phải viết và viết
được.
Nhưng từ khi về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng có hoàn cảnh được về
luôn Lai Xá, doanh trại trung đoàn nhà cao cửa rộng ở đấy. Nguyễn Huy Tưởng đã
đến ở lâu với trung đoàn. Ngót mười năm chinh chiến, hầu hết các đại đội trưởng,
trung đội trưởng đã không còn. Những trận đánh nhanh nhẹn tài hoa phong cách
thanh niên Hà Nội của Trung đoàn Thủ đô đã nổi tiếng khắp Việt Bắc trong các
chiến dịch Biên giới, Trung du, Hoà Bình, Đông Bắc, Tây Bắc, Điện Biên Phủ. Giữa
những cuộc chiến dũng mãnh ấy, các chỉ huy đại đội, trung đội đã ngã xuống nhiều.
Và cũng biết bao nhiêu tâm trạng phức tạp, éo le, trái ngược trong một con người
chiến sĩ. Mấy tháng trời, Nguyễn Huy Tưởng cất công về Lai Xá. Kết quả thu được,
Nguyễn Huy Tưởng sẵn hào hứng mới về một tác phẩm khác hẳn bản thảo ban đầu đã
viết. Trung đoàn Thủ đô mới được Nguyễn Huy Tưởng phát hiện, khí thế và truyền
thống, coi cái chết như không. Bao nhiêu chiến sĩ tín nghĩa, trung thực và cũng
thật tàn bạo, - anh hùng và hoang dại, đằng nào cũng đều cực kỳ. Vẫn cái nhìn
và phong cách Nguyễn Huy Tưởng, cái gì cũng tới chuẩn tối đa, nhưng không còn
Nguyễn Huy Tưởng lúc nào cũng ngạc nhiên và trố mắt, khen không tiếc lời. Nguyễn
Huy Tưởng định xây dựng và sáng tạo lại nhiều mặt cuộc sống mãnh liệt và phức tạp,
tinh thần chiến đấu quên mình, sắc sảo tính cách Hà Nội, lẫn lộn và chống chọi
với tâm địa hèn nhát, thói mặc cả tình thế. Trung đội trưởng Bạch Ngọc Liễn còn
sống sót đến bấy giờ đã hiện ra như một nhân vật tiêu biểu và cũng là người cho
Nguyễn Huy Tưởng thấy được những góc cạnh u tối trong cuộc đời. ở chiến dịch
Sông Thao năm 1949, tôi đã được đọc nhật ký của Bạch Ngọc Liễn. Cái hôm Bạch Ngọc
Liễn đứng gác trên sân thượng nhà in Lê Cường phố Hàng Bồ nhấc khẩu trung liên
lia một băng đạn vào chiếc phi cơ spitphai vừa xà xuống bắn phố Hàng Thiếc khu
Đông Thành. Chiếc máy bay ấy rơi ngoài bãi Nghĩa Dũng bờ sông, có lẽ là chiếc
máy bay đầu tiên của địch bị hạ trong cuộc trường kỳ kháng chiến. Những người
còn sống mà Nguyễn Huy Tưởng đã gặp và những người đã chết Nguyễn Huy Tưởng được
nghe bạn bè kể. Kỷ niệm làm sống lại những sự thực đã cho Nguyễn Huy Tưởng những
khám phá mới. Nguyễn Huy Tưởng có ý muốn viết lại Sống mãi với Thủ đô.
Một đợt nghiên cứu chính trị của văn nghệ sĩ và cán bộ quản
lý văn hoá văn nghệ ở Trung ương. Hai mươi ngày, lên hội trường ở cái gác làm
sàn nhảy trên sân thượng khách sạn Rít ở Bờ Hồ. Ngoài cửa sổ, vòm lá sấu xanh
rì, thấp thoáng bên kia mặt hồ Hoàn Kiếm. Giữa tình hình áy, lớp nghiên cứu thật
quan trọng. Nhưng chúng tôi không có trách nhiệm đáng kể và thói quen nhởn nhơ
của tôi thì vẫn thế. Đường sắt Hải Phòng - Lào Cai vừa khôi phục nối với Côn
Minh bên Vân Nam. Tôi đi dự khánh thành trên một đoàn tàu khách, có cả Nguyễn
Tuân, Nguyễn Huy Tưởng... Làm thế nào mà Nguyễn Tuân cũng mò đi! Lúc ấy, Nguyễn
Tuân đương làm Tổng thư ký hội văn nghệ cơ mà. Có lẽ xưa nay văn nghệ văn nghẽo
vẫn thế, bảo là cần thì cần lắm, mà là thường thì cũng thường thôi. Dong duổi
đó đây thích hơn.
Những chiếc tà vẹt tám tấc, những thanh ray cổ lỗ nhất thế giới.
Chúng tôi muốn được thú vị ngồi trên toa mà đường ray là những thanh tà vẹt
bánh tàu đương lăn dưới kia, khi kháng chiến tiêu thổ, người các làng bên Đoan
Hùng lên Tuyên Quang ven sông Lô đã sang tận sông Thao dỡ từng chiếc khiêng về
làm cầu khỉ, cầu ao, cọc bờ rào. Giữa mùa mưa lũ, đường đất thó sống trâu trơn
như đổ mỡ, ở Ao Châu, Gia Điền, Đan Hà, Đại Phạm, Ba Quanh, Thinh Cù, người chống
gậy qua những cầu ray nhún nhảy. Những thanh sắt lưu lạc bây giờ được vác về đặt
tên taluy mới, các làng ven đường lại đổ ra cắm cờ lên, đắp đất bắc đường cho
chóng thấy tàu hoả chạy qua, thật hăng hái làm cũng như khi cật lực đào phá đường
tàu. Những kỳ diệu, bấy giờ chúng tôi cho là thế cả như trong thành phố, cái
tàu điện cải tiến, ông vát man có ghế ngồi không phải đứng lái như xưa. Trong
khoang bỏ ghế hạng nhất, chỗ ngồi đồng loạt à thế là dân chủ. Và không biết cái
đường xe lửa Hà Nội - Vân Nam này của công ty hoả xa Việt Điền được mua lại hay
là ta đã sung công, cứ cho là ta sung công cho oai? Còn thật là sướng mắt khi
thấy báo đăng tin kèm ảnh chụp, rồi một hôm nhìn được hẳn hoi chạy ngoài đường
cái ô-tô đầu tiên của quân giới lắp ráp được. Sau đít xe, chiếc biển kẻ ba số 0
rồi mới đến con số một đỏ choé - nhà máy quân đội ta đã sản xuất được cả ô-tô!
Những đồ đồng nát đem chữa chạy vá víu lại mà khiến ta có thể vỗ tay lên được
chủ nghĩa xã hội thì đến ngơ ngẩn cả người thật.
Nguyễn Tuân không nhiều tâm trạng và băn khoăn thời sự với
chính trị như Nguyễn Huy Tưởng. Con người ấy quan niệm về tự do là không bờ bến
không chính trị, nhưng cũng không bao giờ lung tung, đúng nghĩa ra là một lối sống
nền nếp. Cùng Nguyễn Tuân, nhiều lần tôi tiếp khách nước ngoài. Nguyễn Tuân
chuyện thật vui, mà lại rất nghiêm chỉnh. Cái ngang ngang Nguyễn Tuân một mình
một tính làm cho người ta hiểu lầm và dễ vui chuyện phóng đại lên. Những tiệc đứng
tiệc ngồi trong dịp các lễ lớn ở một số sứ quán.
Thông thường, khách ăn uống đủ, trò chuyện qua loa với người
bên cạnh rồi chỉ còn đợi vị khách cao nhất của ta chào chủ tiệc, thì mọi người
lục tục ra theo. Nguyễn Tuân không thế. Nguyễn Tuân làm những sự khác thường,
khác thường nhưng tế nhị. Nguyễn Tuân vốn khảnh ăn. Đôi khi sắp đến hẹn đi,
Nguyễn Tuân vẫn ăn uống như thường, không bỏ cơm nhà. Nguyễn Tuân thích trò
chuyện với mấy người phóng viên thường trú ở Hà Nội của báo ý, báo Pháp, báo
Liên Xô: Cầm dĩa, lấy một miếng thịt sấy, một ít trứng cá. Không cầm rượu rót sẵn
ngoài bàn, Nguyễn Tuân vào cái quầy ở phía trong phòng tiệc - mà chỉ khách thạo
uống mới khám phá được chỗ góc rượu thân ái ấy. Nguyễn Tuân lấy một cốc rượu mạnh,
cô nhắc hay uytky rồi ra đứng một mình. Như nhấp nháp và nhìn ra xem người ta
đương xúm xít quây quanh bàn.
Hôm ấy cao hứng - vâng, thật cao hứng mà không phải vì say, ở
sân cỏ vườn sứ quán Pháp, khách đã vãn, Nguyễn Tuân vẫn cầm dĩa, lại châm thuốc
hút và đủng đỉnh đứng đấy. Cuộc chiêu đãi không phải đã kết thúc sau lúc tiễn
khách. Nguyễn Tuân biết kiểu Tây ăn cũng chẳng khác phong tục lâu đời ở quê ta,
nhà có cỗ bàn đám cưới, khách khứa đi về gia chủ mới dọn ra một mâm - không phải
cỗ vét mâm bát mới hẳn hoi, nhưng là mâm người nhà. Bao giờ những mâm người nhà
cũng thật sự vui nhất. ở sứ quán này cũng thế. Tôi đã được dự mâm người nhà thế
tại sứ quán Trung Quốc ở Tân Đê Li bên ấn-độ, và ở Êtyôpi đến bấy giờ ai cũng mới
uống say. Cho hay cái ý nhị trong ăn uống vốn là tính người và kinh nghiệm nhân
loại từ tiền sử cho đến ngày nay thật phong phú. Người nhà, suốt buổi lo đưa
đón, phục dịch, bây giờ mới vào cuộc cho mình. Ông đại sứ đầu trò - cuộc chè
chén kéo dài không biết khuya đến đâu. Cái vị khách từ lúc tiệc chính vẫn đứng
một mình đằng kia, bấy giờ bước lại bàn chủ tiệc người nhà và nâng cốc. Nguyễn
Tuân lịch sự cạn một cốc của ông đại sứ Pháp vừa mời lại. Rồi khách mới ý tứ
chào, ra về một mình. Đường khuya đã vắng ngắt, chỉ còn người công an đứng
trong chòi gác. Những khác người trong lối sống, những tế nhị, kiểu cách mà
không ồn ào. Cả trong văn Nguyễn Tuân, từ triết lý đến mỗi câu mỗi chữ. Những
ai có trách nhiệm đọc Nguyễn Tuân đã bỏ công soi mói, bẻ hành bẻ tỏi chỉ là
thói quen gò ý và trịch thượng. Thời chống Mỹ, Nguyễn Tuân viết một loạt ký về
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, thế mà vẫn có những bút chì đỏ gạch từng quãng lưu ý cấp
trên. Tôi gặp khó khăn bởi những chuyện ấy, vì Hội Văn nghệ Hà Nội đã in lần thứ
nhất tập bút ký này. Công việc gọi là theo dõi ấy thật sự là đố ky và bề trên,
khác nào ngày nay người ta dùng lẫn hai chứ theo dõi mà nghĩa một thời của nó
không đẹp đẽ lịch sự như bây giờ đài báo cảm ơn bạn đọc và người nghe đã theo
dõi. Không, chỉ có mật thám theo dõi người bị tình nghi, đội xếp theo dõi kẻ cắp
sắp móc ví. Nghĩa thời trước của hai chữ theo dõi là vậy. Xem lại những bút ký
Phở, Tình rừng, Tờ hoa, có thể đọc một lần rồi đọc lại lần nữa. Không vì thích
thú mà còn vì ngạc nhiên. Đấy chỉ là những áng văn bộc lộ những nét riêng với
cái nhìn đáo để và trang nhã, mài những cái ấy đi thì còn đâu văn Nguyễn Tuân.
Mấy chữ Nguyễn Tuân viết cho tôi, từ Sa pa - không đề ngày
tháng. Dấu bưu điện trên cái bưu thiếp ảnh màu rừng thông, mái nhà nhô ra trong
sương mù và bóng Hoàng Liên Sơn.
Hoài, Mình leo Hoàng Liên Sơn cả lên cả xuống mất 5 ngày. Người
đang mệt và đau gối. Khoe khoẻ là xin huyện uỷ thuê ngựa cho và sẽ đi tiếp vào
Phong Thổ. Mình ở trên đỉnh ca nhất, được thấy hoa đỗ quyên nở rất đẹp. Đỗ
quyên màu hồng điều, cánh sen vàng nở giữa rừng trúc phất trần. Trong đời mình,
trong mọi mùa xuân, mình chưa bao giờ thấy mây và hoa nhiều đến như thế. Lên
đây lạnh, mưa gió như bão, túi luôn phải có chai rượu mạnh để chống khí núi. Hết
2/3 lạng cao hổ rồi.
Nguyễn Tuân Khi lên cao, mình có bị ong đốt, mặc dù chẳng có
trêu phá gì nó.
Cái câu tái bút ong đốt vu vơ chỉ gửi cho tôi này, chắc nếu
đăng báo, in sách cũng lại điêu đứng đấy. Ôi là trời, cái tính người ta thế, chứ
xỏ xiên gì đâu.
Có một thời, những người theo dõi báo chí, xuất bản và phát
hành sách báo được phong làm lính gác. Lính gác thì phải có việc của lính gác,
chẳng lẽ ăn lương để đứng không. Nhưng thật ra người ta chỉ đọc a dua rồi đánh
đòn hội chợ. Cấp trên hô người ấy, bài ấy có vấn đề. Tự nhiên cảm thấy hình như
có vấn đề thật và người ta dò tìm từng câu từng chữ. Thế nào chẳng ra vấn đề! Bỗng
khó chịu cả cách diễn đạt khác nhau của mỗi ngòi bút, thế là làm sao. Không biết
vì tổ chức đặt ra công tác theo dõi làm cho cái người theo dõi bỗng nhiên được
làm thầy thằng bị (được) theo dõi. Hay là tại vì thuở nhỏ đi học, nhà trường
chưa bao giờ giảng cho các vị ấy khi còn là học sinh hiểu bài văn muốn có ý
nghĩa, trước hết bài văn phải hay. Khốn thay, người ta viết văn thất bại nhưng
vẫn làm cán bộ theo dõi được. Cái nhìn sự sáng tạo cứ lên xuống theo thời tiết.
Nguyễn Tuân cáu kỉnh nhẹ nhàng và chua chát:
- Có khi mày bảo chúng nó viết đi, để ông với mày đi chơi, thế
là bớt được thằng công tác theo dõi!
Nói vậy, Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn Tuân thế, không có gì
khác.
- Này, chúng nó đồn ầm lên ông mới nói, nếu ông còn trẻ thì
ông cũng bỏ đất này ông đi.
Nguyễn Tuân thong thả nói, như cho mình nghe:
- Biết đuổi theo đứa nào mà cải chính bây giờ!
Những câu Nguyễn Tuân nói thế, Nguyễn Tuân bảo thế đến tai
Nguyễn Tuân quá nhàm. Càng khó khăn, càng gay go, khi cả buổi tay khư khư quyển
sổ đứng vẫn chưa đong được tháng gạo. Mỗi hôm mua bó rau muống, rau dền, phải sắp
hàng dài hơn - may thay, nhà văn già, hay là nhu Nguyễn Tuân đã vỗ ngực xưng với
Mộng Tuyết: hàn sĩ đỏ, nhà văn đỏ và cao tuổi ấy đã được bà lão và cô con gái
út cáng cho những vất vả về gạo nước mà ông chỉ trông thấy đã đủ mệt nhọc rồi.
Cái đèn điện không chao cứ nhè đến bữa ăn chập tối thì tắt ngỏm. Thế là buông
đũa thở dài ca cẩm, tưởng tượng như bí thư thành uỷ đứng trước mặt:
- Đấy điện khí hoá thành phố của ông ấy đấy. Trong khi vẫn lặng
lẽ với tay lên giá sách lấy cây nến đỏ. Và vẫn tuân thủ, làm việc và đọc mê mải.
Nửa đêm qua sông sơ tán sang huyện Quế Võ. Tang tảng sáng, vào quán chè tươi uống
bán nước sớm xem người ta ăn phở thịt chó rựa mận. Trở về thành phố, báo động
và máy bay còn rền rĩ trên đầu, Nguyễn Tuân đạp xe lên hồ Trúc Bạch. Thấy bảo
có thằng giặc lái rơi xuống đấy, nhưng bị xách cổ đi rồi, còn thằng nữa nhảy dù
xuống đường Thụy Khuê ven hồ đằng kia. Nguyễn Tuân đội cái mũ sắt khối Nato
nông choen hoẻn - dạo trước có cái mũ lính cứu hoả có mào của Pháp, mới đổi được
chiếc mũ Nato này. Nguyễn Tuân đến dự đám cưới của đội tự vệ tổ chức trên trận
địa pháo cạnh cầu Long Biên. Rồi viết bài đăng trang nhất báo Nhân Dân.
Thế nhưng, những câu Người ta bảo ông nói thế này... thế
này... vẫn vo ve đến. Cho hay cũng là thói đời. Câu nói mát mẻ, xỏ xiên, các thứ
tiếu lâm thời thế ở đâu đâu hay quàng đến mượn tiếng Nguyễn Tuân bất mãn. Nhiều
đến độ người nọ thổi vào tai người kia, nếu tò mò cộng lại, cũng không thể tin
cái ông nhà văn dẫu có tiếng là ngạnh trê đấy, nhưng chắc cũng không hơi sức
đâu bịa ra lắm chuyện đổng giả thế. Nhưng đồn thì cứ đồn.
Nguyễn Tuân lại nói:
- Kể ra mình cũng có tội. Cái tội hay nói bô bô, không kín võ
được như cậu. Mà tớ chẳng có võ gì cả. Cũng không biết bơi, không biết cưỡi ngựa.
Bởi thế mới sinh chuyện. Nhưng cũng không bực mình vì mọi thứ người ta đổ lên đầu
đâu. Mình không nói thì thằng khác nói. Các nhà văn hoá dân gian nên sưu tầm và
nghiên cứu tiếu lâm tục ngữ, ca dao thời sự, văn hoá dân gian đấy chứ.
Ông nói vui thế chứ ông cũng không phải người đa ngôn. Cũng
như ở những thói quen khác, cái nỗi vẫn là, một mình một tính. Khi bực bội, chẳng
kể to nhỏ, cái gì cũng vặc. Đuổi một người gõ nhầm cửa. Dửng dưng trước một người
mình không ưa, dù người ta giơ tay định bắt tay. Lại thấy cái ông ấy vào cùng
buồng trong bệnh viện, nhất định đổi sang buồng khác. Phàn nàn mùa này Hà Nội đến
chết sặc vì mùi hoa sữa. Cười những cán bộ các tỉnh gà vịt đội lông công, cũng
áo cánh lụa mã gà phe phẩy cái quạt giấy, cười cười như uỷ viên bộ chính trị.
Chửi các báo địa phương làm măng xét hệt báo Nhân Dân Trên bảo chúng nó phải
làm thế à. Rồi lại khó chịu với cả mình. Mình là cái chó gì mà có thằng cũng bắt
chước. Cái tóc cái râu, cái batoong khệnh khạng vào nhà hát lớn. lên máy
bay.... Ôi vui nhiều, cáu nhiều quá, bực mình quá.
Nguyễn Tuân nói:
- Thế này thì mình xin ra Đảng.
Nguyễn Tuân hay nói câu ấy khi bực bội. Nguyễn Tuân nhớ và
ghi con số không thua Nguyễn Công Hoan thuộc sử. Ngày nào năm nào sở Liêm phóng
Bắc Kỳ cho mật thám giải từ Hoả Lò lên căng Vụ Bản, châu Lạc Sơn vùng rừng núi
Hoà Bình, Ninh Bình. Bị bắt ở Vọng Các, tống về Sài Gòn, xuống tàu thuỷ ra Bắc,
tàu Chantilly ngày mấy tháng mấy. Đi hội nghị hoà bình thế giới ở Henxanhky qua
Trung Quốc ở lại bao nhiêu hôm. Những lần lên Lai Châu, lên Hà Giang, năm nào
mùa nào...
Chúng tôi ở Lào Cai về, đợt nghiên cứu 21 ngày vừa hết, còn
buổi sau cùng. Tiếng vỗ tay bế mạc rầm rầm ngập cái sân thượng. Ông Phan Khôi
ngang như cua ưa chơi trội, chống batoong bước ra về trước, còn quay lại phang
một câu thế nào đấy, dường như bảo là người đi chợ Hôm sung sướng mua được quả
chanh cốm, hỏi ra mới biết chanh xuất khẩu bị ế. ờ, người trồng chanh phải được
ăn quả chanh ngon nhất chớ! Chẳng hiểu lão chửi bóng hay nói vỗ mặt. Nhưng mà
cách nghênh ngáo tợn tạo của ông thì không ai lạ. ở Yên Dã trên Đại Từ, một lần
tư lệnh Nguyễn Sơn đến chơi, Nguyễn Huy Tưởng mời anh em họp mừng ông tướng mới
ở khu 4 ra và nghe ông tướng nói chuyện Kiều. Quá mười giờ đêm rồi, Nguyễn Sơn
vẫn nói và hét toang toang. Phan Khôi nằm trên nhà đồi không ngủ được. Ông xuống,
thò đầu vào cửa phòng, quát:
- Nói to thế mà không sợ đứt cổ a?
Chúng tôi bị kiểm điểm qua loa: bỏ lớp học quan trọng đi ăn mừng
đường xe lửa được khôi phục, việc không cần thiết. Báo Nhân Văn ra đến số 6 bị
tịch thu tại nhà in. Các báo hoan nghênh việc đó. Một số văn nghệ sĩ chúng tôi
chẳng biết ai chủ trương cũng ra tuyên bố tán thành sự tịch thu báo Nhân Văn.
Nhà xuất bản Minh Đức tự đóng cửa. Hồi ấy, báo in còn ít, chỉ tính số nghìn.
Nhưng một tờ báo bị cấm thì ầm ĩ ngay. Bấy giờ, cuối năm 1956.
Thành phố vẫn đương âm thầm cải tạo tư sản. Dẫu cho thường được
nghe phân tích là ở nơi đô hội, thị dân chỉ có tiêu thụ thì giai cấp tư sản bé
bằng con muỗi mắt.
Nhưng làm sao không đụng chạm đến từng nhà. Lại thêm biết bao
nhiêu người họ hàng xa gần vừa bị chìm nổi sóng gió đấu tố ở nông thôn, từ Nghệ
An, Hà tĩnh ra, Hải Dương lên. Nhiều địa chủ đã được sửa sai vẫn chưa dứt cơn hốt,
bỏ quê về thành phố. Càng thêm nháo nhác, nhộn nhạo những đồn thổi.
Các đoàn thể tổ chức kiểm điểm và kỷ luật nội bộ những cán bộ
tham gia viết và hoạt động chò báo Nhân Văn và tập san Giai Phẩm của nhà xuất bản
Minh Đức.
ở hội Nhạc, Đặng Đình Hưng bị khai trừ đảng. Văn Cao, phải cảnh
cáo, chỉ được ở hội nhạc không được ở hội văn, hội vẽ. Hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm
và Dương Bích Liên, tuy chỉ làm có cái bìa sách cho nhà xuất bản nọ nhưng chắc
là không khí sát phạt ở các buổi họp khiến các anh ngại, đã xin ra đảng. Trên
có nghị quyết không khai trừ, mà đồng ý cho được thôi. Có lẽ đến bây giờ, Nguyễn
Tư Nghiêm vẫn giữ cuốn sổ tay ghi số đến thứ bao nhiêu lần những cuộc mời họp
mà Nguyễn Tư Nghiêm không đi. Khoe với tôi như thế, anh có vẻ thú về những con
số tỉ mẩn ấy. Khác Nguyễn Sáng, Nguyễn Sáng vẽ ký hoạ trên báo Nhân Văn một đầu
người ở cổ có vết khía, như cái lá. Người ta bảo đấy là chân dung Trần Dần và
cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn. Nguyễn Sáng không được bình huân chương
kháng chiến. Những năm sau, trong lúc Hà Nội bị máy bay Mỹ quấy báo động liên
miên, Nguyễn Sáng đã lo rất đứng đắn. Rồi giải phóng miền Nam, tao về thăm quê,
họ hàng bà con hỏi chú đi làm Việt Minh, Việt Cộng bao nhiêu năm thế mà trên ngực
không có cái mề đay nào? Mày bảo tao trả lời ra sao? Tao buồn lắm. Hoàng Cầm bị
ra khỏi ban chấp hành, phải thôi việc nhà xuất bản, chuyển công tác về sở Văn
hoá Hà Nội. Phùng Quán nhờ có chú Phùng Thị, chánh văn phòng bộ Văn hoá đưa lên
làm ở vụ Văn hoá quần chúng. Nhưng ai cũng bức bối không yên. Hoàng Cầm thì mở
quán rượu, Phùng Quán câu cá hồ Tây, hiu hắt, dông dài, cho tới năm về hưu non.
Đi Bắc Kinh dự kỷ niệm Lỗ Tấn về, ông Phan Khôi hào hứng viết về chuyến đi.
Nhưng rồi nhạt dần. Ông ngồi yên. Ông vẫn được đãi chế độ nhân sĩ lương cao và
tiêu chuẩn có người phục vụ, nhưng chẳng ai hỏi tới. Ông nằm yên. Mấy năm sau,
lâm bệnh mất. Đám ma bác Phan Khôi, đi sau xe tang, chỉ có bác gái và các con với
một mình chị Hằng Phương - cháu gọi bằng cậu. Trần Dần và Lê Đạt ra khỏi cơ
quan, chuyên dịch không ký tên cho nhà xuất bản Văn Học. Nhà xuất bản Sự Thật
thuê Trần Đức Thảo duyệt dịch sách lý luận kinh điển. Ban chấp hành Hội Nhà văn
quyết định truất ba năm hội tịch Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán đăng
tin trên báo Văn Học, cơ quan của Hội. Tôi không nhớ việc ở các hội nghệ thuật
khác.
Nhưng đằng đẵng ba mươi năm không hội văn học nghệ thuật nào
lôi ra xem xét lại. Sợ sệt, phấp phỏng không phải chỉ ở tâm trạng mấy ông Nhân
Văn cả nước, mà tràn lan đến những Nhân Văn phố, Nhân Văn xóm, chẳng bị kỷ luật
gì, nhiễu người không phải vì bài văn câu thơ, mà bởi lời nói bông lông, bốc trời
chẳng hạn, cũng bị quy chụp luôn. Hữu Loan không ở nhóm nào cũng bỏ làm báo Văn
Nghệ về Thanh Hoá. Nghe nói sinh nhai bằng nghề đi xe thồ và vào núi đập đá
bán. Những cây bút trẻ, như Vũ Bão, như Lê Bầu, có mấy truyện in sách, đăng Văn
nghệ Quân đội tươi mát lắm, cũng chột luôn. Triền miên lẳng lặng bề ngoài bình
thường như đã xoá đi, nhưng bên trong thì khác. Người có vấn đề thì lo đối phó.
Người canh gác thì cảnh giác. Tập ký của Nguyễn Tuân đưa nhà
xuất bản Văn Học lần nào cũng được trả lời: Phát hành người ta chưa lấy được đủ
số lượng. Nhà xuất bản có nhã ý gửi tác giả ít tiền ứng trước, thỉnh thoảng lại
ứng trước. Nhưng rồi cũng không hẳn yên ổn. Đôi khi lại tòi ra Đống rác cũ, lại
Vào đời, lại Cái gộc, lại chuyện Bác Hồ đi tắm bãi Titốp ngoài Hạ Long...
Những người theo dõi lại vất, lại nhộn nhịp. Mấy năm đầu, đôi
khi Lê Đạt, Phùng Quán cũng viết ký tên khác cho sách bướm sở Văn hoá, Công Uẩn,
Lê Đạt hay Phùng Quán truyện dự thi về Lênin, truyện cho thiếu nhi Tâm Trọc về
thăm nhà, nhà xuất bản Kim Đồng in, Trần Dần dịch tiểu thuyết Những người chân
đất không ký tên. Chỉ vài người quen có biết. Sau có lẽ cũng buồn, vì tên tuổi
chẳng đi đến đâu, các anh thôi. Hoàng Cầm thì vẫn thế. Ai bảo thơ Hoàng Cầm hai
mặt, một mặt, không, Hoàng Cầm có thể cắt nghĩa thành ba mặt, bốn năm mặt cũng
được. Chỉ có tâm hồn thơ và cái giọng vàng mười hát thơ trên đài Tiếng nói Việt
Nam, là không ai quên với vẻ đẹp thơ lấp lánh vàng mã trang kim - nhận xét của
Lê Đạt. Đặng Đình Hưng dịch tài liệu cho hội nhạc, buôn rượu lậu và làm thơ. Từ
dạo làm cái bài hát theo thời Nông dân là quân chủ lực. Đặng Đình Hưng chán nhạc.
Oái oăm như Văn Cao chỉ được sinh hoạt ở hội nhạc, thì lại kiếm ăn bằng vẽ bìa.
Văn Cao làm bìa độc đáo, có nét riêng. Đặng Đình Hưng viết một tập thơ Nhân, có
chỗ buồn tay làm mấy trang đánh dấu chấm như mưa. Hiện nay, tập thơ ô mai của Đặng
Đình Hưng cũng nhiều bài lấy ở tập Nhân thơ đầu tay. Ông cử Hưng - như người
làng gọi, túng kiết lắm. Xách bị buôn chuyến rượu trong quê Chương Mỹ ra để được
uống ghé vào đấy. Nhưng vẫn những tưng bừng bất thường. Đặng Đình Hưng rủ tôi
lo đêm Trần Khánh hát. Đặng Đình Hưng biết tôi thích cái giọng sạn sạn của Trần
Khánh, người hát hay mà chưa học hát bao giờ và lận đận vì lý lịch. Đêm ấy, cả
buổi tối, một mình Trần Khánh hát. Hai đứa con lớp năm, lớp ba chi đó ngồi chầu
hẫu dưới này rồi rối rít giơ tay đánh nhịp theo bố hát. Tôi tặng Trần Khánh bó
layơn hồng - Trần Khánh chẳng thể biết tôi không chơi hoa mua hoa bao giờ. Đặng
Đình Hưng kèm vào bó hoa một chai rượu. Chắc cái bị khoác vai đeo rượu đi bán để
ngoài cửa. Đặng Đình Hưng ôm tôi, thì thào:
- Thành công, thành công, Trần Khánh!
Như chuyện Kim Kiều tái hợp, đời người cũng có hậu, những năm
sau này Đặng Đình Hưng được con trai gửi tiền nuôi. Mua một căn hộ 23 thước
vuông, thuê một máy điện thoại. Cứ chặp tối lại nghe giọng rè rè 44639, 201 C4
Hưng Giảng Võ đây Đặng Đình Hưng bày ra chiếu giữa nhà cả chục hũ thuỷ tinh rượu
ngâm tắc kè, rắn, ba kích, dái dê, quất hồng bì, bẩn gớm chết. Hôm này nếm rượu
nhà Đặng Đình Hưng về tôi cũng bị tào tháo đuổi. Khách ghé gẩm uống nhiều nhiều.
Ông chủ đã để những chai rượu chợ ra phía ngoài. Cho người ta uống chạc, ngồi
nhìn mà trong bụng khinh. Bây giờ Đặng Đình Hưng lại bỗng thấy trong văn nghệ
thì nhất hội hoạ. Đặng Đình Hưng vẽ lụa, sơn dầu, sơn mài... Đăng Đình Hưng nguệch
ngoạc xuống giấy rồi thuê người làm sơn mài. Đặng Đình Hưng bảo tôi:
- Em vẽ ông anh ngồi uống rượu đấy.
Rồi trỏ vào mấy chấm vàng và một nét nửa chữ V trên nền sơn
then. Trần Lưu Hậu và Trọng Kiệm gật gật, giơ chén.
Tiểu thuyết Người người lớp lớp về Điện Biên Phủ của Trần Dần,
bắt chước giọng như tiểu thuyết Trung Quốc đương bày bán ở các hiệu sách của
Triệu Thụ Lý, của Mã phong, những Anh hai Đen lấy vợ và ánh lửa đằng trước,
cũng chương hồi, cũng: Lại nói về chỉ còn thiếu có câu hồi sau phân giải. Và
cái kiểu nhân vật tên kép hai ba chữ Hùng Sinh, Trần Hoàng, Ngô Thiên Lý của Trần
Dần đã được nhiều người bắt chước theo. Trong khi, theo cách từng thời của văn
ta, tên người chỉ một chữ và khi dùng hai, ba chữ đều do những yêu cầu riêng. Đến
thời văn chương Tự Lực đã dọn lại thành Mai, Chương, Tuyết, cần lắm mới thêm chữ
tú, chữ hai, hay hai ba chữ tiếng lóng. Năm Sà Goòng, Bảy Sẹo... Tên hai ba chữ
là trở ngược lại một giai thoại văn học đã qua. Mấy năm ấy, Trần Dần loay hoay
với một tiểu thuyết - mà tôi được đọc bản thảo, không nhớ tên, hay là chưa có
tên. Kết quả công phu Trần Dần đi vùng phố Khâm Thiên làm quen với những người
thời pháp đi lính nguy và viết về họ.
Cuốn tiểu thuyết ấy như tác phẩm của các nhà văn phái tiểu
thuyết mới của văn học Pháp hiện nay, những tiểu thuyết Năm ngoái ở Marinba của
A.R.Griê, Người lạ mặt của N.Sarôt, Thay đổi của M.Buto... Các ông này viết khó
hiểu, mỗi quyển trên đằng cuối in thêm một trang hướng dẫn người đọc Mới đây,
trên một tờ phụ san văn nghệ ở thành phố Hồ Chí Minh, Dương Tường có trao đổi về
một bài báo tôi viết về vấn đề những cái dấu trong câu văn. Dương Tường không đồng
ý với luận điểm của tôi. Vấn đề này chúng ta còn tiếp tục bàn nhưng tôi đọc của
Griê, của Buto loại in phổ thông, thật có tờ chỉ dẫn cách xem ở trang cuối Tôi
không bịa dựng đứng ra đâu.
Lời tựa tiểu thuyết mới này của Trần Dần đại để: Nông nghiệp
nước ta đương tiến lên công nghiệp, những cánh đồng đã bờ vùng bờ thửa, văn tôi
cũng bờ vùng bờ thửa. Trang sách bờ vùng bờ thửa của Trần Dần, một chương chữ như
kiến bò đều đều từ đầu tới cuối không xuống dòng. Nhân vật trò chuyện và câu
văn không có dấu. Người ta nói có ngừng lại để đánh dấu đâu. Rất nhiều tiếng
lóng hủi, hủi - Văn tiếng lóng, văn hiện đại nhất. Thơ văn tiền phong hướng về
tương lai, phải chôn hết cái cũ để cái mới xuất hiện. Trần Dần bảo thế.
Tuần báo Văn của Hội Nhà Văn mà Nguyên Hồng phụ trách vẫn ra
đều. Nhưng hầu như số nào cũng lọt những bài mà các cơ quan trách nhiệm cảm thấy
ẩn ý sao đấy. Kể cả một truyện ngắn của Nguyên Hồng. Truyện rất ngắn ấy, câu
chuyện một con hổ người nuôi ở nhà như con chó. Phường săn kia bắt được trong rừng
một con hổ bé tý tẹo. Con hổ được đem về nuôi trong nhà, cho đến khi con hổ to
đùng. Hổ hiền lành bè bạn với con cún, con mèo, con gà. Nguyên Hồng đã có lần kể
cho tôi nghe về nguồn gốc truyện này.
Mẹ Nguyên Hồng đã chấp bút đấy. Có lẽ cụ thấy từ thuở trẻ tới
giờ, người con trai độc đinh của cụ quanh năm viết các truyện rồi đem bán được
tiền, dễ quá. Ôi chao, một đời cụ, nỗi nhà và miếng cơm đã khiến con người đầu
sông cuối bến sóm hôm, thiếu đâu chuyện, vô khối chuyện, chôn đi vẫn nhớ, vẫn
không hết. Nhưng tội một nỗi cụ không biết chữ. Một hôm, cụ kể cho các cháu
chép lại câu chuyện tại sao con hổ hoá ra như con chó vàng nằm hiền lành trong
xó cửa. Hổ đã như con chó rồi, nhưng cả xóm ai cũng vẫn sợ. Bời vì nó là con hổ
chứ không phải con chó. Thế là các ông phường săn đem hổ thả lên rừng. Nhớ nhà,
hổ lại lững thững về nhà, lại phải đem thả. Cụ đưa cái chuyện các cháu đã chép
như thế cho Nguyên Hồng. Nguyên Hồng cặm cụi viết lại, đăng trang cuối báo Văn.
Câu chuyện nguồn gốc con hổ, tức cười và thực bắt đầu như thế. Nhưng với cách đọc
soi lên gạch bút chì đỏ và suy diễn ra thì lại không thấy thế. Đời người thuở
nào mà người lại nuôi hổ như nuôi vịt, dễ hơn nuôi vịt. Ông này muốn nói cái
gì, nói ai? Xỏ xiên thế nào đây, không hiểu. Không hiểu tức là có vấn đề.
Năm 1956, báo Nhân Văn bị đình bản. Tôi có cái yếu bẩm sinh
thường không nhớ ngày tháng của sự việc. Bây giờ viết lại những chuyện này, nhớ
đâu viết đấy, nói được năm nào, năm nào, đã là tự cố gắng lắm rồi. Tôi thường
cũng được tiếng là chịu khó ghi chép, nhưng thực chẳng bao giờ chú ý đến năm
tháng và ghi đều. Năm 1957, đại hội thành lập các hội chuyên ngành. Hội Nhà Văn
Việt Nam ra đời. Liền ngay, Hội tổ chức các cơ quan: báo, nhà xuất bản (có Trần
Dần, Hoàng Cầm, Nhân Văn vẫn làm việc ở đấy), ban nghiên cứu sáng tác, ban liên
lạc văn học nước ngoài (có Lê Đạt) câu lạc bộ (để Nguyễn Tuân nói về Đôtôépky
và cười cợt mỉa mai, cứ đà này thành câu lạc bộ Pêtôphi lúc nào không biết), quỹ
sáng tác (chẳng khác đánh trống gọi người đến lĩnh tiền, chia tiền)... Trên cho
là cơ quan Hội Nhà Văn đã bị xỏ mũi. ở nhà xuất bản Văn Nghệ rồi chuyển thành
nhà xuất bản Hội Nhà văn, tôi cùng làm việc với Hoàng Cầm, Trần Dần... Nhiều
người tố cáo họ làm cả, Tô Hoài chỉ phổng mũi lên ký duyệt. In Kim Tiền (Vi Huyền
Đắc), Truyện ngắn và tiểu luận (Thạch Lam), Nước giếng thơi (Nguyễn Bính), Vang
bóng một thời (Nguyễn Tuân), tập thơ Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao... và
đã quảng cáo in nhiều tác phẩm phức tạp khác của Vũ Bằng, của Vũ Trọng Phụng...
Những tác giả ấy, người thì có vấn đề người thì đã di cư vào Nam và hầu hết viết
trước cách mạng, tại sao đề cao nhiều những cái đã xếp xó đến thế. Tất nhiên là
không bình thường, cái gì đây?
Báo Văn mà Nguyên Hồng phụ trách đã in trong nhiều số có những
sáng tác còn khó chịu nữa. Kịch ngắn gợi lại vết thương cải cách ruộng đất những
vở kịch của Hoàng Tích Linh ( Cơm mới), Nguyễn Khắc Dực (Chuyến tàu xuôi), Chu
Ngọc (Ngày giỗ đầu). Ca khúc buồn bã và những phát biểu lệch lạc về âm nhạc của
Tử Phác, của Nguyễn Văn Tý. Rồi thơ Phùng Quán (Lời mẹ dặn), truyện ký Phan
Khôi (Ông năm Chuột) và truyện ngắn Đống máy của một cây bút trẻ gửi đến. Truyện
tả một nhà máy nhập thiết bị nước ngoài rồi để chất đống ngoài trời đến hỏng
nát. Người ta truy ra người viết là một kỹ sư và quy là anh nói xấu công nghiệp
ta và tình hữu nghị quốc tế.
Chúng tôi lo lắng thực sự. Mấy bài xã luận của tôi trên báo
Văn như Tổ chức phát triển lực lượng sáng tác trước nhất và Góp ý kiến về vấn đề
xây dựng con người đều bị nhiều báo và dư luận nhận xét là lệch lạc thứ nhất,
phải là tổ chức học tập và đi vào thực tế đời sống và không phải xây dựng con
người chung chung mà là con người xã hội chủ nghĩa tiến lên cộng sản...
Lại trước đấy, sau đấy, truyện ngắn Ông lão hàng xóm của Kim
Lân nghi ngờ thành tựu cải cách ruộng đất, những bài bút ký yếu đuối tinh thần
đấu tranh thống nhất, như Thao thức của Đoàn Giỏi, Một ngày chủ nhật của Nguyễn
Huy Tưởng (*) (*Trong Nhà văn Việt Nam hiện đại in năm 1992, kỷ yếu kỷ niệm 35
năm thành lập Hội Nhà Văn (1957-1992), tuần báo Văn xuất bản 1957/1958 không được
nêu tên kể tên là tờ báo đầu tiên của Hội Nhà Văn Việt Nam) Nhân Văn vẫn sờ sờ
ra đấy, chứ đâu. Những người đã đánh Nhân Văn vừa qua khẳng định thế, cộng với
những rì rào sang tai nhau, không khí nặng nề, ngao ngán, triền miên, thường hiện
ra ở những chỗ này. Cái chuyện nuôi ông ba mươi trong nhà, cụ thân sinh ra
Nguyên Hồng nghe được ở đâu từ đời thuở nào. Người đọc tha hồ nghi, nhưng mà
sáng tác không có ước ao được người đọc nghĩ ra mênh mông thì cầm bút để làm
gì? Một vòng người họp tổ, như các cụ trong làng ngày trước ngồi xếp bằng quanh
chiếu tổ tôm. Những lời đao búa truy dồn. Thế là Nguyên Hồng khùng lên, khóc
oà.
Năm trước đã nghiên cứu cả tháng rồi, bây giờ báo Văn lại sa
vào hữu khuynh tệ hại như thế. Báo Văn phải ngừng xuất bản. Hội nghị bất thường
Hội Nhà Văn - nhiệm kỳ mở đầu ngoi ngóp được hơn một năm, tất cả các cơ quan của
Hội được chấn chỉnh lại, tuần báo Văn của Hội thay người phụ trách và đổi tên mới
là tuần báo Văn Học. Chuẩn bị cho đại hội bất thường, nhờ địa điểm trường tuyên
giáo dưới ấp Thái Hà, làm một cuộc thảo luận và kiểm điểm dài ngày. Cái tổ 18 của
chúng tôi có Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Kim
Lân... với một số nhà văn vững vàng làm nòng cốt. Trêu ngươi ai, Kim Lân lại mới
in truyện ngắn Con chó xấu xí. Con chó cũng như con hổ hiền lành, không ai tin
con chó chỉ là con chó, lại xấu xí nữa, có khi tác giả ám chỉ con người nào cũng
nên. Nguyễn Huy Tưởng đã về làm nhà xuất bản Kim Đồng. Đương bị tơi bời kiểm
tra nhau mấy cái bản thảo, trong có một truyện đồng thoại ao cá ao rùa chi chi
đó của Sao Mai - lại con cá, con rùa, con ba ba, lắm con quá. Cũng chẳng ai bảo
đảm người vào tổ 18 ấy là một bọn hay một cánh, nhưng cứ ang áng biết thế, và
cái kiểu hiểu như bên Trung Quốc kiểm thảo nhóm Đinh Linh đã xuất hiện cụm từ đầu
mày cuối mắt thì dù chẳng nói một câu, cũng là cánh, cũng cho được vào xiếc một
bọn rồi.
Cùng liên quan, liên quan một nỗi buồn mà thôi. Nhiều hôm tan
họp tối, đạp xe về trong thành phố, tạt vào cái Hà Nội 36 phố phường ăn chơi
cũ, lông bông khuây khoả đôi chút, sáng mai lại lóc cóc xuống lớp học dưới ấp sớm.
Chẳng ai dư dật, nhưng thời ấy đồng bạc có giá, hôm nào cũng đóng vai khách hẩu
của gánh cháo gà lão giải phóng quân, gói cơm rang bọc lá sen quán Tiểu Lạc
viên, phở Lâm rồi cà phê lão Ca. Cái khu lúc nhúc này vẫn riêng một phong vị, dẫu
cho những năm gần đây đã tàn tạ nhiều. Những cao lâu lớn Đông Hưng, Tây Nam, Nhật
Tân không còn cái nào. Các chủ hiệu sang trọng này trước kia hẳn là đặc vụ Tưởng
Giới Thạch, là cánh Uông Tinh Vệ là mật thám hai mang bên Tàu bên Nhật. Hàng
quán và cả con người bị xoá đi theo giông bão của lịch sử. Chỉ còn lại cao lâu
Mỹ Kinh mới mở vài năm trước đảo chính Nhật, cùng với những quán cơm tám của
người ước Lễ, thì nay Mỹ Kinh đã hoá nhà hàng quốc doanh, được đeo cái tên của
thời cũ, còn nhớ thời ấy trộm cắp như rươi, chiếc đĩa đựng bánh ngọt phải bắt
đinh vít xuống khay. Mấy năm Tây vừa trở lại, tửu quán Siêu Nhiên, Lục Quốc và
Nguyên Sinh mới mở. Siêu Nhiên đặc sản món óc đậu nhồi, ngon được tiếng. Chủ đã
di cư, cũng như nhà Lục Quốc phố Huế, cánh nhà bàn nhà bếp đứng ra hùn vốn.
Nhưng cũng chẳng mấy khi vào Siêu Nhiên, Lục Quốc, chúng tôi chỉ ngồi vỉa hè tường
rạp Chuông Vàng, nghe tiếng phèng la tích cải lương La Mã diễm huyền. Như cảnh
la cà hàng quán dưới ngã sáu dốc Hàng Kèn mà bây giờ đêm hôm người qua lại nhiều,
không ngồi lan xuống lòng đường được nữa, ông 81 thụt hẳn vào trong nhà, gánh
cháo bác Chữ thì quảy về cạnh cửa chợ Hôm, cũng tan trò.
Nhưng ở vùng ăn chơi lâu năm trên này, hè và đường lẫn lộn,
người đi dong đông hơn khách xem cải lương Kim Phụng, chèo Lạc Việt. Tiệm cà
phê Phúc Châu như đám chọi gà. Cô Tàu ngồi két váy đen, thắt lưng to bản đen
bóng nhoáng mết Đài Loan đương thịnh hành. Khói thuốc lá lùa ra cửa sổ như ống
khói tàu thuỷ phun xanh mờ. Bốn bên trong nhà cũng như ngoài phố, la liệt lao
xao, đàn sáo nhị réo rắt, cò cử, tiếng rao bát bảo lèng xà, lục tào xá, người
nườm nượp, nhiều nhất cán bộ miền Nam tập kết.
Tôi nhớ ngày xưa cũng đông na ná thế. Năm tôi sáu bảy tuổi,
ngày Tết, thường theo các dì tôi ra Kẻ Chợ xem hát bói tuồng đầu năm ở rạp Quảng
Lạc - mà ngõ Sầm Công, quen gọi là ngõ Quảng Lạc, cái quán Tiểu Lạc viên bây giờ
ở trong hẻm này. Mồng hai, mồng ba tết năm nào rạp Quảng Lạc cũng diễn tuồng
tích Giang tả cầu hôn cho người năm sớm bói lấy may. Trên cửa vào trong rạp,
bàn thờ thần tài dán giấy điều trang kim khói hương ám đen kịt cả vành khám. Tuồng
có vai Quan Công mặt đỏ bồ quân, râu đen từng chòm tuôn xuống. Quan Công ra, cả
rạp im rùng rợn, thành kính đốt vàng hương vái lên sân khấu. Khi lớn, tôi một
mình đi xem phim kiếm hiệp Tàu chiếu ở rạp Hiệp Thành, rồi rạp Tố Như, bây giờ
là Chuông Vàng Thủ đô, trước cửa, gắn tấm bảng đá ghi chiến tích đội quyết tử
liên khu 1 đã được thành lập ở đấy giữa 60 ngày đêm Hà Nội chiến đấu trong vòng
vây.
Phía Hàng Da, ngõ Yên Thái, cũng như ngõ Sầm Công, những phố
hẻm có nhà chứa, không hiểu tại sao lại gọi là nhà thổ, mà người ta nói lóng tiếng
Tây bồi là medông đờ te (nhà đất). Trên tương đầu phố treo hộp đèn kính sơn đỏ
nhoè nhoẹt. Khách chơi biết đấy là dấu hiệu trong phố có ổ gái điếm. Đi nhà thổ
trả tiền giờ, nửa giờ, trò tiêu khiển mạt hạng, người đứng đắn không dám bước
chân vào cái dãy phản bày bán người ấy. Cô nào cũng lông lá cạo nhẵn, trắng nhễ
nhại, hãm tài lắm. Bần cùng, cánh thợ xẻ, thợ nề cũng chỉ thậm thụt chốc lát,
chứ chẳng mảy may ham hố, đắm đuối. Chập tối, các cô nhà thổ quần áo trắng hồ
lơ, mặt bệch tròn chảy trễ, ngồi một loạt trên cái ghế dài trước cửa ngóng ra,
vây vây ơi ới người đi qua. Thấy quen thì chạy ra, kéo lại ở làng tôi, những
anh thợ còn táo tợn, ngày phiên có tiền xuống phố chơi nhà thổ, hôm sau về phải
nghỉ dệt, nằm đờ cả ngày, con ruồi đậu mép không buồn xua. Tôi không dám lảng vảng
đến những cái ngõ nhầy nhụa ấy. Chỉ vì sợ bệnh. Nghe nói thuốc nớp xăng cát tó
hiệu nghiệm, nhưng đắt. Cũng chưa thấy bao giờ, chỉ nghe nói phải đâm mũi tiêm
vào dái, đau lắm. Thời áy, tim la, lậu, giang mai, ai mắc những bệnh xấu hổ thì
chỉ muốn chết.
ừ, Nguyễn Tuân hay dạo mấy phố này lại có thể cũng vì những
cái nhớ. Nguyễn Tuân được sinh ra và nhớn nhao lên ở Hàng Bạc. Phố Hàng Bạc, số
nhà 49, năm 1910 - Nguyễn Tuân ghi lại như thế ở mép một quyển sách Hướng dẫn
du lịch Ba Lan, có lẽ vì đương đọc chợt nghĩ đến một kỷ niệm. Trong quyển Đường
phố Hà Nội của Nguyên Vinh Phúc tặng, chỗ phố Hàng Bạc và ngõ Gạch, Nguyễn Tuân
đề bút chì đình Cổ Lương ngõ số 28 án sát Siêu và câu ca dao về phố phường ấy,
dễ chừng ông đã thuộc từ tuổi thơ.
Nên ra thì múa tứ linh Không nên thì lại nằm đình Cổ Hương
Lão hàng cháo gà giải phóng quân, cũng là cái tên của Nguyễn Tuân đặt cho. Ông
Tàu ấy to cao, khệ nệ, đội đúng cái mũ ka ki của Bát lộ quân ố vết mỡ đã úa
vàng màu nước dưa. Hàng ông bán muộn, nhiều tôi ở dưới ấp về vẫn còn gánh hàng
sáng đèn giữa mấy chiếc ghế xếp lỏng chỏng trên hè. Lão giải phóng quân lầm lì
chẳng mấy khi hé răng. Cũng hợp, chúng tôi lặng lẽ. Chẳng ai nói một câu, thế
mà lúc nãy ở tổ, gay go đốp chát nhau ra trò. Vẻ mệt mỏi hiện nên nét mặt từng
người. Tôi nhận ra Nguyễn Tuân đến hàng cháo gà này còn vì ông giải phóng quân
có lọ xắng xấu Nam Ninh chính hiệu thơm và béo ngậy mùi vừng. Bát cháo lót cải
cúc của Nguyễn Tuân được lão cầm lọ xắng xấu vảy lâu hơn bát của tôi. Rồi nở nụ
cười nhà hàng, lão đút lọ xắng xấu vào trong ngăn kéo - ai không biết thì thôi
chứ chẳng phải ai cũng được nhà hàng cho nếm mùi đâu. Vẫn là chăm chú cái mình
thích, mình muốn, một giọt xắng xấu hợp khẩu vị, một câu văn hay gạch đít, một
chuyến đi...
Có hôm, vào Tiểu Lạc viên ăn cơm rang bọc lá sen. Ông chủ Tiểu
Lạc viên này là tay nhà bàn hảo hạng. Khách đông cũng vì cái duyên lão ta. Hỏi
các món khách dùng, rồi nhanh nhanh đũa bát thìa đũa và gia vị ra bày trước mặt
từng người. Đôi mắt kính lấp lánh, cái câu có ngay, có ngay luôn miệng như hát.
Thực khách vào bàn, tuy chẳng thấy có ngay ở đâu, nhưng được cái cảm tưởng món
ăn món nhắm sắp bưng ra.
Lão Tiểu Lạc viên tri kỷ vì chúng tôi biết thưởng thức món
cơm rang bọc lá sen lão khoe nhất Hà Nội, không nhà nào còn làm được đúng kiểu
cách thế. Lão chỉ mới ngước kính, chưa hỏi, Nguyễn Tuân đã gật đầu, đưa thưởng
một điếu thuốc lá Thủ Đô hiếm. Thế là đã biết khách lại xơi món quen. Lão hô có
ngay, có ngay rồi đặt bát đũa bày ra bàn. Nguyễn Tuân nói, vừa nghiêm vừa đùa:
- Này, không cần có ngay đâu nhé!
Lão cười, nheo mắt. Sang bàn bên, hỏi khách xong, chưa bước
vào cửa bếp, đã: Có ngay! Có ngay! Có ngay!
Phải, cơm rang bọc lá sen thì có ngay sao được. Xong một tuần
rượu suông, món nhắm mới ra - chỉ gọi độc một món ăn, cũng như nhắm. Kể thì người
ăn xô bồ bây giờ chẳng mấy ai thiết chờ đợi các thức lích kích này. Gạo tám thổi
niêu đất chín rồi đổ vào chảo rang, được rồi lấy chiếc lá sen khô lót xà xíu, vịt
quay gỡ xương chặt miếng rồi đổ cơm rang vào, buộc khéo cái lạt. Nhà bàn bưng
ra túm lá đặt trên đĩa. Mở ra, hơi cơm, các thứ xì dầu, thức ăn toả lẫn mùi lá
sen già đầu thu. Một năm, về Hưng Yên, tham quan đào kênh thấy sân kho các hợp
tác xã phơi đầy lá sen, hỏi bảo lá sen khô để xuất sang Hồng Công (Nguyễn Tuân
xin về mấy cặp lá). Những chiếc lá sen già sẽ được xuất đi Hương Cảng để gói
món cơm rang bọc lá sen ở các hiệu cao lâu.
Cũng có thể ấy là những lúc Nguyễn Tuân nhớ khi xế trưa vắng
khách ngồi trên lầu nhà Đông Hưng thang gác vàng giữa phố Hàng Buồm. Nguyễn
Tuân kê giấy lên bàn ăn, những tờ giấy trên góc in cánh buồm Gió đã lên. Tiểu
thuyết Thiếu quê hương đăng báo Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan được viết từng
kỳ một ở cái bàn ấy. Người tuỳ phái đến lấy bài đã đứng trực. Nhà in Trung Bắc ở
phố này, bên kia đường. Viết xong chữ cuối, người tuỳ phái cầm tờ bản thảo xuống
khuất, cũng là lúc nhà văn gọi phổ ky đem đến bữa trưa, be rượu bồ đào uống mấy
chén ngữ và gói cơm rang bọc lá sen. Lại một sự mang mang hoài cổ. Cái cơm rang
lá sen thơm tối nay ở Tiểu Lạc viên còn có thể bắt đầu từ gói cơm rang thập cẩm
ở những quán ăn cò con trên đường Cáo Đạo giữa cái phố khúc khuỷu bậc đá bên Cửu
Long Hương Cảng đêm ba mươi tết Đinh Sửu 1938. Chúng tôi chỉ quý và chiều nỗi
nhớ của Nguyễn Tuân mà chịu khó bắt chước kề cà với các món cầu kỳ ấy. Nguyên Hồng
đã sinh sống ở thành phố cảng có cả một phố Khách, tỏ vẻ thành thạo khen mùi lá
sen, đoán già là những cái lá sen hồ Tây.
Mỗi đêm dưới ấp về, bộ dạng Nguyên Hồng cũng chẳng khác đi
đâu ban ngày. Trên ghi đông đặt cái cặp đúp chứa bản thảo. Sau yên xe buộc một
chồng báo Văn. Mọi khi, chỉ kè kè cặp bản thảo, giờ thêm lô báo Văn từ số 1.
Nét mặt hăm hở lẫn lộn đăm chiêu với những tờ báo Văn như một lá đơn để trình
bày các nơi. Nhiều cuộc phê Nguyên Hồng, tôi không thể nhớ xiết lần nào cụ thể.
Chỉ nhớ báo Văn đã phải xỉ vả là hữu khuynh, bị lũng đoạn. ở đâu, họp tổ hay
liên tổ hay lên hội trường; Nguyên Hồng từ từ, cẩn thận, trịnh trọng đặt tập
báo trước mặt. Nguyên Hồng nói:
- Tôi làm báo không kể giờ giấc, không quản thức đêm thức
hôm, tôi bỏ hết sáng tác, cố làm cho kịp. Suốt tuần tôi bận bịu về nó hơn con mọn,
bỏ ăn bỏ uống vì nó... thế thì làm sao tôi lại có thể sai... Tôi đấu tranh thực
hiện đường lối văn học nghệ thuật của Đảng... Tôi hết tâm hết sức vì nó, tôi
không thể, tôi không thể sai...
Như người ốp đồng, không biết đương còn tỉnh bay đã mê,
Nguyên Hồng để một bàn tay lên chồng báo, to giọng đến bật khóc, vừa mếu máo vừa
nói tiếp, nước mắt ròng ròng, hai tay mê mẩn xót xa vuốt mép tập báo. Cái lý lẽ
cùng đường và những dòng nước mắt đã khiến những ai đương phê bình anh cũng
không biết tiếp tục phân tích thế nào nữa. Bảo dối trá thì không ai nỡ, không
ai dám hạ đòn ấy. Cuộc nào cũng tương tự, những chữ boong ke, ngoan cố, không
đúng với quang cảnh sầu não thiết tha của người bị phê bình.
Chúng tôi ngồi góc bàn đằng kia. Lão Tiểu Lạc viên đã đem bát
đũa, thìa với tương ớt đến. Lão này vừa là chủ, vừa là tớ trong cái phòng ăn
con con kê ba chiếc bàn nhỏ. Chim quay Tiểu Lạc viên cũng được tiếng. Chẳng biết
nhà hàng vô tình hay cố ý để những cái bàn khập khểnh tạm bợ. Chắc là cố ý
thôi. Các hàng quán này cứ chập chờn chưa biết lúc nào bị đóng cửa. Trễ nải,
tàn tạ, người ta chỉ bày biện qua loa, cốt làm ra thế.
- Có ngay! Có ngay!
Lão Tiểu Lạc viên bước ra, bỗng im bặt, quay lại, nhìn quanh,
rồi hỏi:
- Các ông có cái mùi...
Không ai bảo ai, mọi người chú mục vào Nguyên Hồng vừa đặt
lên góc bàn mở gói giấy báo bọc thịt chó và lập cập nói:
- Nhắm cái này trước đã! Nhắm cái này đã! Thoạt trông cũng biết
không phải là gói nguyên: Chắc trưa nay Nguyên Hồng đã đánh chén ngoài ấp còn
thừa thì cầm đi nốt. Hổ lốn thịt luộc, lòng gan trộn với húng, riềng, cả đùm
con con muối tiêu.
Lão Tiểu Lạc viên đã nhìn rõ gói thịt cầy. Lão cau có hầy một
tiếng, tan biến cả vẻ hớn hở có ngay vừa rồi. Lão chắp tay, rầu rĩ như khấn:
- Ông ơi, ông mang nó ra ngoài kia, mang ngay ra ngoài kia...
Chúng tôi biết những người buôn bán kỵ cái thịt hãm tài này -
nhất là người Trung Quốc.
Dường như thấy nó thì đã đánh hơi được cái mùi con ma xúi quẩy.
Lão lại nhăn nhó:
- Giết nhà hàng rồi. Các ông không được, không được lớ!
Lúc ấy, hai bàn bên cũng quay sang. Cười nhăn nhở rồi họ lại
cúi xuống ăn. Lão Tiểu Lạc viên đến góc nhà cầm một nắm hương châm cắm vào men
tường trong chỗ dán tờ giấy điều trang kim đã xạm xỉn một nạm chân hương. Khói
hương bốc mù căn phòng chật chội. Rồi lão bước lại phía chúng tôi, xốc kính, mặt
hầm hầm, không hiểu lão định làm gì.
Nguyên Hồng, đứng lên, giơ tay:
- Phổ ky! Câm đi!
Nguyên Hồng lật đật gói lại bọc thịt chó, bỏ vào cặp. Nước mắt
lưng tròng, nói:
- Lúc nãy ở tổ chúng nó đòi đuổi ông, bây giờ thằng Tàu này lại
đuổi ông, tỉu cái nhà ma lớ!
Nguyên Hồng cung cúc bước ra, lấy xe đạp. Cũng chẳng ai buồn
gọi lại. Đã biết tính nhau nhiều. Mấy năm sau, một lần Bùi Hiển, Nguyên Hồng và
tôi chén thịt chó Chữ Hàng Bè rồi vào quán cà phê lão Ca. Vẫn Nguyên Hồng cầm bọc
giấy gói mấy miếng thịt chó thừa, đặt lên góc bàn. Lần này, cái gói kín đáo,
nhưng tôi vẫn ngài ngại. Lão cà phê Ca không có nhà. Vợ lão trông hàng. Tự
nhiên, bà ấy đứng lên đến chỗ cửa nách châm nén hương vào khám thờ thần tài dán
giấy điều. Linh tính tôi đoán người đàn bà Tàu đã đánh hơi thấy mùi lạ. Như chọt
nhớ ra, Nguyên Hồng đã tinh ý bỏ gói vào cặp.
Mấy hôm sau, trở lại Tiểu Lạc viên, lão có ngay lại ngước mắt
kính cười cười, đưa ra bát đũa và chén tương ớt - Nguyễn Tuân bao giờ cũng gọi
là lạp chíu chương. Lão xoay cái đuôi thìa cẩn thận đặt trước mặt Nguyễn Tuân
và Nguyên Hồng. Thêm hai miếng chanh cho Nguyên Hồng. Nhà hàng đã thuộc ông
khách có thói quen vắt chanh, lại đổ dấm vào đĩa húng rau để sát trùng. Đến tận
hồi chống Mỹ, Tiểu Lạc viên vẫn đông khách thế. Một lần kia, đến thầy bà Tiểu Lạc
viên mọi khi đương nằm cái giường gấp ở gian trong. Tiếng trẻ mới sinh khóc oe
oe. Hỏi thăm thì ra lão Tiểu Lạc viên đã ngất đi, chết nửa đêm giữa lúc máy bay
ném bom cầu Long Biên cuối tháng trước. Người vợ đã lấy chồng khác. Ông Tàu này
gày lom khom. Nào biết đứa trẻ ấy con ai. Đã lâu không đến, không tiện hỏi.
Trên mặt kính cái tủ con đặt ngoài cửa vẫn ba chữ Tiểu Lạc viên sơn đỏ. Cửa
hàng mở, nhưng hiu hắt, vắng vẻ. Đến năm nhiều người Trung Quốc bỏ thành phố
đi, bà ấy với người chồng sau ra Cát Hải vượt biển. Nghe nói thuyền chuyến ấy
đi bị đắm, chết cả.
Những đêm mưa rả rích gợi cái thú quán cà phê lão Ca. Thường
đến lão Ca vào lúc nào, chắc là khi đã ngà ngà ở Tiểu Lạc viên hay hàng bánh cuốn
chú Hồng Lâm ra. Nhưng cũng có buổi chỉ đến đây. Trong ngõ ngách này, chúng tôi
lui tói mấy quán, không đậu lại đâu. Phúc Châu tiếng tăm, nhưng tạp. Chen vai
thích cánh, những võ sĩ đai đen thập đẳng, ngũ đẳng hay các ông cá mú trụ ở góc
bao quát, hay một tay cướp ngày lẳng lặng ngồi xuống, rờ túi ngực, túi quần vờ
tìrn cái bật lửa. Nó đang ngắm cô Phúc Châu thắt lưng đen bóng hay nó sắp rút
dao găm dí xế dưới sườn rồi thản nhiên đưa con mồi ra ngách ngõ lên Hàng Đào, hỏi
mượn cái ví và cái đồng hồ. Quán Lý Hảo thì ấm cúng hơn. Chỉ phải cái mụ Lý ăn
nói đối đáp và cử chỉ như tập thể dục trước mặt khách. Chả là Lý Hảo, đương kim
thể thao lướt ván nữ loại một. Hội hè nào cũng giật giải nhất đứng đầu sóng hồ
Hoàn Kiếm. Thằng chồng mặt vuông Nhật Bản, như Ai Nguyên An Nghệ. Nhưng nó là
người Quảng Châu, chỉ bưng cà phê và cười ruồi. Mất vui, cũng chẳng lý thú, bởi
nhà này ít chuyện.
Cà phê Ca chưa mấy quen như rồi sau chúng tôi đến nhiều hơn.
Lúc đầu chỉ nghe mang máng trước kia lão Ca ở trên Hà Giang, làm nghề đuổi ngựa
buôn cho nhà chúa đất Vương. Còn tôi để ý chỉ vì thấy ngồi trong hàng một người
đàn bà luống tuổi, mặt buồn rười rượi. Có hôm thoáng sau chiếc bình phong con
công đỏ gắt, cái áo xường xám xa xưa màu cánh chả xẻ tà xoè ngang đầu gối. Cứ
hao hao người con gái ngày xưa ở nhà gác đầu đường Cổ Ngư hồ Tây mà sáng nào
tôi cũng đi học qua. Ai khi tuổi ấy chẳng trông thấy bao nhiêu bóng đẹp thấp
thoáng và mộng mơ. Không hỏi có phải trước kia nhà bà ở đầu ô Yên phụ, tôi chỉ
lặng im cho mình được đinh ninh. Tưởng tượng vun thêm vào làm cho không phải
cũng thành phải. Nếu bà ấy nói: Vâng, tôi là vợ tông Ca. Lại càng khó hiểu, thế
thì phải từ Hà Giang xuống. Như vậy, lại hoá ra buồn. Thôi cứ mơ hão vậy. Cà
phê phin nhà Ca nhạt đường, hợp chúng tôi mà Nguyễn Tuân khéo tưởng tượng là có
vị rừng. Chưa biết rừng Hà Giang có cà phê hay không. Chỉ Nguyên Hồng đã bị hai
năm an trí căng Bắc Mê rõ đôi chút chăng. Nhưng Nguyên Hồng chẳng khi nào kể lại
về nhà tù chính trị đi đày ấy. Chỉ nghe một người tù Bắc Mê khác tả Nguyên Hồng
đi làm cỏ vê, đi lấy củi cũng đeo mấy cái ống bơ đằng đít, cái đựng muối, cái để
cơm nguội và lủi thủi một mình.
Thậm chí, lần ấy, một đoàn địa chất đưa chúng tôi thăm một
vùng quặng trong Bắc Mê, Nguyễn Tuân rủ Nguyên Hồng, bảo được dịp trở lại quang
cảnh xưa. Nguyên Hồng cũng không đi. Chuyến đi ấy, cái hôm lội qua con suối sau
cùng rẽ mê bên này đường về huyện Bắc Mê, tôi đứng tần ngần giữa dòng nước,
nhìn mãi quả đồi áp lưng núi. căng Bắc Mê xưa ở núi Pắc Min kề ngọn sông Gâm lượn
dưới chỗ xanh thẫm kia. Suốt buổi chiều, trèo qua cổng trời đỉnh núi thăm dò quặng
Nguyễn Tuân vẫn băn khoăn không hiểu tại sao Nguyên Hồng không đi Bắc Mê chuyến
này. Nửa đêrn, giữa rừng trên cao, con suối mơ hồ đưa lại tiếng nước thở dài từ
phía Bắc Mê. Chúng tôi ngồi trước đám củi sưởi. Nguyễn Tuân nói: Tớ tức cảnh được
hai câu ca dao đem về tặng thằng Nguyên Hồng. Thế này nhé:
Non xanh gõ hòn đá xanh.
Nửa năm nghe tiếng mõ canh Cổng Giời.
Trở về, tôi viết Pài Lùng cái ký theo thể kịch đăng báo Văn
Nghệ, đặt hai câu ấy lên đầu bài. Chú thích nghịch ngợm Ca dao cũ vùng Bắc Mê.
Cho nhớ và như Nguyễn Tuân bảo có dùng thì nên đề thế.
Cái bỗng dưng kỳ cục của Nguyên Hồng thường dễ hiểu và cũng
khó hiểu. Người ta làm thì Nguyên Hồng lẳng lặng im. Ai cũng nô nức vào Nam khi
miền Nam được giải phóng. Nguyên Hồng chưa bao giờ đến Sài Gòn, mà đã sinh ra
nhân vật du côn Năm Sài Gòn từ những năm 40 và chưa khi nào trông thấy sông Cửu
Long, đã là tác giả bài thơ Cửu Long giang ta ơi. Nhưng không đi Sài Gòn. Ai rủ
chỉ lắc đầu. Cái tính thế, thiên hạ vậy thì ta khác.
Cuộc đời đã đưa đẩy ông Ca từ thị xã Hà Giang xuống Hà Nội mở
quán cà phê. Những chuyện ông Ca kể về biên giới, Nguyễn Tuân mê lắm. Cũng thú
vị như lão giải phóng quân cháo gà có lọ xắng xấu chính cống Nam Ninh, Hồng
Kông gì đó. Cà phê Ca ngon mùi mộc mạc. Hay là cứ nghĩ ra thế. Mỗi lần Nguyễn
Tuân tới, ông Ca lại lấy ra chai rượu Rom Pháp vuông bằng đầu gối, đặt lên cạnh
cái phin vừa cạn. Lắm khi tôi vào hàng lão Ca không khi nào bê chai rượu mạnh
ra. Đám mà có Nguyễn Tuân trong bọn, đám ấy sang lên, thú vị hơn, không phải
ông Tuân chi tiền, mà thằng chủ quán lại hân hạnh, lại trọng vọng vị khách bạt
thiệp trịnh trọng mời nhà bàn thuốc lá thơm và xuống tận chỗ xào nấu đưa nhà bếp
một điếu. Chai rom của ông Ca đã được đặt lên bàn. Vài giọt rượu quý nhỏ xuống
tách cà phê bốc khói. Cà phê rom - một kiểu uống theo lối Pháp. Đến lúc cả chủ
quán cũng kéo một ghế, nhấc bếp điện lại gần, bày lên một phin nữa. Câu chuyện ấm
dần. Nguyễn Tuân đẩy hộp thuốc lá về phía ông Ca. Ca nói, giọng âm thầm xa vắng:
- Tôi ấy a, cái ngày tôi đi đuổi ngựa cho nhà Vương...
Ngồi đây, trong cái phòng vừa nhà hàng vừa buồng ở lộn xộn, bề
bộn quanh những lá màn, cánh gà mà tưởng đương lang bạt sông suối đâu đâu
Simacai bên Lào Cai sang Xỉn Mần rồi rong ruổi lên Mèo Vạc sang Bảo Lạc, Cao Bằng.
Những đoàn ngựa thồ hàng trăm con lên núi, ông Ca là một người trong đám thủ
túc nhà vua Mèo họ Vương trong đám dắt ngựa, đuổi ngựa ấy. Chuyến hàng ròng rã
đói khát cả tháng, chẳng bù với mỗi khi người ngựa được trở về dinh cơ nhà
Vương ở Sà Phin, Đồng Văn lại thả sức lu bù chè chén. Cả mấy chục phu ngựa, cơm
rượu và khay bàn đèn thuốc phiện rải ra khắp trên sân đá tảng từ trước cửa dinh
vào trong nhà.
Được dịp về Đồng Văn, thế nào Ca cũng xuống thị xã. Ca đi làm
mướn cho người, nhưng Ca cũng có dây thuốc phiện riêng của Ca. Ca ăn ngủ nhà mụ
Tèo me Tây đồn Yên Minh ngày trước, Tây cút rồi mụ ở lại mở quán cơm giữa cánh
đồng tranh trên dốc Pác Xum về làng Đán. Mụ Tèo cũng là một mối thuốc của Ca.
Quán mụ Tèo chơ vơ cỏ tranh phủ ngập mái nhà, trông sang những ổ cướp nương náu
trên dặng núi Bát Đại Sơn lô xô trước mặt. Bọn thồ ngựa dừng chân. Từ khi có đường
ô-tô lên Phó Bảng, thêm các ông tài đường ngược, đêm đêm trong vách tường
trình, quán mụ Tèo rộn rịp đỏ đèn suốt sáng. Chẳng bao lâu, Ca cũng tậu được ngựa
và thuê người đuổi ngựa. Lão Ca đã thành ông chủ nhỏ, có khi theo hàng sang tận
Phong Thổ, Mường Lay bên Lai Châu.
Quanh tách cà phê giữa những con phố lui hui cụt lủn mà tưởng
đương theo những đoàn ngựa thồ qua đầu núi nào. Quên đi, quên đi ngoài trời đêm
thành phố đương sấm rền trận mưa đầu mùa hạ, rồi sáng mai chúng tôi lại đạp xe
xuống ấp họp tổ. Cái say chơi rừng núi biên giới phía bắc đối với Nguyễn Tuân,
có phải đã được nhóm bếp ở những đêm cà phê rom nhà lão Ca, trong cái phòng lủng
củng, lỉnh kỉnh rất Tàu. Một dây xích đông trên đầu, mấy cốt chăn bông xếp đống.
Dưới gầm ghế, cái hoả lò, củi, chai dầu, làn mây và túi gạo, xoong, chảo, chậu,
bô men trắng xoá loang lổ có thể là bô nước đái, bô cứt. Nhưng con mắt chúng
tôi đăm đắm vào bóng tối mênh mông xa đâu.
ở các ngõ ngách ẩm ướt trông lên nhấp nhô những đầu tường
chuôi vồ thời xưa này phải kể thêm quán bánh cuốn ông Hồng Lâm cũng chỗ ngã tư
cùng phố với cà phê Ca. Hàng bánh cuốn này không ai biết, bánh cuốn bây giờ được
tiếng ngon bán đêm ở phố Huế xế chợ Hôm cũng gần ngã sáu dốc Hàng Kèn. Khách ngồi
chầu hẫu mấy lượt ghế dài đợi bà hàng không biết sốt ruột cứ nhẩn nha tráng từng
lá bánh. Tôi cũng chẳng thú cảnh chầu chực đợi lượt nếm chiếc bánh cuốn nhân thịt
gốc Lạng Sơn. Thế mà quán bánh Hồng Lâm thì lại hay ghê. ấy cũng là một nỗi.
Một tối, trên vỉa hè tấp nập người, tôi ngất ngưởng như con
bói cá đậu trên cái ghế xếp gánh cháo gà giải phóng quân. Các rạp đã trống giáo
đầu rồi mà hàng quán vẫn dập dìu vì cán bộ tập kết đi dạo bờ hồ dạo phố là
chính. Mấy ngả phố chật hẹp không có điện, đèm đóm lập loè từng khóm. Một ông
Tàu gày còm đội cái mũ xanh một mẩu, má xệ đỏ phừng màu say xuống tận cổ, cứ đứng
sững. Tôi tưởng ông ấy nhìn ông hàng cháo gà đồng hương. Rồi ông ấy bước lên hè
trước mặt tôi giọng rượu lè nhè:
- à, à... Có phải cậu Sen không?
Nghe tiếng hỏi cái tên cúng cơm của tôi, dù chưa nhận ra ai,
cũng biết đấy là bà con quê ngoại quê nội. Nhưng tôi không nhớ được ông này là
người trên Nghĩa Đô hay trong Cát Động. Tôi đương ớ ra thì ông ấy lại nói lơ lớ:
- Tôi là Lâm. Lâm hàng phở dốc chợ Bưởi. Thuê nhà ông ba Chui
ấy mà. Cậu nhớ không?
Thế thì nhớ rồi. Ngược đời, nhà hàng lại đi nhớ khách. Tôi nhớ
tên chú ấy chứ không nhận ra người. Mười mấy năm rồi còn gì. Chú khách Lâm ở dưới
phố lên mở hàng phở. Nhà hàng kê cái bàn, hai bên chõng tràng kỷ. Tua giấy điều
nhấp nhánh trang kim phất phơ trước cửa cạnh những củ hành tây trắng bong và
chùm ớt đỏ. Dấu hiệu hàng quán lúc ấy không có bảng kẻ hai chữ Cơm Phở như bây
giờ. Phở nước hai xu, đĩa phở xào ròn xào mềm năm xu. Không bạn này có tiền thì
bạn khác, ai cũng dễ dãi với nhau được. Tôi nhớ hàng chú Lâm không phải vì phở,
mà vì một chuyện oái oăm. Ông trẻ Tám hay đi chơi ả đào. Bà ấy ghen. Nhưng ông
Tám đã nghĩ được mẹo. Tấm áo the dài, quần là và chiếc khăn ông Tám gửi trên
hàng phở chú Lâm. Chiều chiều, cơm nước xong, tôi sang rủ ông Tám đi dạo mát.
Tôi tuy tuổi chẳng kém ông Tám bao nhiêu nhưng trong họ thì
vào hàng con cháu, mặt mũi lại hiền lành, bà Tám tin được. Chúng tôi thủng thỉnh
như tình cờ lên đầu chợ. Ông Tám vào hàng chú Lâm, chít khăn, thay bộ quần áo mồi
rồi bước nhanh lên ngã ba Thành gọi cái xe sắt. Đi chơi bời ăn mảnh ở các nhà
hát quanh Cầu Giấy, ở Mả ông Năm trong phủ, khoảng nửa đêm lại cuốc bộ về. Tôi
thường đóng vai lá chắn che đỡ cho các bậc bề trên như thế nên hay được ăn theo
các ông Tám, ông hộ Nghĩa, ông bảy Nền đi hát chầu chay cỏ rả vùng phủ Hoài,
sang Thượng Cát, hay lên bến Chèm - cũng chưa được ra đến các nhà hát Ngã Tư Sở.
Những chuyện lêu bêu nhung nhăng ấy thì nhớ chứ quên hẳn mặt lão Lâm này.
Tôi khen:
- Chú nhớ dai quá.
Lão Lâm khoái trí cười giơ hàm dưới răng vàng choé.
- ồ, ở trong này tôi làm công an mật nên quen nhận mặt người
ta. Tôi vẫn gặp ông giáo Thịnh dạy trường Yên Thái ngày trước mà. Hôm nào đến
chơi. Chỗ kia kìa, nhà bánh cuốn.
Thế thì biết rồi, hàng bánh cuốn ấy gần cao lâu Tứ Kỳ. Chúng
tôi đến quán ông Lâm. Nguyễn Tuân chẳng thiết cái bánh nhân thịt này - không chịu
ăn tạp, vẫn nhớ thuở bánh cuốn Thanh Trì nước mắm Nghệ cà cuống, không pha dấm,
không vắt chanh.
Thế mà Nguyễn Tuân vào quán bánh cuốn ông Lâm. Cũng phải
duyên cớ thế nào, như cái ông 81 cà phê bít tất dốc hàng Kèn với quan công sứ
Grapphơi và núi nghỉ mát Bạch Mã Bà Nà. Như lão cà phê Ca đem rừng núi Hà Giang
về thành phố. Nhưng Nguyễn Tuân bảo tôi:
- Vào đấy cho thằng này về Kẻ Bưởi một tý. Hôm nào rủ chúng tớ
lên Nghĩa Đô bắt chuột đánh chén nữa nhé.
à ra ông ấy chiều tôi. Nói thế chứ ông chẳng dám xơi thịt chuột.
Chả là đã có một năm, mùa tháng mười, ông Nguyễn với Kim Lân lên cánh đồng làng
tôi đi bắt chuột với ông Ba Hĩ. Gác ngoài, bà Lâm ngồi tráng bánh. Thấy đi vào
nhà trong, những cô cậu mặc xanh công nhân, chắc tan ca nhà máy về. Con cái
không để mắt đến cái cửa hàng câu dầm của ông bà già. Bà Lâm gầy khô, đeo kính,
mặc áo di lê hoa lốm đốm tím, nửa mái đầu bạc. Ông Lâm bảo:
- Bà nhà tôi cũng người làng Bưởi cậu ạ.
Bà Lâm cười nhợt nhạt, ngước mắt kính, hỏi tôi:
- Ông có biết chú Sồi có bàn thịt lợn ngoài cầu chợ nhà ở xóm
Ao Đình không?
- Ngày bé, tôi vẫn xách liễn lên mua nước suýt sáng sớm nhà
chú Sồi.
- Bố tôi đấy.
Tôi ngạc nhiên vì cái giọng nói hệt tiếng Yên Thái của bà
Lâm. Ôi, tôi được sinh ra ở đất Bưởi, tôi ở trong làng đến ngoài hai mươi tuổi
mới ra thành phố rồi đi lang bạt, giọng tôi bị pha mất tiếng quê. Thế mà cái bà
Tàu này lại hẳn hoi đặc giọng vùng tôi. Nhà khách Sồi đã mấy đời ở xóm Ao Đình,
thế thì con cái y như người làng rồi.
Nguyễn Tuân lặng lẽ hút tẩu thuốc. Nguyên Hồng đã xà đến. Bà
xếp cho một chục, nhưng hẵng năm cái một, để được nóng sốt. Ông Lâm xách chai
rượu thuốc ra. Cải này chữa bách bệnh, giở giời chỉ vài ngụm, khỏi thấp khớp,
khỏi cả đau răng - Ông bảo thế.
Tấm bằng của sở Công An thành phố khen tặng ông Lý Hồng Lâm
đã có thành tích trong thời gian kháng chiến ở Hà Nội? Ông Lâm ngắm nghía những
người khách đương chăm chú xem cái bằng đóng khung treo trên chỗ thoáng nhất mặt
tường. Nguyễn Tuân bao giờ cũng là người tài nhìn ra trước những điều mà chưa
ai kịp nhận là đáng hỏi. Ông bắt tay ông Hồng Lâm và ông này cười khoái trá thú
vị cái người hiểu mình, biết mình.
Ông Lâm nói:
- Bấy giờ ở Hà Nội tôi bán phở, như khi ở trên Bưởi ấy. Đông
khách thì dễ đi lại. Các anh công an mật ở nhà tôi cả năm, không bị lộ. Tôi là
người Tàu mà, thằng Tây không biết đâu.
Giữa chén rượu, câu chuyện trở về những ngày thành phố còn thằng
Tây. Ông Hồng Lâm hào hứng kể tên từng người cán bộ nội thành, nay vẫn thỉnh
thoảng đến chơi, có người đi ô-tô com-măng-ca đỗ xịch trước cửa. Nguyên Hồng đã
chén gọn cả chục chiếc bánh. Chúng tôi uống suông.
Bà Lâm tinh ý:
- Chắc hai ông không thích. Tôi làm bánh mà tôi cũng không ăn
nữa. Bây giờ người ta ăn bổ bã lắm. Hôm nào các ông lại chơi, lúc rỗi hàng
khuya khuya đã. Tôi làm cái bánh cuốn thật như Lạng Sơn ngày xưa các ông nếm thử.
- Có giống lốc bểư không?
- Gọi là lốc bểu hay bánh cuốn Lạng Sơn, cũng tay mình làm ra
thôi.
Nguyễn Tuân gật gù. Lốc bểu, lốc bểu. ừ hôm nào trở lại. Thế
là cái quán ông Hồng Lâm trở nên hay hay mà Nguyễn Tuân đã tìm dần ra, không phải
theo tôi về Nghĩa Đô nữa. Vẫn cái tài gợi cho phải đáng chú ý, chúng tôi a dua
theo. Dần dần cảm thấy đầm ấm trong nhà, nhớ những đêm Cao Bằng ở Quảng Uyên, ở
Thuỷ Khẩu và ở Hạ Đống bên kia biên giới năm 1950 trong chiến dịch. Những quán
phở vịt, phở chua, rượu men lá. Những ống tay áo chàm rộng, một chiếc răng vàng
kín đáo chẳng biết các chị các em dân công ấy người Nùng hay người Hán. Khách
ngủ lại, ăm cơm như bữa cỗ vẫn kèm bát cháo hoa, lại dầm chân nước nóng, như
nhà trọ của thím Hằng nhân tình cầu thủ Goòng tản cư ở Ba Giăng trên Đại Từ.
Không phải bà Lâm hẹn đãi bôi. Chúng tôi đến, một tối ở dưới ấp
về. Lại mưa, mưa tầm tã ướt lướt thướt, ánh đèn đường nhòe nhoẹt trời mưa, hay
là ta cứ nghĩ ra là mưa thế.
Nhà có khách riêng, ông Lâm đóng cửa hàng. Lò than kê giữa
nhà, ngay trước bàn. Mặt lò đặt chiếc thạp nhôm to. Hơi nước và mùi bánh chín bốc
lên thoang thoảng. Giọng nói đặc kẻ Bưởi mà tôi không thể nén được bồi hồi, mỗi
khi nghe. Chợt để ý cái người con gái chú Sồi bán thịt lợn ngoài cầu chợ hồi
tôi còn xách quang liễn đi mua nước suýt bây giờ đã lên bà, nghĩ xa mà buồn.
Giời mưa thế này, tưởng các ông ngại. May quá. Vui thôi mà.
Chiếc vung thạp được gác hẳn lên tường bếp. Làn hơi trắng
thơm khắp phòng. Những chiếc bánh hấp nhân thịt mộc nhĩ được lấy từng đôi đặt
lên đĩa tây. Chén nước mắm chắt nhỏ mấy giọt cà cuống. Ông bà Hồng Lâm ngồi
cùng chúng tôi. Bà vừa ăn, vừa tiếp bánh và mỗi người nhấm nháp một cách khác
nhau. Nguyên Hồng vẫn uống rượu và đánh lẻm năm đôi, như lệ mọi khi, một chục
chiếc đầy đặn. Bà chủ nhà nhấc ra cặp bánh, ông ấy rót rượu. Nguyên Hồng nâng
chén, đầm đìa nước mắt.
- Bây giờ tôi mới lại được chén cái bánh hấp như lốc bểu từ
ngày bé ở phố Khách dưới Hải Phòng.
Nguyên Hồng cứ đứng thế, ôm vai ông Hồng Lâm, miệng lập bập hầy
hầy hảo lớ, hảo lớ, cái nỉ hảo tố lớ không nói lên lời nữa. Hàng nước mắt đã
chan chứa hai gò má, rồi lại ngồi xuống nhồm nhoàm ăn, nước mắt vẫn lã chã.
Chúng tôi đã quen với những cảm hứng giữa đường giữa chợ của Nguyên Hồng. Ông Hồng
Lâm cười hề hề:
- Uống rượu mà ra nước mắt thế là phát tài, sắp có bổng, các
ông ạ.
Nguyễn Tuân đã ngậm tẩu thuốc. Nguyễn chỉ ăn một cặp bánh.
- Ông nếm thế thôi? Ông chê, phải không?
- Ngon lắm, bà Lâm à. Người biết làm thức ngon như bà bây giờ
hiếm, không có nữa đâu. Chốc nữa, tôi xin ông bà mươi chiếc đem về, tôi quen ăn
đêm như vạc, bà ạ.
- Ông cứ tự nhiên.
Bà Hồng Lâm lấy mảnh lá chuối tươi bọc năm đôi bánh đặt sẵn
bên góc bàn. Cho tới lúc ra về Nguyễn Tuân chỉ uống rượu với ông Lâm và ngắm
nghía chúng tôi ăn. Có hôm, Nguyễn Tuân nhắc đến cái tối lốc bểu nhà ông Hồng
Lâm lại bình rằng quả là ăn bánh cuốn phải chấm nguyên si nước mắm chắt Nghệ mới
lên chất, chứ đoảng nhất là đem pha dấm - dấm và muối phương Tây thô, như ông
lão 81 đã nhận xét, chỉ biết mặn khác nhạt, trơ ra như con số, người mình không
thế. Ông lại chê lây sang chúng tôi chỉ biết hốc.
Nguyên Hồng cãi: ăn được nhiều mới thấy ngon - Cái chủ nghĩa
cơm năm bát cật lực của ông, tôi chịu. Nhưng ông biết khen bánh cuốn Lạng Sơn của
thím Hồng Lâm, thế là được, - Nguyễn Tuân nói. Quang cảnh hàng quán khu này
cũng là một góc thời sự thành phố. Nhiều năm về sau, hồi người Hoa bỏ đi, mấy
người quen thuộc và nghèo nghèo này vẫn cặm cụi thế. Nhưng rồi cứ thấp thoáng
như ma trận. Tôi vào cà phê Ca, lão cháo gà giải phóng quân trông thấy. Lâu mới
gặp. Lão bảo lão đã dọn hàng vào số nhà gần đây. Tôi cười:
- Phát tài, có cửa hiệu rồi?
Lão cười hiền lành:
- Nhà người ta đi mình đến ở thôi.
Có những hôm tự dưng ngỡ như hôm nào vẫn đến chuyện tầm phơ với
vợ chồng nhà Hồng Lâm, câu chuyện cũ đểnh đoảng. Thoắt đấy thôi mà đã ra sương
khói. Hàng nhà Hồng Lâm đóng cửa. Ghé vào, thấy mảnh giấy dán niêm phong. Nhà
người Hoa bỏ đi. Qua cà phê lão Ca thấy một cái giường kê thòi ra tận ngoài thềm.
Người khác đã ở. Cái người cả tuổi trẻ đuổi ngựa qua các núi Hà Giang ấy đi,
cái bà giống người con gái xưa ở đầu đường Cổ Ngư có cùng đi không? Vợ chồng
ông Hồng Lâm, người con gái chú Sồi không biết tiếng Tàu, nói giọng kẻ Bưởi. Mà
cũng đi, mà già lão cả rồi, mà đi đâu. Lão cháo giải phóng quân tôi cũng không
gặp lại nữa.
Năm trước, tôi qua Tây Beclin. Có hai vợ chồng trẻ gốc Trung Quốc,
không biết tiếng Tàu, không biết quê ở đâu, chỉ biết cha mẹ sinh ra ở thị xã Bắc
Ninh. Nghe tin có người Việt Nam mới sang thì đến chơi cho đỡ nhớ nơi sinh. Hôm
tết mùng năm, nhà cũng thổi xôi, thắp hương rồi đóng cửa, vợ chồng ngồi khóc.
Quán ăn Phượng Hoàng, cô chủ hàng Trần Lệ Tương kể chuyện nỗi nhà tha hương.
Nghĩ người Do thái, người Digan cũng chỉ đến thế, nhưng chưa phiêu bạt vòng
quanh trái đất như thế. Lệ Tương chỉ nghe nói quê ở Thượng Hải. Đấy là đến đời
Lệ Tương nghe kể lại. Rồi sang Xiêm, ở Băng Cốc, vào Phù Kiệt. Lệ Tương được
sinh ở vùng du lịch và nghỉ mát Phù Kiệt. Khi lớn, theo cha mẹ sang Mỹ, bồng bềnh
mấy nơi rồi đọng lại ở Canađa. Lệ Tương lấy chồng, hai vợ chồng trôi về Beclin,
nhiều năm rồi. Rồi còn đi đâu nữa? Trần Lệ Tương mỉm cười, có phải hình bóng
con gái cái bà già chú Sồi ngày trước đây? Âu cũng là nông nỗi chia ly thì cũng
chỉ mình nghĩ ra thôi. Nỗi đi nỗi ở của những người không có quê thì đâu cũng vậy.
Người Hoa ở đảo Cát Bà đã ra đi như thế này. Cả vạn chài, phố chài hàng mấy
trăm chiếc thuyền đậu trong vụng. Suốt đêm chè chén, đốt pháo. Gà gáy thì ra
khơi. Cái lần tôi qua miền nam ấn-độ, thấy nói gần cảng Madrat có nhiều vạn
chài người Trung Quốc, cả thuyền bè đồ nghề, mới đến định cư. Phải những nhà
chài ở đảo Cát Hải, Cát Bà dạt sang lập nghiệp ở đấy. Có thể.
Hôm sau, mới rõ nguồn cơn những giọt nước mắt Nguyên Hồng rơi
xuống đĩa bánh cuốn hấp ở nhà Hồng Lâm. Không biết những điều tôi đoán có hẳn
như thế, nhưng mấy hôm ấy tổ 18 bước vào thu hoạch cá nhân. Tự đánh giá công
tác sáng tác thời gian qua. Những cái đúng và những cái sai và phương hướng sửa
chữa. Thói quen những cuộc họp tập thể này gọi là chỉnh huấn, cái đúng, cái tốt
thì nói lớt phớt, rồi người ta dội lên đầu nhau những chữ nhưng, chữ tuy nhiên,
chữ mặc dầu đã...
Tôi bị mơ hồ mất cảnh giác mọi mặt. Các cơ quan Hội Nhà Văn
và nhiều công tác bị lũng đoạn. Báo Nhân Văn, nhà xuất bản Minh Đức không còn,
nhưng tư tưởng Nhân Văn - Giai Phẩm vẫn tồn tại, vẫn làm lệch lạc chúng tôi.
Ngổn ngang tâm sự và tâm trạng chua chát, mỉa mai, lại hài hước.
Có người quen thân, có người chỉ sơ sơ, bây giờ moi móc những việc, những lời
đã nói, bất kể nói lúc nghiêm trang hay khi vui chén bông đùa, được dẫn chứng bằng
cớ ra, phân tích cho nhau rõ ranh giới địch ta. Chỉ Nguyễn Tuân mới nhớ lâu và
để bụng những câu góp ý ấy. Có những người rồi Nguyễn Tuân không bao giờ dàn mặt
nữa. Đến lượt, ai cũng phải suốt buổi ngồi chịu trận nghe cả tổ mắng xa xả, vi
vút. Kim Lân kể dạo ở trên chợ Chu, trong một cuộc kiểm điểm, Ngô Tất Tố bị một
anh xưa nay bác Ngô vẫn không coi ra gì, bây giờ phải nghe anh ấy sát phạt lên
lớp cho. Ngô Tất Tố quệt nước mũi vào gốc cây, sụt sùi nói với Kim Lân:
- Làm người khó lắm, bác ạ.
Khổ một nỗi, có người nghe phê bình, cứ tiếp thu thun thút,
còn minh hoạ thêm lỗi mình cho to ra thêm nữa. Thế mà cũng không được tin, lại
bị tố cáo là hời hợt, trốn đấu tranh. Có người bỗng thật thấy mình sai, nhận
ngay cũng lại bị cho là nông cạn, con vẹt, thiếu đào sâu suy nghĩ. Đến lượt
Nguyên Hồng trình bày, lại đặt chồng báo Văn ra trước mặt, giở từng số, vừa nói
vừa ứa nước mắt. Chịu chẳng ai phân tích ra thế là kể công hay nhận tội. Tôi dự
các cuộc chỉnh huấn đã nhiều, có người lo quá, cả tháng không chợp mắt, như ở
báo Cứu Quốc, một cậu còn trẻ, đã vào rừng thắt cổ.
Phương châm trị bệnh cứu người là ngồi nghe không được nói lại,
đợi đến lúc phát biểu thì tiếp thu. Dao kéo chỉnh huấn của tôi cũng đã hăng hái
mổ xẻ nhiều người lắm. Mùa đông 1951, ở rừng Chiêm Hoá, hai tháng dự lớp đầu
tiên chỉnh huấn gọi là theo phương pháp Hoa Nam. Lớp ấy nòng cốt các ngành các
giới và địa phương học xong về toả ra rộng khắp. Trần Dần và Tử Phác phụ trách
chỉnh huấn trong văn nghệ quân đội. Đặng Đình Hưng và Lê Đạt là cán bộ trên ban
tuyên nghiên huấn Trung ương về mở các lớp cho giới văn nghệ. Đoàn cán bộ giáo
vụ đi học chỉnh huấn ở Hoa Nam về mặc áo bông xanh Sỹ Lâm. Lớp tôi bế mạc, một
số cán bộ vượt Trường Sơn vào làm chỉnh huấn và cải cách ruộng đất trong khu
Năm. Đoàn còn được lệnh vào sâu hơn, nhưng mới tới miền Đông Nam Bộ thì hiệp định
Giơnevơ 1954 được ký kết.
Nửa đêm trở dậy, giữa rừng đất hàng trăm bó đuốc lên, lấp
loáng băng khẩu hiệu vải đen chữ trắng... Bộc lộ khuyết điểm... Thước đo lòng
trung thành... Trời rét cắt ruột. Rừng đêm tối như mực. Con người bẩn thỉu lỗi
lầm đầy rẫy... Chưa... Chưa đủ thành khẩn, làm lại... lại làm lại. Mỗi lần làm
lại, viết lại càng ngày càng áy náy lo. Cái chờ đợi được tổ thông qua cứ xa vời
vợi. Chỉ có bộc lộ tội hủ hoá ngủ bậy thì cơ chừng nói ra dễ nhất, không có
cũng đấm ngực bảo có, nhất là nam giới. Chết rồi còn bị khai trừ, vì tội trốn đấu
tranh. Hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm tham gia một đợt giảm tô ở Thái Nguyên. Công tác
dưới xã xiết chặt phăm phắp từng buổi, từng ngày, cả đội như một đơn vị ra trận.
Hai ngày bắt rễ, một ngày xâu chuỗi rồi họp rễ chuỗi, rồi trưởng thôn mới ở xóm
ra mắt... Đội viên giảm tô Nguyễn Tư Nghiêm loay hoay cả tuần không bắt được rễ,
không xâu chuỗi được một cố nông nào. Nguyễn Tư Nghiêm hoảng quá phát dại, đi
không nhớ đường về xóm. Suốt ngày vơ vẩn ngoài đồng, bắt cào cào, châu chấu ăn.
Hoạ sĩ Tạ Thúc Bình được cơ quan cho xuống đoàn xin Nguyễn Tư Nghiêm về. Chưa
bao giờ tôi hỏi lại xem ngày ấy Nguyễn Tư Nghiêm điên thật hay sợ phải ngồi chuồng
trâu kiểm thảo đã sáng tác ra trò Vân dại ấy.
Chỉnh huấn xong ở Chiêm Hoá, về tổ chức chỉnh huấn trí thức
và văn nghệ sĩ. Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Nguyễn Minh Tấn làm cán bộ giáo vụ chủ
chốt của lớp. Anh em chúng tôi ai đợt trước chưa dự đợt ấy thì làm nốt. Tôi chỉnh
huấn rồi lại dự nữa không làm giáo vụ nhưng được làm tổ trưởng. Tổ tôi có nhiều
nhân vật lạ khác nhau: Phan Khôi, Tú Mỡ, Văn Cao, Nguyễn Công Hoan, nhà triết học
Trần Đức Thảo, bác sĩ Đặng Vũ Hỉ... Người khó góp ý kiến, khó đánh đổ không phải
bác Phan Khôi ương bướng như tôi tưởng mà lại là bác Tú Mỡ hiền lành, củ mỉ, ít
nói.
Có hai việc khó cho tổ trưởng tôi về bác Tú. Bác Tú Mỡ nói:
- Nguyễn Tường Tam phản bội, nó là kẻ thù của nhân dân. Nguyễn
Tường Tam lập đảng Đại Việt hại dân hại nước. Nguyễn Tường Tam theo Tàu Tưởng về
chống phá cách mạng rồi trốn đi. Tôi kịch liệt lên án nó. Nhưng tôi không quên
được Nguyễn Tường Tam đã có ơn với tôi.
Bác Tú tiếp tục:
- Nói thẳng ra là không có Nguyễn Tường Tam thì không có Tú Mỡ.
Khi làm báo Phong Hoá, Nguyễn Tường Tam đã khuyến khích Tú Mỡ đi vào thơ trào
phúng, chuyên thơ trào phúng, có Nguyễn Tường Tam mới thành Tú Mỡ.
Bác Tú Mỡ không chịu phân biệt chính trị và văn nghệ hai vế,
bảo Nguyễn Tường Tam có tội thì được, nhưng Nguyễn Tường Tam đã giúp đỡ Tú Mỡ,
làm sao nghĩ khác được, bác Tú Mỡ chưa biết phải nên thế nào. Đến cả Trần Đức
Thảo mới ở Pháp về Việt Bắc cũng lắc đầu:
- Không được, không được, không thể gượng nhẹ với Nguyễn Tường
Tam được.
Trần Đức Thảo hồn nhiên hăng hái cả trong cách sinh hoạt của
anh lúc ấy. Thảo đã đem cho hết đồ Tây. Thảo mặc quần áo nâu, đi chân đất. Tối
ngủ không màn, mặc dầu chúng tôi đương ở rừng đầu sông Lô, đêm đến, muỗi ra nhiều
như vãi chấu. Về muộn mà, tớ phải tập gian khổ cho kịp với các cậu. Trần Đức Thảo
nói đứng đắn thế. Chẳng bao lâu, Trần Đức Thảo run cầm cập sốt rét xanh tái.
Sau cùng, Tú Mỡ đấu dịu:
- Các anh phân tích thế tôi đã nghe hiểu, tôi đã nhận ra được
cái mặt thằng bán nước ấy rồi. Chỉ lo trước một điều, quả đất tròn biết đâu việc
đời thường éo le. Chẳng may lịch sử có cuộc xoay vần thế nào, một ngày kia ta bắt
sống được thằng chết chém ấy mà tình cờ lại có Tú Mỡ ở đấy. Thì xin chính phủ đừng
cử Tú Mỡ ra chém Nguyễn Tường Tam.
Nghiêm nghị, Tú Mỡ nói, không nhìn ai:
- Tôi đề nghị các anh thế.
Việc thứ hai rắc rối hơn. Bác Tú Mỡ, chiến sĩ thi đua ngành
văn hoá văn nghệ đi dự đại hội anh hùng chiến sĩ toàn quốc ở Tuyên Quang rồi về
nhà tản cư bên Bắc Giang, trên đường Tú Mỡ tạt xuống vùng ven sông Đuống. Đội
chèo tỉnh Bắc Ninh đương dựng một vở của Tú Mỡ. Chẳng may, sớm hôm ấy địch bên
kia sông tràn sang càn quét, cướp cái ăn. Tú Mỡ bị bắt. Tú Mỡ khai là công chức
đi tìm vợ con tản cư trên Thái Nguyên!. Tú Mỡ nói được tiếng Tây, bốt Phù Lưu
giữ Tú Mỡ lại cho làm thông ngôn, chưa gửi về giam Nhà Tiền bên Hà Nội như mọi
người khí bị bắt trong các trận càn. Chuyện này tôi đã viết ở tập ký Chuyện cũ
Hà Nội.
Thằng quan ba sếp bốt Phù Lưu bị chết trận. Hôm đưa xác quan
ba lên ô-tô về Hà Nội, Tú Mỡ đã đọc tiếng Tây một bài văn tế. Ôi thôi, thế là tổ
chúng tôi quần bác Tú đến điều. Cũng không ai khen bác một câu, bởi vì bác Tú Mỡ
có thật thà nói ra, chúng tôi mới biết chuyện kỳ cục ấy, chứ Tú Mỡ giấu đi thì
nào ai biết được. Lúc đến lượt phát biểu tiếp thu được giúp đỡ, Tú Mỡ cũng
không nói câu nào.
Hôm tan lớp, chúng tôi trở lại cơ quan. Trên đường đi, Tú Mỡ
mới thủ thỉ tâm sự:
- Nghe các cậu phân tích mình cũng nhận ra cái sai. Nhưng
mà... nhưng mà... tớ tính nếu không có bài văn tế, không được thằng quan đồn mới
đến thay tin cẩn hơn, đời nào nó thả cho tớ đi Thái Nguyên tìm vợ con. Có được
xổ lồng thì Tú Mỡ mới về với các cậu được chứ. Thế thì thử bắc cân lên xem thằng
Khổng Minh Tú Mỡ so với thằng phản động Tú Mỡ, thằng nào nặng cân hơn.
Đến lúc ấy không còn vai tổ trưởng, tôi cười trừ. ở lâu với
Tú Mỡ, thấy anh cứ vừa ngơ ngác vừa thâm thuý và không biết đùa. Tú Mỡ làm thơ
trào phúng toàn đọc bản tin thông tấn xã lấy gợi ý. Về Hà Nội, chi bộ dự định kết
nạp Tú Mỡ vào Đảng. Tú Mỡ cũng có nguyện vọng ấy ở trên nhận báo cáo và có ý kiến
xuống đồng chí Tú Mỡ chiến sĩ thi đua toàn quốc xứng đáng đảng viên, nhưng nên
để đồng chí Tú Mỡ ngoài đảng. Như thế có lợi cho cuộc đấu tranh thống nhất hai
miền.
Tôi có trách nhiệm nói lại với anh Tú Mỡ như thế. Tôi đã nói,
rồi lại đề nghị Tú Mỡ cùng tôi lên gặp trên. Ra về, anh Tú Mỡ bắt tay tôi, vẻ hể
hả. Ôi thôi, bao nhiêu não nùng trần ai. Ngót hai năm trước, tôi đã đi làm anh
đội mấy đợt cải cách ruộng đất. Đợt 3 dưới kẻ bể Hải Yến Tĩnh Gia rồi lên Hậu
Hiền tổng kết. Xong về xã Đồng Tiến Nông Cống, đợt 4 được thăng đội phó phụ
trách toà án. Chẳng phải vì tôi tài ba đánh địch thế nào, mà vì hồi ấy nghe tin
chính quyền trong Nam kiện với ủy ban Quốc tế rằng ta vi phạm nhân quyền, bắt
giam người không có án. Đoàn uỷ cải cách có sáng kiến tìm ra tôi là nhà văn nhà
báo, gọi lên, phong chức cho tôi có cương vị múa bút sửa soạn chữ nghĩa, giấy tờ
đối phó, nếu ủy ban Quốc tế kiểm tra đến. Tôi đã làm sẵn nhiều bản án. Mãi
không thấy gì. Nhưng dù sao, đội tôi cũng là một đội đánh địch khá, đã hai lần
được tuyên dương toàn đoàn. Cho nên, đợt 5 được điều ra Cẩm Bình Hải Dương vùng
hai trăm ngày sau tiếp quản mới giải phóng, làm một lèo thẳng cải cách ruộng đất
không qua phát động giảm tô. Những vùng trắng cơ sở, chắc chắn lúc nhúc mật
thám và quốc dân đảng. Tôi làm phó, đội trưởng Huỳnh Cự, nghe nói là đại đội
trưởng bên quân đội đã tham gia ba đợt rồi. Huỳnh Cự sát phạt dữ dội mọi mặt. Mới
vài ngày xuống xã, Huỳnh Cự đã tổ chức mít tinh hoan nghênh đoàn uỷ duyệt cho bắn
một địa chủ để nâng khí thế nông dân lên. Huỳnh Cự lấy một cô rễ cố nông. Huỳnh
Cự bảo tớ chưa có vợ. Vóc cao lớn, vạm vỡ, dáng đã đứng tuổi, hai con mắt ngầu
đỏ, đi đâu cũng đeo ba lô và vắt cái khăn mặt trắng quanh cổ. Tôi nghi ngờ thế
nào ấy, chẳng lẽ lão này lại chưa có vợ. Nhưng không dám hé răng. Huỳnh Cự nhốt
tôi vào chuồng trâu lúc nào chẳng được. Tôi đã viết bài và làm nhiều ca dao
đăng báo của đoàn về tội cường hào ác bá mà tôi nghe ở những cuộc họp kể khổ.
Bao nhiêu năm sau. Một đêm tôi mở đài Sài Gòn. Tôi hay nghe mục
Tao Đàn, cái giọng nữ ẽo ọt của cố nhân Đinh Hùng. Hôm ấy, có tin đại tá Huỳnh
Cự đi dự hội nghị quốc tế chống cộng ở Đài Loan. Lạ, nhưng tôi tin ngay là Huỳnh
Cự ấy. Đến lúc Huỳnh Cự phát biểu với các nhà báo ở sân bay Tân Sơn Nhất, thưa
đòm bào... thưa đòm bào... cái tiếng Quảng Ngãi nặng trịch, nghe dễ sợ vẫn như
ngày làm cải cách ở Cẩm Bình.
Thì ra, Huỳnh Cự làm cải cách cuối đợt 5 xong rồi vào chiến
trường, rồi ra hàng địch.
Đầu tôi nặng trĩu mưa gió chỉnh huấn. Lúc lặng im vẫn lo vẩn
vơ. Không biết nên thế nào, cũng không khuây khoả nhẹ nhàng được. Việc không
đáng nghĩ mà đâm ra nghĩ. Xưa kia đi làm, cái nghề bán giày kiếm đồng tiền mửa
mật ra, rồi viết văn, cũng là đi làm. Tôi theo đuổi lý tưởng từ những ngày bóng
tối. Không có cách mạng, tôi làm sao nên người như bây giờ. Làm sao tôi lại có thể
nghiêng ngả, có thể bị lũng đoạn được nhỉ? ở rừng ra, đi cải cách rồi về bắt
tay vào những công tác rất quen mà cũng rất mới mẻ này, mới được hơn một năm.
Tôi hữu khuynh, tôi bị anh em bốc lên phổng mũi Triệu Tử Long, tôi bị bịt mắt,
tôi bị xỏ mũi mà không hiểu, chậm hiểu, không tự biết. Phải thế không? Tôi
không tin tôi đến nỗi đù đờ thế. Có lẽ tôi cũng như Nguyên Hồng, chỉ thấy công
phu đã làm báo, đã mất công lo việc thế thì không thể sai. Ngày trước và cả khi
ấy, Như Phong vẫn bảo tôi là thằng ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt. Cái ấy
thì có thể. Tôi sinh ra ở nơi thành phố với làng mạc lẫn lộn, thế lực chánh lý
không khạc ra lửa như trời đất làng Đại Hoàng của Nam Cao, mà ở quê tôi, túi bạc
đâm toạc tờ giấy, có tiền là có cả, bấy lâu tôi lăn lóc trong khoé đời ấy có thể
vì thế mà tôi sai chăng.
Trước bước kiểm thảo, chúng tôi được nghiên cứu và phổ biến lại
vấn đề Nhân Văn đã xảy ra năm trước. Sự việc ấy phức tạp cả trong nhiều tầng lớp
xã hội ở thành phố, không phải chỉ có mấy cái truyện ngắn, bài thơ trên báo là
tất cả. Trong những người dính líu không phải ai cũng đều biết tác động nhuốm
màu chính trị lan truyền trong hoạt động đảng xã hội Pháp cũ (Sfio) và những
người đang lo lắng lên tư sản hay những người liên quan, con cái và địa chủ các
nơi lẻn về ẩn náu. Lại có ông tuỳ viên văn hóa Đuy răng con, tay chơi đồ cổ có
hạng, nói tiếng Việt như ta, lại có thư luân lưu tổng giám mục Đuy lây địa phận
Hà Nội dạy dỗ giáo dân sống với quỷ ác, biết nhẫn nhục, ép mình, thư luân lưu
lan đến những vùng công giáo cơ sở du kích cũ ở Hà Nam - vẫn địa phận Hà Nội của
bên đạo. Các nơi ấy, chín năm kháng chiến không có lễ cho người chết cho trẻ sơ
sinh, cho các đám cưới, bây giờ cha cố về làm lễ dòng đã mấy tháng qua các làng
chưa hết. Cái họ đạo xôi đỗ làng du kích Đại Hoàng của Nam Cao cũng trải những
việc đạo việc đòi nhiêu khê thế. Những người nước ngoài vi phạm an ninh của đất
nước đã bị trục xuất. Người có quan hệ với họ, Thuỵ An và Nguyễn Hữu Đang, Trần
Thiếu Bảo trên đường xuống Hải Phòng bị bắt ở ga Phú Thái. ở hội trường, được
phổ biến thế.
Tiếng vỗ tay rào rào. Tôi ngồi im. Tôi ngậm ngùi nhớ hơn mười
năm trước, tổ văn hoá cứu quốc chúng tôi bị giải xuống Nam Định. Mật thám đã
xong cung, còn nằm nhà giam đợi ra toà. Dỗi dãi, cả ngày chuyện tào lao, Nguyễn
Hữu Đang có một nhận xét chua chát về đàn bà:
- Những thằng ăn nói lém lỉnh như tao, đàn bà không thích.
Chúng nó ưa những đứa lờ ngờ một chút, dễ sai bảo. Tao có kinh nghiệm thế rồi.
Nguyễn Hữu Đang ngâm thơ giọng thủ thỉ rất buồn: Nào những ai
bảy thước thân nam tử. Bốn bề chí tang bồng... Ngàn mây bay bổng...
Tan lớp ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt, Phùng Cung công
tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội Văn Nghệ từ trên Tuyên Quang. ở rừng, những
việc tủn mủn không tên, giấy tờ công văn, giữ sách thư viện, làm sách mới, đi
chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan... Nghĩ đến
Phùng Cung, tôi nhớ những việc linh tinh hàng ngày ở cơ quan kháng chiến. Hồi ấy
nhiều người ở đâu vào làm cơ quan, tuy khổ song chắc chân hơn long đong đò giang
chạy chợ.
Nhưng mà cũng là ở đâu yên thân thì người ta tụ lại không
dinh tê về thành, mặc dầu thật ở nơi đèo heo hút gió lại khác. Báo Cứu Quốc Việt
Bắc chúng tôi ở Bắc Cạn có anh bỏ cơ quan ra lấy vợ người Tày trong làng rồi đi
cắt tóc, đi sơn tràng. Bây giờ anh Ban ra ngoài làng vẫn còn sống, ở vùng chè
Tân Cương trên Thái Nguyên. Tết, tôi thường nhận thư. Phùng Cung từ cơ quan nào
dạt đến, không nhớ - có lẽ ở ty thông tin Tuyên Quang. Chơi vui, cũng không để
ý, kể cả việc hệ trọng khi tôi nhờ Phùng Cung đạp xe đèo đưa chị Nam Cao xuống
Hoàng Đan tìm mộ anh ấy. Đọc truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh Phùng Cung
đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù.
- Thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm nên
cháo đấy, con ạ.
Phùng Cung cũng điếu đóm và tập tành như tôi ngày xưa, đâu dễ
mà có sừng có mỏ ngay. Phùng Cung bị bắt khi nhân văn, nhân võ đã được dọn dẹp
yên ắng, đã tàn. Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê
Đạt, Hoàng Cầm, được mấy anh này phong chức tay truyện ngắn nhất Đông Dương. Chắc
là la đà chiếu rượu với nhau, ăn nói càng ngổ ngáo ganh nhau, càng bạt mạng. Lại
viết tập Dạ ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm.
Tôi không thể tưởng tượng ra được một Phùng Cung thế nào mà bị
bắt. Tôi vẫn mơ màng về chúng tôi, cây số ba, cây số bảy trên Tuyên, phở Dơi,
cà phê Pháo, anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi
bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh, như
chú mèo vờ lù rù rình chuột. Về Hà Nội, đôi ba lần chúng tôi láng cháng cà phê
Phúc Châu phố trên. Hình như Phùng Cung quê ở trung du và nỗi nhà địa nhà phú
thế nào ấy cũng không bao giờ tôi hỏi.
Lại hơn mười năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng ủ
rũ, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy
tẩy chì mờ mờ.
- Phùng Cung phải không?
- Tôi đây.
- Còn sống về được a?
- Cũng không hiểu tại sao, anh ạ.
Từ ấy, thỉnh thoảng có gặp lại. Trước kia tôi đã không biết,
bây giờ chẳng muốn đụng đến vết đau. Lại bình thường. Có hôm Phùng Cung nói
chuyện ở tù, cứ như chuyện ai, ở đâu. Hồi ấy, thuốc viên rửa, loại độc bảng A rất
hiếm, dù đấy là dược phẩm của ta. Phùng Cung hỏi và kể luôn:
- Anh có biết sao thuốc hiếm không? Trong viên rửa có thuốc
phiện. Người ta mua, gửi cho thằng người nhà ở tù hãm nghiện, cai nghiện. Có đứa
uống viên rửa, cả tháng không ỉa được, gãi tuột da, phát điên.
Hôm ấy, chúng tôi đi ăn phở, Phùng Cung trả tiền rồi rủ lên
cà phê bà Sính ở Cột Cờ. Tết, Phùng Cung đem biếu chai rượu thuốc. Tôi mừng,
cái thằng chớm lao ngày ấy - bệnh lao đã nặng lên trong tù tuy ngày nay không
phải là bệnh chết mấy nữa, nhưng vẫn là ho lao. Phùng Cung hỏi tôi:
- Anh có biết tôi phải giam bao nhiêu năm?
- Không biết.
Đã tù lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù.
Thế nào, người tù biệt giam mười một năm vẫn hiện được về. Lại lâu lắm không gặp.
Ngỡ như Phùng Cung đã làm sao. Nhưng, một hôm, có người sở Công an đến nhờ tôi
ký chứng nhận quãng công tác ở cơ quan sau cùng Phùng Cung làm việc, trước khi
phải bắt. Các anh phụ trách Hội Nhà Văn bây giờ đều là người các khóa mới không
chịu trách nhiệm quãng thời gian ấy. Tôi lại phải làm cái việc qua đã lâu rồi.
Tôi hỏi người công an trẻ tuổi cầm giấy.
- Chứng nhận để làm gì?
- Có liên tục công tác thì mới đủ năm cầm sổ hưu. Thủ tục thế
ạ.
- Liên tục cả ở cơ quan nhà tù?
Anh công an cười hồn nhiên, chào cám ơn bác. Gần đây, nghe
Phùng Cung đã chuyển lên ở một xóm trên Quần Ngựa. Nghe nói con cái nên người
đã khấm khá, làm được nhà mới. Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký - hay tiếp
tục Dạ ký sau hơn ba mươi năm, hả đời? Bảo có hôm nào lên chơi, vẫn chưa đi được.
Tôi ngồi cạnh Nguyên Hồng. Kiểm điểm Nguyên Hồng một buổi
chưa xong. Vẫn một chồng báo Văn, vẫn như mọi hôm. Cả tổ với nhiều người tổ
khác đến viện trợ cũng không ai hỏi thêm Nguyên Hồng một câu nào nữa. Bây giờ
mà đụng đến, lại phân tích, lại bổ sung, lại tôi xin góp với đồng chí thì chắc
chắn lại như hôm qua, hôm kia, trông trước kìa kìa Nguyên Hồng xoè bàn tay lên
chồng báo, vuốt vuốt, mếu máo nói, nước mắt như trút... tôi thức đêm thức
hôm... tôi bỏ hết sáng tác, ngày đêm tôi chỉ nghĩ đến tờ báo... bài này đề tài
công nhân... bài về kháng chiến... bài này về thống nhất... bài về sửa sai cải
cách ruộng đất... tôi không... tôi không... Chẳng mấy lúc Nguyên Hồng lại khóc
hu hu.
Thế là không ai nói chen vào được nữa.
Báo Văn nghỉ. Tuần báo Văn Học ra thay. Nhà xuất bản Hội Nhà
Văn sát nhập vào nhà xuất bản Văn Hoá, bộ phận văn học của nhà xuất bản Hội Nhà
Văn do phó giám đốc Đồ Phồn phụ trách. Chúng tôi thì được chia vào các tổ đi thực
tế lâu dài theo phong trào lúc ấy. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Văn Cao, Lưu
Quang Thuận, Nguyễn Văn Tý lên nông trường Điện Biên. Nguyên Hồng về nhà máy xi
măng Hải phòng. Có ảnh đội mũ thợ, đẩy xe goòng đăng báo Nhân Dân. Tôi đi với tổ
trưởng Hoàng Trung Thông, xuống Thái Bình cùng văn Hoàng Cầm, Chu Ngọc, Trần Lê
Văn, Phùng Quán. Chúng tôi về lao động và xây dựng hợp tác xã một thôn ở Thái
Thụy, huyện Thái Ninh. Mỗi xã mới tổ chức hợp tác xã ở một làng làm thí điểm.
Đi lâu, chuyển hẳn mọi chế độ sinh hoạt cơ quan và đảng về địa phương.
Buổi chiều ấy, Nguyên Hồng rủ tôi đến chơi nhà. Không phải
chiều thứ bảy, khác lệ mọi khi.
Tôi hỏi:
- Lại nem Sà Goòng?
- ừ, mới kiếm được cái rau hay lắm.
Đúng, lại chả giò với nhân nhau thai băm với mộc nhĩ. Vẫn
trên căn gác mọi khi. Các cháu, đứa bổ củi, đứa xuống nhà rửa rau, đứa ngồi học
cạnh cửa sổ. Người trong phòng bề bộn hơn đồ đạc. Chị ấy gầy leo khoeo đã chớm
bệnh hen, đương lúi húi rán chảo nem trên hoả lò than cám. Chị đi làm về, sao
hàng sách đóng cửa sớm thế - tôi hỏi. Chị cười nhẹ nhàng, không trả lời câu hỏi
mà sau tôi mới hiểu. Cụ bà bên góc tương đương đùm mụn áo sứt chỉ của cháu nào.
Chúng tôi im lặng một lúc. Lớp học dưới ấp xong đã lâu mà cái
rã rời cộng với bao nhiêu buồn bã vẩn vơ khác lại chợt đẩy mỗi người chìm vào một
xó. Không phải ngẫu nhiên mà vừa rồi mới có cuộc họp về vấn đề tên văn gian tờrốtkít
Vũ Trọng Phụng, do Hoàng Văn Hoan triệu tập chỉ có tổ nòng cốt, cốt cán những
người tin cậy. Hai chúng tôi không được dự. Cuộc họp ban chấp hành Hội cũng đã
quyết định về chúng tôi. Có hai người hăng nhất, Hoài Thanh và Lưu Trọng Lư đề
nghị đưa hai chúng tôi ra khỏi Ban chấp hành, ra khỏi Hội Nhà Văn. Nguyên Hồng
suýt lại bị kiểm điểm vì không đi đưa đám Mạnh Phú Tư. Tôi thì được Đồ Phồn chứng
nhận Anh này có đi đưa, có khiêng quan tài ra xe nhà đòn!. Nguyên Hồng bị nhầm
là có thái độ chống đối với những người tích cực. Nhưng đến khi Nguyên Hồng nói
rằng mấy hôm ấy nằm khàn ở nhà, không đến cơ quan, không đọc báo cũng không ai
đến bảo cho biết. Thế mọi người mới thôi.
Đột nhiên, Nguyên Hồng nghiêm nghị nói:
- Tao không chịu.
Tôi ừ hữ. Nguyên Hồng nói tiếp, nho nhỏ:
- Tao kiện lên anh Cả.
- Kiện à?
- ừ, tao kiện. Tao tin tưởng đồng chí Sao Đỏ. Không dễ thịt
nhau như thế. Tao không có điều gì không đúng với Đảng.
ừ, chúng ta sai làm sao được. Những tự tin ngây dại. Có điều,
ở Nguyên Hồng được biểu hiện ra khác mà thôi. Nguyên Hồng kia mà. Có lần, tôi
được Trần Quang Huy kể rằng khi sắp chiến tranh thế giới lần thứ hai, bộ phận
hoạt động công khai của Đảng chuẩn bị rút vào hoạt động bí mật.
Trần Quang Huy được phân công đưa Nguyên Hồng đi công tác
thoát ly. Nguyên Hồng đã ra ngoại ô Hải Phòng ở bí mật được vài hôm, nhưng mà cậu
ta nhớ nhà hay sao ấy, hôm nào cũng khóc!. Thế là lại phải cho về. ít lâu sau,
mật thám Pháp bắt, rồi Nguyên Hồng bị đày lên trại tập trung Bắc Mê trên Hà
Giang. Phải, chúng tôi từ những lặn lội ấy ra cơ mà.
Nguyễn Lương Bằng đương phụ trách ban thanh tra Chính phủ.
Nguyên Hồng đã cắp cả ôm báo Văn lên ban thanh tra. Nguyên Hồng quý Nguyễn
Lương Bằng, có lẽ từ những chuyện vượt ngục dũng cảm. Nguyên Hồng gọi một cách
trân trọng đồng chí Sao Đỏ. Huống chi Sao Đỏ lại đương làm Bao Công.
Nguyên Hồng nói đi nói lại:
- Rồi mày xem? Rồi mày xem!
Tôi không nói. Cũng không dám một câu cười cợt cái cả tin hồn
nhiên của Nguyên Hồng. Nguyên Hồng lẩm bầm, làu bàu nói một mình. Lát sau, bảo
tôi:
- Mà tao đã tính rồi.
Nét mặt Nguyên Hồng rầu hẳn lại. Nguyên Hồng thường vui buồn
đột nhiên, khó hiểu. Vừa nói đến Sao Đỏ, Nguyên Hồng phấn chấn lạ thường, bây
giờ lại khác hẳn.
Tôi đưa tờ báo Nhân Dân ngày 12 tháng ba năm 1958 in bài của
tôi đề là Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và trong công tác. Nguyên Hồng
cầm xem, chỗ qua loa, chỗ chăm chú.
Sau đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, cũng như tật thảy
anh chị em văn nghệ sĩ, tôi rất phấn khởi trước sự thành lập của những hội
riêng của các ngành.
Tôi thường nghĩ rằng. Đường lối thì đã có ở thư của Trung
ương Đảng gửi đại hội, đúng quá, rõ quá rồi. Chúng ta chỉ còn lo liệu sao cho
nhau ra sức sáng tác mà thôi, một mặt khác, đối với những tư tưởng chính trị
nguy hiểm và những quan điểm nghệ thuật sai lầm bộc lộ trên báo Nhân Văn và các
tập Giai Phẩm của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu tôi ngỡ rằng trước
phong trào quần chúng đấu tranh phản đối như vừa qua, họ phải sáng ra, như vậy
là đã giải quyết xong những lệch lạc ấy.
Các quan điểm nhẹ nhàng đến độ vô lý nguy hiểm như trên, đã
đưa tới cái nhìn, cùng với những lý luận sai lầm trong chủ trương công tác của
tôi. Hội nhà Văn Việt Nam và cụ thể trong một số việc làm, một số bài viết của
tôi.
Ngày nay, sau những cuộc thảo luận, phê bình vừa rồi, tôi mới
nhận rõ trong năm quan tình hình không phải mọi sự êm đẹp chỉ có việc sáng tác
mà trong văn học vẫn có đấu tranh tư tưởng gay go. Tư tưởng xấu của nhóm Nhân
Văn Giai Phẩm đã tiếp tục len vào cơ quan của Hội nhà Văn, trên báo Văn, gây
nhiều tác hại. Quan niệm mơ hồ của tôi, khách quan đã tạo điều kiện cho khuyn h
hướng tư tưởng nhóm ấy lợ dụng diễn đàn báo Văn và một số cơ quan khác của Hội
Nhà Văn như nhà xuất bản, câu lạc bộ, đã gieo rắc quan điểm chính trị và nghệ
thuật nguy hại. Sự yên tâm vô lý của tôi trước hình hình đó là do tôi đã hầu
như không để ý rằng miền Nam còn nằm trong lưới đế quốc Mỹ. Bộ máy chiến tranh
tâm lý của Mỹ Diệm ngày đêm tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng thù địch để phá hoại
sự nghiệp xây dựng miền Bắc của chúng ta. Trong văn học hiện nay không thể quên
mỗi tư tương đều hoặc có lợi cho ta hoặc có lợi cho địch. Tôi đã hầu như bằng
chân như vại để cho những tư tưởng xấu của báo Nhân Văn cũ còn có cơ hội nhoi
ra trên sách báo của Hội Nhà Văn, làm cho Mỹ Diệm có cơ hội lợi dụng để gây
hoang mang cho đồng bào miền Nam và xuyên tạc sự thật ở miền Bắc.
Một phía khác, tôi cũng chưa nhận rõ miền Bắc đã đương trên
quá trình cách mạng xã hội chỉ nghĩa. Cách mạng xã hoi chủ nghĩa mở ra trên miền
Bắc Việt Nam sau cuộc chiến tranh tàn phá khốc liệt trong khi tiên hành cách mạng
ruộng đất và cải tạo tư sản. Với đặc điểm xã hội Việt Nam, cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta vẫn không thể ra ngoài những qui luật phổ biên mà
trước nhất là cuộc đâu tranh giai cấp mới đương diễn ra về mọi mặt. Tất nhiên,
trước công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa thì những lực lượng tư bản chủ nghĩa
khùng lên, phản ứng, ra sức chống chọi và một lúc nào đó kéo theo được mọi số
hoang mang ở những tầng lớp gần cạnh.
Điều đó rất rõ hiện nay trên mọi mặt đấu tranh tư tưởng,
chính trị, kinh tế, văn hoá ở thành thị và nông thôn. Do đây, càng thấy rõ những
tư tưởng nguy hại của một số người, từ báo Nhân Văn, không phải ngẫu nhiên tồn
tại và có cơ phát triển đối kháng, chống lại Đảng, chống lại chủ nghĩa xã hội
trong khi giai đoạn cách mạng đương chuyển nhanh, chuyển mạnh.
Những điều trên, trong thời gian vừa qua, tôi hoàn toàn không
biết soi lên và cắt nghĩa được trong lĩnh vực văn học.
Cho nên, ở bài tổ chức phát triển lực lượng sáng tác trước nhất
và bài góp ý kiến về vấn đề con người mới đăng trên báo Văn tôi đã đưa ra một số
luận điểm sai lầm. Đại ý nói rằng:
1. Trong phong trào văn học hiện nay hãy khoan khoan lý lẽ, bởi
vì lý lẽ đã cạn rồi, nói tô đen hay bôi hồng gì cũng là vô ích. Mà chỉ có tổ chức,
phát triển sáng tác là cần thiết và đáng chú trọng hơn hết, trước nhất? Chủ
trương trên đây có phản ảnh hưởng vào hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành Hội Nhà
Văn và trở nên phương châm công tác của một thời kỳ giữa hai kỳ họp của ban chấp
hành. Sai lầm của tôi đã gây nhiều tác hại. Lẽ cố nhiên, nhiệm vụ của Hội Nhà
Văn là phải tìm mọi cách phát triển sáng tác nhưng vấn đề là phát triển sáng
tác theo phương hướng tư tưởng nào?Không thể phát triển loại sáng tác mang những
tư tưởng xấu, chống đối lại chủ nghĩa xã hội, không thể bỏ công sức ra tổ chức,
tạo điều kiện cho những sáng tác như vậy ra đời. Mà trái lại phải đấu tranh chống
những sáng tác đó. Nhưng trong thời gian qua, báo Văn, nhà xuất bản Hội Nhà Văn
lại đem in lên, đăng lên những sáng tác có hại. Như vậy, không thể gọi là phát
triển sáng tác. Thế mà tôi đã bảo vệ cho những sai lầm đó. Tôi còn cho là lý lẽ
đã cạn rồi, thực ra là cho công tác lý luận, phê bình không có ích, lúc này cứ
việc sáng tác mà không cần đấu tranh tư tưởng. Vì thế, chẳng những là không trị
được những tư tưởng xấu lại cũng không tìm hiểu, phân tích, biểu dương được những
luồng sáng tác tốt.
2. Khi thảo luận về con người mới tôi nêu vấn đề một con người
m ới Việt Nam là có thật, nhưng vô cùng phức tạp, vì nó sinh ra từ một xã hội
phong kiến và thuộc địa nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua gần mười năm kháng
chiến gian khổ và hai miền chia cắt như ngày nay, cho nên, hiện giờ, nêu biểu
hiện con người mới thì dù lấy quy cách nào ra so sánh cũng là công thức cứng nhắc,
bất cứ ai cũng không thể định được mẫu cho ai theo. Mà chỉ nên cùng nhận định
thống nhất đại khái như trên rồi đi sâu tìm hiểu và biểu hiện, càng muôn màu
muôn vẻ càng hay.
Nói cho cùng, về việc biểu hiện con người mới Việt Nam, tới
bây giờ tôi vẫn thấy là rất phức tạp là nhiều khó khăn. Nhưng nhận định xoá nhoà
như trên đã làm cho tôi lẫn lộn cơ sở của vấn đề con người mới ở đâu mà ra, con
người mới là ai, con người mới phải thế nào. Cố nhiên, nhà văn không thế lấy
công thức cứng nhắc để thay thế sự nghiên cứu tìm hiểu những con người mới
đương sống trong đời. Nhưng khi Đảng ta nêu lên: con người mới là con người lao
động chân tay và trí óc phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trước nhất
là công nông binh, thì đó là sự thật là nguyên tắc căn bản chứ không thể gọi là
công thức. Trái lại, giữa lúc chúng ta đương đầu tranh với lối sống đầu cơ, bóc
lột của một số người tư sản, mà chỉ nêu cao con người chung chung, vùi đi mọi
ranh giới, như vậy, chỉ là bao che cho những kiểu người bóc lột lỗi thời. Trước
đây, chính báo Nhân Văn và các tập san Giai Phẩm cũng núp sau chiêu bài con người
mà bôi nhọ chế độ ta và đưa ra những tư tưởng tình cảm cá nhân chủ nghĩa, chọi
lại với cuộc sống mới đang được xây dựng. Do quan niệm thiếu căn bản như trên,
tôi đã rất coi thường sự mờ nhạt hình ảnh công nông binh trên báo Văn và trong
phương hướng xuất bản của nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tôi không trọng việc khuyến
khích những tác phẩm đề cập những vấn đề nóng hổi của cách mạng và xem nhẹ nội
dung, quá thiên về hình thức, kỹ thuật. Mặt khác, nhận định của tôi bị một số
người có xu hướng tư tưởng lạc hậu cố ý núp vào, tô điểm vẽ vời thêm theo lối của
h ọ để che dấu chủ trương tách rời đường lối văn nghệ của Đảng. Những chiêu bài
con người, nhân phẩm chung chung ấy thực ra chỉ để trốn tránh đi vào công nông
binh, hoặc ngụy biện là biểu hiện thực tê nào cũng được. Cho nên, cũng dễ dàng
thấy như vừa qua, bên một số sáng tác giá trị, còn những sáng tác ốm đau, vàng
vọt dìm đầu vào những khía cạnh tủn mủn, cá biệt, sặc chủ quan, xa rời những
nhiệm vụ của thời đại, xa rời đời sống quần chúng. Những sáng tác đó tự cho là
tìm tòi nhưng thực chất cũng chỉ lại rơi vào bệnh sơ lược vụn vặt mà thôi. Sự
thật tỏ rõ: ai đã thâm thực tế quần chúng, những sáng tác nào đã chuẩn bị trên
sức lực của kết quả thâm nhập cuộc sống đều tốt. Những ai sợ thực tế như con
dơi sợ bóng sáng, trốn nấp sau cái lá chắn thực tế do mình mà ra đều cùng quẫn
không viết được, tự mình thấy trống rỗng một cách xấu hổ và họ đã thất bại thảm
hại.
Với quan niệm trên, tôi đã đặt vấn đề sáng tác đơn thuần trên
hình thức của công việc sáng tác mà không đặt vấn đề nội dung sáng tác thế nào
(thật ra, đầu óc bám đặc tư tưởng lạc hậu mà cứ sáng tác thì cũng chỉ nghĩ ra
được những cái tồi cái xấu mà thôi). Tôi không chú ý trạng thái đó đã không mảy
may đặt vấn đề tổ chức học tập nghiên cứu chính trị, nghiệp vụ và trầm trọng nhất,
đã không tổ chức đi vào thực tế lao động phấn đấu của quần chúng, chẳng những
đã không giúp mà còn buông lỏng coi thường khả năng của người viết hoà mình vào
quần chúng. Đó chính là một thiếu sót trầm trọng.
Hiện nay cách mạng đã chuyển giai đoạn, nhưng bởi nhận thức
và tư tưởng không chuyển kịp, có chỗ lẫn lộn, tôi đã không lường hết được tầm
quan trọng của đấu tranh giai cấp. Vì thế mà đánh giá thấp những hoạt động của
tư tưởng chính trị và nghệ thuật kiểu báo Nhân Văn vẫn sống sót, lại nhặt nhạnh
dần thêm những rơi rứt lạc hậu của từng người hoặc một phần nào trong tự tưởng
mỗi người, vào lúc giai đoạn cách mạng đương chuyển, nó dẫy giụa chống lại bước
tiến mới của cách mạng và đã tác hại không nhỏ.
Những khuyết điểm trên đây dẫn tới sai lầm lớn nhất là đã làm
tầm thường và hạ thấp tác dụng lãnh đạo tư tưởng của Đảng. Mặc dầu, trong lúc
này tôi chưa kiểm điểm công tác của Hội Nhà Văn mà mới bước đầu nhìn lại một số
bài báo và công tác của tôi, cũng đã thấy ra được cái nguyên nhân và tác hại cuối
cùng của vấn đề là như vậy.
Đành rằng trong một vài sự đánh giá cụ thể về một truyện ngắn
này, một bài thơ nọ, có thể nhận thức riêng của tôi còn chưa rõ ràng, nhưng
chính yếu là những điều căn bản thu hoạch trên kia đã chỉ ra những sai lầm của
tôi, nhất định sẽ càng làm nảy nở sự suy nghĩ đúng của tôi, giúp tôi cùng toàn
thể anh chị em đấu tranh kiên quyết chống lại những tư tưởng nguy hiểm còn
đương tác hại trong văn học.
Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay,
nói như hét vào mặt tôi:
- Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn ông thì không, Nguyên Hồng thì
không!
Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc
thút thít. Chị ấy bỏ chảo nem, chạy đến.
- Thầy nó làm sao? Lại làm sao thế?
Tôi đỡ Nguyên Hồng lên. Bà cụ có lẽ nặng tai, vẫn ngồi rờ rẫm
vá víu chỗ áo rách. Dưới sân, trẻ con đùa cười nắc nẻ, lại cành cạch tiếng giã
cua. Như không có gì mới xảy ra. Chúng tôi ngồi trở lại, yên lặng như từ nãy vẫn
thế.
Nguyên Hồng nói khẽ:
- Tao tính cả rồi. Trông đây này.
Gian phòng vẫn bề bộn màn mùng như mọi khi. Nhưng để ý thì thấy
có khác. Mọi thứ đã được gói, buộc lại như dạo trước tôi đã quen mắt thấy sáng
sớm các thứ trong các nhà sắp sẵn để quẳng ra bờ rào tránh máy bay. Tôi gật gù,
nhưng thật cũng chưa hiểu ra như thế nào.
- Tao về Nhã Nam.
- Về Nhã Nam?
- ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa.
Ông về Nhã Nam.
Tôi hiểu cái cười lạnh lẽo và lặng lẽ lúc nãy của chị ấy.
Rồi một hôm nghe Kim Lân nói Nguyên Hồng đã dọn về Nhã Nam.
Không biết vợ chồng con cái gồng gánh như hôm ở Nhã Nam tưng bừng trở về Hà Nội
hay là thuê xe ba gác đẩy. Lại lên ngược, lại lên ngược, tôi chỉ thương chị ấy
phải bỏ việc. Không hiểu tại sao, bỗng nhớ lại mùa đông 1950 Nguyên Hồng ở chiến
dịch Biên giới từ Cao Bằng về Nhã Nam. Bộ đội tặng nhà văn chiến lợi phẩm: đồ hộp,
mấy cái chăn dạ, đôi giày lính... Lại cấp một tù binh đi theo quẩy đổ đạc. Dọc
đường, Nguyên Hồng mua một con chó mực. Người lính tù, vai đòn gánh, tay dắt
chó, ròng rã ngày đi đêm nghỉ, về đến nhà, Nguyên Hồng mòi anh lính làm một chầu
tuý luý. Anh ta ngủ lại một đêm, hôm sau, Nguyên Hồng dặn một câu ngớ ngấn:
- Về nhà nhá, đừng lên trại giam nữa mà khổ.
Bây giờ Nguyên Hồng lại lên Nhã Nam.
Thế ra hôm ấy Nguyên Hồng mời tôi bữa chả chia tay. Tôi vẫn
lơ lửng không tin Nguyên Hồng lại lên Nhã Nam. Nhưng mà sự việc đã thật như thế.
Nguyên Hồng vốn quyết đoán. Thầy nó mà đã định, thì trong nhà ai nấy chỉ việc
làm theo.
Cả tính toán chi tiêu mắm muối, Nguyên Hồng đi chợ lo liệu lấy,
nếu không chị ấy cũng bảo các con: Đã hỏi thày mày chưa.
Trở lại Nhã Nam, trong khi ở đây nhà đã yên nơi ăn chốn ở và
trường lớp các cháu đi học, chị ấy đã có việc làm. Nhưng nhất định không ở nữa.
Thế là bỏ hết, lại lên Nhã Nam, ấp cầu Đen, ấp đồi Cháy, lại ở cái đồi như những
năm tản cư. Gia đình người chị Trần Văn Cẩn, nhà Tạ Thúc Bình, nhà Kim Lân -
khi ấy, bác Ngô Tất Tố đã mất và tất cả các nhà về xuôi đã lâu. Trên quả đồi
lưa thưa tre pheo còn lại lơ thơ mấy nhà người làng, cái trường học cấp 1, mái
lợp nứa, tường trình ụp xụp, quạnh quẽ. Lại vẫn ở cái nhà như từ hồi chạy Tây mới
tản cư. Nhà đường đất, bờ rào cắm hàng xương rồng ông, có vũng nước giếng đất
trong khe dưới chân đồi. Xa xa, trước mặt, bắt đầu nhấp nhô những cánh rừng thấp
trên Yên Thế Thượng. Đi vào đấy, giữa màu chàm âm u, không biết mấy ngày đường
qua Cầu Gồ, Na Lương sang đến Tràng Xá, Võ Nhai bắc Thái Nguyên. Những xóm hẻo
lánh người Ngái, người Nùng còn sót lại của tàn quân Lương Tam Kỳ và thời Đề
Thám mà mấy năm vừa rồi, chỉ khi nào Tây dưới cầu Đuống rập rình đánh lên Bắc
Giang, cơ quan báo Cứu Quốc chúng tôi mới phải chui rúc ẩn vào tận suối Lửa gần
cửa âm phủ ấy. Nhưng cũng chỉ ít lâu, rừng rậm âm u ngột ngạt quá, lại nhảo ra.
Nguyên Hồng về Nhã Nam. Chưa bao giờ nghe Nguyên Hồng trách
móc đổng giả chửi ai. Nguyên Hồng không có thói hai ba người tụ bạ bới móc người
thứ tư vắng mặt. Thỉnh thoảng về Hà Nội, làm sơ khảo, chung khảo các cuộc thi
sáng tác, các giải thưởng văn học và làm chủ tịch hội Văn Nghệ dưới Hải
Phòng... Được giao việc thì làm đến nơi đến chốn, nhận tiền công trả đàng
hoàng, các thứ của văn phòng lĩnh rạch ròi từng cái ngòi bút, một ram giấy. Hội
Nhà Văn Đức tặng Hội Nhà Văn Việt Nam 200 cái xe đạp Diamant mới cứng. Nguyên Hồng
được điện khẩn mời xuống công tác. ấy là việc dắt chiếc xe đạp đứng vườn hoa Cửa
Nam trò chuyện với người qua đường. Vô tuyến truyền hình của Việt, của Đức quay
giới thiệu nhà văn với tặng phẩm hữu nghị quốc tế.
Nguyên Hồng hồi ấy mới để râu, rõ ra phong thái học giả
phương Đông. Tuyên truyền thế thôi, cả hội chẳng được sờ vào vành bánh chiếc xe
nào.
Hai trăm cái xe lăn cả vào kho bộ Thương nghiệp. Nguyễn Tuân
hỏi mắng Nguyên Hồng:
- Đóng trò xong rồi, dắt mẹ nó cái xe ấy đi, đứa nào làm gì
được!
Nguyên Hồng cười vuốt râu, đánh trống lảng:
- Tớ lên phim còn nhiều phút hơn cái thằng phiên me vô danh
trong Cánh đồng ma đấy.
Nguyên Hồng không làm thế, nhưng lấy công tác phí, đòi trả
thù lao công tác đóng phim cẩn thận.
Năm sau, các cơ quan vận động giảm chính, giảm biên chế.
Nguyên Hồng ở tuổi 52, đương sức lực, hăm hở. Nguyên Hồng đã hưởng ứng phép nước,
xin được giảm biên chế, về hưu ngay. Nguyên Hồng nói:
- Cũng tiện. Khỏi phải ngửa tay nhận lương tháng, chẳng phải
vờ vẫn bịa đặt báo cáo công tác chẳng phiền ai.
Rượu vào, Nguyên Hồng cười hê hê:
- Ông đố đứa nào dám ra khỏi biên chế bắt chước được ông đấy?
Quả thật, xưa nay cũng chỉ có một Nguyên Hồng xin về hưu non
mà thôi. Nguyên Hồng là thế. Chẳng ghét ai thân ai, tưởng như vờn vỡ gần gũi rất
vui, nhưng vẫn là xa lánh một mình.
Hồi ấy, được tiền bản quyền bộ tiểu thuyết Cửa biển, Nguyên Hồng
chữa nhà. Chúng tôi lên đánh chén khánh thành dinh cơ mới. Vẫn ba gian nhà ở chỗ
cũ, nền đất, sân đất, được bó hàng gạch thềm. Dui mè xoan lẫn tre ngâm có chắc chắn
hơn. Mái tranh được thay ngói và bức tường hậu đã xây gạch thay tường đất trình
khác hẳn. Ngói tây không lót, chắc là mùa hè nóng phải biết. Tường mới mà đã thấm
nước mưa hoen ẩm lem nhem. Bàn viết vẫn kê dưới nhà ngang - chỉ là cái chõng
tre và chiếc chiếu. Nguyên Hồng trải chiếu ngồi khoanh chân xếp bằng, tập giấy,
lọ mực, cái bút sắt đặt trên mặt chõng. Từ thuở trẻ, khi ở dưới bãi Nghĩa Dũng
tôi vẫn thấy Nguyên Hồng ngồi nguyên thế như bao giờ. Nguyên Hồng cắt nghĩa rất
AQ về sự thoải mái của mình:
- Lúc thư dãn, kềnh xuống mặt chiếu trải đất, mát bằng mấy
xích đu rốc-keng-xe. Cái bàn viết không hay bằng cái chõng viết, tha hồ xê dịch,
chán cảnh rừng Yên Thế lại bê chõng về đằng này ngắm giàn mướp hương.
Trên mặt tường nham nhở, Nguyên Hồng treo hai bức sơn dầu của
Dương Bích Liên. Dương Bích Liên đã cho Nguyên Hồng một tranh sơn dầu hai đứa
trẻ gái gầy guộc xanh lét cả tóc. Tranh ấy treo cạnh bức sơn dầu Hào. Bức Hào của
Dương Bích Liên dự triển lãm năm ấy chỉ được treo ở chỗ tranh bị loại. Tôi đã
mua bức tranh bị loại về biếu Nguyên Hồng. Đưa được bức Hào lên Nhã Nam là một
công quả, không biết Nguyên Hồng đã vác bằng cách thế nào. Bức tranh to kín một
gian mặt tường. Nhưng ít lâu sau, tranh bị mốc. Nguyên Hồng lại khiêng tranh về
Hà Nội, nhờ Dương Bích Liên tân trang lại. Rồi thế nào không đem về nữa, và bây
giờ không biết bức tranh Hào lưu lạc ở đâu Cỗ thịt ngan của nhà, lại nồi bồ câu
hầm dưới bếp cũng cây nhà lá vườn. Chúng tôi ngồi trên tấm phản bên cửa sổ
trông ra sân. Râu Nguyên Hồng lởm chởm cứng quều, chưa dài hẳn. Bộ râu của
Nguyên Hồng nhiều giá trị thực dụng chứ không phải như râu những lão ở ẩn. Lưỡi
dao cạo hiếm, chợ cũng không có. Đôi khi, cơ quan phân phối một hai lưỡi.
Nguyên Hồng không còn sinh hoạt công đoàn vẫn được chia, nhưng cất công xuống tận
Hà Nội lĩnh một lưỡi dao cạo, ngại quá. Thế rồi bộ râu tự do trổ ra. Rồi lại gặp
cái tiện lợi khác. Cán bộ thuế hồi ấy khám rượu quốc lủi khá ngặt trên tàu hoả.
Nguyên Hồng đi đâu thường đem rượu nhà theo. Bỏ thêm vào hũ mấy cái vỏ quít
khô. Nhà thuế khám, Nguyên Hồng hạ chiếc bị trên vai áo nâu bạc xuống, một tay
khoảnh lại đấm lưng, một tay lôi hũ rượu. Đau lưng, đau lưng, phải có cái tang
thuốc ngâm gia truyền này mới được. Anh thông cảm!. Đến hồi có thêm bộ râu dài
hẳn hoi thì hũ rượu ngâm thuốc bắc vỏ quít cứ để trần ra trên ghế hàng tàu,
cũng chẳng ông nhà thuế nào ỡi ơi đến lão nhà quê ấy. Không mấy ai để ý trên bộ
râu nguy trang, hai con mắt còn nhanh như chớp.
Nguyên Hồng vểnh râu, hào hứng:
- Các ông xem cơ ngơi tôi thế nào? Đã hơn dinh Đề Thám chưa?
Hai cái tranh của thằng Liên treo thế, đắc địa nhất chứ. Bây giờ mà thằng Dương
Bích Liên trông thấy thì nó phải sướng tỉnh người.
Chị Hồng ở dưới bếp, nói chen:
- Thày nó nhà tôi nghe người ta nịnh, lấy hết cả tiền. Chứ
đám thợ ngoã bên ấy chỉ khéo nói, nhà với cửa chẳng ra sao đâu. Mưa to, mái hắt,
tường thấm nước, mà nắng thì nóng ơi là nóng. Cái mái nứa, mái rạ ngày trước
mát...
Nguyên Hồng bị cụt hứng, trừng mắt. Tức quá, môi bặp bặp
không nói thành tiếng. Nếu không có chúng tôi đương ngồi quanh mâm, thì không
biết có phải câu cắt nghĩa này không. Nguyên Hồng cất giọng hách, lấn át:
- Xà, mẹ mày biết đâu! Cầu kỳ lắm mới đón được hiệp thợ của
người ta. Chỉ nói một câu này là các ông đã phải kinh người rồi. Toàn tay thợ
con cháu các cụ đã cất dinh ông Đề, đã xây dựng doanh trại ông Đề Thám ở Cầu Gồ
đấy. Có thế tôi mới chịu khó chuốc về.
Chị Hồng im. Nguyên Hồng mà nói đến hơi hướng oai danh ông Đề
thì đến chúng tôi cũng chỉ biết lặng im. Có một lúc, tôi sang đầu nhà trông ra
góc sân chỗ cây mít. ở đấy có nếp nhà tranh cao ráo phủ kín rạ và lá cọ mới mọc.
Tôi hỏi:
- Ông bà định xây nhà nữa à?
Chị Hồng đáp:
- Không, đấy là của bộ đội.
- Cái gì của bộ đội?
- Đạn của bộ đội.
Trong gian nhà chất cao ngất toàn hòm đạn. Thế này, chỉ một
băng liên thanh, một quả bom vu vơ nào máy bay Mỹ choang xuống thì cả xóm đồi
ra tro, kể chi một nhà ông Nguyên Hồng. Sao không bảo bộ đội làm kho chứa đạn
xuống chỗ chân tre vắng vẻ, khuất nẻo bên kia. Tôi chưa kịp hỏi, chị Hồng lại
nhẹ nhõm, như không:
- Thày cháu cho bộ đội gửi đấy ạ.
Thày cháu đã bảo cho gửi thì thôi rồi. Thày cháu đã bảo mà.
Không bao giờ nghe Nguyên Hồng nói có khi lại đưa vợ con về
Hà Nội nữa. ở đây cũng vui thú và quen biết. Cả đời nay đây mai đó, lên Hà Nội,
xuống Hải Phòng, Nam Định, từ khi đem vợ con về dưa muối ở đất này chốc cũng đã
mấy chục năm qua. Cái khắc khoải chỉ vẩn vơ ở những người khách một đôi lần lên
đổi thăm chủ nhân thấy heo hút quá mà thôi. Chứ ông chủ thì ung dung thảnh thơi
- đến người ta phải khó hiểu. Bè bạn còn băn khoăn, thương cảm nữa, nếu nghe chị
Hồng than thở:
- Thày nó nay xuôi mai ngược chứ tôi ốm đau thế này, suốt mùa
rét ngồi cuốn sâu kèn hút lá cà độc dược chữa bệnh - tuổi đã nhiều, bệnh hen
càng nặng, tôi đến chết cũng không bao giờ ra khỏi cái đồi này mất.
Người con gái thành Nam ấy vẫn còn thuộc nhiều thơ Lưu Trọng
Lư, thơ Nguyễn Bính. Vợ chồng lấy nhau khi Nguyên Hồng bị đi phát vãng, vừa được
thả trên Bắc Mê về. Cái đận Mỹ bỏ bom Nhật, hai người ở dưới bãi Nghĩa Dũng chạy
bom đem lên Nghĩa Đô gửi tôi chiếc hòm khoá chuông, trong có bộ áo dài lụa vân
hoa cau, quần kếp trắng và đôi guốc Phi Mã cao gót.
Có lẽ Nguyên Hồng nhớ Hà Nội có mỗi một cái thú tẩm quất! ở xế
cửa ga Hàng Cỏ. Chỗ ngã ba đường trông sang ngõ Tức Mạc, đêm đến, trên vỉa hè
và dưới lòng đường, những cái chiếu trải, mấy người đàn ông mắt loà, như cóc ngồi
rao khàn khàn mèo gào: tẩm quất, tẩm quất. Chặp tối, rượu vào rồi, Nguyên Hồng
hay ra đấy tẩm quất. Đã quen, Nguyên Hồng cởi áo, quần dài gối lên đầu. Mình trần,
độc trụi cái quần đùi, nằm úp xuống chiếu. Trong ánh điện đường đỏ quệch, người
loà sờ sẫm bẻ khục răng rắc đốt chân, đốt tay, đốt lưng, vành tai, sống mũi kêu
lên như bẻ bánh đa. Ngoạn mục nhất đến cái mục người tẩm quất khẽ bảo Nguyên Hồng
ông lật người lên nào!. Nguyên Hồng sướng lử lả rên hừ hừ ngồi dậy. Người tẩm
quát nắm hai cánh tay ông khách lôi quặt lại, thúc đầu gối vào lưng. Đầu tiên
còn nhè nhẹ, rồi chỉ nghe tiếng hự hự. Không biết tiếng người ư ứ hay tiếng gối
thúc. Nguyên Hồng ưỡn oằn người theo từng cú đầu gối như cái đầu chày của người
tẩm quất. Hự hự, ghê cả tai. Nguyên Hồng rãn xương sống, nằm thẳng cẳng, rên ú ớ,
dễ chịu quá, sướng quá. Đến lúc mơ màng nghe tiếng ông lão loà lại rao tẩm quất,
tẩm quất như mèo kêu trên đầu lại cũng như nghĩa là xong rồi, xong rồi ra ý đuổi
khéo ông khách. Nguyên Hồng lồm cồm ngồi dậy, trả tiền rồi cứ vắt áo quần lên
cánh tay, lừ rừ đi. Nguyên Hồng bảo tẩm quất khỏi đau xương, tốt bằng mấy thuốc
ngủ. Đẫy giấc lắm, mà không phải tống cái chất độc hoá học vào bụng. Có thể như
thế. Chưa bao giờ Nguyên Hồng đi bệnh viện. Nguyên Hồng không lĩnh sổ khám bệnh.
Tôi còn chứng kiến một đêm Nguyên Hồng tẩm quất kịch liệt ở chợ Kỳ Lừa. Chuyến ấy,
Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng đi chơi nhờ xe của thanh tra Vạn Lịch. Ra Móng Cái rồi
theo đường Đình Lập, Bình Liêu lên Lạng Sơn. Chúng tôi nghỉ trọ ở cái quán cạnh
chợ Kỳ Lừa. Xẩm tối, Nguyên Hồng đứng bên cửa sổ tha thẩn nhìn ra những mái cầu
chợ ụp xụp, rêu đen. Bỗng kêu rối rít:
- Bỏ mẹ rồi, bỏ mẹ! Chỗ khỉ ho cò gáy cũng có thằng tẩm quất!
Đợi tớ xuống làm một quắn xúc miệng đã rồi hãy cơm nước nhé.
Nguyên Hồng xông ngay vào cửa chợ. Người các làng bản xa về
đêm đợi mai phiên đã đông dần, tiếng vó ngựa đập cộp cộp trước quán phở chua đã
lên đèn. Trong cầu, trai gái hát đúm vừa cất giọng. Tiếng đàn tính rơi rơi như
nước giọt gianh. Mặc kệ, Nguyên Hồng xà ngay vào một bác loà mắt đương ngồi bó
gối mặt tây ngây ngoài thềm. Nếu không đã thạo, có thể nhầm là lão ăn mày.
Không có chiếu, khách tẩm quất nằm xuống đất. Nhưng Nguyên Hồng đã cầm xuống sẵn
hai tờ báo, trải ra. Lắc cổ, bẻ vai, tấn đầu gối lên lưng, khắp người xương cốt
kêu lách tách, chẳng khác ở ga Hàng Cỏ. Hay vẫn là những lão loà ấy đã thuộc
tàu các ngả, đúng phiên chợ Kỳ Lừa, lại mò lên đây làm ăn.
Tôi bảo thế với Nguyên Hồng. Nhưng Nguyên Hồng xua tay:
- Không phải, tớ ngấm đòn tẩm quất nhiều rồi, tớ biết. Thằng
lão sư tẩm quất thổ mừ này tuyệt diệu. Đây gần biên giới, nó lồng cả võ Tàu
vào. Mai phải làm quắn nữa.
Chao ôi, có người khoái tỷ được cái tẩm quất tra tấn, cũng là
cái thú Hà Nội. Nguyên Hồng ấy chứ còn ai, khi nào tôi cũng cứ ngờ ngợ có thật
không. Nhưng tôi lại tin cái khí phách của con người một mình một tính ấy.
CHƯƠNG 3
Chuyến tàu hoả từ Nôm Pênh ra đến Poipet vừa chập tối. Bấy giờ
vào mùa thu 1930. Đường sắt tà vẹt tám thước Nôm Pênh vừa hội khánh hành đoạn
cuối nối với bên Xiêm ở Poipet còn như chạy thử, vài ngày mới có một chuyến
không nhất định. Bên Xiêm vẫn tăng bo một quãng chưa nối thẳng được xuống Vọng
các.
- Những chuyến tàu thất thường này xộc xệch, còn thưa khách.
Chỉ có người đi buôn hay phu phen rừng cao su ra. Lắm hôm vào ga thị trấn
Poipet, chỉ còn vài người trên tàu xuống. Hôm ấy cả một toa hạng tư, có ba người.
Một người luống tuổi xách cái bị, mặc áo bà ba xuyến đen đã bạc, râu ria lởm chởm.
Dáng như một người ở đây về trong xứ có việc, bây giờ trở lại. Hay một chủ hiệu
tạp hoá, một người cai ở đồn điền cao su ra chợ thị trấn cất hàng.
Đoàn tàu vắng khách dần dần cắt toa bỏ lại ga xép dọn đường.
Bác ấy bị dồn ở toa nào mới lên thôi. Chiếc đầu máy kéo vài toa hủn hoen, như
con chuồn chuồn cụt đuôi. Bác ấy ngồi một xó đầu góc ghế một bên hàng tàu, lấy
trong bị ra một gói giấy và thuốc lá sợi, cắm cúi cuộn thuốc, không để ý ánh mặt
trời đã vàng vọt trên những đám lá cao su ken dầy xanh xẫm loáng thoáng ngoài
kia. Người đã thông thuộc thổ ngơi này biết tàu sắp vào ga cũng chẳng buồn ngoảnh
mặt ra cửa sổ.
Cuối hàng ghế có hai người trẻ tuổi. Chiếc nón cu li đã sờn
vành rấp dưới gầm ghế. Chân đi đất, bụi lấm đỏ bám lên cả hai gấu ống quần cháo
lòng. Có thể đoán đấy là những phu đồn điền gần đây. Cũng có thể người tỉnh xa,
các đồn điền cao su dưới Chúp tận Côngpông Chàm hay bên Batambang. Nhưng họ đi
chơi, hay trốn công ta hay mò ra đây rình chạy sang Xiêm, thì không biết. Hai
người mặt non choẹt, chưa chắc đã được hai mươi tuổi. Chốc chốc họ lại thấp thỏm
nhìn ra. Còi tầu rúc vang động, tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray dồn dập.
Tàu sắp vào ga.
Bác đứng tuổi đằng kia ngước lên, điếu thuốc lá quấn cắm vênh
trên môi, đăm đăm mắt nhìn sợi khói uốn éo tuôn đằng mũi. Rồi bác đứng dậy,
thong thả bước lại chỗ hai anh chàng cũng đương tò mò và hình như ngần ngại
nhìn bác phập phèo thở khói thuốc. Một người hỏi trước:
- Thưa ông, có phải qua ga này thì xuống Poipet ạ?
- Phải đấy.
Bác ta bặp môi rít thuốc, nhìn hai người:
- Các cậu xuống Poipet à?
- Thưa vâng.
- Có người nhà ở phố hay các cậu trong đồn điền ra chơi? ở
đây nghe nói tiếng Bắc người ta hay hỏi thế. Mới đến Poipet lần này là một à?
Câu hỏi đoán tự nhiên, thân mật và đúng đến thế.
- Thưa thực với ông, chúng cháu làm dưới cao su Lộc Ninh.
Nghe nói trên này dễ dàng, có mỏ ngọc Pai Linh kiếm ngày bạc trăm. Chúng cháu rủ
nhau lên.
Bác ấy cười khậc khậc, vứt cái đuôi thuốc qua cửa sổ.
- Các cậu này to gan, liều quá. Chẳng biết mô tê mà cũng lang
thang đồng đất nước người thế này. Không có xứ nào kiếm ra cái bỏ vào mồm dễ
như cái đứa xui khôn xui dại các cậu thế đâu. Lại còn định lên Pai Linh đi đào
ngọc à? Có chịu được hai cơn sốt đái ra máu không? Cả trăm người đã chạy chết
trên Pai Linh về đấy.
Hai người trai trẻ nọ được một bài học rùng mình càng như từ
trên trời rơi xuống. Nhìn nhau phân vân, hốt hoảng, mỗi lúc một đăm chiêu. Họ vừa
có ý sợ nhưng cũng lại có phần cố vờ ra như thế một cách vụng về. Chưa chắc họ
đã đi Pai Linh. Cứ nói Pai Linh để người ta biết vẫn là trong đất Miên, bởi vì
có thẻ căn cước thì đi khắp Đông Dương được. Thật ra, họ đã rắp tâm trốn sang
Xiêm.
- Bảo thực, nhưng các cậu có nghe thì mới nói.
- Nhờ ông bảo cho.
- Phải mạnh bạo.
- Chúng cháu đã lần mò lên tận đây.
- ừ, kể ra cũng biết thí mạng đấy.
- Vâng ạ.
Rồi bác ấy nói:
- Này, có dám sang Xiêm không? Sang hẳn Xiêm, mà đến hẳn Vọng
Các. ở Vọng Các, ăn mày cũng sướng gấp nghìn đời thằng cu li đồn điền bên ta,
ai cũng giàu vù vù lên như đi tàu bay. Tôi đã giúp cho nhiều người sang Xiêm.
- Ông giúp cho chúng cháu.
- Sao bảo đi Pai Linh?
- Pai Linh hay Vọng Các thì cũng thế, đâu kiếm được miếng sống.
- Được, được. Trả công tôi là được. Cứ chẻ hoe ra như thế,
ông Khổng Minh, thằng Tào Tháo bây giờ cũng lĩnh lương tháng của Tây chứ không
như đời Tam Quốc đâu.
Chẳng biết trả lời thế nào, hai người lúng túng dạ, dạ...
vâng...
- Dặn thì nhớ nhé. Đến ga xép này thì xuống. Chứ vào Poipet
lính sen đầm nó thộp ngực ngay ở cửa toa, biết không.
- Vâng ạ.
Ba người xuống một ga xép cách Poipet ba cây số. Cũng may, tối
lại có trăng. Bác ấy khoác cái bị, điếu thuốc lá phập phèo, hai người đi theo,
vắng ngắt, chỉ có bóng cây. Họ vào đường qua rừng cao su.
- Đi tắt, một quãng nữa tới biên giới. Tôi sẽ chỉ chỗ lên tàu
bên kia. Sang bên ấy rồi thì dễ, không như cái thằng Tây mắm tôm bên này. Lính
Xiêm đi tuần cũng lẩm nhẩm niệm Phật ấy mà. Nếu gặp, cứ dán cho mỗi thằng một tờ
giấy bạc vào mồm. Chúng nó cầm bạc rồi lại rì rầm niệm Phật. Hay thế đấy. Các cậu
cứ việc đi. Trưa mai thì đến Vọng Các. Có bao nhiêu tiền?
- Chúng cháu còn hơn hai chục.
- Mỗi chuyến thế này người mối phải ăn bạc trăm. Nhưng thôi,
giời phật phù hộ các cậu gặp tôi, tôi làm phúc, tôi giúp không các cậu.
- Đội ơn ông.
- Còn bao nhiêu tiền, đưa cả ra đây. Sang bên ấy không tiêu
được tiền ta, mà cũng chả cần. Tôi cho các cậu tiền Xiêm, cho vé sẵn đến Vọng
Các.
- Ông giúp chúng cháu. Ông có quen...
- Không, không. Tôi không quen ai ở Vọng Các. Mà đến Vọng Các
cứ ngửa tay ra là có gạo, có tiền thôi.
- Đội ơn ông.
Xa xa, ánh điện ánh lên một vùng.
- Đấy tàu hoả bên Xiêm đỗ chỗ sang sáng ấy. Cứ trông đèn điện
mà qua cánh đồng hoang, không vướng làng mạc phố sá gì đâu. à, cậu nào có đồng
hồ đeo tay không, có thì phải để lại. Bên Xiêm, tiền khác, đồng hồ khác.
- Chúng cháu không có đồng hồ.
Bác ấy đưa mấy tờ giấy bạc Xiêm và vé tàu. Hai người lục các
túi moi ra số tiền còn lại.
- à, để cái nón đây, vứt đi. Không có sen đầm thấy nón biết
người bên này sang. Mà nó có hỏi thì bảo ở Poipet. Hai bên vẫn qua lại mà. Bác ấy
còn nhìn theo. Hai người đi rồi mà vẫn nghĩ gặp may, được người tốt chỉ vẽ cho.
Nhìn phía ánh điện hẩng sáng, rảo bước.
Hai người trai trẻ vừa qua biên giới sang Xiêm ấy là Nguyễn
Tuân và Lương Đức Thiệp. Hai cậu học một lớp năm thứ ba trường Ca rô Nam Định.
Lại cùng tham gia bãi khoá. Chả là lão giáo Pôn mũi đỏ mới đổi về, động lên lớp
là chửi học trò những câu thậm tệ: mẹc xà lù, côsoong san An na mít (Đồ đểu,
con lợn, giống An Nam bẩn thỉu). Suốt buổi, Pôn mũi đỏ văng loạn xạ thế. Cả lớp
hò hét bỏ ra về, đòi đuổi Pôn mũi đỏ rồi mới học. Rốt cuộc, Pôn mũi đỏ vẫn đến
trường và vẫn chửi bới trong lớp. Trong khi nhà trường báo mật thám bắt mấy người
học sinh đầu têu đem giam xà lim. Mật thám Tảo gọi bọn Nguyễn Tuân lên bàn giấy
đe nẹt rồi cả lũ bị đuổi học.
Cuối năm 1944, tôi bị mật thám Nam Định bắt về vụ Văn hoá Cứu
quốc. Vẫn còn phán Tảo ở đấy. Chúng tôi, đôi khi lẩn thẩn điểm lại những mặt
người mặt chó, Nguyễn Tuân lại nhớ phán Tảo. Lão phán Tảo nho nhã, trắng trẻo, áo
đoạn khăn xếp, ăn nói mềm mỏng. Nhưng quay điện, ống nước, treo xà nhà, các
ngón của phán Tảo thì hiểm ác khét tiếng. Cũng như ở ty mật thám Nam Định có
tên Đỉnh ác ôn có hạng. Nhưng Đỉnh lại một phép sợ người vợ đồng bóng.
Hai người học trò bãi khoá đã bàn nhau một chuyến phiêu lưu
phía tây Cao Miên giáp nước Xiêm La có mỏ hồng ngọc ở Pai Linh Nguyễn Tuân cũng
không nhớ ai đã nghĩ ra được cuộc đi mạo hiểm này. Nhưng có thể bởi những uất ức
khi bị đuổi học, cuộc sống tinh thần tuổi trẻ tù túng, cùng quẫn. Như cách nghĩ
bồng bột tưởng tượng, bước chân đến những nơi xa xôi tên là Pai Linh, là Xiêm,
là Vọng Các, là châu Phi, châu Mỹ. Ôi chao mộng lên hương đổi đời. Nhưng cái sự
bắt đầu cũng chẳng đẹp đẽ mấy. Bấy giờ, hai cụ đã cho vợ chồng Nguyễn Tuân ra
làng Hạc ở riêng. Để làm lộ phí, Nguyễn Tuân đã phải lấy đi hoa tai, khuyên
vàng của vợ. Rồi Lương Đức Thiệp và Nguyễn Tuân vào phía Nam, quãng tàu hoả,
quãng tăng bo ô-tô đến Sài Gòn. Bỏ đường lớn đi Nôm Pênh, đáp xe lửa lên Lộc
Ninh. Lại vòng về Tây Ninh, qua Sa Mát sang Kông Pông Chàm. Bắt chước những nhà
thám tử, những nhà cách mạng bí mật đấu trí đấu tài đọc thấy trong sách. Lặn lội,
vạ vật đường trường, vừa ngại ngùng vừa háo hức.
Chuyến tàu hoả ấy rầm rập suốt đêm xuống Vọng Các. Họ không
chợp mắt được. Hãy còn hồi hộp vì may mắn và tự khen đã khôn ngoan, khéo léo
che mắt được mật thám. May mắn, đã bình yên ra khỏi xứ Cao Miên. Đến nửa buổi,
tàu vào thành phố Vọng Các. Hai người ngơ ngác đến giữa nơi chưa biết bao giờ.
Xung quanh, trong ga lớn, những đám người Xiêm, người Tàu, người Việt hỗn độn,
tíu tít. Bốn cảnh sát Xiêm áo quần trắng toát, mũ viền kim tuyến và một đám
lính vác súng trường quây đến.
Một người nói tiếng Việt hỏi:
- Chúng mày là thằng Tuân, thằng Thiệp?
Đúng tên cúng cơm. Lính cảnh sát biết rồi, chỉ hỏi làm phép
thế. Lúng túng, chưa biết trả lời sao, đã bị thừng trói giật cánh khuỷu cả hai
lại. Báng súng thúc vào lưng, đẩy đi bộ qua các phố đông tấp nập.
Đến cả tháng, Nguyễn Tuân và Thiệp bị giam chung với những tội
phạm người Xiêm. Không ai vào hỏi, cũng không biết sự tình bị bắt vì sao. Nhà
giam, một phòng rộng kín ba phía. Mặt trước không có tường nhưng rấp hai lượt
dây thép gai mắt cáo. Một bốt lính gác đổi phiên cách bức ngoài sân xi măng.
Nguyễn Tuân thường kể lại cái cảnh liêu trai quái đản đã
trông thấy ngày đêm trên nhà gác trước mặt. Chẳng biết nhà giam hay nhà điên,
trong cửa chấn song nhốt toàn đàn bà. Những người đàn bà lùn tròn, trần truồng
như nhộng đứng bám song sắt ngó xuống lồng giam rặt đàn ông dưới này. Không hiểu
sao không ai có váy áo. Chẳng lẽ bức bối quá, người ta đã cởi hết, xé hết. Chỉ
khổ đám đàn ông trong lồng sắt dưới này ngước lên lúc nào cũng thấy trên ấy nồng
nỗng trắng phốp, lông lá rậm rạp đen ngòm lượn qua lượn lại Có thằng dưới này
chốc chốc lại gào toáng, dứt phăng quần tung lên. Trên dưới hò hét loạn xạ cơ hồ
hoá dại cả.
Một hôm, cảnh sát đột ngột mở cửa buồng giam, cầm dùi cui làm
hiệu lùa Tuân và Thiệp ra. Hai người bị xích một cánh tay với nhau, trèo lên
cái xe bò kéo, có lính ngồi cùng thùng xe. Xe bò lắc lư qua mấy phố dài, xúm
xít người chạy theo xem ra tận ga tàu hoả. Cảnh sát đẩy hai người lên một cái
toa đen rồi khoá trái cửa lại. Không có người, lỉnh kỉnh những thùng gỗ, bao bố
tải, toa bưu kiện của nhà dây thép. Nhìn hàng chữ tiếng Anh quét sơn trắng cửa
toa, đoán đoàn tàu chạy Băng Cốc - Poipet.
Đúng, trở lại Poipet. Chỉ có một việc kinh hoàng mà hai chàng
thanh niên mơ mộng chưa tưởng tượng ra được. ấy là lúc được dẫn vào đồn biên
phòng Poipet trông ngay thấy cái bác tử tế gặp hôm nọ, cũng đương hút thuốc lá
quấn, ung dung trong đám quan lính đồn binh. Chỉ khác bác ta hôm nay ăn vận chững
chạc. Râu ria nhẵn nhụi, quần áo tây vàng đầu đội mũ cát, đi giày ba ta trắng.
Bác mật thám ấy bước đến, mặt tươi tỉnh như đã quen. Lại làm
bộ nắm cánh tay bên không bị xích và hỏi một câu tỉnh bơ:
- Các cậu đến được Vọng Các rồi à?
- Biết nhổ vào mặt hay biết trả lời thế nào?
Nguyễn Tuân và Lương Đức Thiệp bị giải về Nôm Pênh trong cái
ô-tô tải bịt lưới sắt đằng sau - như con vượn, con đười ươi người ta mới bẫy được
trong rừng đem về thành phố. Mà cái xe ấy cũng vừa tới Poipet, bụi đỏ xuộm tận
nóc. Nó là cái xe cây của cảnh sát chuyên để bắt nhốt người, nhốt chó. Buổi
sáng ở Nôm Pênh và các tỉnh đều có xe cây và những chiếc xe bò kéo đủng đỉnh, cảnh
sát rà vào ngõ ngách các phố bắt chó hoang vứt lên xe, ra thả ngoài đồng. Người
Miên mộ đạo Phật, không nuôi chó, cũng không thịt chó. Chó hoang ở đường ở chợ
lúc nhúc hàng đàn. Ngày lại ngày đội sếp bắt chó đem thả ngoài xa, rồi chó lại
lỉnh vào, vẫn lông nhông khắp nơi, ở xó chợ Mới giữa thành phố Nôm Pênh còn
nhung nhăng những đàn chó con.
Đến Nôm Pênh, vẫn bị còng tay vào nhau như thế và tống ngay
xuống Sài Gòn. Lại cái xe cây khác. Rồi bị giam ở bóp cảnh sát Xóm Chiếu. Đấy gần
bến tàu, hôm sau giải ra Hải Phòng, Tuân và Thiệp ngồi trong hầm tàu viễn dương
Chantilly. Hãng vận tải biển Đầu Ngựa Năm Sao có nhiều tàu đường Macxây - Sài
Gòn. Hai chiếc Đactanhăng và Chantilly chuyên đi về Hải Phòng - Sài Gòn, thỉnh
thoảng mới ra đại dương. Hồi xuống Hải Phòng tìm việc làm, tôi hay vơ vẩn ngồi
mép nước cảng Sáu Kho xem tàu Đáctanhăng đỗ ở đấy, trắng toát như cái nhà táng.
Chàng mã thượng phong lưu Đactanhăng trong tiểu thuyết Ba người ngự lâm pháo thủ
hân hạnh được con tàu đồ sộ mang tên. Hình như còn có cả tàu Tốt, tàu Aramit...
Tôi không được trông thấy tàu Chantilly bao giờ. Thế mà lại nhớ Chantilly. Bởi
vì thế là đã hai lần nghe nói đến con tàu Chantilly. Chỉ trong câu chuyện mà tưởng
tượng ra mình cũng đã tận mắt thấy. Tập Thơ say, Vũ Hoàng Chương bỏ tiền in, nhờ
nhà xuất bản Cộng Lực phát hành, có bài thơ Tặng con tàu Chantilly, đấy là bông
hoa của một chuyện tình cờ gặp gỡ. Thời kỳ này Vũ Hoàng Chương làm sở hỏa xa
Đông Dương. Trong một chuyến tàu suốt Sài Gòn - Hà Nội, người thanh tra kiểm
soát viên tài hoa đã làm quen với một hành khách toa hạng nhì sang trọng mà Vũ
Hoàng Chương bảo gọi tên nàng là Marie, là Juylie, là Vêronica, cũng đều được.
Người đầm ra Hà Nội xuống Hải Phòng đáp tàu Chantilly, chẳng rõ nàng trở lại
Sài Gòn hay về Pháp chỉ biết mối tình trên tàu hỏa chỉ ngắn ngủi thế. ấy là
trang nhật ký thơ Vũ Hoàng Chương kỷ niệm theo con tàu.
Những câu chuyện tình dài tình ngắn thuở ấy. Triền miên những
đêm nhà hát Vạn Thái hay Vĩnh Hồ, những tuyệt vọng và những bài thơ, những chuyện
có thật và những tô vẽ cho hoa mỹ. Nguyễn Bính thì cố nhân Hương, Hương cố
nhân, Đinh Hùng thì em Liên Hàng Bạc, người đẹp biết thổi acmônica như ngọc nữ
xuống trần gian thổi sáo gọi nhau. Những búp hoa quỳ trắng này Liên mang đến
mùa hạ, giờ đã sang thu, cuống hoa đã héo quắt trong chiếc độc bình mà em thì,
Liên thì đã nằm dưới mộ - thời ấy, quả là trai gái hay chết yểu, không mấy người
sống lâu như bây giờ. Vũ Hoàng Chương thì Tố Uyển, Tố Uyên. Tàu Chantilly, chỉ
là một thấp thoáng chiêm bao, Tố của Hoàng ơi thì vẫn neo lại trong tâm tình.
Nhưng những bài thơ còn đấy mà nàng thì đã lấy chồng. Các chàng lạy nhau, tôn
nhau lên thành đấng rồi vừa khóc vừa đọc thơ, nghe tiếng trúc Cao Tiệm Ly thổi
khi Kinh Kha qua sông Dịch. Những bài thơ tuyệt vọng cứ tưởng tượng ra như thế.
Tôi mới viết truyện ngắn ông giăng không biết nói đăng tuần
báo Tiểu thuyết Thứ bảy. Gã yêu em. Em sắp về nhà chồng rồi mà cứ trơ trẽn như
không. Đêm hội chèo, tay đôi đưa nhau ra ngoài đồng, bên cái giếng thơi đầu
xóm. Gã gặng hỏi. Nhưng em lắc đầu bảo không, rồi khóc. Mọi khi thì chẳng dám
nói. Nhưng hôm ấy thong thả phiên chợ tơ, lại có chèo hát sân đình, gã hơi ngà
ngà một chút. Gã sửng cồ lên:
- Ông biết thừa ra rồi. Ông hỏi thử chơi đấy thôi. Ông biết
mười hai tháng sau cưới mày. Đồ khốn nạn!
Người con gái vùng chạy. Gã say rượu khát cháy cổ, cúi đầu hớp
nước ngã lộn xuống, chết đuối trong giếng. Thế rồi ngày 12 tháng sau, ả nọ về
nhà chồng. Từ đấy, mỗi lần về xóm nhà mình không bao giờ ả dám đi tắt cánh đồng
qua lối men bờ giếng. Nào ai biết đâu cái chết thương tâm của người con trai.
Nông nỗi đêm ấy chỉ có mỗi một ông giăng chứng kiến. Thì ông giăng lại không biết
nói.
Trong nhà hát ở Vĩnh Hồ, Vũ Hoàng Chương chắp tay bái tôi:
- Lạy huynh, huynh nhất thiên hạ, huynh đã rõ tâm tình đệ.
Ông thử hỏi chơi đấy thôi. Ông biết mười hai tháng sáu thì cưới mày... Ha ha, lạy
huynh...
Tôi bảo:
- Mắt ông viền vải tây hay là chữ in sai đấy.
Câu trong truyện của tôi là mười hai tháng sau, không phải mười
hai tháng sáu, không phải....
Vũ Hoàng Chương cãi:
- Không, mười hai tháng sáu mới đúng cái đau của đệ, huynh đã
cho đệ nén hương mười hai tháng sáu, không, mười hai tháng sáu..: huynh cứ cho
đệ đọc cái ngày tuyệt mệnh ấy là mười hai tháng sáu của đệ.
Làm thế nào cãi, mà cãi làm gì. Chầu hát suông, người ả đào
và chú kép xách đàn sang nhà khác đã lâu. Chúng tôi lại uống bia đen, nghe
không biết bao nhiêu lần Vũ Hoàng Chương rên rỉ bài thơ Riêng tặng Kiều Thư:
Trăng của nhà ai? Trăng một phương!
Nơi đây rượu đắng m ưa đêm trường ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi, hỡi nhớ thương Là thế! Là thôi! Là thế đó!
Mười năm thôi thế mộng tan tành Mười năm, trăng cũ ai nguyền
ước Tố của Hoàng ơi! Tố của anh Tháng sáu, mười hai, từ đây nhé Chung đôi từ
đây nhé, lìa đôi Em xa lạ quá, đâu còn phải Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi Men
khói hôm nay sầu dựng mộ Bia đề tháng sáu, ghi mười hai Tình ta, ta tiếc, cuồng,
ta khóc Tố của Hoàng nay Tố của ai Tay gõ vào bia mười ngón rập Mười năm theo
máu hận trào rơi Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp Khúc Cổ Bồn ca gõ hát chơi Kiều
Thu hề Tố em ơi!
Ta đương lửa đốt tơi bời mái tây Hàm ca nhịp gõ khói bay Hồ,
xừ, xang, xế, bàn tay điên cuồng Kiều Thu hề trọn kiếp thương Sầu cao ngùn ngụt
mấy đường tơ khô Xừ xang, xế, xứ, xang, hồ Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên Kiều
Thu hề Tố hỡi em Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bừng Xê hồ, xang... khói mờ
rung Nhịp vương sầu toả năm cung ngút ngàn Cái tàu Chantilly tải tù Nguyễn Tuân
và Lương Đức Thiệp từ Sài Gòn ra. Sự đời đưa đẩy, cũng một con tàu mơ mộng
Chantilly ấy mà trước kia đã có lần nhốt hai người phiêu đãng ngồi dưới hầm
than. Tới Hải Phòng, lên Hà Nội rồi Nguyễn Tuân bị giải về Thanh Hoá. Giam một
năm nữa mới được thả, lại bị quản thúc tại gia, đi đâu phải trình báo quan sở tại.
Đấy là dư âm cay đắng của chuyến lên đường thứ nhất trong đời thiếu quê hương của
Nguyễn.
Nguyễn Tuân viết sớm mà lại cũng là muộn. Những truyện và ký
cuối thập kỷ ba mươi in trên các báo Tiểu thuyết Thứ bảy, tạp chí Tao Đàn không
phải những bài đầu. Trên báo An Nam Tạp chí của Tản Đà, báo Đông Tây của Hoàng
Tích Chu, Nguyễn Tuân đã in những bài ký, những truyện ngắn đầu tay khi còn ở
Thanh Hoá làm phóng viên tỉnh lẻ nhặt tin đếm chữ ăn tiền cho báo Trung Bắc Tân
văn. Biết đâu, những sáng tác chưa định hình đã thấp thoáng mơ màng từ trường
trung học Nam Định. Có thể sớm hơn, khi còn học trường tiểu học Trương Minh
Sang phố Hàng Vôi trên Hà Nội. ở những thời kỳ, các cơ quan Nhà Nước đều quần tụ
giữa thành phố. Kho bạc ở vườn hoa Nhà Kèn bên hồ Hoàn Kiếm. Sở Tài chính phố
Hàng Trống - toà báo Nhân Dân bây giờ. Cả đến nhà lục xì - nhà thương chứa bệnh
hoa liễu cho gái điếm và khách làng chơi xây năm 1902 cuối phố Huế, năm 1926,
Toà đốc lý cho chuyển nhà lục xì lên phố Trường Thi - bệnh viện C ngày nay. Chỗ
cũ thành trường tiểu học Ô Cầu Dền, nhưng người ta vẫn gọi là trường Lục Xì.
Trường tư thục Trương Minh Sang mở cuối 1923 nhận học sinh đến lớp 3 đi thi sơ
học yếu lược. Năm 1929, một người Pháp mua giấy phép trường này dời lên phố Phủ
Doãn, mở mang, đổi tên thành trường trung học Gia Long. Hết lớp ba trường
Trương Minh Sang, Nguyễn Tuân về học ở Nam Định. Nay đây mai đó cũng là gia
đình theo công việc của cụ tú Hải Văn.
Nguyễn Tuân không khi nào nói lại những sáng tác chập chững mờ
nhạt thuở ấy và bạn đọc thực sự làm quen với Nguyễn Tuân khi xuất hiện bài Khóc
Vũ Lang trên tạp chí Tao Đàn năm 1936, ký tên độc một chữ Tuân.
Vũ Lang, cây bút mới nổi vài truyện ngắn, mất bệnh năm 24 tuổi.
Nguyễn Tuân khóc bạn và Nguyễn Tuân còn thương tiếc một lối văn biền ngẫu diễm
lệ của Vũ Lang mà Nguyễn Công Hoan cũng rất chuộng. Truyện ngắn Khóm trúc thêm
tuôn dòng lệ cũ của Vũ Lang, mở đầu những câu thánh thót:
Rằng xưa vốn người Kẻ Chợ... Hàng Châu, Hàng Châu có cảnh Tây
Hồ. Phong cảnh Tây Hồ có Tam đàn ấn nguyệt, vài ba tảng đá trên làn nước bập bềnh.
Làn nước Tây Hồ bập bềnh trên tảng đá. Khóm trúc đượm hạt mưa xuân trước gió. Hạt
sương rơi tơi tả... tơi tả Những bút ký, truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn
Tuân liên tiếp trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy, báo Thời vụ, báo Bạn Đường,
báo Hà nội Tân Văn, tạp chí Tao Đàn, các tập Giai Phẩm của nhà xuất bản Lượm
Lúa Vàng, của Văn đoàn tự lực. Và các tập bút ký, truyện ngắn, truyện dài Vang
bóng một thời. Một chuyến đi, Tàn đèn dầu lạc, Tuỳ bút 1, Tuỳ bút 2, Thiếu quê
hương (nhà Anh Hoa in bị kiểm duyệt bỏ một chữ thiếu), Chiếc lư đồng mắt cua,
Chùa Đàn của các nhà xuất bản Tân Dân, Mai Lĩnh, Cộng Lực, Anh Hoa, Hàn Thuyên,
Thời Đại...
Đầu năm 1946, tôi quen Nguyễn Tuân trong một cuộc họp hội Văn
hoá Cứu quốc, chỗ nhà Khai Trí Tiến Đức bờ hồ Hoàn Kiếm rồi sau chuyển xuống đầu
phố Ôn Như Hầu gần hồ Thiền Cuông. Nguyễn Tuân rủ tôi lên nhà Thuỷ Tạ. Lúc uống
bia, Nguyễn Tuân hỏi tôi:
- Có phải Lương Đức Thiệp chết rồi?
- Tôi không biết.
Nguyễn Tuân vẻ không bằng lòng.
- Cậu làm bảo của Việt Minh mà không biết à?
Tôi không biết thật. Một dạo thấy hay đến chơi với Phạm Ngọc
Khuê chỗ tôi ở gần chợ Hôm. Nguyễn Tuân dường như không tin. Nguyễn Tuân thường
có những nghi ngờ và quyết đoán chủ quan tương tự. Rồi cũng không nói đến việc ấy
nữa. Câu hỏi đột ngột và chỉ có thế.
Đêm Nôen 1972 chúng tôi đi dạo phố rồi nửa đêm về nhà thờ
Hàng Trống. Nguyễn Tuân và tôi cùng hai bạn nhà văn Liên Xô đương thăm Việt Nam,
Eptuchenkô và Marian Tkchôp, giỏi tiếng Việt.
Tôi đã được xem Eptuchenkô đọc thơ ở Bây-rút, thủ đô Li Băng.
Người không biết tiếng Nga cũng phải chăm chú - nói là Eptuchenkô biểu diễn thơ
thì đầy đủ hơn. Bây giờ gặp lại, có những việc nửa vui nửa buồn. ở khách sạn Thống
Nhất một tối hôm sau Eptuchenkô nói đùa:
- Tôi chưa bỏ vợ, mà đêm qua đã phải lấy vợ mới.
ý nói đêm qua Eptuchenkô ngủ chung buồng với Marian. Manan đã
ở khách sạn này nhiều lần, đoán được cái phòng ở tầng một ấy loại mấy và thế là
biết cách chủ nhà đối đãi với mình. Marian im lặng. Nhưng đến khi chạy cho hai
người được hai phòng, lại gặp rắc rối mới. Nhưng rắc rối vui vui. Eptuchenkô
cao quá một thước tám mươi. Phải nằm chéo và ghếch chân lên thành giường. Rồi
cũng đổi được cho nhà thơ ấy cái buồng giường đôi, anh ta vẫn phải nằm chéo
nhưng để được chân xuống. Mấy hôm đầu hầu như không có ai bén mảng đến gõ cửa
hai ông khách. Nhưng dần dần thấy trên có vẻ quý trọng, người mới dần dà ùn ùn
đến. Rồi sách tặng, sách tặng đầy bàn. Không thể đem đi được, quá cân cước vé
máy bay. Marian cẩn thận xé trang đề tặng rồi cho tôi khuân đi có đến mấy chục
quyển!
Một đêm, qua phà Rừng về Hải Phòng. Phà đông, chen chúc xe và
người. Trong bom đạn, đường xá tấp nập thâu đêm. Chúng tôi đứng bên thành phà.
Người làm ca nô soi đèn bão đến tháo xích cho phà rời bờ, sáng loáng qua chỗ
chúng tôi. Bỗng sau lưng tôi, một câu chửi réo:
- Tiên sư thằng xét lại Marian ghé tai, thì thào:
- Nó chửi tôi, ông ạ.
Tôi không biết chui đầu đi đâu được. ở khách sạn Hạ Long rồi
khách sạn chuyên gia ở Hải Phòng, tôi còn được nghe những câu đùa nhả, những
câu rủa ráy độc ác của những cô nhà bàn, cô căng tin quầy rượu. Tôi thật oán
cái sõi tiếng Việt của anh bạn lúc lúc lại làm tôi khổ cực vì xấu hổ từ cầu Hiền
Lương ra vịnh Hạ Long, về Hà Nội. Tối qua, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom đêm Nôen.
Chúng tôi có thể đi dạo, bớt phải để tai lên trời. Nhưng mới quãng tám giờ tối,
tiếng nổ như sám rền dội tới. Nghe như ở chỗ cái túi bom cầu Giẽ, bom lại ném cầu
Giẽ. Giữa đồng chiêm Hà Đông - Hà Nam mênh mông, cái cầu Giẽ trơ trọi trên đường
số 1, như cầu Hàm Rồng, máy bay Mỹ quyết liệt triệt hạ, quần suốt ngày đêm.
Trong nhà thờ Hàng Trống, từ chặp tối, những xóm họ đạo ở quanh cầu Giẽ đã lũ
lượt kéo lên. Mấy năm nay các nhà thờ vùng đồng chiêm bị bom phá, đêm Nôen dân
đạo dưới ấy phải đi lễ nhờ. Cả nhà người già trẻ con trải ny lông, gói quần áo
và những túi cơm nắm lổn nhổn lẫn với người nằm hai bên hành lang nhà thờ đợi
chuông dóng nửa đêm.
Các bạn Liên Xô chú ý quang cảnh đường. Phố đông vui, người
đi chơi, người đi lễ. Vả chăng, đây đã thật xa Bến Hải đầu cầu Hiền Lương trong
kia. Eptuchenkô lại nảy ra một cái lo khác. Eptuchenkô hỏi:
- Có người Trung Quốc đi lễ nhà thờ không?
- Không để ý. Mà cũng khó biết, người Trung Quốc ở đây ăn mặc
cũng như người Việt Nam.
Nguyễn Tuân nói:
- Có thể không có. Người Trung Quốc theo đạo Tin Lành, như
người Mỹ, như Tưởng Giới Thạch, họ không đến nhà thờ này.
Eptuchenkô chưa yên tâm.
- Cho tôi đi giữa và tôi sẽ bước hơi rụt đầu xuống. Nếu bị
đánh cũng chỉ trúng bả vai. Cái lo xa của anh chàng cao quá khổ. Nửa đêm, nhà
thờ chen lấn ních người. Eptuchenkô lênh khênh hơn xung quanh hẳn một đầu.
Nhưng vào cảnh thanh bình khác thường giữa thành phố đương bị đánh phá anh đã
quên cúi cổ xuống. Chúng tôi ngột ngạt len được vào một hàng ghế. Trên đài lễ,
ông cố đạo giảng một lúc bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh. Có nhiều
khách nước ngoài đến nhà thờ. Khi trở ra đường, Eptuchenkô đã nhãng hẳn cái lo
bị đòn. Eptuchenkô bước nghênh ngang.
Hà Nội. Đêm Nôen. Bom Mỹ. Lạ thật. Nhưng ông linh mục nói tiếng
Anh không giỏi. Mùa hạ vừa qua Eptuchenkô đi chặt mía cả tháng ở Cu Ba. ở Việt
Nam về, Eptuchenkô sẽ sang Mỹ. Tôi tìm được quyển kịch Người chào hàng của A.
Mi-lơ nhà xuất bản Văn Học in năm trước. Eptuchenkô hứa sẽ đưa cho tác giả, khi
đến Nữu Uớc.
Cái vui kỳ dị đêm Nôen chưa hết. Chúng tôi lên phố Hàng Giầy.
Các tiệm ăn uống quốc doanh và tư nhân sáng đèn suốt đêm quanh Bờ Hồ và ở trung
tâm - người ta dựa vào đêm nay không có báo động.
-Chúng ta sẽ ăn Nôen ở một quán người Trung Quốc.
-Thật không?
- Anh đã không bị đánh thì cũng không ai bỏ thuốc độc vào con
cá ở đĩa của anh. Đêm Nôen, đức Chúa Trời lòng lành...
Nói vui thôi, Eptuchenkô đã tươi tỉnh tử lâu. Quán Tiểu Lạc
viên vẫn mở, nhưng ông có ngay đã nghe bom giật mình chết từ tết năm ngoái. Một
người hầu bàn đầu trọc, áo cánh xuyến đen ống tay rộng. Nếu thêm cái nón tu lờ sơn
dầu quang mây, thì tưởng vào một cao lâu mới ở Lạng Sơn dọn xuống. Không biết
có phải thật Tàu không. Cái năm lắm người Hoa đi, nhiều cửa hàng vằn thắn, chủ
quán quấn cái tạp dề xanh đội lốt làm chủ quán Tàu. Mất ông có ngay, cửa hàng
nhạt hẳn. Nhưng Eptuchenkô đâu biết cái buồn thiếu vắng ấy. Năm trước, nhà văn
Solukhin và tôi vào hàng nem Cát Tần sắp đóng cửa để tránh nạn bị nhòm ngó lên
tư sản. Cả gian hàng trống không, cái cốc cũng không có, chúng tôi uống bia bằng
bát chiết yêu. Solukhin gật gù khoái rồi về Matxcơva viết trong bút ký Bưu thiếp
Việt Nam: lần đầu tiên trong đời, đến Hà Nội tôi được cầm cái bát phương Đông uống
bia Đức.
Chúng tôi uống cuốc lủi với chim bồ câu quay. Tôi nói dối đây
là chim giẽ, một giống chim mùa lạnh về trú đông ở các cánh đồng nước nhiệt đới.
Chim ăn thóc, thịt rất thơm. Marian Tkchốp hóm hỉnh:
- Chim giẻ cũng ngon như chim bồ câu, ông ạ.
Eptuchenkô lại như cắt nghĩa tiếp theo:
- Đừng tưởng chúng tôi không ăn thịt những con chim hoà bình.
Cách nói như thế chỉ để hô khẩu hiệu. Khi còn chiến tranh, tôi là cậu bé tám
chín tuổi theo bố mẹ tản cư về vùng thảo nguyên taiga ở Trung á. Cân đường, lít
sữa cũng mua bằng phiếu như các bạn có sổ mua gạo bây giờ. Người lớn bắt chim bồ
câu hầm cho trẻ con ăn. Nhưng bồ câu đàn ngoài vườn thịt tanh lắm. Bồ câu mới nở
trong ổ bắt trên các khe mái nhà ăn mới ngon.
Không ai hỏi lại và chế giễu tôi về con bồ câu hay con chim
giẽ. Mọi người đều biết là nói đùa và những tưởng tượng vui. Chặp tối hôm sau,
sang sân bay. ở Gia Lâm, hay có khi Nội Bài, khách đi và đến vào chặp tối. Xe lửa
liên vận biên giới phía bắc ở ga Hàng Cỏ chuyển bánh lúc nhọ mặt người. Qua cái
cầu Long Biên giả chết - những nhịp cầu bị đánh gãy vẫn gục đấy, máy bay không
người lái chụp ảnh lướt ngang cũng không biết đường sắt, đường ô-tô vẫn sống
trong lòng cầu.
Đêm đêm, những đoàn tàu đoàn xe không đèn lẳng lặng qua.
Eptuchenkô ném hai đồng xu Nga xuống sông Hồng. Phong tục ngồi
lại giây lát để ước được bình yên trước khi ra đi cũng như ném đồng tiền xuống
sông, ấy là mong sự tốt lành và những cái hẹn có ngày trở lại. Năm sau, tôi gặp
Eptuchenkô ở Matxcơva, nghe nhà thơ bốc phét kể chuyện tranh luận với tổng thống
Mỹ J.Ca-tơ. Ca-tơ nói ông ta rất yêu L.Tônxtôi, nhưng lại dẫn sai một câu của đại
văn hào này. Chắc là tay chuyên gia đãng trí nào đã làm sẵn cho lão nói -
Eptuchenkô nghĩ thế. Eptuchenkô đã đưa vở kịch Người chào hàng cho A.Mi-lơ.
Mi-lơ chảy nước mắt nhận quyển sách nhỏ bé, bìa quăn queo. A.Mi lơ không thể tưởng
bom Mỹ ném như thế, Hà Nội vẫn in và diễn kịch A. Mi lơ.
Bao nhiêu năm sau, trong một chuyến thăm Thái Lan, Eptuchenkô
đã tạt sang Hà Nội chốc lát. Dẫu sao, đồng tiền Nga vẫn thiêng, người ra đi có
trở lại. Tôi không được gặp để hỏi xem khi Khơrutxốp qua đời đám ma thưa thớt,
Eptuchenkô đã đi đưa, viếng độc một bông hoa cẩm chướng. Câu chuyện ấy ra sao,
tôi đọc tin tức thấy nói thế.
Đôi lần, tôi hỏi Nguyễn Tuân:
- Anh nghĩ thế nào về tờrốtkít thời kỳ ấy?
Nguyễn Tuân đăm chiêu rồi sừng sộ hỏi lại:
- Mày muốn chụp mũ tao hả?
- Ông cứ quá lời...
- Tao đi Vọng Các với thằng Lương Đức Thiệp, vậy thì tao cũng
là đệ tứ. Cách suy luận máy móc của chúng mày là như vậy? - BƠ vơ, tôi bỗng bị
Nguyễn Tuân trút cơn bực mình. Bấy giờ tao với nó còn là những thằng ranh con,
đã biết tam tứ ngũ lục thế nào đâu. Tao đọc hồi ky Đời tôi của Tờrốtkít đấy chứ.
Mượn ở thư viện. Thư viện Tràng Thi có cả Tônxtôi, Goocky, Giôn Rít, có tuốt.
Tây mật thám ăn mắm tôm, biết sách vở đỏ đen thế nào. Cái đứa viết báo khoe thời
Pháp đã tìm đọc chui Lêôn Tônxtôi là nói láo ra vẻ ta đây cũng cách mạng từ
bóng tối. Thằng Việt Minh Như Phong nhà chúng mày thỉnh thoảng lại vờ xuống
chơi. Chẳng thấy nó giác ngộ gì tao, lại đưa cho tao tiểu thuyết tự truyện của
Saclơ Pliniê. Mà Pliniê là thằng đệ tam rồi tờrốtkít. Việc đời lôi thôi lắm. Tao
không bài bác, nhưng tao không thích.
- Ông chỉ làm cái gì ông thích thôi.
- Mồm nói thế này, bụng lại nghĩ khác, là thằng đểu. Mày gọi
là thằng cơ hội, thì thằng bịp cũng thế. Không ưa mà cứ làm như thích lắm. Tao
không sực được các chính khách!
Cứ cái kiểu ấy, một đời còn biết bao gian truân!
ở Thanh Hoá, khi thôi bị quản thúc, Nguyễn Tuân ra Hà Nội, viết
để sinh nhai và cho ra nhân vật nào cũng là nhân vật Tôi. Trong sách cũng tương
tự ngoài đời, người ấy tên là Nguyễn hay là Bạch cũng thế, trà dư tửu hậu chán
chê rồi rời bỏ nơi ăn chơi, nhưng cũng không về nhà, bấy giờ nhà bác Nguyễn đã
dời Thanh Hoá ra ở Ngã Tư Sở trên đất Mọc Thượng Đình quê gốc. Bạch về một gian
gác nhỏ ở một phố khuất. Trong buồng mắc chéo cái võng đay. Không bàn ghế,
không hoả lò không be lọ, không trai gái. Chỉ độc chai nước lọc mấy quyển sách
dưới sàn với hộp cá sácđin và bánh mì. Có khi nằm võng cả tuần không ló ra đường,
không cầm bút, không khách khứa nào gõ cửa cái buồng đã khoá trái. Chủ nhân khước
từ mọi trò chuyện, chỉ mình với mình, gần như tịch cốc. Rồi bất thần lại biền
biệt đi đâu, chìm đắm trong cuộc truy hoan nào rồi lại về náu mình ở cái buồng
con trên nóc bếp hay ga ra ô-tô.
Cái gác của Nguyễn trong các tuỳ bút và truyện ngắn, truyện
dài cũng na ná cái gác Nguyễn Tuân tá túc ở cuối sân sau một toà nhà bên tay phải
phố Hàng Đãy. Bè bạn cho Nguyễn Tuân ở nhờ một buồng gác có thể trước là nơi ở
của thằng tài thằng xe, tầng dưới để xe, trông thẳng ra cửa bên. Một cái thang
gác gỗ nhấc đi được dựng đứng góc buồng, người trèo lên rồi sập mảnh ván xuống,
đóng kín sàn, hệt cái bẫy chuột. Lên thang nghe gió cuốn âm thầm... Gác trọ
không đèn nhớ cố nhân... - như câu thơ Trần Huyền Trân. Có một lần, Nguyễn Tuân
đã dẫn tôi đến đứng ngoài vỉa hè nhìn vào hoài cổ cái gác xép ấy. Trải mấy chục
năm dâu bể, thế mà khi ấy, bên trong một quán chè tươi, cái gác xép vẫn nguyên.
Nguyễn Tuân bảo chẳng khác ngày xưa. Ngôi hàng chè tươi ấy của ông Nghi người
làng tôi xuống Kẻ Chợ làm ăn. Ông Năm Nghi bảo:
- Chỗ gác ấy là trạm giao thông nội thành, cán bộ thường đến
liên lạc. Chẳng biết thành phố có giữ làm bảo tàng không?
Ông Nghi cũng hoạt động cơ sở quận 1 thời kỳ ấy.
Toà nhà nọ, khi Nguyễn Tuân ở nhờ, là nơi tụ tập bí mật của một
nhóm người đảng Đại Việt. Các nhà văn nhà báo Đào Trinh Nhất, Nguyễn Triệu Luật,
Phùng Bảo Thạch... hay đến, có người bạn, có người chỉ quen, cả Đỗ Xuân Mai chủ
nhà xuất bản Mai Lĩnh in phóng sự hai tập Tàn đèn dầu lạc của Nguyễn Tuân. Có
thế, Nguyễn Tuân mới ở được cái gác bỏ hoang kia. Họ ra tờ tạp chí Văn Hoá, toà
soạn đóng ở đấy. Báo hàng tháng bìa vàng dưới in trang trí hai chữ V và H trên
nền một góc mặt trời đỏ toả tia ánh sáng. Chúng tôi xì xào hai chữ này: Đấy là
bọn thân Nhật viết tắt chữ Vừng Hồng, mặt trời với tia nắng là vừng hồng đương
lên - gần gũi với cái mặt trời tròn đỏ giữa quốc kỳ Nhật. Không hiểu tại sao,
Nguyễn Tuân cực ghét cờ Nhật, mà Nguyễn Tuân bảo là cục mực đỏ trên miếng vải
trắng và giễu cờ Tàu Tưởng có cái ru líp xe đạp, bánh xe răng cưa. Hồi ấy tôi
đã ở tổ chức Văn hoá Cứu quốc. Tôi để ý tin tức các phe nhóm chính trị thân Nhật,
thân Pháp trong thành phố. Nguyễn Tuân cũng biết bọn ấy, Nguyễn Tuân không viết
báo Văn Hoá nhưng lại thích cái góc tĩnh mịch hơn, nên đến ở đấy. Chỗ cái sân
sau dưới cửa sổ - Nguyễn Tuân kể, tối nào chúng nó cũng tập võ, tập súng khuya
lắm. Hình như đánh bốc, đấu gươm, bóp cò tanh tách, ném lựu đạn chai lọ vỡ
choang choang. Trên buồng, mình nằm võng mơ màng, rồi ngủ, mặc kệ. Biết có điều
phức tạp, nhưng vẫn đi về một minh, coi như không bận tâm. Chúng nó bảo viết
bài thì trả lời ậm ừ. Lão xuất bản họ Đỗ lên buồng, rền rẫm lên: ối giời ôi, thời
thế này mà ông nằm chỏng vó lên được à? Dậy, dậy. Gươm đây, ka ki may áo, may
mũ sẵn cả rồi. Không mau lên thì không ai đợi được ông đâu.
Nguyễn Tuân im lặng, lát sau hỏi câu thân tình với nhà mua
sách ấy như thế này: Này, ông chủ xuất bản, ông sẵn tiền đấy không, ông cho tôi
tiêu một ít. Và Nguyễn Tuân vẫn nằm võng trong cái gác xép trơ trọi. Mọi sự
xung quanh, không động trệ đến mình.
Một hôm, Phùng xuống tìm Nguyễn Tuân dưới nhà ở Ngã Tư Sở.
Phùng nói nhỏ:
- Mật thám quây nhà ấy rồi, đừng lên nữa, cho tao ở nhờ mày
ít ngày.
Thế là Phùng ẩn náu ở am Sông Tô. Ba chữ Am Sông Tô chỉ là
cái bóng đẹp khéo tưởng tượng mà thôi. Nguyễn Tuân thường đề lạc khoản kèm với
ngày tháng dưới những sáng tác như thời thượng của người viết. Chứ đâu phải cái
am, cái động, cái lều tranh, cái mái trúc mà chỉ có muỗi đêm túa ra táp vào mặt
bên con sông Tô xanh rờn những bè rau muống trên dòng nước hôi thối ở các cống
thành phố thải ra. Sau bờ rào cúc tần, một ngôi nhà ngói cổ toạ lạc giữa mảnh
vườn con, trông sang nhà ga ra tàu điện đường Hà Đông - Cầu Mới. Nguyễn Tuân đã
viết tuỳ bút Nhà bác Nguyễn xưng tụng công lao thân mẫu ông vất vả từ Thanh ra
trông coi dựng nên nếp nhà ở quê. Đại gia đình về an cư nơi gần đầu làng Mọc
sau bao nhiêu năm cụ tú Hải Văn - tú tài khoa thi sau cùng, đã bôn tẩu theo
công việc chữ nghĩa và dong chơi khắp Khánh Hoà, Phú Yên, Phai Pho, Turan, Huế,
Hà Tĩnh rồi cắm lại Thanh Hoá, đến khi về già mới trở về được nơi chôn rau cắt
rốn. Tam đại đồng đường ngụ trong ngôi nhà ngói cũ kỹ ven đường này. Thời bị
chiếm, Pháp mở rộng đường Hà Đông, ngôi nhà bị ủi đi biến vào giữa lòng đường
Nguyễn Tuân bảo chỉ nhớ áng chừng cái am Sông Tô ấy ở chỗ gần cửa nhà máy cơ
khí bây giờ. Nhà bác Nguyễn, nhà bác Trương Tửu mất nhà, không được may như nhà
bác Tú Mỡ trên Cầu Giấy, tản cư rồi có người trong họ đến ở nhờ trông nom hộ,
khi trở về, nhà cửa vườn tược gần như nguyên.
Phùng luẩn quẩn tránh ở nhà Nguyễn Tuân. Lại còn như trêu
ngươi, như không biết là người đương bị mật thám truy lùng, cứ tối đến, hai người
thong dong lên tàu điện vào chơi ả đào Khâm Thiên.
Tôi không được cùng thời yên ba sầu xứ trong cái vỏ ốc thành
phố này với các vị. Nhưng những khi đôi ba chén rỗi rãi, ngồi nghe kể, lại tưởng
ra nguồn cơn vui thú của cái ông trưởng nam mới tý tuổi đầu đã được cụ thân
sinh dắt theo đến phố Hàng Giấy thưởng thức đàn ngọt hát hay hẳn cũng có khác
người, cho nên bóng dáng và tiếng tơ tiếng trúc xóm yên hoa còn dấu vết xa xưa
lại trong tâm tư. Nhưng đến thời buổi nơi hát xướng đã nửa cô đầu nửa nhà thổ,
bên tiếng hát bâng khuâng hồng hồng tuyết tuyết, phách róc lấp lánh lưa thưa
như hạt ngọc rơi để khách cầm roi chầu gõ ngắt xuyên tâm, lại cộng thêm một lũ
đào đĩ hầu rượu giải chiếu mắc màn rồi ngủ với khách, thú thanh tao nọ đã sang
một sự vật dục khác cung phụng cho nhiều người khác rồi.
Nguyễn Tuân không chơi như người ta xưa và nay. Nguyễn Tuân
trang nhã, thân tình với bà luật sư thượng viện Phước Đại, bà Bảy Nam và cô Kim
Cương cả với ca sĩ Hà Thanh, một thời giọng vàng đài Sài Gòn, với Hoàng Oanh mà
tôi vừa gặp đã giới thiệu ông quen ở khách sạn Côngtinăngtan hôm đoàn kịch Kim
Cương ăn mừng một tuổi, thế mà cứ lưu luyến như rồi còn gặp lại. Nhưng chỉ vậy
thôi. Nguyễn Tuân hay xỉ vả thói hoa lá cành của Nguyễn Văn Bổng và tôi. Cách mạng
thành công năm 1945, Nguyễn Tuân mới ba mươi tuổi. Thế mà đĩnh đạc, chỉnh tề
như đã tuổi tác lắm. Không giăng gió, Nguyễn cũng không thuộc những người liến
láu khôn đến rạc cả người mà đàn bà ngại như cách Nguyễn Hữu Đang xếp hạng.
Năm 1975, Nguyễn Tuân vào Sài Gòn đến ở một nhà quen khó ai
biết đích xác, kể cả những Phạm Tường Hạnh, Đoàn Minh Tuấn chuyên làm đầu sai
mua giò chả các quán Bắc, rượu đế thịt quay chợ Hoóc Môn và chạy tiền để cụ
tiêu. Bà chủ nhà kín đáo ấy, bấy lâu trong chỗ riêng tư. ở trong này vẫn nhận
thầm với bạn bè lứa tuổi, bà ta là một bóng chị Hoài, tóc chị Hoài. Hôm Nguyễn
Tuân trở ra Hà Nội xe về qua bưu điện Bờ Hồ còn tạt vào ghi xê gửi bức điện khẩn
cho ai rằng đò giang đã thuận buồm bình yên. Chẳng may, tôi lại cầm đi đánh bức
điện ấy nên mới để ý tên người nhận. Bà Nguyễn Thị Thảo. Ôi chắc là cái bà Nguyễn
Thị Thảo báo Phụ Nữ ở phố Hội Vũ, trước có Trúc Khê, Lê Thanh cộng tác. Bà Thảo
ấy sao? Tôi không hỏi. Tế nhị, người ta đã không muốn nói, thì cũng chẳng nên cố
ý thóc mách. Sau chuyến ấy, Nguyễn Tuân thường ra đường, tay cầm gậy song, mặc
bộ áo cánh lụa màu cậy dáng nhà Phật, bảo là của người ta cho. Khác nào hai câu
thơ hoa viết bút lửa trên mặt đôi guốc mộc của Mộng Tuyết gửi biếu bác Nguyễn,
những tình bạn đẹp và buồn phương trời.
Phồn hoa tỉnh mộng sương pha tóc Mà cố nhân còn vẹn sắc hương
Nhưng khác chuyện bà giáo ở Bến Tre gửi thư cho Nguyễn Tuân - cũng trong cái
năm 1975, sau bốn mươi năm Nguyễn Tuân mới trở lại Sài Gòn. Bà giáo Bến Tre giọng
buồn giọng vui viết thư cho Nguyễn Tuân biết năm xưa bà đã gặp phải một Nguyễn
Tuân dởm như thế nào.
Quãng những năm 1940 thuở ấy tôi cũng đương ở Sài Gòn. Tôi
cũng biết chuyện có đứa mạo tên của Nguyễn Tuân đi lừa tiền nhiều nơi. Nguyễn Khánh
Đàm, em Nguyễn Tuân, chủ hiệu sách Nguyễn Khánh Đàm đường Sabuaranh đã kiện chứa
mạo danh lên toà án thành phố. Nhưng tên ăn cắp đã lặn mất.
Bà giáo Bến Tre bị tên Nguyễn Tuân dởm ấy lừa tình thì chẳng
mấy ai biết. Bây giờ bà giáo tâm sự với ông Nguyễn Tuân thật, rằng bà muốn được
gặp ông. Nguyễn Tuân chống batoong, đi đi lại lại trong buồng khách sạn Bến
Nghé. Nguyễn Tuân nheo mắt và nụ cười heo héo. Có cái thanh xuân của người ta
thì thằng Tuân giả sực tất cả. Bây giờ thằng Tuân thật đầu râu tóc bạc lụ khụ đến.
Hai chiếc quan tài sắp hạ huyệt rồi. Cái trang cuối của thiên tiểu thuyết này
không thể tái hồi Kim Trọng có hậu như truyện Kiều được. à cậu viết truyện tình
được đấy, tớ bán cho cậu cái cốt truyện này. Một chai Macten thôi, trong này sẵn.
Nguyễn Tuân không xuống Bến Tre. Cũng không trả lời thư bà cụ giáo.
Thời la cà dưới xóm mà Nguyễn Tuân đặt tên là những cuộc truy
hoan, ở giữa nơi ăn chơi Nguyễn Tuân cũng không dăng dện vẩn vơ. Trong các tài
danh thuở ấy ở Khâm Thiên mà bây giờ các bà Nguyễn Thị Phúc, Quách Thị Hồ vẫn
còn nhắc lại giọng tức tưởi âu yếm:
- Ông Tuân với bà Năm, chỉ một bà Năm thôi, cứ gọi là hết nhẽ.
Ngoài kháng chiến, ông đi chỗ nào, trong này bà Năm cũng biết. Thế mới tài chứ.
Bà gửi cả vàng ra cho ông tiêu. Lo liệu cho nhau đến thế cơ mà.
Cũng thì chơi bời, Nguyễn Tuân chỉ gắn bó vơi chủ nhà hát và
hát hay. Lôi thôi quá, tao định đưa bà Năm về làm bé đấy. Nhân thể rước cả bàn
tĩnh về. Đằng nào cũng nghiện, hút ở nhà đỡ tốn đỡ đàn đúm. Cụ ông nhà mình
tính cho hai bố con thế. Rồi cách mạng, thế là tung hê cả Cái người nặng tình với
Nguyễn không phải đào Hồ, đào Phúc, cũng không phải Mộng Hoàn chị ruột của Vũ
Đình Hải trinh thám tư và làm áp phe cho Nhật mở buyarô trên phố Trường Thi, rất
thích truyện Chí Phèo, Đôi lứa xứng đôi của Nam Cao. Mà đây là đào Chu Thị Năm,
cũng là chủ nhà hát. Tôi hậu sinh, chẳng biết đâu những đào hoa xa xưa của vị
bô lão. ở Việt Bắc trở lại, Nguyễn Tuân tìm mua ở chợ Giời được mấy cái đĩa hát
của Mộng Hoàn và của Chu Thị Năm. Canh tàn rượu tỉnh, khuya khoắt lắm mới lấy
ra nghe như nghe ma hát. Nguyễn Tuân bình: Cùng nhà nòi cả, Mộng Hoàn thì sang,
hát hàng hoa bay bướm, nhưng khuôn giọng vào đàn có phần không dụng công bằng
Chu Thị Năm. ấy cứ đúng mực với nhau, mà có quá đi nữa, ông sẽ làm như nền nếp
thói thường, đưa nó về lạy chị cả - chẳng thể tan hoang đến nỗi nào. Nguyễn
Tuân đã nói ra miệng thế. Một bạn chơi cùng thời với Nguyễn Tuân là Vũ Bằng đã
viết: Chơi đâu thì chơi, không bao giờ Nguyễn Tuân sao nhãng cửa nhà. Hồi ký về
Nguyễn Tuân của Vũ Bằng in báo Văn Học ở Sài Gòn, đến khi đọc tự truyện Bốn
mươi năm nói láo của Vũ Bằng không thấy câu ấy, thành thử tôi chỉ nhớ ý. Con mắt
tinh đời của Vũ Bằng đã nhận xét ra từ ngày ấy và đúng suốt đời với Nguyễn. Năm
kháng chiến, Nguyễn Tuân với một đoàn cán bộ bí mật vào hậu địch hạ lưu sông Hồng.
Trong công việc chuẩn bị vào tề, Nguyễn Tuân tự đặt bí danh là Tuệ. Tây mà tóm
được thì bác Nguyễn là cụ chánh tổng Tuệ, cụ chánh hội Tuệ, tuỳ tình hình. Nghĩ
trước tới lúc hiểm nguy, vẫn là nhớ về bác gái nội trợ ở nhà. Tuệ là tên bác
gái, bác Tuệ. Cả đời bác gái giúp bác trai làm nhà bếp, nhà bàn, nhà phòng nhà
nó Những năm sau này, ít đi xa, Nguyễn Tuân hay khoe đùa:
- Chẳng đâu có ôten tốt hơn cái ôten nhà mình.
Những cái đĩa hát chỉ là những cái đĩa hát, những đĩa hát 78
cũ đã nhạt tiếng rồi mất hẳn. Người hoa khôi nơi yên hoa xưa đã yên giấc nghìn
thu từ lâu. Tối ba mươi, tôi hay đến Nguyễn Tuân nghe bà Năm hát, nhưng tục lệ ấy
cũng đã tàn tạ nhiều năm rồi.
Những đêm này, Phùng và Nguyễn Tuân thường hát ở nhà bà Năm,
hát nhà hát nhà. ở nhà hát ấy đã được miêu tả trong Tuỳ bút 2, có lần bác Nguyễn
lưu luyến ở đấy lâu quá, một sớm trở dậy chợt soi gương thấy hai hàng mi dường
như đương trắng bệch ra - sắp thành thần Bạch Mi, ông thần cai quản đám ca nhi
giang hồ nơi thanh lâu, tửu quán.
Nửa đêm, Phùng về am Sông Tô, Nguyễn Tuân ngủ lại. Mật thám
đã rình cửa. Phùng bị còng tay, tông ra xe.
- Thằng Tuân đâu?
Mật thám dẫn Phùng lên đập cửa nhà hát bà Chu. Gà vừa gáy canh
một. Nguyễn Tuân chui trong màn ra, tra tay vào còng số tám, về sở liêm phóng.
Cùm xà lim cả tháng, Nguyễn Tuân bị gọi lên tra và hỏi dòng dã về những dứa
nào, chúng mày làm gì trong toà nhà tạp chí Văn Hoá phố Hàng Đẫy mà Nguyễn Tuân
vẫn về nằm võng. Chuyện thật mà mật thám Tây không thể tin. Nguyễn Tuân không đến
nỗi nhát sợ khai lung tung, mà thực sự, không biết đổ vấy cho ai. Nguyễn Tuân
không biết mảy may chuyện trong nhà ấy. Giữa năm 1941, hai người mật thám dẫn bỏ
Nguyễn Tuân lên trại tập trung ở Vụ Bản vùng rừng núi Hoà Bình, Ninh Bình. Việc
đi tù này, Nguyễn Tuân ghi một câu gọn lỏn vào lý lịch để ở cơ quan: Đi căng một
năm vì chứa chấp Phùng. Chỉ một câu mà đâm nghĩ ngợi. Cả khi có tuổi, Nguyễn
Tuân cũng không quên.
- Tao không dây với chúng nó, việc gì nó phải dẫn mật thám đi
bắt tao. Mật thám hỏi, nó chỉ nói một câu không biết, thì đã sao?
Thời ấy, Nguyễn Tuân còn một ông bạn, khi cần tiền vẫn giựt
nóng mấy đồng mà không mấy khi phải trả. Năm tù ở Vụ Bản về. Nguyễn Tuân cho
con cầm thư đến bạn mượn tiền, cũng như báo tin khéo: Tôi đã về. Ông bạn thân mọi
khi không đưa tiền, cũng chẳng một chứ trả lời. Đến nay Nguyễn Tuân còn cười nhạt
qua chén rượu: à người ta ngại dính đến thằng tù dây. Những đợt chỉnh huấn gay
gắt, Nguyễn Tuân ngồi im nghe mọi người giúp đỡ, gợi cho nhớ lại những câu đã
chửi ai, đã nói ác ra sao mà Nguyễn Tuân không nhớ nói thế bao giờ. Nhưng nghĩ
chắc có nói, không phải chúng nó vu. Chỉ không tưởng được rồi có khi người ta lại
đem câu giễu cợt ra chỗ nghiêm chỉnh thành chuyện tày trời. Nguyễn Tuân không
tiếp thu, cũng chẳng nói lại, rồi cũng chẳng bao giờ nhìn mặt những người ấy nữa.
Bề ngoài, tuồng như ở ngòi bút và trong cuộc sống Nguyễn Tuân chỉ có xô bồ và
ngang cành bứa. Không, đối đãi với xung quanh, Nguyễn Tuân vừa thành kiến vừa
tình nghĩa nền nếp cũ. Hợp nhau mặt nào thì chan hoà mặt ấy, những cái khác thì
không lưu tâm. Cuối năm, cẩn thận, đều đặn, Nguyễn Tuân gửi thiếp chúc năm mới
những người quen biết cần gửi. Không bất thường và trễ nải hứng một lúc. Tôi đi
Lai Châu hay Hà Giang lâu lâu, thế nào cũng được thư Nguyễn Tuân, khi gửi từ Hà
Nội, khi Lào Cai, khi Vĩnh Linh, khi Matxcơva. ở phương này, Nguyễn Tuân nhắm
phía chân mây kia mà ông thèm tới.
Đến việc ăn uống thì thật nền nã và cầu kỳ. Hay bảo là cốt
làm ra khác thường cũng có thể được. Nguyễn Tuân lên cốt 400 núi Ba Vì. Trên ấy
đạo diễn Mai Lộc đương quay một số thước ngoại cảnh phim Vợ chồng A Phủ của
tôi. Lưng núi, xa chợ búa, con bò con lợn mổ được phải để ăn dần mươi hôm. Tổ
làm phim thịt bò đón khách linh đình. Miếng xách luộc, miếng thịt tái cả da chấm
tương gừng. Hồi này nhà mậu dịch gắt gao thu mua da bò da trâu, có ở rừng ăn
chui mới được miếng da bò thui quý hiếm. Mấy ông già người Dao ở làng gần cũng
xuống vui chung. Nguyễn Tuân khen ở núi hiếm gia vị mà cũng kiếm được rau thơm,
ông chỉ nhặt bỏ ra ngoài mâm những lá cỏ dại gọi là lá mùi tàu nhổ ở ven rừng.
Nhưng Nguyễn Tuân chén thịt bò có một bữa ấy Những hôm sau, nhờ nhà bếp nắm cho
nắm cơm và mở lọ muối vừng, lọ ruốc mang theo từ nhà. Đừng ai nài ông khách kỹ
tính ấy ăn thêm miếng thịt kho, một bát nước suýt oi khói hai ba lửa. Nguyên Hồng
với Nguyễn Tuân mỗi người ăn uống một khác, thế mà chơi được với nhau. Nguyên Hồng
uống tạp, rượu nhắm ổi xanh, hành sống, cà pháo muối xổi... Buổi tối, Nguyên Hồng
ngủ lại ở cái gác xép sân sau cơ quan. Chẳng biết cao hứng sao đi tìm tôi rồi
ra chợ chiều cạnh bến xe Kim Liên mua miếng thịt bò, mấy nhánh cần tây và mớ
rau húng. Thịt xào không mỡ với muối, rau húng chỉ cởi lạt, ngắt ăn cả nhánh.
Hàng rau người ta rửa rồi mới đem ra chợ bán chứ ăn cả đất đâu mà lo. Khéo vẽ vệ
sinh lôi thôi Nguyễn Tuân khác hẳn, Nguyễn Tuân uống như các cụ ngày trước, rượu
ngữ. Bữa sáng hay chiều có nhắm hay uống suông cũng thế, thành lệ mỗi lần một
hai chén, quanh năm không khác. Nguyễn Tuân có thổ mua rượu, ông kỵ rượu chợ.
Không nát, không to tiếng, say chỉ lừ đừ và lặng lẽ nằm nghỉ. Tạng Nguyễn Tuân
với cách thức hương hoa ấy hợp với các thứ uống hảo hạng Chianti của ý, Rôm
Giamaich hay Uýtky và Mao Đài. Mùa hè, làm cốc-tay thêm lát chanh với miếng đá,
nhấm nháp cả ngày. Không đụng đến rượu ngọt, dù nặng. Cái xa kê ngòn ngọt của
Nhật thì vứt đi. Có lần, đạo diễn Đình Quang ở Nhật về biếu ông bình rượu xa kê
to tổ bố. Ông cho chúng tôi uống cả. Những năm ấy, chuốc đâu ra những của quý như
thế mà vẫn kiểu cách của ông. Bời vậy nông nỗi còm cõi càng trơ khố tải ra, mỗi
khi có đôi chút phong lưu, nhiều cuộc uống tội tội thế nào ấy. Một miếng pho
mát, một cốc vôtka Ba Lan trên gác nhà bác sĩ Trần Hữu Tước, cũng khá hiếm hoi.
Chủ nhân chỉ ao ước có tủ sách chuyên môn, có tiền mua hàng tháng sách nghề của
mình tháng nào chẳng có tạp chí, có sách mới, chỉ đọc báo cũng muốn phát sốt.
Mà không có tiền mua ông bác sĩ anh hùng này đã dịch tiếng Pháp bút ký Ngõ tây
của tôi với nhiều truyện ngắn khác và những phát biểu, tham luận của tôi mỗi lần
tôi đi dự hội nghị nước ngoài. Ông dịch thuê và đọc cổ văn Liêu trai chí dị. ở
Pháp ngày trước, ông làm bác sĩ tai mũi họng chuyên cho hoàng gia Anh. Một năm,
chỉ vài ca khám đã thừa cái ăn chơi. Thuở ấy, xa rồi. Bây giờ, mỗi lần cho con
xách cạp lồng đến phở Khải 202, chủ quán quý khách thái thêm cho mấy miếng gầu
đã cám ơn, xuýt xoa khen.
Cái cung cách ăn uống phải tính toán nghèo nghèo này, kể cũng
hiu hắt và vất vả. Mỗi khi vớ đâu được một chai ngon, henitxy hay cô nhắc, Nguyễn
Tuân thường kéo bạn đến, từng người. Họ được uống vào những lúc khác nhau. Người
mở nút đầu tiên và người uống ly chót, chủ nhân đều đã đo đạc cẩn thận. Không
biết ai, chỉ biết tôi không mấy khi được vinh dự mở nút chai. Tôi chỉ lĩnh một
chén ông dành cho vào lúc nào đấy và đến lúc khoái quá, được Nguyễn Tuân bảo:
- Ông có thể thêm ly nữa, ly nữa.
Tự tay tôi thò vào cái nút be lọ lỉnh kỉnh dưới giá sách lôi
ra chiếc chai quý mà lúc nãy rót xong chén cho tôi, Nguyễn Tuân đã lại cất sâu
vào phía trong. Ai, thì đãi rượu nào. Có cái này uống được. Ông đến nhé... Được,
hiểu là thượng hạng đấy. Trong lúc tôi liếm môi vị cô nhắc thơm cay mà một bạn
người Nga của chúng tôi, anh Vlat nghiện rượu quanh năm túng bấn chỉ nốc có rượu
trắng, cứ nói xấu lấy được rằng thằng cô nhắc có mùi hôi con rệp, tôi ghét thì
Nguyễn Tuân tự rót cho mình một ly cuốc lủi. Nguyễn Tuân xơi cái thường, nhìn
khách uống cái sang và hỏi: Thế nào? Tưởng có thèm đến mướt mồ hôi cũng không nỡ
nào dám uống thêm, thì Nguyễn Tuân lại tự tay rót ngay ly nữa. Nhưng ông cất lời
dạy bảo ngay:
- Uống trâu, mày là thằng uống trâu. Chỉ rượu trắng, người
Nga mới hắt vào miệng một tợp chống rét như thế. Rượu có giá phải nhấm nháp và
nghĩ để thưởng thức.
Tôi chịu không làm được, tôi cũng không muốn đổi lối người ta
nghiền ngẫm vị rượu trên lưỡi, tôi nghĩ về rượu trong cổ lên quỹ đạo lâng lâng
theo cách của tôi. Tôi cãi chày cối, Nguyễn Tuân không nói nữa, nhưng có vẻ
không bằng lòng... Và nhiều cái. không bằng lòng khác. Có khi cả năm Nguyễn
Tuân chán chường tôi, không nhìn mặt. Nhưng ông bạn vong niên ấy với tôi không
đến nỗi kiềng nhau như bác Nguyễn và nhân vật Mợi trong tuỳ bút Đôi tri kỷ gượng
mà chúng tôi như người nợ nhau, ghét nhau đấy nhưng lâu lâu không được tào lao
đôi ba câu, lại thấy văng vắng. Thật khó nhọc, mà lại cứ thật là cần.
Mấy chữ này của Nguyễn Tuân có thể phác hoạ ra những khúc khuỷu
trái ngược ấy.
Tô Hoài, Mình thường ít khen ông - về cả con người, cả nhà
văn.
Nhưng đọc Sài Gòn Giải phóng, 13 tháng giêng 1985 bài Một người
bạn, mình thấy có một cái gì mơi mới ở ông. Nhưng phải khen cái truyện ngắn khá
dài khá sâu rộng này. Người thật việc thật trong chuyện này có thật không, hoặc
có thì ở mức nào, đối với tôi không quan trọng. Cái quan trọng là nó như thật.
Nó hay đấy. Ông còn khoẻ hơn tôi, cứ làm độ một tập như thế này thì ông sẽ phá
kỷ lục của Tô Hoài đó.
Nguyễn Nhưng việc gì ông phải cho truyện ngắn một người bạndính
vào mục dự thi. Không dự thi thì truyện Tô Hoài giảm giá trị đi à? Hay là người
ta xui ông đi thi viết!
Nguyễn Tuân vốn mến và chơi với hoạ sĩ Nguyễn Sáng. Nguyễn
Sáng đã vẽ Nguyễn Tuân những chân dung thật đặc sắc. Nhưng mà cái hợm trong
sáng tác, không coi ai ra gì, ai cũng không bằng mình của Nguyễn Sáng thì Nguyễn
Tuân không chịu được. Nguyễn Sáng đến chơi, mùng ba Tết. Hai người uống vui,
câu chuyện xoay quanh nghệ thuật. Bốc lên, Nguyễn Sáng hét:
- Chỉ có một thằng Sáng thôi. Còn thì cứt hết!
Nguyễn Tuân giơ tay ra cửa:
- Đi ngay!
Nguyễn Sáng vẫn hăng:
- Nguyễn Tuân à, đừng tưởng bở? Ông không biết viết tiểu thuyết.
Truyện không có nhân vật, vứt đi?
- Anh ra khỏi đây ngay.
Nguyễn Sáng lập cập xuống thang.
Đến nhà tôi, Nguyễn Sáng nước mắt đầm đìa.
Nguyễn Sáng bảo con gái tôi:
- Người ta vừa đuổi chú. Năm mới mà chú bị người ta đuổi.
Ngồi một lúc coi như uống tiếp lúc nãy, tỷ tê hỏi mới ra câu
chuyện những cát tài và cái tai gặp nhau. Nguyễn Sáng nói một câu sắc rợn:
- Nó cũng khinh người bỏ mẹ, lại bảo mình khinh người.
- Lúc nãy có nói thế với Nguyễn không?
- Chưa hết câu, nó đã tống mình đi rồi. Tức quá đi luôn.
Cả sinh hoạt lẫn xử thế, lắm cái như trẻ con.
Buồn cười, Nguyễn Tuân nhiếc tôi:
- Chúa ghét cái thằng bợm bia rượu mà hàng ngày lại uống nước
lạnh.
Không mấy khi Nguyễn mời tôi uống chè. Không bao giờ cho tôi
thuốc lá.
- Mày hút phí thuốc lá.
Quả là tôi không hút thuốc. Muốn hút chơi thì tôi phải xin
ông. Thường nói, ông vừa khôi hài vừa mỉa:
- Chó biết thằng này thế nào là thật? Tao ghét cái cười mủm mỉm
hiền lành không hiền lành của mày.
Tôi cũng tìm ra cách chọc tức lại. Này ông chửi tôi giả rượu
giả thuốc, giả cười, tôi ăn bọ hung, tôi ăn thịt chuột. Ông bảo người ta chỉ thật
nhất lúc ngồi với cái chén. Nhưng mà từ thời công nguyên, hai ba nghìn năm nay,
thiên hạ thế giới đã luận về cả trăm lối nâng chén đấy, chứ không phải cách
riêng của thằng láu cá này đâu.
Tôi chìa trang Sử ký ra trước mặt Nguyễn Tuân.
Tề Uy Vương h ỏi Thuần Vu Khôn:
- Tiên sinh uống bao nhiêu thì say?
Khôn đáp:
- Thần uống một đấu cũng say, mười đấu cũng say - Một đấu
cũng say thì sao uống được một hộc? Sao nói vậy?
Khôn nói:
- Nếu cho uống trước mặt đại vương có quan chấp pháp đứng bên
cạnh, quan ngự sử nấp sau lưng thì Khôn sợ hãi cúi đầu uống, chỉ một đấu đã
say. Nếu cha mẹ có khách quý, Khôn vén áo khom lưng hầu rượu trước mặt thỉnh
thoảng được ban cho mấy giọt thừa, lại phải bưng chén chúc thọ, phải đứng lên hầu
rượu luôn như thế thì hai đấu đã say. Còn như bè bạn lâu ngày không gặp, bỗng
nhiên gặp gỡ, mừng rỡ kể chuyện cũ, đem chuyện riêng ra nói cùng, như thế uống
được năm sáu đấu. Nhưng đến như ngày hội ở quê, trai gái ngồi lẫn lộn, mời rượu
dằng dai, đánh lạc, ném hồ, kéo nhau tụm năm túm ba, nắm tay nhau cũng không ai
phạt, mắt nhìn nhau cũng không ai cấm. Đằng trước có cái hoa tai đánh rơi đằng
sau có cái trâm bị bỏ sót, Khôn trộm lấy thế làm vui, có thể uống tám đấu cũng
chỉ say hai phần. Khi trời chiều, tiệc vãn, dồn chén ngồi kề, gái trai cùng chiếu,
giày dép lẫn lộn, chén bàn bừa bãi, trên thềm tắt đuốc, chủ nhân giữ một mình
Khôn ở lại mà tiễn khách ra, áo là cởi bỏ, thoảng mùi hương thơm phức. Lúc bấy
giờ lòng Khôn rất vui, có thể uống được một hộc mười đấu. Vì vậy nói rượu quá
hoá loạn, vui quá hoá buồn, muôn việc đều thế. Vua Tề nói: Hay! (*) (* Hoạt kê
liệt truyện. Sử ký Tư Mã Thiên (145 trước CN). Như Thành dịch, lần in thứ tư,
Nhà xuất bản Văn Học, 1988) Chắc chắn Nguyễn Tuân đã ngâm nga đoạn văn này bao
nhiêu lần, nhưng tôi cứ đọc lên. Nguyễn Tuân im lặng, không phải để khỏi cụt hứng
người đọc mà Nguyễn Tuân nhấp chút chút rồi gật gù:
- Mấy năm trước, chắc tớ cũng bị theo dõi. Nhưng bây giờ thì
hẳn là thôi. Mình hay nói, đứa khác đem nói lại, nó bịa ra chuyện mới, lời bình
mới, bảo là Nguyễn Tuân nói đấy. Thời buổi sinh ra ca dao hò vè lung tung ấy
mà. Nhưng xét cho cùng, Nguyễn Tuân có tò mò đôi chút cũng chỉ nghe hơi chứ phải
đâu được mắt thấy, được ngồi bàn bạc mà biết. Cái thằng cầm bút viết được chữ
nào bán chữ ấy, sức đâu mà làm ca dao cho không. Mày học làm đầy tớ Thuần Vu
Khôn để dạy tao. Tao cũng là thầy đây. Thầy này ghét đứa nào uống rượu để nhắm
thằng khác uống rượu. Đấy, lại mất điện. Tiến lên công nghiệp nặng của ông Lê
Văn Lương ở thành phố này là phải trữ cái đèn hoa kỳ.
Năm 1954, về Hà Nội, tổng thư ký Hội Văn Nghệ Việt Nam Nguyễn
Tuân và thường trực cơ quan Nguyễn Huy Tưởng ưu tiên hai thủ trưởng mỗi người
được phát cái xe đạp, số xe công màu biển xanh. Xe đạp, Nguyễn Tuân cũng làm
cho hình thù nó khác của người ta. Khung không sơn lại, để loang lổ đen xám,
ghi đông vuông, xe cởi truồng không mắc gácđờbu. Nhưng thế không có nghĩa là cẩu
thả. Thoáng trông xấu xí, mà xe khung Pháp, phanh tốt, lốp đoonglốp đỏ sẫm.
Nguyễn Tuân đến tiếp khách nước ngoài ở khách sạn Thống Nhất.
Đi xe đạp thường ý tứ để xa xa cửa vào, rồi khoá cẩn thận tựa bờ tường bên nhà
phát hành sách. chốc nữa, khách có thân tình tiễn ra ngoài cái cửa quay, chủ chỉ
việc đi lững thững vài bước. Giả đò như ở cái thành phố xinh xắn yên tĩnh này
không cần đi ô-tô và thư thái tản bộ là một thói quen đẹp. Khách vào rồi, ông
chủ ra ngách tường để xe đạp đằng kia, mở khoá và thóc đi.
Nguyễn Tuân đến chỗ giấu xe. Cái xe đã biến mất. Mấy hôm sau,
thương nghiệp thành phố biết chuyện đã tặng nhà văn một xe Thống Nhất chưa bóc
giấy bóng. Tôi không biết cái xe ấy Nguyễn Tuân đã cho hay bán, nhưng không thấy
Nguyễn Tuân cưỡi xe đạp nữa. Trong thành phố, ông đi bộ và gọi xế lô. Chẳng mấy
lâu, bệnh thấp khớp đã khiến cho đôi chân người phiêu đãng không còn mấy vững,
phải có thêm cái gậy đỡ. Nguyễn Tuân vốn chơi gậy, có một ống đựng hàng tá
batoong các kiểu. Gậy lim sơn then, gậy lụi. Gậy song Sa pa khắc tên những nơi
đã đi qua, Matxcơva, Sôphia, Vácna... Mới thêm một chiếc nạng thương binh. Lần ấy,
vào Sài Gòn, bệnh thấp khớp khéo trêu ngươi bỗng nổi lên ở cái đất khô nhẹ, mà
những người quê miền Bắc bị khớp, xưa kia cũng như ngày nay, có điều kiện, đều
tránh cái rét mùa ẩm vào trú đông trong Nam. Thế mà Nguyễn Tuân bị sưng chân
lên đến gối, ngồi một chỗ. Cũng có thể không lạ, sự dị ứng trái ngược. Khi Nam
Cao còn trẻ vào làm ăn trong Sài Gòn, bị nề đến phải chống gậy lên tàu ra. Đôi
chân thèm đi của Nguyễn Tuân đã được đắp vô vàn cao hổ, có đến mấy chục cái
chân con hổ mà đến lúc cũng quỵ. ở quán thịt chó Sinh Hàng Lược, Đoàn Giỏi
mách:
- Hai cẳng sau con chó, ở trong Nam người ta chữa được nhiều
bệnh, thần hiệu nhất cái bệnh đau xương, bệnh khớp.
Nguyễn Tuân ở bệnh viện về. Mỗi ngày, buổi chiều, đạo diễn điện
ảnh Phạm Văn Khoa xách cặp lồng lên Hàng Lược mua cẳng chân sau con chó, không
biết hai hay bốn. Đến bấy giờ Phạm Văn Khoa cũng hoá ra người khổng lồ chân đất
sét rồi, nhưng con người cao lớn lực lưỡng ấy lại ngược đời, kém chân thì đi xe
đạp thay. Từ hôm Phạm Văn Khoa mất xe đạp, chàng mới chịu cho các nàng đèo xe
máy. Phạm Văn Khoa treo cặp lồng chân chó ở đầu thang gác lên nhà Nguyễn Tuân.
Xương hổ, xương chó và bè bạn lo cho cái chân người về già. Cũng nhờ vớt vát chịu
đựng thế mà khi đã đuối lắm, Nguyễn Tuân vẫn chống gậy với chiếc vai nhỏ đựng
sách và hộp chè, khay chén đến bệnh viện lần cuối cùng. Cả cái chai rượu lẹp dẹp
trong lườn áo khoác.
Những năm đầu, các cơ quan từ thành phố lên Việt Bắc, chúng
tôi ở xóm Chòi làng Yên Dã huyện Đại Từ chân núi Tam Đảo ngoảnh về đằng Thái
Nguyên. Ngày quang trời thấp thoáng thấy Khuôn Chu - một làng người Dao trên
lưng núi có lối tắt đỉnh núi sang vùng Tam Đảo nghỉ mát bên kia. Vào mùa mưa,
những con lũ tràn ra giữa sườn núi xanh im, xa trông như những giải lụa trăng
toả xuống. Nam Cao và tôi ở báo Cứu Quốc trên Tuyên Quang cùng đổi công tác về
hội Văn Nghệ. Nhưng Nam Cao còn lên Chợ Chu học ba tháng trường Nguyễn ái Quốc
- lớp tập trung ba tháng hồi ấy đã là dài và quy mô nhất. Tôi về thẳng xóm
Chòi.
Từ khi rời Hà Nội đến đây cơ quan mới ở lại một chỗ ra hồn.
Bên báo Cứu Quốc ở nhờ trong làng, lần lần từ Yên Thọ Hoài Đức vào Viên Nội Vân
Đình, lên Trung Giáp Phù Ninh trên Phú Thọ. Sang chán núi Tam Đảo, các gia đình
đi theo ở quanh trụ sở đông hơn các đoàn văn nghệ kháng chiến trên Nhã Nam bên
Bắc Giang, bên Xuân áng Phú Thọ và Quần Tín trong Thanh Hoá. Cơ ngơi ăn ở và
làm việc gồm những ngôi nhà nhiều buồng trên lưng đồi. Kiến trúc sư Võ Đức Diên
chỉ huy làm nhà kiểu ánh sáng cột vầu mái rơm vách nứa và ở cánh rừng bên
ngoài, trường nội trú Văn nghệ Nhân dân của ông đốc Nguyên Hồng, mỗi khoá hàng
trăm người nhiều nơi về đây học. Các nhà theo cơ quan thì ở nhờ nhà bà con
trong xóm. Tối tối, chúng tôi tụ tập ở căng tin Võ Đức Diên. Chị ấy nấu rượu nếp,
có bánh đa. Hôm nào phiên chợ Ký Phú bên kia suối thì làm bánh cuốn, bún thang.
Phạm Duy và Thái Hằng ở Thanh Hoá ra. Có một hội nghị quốc tế về âm nhạc ở
Rumani, Phạm Duy chuẩn bị đi. Tôi không biết hội nghị hoãn hay vì đường xá cách
trở, bấy giờ xe lửa Bằng Tường - Nam Ninh chưa có, cuộc đi lại thôi. Vợ chồng
Phạm Duy trở về khu bốn. Chỉ có như vậy, không lắm chuyện như Phạm Duy đã viết
trong Hồi ký thời cách mạng, kháng chiến.
Đầu năm 1950, chi bộ Đảng quyết định kết nạp hai đảng viên mới,
Nguyễn Tuân và Xuân Diệu. Mỗi người được tổ chức ở một buổi họp khác nhau. Bí
thư chi bộ Trọng Hứa phụ trách văn phòng cơ quan. Tôi ở báo Cứu Quốc về, được dự
kết nạp Nguyễn Tuân. ở rừng, giản dị như một buổi họp. Chỉ thêm một ống nứa cắm
mấy nhánh hoa mua, hoa đơn đỏ ngắt ngoài đồi. Hai người giới thiệu, Nguyễn Huy
Tưởng và Tố Hữu.
Cái chu đáo của Nguyễn Tuân, theo cách Nguyễn Tuân, nền nếp
nho phong, như Nguyễn Tuân giao thiệp với Tố Hữu. Nguyễn Tuân được kết nạp vào
Đảng ngày 18 tháng tư năm 1950 - tôi nhớ theo Nguyễn Tuân kể. Có khi, đột nhiên
Nguyễn Tuân nhắc đến. Nguyễn Tuân nói: Hôm nay, hai mươi năm trước... hăm hai
năm trước... hăm nhăm năm trước... nó quẳng mình xuống tàu Chanilly... Tết năm ấy,
năm ấy mình ở Hương Cảng... Rồi nói chuyện sách mới đọc hay có việc đương nghĩ,
chúng tôi ngồi yên. Khi bực tức một người, một bài báo, người ta nói thường thốt
ra, câu nói ác khẩu mà nhiều người hay kể lại: bao giờ tôi chết thì nhớ chôn
theo với tôi một thằng phê bình, theo cái nhớ của tôi, thật thì Nguyễn Tuân còn
nói đùa thêm để dưới ấy trao đổi cho đỡ buồn. Cũng táo tợn như cái câu của
P.Môrăng: Ta muốn sau khi ta chết đi, da ta được thuộc làm cái vali mà Nguyễn
Tuân đã lấy đặt lên đầu trang tiểu thuyết Thiếu quê hương khi in từng kỳ ở tuần
báo Hà Nội Tân Văn. Mỗi lần cáu kỉnh, Nguyễn Tuân vùng vằng nói:
- Thế này thì tao đem trả thẻ Đảng cho Tố Hữu.
Nhưng chưa bao giờ Nguyễn Tuân làm thế.
Mà chỉ thấy mỗi năm, dịp kỷ niệm ngày vào Đảng, hay tết nhất
Nguyễn Tuân đều đến chơi Tố Hữu. Thế nào cũng cầm lên mây bông hồng vàng lòng
trứng gà. Trước sau tề chỉnh hầu như đã thành nếp. Cũng là miệng xà thôi...
Không nhớ ở cuộc họp kết nạp Nguyễn Tuân tôi có phát biểu thế
nào không, nhưng sổ tay tôi ghi nhật ký ngày 18-4-1950.
Những đám mây xanh mơn mởn đùn lên như mây nổi trên khu rừng
già, đâu cũng rừng, cũng rậm rà. Chiều Việt Bắc tối rậm rịt, vướng vít trong
cây không biết mờ mờ sương hay khói trải trên lớp núi răng cưa ngang mắt. Con
chim bắt cô trói cột kêu trong chiều muộn. Tiếng con cuốc khắc khoải. Hoàng hôn
cũng buồn buồn như lòng mình, ngồi đây mà nghĩ đâu đâu. Nghe mọi người nói, tôi
nghĩ đến những chuyện khác Buổi kết nạp Nam Cao ở núi Phía Biếc rưng rưng nước
mắt. Tiếng súng moochiê của địch từ ngoài Pù giát câu vào. Buổi kết nạp Phúc
Mơ, cái dáng Phúc Mơ nhăn nhúm, đăm chiêu lúc giơ tay thề. Những điều mình dặn
Phúc Mơ, trước hôm Phúc Mơ sang giữ kho bị Tây đồn Phủ Thông bắt. Những lễ kết
nạp các đồng chí Thổ ở Bản Hậu.
Đây nói nhiều tới mình, tới sáng tác quá. Thế mà tôi lại thấy
nó bé nhỏ làm sao! Sáng tác là cái quái gì, nêu không lăn lộn, phản ánh được
chiến đấu.
Mỗi cuộc đời, mỗi trường hợp đến với cách mạng không giống
nhau.
ở Nguyễn Tuân, chắc không phải do sách vở, lý luận hay cuộc sống
tối ngày, cũng không phải vì tính toán cơ hội, hoặc đua đả. Có thể cảm kích bời
một chén rượu với Tố Hữu ở nhà hàng Thuỷ Tạ. Có thể vì hai người con lớn trong
nhà đã là việt Minh từ bóng tối mà Tổng Khởi Nghĩa rồi ông mới biết. Cũng như tấm
lòng của ông với Trung đoàn Thủ đô vì ở đấy có con trai ông, có trung đội trưởng
trinh sát Két người nhà bàn quen thuộc ở nhà Thuỷ Tạ. Cũng có thể vì một suy
nghĩ bất thần nào đó.
Không ai như ai.
Năm 1958, một hôm tôi trông thấy đi ra cổng đại sứ quán ta ở
Matxcơva một ông già nhỏ bé, gày guộc như một người Cô-dắc, người Tác-ta ở
Trung á hay một lão Di gan lang thang đi xem bói tay thường gặp. Hỏi, mới biết
tên ông là Hồng - nhưng ông quên tiếng mẹ đẻ đến đỗi không nói sõi được cả tên
mình. Ông từ một vùng thảo nguyên taiga ở Xibêri về chơi sứ quán - đã mấy lần.
Ngày trước, ông ở Pháp hoạt động cộng sản rồi trốn sang Liên Xô ông theo phái tờrốtkít
bị bắt đày đi Xibêri. Khi đó, đến cả Tưởng Kinh Quốc, con Tưởng Giới Thạch học ở
Liên Xô tham gia tờrốtkít cũng phải bắt bỏ tù. May có bố đương trị vì nước
Trung Quốc có can thiệp Quốc mới được thả về. Cách đây mấy năm, Tổng thống Tưởng
Kinh Quốc trên tám mươi tuổi, chết bệnh ở Đài Loan, có bà vợ Nga già, bà Phaina
Varêna lụ khụ, đi đưa đám - người đàn bà mà Quốc lấy ở một thị trấn Viễn Đông từ
nơi đi đày đưa theo về. Ông Hồng này cũng lấy vợ ở chỗ cấm cố, mãn hạn tù không
trở lại Matxcơva nữa. Bây giờ đã được một lũ con và ông đã già lắm, cũng không
có nguyện. vọng trở về Việt Nam. Mỗi lần đến đại sứ quán ta, gặp ai, ông cũng
chỉ nói được một câu: Tôi buồn quá và khóc rồi đi. Bây giờ, chắc ông đã mất từ
lâu. Một lần kia, đi nghỉ ở Nha Trang. Trên bãi biển, bác sĩ Trần Hữu Tước có kể
cho tôi nghe một câu chuyện. Chuyện đời của trăm nghìn người trí thức đã đến
hay không đến với cách mạng, quả là không ai giống ai.
Năm 1946, cùng chuyến ở Pa ri về Hà Nội - không kể những người
cùng phái đoàn ở Hà Nội đi Pháp, có Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước và một người
quê miền Nam tên là Quang, cùng ngành học với giáo sư Trần Đại Nghĩa. Hơn một
tháng lênh đênh trên biển, khi lên cảng Hải Phòng, Quang chào Trần Hữu Tước:
- Thôi, vĩnh biệt mày?
Rồi đi mất. Trần Hữu Tước nói:
- Nó là một trí thức giỏi, cả tuổi thanh niên chúi mũi vào
sách và phòng thí nghiệm, nó hết sức timide (nhút nhát). Tối nào anh em mình
cũng tổ chức giải trí chơi vui với lính trên tàu, cả bọn vào những cuộc hát nhảy
lu bù. Nó rất ngại và khó chịu. Có thể nó thất vọng. Có thể nó nghĩ cách mạng
không phải thế. Nó biệt tăm suốt kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Bao nhiêu
năm rồi, gần đây, nghe nó ở một thành phố miền Trung, đã già lắm, làm nghề chữa
mô tô, xe đạp. Không ai biết nó là ai.
- Anh có nghĩ khi nào tìm đến chơi?
- Không. Người ta đã coi như người ta không còn nữa, mình đến
làm gì!
Ôi, những mảnh đời khác nhau.
Một tháng sau, chi bộ kết nạp Xuân Diệu. Mùa thu năm 1950,
Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng và tôi lên Cao Bằng tham gia chiến dịch giải phóng
biên giới, chiến dịch lớn đầu tiên của quân chủ lực. Nguyễn Tuân với một đoàn
công tác khác về đồng bằng liên khu 3. Ngày 13 tháng hai năm 1951, Nguyễn Tuân
được công nhận Đảng viên chính thức ở chi bộ sở tuyên truyền liên khu - tôi lại
ghi theo trí nhớ con số tuyệt hảo của Nguyễn Tuân. Không biết khi đó Xuân Diệu
đã qua Sơn Dương và những vùng rừng thẳm Bản Ty, Đầm Hồng chưa. Bài thơ đăng tạp
chí Văn Nghệ có câu Sớm nay ra khỏi u tỳ quốc Xuân Diệu đã sáng tác ở Yên Dã u
tỳ quốc, đây mới là những nếp nhà tranh lưng đồi trung du, đâu bằng mấy năm
sau, đi sâu vào cuộc sống gian khổ, chúng tôi ở Động Móc áp núi Là, ở rừng sâu
Thượng Yên bờ sông Lô. Trước mặt, thấy con trăn gió nằm trong bụi nứa và những
con kỳ đà mốc thếch bò ra nghển đầu rình bắt gà. Đêm nghe hổ về bên suối, tiếng
gầm khô rợn.
Rời thành phố, lên đến Yên Dã đã u tỳ quốc lắm rồi. Tôi quen
Xuân Diệu trước 1945. Tôi cũng là người Xuân Diệu rủ đi nghe và cổ vũ Xuân Diệu
lần đầu tiên diễn thuyết bài Thanh Niên với quốc văn ở giảng đường trường đại học
Hà Nội. Xuân Diệu nói: Hoài đi ủng hộ Diệu. Anh Hiến sinh viên mặt tái xanh
nhút nhát ra giới thiệu lúng túng. Không sao, Xuân Diệu áo tuýt so lụa mỡ gà,
cà vạt lấm tấm vàng xẫm, làn tóc rậm đen loăn xoăn trên đài trán đã thu hút người
nghe vào ngay câu chuyện. Đột nhiên, Xuân Diệu nói nhịu chữ tâm hồng - như một
bà già trong làng bán bánh đúc có tật nói nhịu nhảm. Nhưng Xuân Diệu vẫn tiếp tục
sang sảng hùng biện, không ai kịp sửng sốt.
Xuân Diệu và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm.
Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn
mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá,
hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập Thơ Thơ khổ rộng
in ở nhà in Trung Bắc phố Hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chữ chì sắc gợn,
không phải chữ khắc gỗ đẹp đét. Thỉnh thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm
tay cả buổi, nhìn nhau tha thiết. Xuân Diệu yêu tôi. Nhớ những tình yêu con
trai với nhau, rồi trong làng và ở lớp, khi mới lớn. Học lớp nhất trường Yên Phụ,
nói vỡ tiếng ồ ồ, mặt sùi trứng cá chúng nó cứ bảo tôi là con gái. Nhiều thằng
cặp đôi với tôi đòi làm vợ chồng. Có hôm chúng nó tranh tôi, đánh nhau lung
tung. Có đứa xô vào ôm chặt, sờ soạng toạc cả đũng quần tôi. Nhiều hôm đi học
tôi không dám đến sân trường sớm. Phải lẩn vào trong ngõ Trúc Lạc, nghe trống mới
chạy ù đến sắp hàng vào lớp.
Đương cữ mưa rào. Trong thung lũng, có khi cơn nước trắng xoá
mù mịt cả ngày. ở Yên Dã, đi chợ Lục Ba, Ký Phú nhỡ gặp con lũ lên, phải ngủ nhờ
qua đêm bên này suối. Hết mưa rào xối xả, đến mưa dầm tả tơi, còn buồn hơn. Triền
núi Tam Đảo cao ngang đầu đổ bóng tối sẫm. Nước mưa giọt ngắn giọt dài, đêm
ngày mái nứa rả rích không lúc nào dứt hạt. Dường như trong trời đất chỉ còn
cái xóm núi này sót lại chưa bị nạn hồng thuỷ. Có uống cả vò rượu nếp nhà kiến
trúc sư võ Đức Diên cũng không vơi được cái hiu hắt và nỗi nhớ phố phường. Mới
xế chiều đã như chập tối, chẳng còn ai thò chân ra đường xóm đá tảng lầy lội.
Cơm xong, nhà ăn đóng cửa, mái rạ lẫn vào sườn đồi chơ vơ. Mấy cậu văn phòng ở
một mình, xong bữa lại quẳng bát đũa đấy, vào chơi ngủ luôn tại các nhà trong
xóm. Có cậu việc gấp, đánh máy đêm một lúc rồi cũng chuồn mất. Dãy buồng ở tập
thể không đèn đóm, tối thui. Không nghe tiếng người trở mình, giát giường không
ken két, im như đất hoang. Nhà tôi ở ngoài ven gò giữa đồng. Rượu khuya, đường
mưa lội tôi ngủ lại.
Chúng nó sợ, đi bỏ trống cả cơ quan. Cả dạo mưa gió Xuân Diệu
ở u tỳ quốc không ra ngoài. Giọt gianh lách tách mái nứa gọi đêm ma quái về
rùng rợn, say đắm. Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người
đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần, xuống dần
khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên như ngọn lửa
đen không có ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm lên. Chẳng còn biết đương ở đâu,
mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít cánh tay, cặp
đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ
ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi như chiêm bao, tôi rời rã,
thống khoái, im lặng. Nghe mưa rơi xuống tàu lá chuối trong đêm và cái mệt dịu
dàng trong mình. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi
và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng
lại cơn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt
lên mặt... Lần này thì tôi lử lả, tôi chuồi ra rên ư ừ, như con điếm mê tơi
không nhớ nổi người thứ mấy, thứ mấy nữa.
Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết.
Tôi hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích
thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa
mưa.
Nhưng đêm mai lại vào cuộc kịch liệt hơn. Trong đêm quái quỷ
lại thấy mình không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến
khi thật thấy rạng sáng mới rờn rợn tởm.
Mọi công việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo lên,
nháo lên một cách âm thầm. Các chàng trai trẻ chạy trốn dạt vào ngủ lang trong
xóm. Thằng Đại trắng trẻo, mũm mĩm thì biến là phải. Nhưng cả đến thằng Nghiêm
Bình cao to hiên ngang thế, tối cũng lẳng lặng vác cái ghi ta đi. Bốn bên im
như tờ. Chỉ còn cái màn đã buông sẵn của lão trai già Văn Hiên - một tay bốc trời
thường khoe trước kia đã nhẵn mặt ăn chơi xóm Mông-mác bên Pa ri. Không biết
lưu lạc ở đâu vào cơ quan, lão Hiến quần nâu vá gối, vá hai bả vai to bằng cái
quạt mo, công tác giữ sổ công văn đi đến. Có những đêm quanh đống củi sưởi Trọng
Hứa nhún nhẩy gãi ghi ta một ca khúc Phần Lan, Đào Vũ dịch lời Trung Quốc: Đây
gió, đây trong rừng... thì lão nghệ sĩ Văn Hiến bỗng trợn mắt uốn tay vờn cái ống
quần rách nhảy quanh ánh lửa một mình một điệu vanxơ uyển chuyển tả tơi. Chiếc
màn một trơ trọi của lão Hiến, đôi khi cả màn của Kim Lân, của Nguyên Hồng ở Bắc
Giang sang, ngủ tạm đấy. Chẳng biết đêm hôm có ông kềnh nào bị bàn tay nhung sờ
vào rốn không. Cuộc kiểm điểm Xuân Diệu kéo liền hai tối. Hồi ấy chưa biết
phương pháp chỉnh huấn, nhưng hàng ngày chúng tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt,
mỗi tổ buổi chiều trước giờ tăng gia lại hội ý rút kinh nghiệm, nêu hướng sửa
chữa và trình bày công việc ngày mai của từng người. Cả cơ quan họp đến khuya.
Chỉ có ông Phan Khôi lên đồi, màn vẫn mắc sẵn, đi ngủ từ chặp tối, bỏ ngoài tai
mọi việc.
Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Không biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng,
Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, những thằng Đại, thằng
Đắc, Tô Sang và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, tất nhiên không
ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng
điên kia mà, chứ có phải một mình Xuân Diệu đâu. Không nói cụ thể việc ấy nhưng
ai cũng to tiếng, to tiếng gay gắt nghiêm trang phê phán tư tưởng tư sản, tư tưởng
tư sản xấu xa phải chừa đi. Xuân Diệu nức nở nói đấy là tình trai của tôi...
tình trai...! rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra, không hứa hẹn sửa chữa gì cả. ít
lâu sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường
vụ. Và cũng thành một thói quen kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở đến những việc
chủ chốt ở ban thường vụ trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu
thành một người có thì giờ chỉ chuyên đi và viết. Mà Xuân Diệu cũng tự xa lánh
mọi công tác.
Mỗi khi nhớ, chuyện về Xuân Diệu chỉ buồn thương, buồn cười
và đáng yêu, chỉ đáng yêu. Xuân Diệu nhiều nữ tính cẩn thận, từ chi tiêu đến
sáng tác nhưng cẩn thận một cách lờ khờ, có khi anh làm gì tưởng kín bưng, kỳ
tình ai cũng đoán biết.
Đặt kế hoạch hẳn hoi chứ. Xuân Diệu hay đi nói chuyện văn
thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút kỹ lưỡng bảy, tám bài nói, nói khắp nước
cũng chuyên tám cái tủ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào giơ tay, chỗ nào
nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng và nhấn mạnh, chỗ nào đợi vỗ tay, đợi cười
và mình mỉm cười. Xuân Diệu xuýt xoa thú vị:
- Nước ta rất chuộng văn học và cũng là cái mốt. Phục vụ
không bao giờ xuể được, nói suốt tháng vẫn kín chương trình.
Thời chống Mỹ, tôi đã đi với Xuân Diệu lên nói chuyện ở trường
đại học sư phạm Vinh sơ tán trên huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Mỗi bữa ăn, Xuân
Diệu săn sóc thực đơn lấy - Xuân Diệu nói - như thế không làm chủ nhà tốn kém,
lại hợp sự cần thiết của mình. Không sang trọng đâu toàn những thứ dễ kiếm, mấy
quả trứng, thịt bò hay thịt gà, canh măng hay canh cà chua, canh cà chua hay
hơn, cho nhiều hành và nhớ mắm muối đậm một chút. Ngày hai buổi nói, lại tối nữa,
phải thế mới có sức. Cả đến viết, Xuân Diệu cũng tính chi ly tức cười. mỗi bài
đều có mục đích hai việc một lúc. Bài nói ở đài hoặc bài đăng báo rồi để in
sách. Nếu không, không viết. Đã tính trước rồi. Không bao giờ viết bài đăng báo
rồi không in vào sách. Xuân Diệu chê tôi viết lung tung, khuyên tôi không nên
phí chữ. Năm tháng qua, quyển sách thành hình trong đầu, các bài viết lắp dần
vào. Lại từ đấy tính ra sự tiêu pha. ở Yên Dã, cái quần kaki vàng nhạt của Xuân
Diệu đã bợt cả hai bên mông. Hỏi sao để trễ tràng thế, sắm quần khác đi. Xuân
Diệu nói:
- Không ngờ cái kaki này mau rách, thành thử lỡ kế hoạch.
Đáng nhẽ cuối năm mới đến hạn thay quần mới. Chán quá.
Chúng tôi đi công tác thuế công thương ở trung du. Xuống tận
Lâm Thao, cách bốt địch ở Việt Trì không mấy chốc. Đã được trên tỉnh dặn gần
vùng địch phải gọn. Gọn, nhưng ba lô Xuân Diệu vẫn đủ thứ dự trữ, mỗi chuyến đi
đều sắp sắn thế. Lọ nước mắm kem đặc sệt. Một túi củ hành tỏi đã bóc bót vỏ cho
nhẹ đem từ khu bốn ra. Hộp thịt bò khô ướp lá sả. Cái thịt bò kho khan ấy xào nấu
ở nhà tôi, hôm chúng tôi tạt vào Thinh Cù trước khi xuống Lâm Thao. Lúc đi, tôi
chỉ đeo ba lô con cóc, có cái màn và quần áo. Xuân Diệu cằn nhằn: Cậu này, có
cái ăn mà cũng ẩu Thế thì cậu quý cái gì? Nói thế, nhưng khi đến bữa vẫn cho
tôi miếng thịt kho và củ tỏi, và ăn nữa cũng được. Nhưng cứ phàn nàn, cảu nhảu
tôi cẩu thả. Tôi cười và chén tự nhiên.
Xuân Diệu cho tôi là đứa khinh bạc, nhưng lại thương tôi, nên
hay bảo ban, nhiều khi từ những việc nho nhỏ. Xuân Diệu khuyên tôi phải biết
quý miếng ăn. Xuân Diệu dạy tôi khi nào đứng đái phải cắn chặt hai hàm răng lại,
như thế sẽ ăn khoẻ chẳng kém hàng ngày uống vitamin B1. Xuân Diệu bảo bí quyết
dưỡng sinh gia truyền ấy, ông thân sinh đã dạy từ khi còn bé. Tôi có cảm tưởng
Xuân Diệu ăn uống cũng chẳng bao nhiêu, nhưng anh ăn cố. Không phải Xuân Diệu
ăn, mà một người nào khoẻ lắm gắp hộ, nhai hộ, biến Xuân Diệu thành con ma ăn,
trông đến thương. Một chuyến chúng tôi cùng nhau thăm nước Lào, ở khách sạn
Apôlô. Mỗi sáng Xuân Diệu nhắc: cậu không ăn sữa thì để riêng đấy cho mình,
không ăn hết bánh cuốn thì lấy đĩa sẻ ra cho vệ sinh để mình ăn nốt. Cố lên, ăn
phất phơ thế không được. Nhà bàn bưng ra nhiều món, Xuân Diệu cứ thong thả vừa
nhai vừa ngắm từng miếng và ăn đến hết. Đêm ấy đau bụng phải đi cấp cứu. ở bệnh
viện về, Xuân Diệu thở dài:
- Cái miệng làm khổ cái bụng, mình phải tính tham ăn.
Nhưng rồi lại vẫn cứ thong thả quét sạch mâm, như mọi khi.
Tuy vậy, ăn phung phí Xuân Diệu không chịu. Một lần, tôi rủ
Xuân Diệu đi nhà hàng Phú Gia, đầu bàn đặt chai bọc rơm rượu ý Chianti. Có cả
Nguyễn Tuân và Huy Cận. Tôi nói đùa riêng với Nguyễn Tuân:
- Phải đưa ông ấy lên cao lâu để được xem ông ấy ăn cho thích
mắt.
Nhưng Xuân Diệu chỉ gọi có một món bít tết.
Xuân Diệu bảo tôi:
- Đi nhà hàng, có bao nhiêu đứa đứng xung quanh rình chọc tiết
cậu, giết tiền của cậu, ăn làm gì! Một món ở đây nó thiến bằng cả tháng thịt
chó. Thịt chó bổ nhất các thứ thịt. Thịt chó, nhưng Xuân Diệu không bao giờ đi
ăn hàng. Xuân Diệu mua thịt chó sống, mỗi tuần lễ đánh chén hai lần vào ngày nhất
định. Trong thành phố nhiều quán thịt cầy, mà không có hiệu bán thịt chó sống.
Xuân Diệu bảo thế là Hà Nội kém, Sài Gòn có nhiều hiệu thịt chó, thịt rừng sống.
Nhưng ở Hà Nội Xuân Diệu đã có thổ mua quen. Xuân Diệu mách tôi:
- Cái cô bé quang gánh ngồi chỗ cửa sau chợ Hàng Da.
Tôi đã đến mua của cô hàng thịt chó sống bên cái sân bán cua ốc
nhớp nháp cạnh nhà vệ sinh khai nồng nặc. Bây giờ chợ Hàng Da mới, cô hàng thít
chó phải ra đứng bán rong vỉa hè. Chẳng biết ngày trước cô hàng có biết ông
khách quen ấy là nhà thơ của ta không.
Một dạo, tôi làm đối ngoại ở cơ quan. Thỉnh thoảng, Xuân Diệu
cho tôi chiếc mùi xoa, đôi bít tất đem đến tận nhà. Tôi cười:
- Hối lộ à?
Xuân Diệu nói:
- Thằng này tinh quái, cái gì cũng đoán được, mà nói ác. ừ, để
có gì thì nhớ đến nhau thôi. Làm sao đâu mà tinh quái, chỉ hồn nhiên đến như
Xuân Diệu mới lấy làm lạ.
Từ thuở trẻ, cái bắt tay như vồ lấy, trán đụng vào nhau, bốn
con mắt vuốt ve nhau nghiêng ngả. ở đâu Xuân Diệu cũng đào hoa mối tình trai.
Buổi chiều đi công tác, trong vắng lặng đã hết lo máy bay lên đánh bom, chúng
tôi đặt ba lô nghỉ chân ở ấm Thượng, xuống sông tắm táp xong lên dạo phố. Đêm
nay thị trấn mời Xuân Diệu nói chuyện thơ. Bọn con trai choai choai kháu khỉnh
xúm xít quanh nhà thơ. Tuổi trẻ, trai gái thấy nhau như có điện, dù điện yêu
hay điện ghét, điện hút lại hay điện đẩy đi, thái độ hiện ngay ra con mắt, nụ
cười, cái bĩu môi, dáng xóc cổ áo, cái nhổ bãi nước bọt. Đằng này, con gái đi
ngang mặt, Xuân Diệu cứ dửng dưng như không, nhưng con trai thì xoắn xuýt vòng
trong vòng ngoài. Sáng hôm sau còn đến chơi. Xuân Diệu nhìn dõi vào mắt, nắm cổ
tay từng đứa, mân mê như chọn đẵn mía. Các cậu ấy còn đeo ba lô hộ, tiễn chúng
tôi một quãng xa.
Chiều hôm ấy ở Viêng Chăn bên cửa sổ buồng khách sạn Apôlô bờ
sông Mêkông trông sang lưng phố bến Nong Khai bên kia. Rặng cây may sắc, những
chòm hoa đùn lên như dải mây vàng phủ dài. Chúng tôi trầm ngâm cả giờ nhìn sông
lũ đỏ ngầu - cách một mảng nước đã là Thái Lan. Mai mốt dòng sông xuống dưới
kia thành Cửu Long, chín con rồng qua chín cửa ra biển Đông. Thời gian, xa cách
và sông nước lúc nào cũng không cùng.
Tự dưng, Xuân Diệu nắm tay tôi:
- Chúng mình già rồi.
Nhớ lại những đêm man dại ở Yên Dã, nhớ như in hơn bốn mươi
năm trước, cũng tay tôi đây, Xuân Diệu vuốt lên, đắm đuối. Bây giờ nhìn nhau lặng
yên. Tôi chợt buồn hơn cả câu Xuân Diệu nói. Xuân Diệu không già mà chỉ có tôi
mới là ông lão. Xuân Diệu có một tình yêu riêng không khi nào biết tuổi, từ xa
xưa đến bây giờ vẫn tơ vương, vẫn thanh xuân, vẫn thiết tha. ở Đan Mạch mới có
luật cho người cùng giới lấy nhau. Lão Xen 72 tuổi yêu lão Alyxin 70 tuổi đã
trên bốn mươi năm, bây giờ được ra toà thị chính thủ đô Côpenha làm đăng ký kết
hôn. Nhưng tình trai chàng Xuân Diệu không thuỷ chung như hai lão già nước Đan
Mạch kia. Xuân Diệu đào hoa và đam mê, cả đời đuổi theo mộng, nhiều mộng, nhiều
mối tình trai. Một bài thơ, những bài thơ, những mối tình trai và tình gái. Thơ
tình Xuân Diệu gửi một người lính trẻ rời thành phố vào chiến trường chống Mỹ.
EM ĐI Tặng Hoàng Cát Em đi, để tấm lòng son mãi Như ánh đèn
chong, như ngôi sao Em đi, một tấm lòng lưu lại Anh nhớ thương em, lệ muốn trào
Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga Chưa chi ta đã phải chia xa!
Nụ cười em nở, tay em vẫy Ôi mặt em thương như đoá hoa!
Em hỡi! Đường kia vướng những gì Mà anh mang nặng bước em đi
Em ơi, anh thấy như anh đứng Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa Nhưng bóng em đi đã
khuất rồi Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời
Em hẹn sau đây sẽ trở về Sống cùng anh lại những say mê...
áo chăn em gửi cho anh giữ Xin gửi cùng em cả hẹn thề Một tấm
lòng em sâu biết bao Để anh thương mãi, biết làm sao!
Em đi xa cách, em ơi Cát Em chớ buồn, nghe. Anh nhớ, yêu...
(Đêm 11/7/1965 23 giờ 30) (Báo Nhân Dân số Tết Kỷ Tỵ (1989)
Ai yêu thơ Xuân Diệu, hiểu được thơ tình tha thiết đẹp đến não nùng của Xuân Diệu,
không danh giới tơ duyên trai hay gái, phải thấu hiểu nỗi niềm và duyên nợ của
nhà thơ như thế, suốt đời nhớ thương và chờ đợi mới là biết yêu thơ Xuân Diệu.
Khi nào cũng khát vọng, không bao giờ già, mãi mãi ban đầu.
CHƯƠNG 4
Những chuyện Nhân Văn và thời kỳ hữu khuynh, tư tưởng bị lũng
đoạn tôi chôn vùi đi lâu rồi. Nhưng chưa phải đã được dứt. Chuyến đi Lai Châu ấy
cũng là cho khuây khoả mà thôi. Bởi vì cuốn tiểu thuyết Mười năm của tôi - một
trong những ấn phẩm cuối cùng của nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Lập tức, các báo mổ
xẻ phê bình. Một đòn đánh mạnh và lý lẽ nhất, bài của Như Phong trong ban biên
uỷ báo Nhân Dân in trên báo ấy và bài của Trần Độ trên tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Đấy cũng là một quyển sách còn sót lại thúc đẩy phải đóng cửa nhanh nhà xuất bản
này.
Rồi Võ Hồng Cương thường trực Hội Văn Nghệ tổ chức một trận
phê bình miệng. Nhà văn, nhà lý luận phê bình, nhiều cán bộ giáo vụ trường đảng
và cả tỉnh uỷ Hà Đông tham dự. Mười năm, một cuốn tiểu thuyết bộ ba của tôi viết
về quang cảnh và con người vùng Nghĩa Đô nghề thủ công phía tây bắc thành phố
vào ba thời kỳ nối nhau. Tiểu thuyết Quê nhà, nhà xuất bản Tác phẩm mới in khoảng
thập kỷ bảy mươi sau này. Sự việc cuối thế kỷ trước qua hai lần quân Pháp đánh
Hà Nội, các làng ngoại thành nổi lên. Quê người là cuốn truyện dài đầu tay,
quãng 1940 tôi viết cùng thời với những Dế mèn phiêu lưu ký, Giăng thề, O chuột.
Quê tôi, lĩnh lụa nghề tổ bị lụi bại, người làng phải bỏ đi tha hương đất khách
quê người. Tiểu thuyết Mười năm như một tự truyện viết về một đám thanh niên
trong làng tham gia Việt Minh nhen nhóm phong trào cách mạng tiến tới Tổng Khởi
Nghĩa.
Mười năm được viết ra, những năm đó tôi về ở trên Nghĩa Đô.
Văn Cao làm bìa, Văn Cao đã bắt đầu vẽ bìa để sinh sống. Văn Cao vẽ cái bóng
làn nước chảy đìu hiu chân cầu, ý nghĩa thời gian trôi, Mười năm mười năm nước
chảy qua cầu. Có hai người phát biểu gay gắt nhất. Như Phong:
- Mười năm có thể là một cuốn tiểu thuyết khá, vì đấy cũng là
thực tế ở làng quê tác giả và chính tác giả đã sống. Nhưng nó đã được chuẩn bị
và sáng tác trong thời kỳ Nhân Văn lũng đoạn nên bị ảnh hưởng xấu. Các nhân vật
cán bộ cách mạng đã bị bóp méo đến thảm hại.
Tôi không biết Lưu Quyên bấy giờ công tác ở đâu. Nhưng tôi đã
gặp Lưu Quyên khi phụ trách báo Cứu Quốc khu Ba. Tôi ở Việt Bắc về qua Vân
Đình, đi vùng Mường trên Đà Bắc. Nghe nói Đinh Hùng ở báo Cứu Quốc tôi tìm đến
gặp Đinh Hùng ở một xóm đồng chiêm gần Chuôn Tre lối ra Đồng Quan. Những câu ca
dao in báo Cứu Quốc và bài thơ Cô du kích... Ngày nào trở lại cố đô. Ôi Thăng
Long rợp bóng cờ vinh quang... Đinh Hùng đã làm và in trên báo Cứu Quốc những
ngày ở đấy. Sau Đinh Hùng theo Vũ Hoàng Chương xuống Quỳnh Côi dưới Thái Bình,
bị Tây quây, rồi về Hà Nội.
Lưu Quyên dõng dạc:
- Tôi là người chịu trách nhiệm phong trào Hà Đông thời kỳ ấy.
Hà Đông chúng tôi khi đó không phải như trong tiểu thuyết Mười năm. Tôi phản đối
người viết đã xuyên tạc sự thật lịch sử.
Rồi sau cũng nhiều khi Như Phong đi với Nguyên Hồng gặp tôi ở
quán bia gốc liễu nhà Thuỷ Tạ. Ông này uống bia pha rượu trắng, tôi để ý thấy
màu bia ở cốc ông nhạt hơn các cốc xung quanh. Cái lúc bè nhè vẫn hăng hái lý lẽ
nhưng Như Phong làm như quên bữa anh đã cạo tôi. Còn Lưu Quyên về sau cứ từ đằng
xa trông thấy tôi là tránh sang vỉa hè bên kia. Chỉ có một cuộc phê bình miệng ấy.
Người viết không phải nói tiếp thu và hứa hẹn sửa chữa như chỉnh huấn. Tuy vậy,
đi làm hợp tác xã mấy tháng dưới Thái Ninh về tôi vẫn loăng quăng, day dứt.
Tôi đi Lai Châu, cho đỡ bận lòng. Cùng đi có Nguyễn Tuân, Văn
Cao.
Giữa trưa, xe lửa chạy Lào Cai. Đường sắt này mói chữa lại
năm trước. Nhớ cái lớp 18 ngày, tôi bỏ đi dự khánh thành đường Hà Nội - Lào Cai
về bị kiểm điểm. Thoáng nhớ thế thôi. Khách vắng, cả cái toa hạng ba, chỉ có
Nguyễn Tuân, Văn Cao với hai két bia mang theo. Người nhà tàu vui tính đội mũ
lưỡi trai đã chiều khách, không cho ai lên thêm toa ấy. Và cũng uống bia chan
hoà với chúng tôi. Mới đụng cốc đã mặt đỏ găng. Không biết uống, nhưng vì anh
thích các ông khách nhà văn quá. Hồi ấy còn kiểu thùng bia hơi xù xì như cái
chĩnh đại, chai si rô lựu đỏ gắt đặt trên mặt quầy. Chỉ uống cốc con, pha nước
ngọt. Người ta còn nhăn mũi chê bia đắng. Cốc vại nửa lít mới trông đã hãi. Hai
két bia hai mươi bốn chai của chúng tôi như hai cái cũi lợn. Người coi toa say
bia, đi ngủ từ chặp tối. Nhưng vẫn nhớ công việc, anh khoá trái hai cửa đầu toa
rồi nằm chúi đâu không biết. Làm thế nào, buồng vệ sinh lại ở cửa toa, phía
ngoài. Mà hai két bia Trúc Bạch thì uống cả đêm nay. Thế mà rồi cũng xong. Bởi
vì các cửa sổ toa đều vẫn mở được.
Suốt đêm, tàu qua Phú Thọ - Yên Bái đôi chỗ lấp loáng mặt
sông Hồng và ánh trăng. Những đồi cọ như đàn voi phủ phục. Chín năm kháng chiến;
người xuôi tản cư lên đồi cắt cỏ tế phơi đun bếp. Lại ngắt từng ôm lá sắn về muối
dưa. Nồi cơm sôi lên, khúc sắn trưa cõng hạt cơm - củ sắn ba bốn năm còn sót lại
vừa mới bới. Những ngày tản cư trong kháng chiến tưởng tượng xanh trong như
trung du vào thu, loáng thoáng qua ngoài cửa sổ sáng trăng. Không rõ tàu tới
đâu, nhưng cứ tưởng ra chỗ nào cũng ngỡ đấy là những phố ẻn, rồi ngòi Lửa bên
kia Chuế Lưu rồi lên đến ga Đan Thượng... Mỗi khi tôi ở Bắc Cạn, ở Tuyên Quang
về nhà, xuống phủ Đoan ra Cát Lem đầu lô hay qua bến Ngọc, chợ Ngà, tắt rừng về
Đại Phạm ra Đan Hà. Có khi xuống ngã ba Phú Hộ rồi rẽ sang Thái Ninh ra Vũ ẻn
ngược bờ sông lên. Làng xóm và hàng quán những ông bủ bà bủ, đi một dơn, đi một
tay dao và gió, gió thì gọi là bão, bão rồi, đò ngược đò xuôi sông Lô, sông
Thao...
Ký ức theo con tàu chạy đương nối nhau trở về. Năm 1945, mờ
sáng, tôi đi với bộ đội từ Yên Lạc tấn công vào thị xã Vĩnh Yên. Quốc dân đảng
đã rút lên Việt Trì đêm trước. Chiếm Phú Thọ rồi truy kích tóm hụt thủ lĩnh Lý
Ninh, nhưng cũng bắt được một số đầu xỏ. Đêm, chúng phá trại giam, chạy lên đến
Vĩnh Chân bờ sông thì bị bắt lại. Toà án quân sự mặt trận quyết định xử bắn
ngay, trong khi các đơn vị vệ quốc đoàn vẫn đuổi theo tàn quân địch dọc đường sắt
lên Yên Bái. Một cái đầu tàu chạy quãng này còn lại ở thị xã. Tôi vào bãi bắn ở
sân bay. Khói than đỏ hồng trong sương mờ lành lạnh. Sân bay cũ cỏ mọc xanh lút
đầu gối. Cái đài nước đổ nghiêng như một tảng đá trắng giữa bụi lau.
Sự tích của đám bị bắt lại cũng lộn xộn, khó hiểu như được
thua của một trận đánh. Tư ẩn, một trong ba cụ đầu xỏ bị trói gô lúc đương ngồi
xếp bằng uống rượu trong đình Yên Kỳ, xung quanh đã chạy hết. Đặng Văn Mười còn
có những tên là Tử Pính, là Hùm Xám. Một lão nhà giáo hơn hai mươi năm trước đã
ngồi bảo học ở Phú Thọ. Quái đản nhất, đội Thất, nguyên cai ngục Yên Bái. Đội
Thất đã đẩy xe máy chém ra đầu tỉnh, sáng tinh mơ ấy thủ lĩnh quốc dân đảng
Nguyễn Thái Học và đồng đội bị rơi đầu. Bây giờ lão theo quốc dân đảng vẫn được
gọi là đội Thất. Sáng bạch, bọn tù được dẫn bên đề lao sang, bước loi thoi qua
đám cỏ rậm đường băng. Hùm Xám đi bên trung đội trưởng Luân, lý láu hỏi:
- Chốc nữa ông làm coup de grace (*) hả?
(* Phát súng sau cùng (còn gọi phát súng ân huệ) bắn cho chết
hẳn người tử hình đã bị bắn) Nếu cái xích tay Hùm Xám không động lách cách dễ
tưởng như hai người đi xem tử tù. Trung đội trưởng không nói, nhưng tỏ vẻ bực
mình vỗ vào cái súng lục ổ quay bao da đeo lủng lẳng bên thắt lưng. Lại hỏi:
- Súng gì thế, thưa ông! Sanh tiên hay poọc học? Cái lão tử
tù này mắc bệnh hỏi.
Giữa bãi cỏ, bên cạnh bảy cái cọc tre mới đóng, hai mâm đồng
dọn ra giữa những viên gạch vỡ kê làm ghế ngồi. Xôi đỗ xanh, thịt gà luộc chám
muối. Cả bát nước suýt. Một nải chuối đặt cạnh những chai rượu trắng. Không hiểu
sao những sáu bảy chai - giúp cho người ta quên chết hay còn thừa thì chốc nữa
vệ quốc đoàn để rửa tay, để uống nốt? Chỉ một loáng, đám tù đã chén tiệt hai
mâm xôi dỡ trên lá chuối. Cả những cái chai không lăn lóc. Từng người đứng ngồi
nhấp nhô, ai cũng râu ria xồm xoàm, mặt đỏ phừng, mặt tái ngắt phì phèo tuôn
khói thuốc lá cuốn sẵn, thanh thản lạnh lùng như những người xa lạ ngồi đợi tàu
ở ga. Hùm Xám lơ láo nhìn quanh, bỗng cong cổ gào: Đời đẹp quá! Đời đẹp quá ít!
Lão Tư âm, hai tay xích để trên đầu gối, im lặng. Mặt rượu tím Quan Công, nổi bộ
râu ba chòm, con mắt sắc như dao liếc. Lão ngẩng nhìn cái đài nước đổ đằng cuối
bãi. Lão giơ ngang tay xích, cười khểnh, nói: Cái đài nước kia to thật lực mà
cũng đổ nhỉ?, Rồi lại trầm ngâm. Hùm Xám ngoái cổ lại hỏi trung đội trưởng
Luân: Ông cho coup de grace hả? Nhờ ông cho nhanh một tý. Lão cựu giáo học thì
cứ thở hổn hển. Không biết lão say rượu hay lão lên cơn nghiện.
Trung đội trưởng Luân đứng nghiêm, hỏi to:
- Phạm nhân có dặn dò, có nhắn gì nữa không?
Đội Thất, người đã beng đầu Nguyễn Thái Học năm xưa, hét:
- Việt Nam quốc dân đảng vạn tuế, vạn vạn... ối giời ôi!
Bấy giờ ông cố đạo rửa tội, mới đến. Ông quăng vội cái xe đạp
giữa bãi cỏ, bánh trước nghênh lên quay tít. Ông ở tận nhà thờ bên phủ Đoan
sang, có lẽ đã đạp xe suốt đêm qua. Quần ông xắn cao trên đầu gối. Ông lấy cái
áo choàng đen trong ba lô ra mặc, áo trùng buông xuống, ống quần vẫn xoe trên bắp
chân bê bết bùn. Ông cố đạo còn trẻ, chẳng nghỉ ngơi nửa phút, ông đến trước mặt
từng người tù làm dấu thánh, rì rầm, rì rầm. Lão đội Thất được rửa tội sau
cùng. Tự dưng, đội Thất kêu lên: Không, không, tao đéo xưng tội với mày! Rồi
giơ hai tay xích nện xuống cái mũ lá của ông cố đạo. Ông cố đạo thản nhiên lùi
xa, lại làm dấu thánh, cúi đầu đọc kinh nho nhỏ. Toán cảnh vệ bồng súng chào giữa
trời rồi quay lại từ từ quỳ một bên gối xuống mặt cỏ. Cách mấy thước, những người
tù đã bị bịt mắt miếng vải đen, trói ngoặt cánh tay, cẳng chân vào cọc. Phút hốt
hoảng khủng khiếp bất thần đến. Tiếng kêu la thất thanh trong tiếng súng vang từng
chặp. Nghe rõ tiếng lão đội Thất: Chưa trúng tôi? Chưa trúng? ối giời tôi, tôi
oan, hay là tôi oan... Nhưng cái đầu lão đã ngoẹo trên cọc, máu tuôn òng ọc.
Trong làn sương lẫn khói súng, bác sĩ Triển áo ba đờ xuy dạ đen, kính trắng,
như thần chết vác lưỡi liềm ra. Chiếc ống nghe dí vào ngực từng cái xác. Trung
đội trưởng Luân bước trước, mỗi cái xác bồi một phát súng lục vào gáy.
Mù sớm loãng dần, nhìn ra đám cỏ xanh eo éo. Ven đồi, những
cây cọ bị gió đánh xơ xác rũ rượi, như tốp người nữa đợi đến lượt xử bắn.
Làn sương đêm dày đặc toả vào cửa sổ toa tầu. Chúng tôi ngợp
trong sương, ho sặc sụa. Tôi nhớ cảm giác lạnh lẽo u ám sương mù thế này năm
trước cái hôm bọn tử tù bị trói trên cọc. Rồi tôi nhớ Nam Cao, Tây đã bắn chết
Nam Cao có lẽ cũng tương tự như thế, khi mới chặp tối trên đồng nước Hoàng Đan.
Rồi nghe Thôi Hữu kể lúc Trần Đăng và Thôi Hữu bị quân quốc dân đảng Trung Quốc
đem bắn ở chân núi Nà Lầu trên biên giới. Rồi ở Tuy Hoà, Ninh Hoà hay Nha
Trang, lại Trần Mai Ninh tử nạn.
Đoàn tàu đã qua thị xã Phú Thọ. Vừng trăng mười tư lên giữa
trời trong veo.
Ngày ấy nhiều vùng đường xuôi tản cư dần lên ngược, cứ cái
tên được đặt cho cũng dễ tìm được đường đi, Hà Nội Đồng Quan, Vân Đình, Hà Nội
Phú Thọ, Hà Nội Đại Từ, Hà Nội Bắc Cạn, Hà Nội họp chợ lập phố giữa đường. Trận
quân Pháp vận động lớn đánh vu hồi khép gọng kìm Việt Bắc mùa đông 1947, những
bèo bọt Hà Nội ấy tan đi hay tụ lại, không biết đâu là chừng. Mặt sông vừa tạnh
sương lúc mặt trời hé ra, từng đoàn người các bến về đã đổ lên chợ Mè trong thị
xã. Nhộn nhịp chợ búa, người ở xuôi tản cư ra chợ, mua bán, hò hẹn, thề bồi nhất
quyết đi nữa hay đành dinh tê về thành. Bao nhiêu nông nỗi không ai biết đấy là
đâu. Sân bay Phú Thọ hôm có cuộc xử bắn vẫn đương còn sầm uất. Pháp lên chiếm
Việt Trì rồi mấy hôm sau nhảy dù ban ngày xuống ngay chợ Mè giữa thị xã.
Đoàn cải lương Kim Chung tản cư ra đương diễn ở thị xã. Dãy
phố cô đầu Chín Gian cửa hé cửa khép như chưa biết Tây đã lên Việt Trì. Chủ nhiệm
báo Cứu Quốc mà tôi đương làm phóng viên, Xuân Thuỷ Nguyễn Trọng Nhâm thuở trẻ
hoạt động ở Phú Thọ và để có cái độ nhật đã mở hiệu bào chế thuốc bắc Thọ Xuân
Đan, lại xin được chân phóng viên nhặt tin vặt cho báo Đông Pháp. Có thể cắt
nghĩa được, ở nhà tù Sơn La, trong các dịp vui với bạn tù, Xuân Thuỷ hay đóng
vai ả đào óng ả, véo von hát nói, ngâm thơ, có khi lại làm khách làng chơi
nghiêng tang trống cầm chầu điệu nghệ. Cũng là nhờ xưa kia ông nhà báo lá cải
đi chơi che tàn với các thày thừa, ông lục, ông ký ga, ông chủ sự dây thép. Thỉnh
thoảng, lặn lội ở Hạ Giáp trong Phù Ninh ra, Xuân Thuỷ hay đưa tôi đến xóm cô đầu
Chín Gian tom chát cùng ông Ba Triệu - một tay buôn và địa chủ có hạng ở ghềnh
sông, ghềnh Ba Triệu quãng Lâm Thao lên, giàu có không kém chủ tịch Mặt trận
Liên Việt tỉnh Đào Đình Quang ở đồn điền Thái Ninh. Cũng chẳng mới lạ và ham hố
chơi bời gì, vẫn vui chân thế thôi. Mới mấy tháng trước, ở Hà Nội, không mấy tối
chúng tôi vắng mặt dưới Khâm Thiên. Cả toà soạn đi hát. Văn Tân thọt chân cũng
có. Văn Tân với tôi ngồi cùng một xe tay. Xe ghé vỉa hè nhà hát, tôi xuống trước,
Văn Tân vịn vai tôi, một tay chống batoong bước ung dung vào như người hai chân
đi bình thường. Chùm trò Xuân Thuỷ rồi Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Ngọc Kha... Roi
chầu anh Đan - bí danh của Xuân Thuỷ, sảng khoái, hào hoa lắm. Trần Huy Liệu ở
cơ quan Tổng bộ Việt Minh tầng trên toà báo. Trần Huy Liệu giơ tay chào, cười
cười, mỗi tối thấy chúng tôi đi chơi. Ông anh thèm đi theo. Nhưng các chức Phó
chủ tịch nước và Bộ trưởng Bộ tuyên truyền, lại chủ tịch hội Văn hoá Cứu Quốc
không cho phép. Đến hồi thành phố căng thẳng, đề phòng Pháp đánh úp đêm phải rời
ra ngủ chùa Thông làng Mọc, xâm xẩm chúng tôi đạp xe qua Khâm Thiên. Trong ánh
đèn nhấp nhoáng, các cô ả đào chạy ra nhìn mặt khách quen, gọi ý ới: Anh Mão
ơi. Anh Thiên ơi? Anh ơi! Anh ấy ơi? Tối hôm sau phải đạp đi tránh quàng đường
Sơn Tây ra Cầu Giấy...
Cho nên, cái khi mới tản cư, tạt qua thị xã Phú Thọ, ông Nguyễn
Trọng Nhâm cựu phóng viên báo Đông Pháp có ôn lại mấy ngón roi chầu mà ông ấy
và tôi được đi che tàn cụ Ba Triệu, âu cũng là cái thú nghiệp dĩ. Năm 1954, trở
về Hà Nội, một dạo ở Khâm Thiên còn có nhà hát. Tiếng tom chát dưới nhà trên
gác khêu gợi. Không sợ, cũng chẳng ngại, nhưng tôi không còn hào hứng. Như Nguyễn
Tuân hồi ấy lên nằm bàn đèn với ông Hy chả cá. Ông Hy Chả Cá, cũng như ông Mác
xen hàng Bạc - những Mạnh Thường Quân của làng báo ngày trước. Ông Hy hút thuốc
phiện trong gác xép cạnh gian bán chả cá - sau cái bàn thờ như cây hương. Nguyễn
Tuân và tôi nằm ngồi một bên chiếu cạp điều. Nguyễn Tuân nạo sái, hơ thuốc chín
nâu sẫm, nhồi vào tẩu, quay dọc tẩu sang mời ông Hy.
Ông Hy trầm ngâm nói:
- Cái tay còn nghề lắm. Vẫn hút hả?
Ông Hy hút rồi nhồi điếu thuốc mới, mời lại:
Nguyễn Tuân lắc đầu. Ông Hy phũ một câu:
- Tiên sư ông, bàn tĩnh tại gia đây, sợ chó gì!
- Không phải, thấy không thích.
Ông Hy thở dài, nghiêng cái đầu hói trên gối, kéo nốt điếu
thuốc. Bà Hy ló đầu vào chào rồi hỏi khách: Hồi này các ông anh đóng ở đâu mà
lâu không thấy đến? Mấy hôm sau, khối phố gọi ông Hy đi trại cai nghiện. Ông Hy
uống một bữa rượu nhắm chả rán, nem Sà Goòng - chứ không phải chả cá, rồi chết
trong buồng ấy bên cạnh bàn đèn. Năm vừa rồi, vào Sài Gòn, Nguyễn Tuân cũng chỉ
nằm chuyện và tiêm cho Tô Hà hút ở chợ Cũ. Tô Hà là thằng Điều làng tôi, nó hút
để chữa đau bụng. Ra về, Nguyễn Tuân xin tiệm hút cái gối sành đem ra Hà Nội
làm kỷ niệm. Rồi cái gối sành trắng bóng nghìn năm không vỡ của tiệm hút, Nguyễn
Tuân cũng vứt ra ngoài hiên, giữa lũ vỏ chai bia, nước mắm, vang dâu đợi bán đồng
nát. Đã bảo không thấy thích nữa thì chối, thế thôi. Một lần, ở phố Kỳ Đồng, nhạc
sĩ Lưu Hữu Phước tổ chức một buổi hát ca trù. Ban tổ chức bày biện như họp hội
trường, ghế kê thành từng dãy, không có đánh trống chầu. Xong mỗi khổ hát, người
ngồi các ghế đứng lên rào rào vỗ tay hoan nghênh bà Quách Thị Hồ. Nguyễn Tuân lừng
lững đi về. Bà ả đào Phúc ra ngoài, nhìn bộ ria đen của Nguyễn, khẽ nói lỡm như
ngày xưa: Râu với ria, rõ nỡm. Về hay sao?! Câu hỏi níu lại tình tứ đấy. Những
năm ấy bà Hồ, bà Phúc còn phảng phất đôi nét xoan, chưa phải bà lão tám mươi
như bây giờ. Nhưng chúng tôi không thể đủ hứng nán lại ngồi xem hát nhà trò mậu
dịch.
Đoàn tàu Lào Cai rầm rập vào khuya. Ngoài cửa sổ, ánh trăng ướt
loang loáng trên lưng tàu lá chuối. Hình như đương qua ga Đan Thượng. Tưởng sắp
về đến nhà như hồi đi tản cư. Trong bóng tối vườn chuối trong Đại Phạm, mộ bố
tôi ở đấy Bố mẹ vợ con tôi đã tản cư ở lâu vùng này. Con gái lớn tôi sinh ra ở
Đan Thượng, tên là Đan Hà. Cũng như Nguyên Hồng có cô con gái tên là Nhã Nam,
cái Nhã Nam. Các con tôi đều được đặt những tên để nhớ. Đan Thanh nửa đêm mẹ trở
dạ ở túp lều nhà ven đồi Phú Thịnh ra Ba Quanh Thanh Cù, Xuân Đán, Xuân áng bên
kia sông, nơi có trại văn nghệ kháng chiến, Phan Khôi, Thanh Tịnh, Võ Đức Diên,
Tạ Mỹ Quật, Nguyễn Nghi, Nguyễn Khang, Nguyễn Xuân Khoát - xưởng vẽ của Tô Ngọc
Vân, tiền thân trường đại học Mỹ Thuật, có Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên...
Bố mẹ tôi được Nguyễn Văn Mãi quản lý hội Văn Nghệ về Hà Đông đón lên Vĩnh
Chân, rồi sang Xuân áng ở nhờ nhà ông Cầu trong xóm cùng nhà với anh chị Nguyễn
Xuân Khoát. Con Sông Thao sinh ở Hà Nội, chúng tôi vẫn giữ hơi hướng những gian
nan và thiên nhiên sông Thao. Khổ thì khổ thật, thế mà nhớ lại vẫn nhớ.
Trăng đã xế bên kia. Tiếng bánh rít ghê ghê, tàu lắc lư xốc
người lên. Chúng tôi vẫn uống bia. Mọi rác rưởi thừa ứa trong người chốc chốc
được đứng lên tống ra ngoài cửa sổ, sạch sẽ cả. Đoàn tàu ào ào trong đêm... Có
thể Nguyễn Tuân và Văn Cao đương tưởng lại bệnh viện Thuận Châu giữa đường lên
nông trường Điện Biên mà hai người mới đi lao động ở trên ấy về. Mới qua Suối
Rút, sáng sớm Văn Cao vừa trở dậy xúc miệng đã thủng dạ dày, ngã ra. Chiếc xe tải
của quân đội chở người phải mổ cấp cứu leo các dốc Đá, Hát Lót, Sơn La lên châu
Thuận... Mỗi nơi có trạm xá lại được y tá ra xe tiêm cho người sắp chết một
phát hồi sức. Suốt ngày đường, xẩm tối mới tới Thuận Châu - phúc bẩy mươi đời,
bệnh viện vừa mới được trang bị đồ mổ và bác sĩ chuyên khoa cũng mới ở Hà Nội
lên, chưa đụng đến dao kéo. Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Tuân phải là người thay
mặt gia đình, theo thủ tục, ký giấy đồng ý cho mổ Văn Cao. Phòng mổ căng vải dù
trắng như trạm sơ cứu tiền phương. Một đèn măng xông không đủ sáng. Nguyễn Huy
Tưởng và Nguyễn Tuân phải đứng cầm đuốc soi cho ca mổ, như Quan Vân Trường đốt
đuốc trước xe Cam, My phu nhân. Bác sĩ đánh thuốc mê đến sáu lần, con bệnh mới
thiếp đi được. Nguyễn Huy Tưởng kể lại nói chắc là trong máu thằng này từ thuở
trẻ đã tích tụ lắm sái, lắm cồn quen thuốc mê quá rồi. Văn Cao nằm lại châu Thuận
mấy tháng, đến khi về Hà Nội lại phải mổ ra khâu lại. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy
Tưởng, Lưu Quang Thuận, Nguyễn Văn Tý thì vào lao động ở nông trường Điện
Biên... Rồi sau Nguyễn Tuân ra ở với đội làm đường ở Xuân Tre. Giữa đêm, cháy
lán, Nguyễn Tuân mất sổ tay, lửa lém bỏng cả mu bàn tay: Chắc thấy lửa giữa rừng
ma quái quá, con rượu mê mải ngồi xem lơ đãng đến mức lửa bén cả vào tay mà
không biết - tôi nói đùa. Bởi không hiểu sao Nguyễn Tuân lại để cháy đến tận
màn và mu bàn tay còn sần sùi một vết sẹo bỏng.
Rồi những lần ra biên giới Việt Lào ở Tây Trang, những chuyến
lên các làng dân tộc Mông ở trên núi lòng chảo bọc cánh đồng Điện Biên. Con suối
Nậm Rôm vắt ngang Mường Thanh chảy ra suối Nậm Mu sang tận ngã ba sông Mêkông -
Nậm Mu phía trên cố đô Luang Prabang một quãng không xa. Nguyễn Tuân đã dầm
chân trên suối Nậm Rôm. Còn tôi, đã có lần ngồi thuyền qua giữa ngã ba sông Mê
Ông - Nậm Mu kia. Một cái thư Nguyễn Tuân viết ở lán làm đường Xuân Tre.
Công trường 426 Xuân Tre - Tuần Giáo Chủ nhật 20 tháng ba.
Tô Hoài, Cho đến hôm nay mình mới đọc scenario (kịch bản
phim) Vợ chồng A Phủ. Thích đấy. Hơn cái facture (xây dựng, cấu tạo) nouvelle
(truyện vừa) được giải thưởng. Có lẽ anh scenario này mới là anh ăn đích cái giải
thưởng cũ. Những lúc này mình ước giá có Tô Hoài. ở đây rượu suông cũng uống được
nửa cây. Hôm đi Than Uyên cũng gặp người quen Tô Hoài. Hôm ngủ Nậm Din, mậu dịch
Khôn cũng cứ hỏi mình sao bác Tô Hoài không lên với ông?
ở Tuần Giáo, hôm mình vừa tới lại gặp cả vợ chồng A Phủ. Mình
chưa biết Jeuscenique (khả năng sắm vai) cô Hoàn ra sao, nhưng cũng tin là cô
đóng được.
Mấy hôm nay gió Lào nổi lên nhức đầu quá. Hôm ở Than Uyên,
gió Than Uyên buốt. Hại tiền cao hổ cốt quá. Ông có thì giờ, nhìn hộ tôi mặt
mũi Sông Đà (quyển Sông Đà đang in) nó ra sao?
Nguyễn Tuân Bao nhiêu đường trường. Chỉ trên đường mới cảm thấy
thơ thới, trong thành phố tù túng không tìm đâu ra những thảnh thơi được. ở
trên núi xuống, lại vào giới tuyến. Những lần lặn lội ngược xuôi sông Hiền
Lương lên thấu cột mốc đầu sông lại xuôi Cửa Tùng, hai bên bờ đồn địch đồn ta
đóng đăng đối, những chiếc loa vành rộng hơn bánh xe đạp cứ thi nhau chõ qua mặt
nước lúc chửi lúc lại hát, như điên.
Nhớ sao những chiều Nguyễn Tuân, Kim Lân và tôi ra tha thẩn
ngoài Cửa Tùng đợi đoàn thuyền đánh cá về. Mặt nước, mặt người vàng xuộm. Trên
cửa sông, những cái đồn gác con con lợp mái tôn. Mỗi tuần, tốp lính bên Bắc bên
Nam lại đổi phiên bờ này sang bờ kia. Tôi đứng một chỗ thấy cát không lún gót,
nhận ra cát bể Đông ở Cửa Tùng hạt vàng thô, không mịn như cát Sầm Sơn, Trà Cổ
ngoài Bắc.
Những người lính đổi bốt hai bên cởi trần, lưng đen cháy,
cùng nhau chơi bóng rổ trên cát. Không thể tưởng chốc nữa có thể người ta chui
vào sau lỗ châu mai ngắm bắn chết nhau. Trên dòng sông óng ánh sóng, những tốp
thuyền đánh cá ngoài khơi vào, dần dần mỗi chiếc giạt về một bên. Hai bờ, người
tụm lại từng đám. Làm như đi đón thuyền. Không, chỉ là cái cớ ra nhìn sang sông
cho thấy mặt những xóm giềng cũ.
Mấy hôm sau trở lên Hiền Lương mà cái cảm tưởng buồn buồn Cửa
Tùng ấy vẫn đeo đẳng dai dẳng về một sự cách trở bỗng dưng.
Huyện Vĩnh Linh hay quận Trung Lương, hai bên đều không được
phép vào khu giới tuyến. Ra vào phải có giấy chứng là người ở đấy và có uỷ ban
quốc tế kiểm soát. Nhưng mà làm luật thế thôi, hầu như ai cũng vào, cũng ra được,
cả hai phía. Tôi có cái giấy chứng minh làm cán bộ Bình dân Học vụ huyện. Từ quận
Trung Lương phía Nam, đằng xa đã nhìn thấy. Bọn người nước ngoài, quần áo quân
sự trông rõ dây tua vàng vắt vai, lố nhố ra giữa cầu. Ta ở bên này vạch vôi trắng
nói loa phản đối - tiếng oang oang to quá như nói với ai đằng xa hàng mấy cây số
chứ không phải những người ngay trước mặt. Bên ta ra cầu kín đáo hơn. Khách đợi
giờ nhất định xe ủy ban quốc tế đi tuần qua rồi mới thong thả vào dưới bóng
hàng cây sa mu đến một mái lều ẩn dưới chòm bạch đàn bên cầu. Chúng tôi đi lại
dễ hơn, nhưng cũng phải giữ trong người chứng minh thư mới, thay tên khác, là
cán bộ bình dân học vụ huyện Vĩnh Linh. Cho phải phép mà thôi. Những cái chứng
minh thư giả, cái thông hành giả như thế ai cũng biết là trí trá, thế mà cứ
nhan nhản các khu vực nóng trên thế giới. ở Bàn Môn Điếm, ở đảo Síp và trên cao
nguyên Gôlan ở Syri bị Itxaren chiếm đóng, ở Đông sang Tây Beclin trước kia,
tôi đã cầm những giấy giả ấy, mà chẳng bao giờ bị bên nào hỏi.
Chia tay với Nguyễn Tuân, ngày mai tôi trở ra. Hồi ấy, đương
một đợt địch ngừng ném bom. Cờ đỏ sao vàng phấp phới trên Hồ Xá. Thị trấn địa đầu
giới tuyến trở lại vui ngay, như chưa bao giờ bị bom, chạy bom. Các hàng quán
sáng choang, nhộn nhịp. Đêm trên gác nhà nghỉ Hồ Xá sao mà ngẩn ngơ. Cái đêm thấp
thoáng cùng ai dở dang ngậm ngùi chốc lát. Cửa sổ nhìn xuống đường chính chong
đèn suốt sáng như đương qua một quãng khác, lẫn lộn trước sau, dòng sông và cửa
biển, nhịp cầu nửa xanh nửa cánh gián, tà áo dài trắng với những cây hương, những
túp lều, bên kia Trung Lương lau sậy hoang vu, những gặp gỡ và kỷ niệm, tình cảm
trong con người cũng sông có khúc người có lúc như chân đi trên đường.
Vĩnh Linh hoà bình bây giờ khác xưa, nhưng mỗi lần qua tôi vẫn
một nỗi bâng khuâng ấy. Cuối 1975, chuyến tàu suốt Hà Nội - Sài Gòn vào ga Tiền
An cách trên Bến Hải hơn mười cây số. Người đôi bên hàng tàu xôn xao, náo nức
vì sắp qua sông Hiền Lương, sắp qua... Những ngọn cỏ sắc lướt rập rờn bên nhịp
tàu gập ghềnh, đột nhiên dòng sông trắng mờ hiện ra trước cửa sổ. Sông Hiền
Lương đây ư? Những bụi tre mép bờ xoã. cành lá xuống mặt nước phẳng lặng mờ mờ
sương chiều. Như mọi con sông miền Trung trong mát trườn trên mặt sỏi không viền
cát. Làm sao tôi trở về Hiền Lương, Bến Hải dòng nước bối rối đỏ ngầu chảy năm
nao. Có phải cái buồn cứ vẩn vơ ám ảnh mãi?
Rồi thời gian xa đi, mà vẫn nhớ thế. Trước đây vài năm, một lần
Nguyễn Văn Bổng và tôi có dịp đi dọc Trường Sơn - với tôi, là lần đầu, còn Nguyễn
Văn Bổng thì đã bốn năm lần vượt Trường Sơn trong hai cuộc kháng chiến, khi đi
bộ, khi máy bay chở từng quãng. Các nhà lịch sử quân sự đương bàn cãi đường Trường
Sơn - đường Trường Sơn theo lịch sử quân sự bắt đầu từ đâu trong vùng rừng Hoà
Bình, Ninh Bình hay đèo Mụ Dạ hay nhích ra tận mỏm đầu rặng núi đá vôi rải rác ở
Xuân Mai, ở Miếu Môn - nơi đã mọc lên nhiều doanh trại tập luyện vượt Trường
Sơn, và vào đến trong kia, đường Trường Sơn xuống Long Thành hay còn xa nữa. Xa
đến đâu chẳng được những người chiến sĩ trèo núi vào các chiến trường mịt mù
xa. Những con đường thật ấy cũng như nỗi đau đã qua đi, đường Trường Sơn kháng
chiến ngày nay chỉ có thể dựng lại làm kỷ niệm một trạm giao liên, một kho đạn,
kho lương, một bãi khách ven suối và một mũi tên chỉ vào ngàn cây.
Đường lớn Trường Sơn bây giờ nhiều quãng làm theo đường 13 cũ của Pháp rồi Mỹ trải nhựa mở rộng. Không phải người Pháp ngày trước chỉ là tác giả đường số 1 xuyên Việt mỏng manh lượn bên bờ cát bể Đông mà một viên đạn trái phá ngoài biển bắn vào cũng có thể chặt đứt đôi một quãng ven núi. Con đường bộ, đường xe lửa ấy chỉ là đường làm ăn và trưng diện. Mà ý đồ chiến lược của người Pháp làm đường quân sự số 4 chắn biên giới phía bắc, rồi vòng xuống bao quanh Đông Dương. Từ Trà Cổ lên Mường Tè. Quãng Móng Cái tới chấm Cao Bằng qua Bảo Lạc tới Mèo Vạc Hà Giang, sang Lào Cai, sang Lai Châu vào Mường Tè đã được khảo sát và khởi công bắc nhiều cầu.
Đường lớn Trường Sơn bây giờ nhiều quãng làm theo đường 13 cũ của Pháp rồi Mỹ trải nhựa mở rộng. Không phải người Pháp ngày trước chỉ là tác giả đường số 1 xuyên Việt mỏng manh lượn bên bờ cát bể Đông mà một viên đạn trái phá ngoài biển bắn vào cũng có thể chặt đứt đôi một quãng ven núi. Con đường bộ, đường xe lửa ấy chỉ là đường làm ăn và trưng diện. Mà ý đồ chiến lược của người Pháp làm đường quân sự số 4 chắn biên giới phía bắc, rồi vòng xuống bao quanh Đông Dương. Từ Trà Cổ lên Mường Tè. Quãng Móng Cái tới chấm Cao Bằng qua Bảo Lạc tới Mèo Vạc Hà Giang, sang Lào Cai, sang Lai Châu vào Mường Tè đã được khảo sát và khởi công bắc nhiều cầu.
ở Mường Tè, vắt sang Lào bắt vào đường 13, Luang Prabang xuống
Pát Xế, tạt vào Quảng Bình rồi đến Ba Biên Giới mở ra hai đường, một rẽ Stung
Treng vào Campuchia, một lên cao nguyên Lang Biang xuống miền đông Nam Bộ. Đường
trong đường ngoài song song đường kinh tế và dong chơi với đường quân sự bọc
năm xứ Đông Dương lại. Những năm sau cùng - trước khi bị Nhật quật ngã, người
Pháp còn có kế hoạch rời thủ đô Đông Dương ở Hà Nội vào Đà Lạt, - cao nguyên
trong sâu giữ thế chiến lược lâu dài.
Chúng tôi qua cầu Hiền Lương rồi nghỉ lại. Cây cầu đã long nhịp,
những thanh sắt rên rỉ dưới bánh xe. Mới nhớ ra hồi ấy mải để ý quang cảnh thời
sự nơi trớ trêu bị chia đôi, quên mất cầu này chỉ là cầu dã chiến, quân đội
Pháp lắp vội cho các cuộc hành quân trong chiến tranh 1946-1954. Năm 1946, hơn
hai mươi năm trước khi tôi làm phóng viên báo vào mặt trận nam Trung Bộ đây chỉ
là cái bến phà. Cái cầu mảnh dẻ bị gánh nặng lịch sử và thời gian đè xuống đã
xác xơ, tàn tạ quá. Doanh trại bờ bắc, cỏ xanh om. Phía nam, giữa lau lách chằng
chịt ngổn ngang mọc lên một nếp nhà mái ngói ba gian, đấy là cửa hàng bách hoá
của hợp tác xã. Chúng tôi mua mỗi người một chiếc quạt giấy. Rồi ra nằm bãi cỏ,
quạt nắng chiều. Mấy con bò nhà ai thong thả gặm cỏ quanh trên đầu. Vẻ thản
nhiên trơ gan cùng tuế nguyệt của cảnh vật gợi một nỗi buồn thê lương. Ngày trước,
trông sang chỗ này cũng cỏ và lau ngập đầu, làng xóm và quận lỵ Trung Lương bị
dồn vào trong kia. Cuộc đời và mọi việc đã biến đổi như ánh nắng chiều Hiền
Lương đương nhàn nhạt quanh mình.
Thế là đoàn tàu lên Lào Cai chạy thâu đêm.
Chúng tôi cũng thức trắng đêm. Ba người ngồi lim dim mắt.
Chai bia thứ hai mươi bốn đã hết lúc nào, tàu lắc, vỏ chai đụng nhau xoang xoảng.
Con người và con tàu lư đừ thức với những nhớ lại Hai cửa toa tàu đã bị khoá mà
hồn bay ra ngoài kia đêm trăng trắng bời bời. Sáng bạch, tàu vào Cốc Lếu. Bên
sông biên giới, rừng cao su của Trung Quốc tốt lá xanh rì. Chúng tôi trọ trên
gác ty Bưu điện, hôm sau vào Sa pa.
Người hay đi, những chân đi nhà nghề kiểu kháng chiến Việt
Nam từ lâu thường gắn bó với bưu điện. Rong ruổi đường đất, đường ngựa, đường
xe đạp rồi tối đến ngủ trọ ở luôn nhà dây thép. Nguyễn Tuân thì dễ chịu vì như
thế không phải tìm đến trạm nhờ đóng dấu vào sổ tay và trang viết để được cái
thích nhìn dấu ấn nơi đến nơi đi. Tôi đi lên cao nguyên Đồng Văn, Mèo Vạc từ hồi
chưa có ô-tô đường Hà Giang - Đồng Văn sang Mèo Vạc. Người công tác, người buôn
mang vác, gồng gánh đường dài một trăm, hai ba trăm cây: số đèo dốc - từ vùng
oi bức thị xã lên thung lũng Quản Bạ dưới dốc Cổng Trời, đầu chợ Quản Bạ còn lại
cái bảng xi măng thời Pháp đắp nổi dòng chữ khí hậu Pháp (Climat de France) rồi
lên nữa đến những vùng cao nhà trường nghỉ đông không bao giờ biết mùa hạ. Tôi
đi và ăn nghỉ theo chặng ngựa bưu điện. Trạm trưởng Hà Văn Môn ở Yên Minh đóng
gói cái màn, cái chăn dạ của tôi vào bao tải gắn xi như bưu kiện cẩn thận. Bắt
đầu lên núi qua Vằn Chải, Sà Phin đến Phó Bảng. Con ngựa thồ bưu kiện lên dốc,
anh bưu tá và tôi thong thả theo ngựa. Người nghề đi đã có ngữ chân, vừa tối
thì tới trạm trên. Ngủ cánh đồng Phó Cáo, hôrn sau lên Đồng Văn. Đến khi sang
Mèo Vạc tôi về ở Lũng Phin, con ngựa trạm phải đèo thêm cái chăn bông to xù của
huyện đưa khách dùng. Chuyến đi Lào Cai này chúng tôi được chung nhau cái thú uống
bia suốt đêm trên tàu. Như buổi chiều ngồi gốc liễu bờ hồ bên nhà Thuỷ Tạ. Rồi
cũng lại nhờ đường và ở nhờ nhà bưu điện, Nguyễn Tuân với Văn Cao ở lại Sapa.
Tôi thì đợi trong Lai Châu ra đón vào Phong Thổ. Cảm thấy chưa hết cái ngột ngạt
thành phố, cái buồn nông nỗi tiểu thuyết Mười năm, tôi lại đi nữa.
Vào Sapa nghỉ lại trên gác nhà bưu điện huyện. Vùng nghỉ mát
Sapa những năm ấy còn heo hút, hoang tàn. Các nhà trọ tối hun hút ở ngay chợ chứa
lái buôn đào, mận và người mua hạt giống su hào, hoa lơ. Nhà nghỉ mậu dịch, một
dẫy nhà sàn lửng cuối phố. Khách có công việc về huyện trọ đấy. Trên đỉnh núi,
một khách sạn cũ được sửa sang lại bên đài thiên văn. Chuyên gia Ba Lan ngành
này ở và đôi khi người du lịch nước ngoài ghé lên. Tôi đã quen ở trọ các cửa
hàng bách hoá, các bưu điện huyện, nhà bưu tá xã - những nơi dừng chân cơ động ở
vùng núi, nhưng đây lần đầu một chặng trên tỉnh xuống huyện, Nguyễn Tuân và Văn
Cao đi theo đường dây kiểu này. Sapa đượm vẻ yêu kiều cho người đến với thiên
nhiên, giữa thiên nhiên. Không heo hút như Mẫu Sơn không giống một thứ đồ chơi
bé bỏng như Tam Đảo, Ba Vì. Trước mặt, lừng lững ngang mắt triền núi Hoàng Liên
trải ra màu tím bao la, đôi khi nắng lên như cơn mưa bóng mây hồng xuống xung
quanh đỉnh Phanxipan cao nhất nước. Theo trí nhớ đến nơi đến chốn của Nguyễn
Tuân, đỉnh Hoàng Liên đúng 3.142 thước mà năm vừa qua, Nguyễn Tuân đã theo một
đoàn cán bộ nghề rừng lên đến chỗ chót vót ấy. ở Sapa, xuống thung lũng có trạm
thuỷ điện cũ thời Pháp, trèo vài bước sang khe suối đã vào nương người Mèo, đối
diện với bên phố lát đá tảng mà người xuôi lên ở thành phố đã lâu đời. Ngôi nhà
thờ nguy nga hiện ra, ngọn tháp rêu phong xanh mướt như đỉnh núi đá: Đầu thế kỷ
này, linh mục Savina đã tu ở đấy, cùng thời kỳ cố Hiền người Pháp ở nhà thờ Xoạ
Hồ trên núi bên Nghĩa Lộ. Linh mục Savina đã viết quyển Lịch sử dân tộc Mèo và
làm bộ Từ điển Pháp Mèo in ở Hồng Công từ 1920. Người Mèo sùng đạo ở Sapa, tôn
ông cố Savina là vua Mèo. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918, đế quốc
Đức đã xúi giục người Mèo ở tây bắc Việt Nam và bắc Lào nổi dậy. Cố đạo Savina
làm cố vấn chính trị trong quân đội Pháp đi dẹp loạn. Năm 1918, Savina mời được
tất cả các vua Mèo về họp ở Xiêng Khoảng. Tại hội nghị, toàn quyền Đông Dương
đã ký với các thủ lĩnh Mèo những văn bản qui định chế độ chính trị và hành
chính cho dân tộc này. Từ đấy, người Mèo ở ba xứ Đông Dương đều trực thuộc
chính phủ Pháp mà đại diện là quan công sứ đầu tỉnh. Lại đặt ra chức thống lý
thống quán cho người Mèo tự quản nhau. Savina tu ở Sapa cho đến khi qua đời. Tới
những nơi sơn cùng thuỷ tận khuất nẻo đến đâu, ai đấy chớ vội nghĩ hôm qua chưa
có một bàn chân xa lạ nào đến, mặc dầu con người bao giờ cũng lấy tưởng tượng
đó làm một kiêu hãnh.
Suốt chiều, Nguyễn Tuân ngồi ngoài hiên gác nhìn sang Hoàng
Liên Sơn. Mơ màng lại chuyến đi năm ngoái, đãng tử đương ngất ngư trong da trời
xanh lam, trong mây trắng ngẩn ngơ trên kia. Hay là lại muốn lên chóp núi lần nữa,
hay là sao... Đêm ấy sương mù trong thung lũng dâng lên như bông giắt vào trong
cửa sổ gác. Chúng tôi được nghe một câu chuyện đời người. Ngoài hai mươi năm
trước...
Người ngồi trước mặt chúng tôi, y sĩ Tái Sinh trạm trưởng trạm
xã huyện. Tái Sinh có nghĩa là sống lại. Cái tên anh tự đặt cho mình. Anh quê gốc
dưới Thái Bình. Nhiều bà con công giáo đường bể đã lên sinh nhai trên này, có
khi di chuyển cả làng cả cha cố đi theo, như ở Bản Hẻo bên Nghĩa Lộ.
Anh yêu cô Đào nhà ngoài phố. Một cố đạo Tây cũng mê Đào. Ông
cố dê cụ có điều kiện và hoàn cảnh dễ quyến rũ đàn bà. Nỗi đau, nỗi lo của hai
người được cắt bỏ bằng cách làm như người đi săn bắn trong núi là phải giết lão
cố đạo. Anh đã đâm chết lão rồi trốn lên gác chuông nhà thờ. Nửa đêm, có người
đưa anh luồn rừng chạy ra bờ sông Hồng. Anh chặt chuối ken bè, chiếc bè chuối
đưa anh trôi xuống Yên Bái - vùng tự do ngoài kháng chiến.
Anh được đi học y tá. Cũng từ đấy, tên anh là Tái Sinh.
Chiến dịch biên giới 1950, Lào Cai được giải phóng. Y sĩ Tái
Sinh trở về Sapa. Thì Đào đã lấy chồng. Cuộc chia tay bờ sông xưa đã phai mờ.
Bên Lai Châu điện báo có người sang đón tôi. Nguyễn Tuân và
Văn Cao cuốc bộ tiễn tôi một trường đình dài dài. Chẳng lẽ lại đi nữa, đương
thuận chân - Nguyễn Tuân nói. Nhưng cũng không trở về Sapa hôm ấy, hai người với
tôi ngủ lại ở một lán lâm trường dưới dốc Ô Qui Hồ. Tiếng suối chảy trong đêm
mênh mông, tối đen, đôi lúc lẫn với gió rát rào, như sóng biển. Máy bay xuống
đêm Simphêrôpôn thủ phủ bán đảo Crưm, nghe ra xung quanh có tiếng sóng biển Hắc
Hải, nhưng sáng sớm mới biết đấy là gió rừng bạch dương quanh nhà ở giữa thành
phố. Đây chỉ có gió vào sườn núi, cũng tương tự thế.
Nguyễn Tuân nắm tay tôi mà rằng:
- Cái số tao xưa nay cứ phải đi tiễn mày. Thế thì ra làm sao?
Rồi lại nói vui:
- Nhưng mà trường đình xa quá, những một ngày đường, nửa đường
rồi. Từ Ô Qui Hồ mà vào Mường So, ba ngày ngựa chứ mấy. Này, nhớ ngắm những cái
chỏm Pu Xam Cáp hộ tao.
Quả thật, chúng tôi có cái duyên thường gặp nhau -cũng như
chia tay nhau giữa đường. Khi Nguyễn Tuân ở lại Vĩnh Linh tôi về Hà Nội, khi
Nguyễn Tuân đến Tuần Giáo rồi vào Điện Biên tôi lên Tủa Chùa, lại cái lần ở đèo
Mã Pì Lèng ra, Nguyễn Tuân về xuôi còn tôi lên Đồng Văn, rồi lại đem nhau đoản
đình trường đình tận phương trời, tình cờ gặp ở Matxcơva, tôi đi Vacsava... Chú
liên lạc ở Lai Châu ra dắt ngựa cho tôi vào Bình Lư, ngày mai qua thác Gió. ở
ngã ba Bình Lư, cái cột chỉ đường Pháp xây từ năm tôi mới oe oe chào đời. Dưới
con số năm 1920, những dòng chữ chỉ cây số và đường ngựa sang Than Thuộc xuống
Tam Đường, đến Thèn Xin, vào Mường So huyện ly Phong Thổ. Dãy Pu Xam Cáp mà
Nguyễn Tuân nhờ tôi ngắm hộ suốt ngày lúc nào cũng chập chờn nhấp nhô bên tay
trái.
Có đến hai ba tháng sau, khi tôi ở vùng cao Phong Thổ xuống
huyện ly ở Mường So, nhận được điện Sapa Nguyễn Tuân đánh vào, tỉnh ủy Lai Châu
chuyển. Chắc hôm ấy ông còn ở nhà dây thép, điện đánh nhờ không mất tiền, dài cả
trang như thư.
Tôi mới biết sau đấy, Nguyễn Tuân và Văn Cao dọn xuống ở trạm
xá với y sĩ Tái Sinh. Câu chuyện tình buồn kia Tái Sinh chỉ kể một lần, nhưng
cái day dứt còn lại, hôm nào Tái Sinh cũng hỏi khách: tôi tiêu diệt thằng Tây
thế là hành động cách mạng hay là trả thù cá nhân, tôi báo cáo là cách mạng, tổ
chức huyện thì nhận xét là không phải, cho nên tôi chưa có huân chương. Các ông
thấy thế nào? Nguyễn Tuân bảo tôi thư hay điện trả lời hộ cho hai ông, vì lẽ
tôi thành thạo các việc về tổ chức! Nguyễn Tuân đã bảo Tái Sinh thế rồi.
Muốn ở lại ngắm mãi Phanxipăng mà không được Văn Cao ốm sốt.
Nguyễn Tuân phải đưa Vua ra Lào Cai, lấy vé tàu cho Vua về Hà Nội một mình.
Chúng tôi hay gọi đùa Văn Cao là Vua, là Văn vương. Hợp với cái gã tính thích
thú người ngưỡng mộ, ưa ngồi phán và ban phát lời lẽ như sấm ký.
Nguyễn Tuân ở lại một mình làm khách của tỉnh, đợi chuyến vào
Bắc Hà.
Gửi đồng chí nhà văn Tô Hoài Lai Châu (Tây Bắc) - nhờ Văn
phòng Tỉnh uỷ Lai Châu chuyển hộ.
Simacai (Tân Mã Nhai) 8/6/1965 Ông Tô Hoài Mình có cái may là
gặp liền hai phiên chợ. Chợ Bắc Hà và chợ Simacai. Đông, nhiều màu sắc. Đào, mạn,
thắng cố v...v... Simacai cách biên giới có 8 km. Tôi không khoẻ, cho nên tới
đây rồi lại quay ra Bắc Hà và về Lao Cai và xuôi Thủ đô, sau khi nói chuyện phục
vụ. Định lần sau sẽ tua một vòng Bản Lầu Mường Khươngh Pha Long qua Simacai Bắc
Hà rồi Bảo Nhai Phố Lu.
Bắc Hà mát dịu chứ không mát gắt như Sapa. Cảnh Bắc Hà (Pa
kha) cũng đẹp hơn Sapa. Anh giao thông bưu điện và đường dây Bắc Hà - Simacai
cũng có nhiều đặc điểm vùng núi, viết được. Hôm ông ở công trường 112 Ô Qui Hồ
đi Bình Lư thật vẫn còn là may. Ông đi buổi sớm thì đêm ấy mưa to, thác nước xô
đá xô cây nghẽn thêm nhiều quãng đường.
Văn Cao sưng phổi từ hôm ấy, về đến Lào Cai phải tiêm một
Bérie thuốc và bác sĩ bảo phải vào ngay bệnh viện. Văn Cao sợ quá. Tôi cũng ngại.
Liền lấy vé luôn cho ông ấy ra tàu xuôi về Hà Nội, về đấy mà vào Việt Xô - tôi
thấy còn hơn là nằm ở Lào Cai. Từ hôm Vua về, tôi vẫn nằm ở phòng khách tỉnh uỷ.
Thấy lúc xuất phát Hà Nội, chúng ta là một tổ 3 người. Và nay tổ chỉ còn có một
mình lính già này. Hôm qua phải rút luôn một hơi 26 cây số dốc, mỏi chân quá.
Nay vẫn còn mỏi và uống gần hết chỗ cao hổ. Chúc ông viết khoẻ và xong. Mong sẽ
có dịp đi Lai Châu vào một dịp nào cuối năm. Ông viết thử kể chuyện Ô Qui Hồ
Bình Lư Phong Thổ Lai Châu ch o tôi nghe với.
Ng. T.
(Nguyễn Tuân công trường 426 Tuần Giáo khu tự trị Thái Mèo).
1966, chúc mừng năm mới!
Tô Hoài ơi, trên này lạnh quá. Bộ xương đã buốt sẵ n vì tê thấp
mùa này, lên đây càng buốt tợn. Chỗ công trường làm đường mình ở chung quanh lại
là núi đá (như kiểu núi đá Bắc Sơn Quỳnh Sơn) nên đêm càng buốt tợn. Chỗ mình ở
cách Tuần Giáo khoảng 20 cây, cách Điện Biên khoảng 70 cây. Vậy mà từ hôm lên
mình chưa ra Tuần Giáo. Mình đã lên từ sớm thứ hai 7/12. Chín giờ sáng cất
cánh, 10 giờ 50 đã ở giữa cánh đồng Mường Thanh (không kể nửa giờ đỗ xuống Nà sản,
vậy là giờ bay mất có 1 tiếng 20 phút). Vậy là trong năm mình 3 lần đi Tây Bắc,
2 lần vô giới tuyến.
Tình hình làm đường cũng có những thuận lợi và khó khăn mới.
Bây giờ vẫn là đánh nhau với núi non sông suối bằng hai bàn tay con người. Kế
hoạch đặt lúc đầu cũng có bốc đồng, nên bây giờ nó mới rõ ra là còn phải vài ba
năm mới hoàn bị xong. Các thứ máy dũi, máy húc, máy ngoạm không phải là không
có nhưng phải có người lái máy, người chữa máy. Mà các ông lái đó không phải là
một tuần một tháng là có ngay. Như thế này là con đường chưa xong mà cuốn sách
định viết đã phải cắt băng khánh thành đó rồi. Thôi, mùa xuân lên đây một chuyến
nữa, rồi về là viết, cuối năm xong.
Ng. T.
Phố Lu Lào Cai 12/6 Anh Tô Hoài, Thư trước viết từ Simacai một
ngày phiên chợ có nắng. Thư này viết sau ba ngày đi bộ liền 70km, dưới mưa, hôm
trước mưa lũ to tắc suối phải vòng lên bản Mèo tránh lũ. Hôm trước mưa, hôm sau
mưa, hôm sau nữa lại mưa nữa. Từ Simacai ra Bắc Hà, ngủ Bạc Hà vẫn mưa. Hôm sau
từ Bắc Hà ra Bảo Nhai, vượt Cổng Giời (vẫn lại Cổng Giời) và qua sông Chảy. Sớm
sau, Bảo Nhai về Phố Lu, ngủ Phố Lu, sớm chờ lâu thì đi tham quan lại chiến trường
của Trung đoàn Thủ đô cũ. Người mình vẫn đang hâm hấp sốt, mấy hôm đi trong mưa
vẫn sốt tiếp. Cao mang đi hết, phải nhờ địa phương tiếp cao cho m ới rút đường
được như vậy.
Mệt, khổ, nhưng hình ảnh lượm về giao thông bưu điện cũng
không đến nỗi nghèo lắm. Đường dây Lào Cai như thế là căn bản tôi như tóm được
đây rồi. Định đi nốt hai huyện Bát Xát và Mường Khương nữa thì tôi hoàn chỉnh
đường dây của tôi. Lào Cai có 5 huyện tất cả thì chuyến mùa mưa này, như thế là
tôi đi xong được 3 huyện rồi. Một huyện xuôi (Bảo Thắng), một huyện núi nội địa
Sapa và một huyện n úi biên giới Bắc Hà - Simacai cách biên giới 2 km chim bay.
Người mệt, chân mỏi, năm hôm chỉ ăn cháo và sữa. Mệt mỏi chân
tay, lưng nhưng lòng thì có cái lâng lâng của một người chủ nhân ông đất nước
tiến lên, đất nước tiến theo mình và mình theo nước và đất mà tiến lên.
Hôm ở Phố Lu tôi nhớ ông và ông Văn Cao quá (Tội, cái thằng
chuyên đi Điện Biên Phủ 1958 nó bị mổ nằm lại Sơn La, chuyến này là cũng tim phổi
và phải đưa về, bỏ cuộc).
Tôi định đi nốt giường Mường Khương đây. Mong ông đi được Sìn
Hồ và nhất là Mường Tè. Cái quà quý nhất ông sẽ kể cho tôi nghe sau này tôi
nghĩ rằng phải là những cảm xúc về huyện Mường Tè biên giới và đầu nguồn Sông
Đà!
Nguyễn Tuân Đ.c Tô Hoài (nhà văn) Tỉnh uỷ Lai Châu (Tây Bắ c)
- Nhờ các đ.c văn phòng tỉnh uỷ chuyển thư tiếp nếu đ.c Tô Hoài đã xuống huyện.
Văn phòng Tỉnh uỷ chuyển bưu điện Mường Lay: đ. c Tô Hoài đã đi Sìn Hồ, đề nghị
chuyển.
28/6/1966 Ông Tô Hoài Hai thư của ông cùng tới một lúc, đến
dăm sáu hôm nay rồi. Nhưng tôi lười, nay đấu tranh tư tưởng mãi mới viết được
cho ông. Nhất là cách đây một tuần, tôi lại chơi đằng quý quyến, bà nhà ông
cũng cho biết là ông ngã ngựa ở Phong Thổ, trên đường đi Dào San. Theo cách hiểu
chủ quan của tôi thì bà ấy vừa lo vì tai nạn thượng du Bắc Kỳ, nhưng cũng có vẻ
lý thú vì những sự rơi ngã trữ tình ấy.
Hình như hôm qua trẻ con nhà ông ngồi xe cơ quan sang địa điểm
sơ tán (vẫn cái chỗ đường 18 ấy đấy). Tôi cũng vừa nhận thư ông Hồng khoe rằng
viết xong rồi cái trang cuối cùng của tiểu thuyết dài của ông ấy vào đầu tháng
7, ông xuống thanh toán contrat (hợp đồng) với Hội. Và mặt khác, chuẩn bị đi
khu 4 khói lửa cùng bạn Tế Hanh. Khu Tư, khu Tư anh dũng! - Chao ôi, nếu nó cứ
tiếp diễn xâm phạm bầu trời Hà Nội - quãng Xuân Mai, có ngày hai lần cả sớm cả
chiều như hôm 25/5 vừa rồi thì Hà Nội là khu Tư chứ gì nữa! Tôi nghe có đến mấy
người nói cái câu tôi vừa trích dẫn đó. Như thế thì lúc ấy nên đi đâu? Vẫn vào
khu Tư hay đi vào nội ngoại thành anh dũng? Có ý bảo hiện nay Tây Bắc, cụ thể
là Sơn La cũng đang không kém gì Vinh, Thanh Hoá. Hầm hào ở Hà Nội độ này làm
có vẻ chu đáo hơn. Trần bằng bê tông đúc sẵn lại có ống lỗ thông hơi nữa, xa
trông như cái ngoi lên của ống khói nhà máy...
Cầu Ninh Bình thế là hỏng đang chữa. Cầu đường quốc Lộ Gián
Khẩu Đoan Vỹ hình như cũng bị. Nghee nói cũng đang chữa. Nay mai, tôi định vẫn
đi tiếp cho Tổng cục Bưu điện, đi tuyến duyên hải từ Móng Cái đến huyện Nga
Sơn, Hậu Lộc. Thanh Hoá.
Vua hôm nay đi nhổ cái răng hàm. Ông cao lâu nhà thương đau mắt
này chuyển thành nghề quốc doanh. Ông lại làm công ngay ở đó, ăn vòi bia theo
giờ nhà nước tháng lĩnh 50 tờ như một người bỉnh bút mà không viết bài nào.
Quán bia bà cai ách vẫn còn bữa đực bữa cái, nhưng xem ra cũng khó thọ.
Địch ngụy vận tôi đang chuẩn bị viết bài thứ hai. Bài đầu được
trả đặc biệt (mười đồng) và bài đó đánh máy ra 5 trang, tôi giao bài trước hôm
đi Lào Cai Simacai và đêm 9/6 lại được nghe phát lú c 11 giờ đêm ở giứa Bắc Hà
mưa thâm gió núi sau một ngày đi mưa vượt suối tắc. Đêm ấy tôi có những cảm xúc
yêu đời lắm. Này ông viết một bài gì cho nó đi. Viết cho nguy vận, tôi thấy rất
nên vì nó rõ ràng ra cái efficace immédiate (hiệu quả tức khắc).
Ông cố nhớ hộ nhiều chi tiết Mường Tè - cái nói tôi chưa được
đi tới và ông thì đang đi tới.
Chà o hưu hưu gió thổi sông Đà Ng. T.
Đ.c nhà văn Tô Hoài Hà Giang - Kính nhờ các đ.c Tỉnh uỷ Hà
Giang chuyển giúp. Văn phòng Tỉnh uỷ: chuyển Đồng Văn.
Hà Nội 21/11/66.
Tô Hoài.
Tôi vừa nhận thư ông gtn từ Đồng Văn ngày 13/11. Đúng ngày chủ
nhật 13/11 ấy chúng tôi mới rời giao tế lúc 14 rưỡi và đi thẳng một hồi về tới
Hà Nội lúc 1 giờ 30 đêm ngày 14. Những ngày ở lại chờ xe sao mà dài thế. Mỗi
ngày lại cùng uống 10 chai Trúc Bạch.
Tôi đã đặt vấn đề Lào Cai mỏ đồng Bát Xát và bản đồ địa chất
Sa pa với phòng chính trị Tổng cục Địa chất. Họ đang bố trí để xong lễ Nôen là
đi được Hà Nội vẫn thương. Từ hôm tôi về không có tiếng súng gì. Mãi cho đến
chiều nay mới lại nghe cao xạ của ta phía ngoại thành. Tôi cũng định lần sau ra
xuân này lên Hà Giang, thế nào tôi cũng phải đi cái tuyến Hoàng Su Phì lại (đi
đường Thanh Thuỷ, Sìn Chải, Tả Su Phin tức là men theo sườn Tây Côn Lĩnh 2418
km).
Chắc ông sẽ là đồng hành của tôi. Rồi tôi vẫn vào Bắc Mê cùng
ông Nguyên Hồng. Rồi lại phải đi vào Mèo Vạc nữa. Ôi, hai cái xương bánh chè của
lão già này còn được một chuyên giối già nữa a!
(Có lẽ trước khi rời Hà Giang ông lại một lần nữa móc tay với
ông Thế Kỳ, hẹn cụ thể là cuối giêng sang hai ta, là chúng ta lên ở (ít nhất là
một tháng) để làm người Hà Nội mất tích vài dăm tuần).
Chúc ông lượm nhặt nhiều nhân sự để tái tạo.
à, ông nên gặp nhân vật Chúng Thị Phà nhiều lần nữa.
Ng. T.
Ông về, nếu có điều kiện (về thời gian, về hầu bao) mua giùm
cho một số cái lặt vặt tôi sẽ xin chuộc sau, như đá lửa (vài chục viên), chè
Thông Nguyên loại 1 (3 gói), măng khô (loại măng lưỡi lợn là hay nhất). Có lẽ
ông nên tạt qua nhà riêng cửa hàng trưởng (Nà Thai) Phạm Minh Khương thì tay ấy
đi tìm được. Khương ở với vợ (hoa kiều) ở số 2 đường Nguyễn Thái Học trên con
đường ra chợ tỉnh đầu cầu. Tay Khương này còn nấn ná ở nhà trước khi đi Bắc Mê.
Ông có thì giờ tạt qua nhà ảnh cũng vui đấy. Nhân vật tiểu thuyết đấy loại nhân
vật tích cực. Hà Nội rau cỏ tép cá đều khó, đã và đang khó. Bia vẫn mở hàng, hoạt
động mạnh. Duy chỉ có lạc là kiêu giá hơn. Một hào mười viên phá sáng.
Ông bà Học Trường vừa chiêu đãi nhân dịp mười năm của trăm
năm ông bà ấy. Lại một cây Lúa Mới. Vui nhất là lão Hai lại chênh choáng như
thương lệ.
Ng. T.
Lai Ch â u 1 4/6/69 Ông Tô Hoài Từ hôm chia tay với ông tại
biệt thự nhân vật Lê Minh, tôi đi ngay một chuyên lên rừng, do lâm nghiệp mời.
Và có đăng đàn nói chuyện ở huyện Cẩm Khê, ở châu Yên Lập, ở phố đồn Vàng và ở
công trường Thu Cúc, nói cả ở Thạch Kiệt nữa: Rừng Thu Cúc chỉ sang một cái đèo
là tới huyện Phù Yên Nghĩa Lộ rồi. Rồi tất cả lại dặn tôi thế nào mùa khô cũng
phải trở lại nữa.
Sau đó là đi Lai Châu. Không phải phà phung gì. Ô-tô sang cầu
mới. Cái cầu ô-tô đâu tiên trên sông Đà xã hội chủ nghĩa. Sang Bản Chang (le
village des anciens serfs de lex vice - roi Đèo Văn Long (Tiếng Pháp: làng của
đầy tớ nguyên phó vương Đèo Văn Long) có gặp một ông cụ Thái trắng 83 tuổi. Nói
năm 1907 có về chơi Hà Nội, nghỉ trọ ở nhà trọ số 24 phố Hàng Bạc. Bữa cơm có
thịt quay, có rượu, có đậu rán phồng mà chỉ mất có 2 hào chỉ. Ông cụ cùng với
mình về uống rượu nhắm cá lăng ở nhà đ/c xã đội xong ông phó chủ tịch lấy thuyền
đuôi én của hợp tác xã tiễn mình ra bên đò. Rừng trên thượng nguồn, quả vậy, vẫn
có nhiều tình hơn rừng văn Hà Nội.
Ng. T.
Ông Tô Hoài (tiếp theo) Mình vừa đi thác Lay về. Ba xuồng máy
ngược lên thác Lay, cách thị xã 9 km. Ngược 45 phú t, xuôi có 15 phút. Sông Đà
nước đã to rồi, đỏ lừ. Nhiều người trong các giới am hiểu nói năm nay nước có
thể to lắm vì đợt phá rừng Lai Châu đã lên tới điển hình (ví dụ đốt rừng cháy
luôn cả Ty y tế trong rừng Tin Tốc v. v... ) Thác Lay là một thác dữ, thuyền
xuôi ngược sông Đà tới thác Lay đều bốc rỡ hết hàng hoá, mà kéo thuyền không.
Thác dài mà luồng cong, thác dài 54 m. Mùa lũ, mặt nước thác cao hơn mặt nước
sông 4 thước, mùa cạn thì cao hơn 2 thước. Định lần sau lên sẽ sống ít ngày với
đội phá đá thác của Lai Châu.
Ngày kia, mình lại lộn về với rừng Hà Nội. Hôm trước có đ.c
tuyên huấn tỉnh uỷ Lạng Sơn tới rủ mình lên Lạng Sơn đi Mẫu Sơn và có nói ông
đang ở Thật Khê. ừ, để xem, ông còn lâu trên ấy thì mình đi ải Nam Quan. Chúc
ông không ốm đau gì.
Ng. T.
à buồn cười nhất là trong cái phong bì những bút ký cũ mang
theo lên đây để giảng về bút ký của ty văn hoá Lai Châu mở lớp lại lạc vào hai
cái thư cũ của ông viết cho tôi cách đây mấy năm, hồi ông đi Dào San và Sìn Hồ.
Đọc, có cái cái dư vị khó tả nên lời thư.
ở huyện ly Phó Bảng ít ngày. Rồi trở xuống Vằn Chải một làng
trên núi đầu dốc Yên Minh lên Phó Cáo. Trước kia tôi đã nhiều khi cả tháng liền
ở trên Văn Chải rồi. Lần này bí thư huyện Vũ Mỹ Kẻ cùng đi. Lái xe Tiến ở lại với
xe dưới ruộng khe núi Phó Cáo.
Những dốc, lại dốc. Nguyễn Tuân đã leo núi nhiều nhiều, nhưng
sau chuyến Simacai Bắc Hà năm trước và sông Đà sông tuyến thì đi đường nước,
cái lần đi dốc bằng hai chân lên Vằn Chải này, tôi tính ra là chuyến lên núi
sau cùng của đôi đầu gối người lão luyện sông hồ. Chuyến ấy chúng tôi còn lên
Lũng Cú nơi biên giới phía bắc cao nhất xa nhất, lại cách bức phải tạt một
quãng ngang đồn biên phòng bên Trung Quốc. Tuy vậy, không dốc bằng núi Vằn Chải.
Nguyễn Tuân chống ba-toong vừa đi vừa nghỉ thế mà rồi cũng tới được dinh cơ nhà
thống quán Vàng Vản Ly trên xóm đỉnh núi. Rừng trúc vàng óng bao quanh ngôi nhà
ngói cổ. Nguyễn Tuân chống gậy ngước mắt ngắm núi và rừng trúc rồi, như nói cho
mình: Mai kia, đây sẽ thành một điểm du lịch, máy bay lên thẳng đưa khách bay
nhìn một dải từ Quản Bạ lên đây hạ xuống thì vừa đẹp. Lại có rượu ngô nóng uống
chống lạnh. Có lẽ bấy giờ mình sẽ đăng ký mua vé đi chuyến đầu tiên.
Lại một chuyến đi Hà Giang với Nguyễn Tuân, có Hoàng Trung
Thông, Trọng Hứa và tôi. Đường đêm qua cầu Việt Trì không yên, chúng tôi lên Liễn
Sơn men Tam Đảo sang Đa Năng ra bến Bình Ca, trời vừa sáng. Mưa rào rạt, xe chạy
đèn vàng, lao chúi đi như con lợn rừng. ở lại thị xã Hà Giang một đêm đã vất vả.
Phố xá đường ngược mà bức bối như ở trong hõm, trưa nắng nóng hầm hập, hơi núi
hơi nước đến tận khuya. Lạ, trời sắp chuyển mùa, ở trong cái thung lũng sâu này
vẫn có mùa riêng, có khi bên kia sông gió rải đồng man mác, đây vẫn hanh hao
gió bấc.
Đêm ấy về cơm rượu ở trụ sở uỷ ban xã Vằn Chải. Rồi một mình
Hoàng Trung Thông trèo lên xóm nhà chủ tích Hoà, thổi khèn uống rượu đến tận
sáng. Cái vui được đến một nơi chưa hề đến. Tôi sang trường, chơi với các thày
giáo cô giáo - hồi ấy công tác diệt dốt và học chữ Mèo đương sôi nổi. Dưới huyện,
cán bộ Kinh công tác vùng cao tối nào cũng phải đến lớp học chữ Mèo. Trên núi Vằn
Chải, thày Hùng quê bên Thái Nguyên, cô Mai người Tày Bắc Quang với nhiều thày
người Mèo trong huyện, các thày Chứ, thày Páo, thày Chúng. Và cô giáo sinh Ly
Chờ, cô gái xinh xinh bé bỏng quê Sà Phin.
Ly Chờ năm ấy còn non tuổi, độ mười lăm. Ly Chờ mới võ vẽ đọc
được, viết được, đã quyết xa nhà đi làm giáo sinh xoá mù chữ. Tôi cũng chưa bao
giờ hiểu được cô con nuôi của tôi tại sao hăng hái như thế. Người Mèo vốn ít ra
ngoài, chẳng thiết công tác, nhất là các cô các chị. Đi cán bộ không được ở nhà
trồng lanh, thêu cổ áo, nhuộm chàm đắp sáp ong làm hoa viền gấu váy? Đi cán bộ
thì không thể dành dụm và lo liệu được váy áo vòng bạc để lấy chồng. Lấy chồng
Kinh không phải sắm sửa thế, nhưng lấy chồng người Kinh khác đâu giơ tay bắt
con chim bay mà con trai ở làng không lấy vợ đi cán bộ. Cô nào kiên gan lắm
cũng chỉ đi dạy, đứng bán mậu dịch bách hoá được ít lâu rồi bỏ về. Các thày
giáo thì bụng dạ cũng đại khái như thế. Có lần tôi gặp lại Mùa A Gia ở dốc Pác
Xúm. Thày giáo đi với vợ lẽ xuống làm nương dưới yên Minh. Mùa A Gia cười: Lấy
vợ lẽ thích hơn đi thày giáo! Người vợ lẽ che ô đứng cạnh, nghe được tiếng
Kinh, mặt đỏ lừ. Tôi bùi ngùi nhớ ở Dào San có một cô Dao lan tiền, văn công ca
múa khu Tây Bắc. Một địu củi, dây chằng lên trán lằn vết, kéo chịu lưng xuống.
Tôi gặp cô như thế. Đi cán bộ thì không lấy được chồng làng. Cô văn công đành bỏ
về làm nương.
Cuộc đời Ly Chờ chỉ những gập ghềnh. ở Vằn Chải, cô giáo sinh
Ly Chờ đã đưa tôi đi các xóm khắp núi, từ Sìn Chải sang Túng Quá Sử, vận động
người đi học. ít lâu sau, Ly Chờ được xuống tỉnh học trường dân tộc ba năm. Trở
về dạy cấp hai lớp bổ túc văn hoá trường cán bộ huyện. Mỗi khi được những tin
vui, tôi lại nhớ những hôm ở Vằn Chải, giáo sinh Ly Chờ đứng giảng bài. Và khi
tôi ở Sìn Chải lâu, thỉnh thoảng Ly Chờ lại xách đến cho tôi miếng thịt lợn, một
ống nứa đựng rượu. Cả tháng mới lại trông thấy rượu thịt. Nhưng con người ta
tính trước thế nào được những bước rủi may. Ly Chờ yêu một giáo viên người
Kinh, quê vùng biển lên núi dạy học. Mối tình chẳng đi đến đâu. Rồi Ly Chờ lấy
chồng người Hán bên Mèo Vạc. Không mấy lâu cũng tan vỡ. Năm ấy, Ly Chờ về Hà Nội
thăm chúng tôi. Một con gái mẹ dắt theo, lưng địu một cháu nhỏ mới sinh. Ly Chờ
lại lập gia đình mới. Tôi đưa Ly Chờ đến chơi nhà bác Nguyễn Tuân, bác Nguyễn
Văn Bổng những bạn đã đến Sà Phin. Hai mươi tuổi, đã con giắt con bồng, bao
nhiêu gian truân. Cái đẹp sắc sảo mà bạc phận.
Tôi cũng vun trồng tưởng tượng và ước mong không biết bao
nhiêu về cuộc sống và tinh thần người con gái dân tộc hăng hái thoát ly đi công
tác từ năm mười lăm tuổi tưởng đã vượt được mọi thử thách và ràng buộc. Đến khi
tất cả khác đi, tôi chỉ biết ngỡ ngàng. Những dang dở đã nghiêng ngả cả cuộc đời.
Người chồng mới này là cán bộ tổ chức của huyện. Người Mông đi công tác không
như ở xuôi, ai cũng muốn vào biên chế. ở đây chẳng để ý mấy đến cái trách nhiệm
và tổ chức cơ quan ấy. Lấy vợ rồi anh bỏ công tác về làm nương. Vợ bị đổi xuống
nhà trường vùng thấp huyện Vị Xuyên - dạy ít lâu rồi cũng bỏ về. Bốn mươi tuổi
Ly Chờ về hưu non. Cũng phải chạy mãi mới được cái sổ hưu. Vì chưa đủ hai mươi
nhăm năm công tác. Thật ra thì thừa, nhưng không được tính thời gian công tác từ
tuổi mười lăm. Bấy giờ Vũ Mỹ Kẻ còn làm phó chủ tịch tỉnh, tôi lại phải nói với
anh ấy giúp cho.
Lại đến những rắc rối tức cười và rơi nước mắt. Một lần, tôi
có việc đi nước Tandania vùng dưới Đông Phi. Tôi mua một cái mũ dạ ở hàng bán
quần áo cũ. Buôn bán quần áo cũ đã thành một công nghiệp lan khắp các nước
đương phát triển và cũng tràn ngập các thành phố nước ta. Bố của Ly Chờ thích một
cái mũ dạ. Nhờ năm 1952, lần đầu tiên vào các khu du kích người Mèo ở núi 99
bên Phù Yên, thấy những ông già mặc áo bông rộng, thắt lưng đỏ, đội mũ phớt, hệt
những người chăn cừu ở Mông Cổ và Trung á. Bố Ly Chờ ao ước có cái mũ phớt.
Nhưng thằng con rể cầm cái mũ của tôi lại không gửi ngay mũ về cho bố vợ trên
Sà Phin. Nó đem đội nghênh ngang đi chợ. Người ta xì xào cái mũ này chỉ bên
Trung Quốc mới có. Thằng này chắc có sự mờ ám sao đây. Thế là bị bắt. Lại phải
Vũ Mỹ Kẻ lên tận nơi can thiệp mới xong và rõ ra câu chuyện cái mũ diện.
Bây giờ, Ly Chờ đã có bốn con. Cháu gái ngày nào theo mẹ xuống
Hà Nội đã hai mươi tuổi, hơn tuổi mẹ khi mẹ đi làm giáo sinh xoá mù chữ trên Vằn
Chải. Vợ chồng và hai con nhỏ trở về Sà Phin. Hai đứa lớn không về, thích ở
xuôi và phố xá. Mỗi lần được thư chỉ những buồn là buồn. Lại được Ly Chờ cho biết
tin bác Vũ Mỹ Kẻ đã về hưu, cũng về Sà Phin. Bây giờ bác ấy cũng gầy lắm, trồng
thuốc phiện cả trong vườn. Chua chát, nhớ Vũ Mỹ Kẻ đã có nhiệm kỳ đại biểu Quốc
Hội được công tác sang đến nước Nicaragoa bên nách nước Mỹ.
Làm sao không buồn, bao nhiêu hy vọng rồi lại chỉ như thế. Tại
con người hay xã hội, hay còn tại những gì. ảo não thê lương, mỗi khi trở lại
những miền hoang vắng đã từng ở xưa kia mà đôi khi đã như nhà mình quê mình, vẫn
chỉ thấy bóng người địu củi, vác nước và tiếng gọi lợn, gọi trâu ời ời trong
ráng chiều. Năm trước, được tin trên Bắc Cạn, Bàn Văn Quân người Dao đỏ ở Khui
Buồn núi Phía Biếc, chết rồi. Quân đồng tuế với tôi, đã đo cánh tay uống rượu
ăn sùng nhận nhau làm anh em. Chặp tối, ông lão Quân ra đầu xóm trèo cây lấy tổ
ong. Người đi nương về muộn, nhìn nhập nhoạng tưởng con gấu liền giương súng bắn
một phát. Ông già Quân rơi xuống như một cành cây gãy. Vẫn thế, sao lại thế?
Chúng tôi đang leo lên dốc Vằn Chải. Dưới kia, người tan chợ
Yên Minh về. Từng đám đi lẫn ngựa nhấp nhô loáng thoáng cười nói. Cả các thầy
cô giáo cũng đi chợ. Ly Chờ đã lên kịp chúng tôi. Ly Chờ đeo hộ bác Nguyễn cái
túi dết. Ngày phiên, cô xuống chơi chợ như người ta thường đi, một tay cầm cái
phao đèn hoa kỳ, sợ vỡ nên hai chiếc bóng đã được buộc vào cổ tay. Một cái
chai, cái bóng thuỷ tinh từ dưới xuôi lên quý hơn cái phao sắt tây Cô bé nhí nhảnh
đeo túi, từng quãng đứng lại chờ bác Nguyễn chống batoong lần bước. Thế mà hôm
sau bác còn leo cao nữa. Tận rừng trúc vàng vòng quanh nhà thống quán Vàn Vản
Ly. Chúng tôi tạt vào nghỉ chân nhà Sùng Dúng Lù, anh hùng quân đội tiễu phỉ
năm trước. Lúc nãy đi qua một cái miếu, mỗi người nhấc trộm đi một cái tượng gỗ
con con. Đã hỏi Vũ Mỹ Kẻ rằng lấy được không. Vù Mí Kẻ bảo: cứ lấy. Nhưng lúc
vào nhà Sùng Dúng Lù, Vù Mí Kẻ bảo phải vắt các túi ngoài cọc rào nó biết trong
túi có tượng nó chửi cho. Mới hay, lúc nãy Vù Mí Kẻ chỉ nể mà ừ. Vù Mí Kẻ cũng
sợ. Nhà đất tối om phải lom khom cúi đầu chui vào. Giữa nhà, một đống củi sưởi
cháy đùng đùng, mấy người ngồi quanh, hắt bóng nhóng nhánh lên vách nứa. Những
cột kèo ám bồ hóng như sắp bắt lửa cháy nhà đến nơi. Dần dần tôi nhìn rõ tấm bằng,
cái huân chương anh hùng và những chiếc ảnh được đại hội anh hùng chiến sĩ toàn
quốc tặng, tất cả dán rải rác trên vách. Không có khung kính, những cái bằng và
ảnh với huân chương ám khói đen xỉn bên chiếc ống tên nỏ bắn chuột và quả bàu lọ
đựng hạt giống thuốc phiện treo lủng lẳng cạnh cột bếp. Sùng Dúng Lù lại mới được
mời về dự đại hội anh hùng dưới Hà Nội. Nguyễn Tuân hỏi:
- Về Hà Nội mấy lần rồi?
- Hai lần thôi.
- Lần sau có về nhớ đến nhà mình uống rượu. Rượu Hà Nội cũng
ngon như rượu ngô nóng trên Phó Bảng.
Khuôn mặt hốc hác khẽ lắc:
- Hà Nội không có rượu đâu.
- Ngày nào mình cũng uống mà.
- Có rượu thật à?
- Thật.
Sùng Dúng Lù nói:
- Thôi, chẳng về nữa!
Vù Mí Kẻ kể: Dúng Lù về dự đại hội vào giữa mùa đông. Người ở
núi cao quanh năm giá lạnh, đôi khi sáng sớm tuyết phủ trắng lá rau cải thế mà
về thành phố suýt chết rét. Thì ra cái rét buốt ẩm ướt khác cái lạnh hanh hao
trên cao. Người anh hùng ở núi, gió hun hút thổi mùa đông về. Không lo, đã có củi
gỗ thông vừa ấm vừa thơm. Đêm ngày nằm ngồi xung quanh đống lửa sưởi, không bước
chân ra cửa. Xuống Hà Nội, Dúng Lù rét run cầm cập. Đụp vào hai cái áo tả pủ vẫn
như cởi trần. Bởi vì trong phòng vắng đống củi. Ban tổ chức cho Dúng Lù cái áo
bông bọc vải xanh Sĩ Lâm. Dúng Lù mặc áo rồi vẫn rét quá, đòi về ngay. Đấy, cái
áo bông đã rách lòi hai vai đương mặc. Chẳng áo nào chịu được cái dây đeo và
cái lù cở cọ vào lưng, vào vai. ở nhà Sùng Dúng Lù ra, Hoàng Trung Thông ngẩng
mặt lên đỉnh núi, tức cảnh một câu thơ bốn chữ:
- Nhà thằng ăn mày?
Những cái tượng gỗ bé bằng con chó đá nhét trong ba lô. Vết đẽo
thô, sơn chàm loang lổ xanh lét. Thợ bên Vân Nam sang đẽo tượng này đặt ở các
cái miếu dọc đường trong rừng. Cũng như những hiệp thợ đá làm máng nước bậc đá
lên dinh cơ trên núi nhà Dương Trung Nhân ở Mèo Vạc và toà nhà đá tảng của
Vương Chí Sình ở Sà Phin. Tượng gỗ của những tay thợ người Hán. Màu xám chàm
hiu hắt, dị dạng. Chẳng biết Hoàng Trung Thông có cất cái tượng nào vào ba lô
không. Chuyến ấy về lái xe Tiến ốm lao rồi bệnh đái tháo đường mấy năm trời.
Người nhà đi xem bói, nhà thày bảo là ma làm. Thế thì chỉ có ma đường ngược
chuyến đi ấy. Nhưng Tiến không lên núi, chỉ nằm trông xe dưới cánh đồng Phó Cáo
và chẳng khuân trộm ông tượng nào. Lái xe Tiến khắc khừ, mòn mỏi rồi chết. Chẳng
biết từ lúc nào, tôi không thấy những cái tượng quỷ dạ tràng xanh xỉn gớm chết,
bày trên giá sách ở buồng Nguyễn Tuân và trên lò sưởi phòng Trọng Hứa nữa.
Chúng tôi ở Lũng Cú trở về Phó Bảng. Cán bộ Mông người Tày
Cao Bằng phụ trách Lũng Cú đưa đường. Cái chấm xanh rừng cao nhất trên bản đồ đất
nước, ở đấy cũng có trường học, có trạm xá có một xóm người Lô Lô. Dưới khe
sâu, nước sông Nho Quế chảy xiết. Bên kia, đất Trung Quốc. Không nhớ chuyến ấy
hay chuyến nào, Nguyễn Tuân và tôi có dịp ở lâu Phó Bảng đã vào chơi nhà bà
Síu, một nhân vật lịch sử của cao nguyên Đồng Văn. Tôi có quen Quỳnh Anh, công
tác dưới tỉnh. Vương Quỳnh Anh và Vương Quỳnh Sơn công tác ở khu Việt Bắc, đều
là cháu họ Vương. Bấy lâu, tiếng đồn đại về bà Síu, bây giờ gặp, tuy bà lão đã
cao tuổi, nhưng còn một thời tiếng tăm vẫn bóng dáng hoạt bát trong giao tiếp
và lời lẽ.
Năm 1948, Thanh Tịnh và Dương Bích Liên đã được lên Phó Bảng,
đi với phái đoàn Trần Đăng Ninh. Thời kháng chiến khu vực châu Đồng Văn ở vùng
tự do, nhưng phức tạp. Các tầng lớp trên vẫn cầm quyền từ trên châu xuống mỗi
xóm, mỗi chòm núi mà sau lưng là đất Trung Quốc còn trong tay chính quyền Tưởng
Giới Thạch. Bà Síu quen biết tướng Long Vân tỉnh chính phủ Vân Nam và cả cánh
thổ phỉ thế lực Hạ Sào Chúng. Trong châu, Vương Chí Sình đem quân đánh Mèo Vạc,
đuổi chúa đất Dương Trung Nhân phải bạt sang Trung Quốc rồi chạy về hàng Tây ở
Lạng Sơn, cao nguyên Đồng Văn Mèo Vạc trở thành đất cát cứ riêng một mình họ
Vương. Vương vẫn kể lại giữa năm 1946, về Thủ đô được chủ tịch Hồ Chí Minh cho
vào gặp, lại đưa cho Vương một thanh kiếm Nhật - đi mít tinh, đi họp châu,
Vương đều đeo gươm ấy bên thắt lưng. Vương nói: Cụ Hồ bảo tao rằng gươm này chú
đem về giữ đất nhà. Bởi thế, lần ấy Vương được đoàn của chính phủ lên thăm hỏi.
Thanh Tịnh kể rằng mụ Síu ra đón, đứng chắp tay vái trước đầu ngựa trưởng đoàn
Trần Đăng Ninh.
Bà Síu người Hà Đông, thuở trẻ lưu lạc lên Hà Giang, lấy viên
quản đồn Đông Văn, thành me tây. Ông quản chết và không biết vì hiềm khích thế
nào, quan ba Đồng Văn tống cổ hai mẹ con bà Síu sang Vân Nam. Những năm rối
ren, Nhật đảo chính Tây, bà Síu trở về Phó Bảng. Bà gả cô Đức con gái bà làm vợ
lẽ ông Vương. Lẽ mọn nhưng là cả, bởi bà vợ già người Mông suốt năm chỉ quanh
quẩn trong toà thành đá ở Sà Phin.
Năm trước, tôi qua Sà Phin vào xem dình cơ nhà Vương, còn gặp
bà lão lọm khọm và ông Đức điếc em ông Vương, ông này đã cất công vác được cái
xe đạp từ thị xã lên, để bày treo làm cảnh trên trần nhà.
Bà Síu mở quán cà phê ở phố Phó Bảng - hình như cả phở chua,
phở vịt. Lấy nơi chốn ấy cho các mối buôn dễ lui tới. Kỳ thực, bà Síu để mắt đến
cả vùng. Thế lực và mưu đồ nhà Vương đều trong tay bà. Chỉ có bà Síu mới đủ bạt
thiệp đón phái đoàn Trần Đăng Ninh.
Gặp năm ấy, bà Síu đã ngoài tám mươi. Bộ quần áo Hán nhuộm
chàm, đi hải xảo, người khô nhăn nheo như gốc cây cháy dở. Nhưng vẻ mặt quắc
thước, ánh mắt tinh nhanh. Chúng tôi ngồi bên cái bàn tròn, kiểu bàn ăn cơm mộc
mạc. Nguyễn Tuân và bà Síu, khách với chủ trò chuyện tràng giang đại hải, đủ
các chuyện, những miếng võ Tàu, các vị thuốc bắc, ở Lào hay Quí Châu thuốc phiện
đâu ngon hơn, những hiệu cao lâu nào có tiếng ở Hà Nội, ở Mông Tự, ở Côn Minh,
các mánh khoé Tây, Nhật. Quốc dân đảng Ta, Tàu... Đôi lúc, bà Síu nói lẫn tiếng
quan hoả với tiếng tây bồi ba mỏ nhá, sểnh sáng à, rồi cười hoe hai hàm răng
vàng. Vương làm chủ tịch châu kháng chiến, mà bà Síu vẫn cưỡi ngựa sang Côn
Minh rồi đáp máy bay về Hà Nội chơi. Dưới ấy, bà mới tậu ngôi nhà phố Hàng Đường.
Kỳ lạ và đến giờ tôi cũng không hiểu ngô khoai thế nào, hồi ấy mỗi lần bà Síu
đi Vân Nam về Hà Nội, các hãng thông tấn Ru tơ, Arip của Anh, của Pháp thường
đưa tin, - khi làrn báo Cứu quốc tôi đã được đọc những bản tin bí ẩn khó hiểu ấy.
Còn hàng bồ chuyện về bà lão thao lược, lịch lãm này. Các kiểu
tinh khôn, ranh ma, những mẹo mực đòn đánh ứng biến của bà Síu, tưởng giá mà gặp
thời, chắc chẳng khác các bà ba Đề Thám, Cai Vàng, có khi còn như một tiểu Võ Hậu
buông mành trị nước chứ chẳng chơi.
Lần ấy, Thào Mỷ nhắn mời bác Nguyễn Tuân và tôi sang Mèo Vạc.
Nhưng chúng tôi không sang được. Mấy năm sau, tôi lên Mèo Vạc, đi với Nguyễn
Văn Bổng. Lần đầu tiên, Nguyễn Văn Bổng đặt chân đến Hà Giang. Những năm vừa
qua, Nguyễn Văn Bổng đi chiến trường miền Nam, vào hoạt động bí mật trong Sài
Gòn. ở Sài Gòn trở ra Bắc đi hộ chiếu giả theo đường bay Nôm Pênh - Quảng Châu
- Hà Nội của hãng hàng không Pháp. Lưu lạc đã lắm đường đất thế, nhưng đến Mèo
Vạc lại là chuyến xa nhất của anh lên biên giới phía bắc. Thào Mỷ cũng nghỉ hưu
đã lâu. Đầu năm 1991 hơn ba mươi năm đã qua. Nguyên Ngọc trở lại cao nguyên Đồng
Văn - Mèo Vạc. Nguyên Ngọc kể cho tôi biết Thào Mỷ bây giờ mở ngôi hàng nước ở
chợ Mèo Vạc. Ôi, thế mà còn nhớ nhau, còn có lời thăm hỏi một thời sôi nổi và
sóng gió. Thào Mỷ bị ép lấy chồng từ thuở bé theo phong tục. Khi lớn, Thào Mỷ bỏ
về nhà mình - một việc mà chưa người đàn bà Mèo nào dám làm. Trong chiến dịch
tiễu phỉ 1954, Thào Mỷ đi dịch tiếng địa phương giúp bộ đội. Gặp Nguyên Ngọc lần
ấy trên mặt trận. Cũng chưa có dịp nào hỏi xem cái truyện ngắn Mùa hoa thuốc
phiện cuối cùng của Nguyên Ngọc có dây mơ rễ má với Thào Mỷ thế nào mà trong sổ
tay công tác của Thào Mỷ, giữa một trang giấy thấy ghi một câu gọi thật lạ
lùng: Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi. Thào Mỷ hỏi thăm tôi về Nguyên Ngọc, về
nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ. Chắc là Thào Mỷ thầm yêu cả hai người một đam mê khác đời
của Thào Mỷ, người cầm bút, người cầm đàn ấy đã gặp Thào Mỷ trong trận tiễu phỉ
trên núi. Tôi bảo Thào Mỷ ạ, Nguyên Ngọc đương ở chiến trường miền Nam. Thì đôi
mắt xanh nâu của người con gái đẹp im lặng..
Rồi Thào Mỷ trở thành cán bộ huyện Mèo Vạc - một phụ nữ dân tộc
Mông tiên tiến. Thào Mỷ cũng như cô Mỹ nhân viên cửa hàng bách hoá ở Lũng Phin
và con gái nuôi Ly Chờ của tôi. Chao ôi, con đường tình của người ta thì mấy ai
biết được rồi ra hướng nào. Như quả báo và ám ảnh truyền kiếp, xưa kia Thào Mỷ
ruồng rẫy thằng chồng ranh con, bây giờ Thào Mỷ chỉ đeo đuổi những người trai
trẻ ít tuổi. Cái anh chàng mà cô lăn lóc sau cùng là một cảnh vệ ở huyện đội,
người Tày quê Chợ Rã bên hồ Ba Bể Bắc Cạn. Chú cảnh vệ lệch với cô đến mười tuổi.
Trong khi ấy Thào Mỷ từ chối người ta làm mối cho một cán bộ Kinh mà cả tuổi trẻ
đã để vùi vào công tác rừng núi trên này. Nhưng ở thời ấy, một huyện uỷ viên
đương phơi phới hứa hẹn như Thào Mỷ, làm sao đoàn thể lại có thể bằng lòng cho
cô đẹp duyên với chú cảnh vệ trống choai kia.
Cái ngày tôi lên Mèo Vạc lần đầu, mọi chuyện về Thào Mỷ đương
còn bời bời như vừa xẩy ra. Thào Mỷ tháo vát nhanh nhẹn, được làng xóm tin cậy.
Thào Mỷ đưa tôi lên những núi trong huyện. Có lần về Nhá Sủa, làng quê Thào Mỷ.
Tôi hỏi nửa thật nửa đùa: cho tôi nhìn cái mặt thằng chồng trẻ con ngày trước.
Thào Mỷ nói: Nhìn nó làm gì, nó có trẻ con nữa đâu. Nó đã có vợ mà mình thì
chưa được chồng. Rồi Thào Mỷ cúi mặt, dường như thở dài. Sớm mai, trên đường đầu
xóm, một người vác cây vầu trong rừng ra. Người ấy đã đi khuất sang núi bên
kia. Thào Mỷ nói: Nó đấy. Nó đấy cũng như mọi người tron làng, tôi làm sao biết
được. Tôi vẫn thấy trong tưởng tượng cái thằng lỏi con cởi trần, đánh quay chơi
trước nhà rồi bị vợ bỏ, ngoe ngoảy khóc thút thít. Kể cả ngày Nguyễn Văn Bổng
và tôi lên Mèo Vạc lần ấy, nhiều năm đã qua rồi. Thào Mỷ đã làm phó chủ tịch
huyện, phụ trách văn xã. Không ngờ rồi gầy yếu đến thế. Có lẽ vốn người nhỏ nhắn,
lại xưa kia khi chê chồng đã ăn lá ngón tự vẫn nhiều lần nhưng được giải độc,
không chết. Thào Mỷ đã có chồng. Tôi được tin mừng ấy từ lâu. Lại biết được người
chồng ít tuổi hơn Thào Mỷ. Thoả lòng nhé. Nhưng nay mới tường mặt. Anh ấy người
dân tộc Lô Lô, công nhân lâm trường, chưa biết chữ. Hôm đầu đến, không gặp. Anh
lên quê trên Lũng Cú đã mấy hôm. Tôi hỏi: Hôm nào nó về?. Thào Mỷ sa nước mắt.
Tôi không hỏi nữa.
Đêm ấy, chúng tôi uống rượu ngô bằng những cái bát mắt vầu.
Nhắm với thịt dê nước suýt thắng cố. Chảo thắng cố bắc giữa gian phòng ban văn
xã của huyện. Cái đầu dê nổi lềnh bềnh, nước sôi lăn tăn xung quanh. Thào Mỷ uống
rượu từng bát. Rồi khóc. Lại khóc. Khổ lắm. Nó đánh em. Đánh luôn, vừa đánh vừa
chửi: tao đánh con mèo già, tao đánh phó chủ tịch huyện. Uỷ ban gọi nó lên. Nó
xin chừa, nhưng rượu vào rồi, nó vẫn chửi thế, đánh thế. Biết làm thế nào bây
giờ?
Biết làm thế nào? Hôm trở về, Nguyễn Văn Bổng bảo tôi:
- Heo hút, ảm đạm quá. Mình đến đây lần đầu, mà chắc cũng là
lần cuối cùng thôi.
Không biết ngọn núi Lão Sơn ở cái đất Mèo Vạc Miêu Vương này
lạnh lẽo hoang vắng hay là bởi câu chuyện thương tâm đời người. Nhưng không phải
đời người chỉ có nước mắt. Cũng vui, nhiều chuyện vui chứ. Cái người mà trong
thư gửi theo giữa đường cho tôi, Nguyễn Tuân đã dặn hãy cố lượm nhặt được nhiều
nhân sự để tái tạo. à ông nên gặp nhân vật Chúng Thị Phà nhiều lần nữa.
Chúng Thị Phà người Tày, quê ở Tòng Bá. Còn nhớ đêm ấy, trên
đường Phó Bảng xuống Hà Giang. Về thị xã thì quá khuya, mà nghỉ lại ở làng Đán
nhà người Nùng, người Hoa đêm hôm đột ngột làm giật mình người ta e không tiện.
ở đây gần Thập Đại Sơn, nhiều cánh cướp lẩn quất vùng biên giới. Chú lái xe của
tỉnh đã thuộc từng gốc cây đường Đồng Văn, hỏi đùa: Hay ta ngủ lại quán mụ Tèo,
ngay trước mặt kia kìa. Quán mụ Tèo chơ vơ lút trong cỏ tranh giữa Pác Xum và
làng Đán. Tôi không lạ. Đã có một lần tôi đi xe hàng bị hỏng máy, bác tài phải
nhờ xe về thị xã lấy đồ chữa, khách đợi có đến ba hôm. Tôi đã nghỉ ở nhà trọ mụ
Tèo. Chú lái xe kể: Cái con mẹ Tèo như cột ki lô mét xi măng, mưa nắng thế nào
cũng cứ trơ ra. Tôi biết quán này từ khi làm phụ xe, rồi phụ lái, rồi lái
chính, cả chục năm nay mụ vẫn thế. Có xe qua, chẳng hỏng hóc cũng ỳ ra nằm lại.
Lúc nào quán cũng có khách. Muỗi Pác Xum, hùm làng Đán cũng chẳng đuổi được những
quân quỷ tha ma bắt cố tình lăn ra giữa hùm beo rắn rết, thổ phỉ bên Thập Đại
Sơn sang mụ cũng chẳng coi vào đâu. Mụ Tèo chứa tất. Những quân tứ chiếng đã
phiêu bạt lên nơi cuối đất cùng trời này đều thần nanh đỏ mỏ, cái mụ Síu ở Phó
Bảng và mụ Tèo này. Thời trước mụ Tèo cũng là me, vợ một cai Tây đồn Quản Bạ.
Rồi chú tài lại nói: Mà thôi, đừng dính vào của nợ ấy, ta về
Pác Xum cho thoải mái. Cung đường Pác Xum có nhà nghỉ, cô đội trưởng Phà cho ăn
nghỉ tốt lắm, khách lỡ đường nửa đêm gà gáy cũng phải khen.
Nguyễn Tuân và tôi biết Chúng Thị Phà ở chuyến ấy. Đội lưu động
của tổ trưởng Phà đương tu bổ lại quãng dốc Pác Xum. Năm sau lại gặp lại Chúng
Thị Phà ngoài Thanh Thuỷ biên giới, sửa đường ô-tô Thanh Thuỷ sang huyện Thiên
Bảo Trung Quốc.
Các cung đường heo hút, nhiều nơi công nhân rặt con gái. Toàn
các cô quê Thái Bình, Nam Định lên. Nơi ở lán tựa vách đá, phên vách cũng treo
gương ảnh hoa và tây đầm, chó, lâu đài cắt ở họa báo, dán loè loẹt như vách hiệu
cắt tóc. Đường qua các vùng núi xa, chỉ thấy một cô công nhân người Tày này.
Chúng Thị Phà quần áo chàm thắt lưng gọn gàng, chiếc khăn vuông kín đáo che nắng
vẫn lộ đôi mắt sắc, khuôn mặt trắng nõn nà. Nguyễn Tuân lại nhắc tôi: Đề tài
đây chứ đâu, mày phải viết đi, Tôi vẫn chưa khi nào theo được lời khuyên của
đàn anh. Có thể vì chưa đủ xúc cảm, có thể vì sức nghĩ còn thấp hơn sự thật ngổn
ngang. Có khi không muốn viết...
Sau lần gặp phà ở Thanh Thuỷ ngoài biên giới chúng tôi về uỷ
ban tỉnh kể chuyện thành tích và tấm gương tháo vát của cô gái Tày làm đường Thế
Kỳ, thường vụ tỉnh phụ trách tổ chức, tôi quen ở khoá học 1960-1961 trường Nguyễn
ái Quốc. ít lâu sau, Chúng Thị Phà được tỉnh điều về làm cán bộ phụ nữ huyện. ấy
thế mà vẫn lắm oan khiên, làng xóm đồn cô đã bỏ thuốc cho chồng ốm chết để được
bay nhẩy. Phà buồn lắm. Nhưng rồi những lời thêu dệt đặt điều ấy cũng như gió
bay đi...
Một lần nữa, tình cờ Nguyễn Tuân và tôi gặp lại Chúng Thị Phà
trên đường vào Bắc Mê - cả ba lần đều không hẹn không đợi mà gặp. Chúng tôi lội
qua một con suối, bước lên thấy trước mặt một cô gái Tày mở nón ra cười. Nguyễn
Tuân reo to: A cô Phà? Cô Phà! Lại vui đùa lõm bõm mấy tiếng Tày giả cày: Mà lố!
Mà lố! Về hả! Về hả? Nguyễn Tuân nắm tay Phà hỏi han như người thân lâu ngày mới
gặp. Đi đâu vào đây? Bỏ cung đường, độ đường cho ai? Hồi ấy, chưa có đường xe
vào Bắc Mê.
- Em vào Đường Âm công tác.
Chúng Thị Phà đã về huyện hội. Cô cán bộ phụ nữ vào công tác
xã Đường Âm. Nguyễn Tuân còn cứ ghê ghê mãi vùng này lắm những chữ Đường Âm, Bắc
Mê.
Tôi trở lại Hà Giang, vào nhà Phà ở bên Ngọc Đường. Các cơ
quan tránh máy bay đã tản cả sang bên kia sông. Khuya mới trở ra được, cái rượu
Dao ở Đường Âm say êm quá. Thì ra chồng cô ấy người Đường Âm cũng công tác ở
huyện. Lúc chiều vào huyện đội hỏi thăm mấy cô văn phòng chẳng biết quê xuôi
hay ở trên này, nói đùa trắng trợn: Chồng chị ấy hay ghen lắm, anh ạ. Bây giờ
tôi hiểu là câu đùa yêu. Mấy ngày ở lại, anh ấy thật vui.
áp tết Nguyên Đán một ngày cuối năm đoàn đại biểu Hà Nội trưởng
đoàn Nghiêm Chưởng Châu, Phó chủ tịch ủy ban thành phố lên thăm các chốt bộ đội
biên giới huyện Vị Xuyên. Chúng Thị Phà đã là hội trưởng phụ nữ huyện (Và mới
đây là đại biểu Quốc hội khoá 8 trong đoàn Hà Giang). Tôi kể lại với Nguyễn
Tuân về chuyến đi. Nguyễn Tuân giọng ngà ngà: Có thể chứ, cuộc đời vẫn sông có
khúc, người có lúc. Cái cô Phà ấy mà hay. Nguyễn Tuân cười, nhưng rồi như chợt
nhớ, lại buồn buồn: Pác Xúm... Thanh Thuỷ... Bắc Mê... Đường Âm... Nghe cứ rờn
rợn. Xa quá..
CHƯƠNG 5
Năm cùng tháng tận, tết nhất đến nơi mà thành phố vẫn phấp phỏng
không biết bom đạn trên trời ập xuống lúc nào. Dáng ai cũng vội. Mưa bụi hơi nặng
hạt. Tiếng pháo rải rác. Con chuột cống trụi hết lông trong rãnh nước lép nhép
ra, gặp ánh điện lại lõm bõm thong thả quay vào. Ngày mùng một, những bộ quần
áo mới và những người đẹp loé lên như nắng sớm. Kiểu áo Thái Lan vạt không viền
gấu ngổ ngáo được các ông phó may đất Kẻ Chợ làm cho dịu đi, ưa mắt. Thì cái áo
đại cán ở Thái Nguyên về chẳng ra sao mà đến Hà Nội cũng hoá nhũn nhặn, dễ
trông. Chiếc chả giò Sài Gòn bé bằng ngón út mà ra đây hoá thành cái nem rán
nhân cua bể, món ăn quốc tế. Chỉ những mái tóc xun xoăn lên như cô gái châu Phi
thì hình như các tay thợ ngôi chịu, vẫn để nguyên mẫu thế trên đầu các cô gái đời
mới.
Đêm công viên Thống Nhất. Đèn treo vòng qua mặt cầu quán Gió.
Hoa cúc trắng trong bóng tối. Những quả quất đốm vàng nhấp nhoáng. Thoảng mùi
thơm hoa hồng. Ôi, sao chưa vào xuân mà đã hồng hoa. Hay là cứ tưởng ra thế.
Thành phố đường vắng vẻ thiên nhiên - hay là ở nơi đô hội người ta không để ý,
mùi hoa, mùi đất, mùi lá và mùi gió mơ hồ thả xuống lòng đường, những sáng sớm
vừa dứt mưa đêm. Trong lùm cây, ghế đá thì rõ ràng cảnh tất tả khác thường. Đôi
trai gái xe đạp dựng, nón, ba lô, túi dết, chai dầu, nước mắm đeo túm sau yên.
Vừa về tới, đã ngủ đêm trong thành phố, hay chốc nữa đạp ra làng sơ tán tận
đâu.
Mới mùng bốn đã lao xao và gay gắt như mọi ngày trong năm. Mụ
mắt cú vọ đứng sắp hàng mua cá bể muối từ Hải Phòng đưa lên đã đóng tảng trước
quầy cửa chợ. Gần đến nơi, trỏ tay, hỏi. Cô nhà mậu lạnh lùng bảo cá bán theo
phiếu cán bộ. Mụ quay ra giữa hè, mặt phừng lên, vô vô:
- Cha tiên nhân cái mặt này! Sao mày không đẻ ra cán bộ, chỉ
đẻ ra thằng nhân dân! Cha tiên nhân...
Những câu chửi, cũng một câu chửi, câu thì mánh khóe té tát,
câu thì khoe ý nhị, nhiều nhẽ. Bà ở quê ra chơi, cháu bé lon ton chạy tới, bà
cười cười: Cha đẻ mẹ thằng cũn kia! Tối mùng sáu, ra ăn mở hàng cháo gà lão Chữ
ngã sáu.
Năm mới, được ngày tốt, bác hàng cháo chỉ làm một ít bán lấy
may. Khoảng mười giờ, nồi cạn đã sôi ục ục. Không thấy cái chú mọi khi lúi húi
rửa bát ở chiếc bồn gỗ cạnh bếp lò quây miếng sắt tây. Thằng bé về quê ăn tết
chưa ra à? Ông Chữ đương ngồi lau bát, ngước lên, cùi tay đấm lưng bùm bụp, rồi
khoe khéo.
Cám ơn ông hỏi thăm. Bố đương ốm mà bỏ đi thanh niên xung
phong, ông ạ. Vào tận mặt trận Quảng Trị, Thừa Thiên đấy. Cha tiên nhân nó, gần
Tết gửi được cái thư về báo cáo gia đình đi có năm tháng đã được tiên tiến, bây
giờ phụ trách C đấy, ông ạ. Ông bảo cái ngữ rửa bát chưa sạch thì phụ trách, phụ
móc gì mà cũng nên cán bộ cán thuổng?
Ôi chao, cái câu chửi, câu phàn nàn mà âu yếm. Thành phố sôi
nổi mà lại như lặng lẽ, khinh bạc, phớt đời. Lại đòn đánh mới, lại sắp bom, lại
sơ tán, triệt để sơ tán. Lần nào cũng tưởng đã vợi hết người rồi vẫn cứ thấy trẻ
con người già lốc nhốc ở đâu bò ra lắm thế. Đám tý nhau đeo ba lô, quảy túi lễ
mễ trông đến thương - nhân đấy là mình nghĩ. Chúng nó bước lon ton, hớn hở, nghếch
mắt ra vẻ ta đây.
Cái thói quen đêm giao thừa tụ hội nghe giọng sang của Đàm Mộng
Hoàn, giọng đẹp Chu Thị Năm Tuổi ba mươi đã lại dư một vài... Tuổi năm mươi, tuổi
sáu mươi... bảy mươi đã lại dư... Chiếc máy hát cũ hỏng đã lâu, cũng chẳng buồn
chữa.
ừ đã lại dư... mà đã có người xuống mộ rồi. Ngoài hạ nêu, vào
dịp bốn mươi chín ngày, đi Nam Định với Yến Lan, Bùi Hạnh Cẩn và Phạm Lê Văn viếng
mộ Nguyễn Bính ở nghĩa trang thành phố. Chúng tôi đặt chiếc bia bên cạnh cái
bia đã có. Thế là một mộ hai bia, nhưng chắc hôm đưa đám vào ba mươi áp tết
ngày cùng tháng tận chẳng có mấy người. Thơ Nguyễn Bính, tình buồn mà cảnh đẹp,
nhưng những luỹ tre xác xơ làng Thiện Vịnh, đồng chiêm ngập nước loi ngoi cỏ lẫn
lúa xơ xác chẳng mảy may như trong thơ. Con trâu cày đồng sâu chỉ thấy hai lỗ
mũi nghếch lên mặt nước. Không có rơm rạ, làng trồng cỏ tranh trên gò lấy cái lợp
nhà. Gió ào ào qua rặng tre nghiến răng. Những thôn Đoài nhớ thôn Đông và đám
rước quan trạng vinh qui qua làng Trang Nghiêm không phải dưới đất có được mà
chắc là ở trên cao xanh đẹp đẽ xa kia.
Tôi mơ màng tưởng tượng và cũng thật tôi đương ngồi trong căn
nhà ấy. Nếp nhà tranh một gian hai chái, cửa buông. Trước hiên, giàn đỗ ván đã
quăn queo còn vương lại mấy quả khô đen như quả bồ kếp, thế mà mưa xuân đương độ
phơi phới bay, vẫn nở như một đoá hoa tím ma quái. Mảnh sân đất ngoài đùn từng
đống cứt giun và cạnh bờ rào thưa, hủm xuống một cái chuôm cạn. Cái ao cấy cần
của nhà thơ. Mặt đất đáy ao, những khóm cần nhà ai đương lên xanh mởn.
Hỏi ra mới biết năm ấy nhà xuất bản Phổ Thông - nơi Trúc Đường
làm việc, in truyện thơ dài Tiếng trống đêm xuân của Nguyễn Bính. Có tiền nhuận
bút, nhà thơ nảy ra cái ngông về làng quê làm nhà, cái nhà đơn sơ như trong thơ
xưa. Nhà tôi có một vườn dâu... Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần... Hoa đỗ ván nở
mùa xuân. Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm... Rồi vợ chồng con cái Nguyễn
Bính dời thành Nam, về làng. Chỉ ở được ít lâu, đôi bên lục đục, đánh chửi
nhau, chăn bông xé đôi mỗi người đắp một nửa - báo Nam Hà trong mục thơ châm biếm
đã có bài thơ mỉa mai. Rồi cái nhà này, cái sân đất, cái ao hệt như trong thơ,
phải bán đi. Lại gồng gánh nhau ra phố ở. Buổi trưa ấy, tôi nghỉ nhờ bác chủ mới
của nếp nhà ấy - một người làng. Nhìn cái cửa buồng, chiếc then tre treo lắc
lư, nghe tiếng bụi tre đưa võng kẽo kẹt bên đầu hồi. Nhà tôi không bán vườn
dâu. Tháng hai giàn đỗ bắt đầu ra hoa. Sang năm tôi phải về nhà. Đợi xem vườn đỗ
ra hoa có nhằm? Trong tôi rỗng không chẳng một ý nghĩ, nhưng mắt thì rưng rưng.
Tiếng tàu hoả về Phủ Lý đằng cuối cánh đồng thuốn hun hút vào giữa trưa, có lẽ
canh khuya nghe còn thăm thẳm hơn.
Đêm về viết bài đi viếng bốn mươi chín ngày Nguyễn Bính cho
đài phát thanh buổi gần nửa đêm gửi miền Nam báo tin buồn với bè bạn trong ấy -
Nguyễn Bính đã lặn lội mười mấy năm trời ở thành, ở chiến khu, cũng là một đứa
con miền Nam.
Các cửa hàng, phiếu thịt chỉ bán mỡ - mà hoạ hoằn mới có. Người
đổ ra đường, suốt ngày nháo nhác sắp hàng, xếp hàng mua từ mớ rau đay. Bom đánh
trên đầu, dưới đất thì kéo dài hàng như thế này, biết sẽ ra sao. Tôi ra nhận
làm công tác trưởng khối phố, tôi đi xem xét các nhà thiếu đói để xin cứu tế cuối
năm. Vào một nhà, chị ấy làm nghề y tá, chồng li dị. Ba mẹ con cả tháng ăn cháo
quấy lẫn rau muống. Nửa phần gạo phiếu đã bán để thêm tiền chi tiêu và mua rau,
mắm muối. Ba khổ mặt xanh rớt, sáu con mắt thì trong Tháng hai qua như cuốn đi,
đôi lúc nhìn cây cỏ mới nhớ ra. Những cây xoan vẫn khẳng khiu. Cây táo còn sót
lại trên cành những quả vàng, rung một cái, rụng lộp bộp lẫn với những giọt
sương. Chiếc búp bàng đã dựng đứng như cái tai thỏ xanh. Tiếng con chim vành
khuyên bay trong làn mưa mới nhè nhẹ nửa bụi nửa hạt. Hoa vông đỏ, màu gắt đỏ
hoa vông, đông miếng tiết. Bụi mưa vân vân quanh người trên đường.
Đêm xuống rồi mà gió dải đồng còn thổi dài mặt hồ Hoàn Kiếm.
ánh điện hẩng trong lòng tháp hắt ra trông thấy một chiếc thuyền thúng ghép bằng
mảnh thiếc đủng đỉnh lượn quanh bờ cỏ tháp Rùa. Người trên thuyền, một bàn tay
bơi, một tay thả xuống những cái ống đánh lươn. Hè phố Tràng Tiền, những viên gạch
đã mòn trũng, trơ ra cái vỉa viền đá xanh, như con cá giơ xương. Khung cửa sổ
trên gác im lặng trong cánh mành buông, một chiếc bóng nhìn ra, tay nâng cái
chén. Chén chè ngon hay chén rượu một mình. Êm ả, tĩnh mạc, các cửa sổ ban đêm
giữa thành phố phòng không như trong chuyện cổ tích.
Khuya rồi bỗng hiện ra một con quái vật của chiến tranh Việt
Nam 1966. Một xác chiếc máy bay không người lái cụt mất một bên cánh, nằm trong
thùng chiếc xe bò, một người cầm càng kéo đi. Thằng không người lái này ban chiều
vừa lẻn vào tiếng nó réo lọng óc. Tự vệ quận Đống Đa đón lõng bằng đại liên, đã
hạ nó rơi trên bờ đê, bây giờ xe vào đây. Cái lạc hậu tha cái tối tân lủi thủi
lọc cọc trong đêm.
Cái nào đi với đặc điểm ấy trong thời chiến. Quán cà phê Miền
Nam cạnh bệnh viện Mắt. Chủ vốn lái xe, áo xanh, tay nhọ, bàn ghế ngổn ngang
trong cửa hàng tối hũ nút. Vợ chồng nhà quán cũng đen như bóng tối, hàng dọn
lúc ở bờ hè, lúc vào trong nhà, chẳng khác cà phê đá nhạt thếch ở bến xe đi Nam
Vang xế cửa chợ Bến Thành ngày trước. Cà phê Trần Hưng Đạo, một tay thương binh
chán đời. Những người vắng mặt trong câu chuyện đều bị lão gọi bằng thằng.
Khách hàng, áo ka ki đại cán bạc như khuôn mặt thờ ơ của những cán bộ bàn giấy
các cơ quan quanh đấy. Cà phê Lâm chơi tranh trễ tràng, các thứ nam nữ cô bồi,
cá chìm, họa sĩ nổi tiếng ngồi lẫn với thợ vẽ Bờ Hồ, những loại đú đởn học đòi,
những cặn bã tự cho là nhất thiên hạ tới đây để rồi khoe tầng uống chịu của ông
chủ cà phê chơi tem rồi chơi tranh và mua sách của các nhà văn túng thiếu đem
gán nợ. Cà phê Lương, cà phê Lâm hàng Da thì đã tàn. Thế mà cái cà phê nhà mậu
đường Điện Biên lại đương nổi, ngoài cửa xe đạp chồng đống. Chẳng ra gì mà đông
như chọi gà. Mới biết bán hàng cốt có cái duyên. Nhưng dù sao, vẫn khác những
quán cà phê nhợt nhạt ô Yên Phụ, chỉ được cái ngọt ấm mùi hoa xoan trước cửa.
Anh cô bồi ngoắc ria mép gọi hai ấm chè. Mỗi lần lên hồ Tây, tôi đến uống suông
chai bia Hữu nghị rồi ngồi nhìn xuống lưng đình Yên Phụ kề mặt hồ. Thế mà bận
sau, cô hàng đầu ô vẫn nhớ mặt. Khách dị dạng một chút, đã dễ quen.
Đêm Nôen năm ấy, đi chơi với một người khách trẻ măng không
biết tên và trong tối sáng nhấp nhem, cũng không hẳn tường mặt. Những ngọn đèn
đường chỉ rình tắt, sắp báo động. Suốt chiều, chốc chốc tiếng loa: Máy bay địch
cách Hà Nội sáu mươi ki lô mét... ba mươi ki lô mét... hai mươi ki lô mét...
Khách trẻ trung, trắng trẻo vẻ búng ra sữa, giọng Hà Nội nhỏ nhẹ, áo va rơi dạ
mặc ngoài, mũ bông có tai ấm. Cũng như chúng tôi, cái bóng bù xù đi trong đêm
đông lạnh. Nhưng mà khác chúng tôi.
Những bước thong thả trên đường khuya. Lúc này chỉ còn lại
đám người vun quanh khu nhà thờ Hàng Trống và mấy cửa hàng Thuỷ Tạ, Phú Gia mở
cửa trắng đêm đón người chơi Nôen. Đâu ai có thể tưởng cái anh chàng non tuổi ấy
là một giặc lái bay cùng tốp với phi công Phạm Phú Quốc vượt vĩ tuyến ra đánh
nông trường Tây Hiếu ở Nghệ An. Tin tức Sài Gòn tâng bốc rùm beng phi đội Việt
Nam Cộng Hoà anh hùng đầu tiên ném bom miền Bắc. Nhưng câm miệng hến về chiếc
máy bay rơi này.
Chúng tôi thường viết bài cho mục phát thanh của quân đội nói
với thính giả miền Nam. Đọc tài liệu, giấy tờ bắt được ở chiến trường, trò chuyện
với phi công tù binh Mỹ. Có lần, tôi vào làng La Cả uống rượu ăn thịt chó với đại
tá Phạm Văn Đính, đại tá Vĩnh Phong - người hoàng tộc đã ra hàng quân giải
phóng ở điểm cao Cồn Tiên Dốc Miếu. Hai sĩ quan hàng binh này sơ tán ở một nếp
nhà tranh của quân đội ẩn trong lùm cây ổi cây nhãn giữa làng. Thỉnh thoảng,
kéo nhau ra thị xã Hà Đông sắp hàng mua bia hơi. Có người đến thăm, khói bếp thịt
chó nghi ngút cả ngày Tôi cũng thường đọc trên đài một Thư Hà Nội gửi nhà văn
Quan Sơn ở Sài Gòn. Chẳng mấy ai biết bút hiệu ấy của Doãn Quốc Sỹ ngày trước
trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Doãn Quốc Sỹ người Cầu Giấy, gần làng tôi.
Chúng tôi quen nhau khi mới cầm bút. Một trong những truyện ngắn đầu tiên của
Doãn Quốc Sỹ, Đôi mắt của Hiền, cô Hiền ấy, con gái bác Tú Mỡ. Bức thư tình
đăng báo mà rồi nên nhân duyên. Doãn Quốc Sỹ theo nhà vợ tản cư ra Bắc Giang ít
lâu rồi vào Hà Nội, rồi di cư vào Nam. Báo chí và các nhà xuất bản ở Sài Gòn in
sáng tác của Doãn Quốc Sỹ, lại biết Sỹ dạy học ở Hà Tiên, được tu nghiệp ở Mỹ mấy
năm. Chẳng biết cách mạng có nợ tiền, nợ máu gì với cái gia đình công chức còm ở
một làng làm nghề dệt nghề giấy ngoại ô này không, tôi tin là không, thế mà
Doãn Quốc Sỹ viết chửi cộng sản hăng thế. Chắc chẳng khi nào Doãn Quốc Sỹ nghe
bài của tôi để biết đến những tiếng nói cùng quê của anh.
Cái cậu giặc lái trẻ tuổi này cũng là một tài liệu sống mà
quân đội cho chúng tôi mượn. Anh ta gốc Hà Nội. Nhà Hoả Lò thả cho đi dạo phố
đêm Nôen với chúng tôi. Đã hơi khuya, trở lại ngã sáu, ghé vào ông cà phê 81 một
lúc đợi đến gần nửa đêm mới lững thững lên nhà thờ Hàng Trống.
Ngã sáu vẫn như mọi khi, những đêm vào mùa lạnh, mặt đường
mênh mông ra trong ánh đèn thoi thóp quãng một. Những cây sữa trụi lá đứng trơ
trỏng. Tôi chợt thấy thú vị nhận ra chưa phải mùa hoa sữa. Tôi không yêu, cũng
chẳng ghét hoa sữa. Nhưng bạn bè thường chiều sở thích của Nguyễn Tuân, quên
cái mình ưa hay không ưa. Nguyễn Tuân ghét hoa sữa, hoa dạ hương - những mùi đậm
quá làm điếc mũi cả đêm. Chối của nào trời trao của ấy, ngay bên cửa sổ gác nhà
Nguyễn Tuân, đến mùa, hoa sữa nở từng chùm trắng ngà nồng nàn buông mùi vào ngập
cả phòng. Nguyễn Tuân bực bội không ngủ được, lúc nào cũng đóng cửa sổ về phía ấy.
Một năm, cây sữa bị chặt, không biết vì mọi người kính trọng bác Nguyễn hay vì
các hộ trong nhà thiếu củi đun.
Bỗng anh thanh niên giặc lái nói:
- Thưa bác, ở ngã ba quãng này có nhiều cây sữa. Cháu còn nhớ.
- Cây sữa bây giờ đã rụng lá. Như cây mùa đông bên châu Âu..
- Cháu còn nhớ, mỗi hôm đi học qua. Khi cháu học lái ở tận
bên Mỹ vẫn còn ngửi thấy mùi, như cả đời học trò có mùi hoa sữa.
Nguyễn Tuân lặng im. Chắc vì không muốn nói như mọi khi tôi
khó chịu cái mùi hoa sữa hắc lắm mà cậu học trò này đương nhớ mùi hoa thuở cắp
sách. Chúng tôi ngồi xuống tấm ghế dài. Ông hàng nhô ra bên ngoài cái chụp đèn
hoa kỳ. Vẫn ông 81, áo nâu lẫn bóng tối. Tôi tưởng ông đã đi sơ tán để đứa cháu
nào nán lại trông hàng ~ giữ khách. Tôi hỏi:
- Ô! Ông công sứ Gotapphơi còn đây à?
- Thưa, vưỡn ạ. Khốn khổ, cháu đã chạy ra ngoài Vọng. Được ăn
mấy trận no bom, mà không chết thế là lại quay về. Cái thằng Mỹ cũng trông gà
hoá cuốc, cứ chỗ đồng không mông quạnh nào có cái lò gạch là nó choang bom.
Chúng cháu lại ở nhờ cái xóm làm gạch, cả mấy cái lò đỏ ối. Chặp tối lúc nãy nó
ném nghe gần lắm. ở đâu thế, chư ông?
- Chắc lại dưới cầu Giẽ.
- Sao bảo lễ Nôen thì nó cho bên đạo nghỉ - Cầu Giẽ, cầu Hàm
Rồng, lúc nào ta cũng xe tàu tải đạn tải người vào Nam, nó im sao được Các họ đạo
vùng cầu Giẽ phải lên lễ nhờ nhà thờ Hàng Trống. Chắc năm nay cũng thế. Ông
cũng lại nên thu xếp, chỗ ngã bảy thế này không yên đâu.
- Nghĩ thế mà tôi chạy ra Vọng, mới hút chết.
- Thôi, ông ạ.
- Nhưng chỗ này thì yên sao. Tay cà phê Hoà vừa chết bom giữa
phố Huế đấy.
Ông đặt cái khay trước mặt chúng tôi. - Chạy đâu cho khỏi số,
hả ông? Cái năm thằng Mỹ thả bom Nhật, tôi ở ngõ Hàng Đũa sau ga Hàng Cỏ, bom
rơi bốn phía, tôi đứng giữa. Lần này Mỹ bỏ bom tạ ở Vọng, tôi vẫn ở giữa. Hoá
tam ba bận, Nam Tào Bắc Đẩu quáng mắt xoá hộ khẩu mình rồi, bây giờ chẳng đi
đâu nữa cho nhọc!
Tôi không để ý. Có lẽ những chuyện tàu bay tàu bò thế này
không thể làm khuây khoả được anh giặc lái trẻ tuổi. Anh trầm ngâm nhìn xa xa.
Lúc đứng dậy, anh nói nhỏ:
- Nhà cháu trước ở đằng kia, cuối phố Công chúa Huyền Trân.
- Cậu có muốn nhìn lại nhà không?
- Cám ơn bác.
Chúng tôi thong thả ngược lên Bờ Hồ. Một lúc, anh nói một
chuyện khác:
- Cháu trông ông cụ bán cà phê, không hiểu sao, cháu cứ ngỡ
ông cụ ấy là ông Lý Thường Kiệt.
- Hay nhỉ!.
- Ông Lý Thường Kiệt chắc cũng có nước da bánh mật thế và ông
đánh nhau đến già không thua trận nào, cụ cà phê cả đời bị bao nhiêu trận bom vẫn
không việc gì.
Nguyễn Tuân cười:
- Mình chỉ thấy ông ấy giống cái pho tượng Nhịn ăn chùa Tây
Phương. Ông lão quê mùa thế mà đã có mấy năm ăn chơi ở Pa ri đấy.
Mọi người đều cười. Cậu giặc cái chắc cũng chưa trông thấy
ông phật gầy giơ xương trên chùa, thường được gọi là ông Nhịn ăn. Anh ta theo bố
mẹ vào Nam từ lúc: mười tuổi, lớn lên sang Mỹ học nghề hàng không, trở về lái
máy bay vận tải, rồi máy bay chiến đấu, lần đầu vượt giới tuyến. Tôi cũng chỉ
chốc lát với anh ta đêm ấy, như đọc trang tài liệu, không biết tên mà cũng
không bao giờ còn gặp lại.
Cái ông Nhịn ăn cà phê bít tất, bị hai đời máy bay Mỹ quần mấy
trận mà vẫn trơ ra, ừ cũng có thể như tướng quân Lý Thường Kiệt, lại cũng như
cái người nhịn ăn rồi thành phật. Ông lão đã trên tám mươi, mấy năm sau ông mất
bệnh già, nhẹ nhàng như người đi ngủ. Ông có thằng cháu được sang học bên Tiệp,
lấy vợ Tiệp và ở lại bên ấy. Thằng này chẳng thể biết đời ông nội nó lội bùn ở
đồng chiêm lên Kẻ Chợ từ năm mười bốn tuổi, rồi làm bồi công sứ Gơrapphơi rồi
cà phê ô lê, rồi cà phê bít tất... Anh trí thức mới lấy vợ Tiệp kia, làm sao
anh tỏ rõ được ngọn nguồn cái nước An Nam, cái người An Nam Mít... Chao ôi, nói
đâu ai, tôi đây tôi cũng không biết tên ông nội bà nội tôi và mù tịt các tên
các cụ tổ tông nội ngoại nhà mình, mà tôi cũng chẳng khi nào áy náy cả.
Xế trưa, máy bay ném bom vùng ga Văn Điển. Cao xạ, tên lửa vi
vút lên. Một thoáng, trời lại lặng yên trong xanh. Rồi tối đến, phố xá vẫn đông
một tối chủ nhật giữa tháng lĩnh lương kỳ hai. Quanh Bờ Hồ và khu hàng Giầy bộn
người. Cả mấy quán ăn đều hết chim quay. Cà phê Lâm, cà phê Ca không còn chỗ
chen chân. Những cửa hàng thắp đèn dầu nhấp nhoáng. Lão khách béo chủ hiệu -
như lão Sáng nhị mũi, và mấy cô chạy bàn vóc dáng mỡ màng phục phịch, vừa nhàn
nhạt, vừa bong bóng. Những đôi mắt đưa đẩy óng ánh khác thường. Dường như không
ai còn nhớ vừa mới chặp tối một cái máy bay không người lái dã lướt qua lưới
cao xạ Ngã Tư Sở sang Phà Đen. Giống cái thằng xác máy bay đêm trước nằm trên
xe bò người kéo lênh khênh qua phố Tràng Tiền? Nhưng thằng này bay thoát.
Mỗi buổi sáng, băn khoăn của những người còn ở lại thành phố:
nó làm gì hôm nay? Đại khái vẫn đánh đấm thế, vẫn như thường ngày chăng. Người
ta vừa khẩn trương, vừa lừ đừ. Cái chòi gác có mỗi khẩu súng trường trên đê Thượng
Cát cũng chăm chăm ngước lên trời. Không thể nhận được ra mới hôm qua làng Ngọc
Hồi bị bom rải thảm khắp xóm. Ngoài đồng đương gặt chiêm, ống chân lội xuống thụt
nước, tay tóm cổ lúa từng bó cắt trên mặt bùn - lúa chiêm năm nay xấu, hạt vàng
xám như răng sún. ở đầu công viên Thống Nhát, trường đại học kiểu kiến trúc hiện
đại cao cao thanh nhẹ. Dọc mái bằng trên nóc, bốn ụ đất đắp to lù lù ghếch ra
những khẩu trung liên của sinh viên trực chiến. Nhưng cái trận địa giả đầu làng
Ninh Sở thì như trò trẻ rỡn. Giữa ruộng khoai tốt lá xanh eo éo, một bãi vuông
vắn được rẫy cỏ như cái đầu cạo trọc nhẵn thín. Cả dàn ống tre bôi hắc ín đen
nhánh ngóc đầu lên thành một dàn cao xạ nhiều nòng. Cuối bụi tre, hiên ngang một
trận địa tên lửa. Bệ phóng đất thó gan gà nện được đắp cao, vàng choé. Giữa mặt
phẳng đặt hai cây. chuối đã bóc bẹ nõn nà, bóng loáng như màu trắng thau vỏ tên
lửa. Những trận địa trò chơi này bị choảng bom liên tiếp hàng ngày. Chiến
tranh, liều lĩnh, tiếu lâm và thương tâm. Phố Yết Kiêu, quầy bán vé xe lửa, đám
đông nhốn nháo sắp hàng đi sơ tán. Người đứng đợi, người nằm ngổn ngang. Một
người đàn bà tựa cột đèn, mặt rầu rĩ, đăm chiêu giữa đám trẻ con lố nhố đợi bố
mẹ mua vé tàu. Thoáng trông, không biết là mụ dở hơi, mà ngỡ một người yêu trẻ,
đương trò chuyện rủ rỉ. Nhưng bọn trẻ thì bao giờ cũng khoái chơi với người
điên. Một đứa quát khẽ: Giơ tay lên! Cả bọn trố mắt nhìn kết quả cái mệnh lệnh.
Người đàn bà khổ sở từ từ giơ tay. Có đứa nói: Bỏ tay xuống. Mụ uể oải để rơi
hai tay. - Cười đi? Người đàn bà ngước hai con mắt nhờ nhếch rồi nhếch mép tự
dưng cười mếu máo. - Không phải! Đây là mếu. Cười đi? Cười đi!. Người đàn bà
điên lại nhe hàm răng cải mả, nhăn nhó. Đám trẻ con và người điên cứ quanh quẩn
chơi hiền lành bên chỗ sắp hàng lấy vé.
Bỗng dưng, một bác râu quai nón xồm xoàm như Trương Phi, áo
cánh rách sã cả hai vai, không biết ở đâu đi ra. Hai tay hề chèo múa lên, vừa
hơi vừa đế, lại vừa trống mõ... Bung bung nhóc... bung nhóc... tất cả ở cái miệng,
con mắt và bộ râu đều làm chèo.
- Bớ quan viên làng nước, lệnh sức mỗi đình làng: rơm một bó,
cỏ một gông, vải hồng để đi rước quan huyện nhá?
Tiếng đế khàn khàn:
- Tháng tư ngày tám, lấy đâu ra rơm?
Hề mõ:
- Thế nhà mày không có rơm ổ chó à?
Đột nhiên, bác rậm râu lùi lúi, nhớn nhác, như trông thấy
quan huyện đương khệnh khạng bước tới. Bác nói thầm thì:
- Quan đã ra? Quan đã ra?
Rồi thét to thật lực:
- Nhà ai có gà thì nhốt lại nhá! Nhốt lại nhá!
Bọn trẻ con nọ cười rầm lên xúm sang bác lên cơn rồ hát chèo.
Cũng chẳng biết là bác dở người hay là người vui tính thích đùa. Thành phố túi
bụi bom đạn đình đoàng tối ngày, sao vẫn lắm người ngẩn ngơ, người chập mạch
bông lơn đến thế. Những cành khế lúc líu chùm quả, quả mẹ quả con vàng khé bíu
vào nhau thành chuỗi. Đêm mưa rào, sáng ra, cây ngâu đầu hè đổi màu lá xanh đậm.
Hoa ngâu, hoa móng rồng chín trong nắng sớm thơm nồng nàn. Thường có mưa thì
hoa rữa, nhưng những chấm hoa ngâu được mưa lại vàng ròn.
Trên lan can, cửa gác các nhà dọc phố, củi đuốc ghếch từng
thanh, từng bó. Mỗi que củi bây giờ cơ hồ được nâng niu như phong lan và chim yến.
Các báo hô hào đun than, nhưng nào biết mua than ở đâu. Mỗi tháng, may ra mới xách
được về vài cân củi phiếu. Nhà có trẻ nghịch ngợm leo trèo bẻ cành cây khô bờ
hè thì lúc nào cũng sẵn củi lửa đun. Đàn ông đâm ra đun bếp khéo, đến tôi mà
cũng thổi cơm được bằng giấy má sách báo vơ ở cơ quan về.
Kho xăng Đức Giang bị ném bom lúc xế trưa. Máy bay nhào xuống,
một chiếc trúng đạn lết ngược vào thành phố, rơi xuống vườn chùa Thông làng Mọc
- cái chùa mà hai mươi năm trước, ở báo Cứu Quốc, tối tối tôi ra ngủ đấy, đề
phòng Tây đánh úp Hà Nội ban đêm. Cột khói bốc gồ lên hình nấm, đen đặc, lan ra
một dải mây thành chắn ngang chân trời. Chặp tối, tôi đạp xe ở lớp dạy viết văn
sơ tán bên Thi Xá huyện Quế Võ về qua, nhìn lại còn thấy sáng rực bên kia cầu
Long Biên. Hà Nội vẫn lờ lững nửa hốt hoảng, nửa như không. Các chợ họp từ bốn
giờ tới tám giờ sáng và mở lúc chặp tối. Tin đồn thiếu tá Mạc Kên lái máy bay
Rase, bị bắn rơi xuống hồ Trúc Bạch, khai rằng Mỹ đã định ném bom huỷ nhà máy
điện Yên Phụ và cầu Long Biên. Những người ở trên bờ sông và các phố đầu cầu
quanh Hàng Than ban ngày chạy tránh xuống phía chợ Hôm. Nhưng đến hôm giữa phố
Huế chợ Hôm bị trận bom đổ mấy toà nhà chết nhiều người thì chẳng biết rồi chạy
đi đâu.
Kho Đức Giang chồng đống những thùng đựng xăng cháy đỏ hắt.
Ngoài bờ rào, ruộng lúa mới cấy mạ đã bén rễ xanh rờn. Những người đàn bà lúi
húi cắt cỏ. Một người đàn ông đặt thúng thóc trên đầu gối, vung tay gieo hạt, hạt
lúa giống vãi xuống mặt ruộng xâm xấp còn sóng sánh đường bừa. Chú bé kia nằm
trên lưng trâu giữa bãi cỏ, hai chân cong như móc câu, mắt lơ đãng nhìn ra đường.
Những người dừng xe đạp Phượng Hoàng, xe Mipha cười nói tíu tít. Xa xa, hai vế
gầu sòng tát nước nhô lên thủng thỉnh đưa đi đưa lại. Trận bom dữ dội cháy kho
xăng trước mặt đã ra chuyện hôm qua, hôm xưa.
Bom đạn lẫn lộn với công việc làm ăn nhẫn nại đến khủng khiếp.
Trên dọc đê, những khẩu súng trường và trung liên đầu cầu Đuống đã được thay bằng
những khẩu đại liên ba nòng. Đơn vị đến nhận trận địa mới, bộ đội đương đứng ăn
cơm. Nhưng cạnh ụ súng lớn vẫn nhô lên hai mô đất nhỏ, thò hai đầu ruồi khẩu
súng trường của tổ dân quân trong làng ra trực chiến. Hai cô gái - hình như được
cắt tua ngày nữ đêm nam, mỗi buổi được ăn mười công điểm hợp tác xã. Sông Hồng
báo động số 3, nước chảy réo quanh chân cầu, xoáy tròn từ chân tre ra, xôn xao,
đỏ xuộm. Lũ tháng sáu dềnh lên to quá. Bờ rào cây vông ngập, lá héo to bằng chiếc
quạt nan rụng vàng mặt sóng. Nước vào ngập lưng vách. Những đàn gà và lợn con
trốn lên nóc nhà kêu tán loạn. Bốn phía xám ngắt rồi tối ụp xuống, tiếng ngũ
liên hộ đê chống tràn thúc suốt sáng như xưa trống báo cướp. Những ngôi nhà hai
tầng dưới bãi - mà ngày trước không ai dám xây, nước chảy ngang cửa sổ. Người
chạy nước lên phố dựng lều suốt vỉa hè bờ sông vào quanh nhà hát lớn. Khói bếp
u ám như đốt rác tẩy uế. Những người đàn bà mặt vàng nghệ, bồng con ru ời ời.
Chạy lụt năm nào cũng thế. Chỉ khác, mấy năm nay, phải lo cả giặc trời.
Còi báo động rợn mặt sóng. Một vệt khói đỏ tên lửa ngoằng lên
trong tiếng nổ. Chiếc máy bay bỗng chằng chịt khói như một cuộn thừng trắng, lại
một chiếc không người lái rơi xuống giữa sông Cái. Thế mà quán bia Chuồng Cọp
bên hồ Thuyền Cuông vẫn người xếp rồng rắn quanh hàng lan can sắt suốt ngày đến
chặp tối. Chỉ có những quán bia bán giờ giấc ngoài luật lệ phòng không. Người
ta uống bia cho đến lúc trông lên không nhận ra ánh sao hay sáng điện lóng lánh
giắt trên lá cây đề. Mùi sen thơm thoảng - lứa hoa cuối vụ, lẫn mùi lá sen già,
không còn ngát như sen đầu mùa. Nhưng quái, đã lâu hồ này thả cá mè, có trồng
sen nữa đâu. Thế mà rõ ràng mùi sen. Lạ nhỉ. Uống vại bia xong cũng không biết
hết báo động chưa. Thế thì chắc lại mơ màng mùi sen mùa hạ trước rồi.
Một chuyến xe lửa toa lộ thiên vào cầu Long Biên. Trên sàn
tàu những gióng bệ phóng xếp một chồng cao. Cánh tên lửa nghênh ngang vướng
thành đầu cầu phải cho lên tàu hoả mới đưa nổi qua sông Cái. Những chú bộ đội
xinh xẻo như học trò tan học đứng chỉ trỏ xuống lòng đường phố Hàng Giấy. Hẳn
đương đoán nhà mình chỗ kia, chỗ kia. Cạnh các ống đạn buộc những bu gà, những
rọ lợn, một dãy quả đu đủ, buồng chuối xanh, các đồ ăn thức đựng loi thoi khi
chuyển quân. Một con chó xích tự nhiên cong cổ sủa ngẩn ngơ lẫn tiếng bánh tàu
nghiến ken két, khi tàu chui qua chỗ nóc cầu bị bom xập.
Chợ Bắc Qua đông nghịt suốt đêm, đến chớm ban mai thì tan. Vẫn
cái chợ đổi vai mùa nào thức ấy, hành tỏi, khoai sọ, cà chua, rau cải, củ cải
bên Bắc sang bán mớ ở chợ này để người buôn đường ngắn tải xuống chợ Châu Long,
chợ Hôm, chợ Hàng Bè và các chợ xanh, chợ cóc góc phố.
Trời sáng ra thì chợ Bắc Qua tan biến hết người, như chợ ma.
Có tiếng gọi giật. Tôi quay đầu lại. Anh Sổ, chủ nhiệm hợp
tác xã trong Bật. Sau xe đạp đèo những bó cải củ cao có ngọn. Hẳn là Sổ ra Bắc
Qua bán vải quả hay bắp cải, dưa hồng đêm qua bây giờ tải rau về. Nhưng phía Hà
Đông thiếu đâu chợ đổi vai, chợ xanh, chợ ngã tư mà phải lần mò ra đây.
- Đi đâu thế?
- Hôm qua em ra tỉnh có việc, quá chân đến đây mua ít cải về
làm dưa thôi.
- Mua rau à? Rõ chở củi về rừng?
- Cải bên Bắc lắm búp, lại rẻ hơn cái cải chết rét quê em.
Chúng tôi vào một hàng nước. Sáng rồi, quán đương dọn về, nhưng
có khách, cũng không vội. Ông hàng cứ tự nhiên lấy cái phun nhựa ra rót hai
chén nước trắng. Bảnh mắt, uống rượu súc miệng, hay thật. Chợ Bắc Qua tỉnh ngủ
cả đêm, có lẽ nhờ cái thứ nước này. Cái anh Sổ du kích trông như người bổ củi
thuê. Nếu xách chiếc rìu qua phố, thế nào cũng có nhà gọi ông Thạch Sanh, Trước
kia ở vùng tề, du kích Sổ đã thủ tiêu người táo tợn lắm. Sổ đóng quần áo rằn ri
giả lính dù vào nhà thổ phố Vân Đình, nã thủng màn chết cả thằng Tây với con
nhà thổ. Sổ mặc váy bà già đi chợ, bất chợt tốc váy lên, thò khẩu súng trường
cưa báng ra lia ngã gục quan ba đồn giữa cầu chợ. Một mật thám ngoài Hà Nội hay
về dò la, Sổ tìm biết nhà nó ở Khâm Thiên. Sổ ra tận nơi, bắt sống ban ngày điệu
về chém ở cánh đồng Tía. Cấp trên cho lệnh thi hành án chánh tổng Canh Hoạch.
Ngày giỗ bố chánh tổng, Sổ giả làm dõng đi hầu. Các quan khách lũ lượt, chỉnh tề
tới ăn cỗ. Đột nhiên, Sổ bước vào vung dao bầu lia đứt cổ chánh tổng. Cái người
cụt đầu máu phun, nhảy chồm chồm như con ếch - Sổ đã hiền lành cười hềnh hệch kể
lại những câu chuyện ghê gớm như thế. Còn bây giờ thì:
- Ông ạ, tiện tay em mua vơ ít cải, chứ em ra đây cốt đòi nợ.
Có một thằng ở phố Nhà Chung về chợ Đình rủ người đặt tiền mua than. Mình ngỡ
nó tử tế, cũng đóng cọc một ít. Nó lặn biệt tăm. Mất không bao lăm, nhưng mà tức.
Trốn thế nào được ạ, lên giời em cũng nắm cẳng lôi xuống. Hôm qua em ra tận
nhà, tẩn cho một trận lòi tù và cả nhà nó lạy như tế sao, phải nhả tiền ra trả
ngay tắp lự. Kìa, mời ông chén nước sớm. Ông đi đâu lên đây?
Sổ đã cho nó một trận lòi tù và thế nào không biết, nhưng tôi
hỏi:
- Nó đi lừa mà để cho người ta biết nhà à?
- Che mắt đâu được thằng du kích tám năm này? ối lại báo động...
Rồi Sổ cười hô hố.
Cục địch vận quân đội đưa Nguyễn Tuân một tập nhật ký lấy được
của một lính ngụy chết ở trận Đèo Nhông tháng ba 1965. Một quyển sổ nhỏ, tôi
chép lại làm tài liệu về cuộc chiến tranh muôn mặt. Trang đầu nắn nót mấy dòng:
Nhật ký đời tôi (trong những ngày nghĩa vụ quân dịch, kỷ niệm một đêm mưa ở trại
Trương Tân Bửu 1/8/1964 - 24/6 Giáp Thìn - Nguyễn ích Tắc, số quân 104.229).
Tờ cuối ghi mấy trang những con số chi tiêu: Kim chỉ 3 đ. Sửa
bộ quần áo vàng 80 đ. Sửa cái quần trận 30 đ. Mua một mũ vàng 45 đ. Mua cái
gương đeo mắt 75 đ. Mua một ca, một muỗng 10 đ. Hai ngòm nguyên tử 16 đ. Bộ
chìa khoá 20đ. Sắn dây xích 15 đ. Giặt bộ áo quan 7 đ. Hớt tóc 17 đ. Kem đánh
răng 10 đ. Giấy và bì 5 đ. Chụp ảnh 65 đ.
Tập nhật ký của một con người vốn làm ruộng trong làng mà thật
chịu khó ghi liền từng ngày, từ hôm đi quân dịch đến ngày chết trận.
Đây là những ngày cuối cùng.
15/1 - Một đời binh ngũ, suốt đời lưng mang ba lô, vai mang
khẩu súng, ngày ngày đi qua những con đường bị bắn tỉa đạn veo veo trên đầu,
nghe mà tái nước da.
20/1 - Đi qua quán lúc 9 giờ, biết thế nào nó cũng bắn tỉa,
lúc hai đứa chạy qua một khoảng trống bị nó bắn 6 viên. 3 viên bay dưới chân, 3
viên trên đầu, mình chạy đại vào trong một cái nhà.
24/1 - Hành quân bằng phi cơ trực thăng, tưởng đi qua Qui
Nhơn ứng chiến thì cũng là đỡ khổ, có nhiều bạn mang rađiô đi sửa, nhưng máy
bay chỉ qua một cái eo biển và đỗ lại một cái làng hiu quạnh không một bóng người.
Thế là mộng về Qui Nhơn bị vỡ.
31/1 - Vừa rồi, nó bò vào ném lựu đạn, nhưng may quá, không
ai bị. Thế là nằm trong nhà cả ngày đi đâu cũng không được. Như chim lồng cá chậu,
ra một bước cũng sợ không biết nó bên lưng lúc nào. Đêm gác hai giờ đồng hồ
xanh mặt.
31/1 - Tết đến, người ta vui vẻ đón quân còn mình sống trong
tình trạng cắm trại và báo động, mình nằm ở cái trường Toàn Mỹ, đồng bào sợ tản
cư hệt, mình luẩn quẩn trong cái trường không dám đi ra ngoài nửa bước.
Lại một quyển nhật ký khác lấy được ở mặt trận Plâyme tháng
mười 1965. Cũng chép ra sổ tay này làm tài liệu đời người. Một sinh viên quân dịch,
trang in chữ Pháp, được điền vào: tên, bí danh, nghề, địa chỉ riêng, địa chỉ
liên lạc, số điện thoại, khi cần báo tin cho... Đã ghi: Svsph Hoàng Quang Hiểu
151 Trần Quí Cáp, Sài Gòn, 71 Hoàng Diệu Đà Lạt. Mặt trang sau dán một ảnh người
con gái tóc uốn, mặt trái xoan, gò má cao, mắt một mí, môi thưỡn khêu gợi, áo
dài trắng. Sau tấm ảnh viết hàng chữ: Bán mình cho Mỹ! Hoàng Quang Hiểu bị chết
ở Pleime khi trung đoàn 40 sư 23 của Hiểu đi tiếp viện. Có lẽ cũng vào những
ngày gần tết:
17/12 - Bận rộn vì phải đặt kế hoạch hành quân ngày mai. Ban
3 chỉ có mệt vào những lúc như lúc này.
18/12 - ở đây gần biên giới. Dân cư ít ỏi. Vài cái quán. Vài
mái nhà. Chiều chiều nhìn đàn vlt giới bay về tổ xa xa nơi chân trời, mình có một
nỗi buồn day dứt.
23/12 - Có cảm tưởng rằng mọi người quên mình có mặt trên
trái đất này.
24/12 - Đêm nay là Nôen. Đi săn kiếm thịt về ăn réveillon (*)
(*Tiếng Pháp: bữa ăn đêm như giao thừa) được 4 con heo rừng. Cả đại đội tưng bừng
nhậu nhẹt. Ngủ ngon vì quá say.
25/12 - Được phép về Pleiku. Sướng quá. Lại được bạc!
26/12 - Chiều, cờ bạc lại thắng..
Chủ nhật 27/12 - Suốt ngày cờ bạc, toàn là thắng. Tối đi nhậu
với Trọng, ghé Phượng Hoàng, nhảy vài bản với Quỳnh.
29/12 - Đi chơi với Trọng, đánh bạc và nhảy với Quỳnh. Pleiku
ăn chơi bốn mùa chỉ có thế.
30/12 - Còn đúng 400 đ. Hôm nay không đánh bạc, ở nhà ngủ. Tối
đi chơi với Trọng và Mai. Đi chơi đêm chót với chúng nó rồi mai về rừng.
31/12 - Ngày cuối năm dương lịch. Nhưng mình cảm thấy cái buồn
của một đêm trừ tịch ở một nơi xa vắng với cảnh núi rừng buồn tẻ. Trong lúc đó ở
một nơi khác, thiên hạ đương mở sâm banh vui cười để từ bỏ một năm cũ, đón một
năm mới. Không hiểu rồi đây đến cái ngày xum họp gia đình sắp đến của người Việt
Nam, mình còn có phải hưởng cái cảnh xa vắng này nữa không? Đời nhà binh không
thể nói trước được. Sau một tuần vui tạm bợ ở Pleiku, mình về đây càng thấy
chán chường hơn.
Mong rằng Tết này được về thăm gia đình. Thôi giã từ năm cũ
và hân hoan đón tất niên.
Dĩ vãng dẹp qua một bên...
(Tập nhật ký đến đây bỏ lại hơn 50 trang giấy trắng. Một số địa
chỉ ghi ở bìa sau: Nguyễn Thị Thu Thuỷ 23 Nhà Chung - Đà Lạt, Nguyễn Thị Oanh
58 Lê Lợi - Sài Gòn (số điện thoại ds 20011 xin 40683). Cô Bích Hảo 61 Phan Bội
Châu - Huế. Cô Trang Thiên Thu 104/5 Nguyễn Thái Học - Gia Định. Chuẩn uý
Trương Văn Hữu, lưu trữ bưu điện Phú Vinh, Vĩnh Bình).
*** Đêm nay Hà Nội lại giao thừa.
Chặp tối, năm hết tết đến, vẫn loa báo động máy bay địch cách
40 ki lô mét... máy bay địch 20 ki lô mét... trong cái thành phố thương tâm bất
cần đời này, cái tết mơ ước vẫn đến như từ bao nhiêu năm qua. Tối rồi, vô khối
xe đạp còn hối hả đi mua hoa - những bó hoa cúc vạn thọ vàng rỉ ế ẩm, người
chơi hoa năm nào cũng khuân cúc vạn thọ sau cùng.
Cả ngày ba mươi tấp nập. Trở trời, cá úi quẫy như đánh sóng trên
mặt nước. ở hồ Hoàn Kiếm, hồ Bảy Mẫu, Ba Mẫu trẻ con vớt cá từng xâu. Từ gà
gáy, người ùa ra ven hồ. Gậy, xiên sắt, túi, chậu... Tảng sáng, đám đông quanh
hồ chen chân lẫn với công an và những người canh cá. Không ai bẻ cần câu, thu
vó, đuổi người xúc, người câu ném như mọi khi. Mặt dầu, đã thành thói quen, túm
được một con cá mè ranh, trẻ con lại len lét chạy ra xa. Quanh hồ, đông đến
trưa. Được cá trời cho tất niên mà, ai cũng xoa xuê, vui vui. Rồi từ từ đêm
giao thừa về. Hai cô bé tóc buông xoã vừa đi vừa hát ven hồ. Mùa xuân đã trở lại
sao? Nửa đêm, người đi chơi đổ ra đông như hội. Trời rét cóng mà các quán bia
hơi, bia chai sáng đèn suốt đêm. Mặt bàn lênh láng bia như tuyết tan. Nhiều người
nước ngoài lẫn lộn giữa đám đông. Những người Cu Ba da màu vừa nhảy múa vừa vỗ
trống. Có thể, họ là bộ đội pháo cao xạ hay tên lửa rời trận địa ra, vui nhộn đến
thế. Hôm cuối năm, đi tảo mộ ở Văn Điển trông thấy sáu ngôi mộ xây, để tên các
liệt sĩ Cu Ba.
Uống bia trước ga Hàng Cỏ. Những chuyến tàu cuối cùng lúc chặp
tối đã tải hết những đoàn người về quê ăn tết, hôm qua hôm kia còn nằm ngồi chờ
đợi chồng đống các phố quanh đấy tưởng chừng không thể vơi đi được. Thế nhưng
trong nhà ga vẫn nhốn nháo người, những cô hồn lang thang và gái điếm không biết
có giao thừa. à cái lão Vinh làm vườn và quét vôi bệnh viện ở độc thân trong
ngõ phố vẫn giặt xi líp, nịt vú cho bọn này đây. Buồng lão, từ gầm giường ra, lổn
nhổn bô ỉa đái và bột màu quét tường lấy cắp ở cơ quan. Trên dây dợ chăng ngang
dọc khắp nhà phơi những miếng quần xanh đỏ gớm chết của gái làng chơi. Ai manh
mối cho lão già cái việc kiếm tiền khốn nạn ấy. Lão một thân một mình, đến nỗi
nào. Hôm đến kiểm tra, hỏi lão, lão ngồi câm như thóc. Người ta nói như đùa
không phải lão Vinh túng bấn đâu, lão phải gió ấy nghiện hơi đồ lót của đàn bà.
Có lẽ đêm nay yên. Trên sân ga, mấy con đĩ rỗi hơi lại say rượu
đương cong cớn tranh nhau xỉa xói, kể lể mắng tưởng tượng cái thằng giặc lái Mỹ
đứng trước mặt. Quân chó má kia, mày đã cắn trộm quanh năm rồi, cũng phải nghỉ
bom cho người ta thong thả nuốt được cái Tết chứ. Xung quanh, đèn thành phố vẫn
tù mù thế, mà như tươi tỉnh hẳn. Mới chiều qua, máy bay vun vút lao vào như những
con cá chuối bay. Hơi bom phần phật rung cửa hầm, tiếng súng và tên lửa khạc rền
rĩ. Người dồn vào quán bán bia. ở Hàng Khay đông ních. Dân bợm bia thấy trú ẩn ở
chỗ nhà bia an toàn quá. Có hơi bia, coi thằng đánh bom là cái đinh? Mãi chặp tối
còn nổ ầm ầm, hàng bia phía Tràng Thi đã lên cái đèn dầu lom đom. Những vại bia
và mặt người không biết mồ hôi hay hơi bia nhễ nhại.
Các nhà ở đầu cầu Long Biên hàng ngày chạy xuống phố Huế ẩn bị
ăn bom dưới ấy. Nhưng mới bị hôm qua, bây giờ đi qua phố Huế đã khó nhận ra cảnh
tàn phá thế nào giữa cái phố lúc nhúc những nhà những người.
Cây xà cừ mới trồng còn khoanh đất đỏ trên vỉa hè cháy chết đứng.
Mặt đường nhựa lỗ chỗ, nham nhở lất bom bi. Cột đèn và đường ray xe điện bật
lên oằn queo vỏ đỗ. Một ngôi nhà ba tầng đỏ ụp cắn chân tường thành một gò vôi
gạch, mảng xi măng. Cả phòng thương nghiệp, phòng giáo dục khu và lão cà phê
Hoà chết vùi trong đống vụn vỡ ấy. Lão Hoà từ ngày vào làm mậu dịch đứng bán giải
khát ở quán Gió ngoài công viên. Tự dưng xin về phòng làm chân chạy giấy cho
nhàn. Tội nghiệp, đâm ra chết! Những bó hương vẫn nghi ngút, mùi hương, mùi
long não dầu xả vừa nhức mũi vừa lạnh lẽo hơi đám ma. Nhiều người còn đương dỡ
những tảng vôi gạch hoen máu đen sạm. Sau vì tường đổ, nhà hai bên phố vẫn hầu
như mọi khi. Trẻ con đùa nhau ngoài vỉa hè. Cửa hàng chữa đồng hồ lấp lánh ánh
điện dưới cái chao đèn úp. Một ông lão gầy leo kheo đeo kính ngồi trên gác đọc
sách trong cái cửa sổ toang hoác đã băng mất cả hai cánh. Tôi ngồi vào ghế ông
cắt tóc. Cái đinh treo mảnh gương lên gốc cây sữa. Câu chuyện rả rích trong tiếng
kéo tí tách. Bình tĩnh, bình tĩnh, ông nhỉ? Bom xuống đâu thì đấy bị, phải
không ông?
Tôi biết đáp lại thế nào là phải cái triết lý ông thợ cúp cứ
sống sờ sờ nhãn tiền quanh đấy. Quãng phố phải bom như con thằn lằn bị cụp
đuôi. Xưởng tiện - bên kia lại mới xe về một đống vỏ phuy ét xăng dầu nhờn, chẳng
khác những quả bom tạ, bom tấn chưa nổ. Nhưng đấy là những thùng xăng phụ máy
bay đeo ngoài cánh. Trong nhà, bàn tiện quay xè xè. Những miếng đuy ra vỏ thùng
được cắt khéo thành cái lược, hình tháp Rùa, chùa Một Cột - công nghệ tặng phẩm
đem kỷ niệm khách nước ngoài làm bằng xác máy bay địch. Ngay ngã tư, các chợ
cóc vẫn la liệt những chậu rau muống chẻ ngâm nước, những thúng cua đồng chát đất
cho nặng cân ở ngoài ô vừa vào. Trên thùng chiếc xe tải mới đỗ, các ông tài ông
ét dỡ củi xuống chất làm bếp thổi cơm chiều ngay trước hè ngôi nhà đổ. Đằng kia
lại có hàng bia mới mở, trên những thùng bia chất như lợn con căng lên cái dù
ni lông đỏ - như bãi biển Sầm Sơn mọc giữa thành phố - dù đỏ ấy của máy bay Mỹ
thả quân dụng và biệt kích. Những bối rối trước mắt, không biết đương trận mạc
hay đương bình thường, lộn xộn cái buồn thảm với cái cười. Cửa trong bán rượu,
người xúm đông như ngoài hè bán bia. Rượu phiếu, môi người được mua nửa lít.
Tay đưa phiếu kèm tiền ẩn qua cái lỗ vuông, bàn chân sắp hàng nhích dần vào với
cái túi xách đen nhẻm ấy là chân người mua và túi đựng chai rượu - những khuôn
mặt bự rự, lìm lịm. Mấy chú tí nhau và những ông Tàu dởm bán lạc ngọt, lạc mặn
trước hàng bia đã kéo đến, đương tranh nhau chỗ ngồi. Cái thùng sắt tây đựng lạc
treo trước ngực như chiếc đàn phong cầm - phong cầm lạc rang. Ông Tàu bán phá
xa mặt nghiêm như Tưởng Giới Thạch, bộ ria quai nón, đầu quả táo, bắp tay rám
đen, chỉ cái dáng ấy cũng toả ra sự kiên nhẫn chịu đựng của con người. Nắng hoe
hoe đã tắt trên ngọn cây sữa, tiếng loa trong cái thúng bằng tôn úp treo trên
giữa lòng đường... máy bay địch cách... rồi còi báo động lại vi vút từng đợt
dài... Nhưng quanh chỗ phố Huế mới bị bom, mọi sự hồ như thản nhiên.
Suốt hôm qua, hôm kia - đã bốn hôm, máy bay vào quấy đảo loạn
trời. Chiều, đánh sân bay Nội Bài, sáng sớm lại bom lại. Cầu Long Biên gãy ba
nhịp từ phía Gia Lâm sang. Đòn hiểm, địch diệt những nhịp cầu giữa luồng nước
sâu. Nhưng ngay trong đêm, đường sắt được chữa lại, những dòng cầu gãy như mái
che vẫn để nguyên chỉ vừa lỗ cho con tàu chui qua. Thoáng thấy, tưởng cầu sụp
thật thì những đoàn tàu chở khách và chở súng cao xạ, tên lửa vẫn chạy suốt
đêm. Cái cầu giả chết lúc nào cũng như ngái ngủ. Bom bi như mưa rơi xuống phố Mới,
phố Hàng Vôi, cửa đền bà Kiệu. Hai đứa trẻ núp trên cành đa cạnh đền, bom bi nổ
móc lòi ruột. Những phát tên lửa pun pớp thuốn chảy thép lao xuống cạnh chỗ rửa
rau vo gạo buổi chiều phố Trần Quốc Toản, phố Lý Quốc Sư. Vòi nước vẫn ri rỉ chảy,
rá gạo và những bó rau muống chơ vơ không có người. Trong làng Giá, hôm nay Sửu
nhập ngũ. Nó đeo theo cái giỏ, trong có mảnh ni lông xanh, túi bút và hộp thuốc
màu. Ba hôm, xóm giềng họ hàng tới chơi. Bố Sửu trải thêm cái chiếu ngoài hiên,
đặt rổ giầu vỏ ra đấy. Hôm qua đem phiếu đến cửa hàng mậu dịch lấy hai cân thịt,
đặt một cỗ lòng. Hai vò rượu cất bên Sấu đem sang. Một mâm tiên thường mời các
cụ dưới âm về tiễn cháu, người trên trần thì đánh chén tới khuya. Hôm nay giết
hai gà, mâm cúng trên bàn thờ và đặt cả ngoài cây hương.
Hội trường giao quân ở sân phơi hợp tác. Người các xóm kéo đến
từ sáng. Mấy chõng hàng nước chè tươi, thuốc lá cuốn đã bày ra. Cả huyện lấy
con số tròn năm trăm. Thêm mười lăm nữ tình nguyện. Mỗi đám bước ra, những vòng
người hai bên lô xô nói: Đi nhé? Đi mạnh khoẻ nhé! Đi dăm bảy tháng thống nhất
thì về nhé. Những chú lính mới bước nhanh như lướt. Có người đeo sẵn hai cái bu
trong để viên gạch chỉ đem đến nơi tập đeo vác vượt Trường Sơn. Đi qua rồi quay
lại nói to: Nào đi xẻo ít thịt Mỹ về xào. Đám con gái cười ré lên: Không ăn
đâu, không ăn đâu.
- Chỉ đợt này nữa đến thống nhất thôi.
- Xem khí thế vui lắm, cơ chừng xong đến nơi.
- Lạy giời...
Mít tinh chặp tối, đoàn tân binh đi luôn trong đêm trăng.
Trận địa 57 đầu bãi Nghĩa Dũng. Mười khẩu cao xạ 57 bóng
nhoáng lỗ chỗ như đầu rắn mai gầm. Phía này cản đòn cho nhà máy Yên Phụ và cầu
Long Biên. Trên bờ đê cao, trông xuống sông Hồng cát bay mờ mờ. Nhà máy điện
xám đen lồng vào những nhịp cầu đan thành mảnh như nan bu trên lùm cây sà cừ.
Con mắt thần ra đa quay ì giữa những luống hoa cẩm chướng xung quanh cắm miếng
kền xác máy bay - để gà khỏi vào bới. Báo động, lại báo động. Tất cả vụt vào vị
trí. Số 4 tính góc phần tử, máy bay nhào sau hai giây cho lệnh bắn. Chỉ cần một
viên đạn, nếu mọi bộ phận điều hoà đúng. Nhưng rồi lại báo yên. Hôm qua, địch
thả bom xuống trận địa này, bụi còn bám mù mịt. Hai con bò của đại đội gặm cỏ
trong bãi trúng bom bi. Ngả thịt ăn không hết, phải đem ra chợ Châu Long bán bớt.
Cấp tốc sơ tán 18 con lợn ra vệ đê. Chỉ riêng đàn gà của mỗi khẩu đội chẳng biết
thế nào là sống chết, vân túc tích quanh quẩn ra vào bên cỗ pháo. Đến lúc bom nổ
tối mắt, những con nhép ấy mới biết sợ, chui vào cỏ nằm im phắc.
Trận địa súng cỡ 37 thì lênh đênh giữa hồ Tây, chỗ chùa Trấn
Quốc trông ra. Những thùng đựng tên lửa đã khéo kết thành nền bè phao, lát phên
nứa. Tám khẩu 37 xếp hàng đôi dọc bè. Sóng oàm oạp rung rinh đầu súng. Mép bè,
những máng vầu đựng đất trồng viền những luống hoa bóng nước rực rỡ hồng. Các
chiến sĩ trực chiến đứng giữa hồ trông vào đường Cổ Ngư. Trong ấy, loáng thoáng
người ngồi bàn ăn bánh tôm dưới gốc đa. Chặp tối, vòng đạp xe của tôi kết thúc
cuộc thăm các trận địa quanh Hà Nội về đến ngõ Văn Chương, trong ấy cũng đóng một
đơn vị bảo vệ ga Hàng Cỏ. Tiếng chó con lắc rắc sủa hoàng hôn như ở trong làng.
Trẻ con lấp ló đầu nhà ngó xem người đi qua. Đại đội 6 này đã bắn rơi chiếc F
105. Thằng thiếu tá phi công Sáclơ phải nhảy dù xuống tràn than ngay trong tường
nhà máy điện Yên Phụ. Bên kia mặt hồ, nhà ga Hàng Cỏ sáng trưng một vẻ không
bình thường, giữa một vùng tối om. Tiếng còi tàu, trong khói hơi nước phụt phụt
trắng bông. Những con tàu cả ngày chui lủi đâu bây giờ lừ lừ vào ga, bắt đầu
đêm hoạt động. Ngoài đường Khâm Thiên ồn ào như chợ. Tưởng như chẳng ai để ý
sau lưng bức tường, có những nòng cao xạ vươn đầu lên.
Nhà máy điện Yên Phụ đằng kia, nghe tiếng máy chạy rền rền,
ngày đêm bụi than tuôn ra bám đen kịt những cành cây cơm nguội cổ thụ hai bên
hè phố, từ thuở tôi cắp cặp đi học trường tiểu học Yên Phụ.
Thế mà cái nhà máy cổ lỗ này đã chịu mỗi ngày vài đợt bom,
không biết bao nhiêu trận dòng dã. Cái nồi súp de lò hơi, quả tim của nhà máy
phía tường trường Yên Thành được bọc đất thó quấn rơm như cái áo giáp kỳ quái
giữa những hố bom toang hoác thành từng vũng nước ao chuôm. Thế mà chưa một lần
lò bị bom. Nhưng ngôi chùa Am bên kia đường, hơi bom đã đánh đổ sập. Quán hàng
nước chè tươi trước cửa chùa, thợ nhà máy sớm nào cũng ghé uống bát nước ngon,
cả ông hàng nước cùng bay mất tích. Suốt ngày đêm, than được chở vào nhà máy, lúc
ô-tô tải, lúc xe trâu kéo. Một dãy người đứng sàng, đổ than lên đường máng đưa
vào lò. Các chị sàng than đi giầy vải, chít khăn đen chỉ hé hai con mắt, như cô
gái Thuỷ Nguyên kín mít khăn vuông. Cái cột xi măng tròn sừng sững giữa nhà.
Lúc còi báo động, mọi người ôm cột tụt xuống. Người leo cả ngày những cái cột
đã lên nước bồ hóng đen nhoáng.
Báo động máy bay cách 30 cây số, công nhân trên gác xuống cả
tầng dưới. Chỉ còn ba người đã được phân công bám máy. Chết cũng đứng đấy với mỗi
một chiếc đồng hồ đo áp suốt trơ trọi. Nóc nhà máy chính thủng đạn nham nhở như
cái áo tơi rách. Két nước băng mất từ lâu không còn nước trữ, công nhân phải bắc
vòi cao su và gánh nước suốt đêm lên. Nhưng sau cái ống khói đen sì vẫn sừng sững.
Một ống khói bị quẹo nghiêng như sắp khoác vai ống kia. Cái tuyết bin trên tầng
và nồi hơi dưới nằm lọt thỏm trong những lớp rơm nhồi bùn, cao như những gò đất.
Miếng bảng đồng gắn trên tuyết bin, tựa con rùa thò cổ trong đống bùn ra có chữ
đề công ty Derlikon Thuỵ Sĩ 1920. Cỗ máy cái của nhà máy điện đã già ngoài nửa
thế ky rồi. Không thể tưởng tượng được biết bao đơn giản đến thế nào. Nhưng
cũng ở nhà máy hiên ngang này lại có cán bộ tài vụ dính vào vụ án tụ tập xem
táp lô ở góc phố Cầu Gỗ. Có phải vì thế mà nhà máy chưa được phong anh hùng. Ba
hôm liền, toà án xử phúc thẩm mấy vụ. Còi báo động nổi lên, không ai chạy ra hầm.
Bởi vì toà nhà xử án của thời Tây để lại, kiên cố hơn hầm trú ẩn nổi hay cái lỗ
phòng không cá nhân ngoài kia chăng. Trưởng ban khối phố, tôi được mời dự.
Thành phố muốn cho cán bộ cơ sở biết những tệ nạn xảy ra trong lúc bom đạn để về
xem lại an ninh trật tự ở phố mình.
Có một người đàn bà thường ngày bán vé sổ số ở vỉa hè phố Huế.
Chịu không đoán được hạng người thế nào. Chưa hẳn nạ dòng, cũng không còn trẻ.
Vẻ hơi quê, nhưng có lẽ cũng ra phố ở đã lâu. Chiếc áo cánh lụa mớ gà cổ và gấu
viền đăng ten. Tóc búi, đôi mắt lá dăm đưa đẩy trên những câu thưa gửi chợ búa
ngọt xớt. Nhưng đến lúc nghe ông công tố đọc cáo trạng thì những đoán mò của
tôi đều quá hiền lành và vu vơ. ả nọ có trong tay 36 cái chìa khoá của 36 cái
nhà, cái buồng. Những chùm chìa khoá làm chứng được đặt loảng xoảng trên bàn
chánh án. ả đã thuê lại từng giờ những cái nhà, cái buồng vắng người để làm nhà
thổ. Thế là ả có 36 buồng trong tay của những người đi làm theo giờ, của người
sơ tán, của người độc thân nghèo túng chịu khó vắng nhà một vài giờ lấy ít tiền
tiêu.
Còn khoé làm tiền khác nữa. ả đóng vai người mẫu cho bố con một
ông chụp ảnh tài tử. Những tấm ảnh cũng được bày chỗ tang vật cạnh vành móng ngựa.
ả làm tình với con thì bố chụp, với bố thì con chụp. Các kiểu. Đám lông trên mu
được khuếch lên thành một gò cỏ đậm nhạt thơ mộng. Có cái ngậm chiếc tẩu nghi
ngút khói, lông xùm xoè như anh chàng râu na quái dị hút thuốc. Lại một đám ăn
chơi khác. Đám này có công ăn việc làm đàng hoàng, người thì xã viên tổ mì sợi
người làm thợ máy, người tài vụ kế toán. Người nào cũng đến cơ quan và nơi làm
việc giờ giấc tử tế. Nhưng tan tầm thì không ai biết ai thế nào. Tối tối, họ tụ
bạ trên cái gác ba một toà nhà giữa thành phố mới bị trưng dụng, chủ nhà còn được
ở một buồng nhưng bỏ không. Chùm trò là một lão đã đứng tuổi như lão Văn Hiến ở
với chúng tôi trên Việt Bắc, trước kia đã từng ở Pari - lão khoe thế. Tôi tin
là thực, khi nhớ đến ông Hiến rách rưới, lúc nào cũng đói nhưng đã từng đàn đúm
ở xóm ăn chơi Môngmac. Lão Văn Hiến này làm bảo quản phòng máy một trường đại học.
Mỗi lần ngồi cả đám, bọn đàn em cứ cong cổ, cong mắt nghe đại ca đấu hót chẳng
biết thật hay bịa về những truy hoan ban đêm xóm Môngmac thủ đô hoa lệ nhất thế
giới chứ tép riu đâu như cái Hà Nội nhà quê này. Rồi xoắn na lên lão gật gù:
Tao bây giờ có trần ai đến thế nào cũng là mãn kiếp, chỉ thương các chú mày đầu
xanh tuổi trẻ chưa được ngửi cái mùi mẹ gì!.
Sau đó cả bọn tà tà kéo nhau đi săn bò lạc. Chúng nó rà rẫm đến
bến Nứa, bến Kim Mã, Kim Liên, ga Hàng Cỏ hóng những người nhỡ tàu nhỡ xe.
Đương thời chiến, thành phố lấy đêm thay ngày, bến bãi quán xá đâu đâu cũng bề
bộn, ngổn ngang người cơ nhỡ. Chúng nó tán tỉnh đèo về được những cô gái không
may đương ngẩn ngơ tìm chỗ trọ. Nhiều cô bị lừa tưởng chúng tử tế cho nghỉ nhờ
đã ra toà kể tội bọn chó đểu: Những cô sinh viên trường sơ tán tận Lục Ba, Ký
Phú, Mai Sui, Biển Động, những chị công nhân nhà máy đã di chuyển đi tỉnh khác.
Người dự phiên toà được đi tham quan cái tổ quỷ ấy. Trên gác
ba, trong một phòng trần trụi, giữa trải một chiếc chiếu. Rải rác, những vỏ bao
3 số như vô tình vứt đâu đấy quanh một cái vại da lươn. Tàn thuốc lá gạt vào
trong vại đã cao có ngọn, nhấp nhô như núi non bộ. Góc phòng kê một quầy gỗ giả
làm chỗ uống đứng trong quán giải khát. ở giá trên tường bày một loạt chai uýt
ky, chai vang nguyên nhãn, cả nút. Nhưng trong đựng nước lã. Những chuyện ăn
chơi nghiêng trời được kể lại bên những vỏ chuối lá, cái núi tàn thuốc trong vại
và những vỏ chai rượu đắt tiền. Để tưởng tượng ra những phá phách thú vị mà đêm
nào lão Paridiêng nọ cũng nghếch ria lên kể. Còn những bí mật nữa trong phòng
này. Mặt vách trang trí ghép những cây trúc hun khói màu ngà. Giữa mép trúc,
mép tường được đục những lỗ chỉ ti hí bằng lỗ khoá cho người đứng ngoài nhòm
vào xem táp lô. ở trong, một gã đương gạ gẫm cô nghỉ nhờ, rồi được bằng lòng
hay phải cưỡng hiếp ra sao, tất tật lọt ra những con mắt dán vào cả chục cái lỗ
ấy. Hôm sau chúng nó ngồi cãi nhau, phong chức và cá cược xem đứa nào giỏi hơn
đứa nào.
Lại một vụ xử trấn lột, toà dưới làm án nhẹ, phải xử lại. ấy
là một bọn cứ chặp tối đến chầu chực cửa rạp Tháng Tám - cả những đêm báo động.
Đã lâu, theo lệnh phòng không thành phố, rạp đóng cửa, nhưng cái vỉa hè ngã tư ấy
như thói quen, người dừng lại vẫn đông. Một người đạp xe qua. Một đứa chạy ra,
tót lên sau xe, vừa ngồi vừa nói khẽ: Nhờ một quãng xuống cuối phố nhé? Nhưng vừa
qua khuất bóng cây sấu rậm rì, người đạp xe chưa kịp quát hắt nó xuống đã cảm
thấy lạnh toát mũi dao thích vào sườn và một tiếng rít nho nhỏ. - Rẽ đằng này!
Rẽ đằng này? Mũi dao nhói vừa đủ khiến cho người ngồi trước run rẩy đạp theo lệnh.
Đường phố hai bên vẫn nhộn nhịp hơn bình thường. Ai cũng đoán vu vơ là máy bay
Mỹ nghỉ đánh lúc chặp tối để giặc lái còn ăn cơm, người ta đổ ra đường tấp nập.
Đến một chỗ bóng cây tối đen.
Đứng lại! Thằng cướp đường nhảy xuống. Mũi dao sáng loáng chĩa ra. Thế là, cái đồng hồ, cái phu la, cái áo len, ví tiền, đôi giày cũng bị lột cả bít tất. Thằng trấn ôm bọc đồ quay lại cửa rạp, cả bọn đã đợi. Chỉ ra đến Bờ Hồ mọi thứ đã bán xong. Rồi kéo nhau lên quán cạnh rạp Kim Phụng đánh chén. Hôm nào đét không được món nào cũng cứ đàng hoàng sà vào hàng phở, mì vằn thắn, gọi rượu. Chè chén xong cắp đít đi ra. Các hàng quán bị xúi quẩy này đã thuộc mặt từng đứa. Không dám đòi tiền, cũng không dám báo công an hay mách các hàng bên. Bởi chỉ khác mắt, thì cửa kính, mâm bát và cả ông chủ được xơi gạch củ đậu ngay. ở ngõ hàng Giầy, một chủ quán phở chua đã bị một lần ăn gạch vỡ trán, sợ quá, phải đóng cửa hàng.
Đứng lại! Thằng cướp đường nhảy xuống. Mũi dao sáng loáng chĩa ra. Thế là, cái đồng hồ, cái phu la, cái áo len, ví tiền, đôi giày cũng bị lột cả bít tất. Thằng trấn ôm bọc đồ quay lại cửa rạp, cả bọn đã đợi. Chỉ ra đến Bờ Hồ mọi thứ đã bán xong. Rồi kéo nhau lên quán cạnh rạp Kim Phụng đánh chén. Hôm nào đét không được món nào cũng cứ đàng hoàng sà vào hàng phở, mì vằn thắn, gọi rượu. Chè chén xong cắp đít đi ra. Các hàng quán bị xúi quẩy này đã thuộc mặt từng đứa. Không dám đòi tiền, cũng không dám báo công an hay mách các hàng bên. Bởi chỉ khác mắt, thì cửa kính, mâm bát và cả ông chủ được xơi gạch củ đậu ngay. ở ngõ hàng Giầy, một chủ quán phở chua đã bị một lần ăn gạch vỡ trán, sợ quá, phải đóng cửa hàng.
Toà tuyên án tử hình tên cầm đầu băng trấn hai mươi mốt tuổi.
Cả phòng xử lặng im. Nghe tiếng khóc thút thít ở hàng ghế nào. Luật nghiêm thời
chiến có khác.
Cũng tiếc ngày ấy tôi không quen cái huyện trung du ven sông
Hồng nọ để được về ăn uống lu bù ở cái nhà khách huyện mà chỉ nghe ở phiên toà
cũng cảm thấy nơi nghỉ ngơi này dễ chịu chẳng kém khách sạn ở Hà Nội. Bây giờ
thì bí thư huyện ngồi án tù 18 năm rồi. Tôi chắc cũng chỉ đến giường lùn kiểu Đức,
bàn ăn trải khăn hoa... nhưng quả là nó càng rực rỡ linh đình trong lúc bàn dân
thiên hạ nháo nhào chạy máy bay. Tài liệu ở cáo trạng thì cái huyện ấy như một
quốc gia nhỏ. Hai mươi tư chủ tịch hai mươi tư xã. Bí thư huyện trước kia ở
làng, vốn là tay cứ mỗi năm đến vụ nông nhàn thì đi buôn gà Bắc Giang về bán chợ
Đồng Xuân. Bí thư cựu lái buôn này lắm mưu mẹo đã gọi các chủ tịch, bí thư xã
lên cắt tiết gà uống máu ăn thề, làm kế hoạch mỗi xã hàng năm dựng lên công trường
thuỷ lợi, ghi con số ma dân công để lĩnh tiền nhà nước. Lần lượt các chủ tịch,
bí thư xã đều xây nhà. Các ngành các giới lên huyện họp được cấp tiền ăn như ăn
cỗ gấp mười tiêu chuẩn. Chánh văn phòng giữ sổ sách, chủ tịch, bí thư huyện, cả
ban thường vụ không hề biết mặt đồng tiền lương. Kho bạc nhà nước như chĩnh gạo
trong nhà. Ai cũng ngập miệng, cán bộ cả huyện, cả các xã ngậm tăm.
Đến khi phải bắt đi tù vãn cả huyện uỷ, uỷ ban, thì hàng huyện
mới ngã ngửa ra. Trong ban chấp hành chỉ có một đảng viên nữ không dính, bởi sợ
nhưng cũng không dám nói ra.
Một hôm, có chiếc máy bay bị tên lửa bắn rơi trên đê. Thằng
lái nhảy dù xuống cánh đồng chui vào ruộng ngô, mở điện đài gọi cấp cứu. Một tốp
nữ dận quân núp giao thông hào trong xóm xô ra bắn đám máy bay lên thẳng vừa ập
đến cứu nhưng chỉ quần đảo trên đầu, không dám bom, cũng không dám thả thang.
Cô dân quân đội mũ cát quai ghì dưới cằm, gí mũi khẩu súng trường vào sườn thằng
giặc lái. Cô thấp bé, thằng tù binh gầy, cao lêu đêu. Bức ảnh oai hùng ấy được
truyền đi khắp thế giới. Những con người dũng cảm như thế, như thế, thời chiến,
thời chiến mà. ở ngay cái huyện đương hỗn loạn coi trời bằng vung ấy đấy.
Vừa lên đèn, lại một toán giặc lái được dẫn từ sau lưng Nhà
hát Lớn ra đi qua phố Tràng Tiền, Tràng Thi xuống Cửa Nam, về Hoả Lò. Năm mươi
hai người xếp hàng đôi, áo bà ba xám nhờ, chân đi dép râu, thong thả, mệt mỏi.
Cách quãng, một bộ đội kèm. Không lo tù binh chạy, mà đề phòng đám đông hai bên
đường xô xuống đánh. ở ngã tư đầu Tràng Tiền, người nhốn nháo giơ tay hô đả đảo
đế quốc Mỹ, đả đảo giặc Mỹ? Đến phố Tràng Thi, đám đông càng hò hét loạn xạ. Mấy
người nhẩy ra thụi bừa một quả rồi lại chạy vào. Có một bà nạ dòng vào đến hè,
cười nắc nẻ: cái gáy thằng Mỹ nát nhẽo, đấm ghê cả tay! Những bộ đội giải tù chạy
lên chạy xuống cản người ùa ra. Không để ý cả tiếng còi báo động trên nóc Nhà
hát Lớn đã lại rú lên. Chúng tôi ở cửa hàng Tràng Thi cầm vại bia đứng trông ra
đám người túi bụi. Lại một bà phốp pháp tất tả dưới đường lên, tay còn giơ nắm
đấm, cười hơ hớ: Cái thằng Mỹ hộ pháp thế mà bụng nó toàn thịt mỡ bạc nhạc.
Đêm Nôen năm nay lại vào Hoả Lò chơi với tù binh lái. Âu cũng
thêm một phong tục thời chiến, Nôen Tết tù binh. Thói quen người Mỹ, bữa ăn thịnh
soạn nửa đêm nhà nào cũng có món thịt gà tây - như ta tết ông táo cúng cá chép.
Thời Pháp, người Tây đã đem gà tây giống sang, nhưng thỏ và gà tây chưa thành
món quen như gà thiến, gà ta... Không mấy ai nuôi gà tây. Con gà đóm đen, mào đỏ,
người đến gần thì cau có, xoã cánh chìa đuôi kêu cộ cộ. Thế mà những năm ấy,
nhiều làng hai bên sông Đống, các hợp tác xã đã chuyển ruộng cho xóm khác, chỉ
chuyên nuôi gà tây. Đến áp Nôen, hàng đoàn xe tải biển đỏ của quân đội về lấy
gà, đem ra cho tù binh Mỹ ăn tết.
Cả hai cuộc kháng chiến, tôi đã gặp nhiều tù binh Pháp, Mỹ sĩ
quan các cấp uý, tá. Trong chiến dịch biên giới phía bắc 1950, ở châu Bắc Sơn Lạng
Sơn, Nam Cao và tôi đã trò chuyện với tù binh Pháp, đám quân quan thua trận của
các binh đoàn Sác Tông và Lơ pa bị bắt trên đường số 4. Đông quá không đủ lán
trại, phải lùa cả vào các khe đồi hốc đá. Có đứa khát nước hay khát rượu, nằm rống
lên một lúc, rồi thắt cổ. Có đứa phơi lá duối khô nhét vào ống đu đủ làm thuốc
lá hút phì phèo tiêu sầu. Bước chân phiêu lưu vào lính, coi như đã cầm cái chết
trong tay, người lính binh đoàn Tabo lê dương chỉ còn biết nốc rượu và giết người.
Một lần kia, gã da đen gác cửa khách sạn Kônisốp ở Bon, nước Cộng hoà Liên Bang
Đức, tên là Rimi người Ma rốc quê ở Casablanca. Rimi hỏi tôi:
- Thưa ông về Hà Nội?
- Phải.
- Tôi xin nhờ ông một việc.
- Việc gì?
- Ông tôi là Rimi Idri, đi lính Pháp sang đánh nhau bên Đông
Dương năm 1949, mấy chục năm nay gia đình chúng tôi không được tin tức. Thưa
ông, nếu ông có khi nào gặp ông tôi...
Có thể người lính da đen quê ở Casablanca ấy đã đăng lính
trong những binh đoàn Tabo bị tiêu diệt, bị bắt sống rồi chết trên rừng núi Lạng
Sơn. Dễ thường tôi cũng đã gặp ông nội Rimi hay đã trông thấy nấm mồ ông nội nó
ở Bắc Sơn. Nhưng lính Mỹ khác hẳn bọn lính Pháp loang toàng bạt mạng. Người
lính Mỹ nào cũng từa tựa nhau. Trước cái chết có thể và sự giết người, nhưng mỗi
người Mỹ đăng lính đều đã tính toán thành con số. Lương chính, phụ cấp chiến
trường gửi nhà băng tỉnh quê. ăn uống hàng ngày và chi tiêu bằng tiền thưởng, sổ
ghi cẩn thận. Không xem báo, chỉ đôi khi đọc truyện trinh thám, đi câu và đi
săn. Hết ba năm mãn lính, dành dụm làm sao gom đủ tiền mở được một cửa hiệu
trong thị trấn hay tậu một trang trại nhỏ và một đàn bò. Những cái tính cộng
trong túi mỗi người đại để thế, bởi vì đi lính kiếm đồng tiền nhanh hơn nhiều
nghề lao động khác.
Nhà Hoả Lò, vẫn căn phòng mọi lần, có một chậu cảnh trồng một
cây xương rồng châu Phi, cao bằng chiếc đũa cả, giống xương rồng ông của ta. Một
lát, chiếc xe Jeep đít vuông che bạt kín vào sân. Bạt sau mở, một tù lái bước
xuống sau người lính. Tôi ngờ người tù binh nọ vẫn ở trong Hoả Lò này. Các ông
quản giáo cho bịt kín xe, đi loanh quanh một lúc rồi quay về. Tôi ngỡ người tù
binh biết như thế. Tuy không trông thấy và xe đi qua nhiều nơi mới đến, nhưng
những tiếng động ở đây vẫn quen thuộc: tiếng phát thanh ở cái đài ngoài sân,
con vạc, con chim lợn kêu đêm bay qua. Sau này, đọc phóng sự Trận tập kích Sơn
Tây của một phóng viên Mỹ viết tôi càng tin thế. Người phi công Mỹ nào cũng được
học các mật hiệu, nếu bị bắt giam, có thể làm dấu cho máy bay bay qua biết được.
Chuẩn uý Giôn 26 tuổi, chưa vợ, người bang Ôhiô. Bố mẹ chết
tai nạn ô-tô. Hai em ở trại cứu tế. Lái A4, bị đạn cao xạ. Thoát ra biển cách bờ
khoảng hai cây số phải nhảy dù ngoài khơi Hà Tĩnh, tháng ba 1966. Hàng không mẫu
hạm đậu ngoài biển Đông, Giôn chưa đặt chân xuống Việt Nam lần nào. Hai mươi lần
đi ném bom, tám trận ra đánh miền Bắc. Đã được đi nghỉ ở Nagasaki, ở Manila, ở
Băng Cốc.
Chúng tôi và người phiên dịch, với Giôn ngồi quanh chiếc bàn
nhỏ, trên đặt gói thuốc lá Thủ đô bao bạc và một đĩa kẹo. Chiếc ghế đẩu của thằng
tù thấp - không được ghế mây như khách, mà Giôn vẫn cao lêu đêu ngang chúng
tôi.
Tôi rơi xuống nước, thả phao nổi bơi được ngay. Thế mà, không
biết vướng vào đâu, một bên đầu gối sái không cựa được. Tôi chưa kịp mở điện
đài. Nhìn ra, thuyền và súng đã vây quanh. Bị bắt hơn một tháng, thưa các ông,
lúc nào tôi cũng thèm thịt bò. Thèm mãi không có rồi quên đi. Bây giờ, đã hơn
ba năm, ba năm hai tháng, một ngày rồi.
(Chiếc áo tay rộng ông màu lá cơi. Số 31 in trước ngực và
lưng áo. Dạo có những cuộc trao trả tù binh ở sân bay Gia Lâm, tôi đã trông thấy
những tù binh phi công Mỹ đội nón lá, cổ đeo chuỗi hạt gọt bằng mắt tre, gộc
tre, trong cái túi lưới đeo vai đựng bộ quần áo cánh có số và đôi dép râu, hệt
quần áo và dép của chuẩn uý Giôn. Họ xin được đem những kỷ niệm ấy về xứ). Chuẩn
uý Giôn này lấc cấc, nhanh nhẩu, không ủ rũ, mệt mỏi (như thiếu tá tù binh Mác
Tuên năm ngoái gặp cũng ở phòng này).
Lúc ấy khoảng hai giờ trưa. Lên bờ, tôi được cởi trói, mô tô
đèo tôi một quãng rồi xe camiông đem đi. Một mình tôi trong thùng xe, với một
người gác. Cảm giác đầu tiên: thế là cuộc đời đánh dấu chấm hết. Nhưng đến chặp
tối, được khai giấy tờ, có bác sĩ đến khám, cho thuốc mỡ bôi cái đầu gối sưng,
tôi thoáng nghĩ tôi đương chờ đợi cái gì, cái gì không rõ, nhưng không phải cái
chết.
Cho đến hôm nay, tôi còn sống, thế là tết. Và cái tôi chờ đợi
đã rõ. Tôi hy vọng một ngày kia được trở về. Bằng cách nào? Chỉ có Thượng Đế biết
được. Còn tôi, tôi cầu mong chính phủ Mỹ suy xét lại về cuộc chiến tranh này.
Hai bên thương lượng, cuộc đổ máu sẽ đi vào quá khứ. Nhưng bây giờ thì tôi
đương ở trong tay các ông. Tôi được sống hay tôi phải chết, không phải do tôi.
(Giôn thở dài rồi chép miệng. Giôn hay thở dài như lấy hơi rồi chép miệng. Giôn
lực lưỡng, cao lớn. Tôi nhớ năm 1944 hai mươi năm trước một phi công Mỹ lái máy
bay hai thân đến ném bom ga xe lửa thành phố Vinh bị Nhật bắn rơi. Tôi trông thấy
người lính Nhật giải tù binh vừa bị bắt sống qua trước ga Vinh mới phải bom sập
còn khói nghi ngút. Người tù binh lênh khênh, hai cánh tay bị trói giật sau
lưng, người lính Nhật cầm cái thừng dắt đi. Miệng người tù binh Mỹ há hốc, máu
đỏ lòm chảy ròng ròng hai bên mép. Không biết bị đánh gẫy hết răng hay nhảy dù
ngã).
Thưa ông vâng, hoà bình, tôi được trở về. Tôi sẽ được tha.
( áo bà ba của Giôn rộng thùng thình, nhưng không có túi.
Nguyễn Tuân cầm bao Thủ đô, kéo một điếu ra mời. Giôn cảm ơn. Cầm bao diêm Nguyễn
Tuân đưa, Giôn rút một que đánh. Nhưng đã thó nhanh hai que diêm khác, cong
ngón tay, gảy vào giấu trong ống tay áo. Tôi trông thấy).
Chính phủ Giônxơn đương điều đình với các ông? Tôi cũng nghe
loa phát thanh tiếng Anh được biết. Tôi nghĩ cuộc nói chuyện có thể có kết quả
nếu chính phủ miền Bắc thôi tiếp tế cho Việt Cộng. Tôi đã được cho biết từ khi
mới đến Đông Dương như thế.
(Ngoài cửa sổ đột nhiên mưa rơi bập bùng xuống lưng tàu chuối
như trông đánh. Tiếng nhạc đài oang vào tường, vang đi vang lại vách đá. Không
biết ở các buồng giam, có nghe tiếng mưa và tiếng hát mọi khi cũng như thế này)
Thưa ông, ông bảo tôi nên kết luận lấy? Quả thực tôi không biết thế nào. Người
ta bảo tôi là chính phủ Hồ Chí Minh không muốn thương lượng nên chiến tranh vẫn
tiếp tục.
Vâng, vâng, tôi xin trả lời câu hỏi: tôi chỉ đánh phá xuống
những nơi có thể cắt đường vận tải súng đạn và lương thực của miền Bắc cho Việt
Cộng. Tôi phải thi hành lệnh cấp trên, vì tôi là lính..
Vâng, tôi ở hạm đội 7. Mỉa mai quá, đây là lần đầu tôi xuống
đất liền ở Việt Nam...Các ông là nhà báo hỏi tôi có cảm tưởng thế nào, khi gặp
các ông. Tôi ít có báo đọc, tôi nghĩ là các ông muốn biết ý kiến một tù binh Mỹ
về chiến tranh và hoà bình. Tôi xin nói: hoà bình tốt, chiến tranh xấu. Một
ngày kia không ở đâu còn chiến tranh, tôi mong thế.:
(Mỗi khi nghe xong câu hỏi, Giôn trả lời ngay. Có lẽ bẩm tính
nó bốp tốp).
Không, không phải độc lập của Mỹ hay của Việt Nam bị xâm phạm.
Nhưng nếu Mỹ không chặn lại thì cộng sản quốc tế sẽ chiếm miền Nam Việt Nam rồi
chiếm Thái Lan, Miến Điện và những nước khác. Vì thế người Mỹ phải sang đây cản
lại. Ông hỏi nếu tôi được trở về Mỹ mà thấy trong thành phố có biểu tình chống
chiến tranh ở Việt Nam thì thái độ tôi thế nào?
(Tôi đã ghi được một ít con sô mỗi ngày ăn của tù binh Mỹ ở
Hoả Lò giá là 1 đ. Không có ăn sáng. Ngày hai bữa, mỗi bữa một bánh mì, bát
canh rau muống cà chua, đĩa su su xào mỡ. Thỉnh thoảng được ăn món thịt gà tây
rán, gà tây nấu như đêm Nôen này).
Nếu tôi được về nước, chắc khi ấy chiến tranh đã chấm dứt. Thế
thì không còn biểu tình chống chiến tranh nữa. Nhưng nếu còn chiến tranh mà tôi
vẫn là lính, tôi cũng không để ý đến đám biểu tình. Vì chính phủ Mỹ trả lương
cho tôi không phải để làm việc ấy. Nếu tôi là thường dân, tôi có đi biểu tình
không? Tôi không trả lời được ngay bây giờ, chỉ biết là tôi phải xem hai bên thế
nào đã. Các ông bảo tôi lo bị bí mật thu tiếng để các ông phát lên đài, nếu tôi
nói về chiến tranh không như chính phủ Mỹ đã nói, tôi có thể mất lương, có thể
bị tù, khi trở về. Xin lỗi các ông, tôi không biết, tôi không trả lời được câu
này.
Tôi học trường đại học tổng hợp Pensule. Chuyên khoa địa lý,
nhưng bỏ dở, năm thứ ba khi 18 tuổi. Vì hoàn cảnh gia đình.
( Nguyễn Tuân cười khẩy: Chuyến này ông sinh viên địa lý biết
thêm địa lý Việt Nam).
Tôi đã thưa với ông, tôi chỉ được biết Việt Nam trên bản đồ.
Tôi mới học kiến thức chung về địa lý. Năm thứ ba phải thôi học. Tôi đi kiếm ăn
khá vất vả. Bố mẹ tôi chết, khó khăn quá cho chúng tôi.
Một giờ bay đi thả bom, tôi được phụ cấp bao nhiêu? Thưa ông,
phụ cấp và tiền thưởng ở chiến trường trả theo cấp bậc và từng chuyến khác nhau,
bay làm gì, đi đánh phá, đi yểm trợ, đi cứu đồng đội. Trung bình, mỗi tháng tôi
lĩnh trên dưới một trăm đô la, chưa bao giờ hai trăm. Tôi được bay ít lắm.
Không hiểu tại sao.
(Nguyễn Tuân bảo: Anh nói dối. Chuẩn úy Giôn chỉ đáp: Thưa
ông rồi im lặng. Sự thực hạm đội 7 vào trận đánh, đồng loạt mỗi phi công phải cất
cánh ngày một lần, không kể các chuyến bay ngoại lệ).
Thưa ông, tôi rất thích không quân. Bởi khi giải ngũ vẫn có
nghề. Nhưng tôi không muốn bay trên trời Việt Nam làm những việc như vừa qua. Nếu
còn làm nghề này, tôi chỉ muốn bay ở nước Mỹ của tôi.
(Nguyễn Tuân nói nghiêm nghị: Nhưng thật thì chúng tôi đương
ngồi trước mặt một tên giết người. Nét mặt hớn hở của Giôn chìm hẳn, Giôn mím
môi).
Chiến tranh là tàn khốc, tôi biết, nhưng tôi phải làm theo lệnh
chính phủ. Máy bay Mỹ bị các ông bắn, người lái rơi chết, nghĩa là các ông cũng
giết người.
(Nguyễn Tuân cười nhạt, hỏi vặn: Giá thử bây giờ anh lái tàu
bay từ Bắc nước Mỹ lên ném bom Nam nước Mỹ, thì thế nào?) Mỹ và Việt Nam khác
nhau, Bắc và Nam nước Mỹ không phải là hai nước.
(Nguyễn Tuân gõ gõ đầu tẩu thuốc. Đấy là cách lấy lại bình
tĩnh. Thế là bực mình rồi. Những tiếng bộp bộp nặng nề của cái gạt tàn thuốc
trong đêm thanh vắng, làm những vết nhăn trên trán Nguyễn Tuân dãn ra. Nguyễn
Tuân nói, thong thả: Nêú được tha, anh hãy về học lại đi. Đại học địa lý rồi mà
dốt quá! Ai bây giờ bảo phía nam nước Mỹ là tư sản, phía bắc là cộng sản, anh
nghĩ thế nào?
Thế là điên, thưa ông.
(Nguyễn Tuân đứng lên, hầm hầm trỏ tẩu thuốc vào mặt Giôn:
Anh đương nghe lệnh một bọn điên đấy).
Tôi chỉ làm theo chính phủ tôi. Tôi đã khai là tôi có lái máy
bay đi bắn và ném bom miền Bắc Việt Nam. Nhưng tôi chỉ bom bắn cầu đường phá xe
của Hà Nội vận tải cho Việt Cộng. Thưa ông, tôi không giết người.
(Giôn ngồi ở cái ghế đánh dấu như chiếc ghế năm trước. Tôi vừa
nhận ra con số 2541 quét sơn trắng ở chân ghê, đúng cái ghế năm ngoái thiếu tá
tù binh Mác Tuên đã ngồi. Lúc nào Giôn cũng giữ một tay trên bụng áo. Giôn không
biết tôi đã thấy nó lấy cắp que diêm nhét vào ống tay mỗi lần được cho thuốc lá
hút. Giôn biện bạch một thôi).
Vâng, tôi chỉ được phép phá cầu, phá đường phá xe. Nếu có người
chết, cũng là chẳng may người ấy gặp tai nạn, tôi không cố ý. Nhưng dù thế nào,
xẩy ra cái chết cũng là bất hạnh, tôi không muốn. Đức chúa Trời dạy con người
phải thương yêu nhau. Chúa dạy tôi sợ máu, tôi không dám nhìn máu, tôi không
dám giết ai. Đức chúa Trời...
(Nguyễn Tuân lắc đầu nhè nhẹ: Giết người mà lại nói con người
phải thương yêu nhau! Không hiểu Người tù binh như sợ hãi, nói luống cuống).
Tôi không giết người, tôi không... Tôi không thù ghét, nước
Việt Nam Cộng Hòa hay nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Những người chết là người
bị tai nạn chiến tranh. Nếu trên cầu trên đường lúc ấy chỗ ấy không có người
thì không ai chết. Vì người ta đi đến đấy chứ tôi không chủ tâm làm người ta chết.
(Nguyễn Tuân lừ lừ đứng dậy, giơ tay: Nhắc lại này: bao giờ
mày được về thì nhớ học lại địa lý Không có hai nước Hoa Kỳ, không có hai nước
Việt Nam. Nhớ đấy. Trung uý Giôn, con mắt xanh lơ ngó ngác).
Các ông không phải là nhà báo. Các ông là quan tòa? Các quan
tòa lấy khẩu cung tôi. Các ông sắp đem tôi ra xử. Tôi xin hỏi thực các ông?
(Nguyễn Tuân rút hai điếu Thủ đô đưa cho trung uý Giôn. Anh
này mặt lúc đỏ lúc tái run run cầm thuốc: Cám ơn, cám ơn. Các ông có phải...
Không giải thích hay an ủi, Nguyễn Tuân bước ra, mặc câu nói dở dang sau lưng.
Nguyễn Tuân trầm mặc, nghiêm mặt và một vẻ ta đây. Tôi thường chứng kiên dáng
điệu đĩnh đạc ấy ở Nguyễn Tuân, khi tiếp xúc với người nước ngoài. Nguyễn Tuân
lý lẽ và cứng cỏi. Âu cũng lại một thói quen, cái người hay nói tôi không thích
chính trị cũng đương chính trị mà không biết).
*** Báo động. Nhưng máy bay địch không vào Hà Nội. Như găng,
cũng lại như bình thường. ở Pa ri, đương xuất hiện hai khả năng mà. Các ngóc
ngách phố vẫn đông. Hôm nào ban bảo vệ khối phố cũng chia nhau đi vận động người
sơ tán. Giục đi, nhưng cả người giục cũng nghĩ chỉ khi bom xuống người ta mới
chịu đi. Đã nhiều lần như thế, mà cũng chỉ dạt đi ít lâu, nhạt bom lại về.
Bom rền bên kia sông ở ngay Gia Lâm. Rung chuyển nặng nề đến
tận gần sáng. Hai tháng im ắng, bây giờ lại rộ những trận bom đêm. Gió bấc đã về
buổi sáng mây mù xao xác vần vụ. Mùa đông lại bắt đầu rồi.
Trong phố lan tràn tin đêm qua những đợt bom B.52 thả dàn từ
Giang Biên lên quanh cầu Đuống. Báo động suốt đêm, thế mà sáng ra người xúm xít
mua báo ở ngã sáu quanh những gốc cây sữa. Những đợt bom nửa đêm kéo đến sáng.
Còi báo động trong bóng tối u ám vừa dứt lại tiếp. B.52 xay thóc ỳ ỳ trên mênh
mông, ào ạt từng làn như gió dải đồng. Mép lửa viền chân trời theo ánh chớp giật.
Bom đánh xuống khắp vùng Đuôi Cá phía nam trên ngã ba đường đi Văn Điển. Nhưng
vừa sáng bảnh mắt chiếc tàu điện lụ khụ kéo hai toa, cứ đúng giờ ra khỏi xưởng
chứa Thuỷ Khuê lại rỉnh ràng chạy ngang thành phố. Tàu không dừng lại chỗ tránh
giữa phố Quán Thánh gần nhà máy điện, ở đấy dãy nhà cao tầng xung quanh cháy
đen đã đổ sập cả. Suốt ngày, tàu điện rong ruổi chợ Mơ chợ Bưởi, xuống Kim
Liên, vào Hà Đông. Trên các toa tàu lơ thơ người, vẫn nỉ non tiếng hát xẩm của
một ông lão loà.
Quán rượu ngã tư chợ Hôm vẫn thế. Hồi này hàng nước nào cũng
có nước trắng. Cái bà nạ dòng chủ quán chao chát đôi mắt. Ba ấm giỏ bày song
song, nhưng chỉ một giỏ nước chè bán cho khách đầu ghế. Làm phép thế thôi.
Trong nhà, bốn góc tường, người lố nhố không ai nhìn ai, có người ực một chén rồi
đi ngay. Lắm hôm, chỉ có Dương Bích Liên và tôi ngồi suông. Chúng tôi gặp nhau
tình cờ lúc xẩm tối, không rủ mà cùng lặng lẽ bước về phía cái vòi máy nước lấp
ló trước quán rượu.
Ba người đầm ở sứ quán Pháp bước ra, giữa tiếng bom vang động.
Toà nhà chính của sứ quán giữa trưa tháng trước bị bom đánh đổ, chết cả ông đại
sứ. Như còn bốc bụi trong ánh điện. Tiếng bom chùm của B.52 không rít khủng khiếp
như những quả bom tạ hôm trước tương xuống khu nhà này nên người ta thản nhiên
chăng. Họ ở sân quần vợt về khách sạn hay sứ quán Anh, sứ quán Thuỵ Điển gần đấy.
Vẫn báo động dai dẳng, chốc chốc, lại chớp bom sáng loé nhằng nhịt. Nửa đêm về
sáng, B.52 bom khu An Dương ven sông rồi quét một vệt lên nóc nhà Bác Cổ, bãi
Lương Yên, bệnh viện Bạch Mai. Lại ném bệnh viện Bạch Mai.
Các sở bia Trần Hưng Đạo, Tôn Đản, Chuồng Cọp đông hẳn hơn mọi
khi. Đuôi dài đứng sắp hàng quanh bãi, thò ra tận giữa đường. Người nốc từng cốc
vại, người còn đương sắp hàng chưa được giọt nào, những khuôn mặt sốt ruột cũng
đỏ phừng. Quanh cốc bia toàn những chuyện thảm. ở bãi Lương Yên, một cô bác sĩ,
ngày cưới 24, đêm qua chết. Người nhà liệm cho cô chiếc áo dài kếp hoa đào. Mùa
cưới đã đến. Trên đường, chặp tối thấy phấp phới những dấu hiệu đám cưới: chiếc
xe đạp phóng nhanh, sau xe buộc chiếc trống to của ban nhạc. Một người ngồi
đèo, tay ôm cái chậu thau men hoa đồ mừng bọc giấy hồng. Một nhà hé cửa, những
hình các thứ hoa thập cẩm rực rỡ mặt bàn. Trên tường chữ L, chữ N bồng lên
nhau. Bom liên miên suốt đêm quanh phía ngoại thành. Có tin bí mật phổ biến đêm
nay Mỹ đánh vào các phố trung tâm. Khi báo động B52, đài truyền thanh sẽ phát
khác thường ngày. Khi đài nói liền hai câu giông nhau: Giặc Mỹ có âm mưu đánh
phá ác liệt vào Thủ đô... ấy là ám hiệu cho các đội bảo vệ biết B52 đương vào
thành Từ chiều, mấy lần báo động đã nghe cái câu ghê rợn ấy trên đài. Người vào
từng nhà xem còn ai thì xua ra hầm. Các phố lại im ắng. Đột nhiên, gần nửa đêm
cho tới sáng, từng đợt B52 ào ào ù ù cối xay cối giã trên trời không lúc nào ngớt.
Những quả bom đầu tiên rơi xuống bờ hồ Thiền Cuông. Một khúc đường nhựa cong vồng
lên. Hàng cây sanh cây si trước công viên Thống Nhất đương mơn mởn buông rễ
chùm, biến mất. Một chiếc ô-tô vận tải đậu ven hè, nhà xe và mấy người khách ngủ
nhờ để mai đi sớm, xe và người nổi lều bều mặt hồ. Những đợt bom nối nhau trút
xuống Kim Liên, loang sang cả vùng Khâm Thiên phố xá, ngõ ngách chằng chịt, xuống
tận ô Chợ Dừa. Bom rơi ngay trước mặt, gần quá không nghe rền nữa. Tiếng gió
hú, tiếng nổ chát chát vào hai mang tai.
Một cái đuôi tên lửa rơi ình xuống mái hiên quán cà phê phố
Hàm Long, sau sứ quán Pháp. Người ở đâu các phố tuôn ra nháo nhác: bom bịt cả bốn
cửa ô rồi. Một người phong phanh cái may ô, gặp ai cũng bíu lấy kêu ối giời ôi,
thủng đầu rồi... tôi thủng đầu... Tôi vít cái đầu tóc rễ tre xuống. Không sao,
không sao, thủng đầu thì không chạy lên được tận đây đâu. Anh ta lại bổ xấp, bổ
ngửa chạy và kêu: có phải... ối giời ôi, tôi thủng đầu...
Một con trâu đằng cửa ô lồng vào phố chạy nhong nhong như ngựa.
Đội cứu hoả các phố xuống Khâm Thiên cứu khối bạn. Chỉ còn lại vài người, nhưng
cũng đủ bộ cái xe nước, cái bơm mới sơn đỏ choé, với thang, cáng cứu thương...
Tôi cầm một chiếc câu liêm. Qua chắn xe hoả, bụi bom bụi đường ngập mắt cá
chân. Trời dần dần sáng, trông rõ các ngõ ngách lấp đổ từng quãng, mùi dầu xả
xông lên, hắc như ở nhà xác. Những ngọn điện chằng dây vừa mắc ra ngoài tường,
sáng đỏ lòm. Tiếng nước vỡ ống chảy rào rào. Bên những dãy nhà đổ thành đống,
còn một mảnh tường đứng. Bốn gian cầu chợ Khâm Thiên tan tành, ngổn ngang, trơ
ra cái hầm công cộng nổi lù lù như cái mả. Mà cái mả thật. Cả nhà con ông Thảo
đội dân phòng phố tôi phải hơi bom tạt vào trong cái hầm nổi này. Bảy người đứng
đầu hầm, chết ngạt cả.
Một ông chếnh choáng rượu ngồi trong đống gạch chửi lên cái
loa phóng thanh còn sót lại đương nói xa xả trên nóc nhà đầu tường đằng xa. - Tắt
bố mày đi! Không trông hàng phố chết hết rồi à? Ông say rượu chửi như gào thi với
tiếng loa. Một người đứng lên trên đầu tường thò cổ ra - Loa của thành phố tận
ngoài kia mà... Ông say lại réo: Tiên sư cái thành phố nhà mày, trông mả nhớn mả
bé kia kìa...
Trong các ngõ, người lổm ngổm đào, moi dũi ra từng vốc đất.
Xe cần trục đứng xếp dãy ngoài phố không có lối vào được. Khói hương nghi ngút
lẫn mùi xả trên từng dãy xác người nằm đắp chiếc chiếu một bên vỉa hè. Vừa rạng
sáng, ở phố ngoài người ở đâu ra đã sắp hàng đong gạo đông hơn mọi khi. Cửa
hàng mua dầu còn xúm xít hơn nữa. Nhiều nhà lục tục dọn đến ở ngay các hầm công
cộng. Trong nhà thờ Hàm Long, nhà thờ hàng Trống và bên tường các sứ quán ở phố
trên người ta che ni lông ăn ở luôn đấy. Chỉ có sứ quán Pháp, sứ quán Angiêri mới
bị bom, không ai dám lai vãng. Dây phơi quần áo căng ra. Tiếng trẻ ho, tiếng
nhóc con khóc. Khói thổi cơm vẩn vơ trên bờ tường. Những con bò kéo xe, khoác
khố tải đứng cạnh gốc cây. ở Uy Nỗ, ở Mễ Trì bị bom đêm, các chủ xe đã đuổi bò
rùng rùng vào thành phố, qua vùng Khâm Thiên trơ trụi hẳn một bên.
Khâm Thiên cổ kính, xa xưa. Mùa thu canh tuất 1010, ngót một
nghìn năm trước, nhà Lý định đô ở Thăng Long, đắp đê La Thành. Từ thời ấy ô Chợ
Dừa cuối phố nghiêm ngặt đồn gác của một cổng chính thành Thăng Long - Hải Thượng
Lãn ông đã kể trong Ký sự lên kinh.
Phường Đông Tác - ngõ chợ bây giờ, phường Thịnh Quang ở cuối
phố, ô Chợ Dừa với khu Thịnh Hào, phường Xã Đàn ở phía nam, phường Bích Câu
phía bắc - những phường đông vui nhất kề bên cửa ô. Khu Trung Phụng gần chợ có
cầu Muống, rau muống Kẻ Chợ ngon nổi tiếng. Cung Tả Phụng Thánh, dinh cơ của
các thời chúa Trịnh bên cầu.. Con đường nhựa phố Khâm Thiên bây giờ vẫn là đường
cái quan xưa từ đầu ô vào Văn Miếu qua Thịnh Hào, Văn Chương, cửa Đại Hưng đến
Hàng Cỏ lại lộn về Khâm Thiên giám. Khâm Thiên ngày nay 26 ngõ phố, cũ mới chằng
chịt. Ngõ Liên Hoa vào chùa Liên Hoa. Ngõ Thổ Quan có đền thờ ba chị em họ Đào,
tướng của Hai Bà Trưng. Các ngõ đều ra đời theo lịch sử và thời gian. Ngõ Cống
Trắng, một cái cống thoát nước úng vùng Văn Tân, Linh Quang, Văn Chương ra hồ
Ba Mẫu ô Đồng Lầm. Ngõ Sơn Nam, tên nhà triệu phú Bạch Sơn Nam, có dãy nhà cho
thuê suốt ngõ. Trần Huyền Trân ngày trước đã ở đấy. Cũng như các ngõ Vạn Lợi,
ngõ Tân Châu, ngõ Nam Thái, đều là những tên chủ ngõ.
Khâm Thiên, Hăm Bốn Gian, Vạn Thái, ấp Thái Hà, Vĩnh Hồ, Ngã
Tư Sở, những phố ở xa nhau nhưng có nhiều nhà hát ả đào. Tiểu thuyết Sau ánh
sáng của Trần Huyền Trân miêu tả lầy lội chui rúc, cái ngõ, động mưa thì ngập
nước, lập lờ những mảnh đời tăm tối sau ánh sáng của các tiệm nhảy Rex, Takana,
nhà đốc Sao... Cao lâu Trung Sơn tàng tàng của chú khách đầu ô chẳng món gì
đáng nhớ, nhưng mà nhớ, vì khách chơi đặt chầu mặn và các món nhắm khuya ở đấy.
Ngang dọc hai cây số các ngõ Khâm Thiên xưa và nay bề bộn lịch
sử đã tan tành trong đêm bom khủng khiếp. Chợt nhận ra tàu hoả rời ga hàng Cỏ về
phía nam, trước tiên ra ô Đồng Lầm qua giữa hồ Ba Mẫu và hồ Bẩy Mẫu. Trong những
ngày thành phố bị tàn phá này dường như lịch sử được chú ý nhiều hơn.
Mùa đông năm nay, thời tiết Hà Nội bị B52 giằng xé, cái gió
cái mưa thay đổi từng hôm. Đương hanh hao lại chợt nồm rồi lại rét, lại mưa dây
mưa rợ. Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội 60 km... 40
km... 20 km... thế là còi ủ, máy bay địch đã vào... có khi lâu cả tiếng đồng hồ,
lúc lặng như tờ, lúc bom súng dội lên. Đồng bào chú ý! Máy bay địch đã bay xa.
Khi ngớt tiếng nổ, chỉ thoáng hai tiếng chú ý, người ta đã đoán hết được. Nhẹ
nhàng, thong thả và hai tiếng đã bay xa mới thanh thản sao. Trên hồ Bẩy Mẫu đã
biến mất cái bến thuyền và ngôi nhà hàng nổi mới hôm qua bán giải khát và bánh
tôm. Các cô mậu dịch ở bãi bia Chuồng Cọp đã bỏ quán đi cứu sập cửa hàng và bến
thuyền này, hôm nào đến lượt bãi bia?.
Sân bệnh viện Bạch Mai điện sáng choang. Những chiếc cần trục
hùng hục ngoạm đất. Tiếng hát lẫn tiếng tường đổ rào rào. Ngoài đường trước cửa,
ánh đèn dầu le lói, loáng thoáng bánh xe người qua lại. Khay thuốc lá. Cái bơm
xe đạp. Bàn phở gà che mái lá. Phố ngổn ngang, nhưng cái chắn xe lửa vẫn còn
nguyên. Chị gác barie rút lá cờ đỏ, cắm cúi đẩy cái chắn. Chân chắn đã rít chặt
đất, phải đem cuốc chim ra moi. Trong lòng phố vẫn thoảng ra lẫn lộn mùi xả,
mùi hương đám ma.
Một hàng nước và ngô luộc lập loè đèn bên vỉa hè chỗ xếp một
dẫy xác chết đắp chiếu hôm qua. Người ngồi quanh thúng ngô luộc khói nghi ngút,
kể chuyện nhà kia ở ngõ Lệnh Cư, có bảy người chết cả, chỉ còn một người thì
đang ở chiến trường B. Người ta im lặng nghe đài đọc tin của sở công an về trị
an mấy ngày bị bom liên miên. Tên lưu manh Như Bảo lấy trộm chiếc xe Favorit
lúc bom B52 đêm hôm kia. Toà án kết án 6 năm tù và 3 năm không được ở Hà Nội.
Lại thì thào chuyện ở Pari ông Thọ với lão Kít đã ký tắt đình
chiến. Không ai tin, vì còi báo động và tiếng bom vẫn ình oàng xuống. Lời đồn đại
như một ước vọng. Lại thêm những rỉ tai sốt dẻo. Ngày kia 13 - đúng 13, lão Kít
đến Hà Nội... Người ta mách nhau cả bộ dạng thằng Kít: lão ấy tóc mai to, kính
trắng gọng vàng, và lại kể vanh vách: Kít sẽ thăm Khâm Thiên, bệnh viện Bạch
Mai. Ôi! Thằng bỏ mẹ! Nó đi xem chỗ nó vừa giết người. Kít sẽ dạo chơi công
viên Thống Nhất. Kít xem văn công... Thế là thế nào!
Chẳng biết ra thế nào? Nhưng có điều đích xác là các quán bia
mấy hôm nay đóng cửa. Người ta kháo nhau rằng công an sợ các bợm bia bốc bên
kéo ra chặn xe ném cốc vào mặt lão Kít. Không thể, ai cũng còn đương ngỡ ngàng
cái thằng kẻ cướp bỗng hoá ra con mèo hiền lành, sao lại đã sang Hà Nội còn hôi
hổi hơi bom của nó thế này! Đám trẻ đùa bên tường hầm trú ẩn. Chúng nó gọi
nhau: Kít? Kít! Rồi cười the thé. Một đứa thò đầu vào dây phơi quần áo như cái
mành mành buông. Nhà nó đã ra ẩn ở đấy.
- Bà ơi! Thằng Kitsingiơ sang hỏi thăm bà đấy - Con đẻ mẹ
mày, kít với chẳng két!
Thế rồi mọi việc không mong không đợi đường như cứ đến. Có
người quả quyết đã trông thấy lão Kít kính trắng gọng vàng ngồi xe qua Khâm
Thiên. Rồi tù binh đôi bên được thả ở Lộc Ninh, ở Hà Nội. Sân bay Gia Lâm chín
giờ sáng còn sương mù. Một chiếc máy bay quân sự Mỹ hạ cánh cuối đường băng, nhả
cái thang dưới bụng. Nhân viên uỷ ban quốc tế xuống trước. Mấy sĩ quan ta và
Sài Gòn đi sau. Một người thấp bé, áo quần rằn ri, mũ nồi đỏ, cái cần máy ảnh
giơ cao. Phóng viên chiến tranh Phan Nhật Nam, tác giả phóng sự Giữa mùa hè đỏ
lửa tôi vừa đọc. Trở về Sài Gòn, Phan Nhật Nam viết báo than phiền Hà Nội buồn
lắm, nhưng ăn gà luộc ở khách sạn thì quả là thấy thịt gà ngon đậm như ông Vũ Bằng
đã viết trong Miếng ngon Hà Nội. Anh ta xin phép gói mấy miếng bỏ vào cái áo
tám túi.Lại ngao ngán nỗi không thấy văn nhân nghệ sĩ nhà báo nào được ra sân
bay cho hắn thấy.
Rõ hồ đồ, Nguyễn Tuân và tôi từ sáng sớm đã đứng uống bia
Trúc Bạch trong quầy nhìn ra đám tù binh Mỹ áo xanh lá cơi, cổ đeo tràng hạt gộc
tre, cả bọn xếp hàng chui vào bụng máy bay. Và xem chúng mày ngọ nguậy lên xuống,
giơ máy ảnh.
Ngay chiều hôm ấy, tôi có việc sang Libăng. Rời Hà Nội, vẫn
ga trời Gia Lâm. Nhưng đề phòng bất trắc, bay trong chiều thật muộn. Chiếc IL
18 đỗ một mình trên đường băng. Hành khách lèo tèo vài người. Một bà người Hung
đương uống cả một cốc to rượu bồ đào. Cô chiêu đãi viên hồng vệ binh Trung Quốc
áo xanh công nhân, bật đèn trong khi kéo kín các rèm cửa sổ. Máy bay chưa khởi
động đến cánh quạt thứ tư, bà người Hung đã ngủ vùi trên ghế phòng đợi. Bà uống
để tránh biết máy bay Mỹ, nếu nó đến. Nhưng quá liều. Người ta phải dìu bà lên
máy bay.
Hà Nội sau lưng âm u trong chuỗi đèn vàng vọt. Máy bay bay thấp,
ánh đèn lập loè như đom đóm bám ngoài cánh. Chưa cởi dây an toàn, đã đương xuống
Nam Ninh thảnh thơi rồi.
CHƯƠNG 6
Tôi ở lại Maxcơva mấy hôm. Được tin Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng
sớm mai tới đây cùng một chuyến bay. Nguyên Hồng dự kỷ niệm một danh nhân văn
hoá Nga. Nguyễn Tuân đi nghỉ bạn mời.
Hai người sẽ trọ ở khách sạn Bắc Kinh như tôi. Vốn quen thuộc
với khách sạn này - một nhà nghỉ và cao lâu bấy lâu cũng chìm nổi theo thời sự.
Những năm 1958, khách sạn Bắc Kinh mới khai trương, tôi đã được chứng kiến những
ngày huy hoàng đầu tiên vả cũng là sau cùng của khách sạn này.
Matxcơva vốn có một phong tục hay. ở đấy có quán ăn của các
nước cộng hoà và của nhiều nước khác. Mới đây, hãng Mỹ Mác Đô Nan mở cửa hàng
bánh mì kẹp nhân thịt ở cạnh quảng - trường Puskin, người xếp hàng dài vào mua
cái món ăn quen mà lạ. Cao lâu Grudia, cừu nướng thơm ngạt mũi chẳng khác khói
mỡ các quán cố kính, hoang dã dưới hầm ở thành phố Tybilitxi. Người nhà bàn, áo
sơ mi trắng viền đỏ quanh cổ. Tiếng nhạc grudia như vẩn vương từ thảo nguyên tới.
Các phòng ăn cao lâu Bắc Kinh, kiến trúc và trang trí như một dinh thự, một lâu
đài, một hành lang bao quanh hồ ở Di Hoà Viên. Cột đình sơn son thếp vàng chói
lọi. Những bức lụa quốc hoạ én bay liễu rủ. Món vịt quay Bắc Kinh nổi tiếng,
nhà bếp bưng cả con vịt lên bàn trước mặt khách, với dao và thớt phụ bếp xách
theo. Con vịt vàng hây đã được rút hết xương, dao chặt hoa lên như múa. Hàng
ngày, máy bay chở rau, gia vị và các thứ nhà bếp cần dùng, chỉ có bảy tiếng từ
Bắc Kinh đưa thẳng tới.
Rồi trải ba thập kỷ, khách sạn Bắc Kinh ở Matxcơva tàn lụi,
thoi thóp. Nhà hàng vẫn giữ vẻ bề ngoài, vào bàn có thể cầm đôi đũa mun đen
bóng, có đĩa măng khô và miến xào mộc nhĩ. Mặc dầu, nhà bếp Nga đã thay đầu bếp
Trung Quốc, nhưng mà đường xa và thói quen hơi hướng đũa bát quê hương cũng là
một cái thích khiến tôi vẫn mỗi khi qua thì ăn nghỉ ở đấy.
Từ năm ngoái, có sự giao lưu trở lại, khách sạn Bắc Kinh đã
tươi tỉnh hẳn lên, có thể còn xuân sắc hơn xưa. Kiến trúc sư, hoạ sĩ và các nhà
chuyên môn Trung Quốc sang tu bổ nội thất. Những xếnh xáng nhà bếp Tàu đội mũ nồi
ngất ngưởng màu xanh, màu hồng lại bưng cả con vịt quay vàng tía bóng mỡ lên rồi
múa dao chặt thành miếng trước mặt thực khách. Biết tin vui thế, nhưng chưa lần
nào còn được trở lại. Những người đi việc công có đôi chút ghé gẩm nghé nghiêng
ra vẻ du lịch như tôi kiểu nhà nước cấp tiền và nhờ vả, rặt những trớ trêu và
buồn tủi. Miếng ăn, cái uống, nơi nào sao mà tự mình định được. ở Tân Đê li,
khách sạn ba sao Giampat mỗi lần tôi qua tầng trệt, các chủ hàng thoáng thấy, vội
ra đứng trước quầy cúi đầu cung kính mời vào xem vàng bạc, đồ da, đá quí và các
thứ rượu. Nhưng túi rỗng, tôi ngước mắt đi qua không chào lại vờ như còn đương
mải nghĩ. Chả là tôi vừa nhận giải thưởng hội nhà văn á Phi 1969, bà thủ tướng
J.Ganđi trao tặng kèm nghìn bảng Anh. Nhưng trong va li tôi chỉ có tờ bằng chứng
nhận và chiếc huy hiệu bằng đồng to như cái đĩa. Và mấy chai vôtca các bạn nhà
văn Nga cho, ai đến mừng thì nâng cốc vui sướng. à hôm sứ quán ta nhận tiền giải
thưởng tôi đưa, có làm một tiệc đứng ăn nem rán mời khách.
Cái năm Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng với tôi đến ở khách sạn Bắc
Kinh cạnh quảng trường Mai còn hiu hắt. Chúng tôi vẫn còn được uống Mao Đài, kể
cũng là cái thú còm. Không biết ai là người trước nhất nhớ ra năm 1978 ấy, nhà
văn Nguyên Hồng tròn sáu mươi tuổi. Nên chơi một cuộc chúc thọ ông chứ!. Mọi tốn
kém trông vào tiền bài báo tôi vừa nhận của báo Tin tức, bạn thân Misen đưa
cho. Tự huyễn cho có mẽ, chứ chỉ là bữa chén thường, có của quí Mao Đài với mấy
bạn nhà văn và bạn phiên dịch tiếng Việt ở Matxcơva. Phía chúng tôi, Nguyễn
Tuân, Nguyên Hồng và Nguyễn Văn Mãi với tôi, hai chúng tôi đương đợi ngày hẹn
tàu hoả đi Vacsava. Phòng ăn lớn đông nhộn. Dàn nhạc cuối phòng nổi lên, người
ta bắt đầu nhảy. Marik bảo tôi: Này ông để ý nhé, những người vừa làm chầu sâm
banh xong ra sàn nhảy kia không phải như ông là khách nước ngoài trên phòng xuống
ăn tối đâu. Không bọn chó lợn ấy là giám đốc, là người làm cửa hàng nhà nước ở
các phố quanh đây. Anh Vlat phiên dịch tiếng Pháp khi còn sống, hay đưa tôi xuống
thành phố bờ biển Yanta trong bán đảo Crưm. Lúc đầu tôi không hiểu sao Vlat rất
ghét những người có nhà rộng, buồng đẹp hàng năm cho khách thuê mùa hè. Nhưng rồi
Vlat nói: Bọn chó này thời chiến tranh thì chạy hết xuống phía nam, đi buôn lậu,
giầu lên, có tiền tậu nhà, chúng nó sướng đến tận bây giờ, mà em trai tôi thì bỏ
mạng ở chiến hào ngoại ô Matxcơva. ờ mà sân khấu Hà Nội đã diễn vở kịch Câu
chuyện ở Iêckut, có hai thanh niên xung phong đi khai hoang đã chửi người chị
là nhân viên cửa hàng của nông trang không dám ra khỏi nhà một bước, chỉ bám
vào cái quầy bách hoá rình ăn bớt của khách từng đồng xu. Những ti tiện ấy tôi
cũng đã chứng kiến ở bistro và các quầy ăn đứng trong khách sạn. Những hôm vắng
khách, không phải xếp hàng, có mình tôi mua gói sữa smêtan hay miếng phó mát,
thế nào tiền trả lại cũng thiếu vài hào, vài xu. Những bà bán hàng béo ục ịch ấy
đã biết tôi không có tiếng Nga.
Đương vui, lại thấy Nguyên Hồng lật đật ra thang máy. Chốc chốc
lại bỏ đi một lát.
Cô Ina Zimônina hỏi:
- Ông Nguyên Hồng quên những gì trên buồng mà cứ phải lên nhiều
lần?
Tôi cười:
- Không, ông ấy có bệnh.
- Thế thì phải đi khám. Bệnh gì?
Tôi chạm cốc với cô bạn Nga kỹ tính.
- Không cần. Bao giờ cô được ăn mừng lên lão sáu mươi tuổi
thì cô sẽ biết những bệnh của người già, bệnh già.
- áp huyết hay thấp khớp?
- Ina thân yêu, bệnh Tào Tháo đuổi thôi. Không đáng lo!
Bao giờ cô đến sáu mươi... bệnh già... Không khi nào tôi hỏi
lại Nguyên Hồng hôm ở phòng ăn khách sạn Bắc Kinh làm sao cứ mỗi lúc lại phải
chạy lên buồng. Biết rồi, chẳng đái giắt thì cũng đi trống tràng, mà hôm nay
không ra đến phố chỉ ở trong nhà nên hà tiện một viên thuốc rửa. Đã lâu, nghiện
rượu chợ, rượu tạp với ớt, với ổi với mướp đắng heo hút ở đồi Nhã Nam, vơ váo
ăn và uống lộn xộn đã quen dạ. Đến nỗi cái ngon lành lại đâm lạ miệng, rối loạn
tiêu hoá. Tôi đã biết từ lâu ông bạn rượu của tôi khoẻ nhưng yếu bụng kinh
niên. Trong cái cặp da bản thảo thường cắp theo, lúc nào cũng kẹp sẵn mảnh giấy
dầu vỏ bao ximăng Con rồng xanh không thấm nước. Có việc cả đấy, việc cực gay gắt.
Đêm ngủ đâu nhỡ một cái, mà chuồng xí ở nhà dưới, ở sân sau, đèn đóm không có,
khuya khoắt quá rồi thế là người lần ra hiên hay cạnh cửa sổ, trải mảnh giấy dầu
ra. Được cái phân tháo tỏng thì ít nặng mùi, rồi gói lại kỹ lưỡng bỏ vào cặp.
Hôm sau vứt xuống hồ hay đống rác nào đấy. Có khi tiếc cái giấy còn tốt, lại gột
sạch đem phơi. Chẳng coi là sự bẩn thỉu phải giấu diếm, nhiều lần Nguyên Hồng
đã cắt nghĩa cho tôi về tác dụng nghệ thuật so sánh hiện đại của mảnh giấy dầu.
Nguyên Hồng bảo: Trên máy bay người ta bĩnh vào bọng hố xí thì cũng thế. Cái kiểu
tuôn xuống đường sắt ở xe lửa còn kém văn hoá hơn nhiều. Lý sự đến vậy thì chịu.
Khốn khổ, cái lão cãi chày cãi cối cho bệnh già mà lão không khi nào chịu ai
chê lão già. Lão thường phàn nàn ầm ĩ là vợ lão kheo khư như con mèo hen khiến
lão mất cái hứng của Dương Khuê Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa. Không,
nhưng mà cũng có, những tơ nhện thoang thoảng. Nạ dòng, má phúng phính bánh
đúc, áo cánh chồi, nhai trầu môi cắn chỉ là ăn ý lắm. Mỗi khi gặp người dáng dấp
vợ cai vợ lính xưa mà chúng tôi đều đặt tên là bà ách và ghép tưởng tượng cho
lão Nguyên Hồng, bà cai ách bán bia hơi gần chợ Hôm, bà cai ách bia chai ở bờ
hào trên Sơn Tây là vậy.
Có một trận tan hoang hơn. Dạo ấy, trên Yên Thế ở cái chợ
chân đồi mà Ngô Tất Tố đã miêu tả trong bút ký Phiên chợ trung du ở Tạp chí Cứu
Quốc có một mụ hàng xén tản cư. Chẳng hiểu ông anh câu được bà mèo già ấy từ
bao giờ. Chỉ biết rồi mãi cái kim trong bọc cũng phải lòi ra, có người mách, một
hôm bà chị đã kéo cả đại đội binh mã con cái ra đánh ghen một trận. Mụ hàng xén
bán sới đi nơi khác. ít lâu sau, tôi hỏi: Bóng chim tăm cá ra sao, có còn gặp lại
nàng Kiều không? Nguyên Hồng nhăn nhó trả lời: Mất mẹ nó cái màn Chẳng biết người
ta dọn chạy đòn với cái màn nhà văn gửi bán hay cái màn của ông ấy đem ra mắc để
đêm nằm cho đỡ muỗi!
Vẫn chưa hết những chuyện tầm phơ. Có một quán bia hơi gần
ngã sáu mà trong một thư của Nguyễn Tuân viết cho tôi lên Lai Châu có nói đến
quán bia bà cai ách vẫn còn bữa đực bữa cái - cái tên bà cai ách cũng vẫn là
chúng tôi đặt và gán cho ông cai ách Nguyên Hồng. Bà cai ách và lại một câu
chuyện gần hương gió bay đâu cũng thây kệ. Nguyên Hồng để ý cái bà nạ dòng phì
nộn ấy. Mỗi lần có xe bia về, lão xích lô co chân đạp hai thùng bia lăn xuống
hè, bác gà trống cứng cựa Nguyên Hồng tỏ tình bằng cách lau chau ra ghé vai vác
thùng bia vào, kê lên bệ cẩn thận. Hôm khác, lão xích lô xe bia về, lót gạch đạp
xe lên hè vào sát cửa. Làm cho tình địch Nguyên Hồng mất một dịp ra tay giúp đỡ
và gần gũi. Nhưng mỗi lần bia về, Sơn Tinh xích lô và Thuỷ Tinh Nguyên Hồng khi
nào cũng được bà lão người đẹp rót cho mỗi người hai vại bia tươi đầu tiên và
chúng tôi cùng được chan hoà hưởng lây.
Một hôm, tôi mách Nguyên Hồng: Ông ạ, quán bà cai ách sắp bị
đóng cửa? - Sao? Sao? - Bà ấy bảo chúng nó đổ cho bà tằng tịu với lão xích lô,
tai tiếng ầm ĩ, nhà máy không cấp sổ đại lý cho nữa!. Nguyên Hồng cười hê hê. ối
mẹ ơi nhà máy bia ô Mền bây giờ kiêm cả công tác bảo vệ đạo đức bà phó Đoan.
ở khách sạn Bắc Kinh, sớm hôm sau, Nguyễn Văn Mãi và tôi đi
Vacsava. Chia tay, tôi hỏi Nguyễn Tuân:
- Hôm nào ông xuống nghỉ dưới bãi biển Yanta?
- Không, mình ở đây...
- Đi nghỉ cơ mà?
- Đây cũng là đến nơi nghỉ rồi? Cuối mùa thu, sắp có tuyết,
xem tuyết Matxcơva cũng hay.
Tôi chịu. Đó lại là sáng kiến tự gây hứng thú, ai mà cãi được.
Khi mùa đông tới, người Matxcơva xuống Hắc Hải tránh cái băng giá phương bắc.
Nguyễn Tuân thì muốn ở lại nơi ban đêm ba mươi độ âm để xem tuyết? Mà Nguyễn
Tuân mới chỉ qua cảng Ôđetxa, chưa đến thành phố thoáng đãng cửa biển và lịch sử
Yanta trong bán đảo Grưm lần nào. Cái kiểu nói của một người cả đời thèm đi bây
giờ cũng đâm ra ngại đi rồi.
Đến hôm tôi ở Vacsava trở lại, cả Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng
đều đã về Hà Nội. Anh bạn Marik kể rằng ông Nguyên Hồng xuống Khackôp đi xem
bóng đá thấy những pha đẹp mắt, ông đứng trên khán đài huara huara loạn xạ rồi
ôm đại các bà đầm hai bên, nhẩy lên. Cô phiên dịch Galina khiếp quá phải điện về
hỏi Matxcơva, cô Ina - lại một người đàn bà khác, cũng sợ quá, lập tức bảo đưa
ông ấy về ngay. Thế là ở Matxcơva hai ông cùng nhau ngày ngày ngồi uống rượu
trông ra cửa sổ xem tuyết rơi. Hôm Nguyên Hồng về, Nguyễn Tuân cũng về theo -
trước cả ngày hết hạn nghỉ.
Tôi đến chơi nhà, Nguyễn Tuân đứng dậy mở cánh cửa chớp, rồi
lấy ra một chai cô nhắc năm sao trong đám hành lý mới về. Một chút nắng chiều
đông nhợt nhạt còn rớt lại ngoài cửa sổ, đung đưa như miếng lụa hoa cau bị xô
rách. Không ai nói một câu về mấy ngày Matxcơva vừa qua mà bỗng chốc đâu có thể
quên ngay, dẫu cho không có gì vui buồn đến gợi nhớ. Một lúc lâu, Nguyễn Tuân mới
rầu rầu nói: Chẳng ở đâu bằng ở nhà, cái khách sạn nhà tớ, cậu ạ. Không biết thế
có phải cái nản chí của người già bạc đến hết cả lông mới nghĩ quẩn thế chăng.
Lại còn không biết sao nữa! Chẳng qua đây chỉ là lão giang hồ
tự hỏi, tự hận. Cái đau của một người cả đời ham đi mà rồi dần dần không đi đâu
cứ quanh quẩn, bức bối, bực dọc, dằn vặt. Trải mãi gió bụi, mái tóc càng thưa
thêm. Tâm sự và tóc. (Cao Bá Quát). Hai cẳng chân ngày càng giở chứng, làm mình
làm mẩy. Ngày ở rừng Việt Bắc, tôi đã thấy cái người hay nay đây mai đó ấy chịu
khó chăm lo cho hai chiếc bàn đạp chân cẳng mình thế nào. Chân Nguyễn Tuân đã
lôi thôi từ những khi ấy. Cái đận ở rừng Thường Yên âm u ẩm ướt, vào tiết đổi
mùa, nhiều khi phải nằm bệnh suốt phiên chợ. Cả buổi cháu Trần Mai Thiên lụi hụi
ngồi xổm trên cái giát tre bóp chân cho bác Nguyễn. Đi đâu, lúc nào Nguyễn cũng
trữ miếng cao hổ bọc giấy bản trong ba lô. Cả ngày lội suối, cảm thấy trục trặc,
đêm lại ngậm tươi một miếng cao. Không biết chừng, người ấy đã nuốt xương cốt đến
cả mấy chục chú hổ Lai Châu, hổ Xiêm, hổ Lào?
Sức khoẻ dần dà xuống dốc tự nhiên, như nhiệt độ hàng ngày và
dự báo mưa nắng. Cái xe đạp mất cắp ở cạnh cửa khách sạn Thống Nhất thế rồi bỏ
đi xe đạp. Vài đoạn đường bách bộ với chiếc gậy song Sa pa, hay là một cuốc
xích lô. Nhưng cuộc chia tay của Nguyễn với cái máy chữ Baby thì thương và nhiều
nghĩ ngợi hơn.
Cái năm mới trở về Hà Nội, Nguyễn Tuân có dịp cùng đoàn đại
biểu hoà bình Việt Nam đi Hen sanh ky dự đại hội hoà bình thế giới. Hoà thượng,
linh mục, nhân sĩ, trí thức, đại biểu công nhân, nông dân, chiến sĩ quân đội,
thanh niên, phụ nữ... Chẳng thích thú gì đoàn, chưa chắc đã nhìn mặt những người
cùng đi, nhưng có cơ hội được tới nước Phần Lan trên mỏm bắc bán cầu. Rồi lại một
chuyến đi xa nào đấy, Nguyễn Tuân sắm cái máy Baby xách tay dấu quốc ngữ. Hay
là mua máy ở chợ giời tôi không biết. Bởi vì mỗi khi đổi vạc thì bộ mặt thời cuộc
thành phố này lại phơi bày đủ thứ ngoài chợ giời. Những đĩa hát của Mộng Hoàn,
của Chu Thị Năm năm xưa cũng là những chứng sống của thời thế mà ông đã nhặt ở
chợ giời. Tôi thực không biết gốc gác cái máy chữ Baby ấy - vỏ rách một góc vải,
nhưng những con chữ còn mới cạnh sắc.
Tháng ngày qua, con người ở vào tuổi triền núi bên này, cứ sớm
tối như chiêm bao. Lại nữa, cuộc sống còm cõi, ngòi bút và đồng lương không cho
người viết kiếm đủ miếng ăn, cả đến mặt mũi và con mắt cũng mòn mỏi dần. Hữu
thân hữu khổ phàn nàn cùng ai, khác nào người sơn tràng cả đời thừng chão, rìu
búa đi kiếm củi rừng đến khi về già leo dốc thở ra cả hai tai mà vẫn ao ước và
tưởng tượng trèo lên lưng cây, mạng sườn quấn chão, lưỡi rìu khoác vai. Nhưng
chẳng còn một hột sức ôm nổi cái gốc cây. Thì lại thở dài nhìn cái đứa mạnh
chân khoẻ tay hơn.
Môi người viết có một thói quen khác nhau.
Nguyễn Tuân thì cả đời chữ nghĩa và xung quanh người bái phục,
người điếu đóm, người bắt chước cái ăn, cái mặc và hóng chuyện để đồn thổi. Tiểu
thuyết Bốc đồng của Đỗ Đức Thu ngày trước đã vẽ ra được những nho lại làng văn
và những khỉ bắt chước người như ở trên. Chẳng cứ chỉ có xưa kia, mà về sau này
cũng tương tự thế. Người ta châu tuần và chầu rìa quanh Nguyễn Tuân, đợi được
sai bảo, được đi chơi với, uống với. Năm cũ ông Văn - tên nhân vật trong tiểu
thuyết Bốc đồng mà bạn đọc có người đoán là Mạnh Phú Tư, ông bán cả ruộng hương
hoả, ném vào các cuộc chơi, lăn lóc đến phát bệnh sốt rét vì liên miên thức trắng
đêm ở nhà hát. Thế mà các cụ vẫn mạnh khoẻ, lại gật gù: Các cụ cho là được! Ông
lang Hà Văn Thực phố hàng Cót đánh đu với tinh cũng mở nhà xuất bản Lượm lúa
vàng rồi nghiện bẹp hai tai vỡ nợ tan cả hiệu thuốc bắc gia truyền. Ông Lê Trọng
Quỹ giọng trầm não ruột, không biết có phải vì nhờ hơi thuốc phiện làm cho tiếng
khàn khàn mà ngâm thơ buồn đến thế, rồi ốm phải phát mại cả cái cửa hàng sắt vụn.
Ông Lê Đức tập tọng viết văn về nhà cầm đoạn mại ruộng đem nắm tiền ra, theo
gót đàn anh, chỉ học được mỗi cái trò giắt trong cạp quần lá tọa một cái tẩu
thuốc, chiếc ấm mạnh thần với cái chén hạt mít để theo đòi trà đạo. Có người
cũng mặc áo gấm trần, chít khăn lượt đi giày Gia Định, tay cầm quạt thước - như
Nguyễn. Cả những năm sau này Nguyễn đã cao niên mà cũng chẳng thiếu ông làm
dáng theo. Có ông hoạ sĩ chải ngược tóc như Nguyễn, đến lúc ông Nguyễn xoã mớ
tóc bạc phơ sau gáy, cũng lại lắm ông xoã tóc, như Nguyễn. Ông Nguyễn Tuân rởm ấy
đi nước ngoài, lên máy bay, mặc sơ mi ngắn tay kẻ ca rô, tay chống ba toong
nghênh ngáo nhìn xem người ta có nhìn mình như nhìn ông Nguyễn không.
Cũng là cảnh thảm với nhau mà thôi. Thỉnh thoảng, chúng tôi
cũng chuyện về những người bắt chước dở hơi ấy. Hay gọi một cách kính trọng, những
người rồ chữ, chữ thật và chữ giả. Ông anh con nhà báo trong quê ra, hỏi tôi:
Này chú, cái lão Xuân Diệu thế nào ấy nhỉ?. Chả là anh tôi làm chủ nhiệm hợp
tác xã mà hôm trước nhà thơ Xuân Diệu về huyện nói chuyện thơ, các chủ nhiệm được
lên dự. Nhà thơ nói về Kiều. Ai cũng xuýt xoa ông nói hay quá. Nhưng người ta
buồn cười vì thấy ông nhà thơ cứ chốc chốc lại đổi chỗ lọ hoa, bê cái đèn nơi
này sang nơi kia vẫn chỉ ở trên bàn. Thỉnh thoảng lại quát người nghe: Vỗ tay
đi chứ. Tôi lao động thì đồng bào phải vỗ tay khuyến khích tôi lao động. Vỗ tay
nào? Tôi nói: Anh Xuân Diệu nói chuyện giỏi lắm, thế là nói theo mốt Tây đấy,
bác ạ. Anh tôi cười: Cũng là rồ chữ, rồ chữ, chú ạ. ừ, rồ chữ cũng có nghĩa đẹp
là hay chữ, hay chữ quá hoá rồ. Có ông già nửa đêm thức dậy, ngồi nói từng
tràng tiếng Tây một mình. Có ông dạy đàn xưa kia giàu có rồi cái trường nhạc của
ông phải đưa vào quốc doanh, bô Duyệt mới chơi trống bỏi lấy một nàng nửa chừng
xuân. Bây giờ thì ông trắng tay, nhưng dẫu cơm trộn mì, ông cũng dọn lên bàn, cầm
thìa dĩa thái, cắt rau muống luộc, và húp bát súp nước rau, cay đắng gậm nhấm sự
hoài cổ. Một nhà văn nọ sắm mấy bộ thìa dĩa cho cả nhà. Ông ấy mơ màng, ngỡ
kháng chiến thành công rồi thì đốt được giai đoạn ăn cơm đổi đầu đũa và lấy đũa
chùi ngang mép thay khăn mặt, bây giờ hứng phấn sắp bước sang thời nếp sống ngồi
bàn thìa dĩa cầm như Tây thì phải sắm đồ Tây.
- Thì cười ngay tao đây chứ còn phải cười thằng nào. Tao qua
Bắc Kinh, gặp Tào Ngu. Tào Ngu vỗ lưng tao, - nói tiếng Pháp: Các toa có tự do,
thật sung sướng. Moa thèm đi Hà Nội. Chuyến ấy Nguyễn Tuân ở khách sạn với vợ
chồng Vercors đương thăm Trung Quốc. Đã ngỡ rồi ra quảng cáo những cảnh tưng bừng,
sách của ta bày bán bát ngát trong nước ngoài nước. Hàng năm xách vali đi du lịch
bằng tiền túi. Phải có thư ký riêng chứ - thuê một cô hay là luyện cho con gái
mình làm thư ký. Nhưng trước mắt ngay lúc ấy thì vẫn túi lép kẹp, đến Bắc Kinh
thăm chợ Đông An, hai tay đút túi, đứng chỉ xem hàng và cố đi nhìn cái hiệu Thôi
Tụ Đức thịt quay Bắc Kinh tiếng tăm lừng lẫy thế giới cho biết mặt, chứ làm sao
bước chân vào được. Mà mỗi khi ở sân bay Gia Lâm về qua cầu Long Biên, ra ngã
sáu dốc hàng Kèn làm cuộc tẩy trần bát cháo gà lão Chữ cũng phải nhẩm xem trong
túi có bao nhiêu. Mới nhớ ra cái vé máy bay, cái tiền ăn và tiền tiêu vặt hàng
ngày là của người ta cho, chẳng phải đồng nào của nước mình, của mình. Có ra gì
mà vênh? Dần dần đến bây giờ, thế này đây, cái thằng nhà văn!
Nói thế chứ, đồng tiền phân bạc, Nguyễn Tuân áo rách cũng vẫn
đượm màu phong lưu, tiền thì cứ tiêu và chỉ tính thôi chứ không đếm. Nguyễn
Tuân, một người ý tứ, trân trọng, thận trọng, khéo thu xếp. Giựt nóng tiền của
ai để ra bà hàng hoa quen ở ngã tư Tràng Tiền mua bốn bông hồng vàng lòng trứng
đưa đến bữa ăn sinh nhật nhà bà nhạc sĩ nọ. Chỗ này dọn dẹp sang chỗ kia, làm
cho những người mình nhờ cậy, những người mình biếu tặng cứ tự nhiên nghĩ mà phải
bằng lòng phải cảm kích. Tài nghệ lắm mới sáng tạo, mới tính ra được những khu
xử tế nhị đến thế.
Nguyễn Tuân bảo:
- Lại nói nốt chuyện hôm nọ.
- Chuyện gì?
- Chuyện ta mộng thành nhà văn cỡ quốc tế ấy mà.
Nguyễn Tuân kéo trong gầm giá sách ra cái hộp nhựa giả da nâu
đã sờn góc. Chiếc máy chữ Baby xách tay mọi khi tôi vẫn trông thấy đặt dựng hộp
máy trên gờ thềm gạch giữa buồng.
- Hôm nọ đã nói đấy, tớ cũng tô hồng và ảo tưởng đáng chửi chẳng
khác cái thằng sắm thìa dĩa để sắp sửa vứt đũa, chỉ chén cơm tây. Chiếc máy chữ
này, cứ nhìn đến mà sượng cả mặt. Máy chữ để cô thư ký tưởng tượng đánh máy bản
thảo hão huyền. Ông xách nó đi cho tôi. Tôi không gán nợ ông đâu nhé. Dưng mà
ông mang đi đâu thì mang. Cho khuất mắt tôi, không có lúc tôi phải đem ra đập
nó mất. Mang đi, mang đi giúp tôi. Đả tự khí! Đả tự khí? Thời các cụ ta gọi máy
chữ là cái đả tự khí. Bớ tổng binh Tô Hoài, nhà ngươi hãy mau mau đem trôi sông
cái đả tự khí Baby đi cho trẫm. Ha ha? Trẫm ngứa mắt lắm rồi.
Mặt Nguyễn Tuân đỏ găng. Vua đương ra vai đập cái nậm rượu gỗ,
cả rạp cười ngoặt nghẽo, nhưng người đóng vai thì bụng lép và vợ ốm nằm nhà.
Tôi không muốn điều mai mỉa này làm rầu lòng thêm Nguyễn Tuân. Tôi lây cái sợ.
Tôi lặng lẽ xách cái máy chữ Baby chặt ních mơ ước một thời, tôi bước giật lùi
ra cửa. Không biết còn có những ai đem đi giùm anh đôi giày đẹp, những bộ quần
áo nhã nhặn mùa thu, mùa đông, mấy chiếc bút máy Sapphơ cho nó tiêu tan xoá sạch
giấu mộng kê vàng nhà văn thắt cà vạt đỏ đi du lịch năm châu - như cái câu ghen
tức vu vơ của cậu Hoàng Huế cầm bút hồi 1956 đã viết trên tập san Đất mới mỉa
Nguyễn Tuân như thế. Cái máy chữ ấy tôi không biết dùng. Dẫu cho bây giờ người
cầm bút trên thế giới ít người viết tay, những nhà sáng tác ở Sinaia, ở Yanta, ở
Pitsunda, đêm máy chữ mưa rào rào. Nhà văn Colombia, Gabrien Gaccia Mackêt, năm
1989, đã viết cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông bằng máy chữ điện tử, người nói
vào máy, chữ tức khắc hiện lên. Mackêt trả lời một nhà báo phỏng vấn: nếu chiếc
máy thần diệu này xuất hiện sớm, chắc chắn số tác phẩm của tôi còn nhiều gấp mấy
lần. Mackêt năm trước đã tới Hà Nội. Tất nhiên, ông ngao du bằng tiền túi của
ông. Ông đi chơi với vợ và con trai, vào Sài Gòn qua đường Băng Cốc rồi ra Hà Nội.
Nguyễn Văn Bổng và tôi đã đến đánh chén với gia đình Mackêt trên gác nhà khách
chính phủ gần hồ Gươm. Hai con trai Mackêt, một đứa học ở Paris, một đứa ở Nữu
ước. Tôi đưa cậu bé học ở Paris đến nơi ở đoàn ca múa Hà Nội phố Hàng Quạt mua
cái sáo trúc. Đêm xem biểu diễn, cậu ta mê cây sáo Việt Nam. Makêt nói ông có
thể biếu ta một tàu chở giấy để in tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Chỉ có một yêu
cầu: không được cắt đoạn nào. Liên Xô đã xuất bản Trăm nam cô đơn, tự ý bỏ một
số trang. Mackêt không thèm đến Matxcơva nhận bản quyền, mặc dầu nhà xuất bản
đã mời tác giả nhiều lần.
Những chuyện trời đất huy hoàng đâu đâu của người ta, còn
chúng tôi vẫn kỳ thu, cặm cụi với cái bút máy, bút bi, bút chì. Nguyễn Tuân
dùng bút dạ. Đã lâu, cũng chỉ thấy viết những đầu đề bài to thô lố lên đầu trang
giấy rỗng ruột cặp vào tấm bảng nghiêng như cái giá vẽ - thỉnh thoảng lại thay
cái đầu đề mới, không có được hàng chữ nào ở dưới.
Tôi bán cái Baby cho ông Quí đánh máy ở cơ quan, được hai
trăm - đồng tiền thật là phấp phỏng khi bom đạn đương trút xuống thành phố.
Cũng không biết đắt hay rẻ, chỉ thấy ông lão công nhân đả tự khí ấy cũng thờ ơ,
ông bảo chẳng cần cái máy nhỏ này, tôi bán thì ông mua vậy. Năm ấy, không còn
quán Tiểu Lạc viên. Ông cháo gà giải phóng quân cũng bỏ cao lâu Tứ Kỳ ra bán
hàng vỉa hè, rồi chắc hàng họ ế ẩm, lại sang làm cho quốc doanh Mỹ Kinh, rồi biến
đi đâu mất. Bôđêga, Phú Gia, món ăn uống và gia vị loạc choạc. Chim quay chấm
nước mắm dấm và nhà hàng chỉ có rượu chanh. Chả cá Sơn Hải đóng cửa đã lâu rồi,
Lã Vọng cũng nghỉ hết. Hàng ăn Nguyên Sinh của nhà mậu bán chả cá theo xuất mỗi
xuất kèm một chiếc bánh đa, một đĩa bún rối. Có miếng chả nhằn được cả xương. ế
chỏng gọng không có khách. Dưới ngã sáu cũng không còn ai - lão 81 đã về âm phủ
làm bồi cho khâm sứ Grapphơi, ông cháo gà Chữ đau lưng cũng ra tha ma đã lâu.
Các quán ăn Tàu chỉ còn lại lão Sáng nhị mũi. Ông Sáng không phải nhà bàn, nhà
bếp, không nghề gì, nhưng được mẽ người mỡ màng. Cứ đeo tạp dề lướn phướn từ bếp
ra chỗ để xe đạp, rồi lại quay vào, nói ề à mấy câu nhị mũi, giọng nhà bàn nhà
bếp Quảng Đông hô món đối đáp như hát. Thế là khách có cảm tưởng vào cao lâu
Tàu.
Sáng nhị mũi mở quán riêng, vẫn quanh quẩn ở Hàng Giầy. Nhưng
phố xá tàn tạ, đường đá lổn nhổn, phơi ra những cái ngõ rác rưởi, nhà đóng cửa
im ỉm. Quán hàng như ngọn đèn leo lét. Nhà mậu bán phân phối từng thanh củi và
mỗi chục lá dong gói bánh chưng Tết. Ba mươi Tết, quầy chợ Hôm bán chân giò còn
nguyên cả lông.
Nguyễn Tuân hỏi tôi:
- Mày làm thịt được cái Baby rồi à?
Thì ra ông Quí đánh máy đã khoe với Nguyễn Tuân ông mới mua
cái máy chữ của tôi. Tôi cười, không đáp. Chắc Nguyễn cũng chẳng cần tôi trả lời
ăn thịt cái máy chữ, chúng tôi đến quán Sáng nhị mũi, hảo, hảo à...
Những chuyến đi vất vả, con sư tử già đã rụng cả răng rồi. Lần
ấy ở Sài Gòn ra, Nguyễn Tuân xuống ga Nội Bài, bên nách chống nạng. Bệnh tê thấp
kinh niên đã vật Nguyễn cả tháng ngay ở cái thành phố cao ráo mà xưa kia cũng
như bây giờ, những người phong lưu ở miền Bắc ưa thay đổi nơi ở ít lâu thường
vào đấy để tránh bệnh hen, bệnh tê thấp hay hành hạ người ta vào mùa đông ẩm ướt.
Sở thương binh Sài Gòn đã biếu nhà văn chiếc nạng đỡ bên chân đau. Về Hà Nội rồi
còn phải nằm bệnh viện suốt mấy tháng.
Hồi 1954 mới trở lại thành phố, nhà Nguyễn Tuân ngụ tạm trên
đường Hàng Lọng, ít lâu rồi thuê được hai buồng trên gác hai cạnh bệnh viện Đặng
Vũ Lạc cũ. Cứ ở đấy tới bây giờ, trên ba mươi năm đã qua. Vùng ấy quanh ga Hàng
Cỏ, cuối thế kỷ trước còn là bãi Quần Ngựa giữa cánh ruộng nước. Rồi những nhà
có của cất dần lên cả khu phố cho thuê. Chủ hiệu vàng Chấn Hưng Nhà Đỏ Hàng Bạc
có nhà cả ngõ, đặt tên là ngõ Tân Hưng. Cái dinh thự đồ sộ mà nhà Nguyễn Tuân
thuê hai buồng ở sâu có đường dẫn qua cổng sắt, ngày xưa, chắc cũng là lối vào
ra của xe song mã, xe nhà, xe ô-tô. Toà nhà ấy, các chủ thừa kế chuyển đến điền
chủ Phỏng ở Thái Bình thì đem cho thuê từng buồng. Mấy năm đầu, bà Hoàng Yến vợ
Hoàng Cầm còn đến thu tiền nhà hàng tháng. Rồi sở nhà đất quản lý, nhà đông dần
thành một cái xóm nhỏ trong một số nhà chật chội, bưng bít, ngổn ngang.
Hai bên tường bị cơi lấn, chỉ còn một lối đi ngóc ngách. Cái
thang gỗ vươn lên tầng hai buồng bác Nguyễn màu lim đã lên nước tối sầm mắt. Tủ
sách, giá sách và dãy chai lọ rỗng nhãn các loại rượu nước ngoài - lại cả một
tranh áp phích Ba Lan vẽ chai rượu to tướng, có thằng người bơi trong chai. Bầy
cho vui mắt, tất cả mọi đồ lề hồ như tàn tật, buồn bã, mệt mỏi. Dạo ấy, điện
hay bị tắt tự dưng thình lình có khi mất điện chốc lát, có khi cả đêm, cả ngày.
Chiếc quạt nan, cái đèn hoa kỳ đặt trong vỏ hộp bia lon và cây nến đỏ cũng
thành những trang trí bên chiếc mâm đồng cỗ bát bằng vỏ đạn cao xạ xin được ở một
trận địa pháo ngoài Bờ Sông đã đem nhờ lò đồng Ngũ Xã đúc thành cái mâm. Cũng
chẳng có của nả nào quý. Nguyễn Tuân không mê đồ cổ. Các thứ bày biện chỉ để
cung đốn cho cái thích vật dụng và kỷ niệm. Trên tường, bên tờ áp phích Ba Lan
có áp phích của Cu Ba kỷ niệm sáu trăm năm Nguyễn Trãi. Những cái tranh, mẫu tin cắt ở báo ra thay đổi theo lịch hàng tuần bên đoá hoa hồng vàng lòng trứng
mua ở hàng hoa ngã tư Tràng Tiền. Có khi, một nhánh lan địa tim tím thơm ngát cắt
ở chậu cảnh nhà Kim Lân.
Và Tết đến, có một cành đào phai, dáng thế kỳ dị với quả phật thủ của Phạm Văn Khoa, có khi là quả bòng trong Canh tôi mua ở chợ Bưởi. Con chó đá và cái tượng gỗ canh cửa chúng sinh không biết lôi ở đình chùa hay nhà địa chủ nào về. Một ống đựng cả chục chiếc ba toong, gậy song, chiếc sơn then cán bạc, chiếc gậy lụi. Ngoài hàng hiên, lủng củng dãy vỏ chai sâm banh, bia hộp, vang dâu dưới bóng dây thiên lý leo trên lan can. Những thức bị đày ải ngoài trời ấy sắp đem tống xuống quang gánh bà đồng nát, mà bây giờ là ai chai lọ, giấy báo cũ ơ... Riêng chiếc gối sành trắng nhễ nhại to bằng hòn gạch vồ rỗng ruột vẫn đứng giữa trời nắng trời mưa bên song sắt. Cái gối trong tiệm thuốc phiện ở Chợ Cũ, đã khuân trong Sài Gòn ra. Rải rác, trên tường, trên giá sách, hòn cuội, hòn đá lăn lóc mà mỗi chuyến đi bể đi núi về tôi hay đem cho Nguyễn Tuân với những ký họa giấy và sơn dầu, sơn mài, ảnh và tượng đầu Nguyễn Tuân của Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Sĩ Ngọc, Thành Chương, Hoàng Kim Đáng.
Và Tết đến, có một cành đào phai, dáng thế kỳ dị với quả phật thủ của Phạm Văn Khoa, có khi là quả bòng trong Canh tôi mua ở chợ Bưởi. Con chó đá và cái tượng gỗ canh cửa chúng sinh không biết lôi ở đình chùa hay nhà địa chủ nào về. Một ống đựng cả chục chiếc ba toong, gậy song, chiếc sơn then cán bạc, chiếc gậy lụi. Ngoài hàng hiên, lủng củng dãy vỏ chai sâm banh, bia hộp, vang dâu dưới bóng dây thiên lý leo trên lan can. Những thức bị đày ải ngoài trời ấy sắp đem tống xuống quang gánh bà đồng nát, mà bây giờ là ai chai lọ, giấy báo cũ ơ... Riêng chiếc gối sành trắng nhễ nhại to bằng hòn gạch vồ rỗng ruột vẫn đứng giữa trời nắng trời mưa bên song sắt. Cái gối trong tiệm thuốc phiện ở Chợ Cũ, đã khuân trong Sài Gòn ra. Rải rác, trên tường, trên giá sách, hòn cuội, hòn đá lăn lóc mà mỗi chuyến đi bể đi núi về tôi hay đem cho Nguyễn Tuân với những ký họa giấy và sơn dầu, sơn mài, ảnh và tượng đầu Nguyễn Tuân của Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Sĩ Ngọc, Thành Chương, Hoàng Kim Đáng.
Nếu mất trộm, chỉ có một chiếc đài Liên Xô con con đặt đầu
giường may ra còn bán được tiền. Nhưng cái đài cũng đã lão lắm, mấy lần Nguyễn
Tuân nhờ tôi, nhưng bên Matxcơva cũng không còn đâu bán phụ tùng thay thế loại đài
cổ ấy. Chủ nhân hàng ngày mở đài linh tinh các mục. Cho phòng có tiếng người, đỡ
vắng. Chiếc mâm vuông gỗ sơn then Sĩ Ngọc mài, làm bàn nước, bàn ăn, bàn viết,
bàn khách, với mấy cái ghế mây thấp người Thái ngồi bếp ở Lai Châu, chẳng biết
nhặt nhạnh được ở những đâu.
Hôm ấy se se lạnh, từng làn gió nửa dải đồng, nửa heo may rạt
rào vào đầu tường. Có cái gió hiu hiu này, ở ngoài đồng chắc thơm đầy mùi lúa cốm
đương gặt. Những ngày vào thu ngắn ngủi đáng yêu. Nguyễn Tuân khép cửa. Cồn 90
trong lọ được đổ ra chiếc đĩa nhôm. Giữa lưỡi lửa xanh rờn, con mực Bắc Hải nâu
nhạt mỏng manh như cái lá đề ưỡn dần lên. Nguyễn Tuân cầm chiếc kẹp bông băng lật
con mực đã xém cạnh. Và tần ngần, như nói một mình: Cái gió này giục, người ta
bồn chồn lắm. Nhưng mà với mình ấy à? Bây giờ thì Sài Gòn cũng xa lắm rồi. Thất
tiểu muội Mộng Tuyết có thư ra bàn triết tự về nét mác đuôi chữ Nguyên ký vòng
lên gông cả chữ Nguyễn vào trong, Nguyễn ngồi tù trong cái gông ấy thì còn đi
đâu được. Nguyễn Tuân cười buồn, đến không muốn trả lời người xem bói triết tự
cho mình bởi vì thực thì cũng chẳng còn nghĩ đến bay nhảy. Đôi khi mới ra khỏi
phòng, chiếc gậy đưa bước chân thong thả trên quãng phố vắng, rồi nhức mỏi và
buồn tình vẫy một cái xế lô trở về.
ở nhà Nguyễn Văn Bổng, một bạn bộ đội mời chúng tôi vào Thủ Đức
xem phong lan, vườn của bạn ấy nhiều lan lạ và hiếm chỉ có trên núi cao vùng á
nhiệt đới. Nguyễn Văn Bổng, Kim Lân và tôi sốt sắng. Nguyễn Tuân gật gù: cho
mình củng cố cái chân đã rồi bảo tôi: Này ông hoả tốc hỏi Lai Châu cho tôi xem
thế nào. Trên Mường Tè còn hổ, may ra có của thật. Chứ cái cao Thái Lan, trông
nó vuông vắn mượt mà quá, nuốt cả lạng chẳng ăn thua. Không biết cao giả hay
mình đã nhàm thuốc quá. Rồi chuyến đi vào Sài Gòn xem phong lan á nhiệt đới
cũng chẳng bao giờ có.
Binh đoàn 559 tổ chức Nguyễn Văn Bổng và tôi đi dọc một chuyến
Trường Sơn. Một chiếc xe, một cán bộ đơn vị tháp tùng. Bắt vào đường Hồ Chí
Minh từ Đông Hà lên Khe Sanh, đến đoạn đường Cuba làm khi mở đầu chiến dịch, rồi
cả tháng ruổi qua A Sầu, A Lưới sang huyện Giàng bên Quảng Nam, dọc các tỉnh
Tây Nguyên, bám vết đường 13 cũ xuống Sài Gòn. Dọc đường, lắm hôm chúng tôi ước:
- Giá mà có Nguyễn đi chuyến này?
Nghĩ thế thôi, nhưng cả trước khi đi cũng không dám đến chào
ông anh. Có lẽ rồi Nguyễn Tuân cũng biết, bởi chúng tôi vắng mặt lâu. Nhưng ai
cũng ngại không dám đụng đến tâm trạng của một người thèm đi, mà không đi được
mà lại thấy người ta cứ đi. Có Nguyễn Tuân, lắm khi khốn khó vì những sáng kiến
dềnh dàng bất thường, nhưng mà chỉ trơ trọi hai thằng nhạt nhẽo thì bỗng dưng
thấy trống rỗng hàng ngày quá. Cái tài Nguyễn Tuân chọn chữ, chọn cảnh, chọn
chơi cũng như mỗi khi trong tẻ nhạt thông thường, Nguyễn Tuân bỗng thấy ra những
chi tiết đậm đà hẳn. Có lần, tôi lên vùng rừng quế ở Viễn Sơn trên Yên Bái, bên
kia sông Hồng. Khi trở ra qua Đại Phác và Đại Bục rồi lên Phố Ràng - những nơi
chúng tôi đã dự những trận đánh đồn trong chiến dịch Sông Thao 1949. Nếu Nguyễn
Tuân cùng đi, thế nào cũng dừng đại Mậu A tạt vào đền Đông Cuông để nhớ chặp tối
ấy, cái lần gặp Két trung đội trưởng trinh sát. Kìa cái đồi chúng tôi trú quân
với hai thằng Tây địch vận, giữa tiếng súng nổ ran bụi tre trên đầu và cái đồn
Đại Bục chặp tối cháy đỏ lòm Nguyễn Tuân đứng thúc trống ở quãng sân đồn phía
nào, cái lô cốt đã xảy ra trận đánh khốc liệt cuối cùng có còn dấu vết gì
không. Rồi ngược sông Chảy, có còn cái nhà ông chánh Khít dưới chân Phố Ràng.
Tôi thì tôi chỉ ngồi yên nhớ lại, giá mà Nguyễn Tuân cùng đi thế nào cũng đủng
đỉnh tìm xem và ngâm ngợi một cái gì. Giá mà...
Tôi chỉ ngồi nghỉ chân ở cửa hàng bách hoá trông vào đồi Đại
Bục. Trong lòng cũng xốn xang nhớ lại, nhưng không đủ kiên nhẫn và cố gắng tìm
tòi, lục lọi theo thói quen chịu khó như Nguyễn Tuân. Tôi thờ ơ nhìn lên dãy đồi
trọc trồng sắn và những ruộng nước bao quanh. Cũng định kể với hai cô người Tày
bán hàng rằng: Các cháu ơi! Ngày trước tôi đã trèo lên đồi kia, bộ đội ta ở bên
đồi này bắn sang cháy cái đồn đại Bục. Nhưng lại rụt rè. Bấy giờ cha mẹ chưa
sinh ra các cô thì các cô có thể cũng chẳng biết là thế nào. La cà hàng quán,
ngồi tán tưởng tượng những chuyến phương trời. Bây giờ thì con người ấy phải bước
ra ngoài mọi cuộc rồi. Nguyễn Tuân lặng lẽ giơ cốc: Thôi nhé, chúc cất cánh hạ
cánh bình yên. Có khi chẳng nói chẳng rằng, lầm lì uống một hớp rượu rồi lại ngửa
cổ bỏ vào miệng viên thuốc trợ tim. Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng, hai người đã
chăm sóc về bệnh tật của mình một cách hoang dại, tợn tạo như thế. Nguyên Hồng
không làm sổ khám bệnh ở bệnh viện. Ê ẩm xương cốt thì đấm lưng và chửi: Chúng
mày đồ ăn hại mới hay đi khám bệnh, chứ ông thì... Ông... Bây giờ, Nguyễn Tuân
thêm chứng thấp khớp kinh niên lôi thôi đến tim, phải khám định kỳ và uống thuốc
phòng. Nguyễn Tuân đã uống thuốc phòng khi nâng chén. Hẳn cho là thuốc trợ tim
vào cùng lúc nạp cồn có chất ấm áp thì cản được bệnh? Khi vui chén, Nguyễn Tuân
hay chửi yêu tôi: Mày đi lắm, mày đi thật còn tao chỉ được mang tiếng là đi
thôi. Vừa nói đùa xong lại trầm ngâm buồn, buồn nhiều. Một đời viết được tuyển
vào có hai quyển, nhìn sách mà chẳng nói nên lời. Cho sách tôi, cái câu đề cho
đúng như tôi muốn, nhưng cũng chẳng còn biết ý tứ thế nào. Anh không thích sách
xén sẵn, nhận bản xồm xoàm mà rọc lấy vậy. Đi đâu, đã không còn bay nhẩy được,
giờ đây thêm cái day dứt, cái bực bội của con người ngày ngày quanh quẩn mở
đóng cửa sổ.
Tôi được Nguyễn Tuân gửi cho một chai hảo hạng Giôn Uackơ, đằng
một lít, bọc giấy báo cẩn thận. Của hiếm này, hãn hữu mới kiếm được mà có thì
Nguyễn Tuân thường chỉ cho nhấp một hai chén. Cái ngon phải chia, còn phần người
khác, tôi biết thế và giữ ngữ thế, ít khi dám nài thêm. Tôi uống phí rượu, thường
hai ba chén sau cùng Nguyễn Tuân mới để cho tôi. Trong khi ấy, Nguyễn Tuân cầm
cái cốc một góc quốc lủi với lát chanh cả vỏ và miếng dá, một thứ cốc tay tự
pha. Nguyễn Tuân uống rượu nội hoá để cho khách và nhìn khách sài sang, có vẻ
thích thú hẳn hoi. Làm thế nào, chủ rượu nhường cho cái thơm tho ấy cơ mà. Ôi
chao, bần bách ngụm rượu đến phải tính đếm đong từng chén mắt trâu, nhưng vẫn một
cung cách riêng. Nguyễn Tuân uống rượu kiểu các cụ ta xưa. Mỗi bữa thanh cảnh
ba đôi chén, hiếm khi mềm môi và không nát. Rượu ngon mua có thổ, không rượu chợ,
không đụng đến các thứ lăng nhăng cái chanh, cái dâu, vang mơ, vang mận. Cả đến
sa kê Nhật vị ngọt, Mao Đài có hơi rượu khê cũng không ưa. Những chén khuya, với
miếng cơm nắm, muối vừng cũng là cái thú riêng.
Tôi hỏi:
- Ông anh phát tài phát lộc thế nào mà thưởng cho em cả cái
hũ chưa bóc tem thế này?
Nguyễn Tuân rót cho tôi một cốc rượu ở chai khác đương dùng dở.
Trang trọng, lịch sự, thong thả, lần này Nguyễn Tuân cũng uống rượu quý, mà
không ngồi ngắm người khác xơi rượu ngon của mình như mọi khi.
Nguyễn Tuân gật gù:
- ở Paris, người ta mời tôi sang chơi.
- Thằng Buđa dạy ở Pari 7 nhỉ?
- Người ta bảo sang giảng cho ít buổi. Không, thằng Buđa kiết
xác ở độc thân, có gì mà mời? Nhà Việt Nam của Việt kiều có nhã ý.
- ờ đi đi chứ ông!
Nguyễn Tuân thong thả lắc đầu.
- Không, không đi. Mình muốn sòng phẳng, đằng nào rõ đằng ấy.
Đi chơi hay đi làm việc. Người ta có nói riêng: làm việc chỉ là cái cớ mà mời
ông đi chơi là chính. Làm việc khác đi chơi chứ sao lại có cái cớ được.
- Thế thì thế nào?
- Trả lời không đi rồi..
- Bởi thế, có ngụm rượu uống. Đáng lẽ người ta đặt mua vé ở đại
lý hàng không Pháp chỗ góc đường Tràng Thi, thì tôi bảo đặt mua cho tôi ở cửa
hàng bách hoá quốc tế Giảng Võ. Và cái vé thành những cái của này. Nào ông, mời
ông...
Hơi men hôm ấy đưa chúng tôi vào bao nhiêu chuyện đường trường.
Không hiểu tại sao bay đường xa máy bay lại hay cất cánh hạ cánh đêm. Những
canh khuya, những mờ sáng, xuống Matxcơva, đến Batđa, Đamat, đến Bâyrut... Chín
giờ tối từ Tân Đê li ra sân bay Pa lam. Ô-tô đương chạy, một cái chai không của
thằng say nào choang vào thành xe, vỡ tan. ở ấn-độ, quốc lễ không uống rượu.
Tôi đã nghiệm, đâu mà cấm, người ta uống chui càng khá lắm. Mỗi buổi sáng, một
ông nhà buồng ria vểnh đến dọn dẹp. Tôi rót một cốc to vôtca. Ông ấn-độ ấy vén
ria làm hai hơi xong cả cốc rồi lấy đi túi quần áo giặt. Thế mà như không, bên
thắt lưng đeo chùm chìa khoá, mở đóng ý tứ, không lẫn cửa nào. Tôi kể với Nguyễn
Tuân trên trời Đà Nẵng có những lỗ hổng không khí, tôi đã bì hẫng xuống một lần
như tụt thang máy, chuyến đi Campuchia năm 1962.
Lời từ chối và câu cắt nghĩa không đi Paris của Nguyễn Tuân
không thể bao giờ đầy đủ. Cái tâm sự nát lòng người ta thì không một lời chữ
nào thổ lộ và giãi bày cho hết được. Hai cái chân đã rỗng cả ống của con người
vốn khoẻ đi ấy gây cái khó vô cùng cho sự đi, xoá mờ cả tấm tình sông hồ rồi.
Tháng bảy, tôi ra Cát Bà. Tôi vẫn có ao ước được đến vùng đảo
khác lạ này chỉ cách Hải Phòng có nửa buổi tàu ven biển mà chưa khi nào tôi được
đặt chân tới. Người bản địa bảo đi mùa thu ra Cát Bà sẽ được ngắm cá heo, hàng
trăm con cá heo đùa rỡn theo tàu.
Nắng gắt, thành phố oi nóng ngột ngạt. Tôi đến chào khoe với
Nguyễn Tuân một chuyến đi còm, nhưng thú vị. Cuối buổi sáng, xách xâu bánh giò,
khoanh giò bò mua ở quán quen bên kìa đường trước nhà. Cũng như ai và đã thành
lệ, phải đoản đình, trường đình một cái chơi chứ. Cụ bà bảo tôi ngồi đợi đấy,
có muốn uống thì cứ lấy mà uống, cụ ông đi bách bộ quanh đây, chắc cũng sắp về.
Một lát, nghe ba toong chọc chọc lên thang gác. Cái gậy song Sa pa vàng cánh
gián, tiếng gậy chống xuống mặt gỗ nghe lưa thưa rời rạc. Đoán được bước chân
khó nhọc, nặng nề. Nguyễn Tuân bước vào, mặt bơ phờ tía tím, không phải mặt rượu
đỏ hồng. Nhưng cất gậy vào ống, ngăn nắp vẫn đâu vào đấy. Nguyễn Tuân ngồi xuống
tấm phản lim.
- Mới đến à? Có việc gì không?
Tinh ý thì biết là câu hỏi của người ngại khách. Muốn đuổi bời
đương mệt, đương khó chịu. Còn việc gì nữa. Đến đây chỉ có việc chơi chứ việc
gì. Tôi ngần ngừ rồi nói:
- Không, nhung nhăng thôi.
Nguyễn Tuân ngả lưng, hai tay buông xuống mặt phản.
- Lấy mà uống. Chai nút đỏ ở phía ngoài, cái ấy đậm lắm. Mình
phải nghỉ một lát đã.
Rồi Nguyễn Tuân khép mắt. Ngẩn ngơ nhìn quanh rồi tôi lặng lẽ
ra về, khi Nguyễn Tuân đương nằm thiêm thiếp. Tôi không dám nói tôi sắp đi Cát
Bà.
Cuối phố Cát Bà cũ - bây giờ còn trơ những tảng đá, đám cọc
nhà sàn lửng, bên bờ trông ra vịnh. Nhà trọ Chùa Đông trước kia là cái sòng bạc
cạnh chùa Đông, nền chùa mờ mờ cỏ còn hình lại chỗ vết đường băng máy bay lên
thẳng của Pháp. Xung quanh đìu hiu như chơi vơi tới chân trời nào. Chặp tối, điện
chạy máy nổ, đến chín giờ thì thay bằng đèn hoa kỳ. Lúc ấy chỉ còn thấp thoáng
sóng nước trong vụng ven đường đá và ánh cây đèn đảo Long Châu ngoài khơi.
Chiều thứ bảy, như có đoàn thám hiểm ập đến nơi hoang vu. Đấy
là những chuyên gia Thụy Điển làm việc ở xưởng tàu Phà Rừng ngồi ca nô đến, có
mấy cô gái điếm đi theo. Một cô khoe với tôi ở ngoài hành lang là cô đã đọc Vợ
chồng A Phủ! Các người nước ngoài chơi trên sân gác sáng tràng, quẳng vỏ chai
Lúa Mới xuống vịnh, hò hát lảm nhảm suốt đêm. Hôm sau, một đám trai gái từ Hà Nội
xuống đi tàu ra đảo. Như những người digan lang thang. Bạt và màn cuốn trong ba
lô, vai đeo những can nhựa đựng rượu. Hỏi ra đều là cán bộ kỹ thuật và văn
phòng đi chơi ngày nghỉ, sớm thứ hai lại có mặt ở các sở làm. Các bạn trẻ đều
đã học ở nước ngoài về. Cuộc nhảy không có nhạc, nền xi măng lạo xạo ngay trước
phòng tôi. Các bạn mời tôi ra chơi rồi xúm lại kéo tôi nhảy. Không ánh trăng,
không đèn, không tiếng nhạc, chỉ có tiếng quay mình huỳnh huỵch, chân lào xào
như người đi đêm trên bãi cát. Tôi đành kiếu. Nhớ một đêm nhảy múa man dại thế
này trong tiếng trống rầm rộ trên bờ biển thành phố Đaet Sa lam xế dưới Đông
Phi. Chốc nữa, các bạn ấy trở về dãy nhà ngang đằng kia, mười mấy người mà chỉ
thuê có một buồng. Tôi ngồi lại đây trông vào mịt mùng nhìn thấy xa lắc xa lơ một
thời đã qua. Âu cũng là cái nhộn nhạo thuở nào được khuấy động chốc lát. Tôi
cũng sợ rồi, tôi ngôi im.
*** Buổi sáng có người đến bảo Đào Vũ và tôi:
- Đêm qua, nghe đài báo ông Nguyễn Tuân mất rồi.
Tôi nghĩ như vẫn buổi tôi ngồi uống một mình ở nhà ông trước
hôm đi Cát Bà, như Nguyễn Tuân vẫn nằm yên từ buổi sáng hôm ấy. Nguyễn Tuân!
Nguyễn Tuân ôi. Ô hô? Ô hô!
Bãi tắm Cát Cò, hai bên vách đá thẫm đen, không bóng người.
Con kỳ đà đủng đỉnh bò ra giữa đường hầm, bạnh mang, dưới chân nhìn quanh rồi lại
nép vào mép tảng đá. Bỗng lại nhớ rừng già Thượng Yên. Những con kỳ đà mốc thếch
như gốc cây ra rình chộp gà tổ gà của Aki. Người bạn Nhật ăn chuối tây trộn
lòng trứng. Chúng tôi vào quán ông 81 ngã sáu dốc hàng Kèn... Vết chân người lẫn
chân con kỳ đà in vân vân trên cát.
Tô Hoài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét