Đốt lò hương cũ 2
HÀ NỘI VĂN NGHỆ
NHỮNG NGÀY BÁO HIỆU LOẠN LY
Chúng tôi ra đi mang theo cả linh hồn Hà Nội, từ mùa thu
1954. Và Hà Nội trong tôi, đã hơn 10 năm cách biệt, vẫn còn giữ nguyên bóng
dáng một tình nhân của tuổi 20. Tại sao lại tuổi 20? Nếu kể từ ngày Hà Nội bắt
đầu có tên Hà Nội (hình như vào năm 1831) thi ít nhất Hà Nội cũng đã hơn 100 tuổi.
Nếu lại kể từ khi “ở đây nhà Lý đóng đô…” nghĩa là từ khi cái tên Đại La Thành
được cải hiệu là Thăng Long, để rồi từ đó Thăng Long được coi là “miền linh địa
kết tụ anh hoa tú khí của non sông, đất cố đô của tiên vương có đủ tay Long,
tay Hổ…”, thì Hà Nội văn vật, Hà Nội lịch sử của chúng ta đã có cả gần một ngàn
năm tuổi. Đối với tất cả những người dân Hà Nội hiện còn sống dưới ánh sáng mặt
trời, dĩ nhiên! Hà Nội là một cố nhân chẳng còn thơ trẻ, và gương mặt Hà Nội một
phần lớn thuộc về dĩ vãng vớí rất nhiều di tích lịch sử, tôi vẫn cứ thấy Hà Nội
là của cái tuổi 20, và đáng thương, đáng nhớ, đáng yêu nhất vẫn là khuôn mặt Hà
Nội 20 tuổi.
Có lẽ tại vì tuổi trẻ của chúng tôi đã tham dự vào tất cả những
biến cố lịch sử đáng kể nhất của đầu thế kỷ 20. Chúng tôi đã sinh trưởng, lớn
lên, và khởi sự “nhập cuộc”- khởi sự bước chân vào cái thế giới thần thoại của
Yêu Đương, Mộng Ảo, và Văn nghệ - từ trong lòng một Hà Nội thanh bình, một Hà Nội
đang hồi cực thịnh của trào lưu Lãng mạn tiền chiến (1935-1940). Để rồi, tuổi
thanh xuân của chúng tôi đang độ nở hoa bồng bột nhất, liền bị giao động đến tột
cùng bởi những sóng gió cuồng loạn khởi đầu cho Cơn Mê Hoảng Dài của Thời đại
Chiến Tranh Nguyên Tử. Đã ba lần tuổi trẻ của chúng tôi phải xa lìa Hà Nội: một
lần sau đảo chính Nhật (1945), khi mà phi cơ Đồng Minh hàng ngày đe dọa oanh tạc
các căn cứ quân sự của binh đội Phù Tang. Cả Hà Nội hàng ngày đã phải rời bỏ 36
phố phường quen thuộc để tạm tản cư về những vùng quê ngoài 5 cửa ô Hà Nội tạm
tản cư từ sáng sớm đến chiều tối, để rồi khi thành phố lên đèn tất cả lại từ 5
cửa ô kéo về, tựa những con thiếu thân lao mình vào cái ánh sáng phù hoa của một
kinh thành vẫn còn rạt rào sinh khí, chỉ cốt sống được tràn đầy, dù chỉ một
đêm.
°
Ba lần xa lìa Hà Nội, tuổi trẻ của chúng tôi đã khóc cười, hờn
giận, đau xót, căm hờn, thù hận, oán thương cùng với một Hà Nội ba lần biến diện:
9-3-1945, Đảo Chính Nhật là lần thứ nhất. Lần thứ nhì: Chiến tranh toàn quốc
(1946, tản cư, kháng chiến rồi lại hồi cư). Và lần thứ ba: mùa thu 1954 (Hiệp ước
Genève, chia đôi đất nước, di cư vào Nam!). Ba cuộc chia ly, giữa thời kỳ hoa
niên giàu nhiệt tình nhất, tất cả kỷ niệm nào đối với tôi cũng sâu đậm khó
quên. Cũng khó quên hơn nữa là gương mặt thủ đô trước cơn bão loạn, Gương mặt
người tình trước thời khắc ly tán, chỉ cần một nét chau mày, cũng đủ mang ý
nghĩa một điềm linh ứng.
°
Buổi chiều muộn cuối thu của Hà Nội năm đó hình như thấm lạnh
nhiều hơn mọi năm. Một cái lạnh rờn rợn trên da thịt, khiến nhiều lúc, dù trời
không nổi gió, người ta cũng thốt rùng mình, như khi sắp lên cơn sốt rét. Mùa
thu 1946, một mùa thu lịch sử: mùa thu báo hiệu chiến tranh!
Thành phố đã lên đèn, cái ánh điện vàng u uất, dù phối hợp bởi
tất cả những phản quang xa hoa của tất cả trà đình, tửu điếm tráng lệ vùng
trung tâm đô thị, cũng không đủ sưởi ấm lòng người, nhất là lòng người nghệ sĩ
lãng tử đang đi dạo quanh bờ liễu tiêu sơ của Hồ Hoàn Kiếm.
Liễu rũ xuống hồ, như những mái tóc bệnh nhân sầu muộn soi
gương. Lòng hồ, vẫn những đám mây xám nặng chĩu, in hình những mái nhà thấp
thoáng ẩn hiện, như những bóng dáng lâu đài lịch sử hoang liêu từ thiên cổ chìm
trong đáy nước.
Thành phố thiếu hẳn sinh khí. Mới tám giờ tối, đã nhiều hàng
đóng cửa. Đêm kinh kỳ xưa từng bừng đài các, giờ lạnh lùng, ngao ngán buông
trên những hàng cây âm thầm đứng xõa tóc như ma bên lề đường quạnh vắng. Đêm thẫn
thờ len lỏi quanh những “ụ chướng ngại” sừng sững chắn ngang đường. Đêm dài dằng
dặc ngưng đọng trong những “hầm lộ thiên”, những “hố cá nhân” đào vội, rải rác
như những nấm mồ vô chủ vừa cải táng trong một nghĩa địa nửa thực nửa hư.
Giữa những màu sắc, nhưng hình thể nửa vời tàn tạ, còn lại một
chút sinh khí mong manh, nhưng dù mong manh, lúc này cũng đáng kể là một cái gì
ấm cúng dấu hiệu của sự sống vẫn còn ấp ủ được chút hơi thở nhiệt tình: ở xa
góc hồ phía Bắc, nổi lên vùng ánh sáng của “Quán Nghệ Sĩ”… một trà đình thường
được mệnh danh là “Câu Lạc Bộ Văn nghệ”, chỗ họp mặt của bọn người viết, vẽ hoặc
đàn, hát… Sự thực quán bán những hàng xa xỉ quá mức thường, nên nghệ sĩ cũng ít
khi tới. Khách hàng phần đông là người ngoại quốc.
Thoảng tiếng dương cầm dìu dặt. A! Tối nay “Quán Nghệ sĩ” có
ban âm nhạc trình diễn. Ở đây âm nhạc chỉ trình diễn bất thường, và có dàn nhạc
trình diễn lúc này, giữa những ngày Hà Nội đang dầm mình trong cơn sốt định kỳ
trầm trọng- những ngày báo hiệu chiến tranh quả là một hiện tượng đáng kể, một
hiện tượng cũng “xa xỉ” như những xa xỉ phẩm thuộc loại đắt tiền nhất của thời
đại.
Ban nhạc “Quán Nghệ Sĩ” gồm có Giệp: hồ cầm (hiện đã qua đời),
Hiếu: dương cầm, một tài tử trung hồ cầm (mà tôi không nhớ tên); và Nguyễn Xuân
Khoát với cây đại hồ cầm (contrebasse) mà anh em nghệ sĩ vẫn gọi đùa là “Ngưu Cầm”
hoặc nôm na hơn, là… “đàn bò”.
Âm nhạc quyến rũ, nhưng không khí “Quán Nghệ sĩ” vẫn tẻ lạnh.
Lác đác một vài bóng tri âm… nhi đồng ngấp nghé ngoài cửa, không biết để nghe
đàn hay chỉ để nhìn cái “đàn gì mà to như cả một cái gác-măng-dê”, và cao lênh
khênh vừa bằng anh Nguyễn Xuân Khoát đứng kiễng chân.
Các nhạc sĩ vừa dạo xong một cầm tấu khúc mở màn. Mọi người uể
oải dừng tay, ngồi quây chung quanh một chiếc bàn góc trong cùng lặng lẽ nhìn
nhau. Hình như họ đều cảm thấy đêm nay chơi nhạc không có hứng chút nào.
Bỗng có tiếng giầy cồm cộp gõ ngoài vỉa hè, tiếng cười vang
vang, tiếng nói ồm ồm. Không cần phải có tài thẩm âm sành sỏi cũng nhận thấy
ngay tiếng giày đó là tiếng giầy “săng đá” của lính Tây, tiếng cười nọ là tiếng
cười sặc sụa hơi men của những người say, và tiếng ồm ồm kia, với âm hưởng khá
lạ tai, nhất định là tiếng nói của người ngoại quốc, nhưng không phải tiếng
Pháp.
Tiếng giầy đinh sền sệt tiến về phía quán. Lũ trẻ con đang
đóng vai Tử Kỳ nghe trộm, bỏ chạy tản loạn, như vừa trông thấy quỷ nhập tràng.
Đó là toán bốn người lính lê dương, trong đoàn quân viễn
chinh của tướng Morlière có mặt tại Việt Nam từ sau cái hiệp định sơ bộ
6-3-1946. Họ ùa vào quán như một cơn gió lốc. Họ đã say rượu sẵn từ bao giờ. Bốn
bộ mặt đó gay như bốn ông mặt trời xích đạo, bốn bộ mặt gà trọi bừng bừng sát
khí đột ngột xuất hiện, khiến cho cái “Quán Nghệ Sĩ” hiền lành này bỗng dưng
“thức dậy”, như người vứa tỉnh giấc ngủ gà ngủ gật, đầu óc vẫn còn ngây ngất,
bàng hoàng. Không khí đang tẻ lạnh cũng được hâm nóng lên bởi những hơi thở say
cùng vị “cô nhắc”, những hơi thở say tưởng chừng có thể bùng lửa cháy ngùn ngụt,
nếu được châm mồi bằng một que diêm. Trong hơi thở ấy, và trong cơn gió cuốn
theo vào phòng, người ta tưởng ngửi thấy cả mùi thuốc súng, cùng một thứ mùi gì
hăng hắc nồng nàn, cái mùi “tứ chiếng” đặc biệt của xa khơi, phảng phất như có
trộn lẫn cả mùi gió biển, mùi có dại thảo nguyên, mùi gió lửa sa mạc.
Bốn ông khách viễn phương nghênh ngang, ngất ngưởng và ngật
ngưỡng tiến thẳng và phía quầy rượu súng lục kè kè bên hông. Ba kẻ nhảy lên ba
chiếc ghế cao cẳng, ngồi tựa vào quầy với dáng diệu rất mã thượng, y như nhẩy
lên mình ngựa. Còn một kẻ nhảy tót hẳn lên quầy rượu, ngồi sừng sững trên mặt
quầy, thản nhiên cao ngự trên đó, chẳng khác ngồi trên “đi văng” ở nhà riêng.
Các nghệ sĩ trong quán e ngại nhìn bốn ông khách quý. Tuy
không ai nói một câu, nhưng tất cả đều tỏ vẻ không mấy hưởng ứng. Nhất là Nguyễn
Xuân Khoát ngoài tiếng “đàn bò”, vốn không chịu được những cái gì ồn quá, kể cả
tiếng trống ả đào “sực tắc”, mặc dầu Khoát xưa nay vẫn mê nghiên cứu về nghệ
thuật hoà tấu của dàn nhạc Ca Trù. Bọn khách hàng võ biền, chiếu cố tới “Quán
Nghệ sĩ” với các thế ồn ào của một toán quân đi chinh phục vừa đột nhập vào một
đồn lẻ, hẳn không phải là để giải khát hoặc nghe nhạc, mà có lẽ chỉ để gây sự,
để tạo nên đổ vỡ, phá phách, nghĩa là để thỏa mãn cái tính hiếu chiến, hiếu sát
và hiếu thắng của những kẻ đang có ưu thế của sức mạnh võ khí.
Thời đó, ai cũng biết đoàn lính lê dương chuyên đánh nhau
thuê của tướng Morlière, tư lệnh Đệ Nhất Sư Đoàn quân đội viễn chinh Pháp, mệnh
danh là “Tiếp Phòng Quân” của lực lượng Đồng Minh, với nhiệm vụ giải giáp quân
đội Phù Tang “và giữ gìn an ninh, trật tự” trên lãnh thổ Bắc Việt. “Đoàn quân
vong mệnh” tập hợp nhiều quốc tịch khác nhau đó gồm đủ mắt mèo cùng rạch mặt,
tóc xoắn trôn ốc cùng tóc đó hung hung, da trắng, da nâu cùng da đen bồ hóng…
Chiếm đóng lại năm thị trấn xung yếu: Hà Nội, Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương,
Nam Định, ngay từ lúc chiến tranh toàn quốc chưa bùng nổ, đoàn quân ấy đã nổi
tiếng là lũ “Kiêu binh của thời đại Tân Chiến Quốc”, với những thành tích gây hấn
rất… chuyện nghiệp và rất văn minh! Họ thi hành nhiệm vụ “giữ gìn an ninh và trật
tự” nghiêm chỉnh quá, đến nỗi đa số, người dân Hà Nội không còn muốn bước chân
ra đường buổi tối. Trên những phố dài thu hình dưới ánh đèn phòng thủ thê
lương, thỉnh thỏang một vệt đèn “pha” sáng rực quét lướt trong sương đêm như một
tia chớp nhoáng. Đó là lúc đám kiêu binh ngự trên những chiếc xe cơ giới hoặc
chiến xa đi dạo quanh thành phố có lẽ để tiêu khiển cho giãn gân giãn cốt. Mỗi
khi ngứa tay hoặc cao hứng, họ lại bắn chơi một tràng tiểu liên vào mấy cái ụ
chướng ngại đầu đường, như vậy, có lần cả một gánh phở, cả thùng nước lèo bị đạn
tiểu liên xạ kích tơi bời. Còn ông hàng phở may mắn lăn được xuống một cái hố
cá nhân trốn thoát…
Những cuộc đùa giỡn của lũ Kiêu binh Tân Chiến Quốc cứ như thế
tiếp diễn từng đêm. Và từng đêm qua các khu phố Hà Nội nín thở, những tràng
liên thanh vẫn nổ ròn. Vừa mấy đêm trước đây, chính những người chơi nhạc trong
“Quán Nghệ sĩ” này từng nghe tiếng vang lên ngay bên tai tiếng rú máy kinh khủng
của một chiếc xe bọc sắt lao vút qua góc đường xế cửa, kèm theo điệu nhạc dữ dội
của một tràng liên thanh hình như nổ tung ngay trong đầu óc họ.
Cái viễn tưởng của chiến tranh, bom đạn, giết chóc đã trở nên
mối đe dọa thường xuyên, hàng ngày, hàng đêm ám ảnh họ. Đám kiêu binh mỗi lần
xuất hiện lại càng khiến cho sự đe doạ thêm trầm trọng, vì mọi người đều nhìn
thấy ở đoàn lính viễn chinh hỗn hợp kia hình bóng cụ thể nhất và linh động nhất
của chiến trnnh. Cảm giác nặng nề và ngột ngạt đến khó thở, từng làm căng thẳng
thần kinh hệ mọi người, tối nay càng thêm giao động mãnh liệt trong tâm thần bất
an sẵn của các nhạc sĩ.
Bốn chàng lê dương say bỗng dưng đột kích vào “Quán Nghệ sĩ”
hiển nhiên là bốn hung thần hiếu chiến, hiện thân của phá phách, của tai họa!
Người ngồi trên quầy cất giọng gọi rượu mạnh, giọng say nhè như đã ngấm tất cả
các thứ rượu “mạc-sê-noa” của kinh thành Hà Nội. Ba người kia cùng gọi theo:
“Rượu mạnh! Rượu mạnh” bằng một thứ tiếng Pháp pha trộn âm hưởmg thổ ngữ Nhật
Nhĩ Mãn, uốn lưỡi mạnh và nhanh, phì hơi dưới vành môi hung tợn như rắn phun.
Thì ra đó là những người lính Đức, trong đoàn quân lê dương viễn chinh, vẫn được
tiếng là can trường, bạt mạng và ngổ ngáo hơn cả, và trong đám “kiêu binh bạch
chủng”, có lẽ xứng đáng hơn hết với cái hỗn danh “kiêu binh”.
Bốn ông lính Đức này xem chừng không có bản chất văn nghệ
chút nào, tuy rằng, nếu sẵn ý tưởng lạc quan, rất có thể họ coi họ là hậu sinh
của những Bach, Beethoven, Schumann, của những Schiler, Goethe…
Nhưng khí trời Hà Nội đang chìm trong cơn bệnh u uất. Chẳng
ai lạc quan được lúc này. Cho nên các nhạc sĩ chỉ còn biết tặc lưỡi, lắc đầu,
khi thấy mấy ông “tây say” đã say tới cái độ không biết, mình say… mà còn gân
mãi cổ lên gọi rượu mạnh.
Không đợi rượu mạnh mang tới, họ vồ lấy cả chai Whisky bầy
trong tủ hàng, và không đợi cốc đưa lại, họ mở nút, chuyền tay nhau chai rượu
mà tu ừng ực. Cái lối uống rượu không văn nghệ như vậy khiến các nhạc sĩ trong
quán bắt đầu lo ngại, khó chịu. Nguyễn dằn cốc cà phê xuống bàn, những ngón tay
bứt rứt bỗng chạm vèo giây đàn Contrebasse, nẩy lên một âm thanh u trầm, như một
tiếng rên còn nghẹn trong cổ họng. Mấy ông khách quý đang vừa chuốc rượu lẫn
cho nhau vừa hát – họ đồng ca một bài chắc là ngẫu hứng và có lẽ để tụng Tửu Thần
Bacchus, vì chen vào những câu hỗn độn đủ các thứ nhịp, đủ các thứ điệu, luôn
luôn thấy họ nhắc lại như một điệp khúc: “Whisky! Whisky! Whisky vạn tuế” bỗng
họ quay cả đầu lại vì tiếng “ngưu cầm” rền rĩ.
Bốn cái miệng say đồng thanh kêu lên:
- Âm nhạc! À âm nhạc! Chơi nhạc đi, các ông nhạc sĩ!
Bốn cái mặt đó gay, tám con mắt nảy lửa cùng hướng về phía
các nhạc khí và các nhạc công.
- Chơi nhạc đi! Chơi nhạc đi!
- Ô là! Chơi nhạc đi! Các ông ngủ gật đấy hả?
Các nhạc sĩ dù có ngủ gật thực sự cũng phải tỉnh ngủ từ lâu rồi.
Nhưng chơi nhạc lúc này làm sao cho có hứng được? Chơi nhạc cho mấy cái tai
“tây say” kia nghe, và chơi cho âm điệu vào lọt mấy cái tai ấy, nếu không phải
là một cực hình, thì nhất định cũng không phải là cái thú. Hiếu đưa mắt nhìn Giệp,
Giệp đưa mắt nhìn Khoát, Khoát đưa mắt nhìn chiếc… “đàn bò”, ngần ngại.
Bọn khách quý đổ xô tới vây chung quanh bàn nhạc sĩ, y hệt
như bao vây một cái đồn lẻ của địch quân ngoài trận tuyến. Một kẻ khiêng bổng
cây đàn “contrebasse” lên, đặt ngang vào hai tay Nguyễn, miệng thét:
- Các ông nhạc sĩ! Chơi đàn đi! Hay muốn để đàn… “chơi” các
ông đấy?
Một kẻ mở ngay nắp chiếc dương cầm ra, xắn tay áo lên, hai
cánh tay lông lá trổ hình hai con rắn quấn vòng quanh, mà đầu rắn lại là đầu một
người đàn bà man rợ. Đồng thời, hai bàn tay hộ pháp đập lìa lịa trên hàng phím
ngà trắng xóa… Nhạc sĩ dương cầm thương xót nhìn chiếc đàn xấu số của mình đang
gặp tai nạn…
Bỗng một tướng khác, với hai cánh tay cũng lông lá không kém,
nhấc bổng cả anh ta cùng chiếc ghế anh ngồi lên, bưng đến bên cạnh dương cầm, đặt
anh xuống, và gào to như ra lệnh:
- Im lặng! Im lặng tất cả! Dàn nhạc sắp sửa trình diễn! Các
ngài hãy lắng tai: Đây là bản Hợp tấu của im lặng! (Symphonie du Silence).
Đoạn, nhanh như chớp, kẻ vừa nói rút ngay khẩu súng lục bên
hông, bắn luôn một tràng đạn chỉ thiên lên trần. Căn phòng rung chuyển, ngọn
đèn điện lớn treo giữa quán vỡ tung từng mảnh, tắt phụp.
Căn phòng vụt trở nên mơ hồ, ảm đạm, chỉ còn ánh điện “néon”
bàng bạc tím lẫn ven tường. Và căn phòng yên lặng như nghẹt thở.
Tiếng cười điên rồ từ bốn cái cổ họng say liền vang lên, rờn
rợn, tưởng như không bao giờ ngừng.
Sau vài giây đồng hồ chóang váng, Nguyễn Xuân Khoát điềm
nhiên mở tập nhạc bản chọn một bài, để lên giá đàn dương cầm, trước mặt Hiếu,
và hất hàm làm hiệu với Giệp cùng người bạn sử dụng trung hồ cầm. Nhạc sĩ dương
cầm lặng lẽ liếc nhìn giữa bản nhạc, rồi những ngón tay, như có nam châm hút
vào phím ngà, bắt đầu lướt trên cung bậc.
Những âm thanh dương cầm đầu tiên rung lên bị lấp ngay bởi tiếng
cười ồn ào chưa dứt. Cây hồ cầm hòa theo, vút như hơi gió. Tiếng trung hồ cầm
nhập điệu ngân nga. Nhịp giây trầm trầm của chiếc contrebaase cũng bắt đầu ngập
ngừng đồng vọng. Âm hưởng của bốn nhạc khí dần dần trộn lẫn, hợp thành một tiếng
vang duy nhất, một tiếng vang khích động và tôi cuốn, và chiêu dụ với một hấp lực
kỳ lạ- một điện lực thì đúng hơn- một tiếng vang vươn cao, tỏa rộng, bao trùm,
phút chốc xoá nhoà tất cả, trấn ngự tất cả, khiến tất cả đều chìm đi thực cảnh
không còn nữa, chỉ còn một nguồn suối nhạc mênh mang đang dâng lên, dâng lên
như một trùng dương thần thoại. Tiết điệu bản nhạc cũng như nổi thành vóc dáng.
Âm hưởng run rẩy quyện vào nhau, dìu nhau lênh đênh trôi vào ánh sáng, hòa vào
không gian những tiếng sắc, tiếng đồng mê hoảng.
Căn phòng quán trà vụt im lặng. Đám quân nhân không cười nữa,
ngồi xuống ghế.
Tiếng nhạc lại nổi lên, ma quái. Không gian trở nên bát ngát,
huyễn hoặc. Mỗi âm đàn như có một linh hồn đột ngôt hiện lên hình thể, sắc màu,
dồn dập, xô đẩy nhau, chuyển biến đến vô cùng. Mỗi âm đàn như một gương mặt
quen thuộc, vừa gặp gỡ mà tưởng chừng đã xa vắng tự muôn đời - tất cả, sáng lên
rồi lại mờ đi trong một nguồn dạ quang lung linh, hư ảo. Ánh sáng cũng hình như
có thể chất, và, giữa vùng âm thanh bập bềnh sương khói, những “nốt” nhạc hiện
hình múa nhẩy, vạch lên những đường nét mê hoặc trong một vũ điệu lân tinh. Ánh
sáng len lỏi, thâm nhập cả vào những vật vô tri, khiến mọi vật như bừng tỉnh thức,
và chuyển động bước đi theo những bước chân phù thủy.
Không biết trong bao nhiêu phút đồng hồ, tiếng nhạc lạ lùng
như kéo dài thời gian đến hàng thể kỷ. Và suốt trong thời gian ấy, bọn khách
hàng ngỗ ngược trước- những “kiêu binh của nửa thế kỷ hai mươi”- tự dưng trở
nên hiền lành như những con chiên, im lặng một cách sùng bái. Họ vẫn ngồi yên
chỗ cũ, mắt mở to như không nhìn vào đâu hết, những cặp mắt giờ đây xanh biếc
như chứa đựng cả một vùng trời hão huyền hoặc có lẽ là vùng trời vô hình, vô ảnh
của tâm linh, của siêu ý thức, một vùng trời tin mộ, ngủ thiếp trong vòng”từ
trường” của ma lực âm thanh. Họ, những người lính lê dương vong mệnh mang dòng
máu Nhật Nhĩ Mãn hiếu chiến, giờ đây như đã không còn say rượu, mà chỉ còn say
một cái gì vô cùng huyền bí. Một cơn say gần như ma quái, hay thần linh cũng thế.
Họ có nét mặt của những kẻ đang bị thôi miên.
Bản nhạc bỗng hết đột nhiên. Sau đến năm phút, tất cả mọi người
đều im lặng. Rồi bốn ngườị lính Đức từ tốn và trịnh trọng đứng lên, trịnh trọng
giơ tay chào các nhạc sĩ kiểu nhà binh, đoạn rất lịch sự - lễ độ là khác- rút
lui ra khỏi quán, sau khi thanh tóan tiền hàng đầy đủ, không quên bồi thường
chiếc bóng đèn điện vỡ rất chu đáo, và thưởng tiền bồi bàn rất trọng hậu.
Nguyễn thở phào một hơi dài khép bản nhạc vừa dạo lại: Đó là
bản “Danse Macabre” của Saint Saens 1 .
Câu chuyện Nguyễn Xuân Khoát và bản nhạc “Vũ Khúc Ma Quái” đã
khiến tôi nhớ người bạn nghệ sĩ thân hình cao mảnh khảnh ấy thêm một chút. Giờ
đây Khoát đang sống dưới chế độ vô sản miền Bắc, ở bên kia vỹ tuyến. Hiện Khoát
đang làm gì, tôi không được biết, nhưng bao giờ thì Nguyễn Xuân Khoát
cũng chỉ là Nguyễn Xuân Khoát, tác giả nhiều nhạc phẩm quen thuộc từ giai đoạn
“mở đường soạn đạo” của nền tân nhạc Việt Nam - những nhạc phẩm đậm đà dân tộc
tính, hồn nhiên, chất phác và tế nhị, như “Trấn Thủ Lưu Đồn”, “Lơ Thơ”, “Con Cò
Mà Đi Ăn Đêm”, “Con Mèo Trèo Cây Cau”. “Con Vỏi Vòi Voi”, “Thằng Bờm’’..v…v 2 .
Mà chính Nguyễn Xuân Khoát cũng giống như một “Thằng Bờm”
ngây thơ nhưng hóm hỉnh. Ai đã được xem anh, giữa núi rừng Việt Bắc (hồi tản
cư) tự trình bày bản nhạc “Thằng Bờm”, sẽ thấy Thằng Bờm chính là hiện thân của
anh, và có lẽ không ai trình bày bản nhạc đó “tuyệt” hơn anh! Anh không tốt giọng
lắm, nhưng anh hát có hồn và có một cái duyên lạ lùng quyến rũ người nghe. Với
bộ quần áo nâu cũ, với mái tóc kéo lên dựng đứng giữa trán như một cái bờm, anh
nhe răng và cười “khì! khì!” sau câu hát cuối cùng “Phú ông xin đổi nắm xôi, bờm
cười…” thì ai cũng phải nhận rằng có lẽ anh giống Thằng Bờm hơn cả Thằng Bờm thật
sự!
Hinh ảnh Nguyễn Xuân Khoát, nhạc sĩ của hàng ngũ tiền phong,
hiện đến trong tâm tưởng tôi, từ “Quán Nghệ sĩ” đến núi rừng Việt Bắc ở hình thức
một Nguyễn Xuân Khoát ôm cây đàn Contrebasse khổng lồ, hay qua vóc dáng một thằng
Bờm ngớ ngẩn, cũng chỉ là một Nguyễn Xuân Khoát mà thôi, một Nguyễn Xuân Khoát
hồn nhiên, thủ thỉ, một Nguyễn Xuân Khoát với thứ nghệ thuật thuần tuý cảm người
bằng trực giác, thứ nghệ thuật ấy ấn tượng trong lòng người, thứ nghệ thuật của
những âm đàn Contrebasse, của những nét nhạc Danse Macabre. Nếu không phải là
thế, thì anh còn có thể là gì khác? Đừng bắt anh đặt một lá cờ máu vào tay Thằng
Bờm.
Nguyễn Xuân Khoát cũng như Thằng Bờm Việt Nam vốn bản chất
thuần lương, nhất định sẽ đau lòng vô cùng nếu phải bắt buộc nói lên thứ ngôn
ngữ đầy tạp thanh của hận thù, phản bội, để kêu gào máu xương, đấu tố những phú
ông vô tội đã từng cho Bờm nắm xôi, và cho Bờm nụ cười…
Vậy mà những kẻ nghệ sĩ như Nguyễn Xuân Khoát, suốt bao năm
tao loạn, đã phải ôm đàn đi khắp núi sông, để rồi lại ôm hận trở về Hà Nội, ép
mình trong khuôn khổ tù túng của một cuộc sống giả tạo – trở về để thấy mình chợt
“tỉnh giấc chiêm bao” sau khi đã “chín năm đốt đuốc soi rừng” như trường hợp của
Nguyễn Bính thi sĩ, và cũng như trường hợp của Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng
Quán, Hoàng Cầm, Phan Khôi… nghĩa là như tất cả những kẻ sĩ sẵn sàng “tử vì đạo”
– cái Đạo Tự Do - trong nhóm Nhân Văn Giai phẩm, những văn nghệ sĩ chống đối với
chế độ độc tài đảng trị miền Bắc, vì muốn bảo vệ cá tính và nhân phẩm, vì muốn
giữ lại nguyên vẹn linh hồn và trái tim.
Khi vụ Nhân Văn Giai Phẩm bừng lên dạo ấy, không thấy có ai
nhắc, đến Nguyễn Xuân Khoát trong danh sách các nạn nhân. Tuy nhiên tôi vẫn tin
rằng trái tim Nguyễn Xuân Khoát là trái tim Nhân Văn Giai phẩm, linh hồn Nguyễn
Xuân Khoát cũng là linh hồn Giai phẩm Nhân Văn.
Chỉ tiếc rằng ở bên này vĩ tuyến không có Nguyễn Xuân Khoát
hiện diện cùng chúng ta. Nếu có Khoát ở đây, và nếu lại họp mặt được thêm một số
kiện tướng của làng Nhạc đồng cảnh, đồng tình với Khoát, như Văn Cao, Tử Phác,
Tô Vũ, Đoàn Chuẩn, Hoàng Giác… và cả anh chàng Tạ Phước lý thuyết gia, hẳn là
tiếng sắt, tiếng đồng tiêu dao tha hồ có dịp rung lên âm hưởng thanh thoát,
phóng khoáng và hào hứng.
Tiếng đại hồ cầm của Nguyễn Xuân Khoát sẽ lại có hứng khởi nảy
lên những cung bậc hòa âm trầm bổng, như ngày nào xưa, những âm điệu mê hoặc của
bản nhạc “Vũ Khúc Ma Quái” đã có hiệu lực chiêu dụ, trấn áp được tà ma, đưa Hồn
Người trở về hào quang của cái Đẹp.
Nghe nói sau này Khoát còn thực hiện được, nhiều tác phẩm
đáng kể, với công trình nghiên cứu Nghệ thuật Ca Trù,… vì chính Khoát từng là một
“cây” đàn đầy tài tử rất phong độ.
--------------------------------
Danse Macabre (Ca Khúc Ma Quái) “Một Thi Khúc Hợp Tấu
(poème symphonigpe) thuộc loại “nhạc miêu tả”, gợi ấn tượng rùng rợn và quái
đản với những bộ xương ma từ dưới mồ hiện lên nhảy múa, va chạm lóc cóc. Nhạc
phẩm nổi tiếng của Saint-Saens, nhạc sĩ Pháp (1835-1921). |
|
Tôi chỉ xin kể tới một số nhạc phẩm của Nguyễn Xuân Khoát lấy
chất liệu ở ca dao hoặc ở những câu hát bình dân, những bản nhạc làm sống lại
tiết điệu cổ sơ của dân tộc- và chưa kể tới những sáng tác có “thời đại tính”
của Khoát như Hồ Xuân, Tiếng Chuông Nhà Thờ, Uất Hận v.v… Trong số các nhạc
phẩm có tính cách dân ca kể trên, một vài nhạc sĩ khác cũng tìm đến một vài đề
tài trùng hợp, phát xuất chung từ một nguồn gốc. |
TIẾNG ĐÀN XƯA
Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai
Nghệ sĩ vốn sinh giàu cảm lụy
Dẫu tàn thân thế khó quên nhau.
Hôm nay chúng tôi xin nhắc đến một nhà thơ đã từng góp tiếng
nói tâm tình kín đáo của mình vào bản hợp tấu chung của làng thơ thời tiền chiến-
một nhà thơ hiện đã khuất bóng, mà, theo lời thuật lại của một số thi hữu, thì
nhà thơ đó đã từ trần vào chính ngày 4 tháng 10, cách đây hơn 20 năm trời. 1
Vậy buổi hôm nay còn có ý nghĩa một buổi hoài niệm. “Đốt lò
hương cũ…” để làm rung lên tiếng đàn ngày xưa. Tiếng đàn ngày xưa đây là tiếng
thơ của thi sĩ Phạm Hầu, thi sĩ đã từng có lần tự đặt những câu hỏi bâng
khuâng:
Chẳng biết trong lòng ghé những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài.
Hỡi ôi! người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng Hải Đài.
Cơn gió nào lên có một chiều
Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp đổ xiêu.
Tiếng nói đó không sôi nổi, không bồng bột - thoạt nghe, người
ta chưa thấy nó hấp dẫn, quyến rũ, nhưng đọc lại một đôi lần, người ta sẽ thấy
nó có một dư âm ngậm ngùi lưu luyến, tự nhiên lắng dần, lắng dần vào trong tâm
khảm chúng ta - và ta bỗng tưởng như nghe thấy tiếng nói thủ thỉ, ân cần của một
người tri kỷ.
Bởi lẽ thi sĩ Phạm Hầu tuy đã rụt rè tìm đến với cuộc đời,
nhưng vẫn ngờ cuộc đời hờ hững, nên thi sĩ đành ủ kín “mối tình kiêu” như chính
lời thi sĩ đã tự thú nhận. Từ đó, người thơ đứng giữa cuộc đời, kề bên những tấm
lòng thiên hạ, mà vẫn xa xôi, đơn chiếc như một ngọn hải đăng cô tịch, đêm đêm
viễn vông ngoài cửa bể mênh mang, để chỉ tìm thấy toàn những bóng hình du khách
ghé qua lòng mình giây phút rồi lại đi xa. Ngày nay, chúng ta không còn hờ hững
với Phạm Hầu. Sau những vần thơ trầm lắng của Phạm Hầu, mà trước kia nhiều người
chỉ đọc lướt qua không đặc biệt chú ý, ngày nay chúng ta đủ tìm thấy ở đó những
âm hưởng thắm thiết của một linh hồn bè bạn sẵn sàng dội lại những rung động của
chính tâm hồn chúng ta.
Vì vậy, những bài thơ của Phạm Hầu đọc một lần chưa đủ - cũng
như tìm hiểu một người bạn trầm mặc, ít nói, chúng ta không nên nghĩ rằng một
vài câu chuyện buổi xã giao đã đủ làm nhịp cầu thông cảm và chúng ta không nên
chỉ làm những du khách ghé qua Vọng Hải Đài giây phút rồi đi! Vì vậy, chúng tôi
xin đọc lại một lần nữa toàn bài thơ “Vọng Hải Đài” của thi sĩ Phạm Hầu:
Chẳng biết trong lòng ghé những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài.
Hỡi ôi! người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng Hải Đài.
Cơn gió nào lên có một chiều
Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp đổ xiêu.
Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngàn vơ vẩn, gió đêm là.
Muốn đời e hãy còn vương vấn,
Một sắc không bờ trên biển xa.
Lòng xiêu xiêu, hồn nức ban mai,
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận,
Chẳng biết xa lòng có những ai?
Thi sĩ Phạm Hầu đến làng thơ không ồn ào, không có tuyên ngôn
dẫn đường và cũng chẳng cần nhạc dạo báo hiệu, cho đến thơ của thi sĩ cũng chưa
có một tác phẩm nào xuất bản thành sách. Phạm Hầu chỉ mới đăng thơ ở vài nguyệt
san hoặc đặc san như Tao Đàn và Mùa Gặt Mới, nhưng chỉ một vài âm hưởng man mác
của tấm lòng người thơ đó gieo vào trong không gian cũng đủ gây được những rung
động sâu sắc, và cũng đủ khiến chúng ta không quên được thi sĩ, tuy rằng đã có
biết bao nhiêu trận cuồng phong nổi lên trên nền trời thơ, từ thủa tiếng nói của
thi sĩ vẳng lên cung bậc tới nay.
Tiếng nói của Phạm Hầu thủ thỉ và trầm lắng, nhưng trong cái
trầm lắng thủ thỉ đó sự thực chứa đựng bao nhiêu rung động xôn xao. Thi sĩ có
những cảm giác có vẻ hồn nhiên ngây thơ mà thực là đậm đà ý nhị. Nhìn một bàn
chân nho nhỏ có nước da trắng muốt của người đẹp chỉ cần một bàn chân thôi, thi
sĩ cũng đủ thấy gợi lên trong tâm hồn tất cả niềm đơn lạnh cố hữu:
Gặp tình cờ song chẳng biết vì đâu
Chân em trắng vậy mà lòng tôi lạnh?
Vì sao thi sĩ có những cảm giác nhự vậy? Ta cũng chẳng rõ, vì
chính Phạm Hầu cũng đã chẳng biết vì đâu.
Phạm Hầu hình như không bận tâm nhìn cảnh vật bên ngoài. Thi
sĩ thường nhìn vào tận tâm linh của sự vật để tìm những biến chuyển hết sức
mong manh, và cũng vô cùng tế nhị. Tả một buổi trưa, thi sĩ viết:
Có cái gì chuyển thay đây với đó
Một cái gì lên xuống mãi không thôi.
Lắng càng lâu càng nghe mãi xa xôi,
Một tiếng nhẹ trong tiếng nào nhẹ nữa.
Thi sĩ Phạm Hầu là con một vị thượng thơ tên gọi Phạm Liệu.
Thi sĩ sinh ngày 2-3-1920 ở Trừng Giang, Phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Phạm Hầu
đã học ở trường Quốc Học Huế, và trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội.
Chúng ta đang nhắc tới cái bản sắc thi sĩ riêng biệt của Phạm
Hầu nhưng Phạm Hầu còn là một họa sĩ, và là một họa sĩ chân chính có tài. Nếu
làng thơ đã không quên Phạm Hầu và đã hân hoan ghi tên Phạm Hầu vào lịch sử thi
ca, thì làng Mỹ Thuật tất cũng phải dành cho ông một chỗ ngồi xứng đáng.
Phạm Hầu đã từng gửi một bức họa sang dự một cuộc triển lãm ở
Nhật Bản và đã được tặng giải thưởng danh dự ở Đông Kinh. Bức họa của thi sĩ chỉ
vẽ có 5 hòn đá, một bức họa rất ấn tượng cái màu sắc ấn tượng đã từng toát ra ở
chính những lời thơ của Phạm Hầu:
Muốn đời e hãy còn vương vấn,
Một sắc không bờ trên biển xa.
Cái màu sắc không bờ trên biển xa đó chính lá cái màu sắc tâm
hồn của thi sĩ Phạm Hầu.
Đọc thơ hoặc xem tranh Phạm Hầu, người ta cũng chỉ thấy một cảm
giác duy nhất. Tâm hồn của thi sĩ, dù diễn tả bằng ngôn ngữ, từ điệu, hay bằng
hình thể, sắc màu, cũng vẫn chỉ là một tâm hồn nghệ sĩ khao khát Vô Cùng và Tuyệt
Đối niềm khao khát điển hình của lớp nghệ sĩ tiền chiến, trước hệ thống trật tự
đảo lộn của giá trị tinh thần, bị tràn lan bởi văn minh vật chất đọa lạc của xã
hội thực dân phong kiến, lớp nghệ sĩ ấy đã nhận thấy mình “sinh nhầm thế kỷ”
nên luôn luôn muốn tìm cách tự giải thoát. Khao khát Vô Cùng và Tuyệt Đối gần
như là cái bệnh thời đại của tầng lớp tri thức không muốn tự thả mình vào cơn lốc
quay cuồng của thế sự.
Phạm Hầu, cũng như Vũ Hoàng Chương, Thâm Tâm, J. Leiba cùng một
số thi sĩ khác đương thời, đã nói được phần nào cái “Bâng Khuâng Lớn Của Thời Đại”.
Và dù làm thơ hay vẽ tranh thì Phạm Hầu cũng vẫn là một thi
sĩ có một bản ngã riêng biệt.
Là thi sĩ, là họa sĩ có lẽ Phạm Hầu còn có tâm hồn của một nhạc
sĩ. Câu thơ của Phạm Hầu thường có một nhạc điệu bình thanh tự nhiên bay bổng,
thanh thoát lâng lâng, mới nghe có vẻ lạ tai. Nhưng chính đó là cái Hồn Nhạc
tân kỳ của người thơ đã nhập vào tiết điệu. Ta hãy nghe những câu thơ và tiếng
đàn sau đây của Phạm Hầu:
Đêm qua không ở nơi trần gian
Một chàng hào hoa như Tống Ngọc.
Một nàng yểu điệu như Văn Quân
Nói chuyện ái ân, mượn tiếng đàn.
Nàng khóc bằng tay trên phím ngà
Những ngón tay dài như lệ sa.
Một điệu đàn van lời tỉ mỉ
Sầu xuôi dòng theo tình phù sa…
Thi sĩ Phạm Hầu, qua một vài thi điệu vừa rồi, đã biểu lộ cho
ta thấy cái bản ngã e lệ và ý nhị của tâm hồn Đông Phương trầm mặc. Nói chuyện
ái ân, nhưng không nói thẳng, mà lại nói bằng tiếng đàn, người thi sĩ ấy quả là
một thứ Bá Nha của thế kỷ 20. Chẳng biết trong cuộc sống, thi sĩ có tìm thấy một
Tử Kỳ hay chăng, nhưng tới ngày nay thì “nước non đã sẵn lắng tai Chung Kỳ” để
mà nghe những lời thơ:
Và khóc bằng tay trên phím ngà…
Thi sĩ Phạm Hầu lặng lẽ đến với cõi dời, và âm thầm sống với
cõi lòng bao la của mình- bởi vì hình như thi sĩ thấy cõi đời cô liêu, mà chính
lòng mình lại càng cô liêu, bát ngát hơn. Đang hứa hẹn rất nhiều với thế hệ thi
ca của thời tiền chiến, thì thi sĩ Phạm Hầu vội qua đời giữa tuổi thanh xuân,
trở về với cõi vô cùng Tịch Mịch mà trong lúc sống ông vẫn hằng viễn vọng.
Tiếng nói tâm tình của nhà thơ ấy, ngày nay Làng Thơ của miền
Tự Do chúng ta tự thấy có nhiệm vụ phải ghi nhớ và ghi nhớ để mà chứng tỏ rằng
chúng ta bao giờ cũng sẵn sàng cảm ứng với tất cả những cái gì hướng đến và
vươn lên Chân Mỹ Thiện- ánh sáng lộng lẫy và bất diệt của lòng người.
Vì muốn đi tìm cái ánh sáng đó mà thi sĩ Phạm Hầu đã từng có
lần phải rỏ lệ - dù là những giọt lệ yêu đương cũng là những giọt lệ của Lý Tưởng.
Qua giòng lệ, nỗi buồn Phạm Hầu được thể hiện bằng những vần thơ sau:
Tôi đã dám cầu xin hai giọt lệ
Trên mi nàng huyền bí vẻ say mê
Cho điệu buồn man mác ở đâu về,
Đưa ngọn cỏ theo chiều mây lặng lẽ.
Cho tôi được nghiêng kề nàng thỏ thẻ
Vì lời thương rên siết ở trong tôi.
Chỉ khi buồn thấp thoáng cánh hoa rơi,
Mà hương lệ đó là trang sổ quý!
Buồn len lỏi trên đầu cây thi vị
Gieo lệ vàng trên ngấn nắng chiều trôi.
Tôi kề nàng, ý nhạc đọng trên môi,
Lời tôi lặn trong mắt nàng rung động.
Yêu đương đến tất cả chiều mơ mộng,
Buồn nhẹ nhàng trên làn khói thu không
Buồn mơn man trên đầu tóc rối bồng
Và vơ vẩn bên đôi ngườì vô tội.
Nàng và tôi, nhánh sầu chung rễ cội,
Kề vai nhau khi lệ với chiều rơi.
Khi giọt sương âu yếm rỏ lên người
Nàng và Tôi là hai dòng lệ nối.
Phạm Hầu tuy sống kín đáo âm thầm nhưng không hiểu trong lòng
thi sĩ đã xao động những làn sóng ngầm mãnh liệt nào? Và đã có những giông tố
hãi hùng nào tràn đến trong đời sống nội tâm của thi sĩ? Bởi vì, chúng tôi được
biết thêm rằng: Thi sĩ họ Phạm đã chết vì bệnh động kinh, và chết ở dọc đường,
trên một chuyến xe hỏa.
Nhân nhắc tới Phạm Hầu, thi sĩ có một tâm hồn e lệ tiêu biểu
cho cái bản sắc Đông Phương trầm mặc, chúng tôi xin trình bày một bài thơ của một
thi hữu đương thời với Phạm Hầu đã tặng riêng Phạm Hầu từ khi họ Phạm còn chưa
là người thiên cổ:
NHỮNG HƯỚNG SAO RƠI
Khi Miếu Đường kia phá bỏ rồi,
Ta đi về những hướng sao rơi.
Lạc loài theo dấu chân cầm thú,
Từng vệt dương sa mọc khắp người.
Sau trái cô sơn, ngày lại ngày
Hồn kinh kỳ hiện dưới chân mây
Đôi tay vò xé loài hoang thảo
Đổ máu căm hờn trên cỏ cây.
Rồi những đêm sâu bỗng hiện về
Vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya
Đâu đây u uất hồn sơ cổ
Từng bóng ma rừng theo bước đi.
Ta đến sườn non, rẽ cỏ gai.
Sống đây; ghi trước, mãnh di hài.
Lẫn trong kiến trúc tòa vân thạch,
Hồn Cổ ngồi chung, mộng vắn dài.
Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ
Ta nằm trên cỏ, lắng tai nghe.
Thèm ăn một ít hoa hoang dại,
Rồi ngủ như loài muông thú kia.
--------------------------------
Bài này do thi sĩ Đinh Hùng đọc trên đài phát thanh ngày
4-10-1957. |
MỘT MÙA TƯỞNG NIỆM
Nhớ tới ba nhà thơ đã khuất bóng
Nguyễn Đình Chiểu - Phan Thanh Giản - Nguyễn Du.
Ở bên này vĩ tuyến, dưới vùng trời tự do nhiều ánh sáng của
chúng ta, với “hai mùa nắng mưa” cố hữu, tuy thời tiết không phân định rõ bốn
mùa “xuân, hạ, thu, đông”, nhưng trong tâm tưởng, tôi vẫn thấy hiền hiện đủ bốn
mùa, theo một chu kỳ mầu nhiệm của những tháng, năm- tiềm thức. Mỗi vang bóng,
mỗi kỷ niệm còn ghi trong ký ức tôi hình như vẫn mang nặng cái khí hận u linh của
những thời gian quá khứ. Khí hậu ấy nhiều lúc tưởng chừng bao phủ cả lên cảnh vật
hiện tại. Thời tiết mỗi năm dường như cũng chuyển biến theo. Có thể nói: Luật
“tuần hoàn cảm ứng” của lòng người đã tạo nên từng “Mùa Tưởng Niệm” nhắc nhở
ngay từ trong cùng thẳm tâm linh. Chúng ta tưởng niệm những gương mặt anh hùng
liệt sĩ của ngày xưa, những bóng dáng uy nghiêm mà thâm thiết của các bậc tiền
bối đã đem lại cho Non Sông cái sắc thái vĩnh cửu, đã làm cho linh hồn Sông Núi
sống mãi trong lòng dân tộc, và đã khiến cho bốn mùa hoa gấm của giang sơn đời
đời còn nguyên vẹn thanh sắc. Từ trong tâm linh sâu thẳm của chúng ta, tự nhiên
cũng dâng lên khói hương sùng bái.
Vậy mỗi năm, vào đúng tiết thu từ khoảng đầu tháng 7 tới
tháng 9 dương lịch. “Một Mùa Tưởng Niệm” lại trở về cùng chúng ta, bàng bạc
trong hương khói cảm hoài. Kế tiếp nhau trong ba tháng mùa thu, ba gương mặt kẻ
sĩ cao khiết đã khuất bóng từ thế kỷ trước, vào mùa này lại hiển hiện nghi dung
phảng phất, nhắc chúng ta nhớ lại ba Ngày Giỗ Lớn trong Lịch Sử Văn Học: Nguyễn
Đình Chiểu, từ trần ngày 3 tháng 7 năm 1888; Phan Thanh Giản, tử tiết ngày 1
tháng 8 năm 1867; và Nguyễn Du, mất ngày mồng 10 tháng 8 (âm lịch) năm đầu niên
hiệu Minh Mệnh (1820).
Một mùa thu, ba lần Kỷ Niệm! Ba cái chết của ba bậc danh nhân
tiền bối mà hậu thế không bao giờ quên được tên tuổi: ba kẻ sĩ đáng kính, ba
nhà thơ đáng yêu.
Phải chăng, bởi vì mùa thu là “Mùa của Thi Nhân”, cho nên ba
nhà thơ quen thuộc của dân tộc cũng “chọn” đúng thời tiết tiêu sơ hiu hắt để mà
tận nhập vào Đại Mộng? Cho hình hài “hoàn phản không hư” vào đúng mùa lá rụng,
phải chăng linh hồn thi nhân cũng muốn như chiếc lá lìa cành cuốn theo chiều
gió?
Tuy nhiên, ba nhà thơ tiền bối của chúng ta bước vào thiên cổ
chính là để sống vĩnh cửu trong không thời gian và sống tự do phơi phới ngoài vật
lý, không phải như những vong hồn đọa lạc “lang thang trong trường dạ…”. Không
cần chúng ta cầu nguyện, hương hồn các Người cũng đã lâng lâng bay lên những
vùng trời siêu thoát. Chúng ta tưởng niệm các anh hồn đó chính là để tìm lại những
tia sáng khác với phát tiết ra từ ngọn lửa thiêng quý báu ngày nào đã từng nuôi
dưỡng những tâm hồn vĩ đại, mà hào quang chiếu rọi tới chúng ta từ bao lâu nay
đủ là dấu hiệu chứng tỏ anh hồn các Người vẫn còn sống ấm nóng bên cạnh chúng
ta, và sống mãi muôn đời, nghìn kiếp.
Kẻ trước, người sau, ba kẻ sĩ: Nguyễn Du, Phan Thanh Giản,
Nguyễn Đình Chiểu đã lần lượt đi vào cõi tịch diệt để trở nên bất diệt. Lịch sử
đã dành cho các Người những danh dự xứng đáng, trước hết là niềm ngưỡng mộ
thành khẩn và lâu dài của hậu thế. Hôm nay, tưởng niệm anh hồn các Người, chúng
ta nhắc tới một vài vang bóng đã qua, khả dĩ hình dung được cả gương mặt cùng tấm
lòng cao nhã của tiền nhân.
Chúng ta nhớ tới Nguyễn Đình Chiểu tiên sinh, tức Đồ Chiểu,
tác giả Lục Vân Tiên, nhà thơ ái quốc tiêu biểu cho sĩ khí miền Nam, vị quân sư
mù của lãnh binh Trương Định. Và chúng ta không quên lời thơ trong Ngư Tiều Vấn
Đáp của tiên sinh:
Dầu đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dầu đui mà khỏi danh nhơ,
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình.
.....
Sáng chi xàm nịnh theo đòi,
Nay vinh mai nhục mang lời thị phi?
Sáng chi nhân nghĩa bỏ đi,
Thảo ngay chẳng biết, lỗi nghì thiên luân.
Thấy rồi muôn việc trong trần,
Xin còn hai chữ “tâm thần” ở ta…
Không những là một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu tiên sinh còn
là một nhà đạo đức, một bậc quân tử gương mẫu của Lý Tưởng Nho Giáo, bậc thầy của
đám môn sinh các vùng Sài gòn, Mỹ Tho, Bến Tre, và cũng đáng là bậc thầy dạy đạo
lý thánh hiền của cả đám hậu sinh thời nay. Lời thơ trong Lục Vân Tiên, đặt vào
cửa miệng Ngư Ông, cũng chính là để Đồ Chiểu tiên sinh tự nói lên tâm trạng của
mình:
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chẳng sờn lòng đây.
Rầy doi, mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng…
Tuy có phong thái của bậc hiền giả “an bần lạc đạo”, không
màng danh lợi ở đời, nhưng Nguyễn Đình Chiểu còn giữ bền cả cái huyết tính bất
khuất của một kẻ sĩ trung kiên với tinh thần dân tộc. Trước cảnh tàn vong của đất
nước, tiên sinh đã không ngần ngại góp tài sức cùng các nghĩa sĩ kháng Pháp,
quyết tâm tranh đấu dành độc lập cho tổ quốc. Trong phong trào Nghĩa Quân chống
xâm lược, danh tiếng vị quân sự mù của Lãnh binh Trương Định đã từng nổi dậy khắp
từ thành thị tới thôn quê.
Việc lớn không thành. Tiên sinh chạy về Ba Tri (Bến Tre) ở ẩn
dạy học. Nhiều lần người Pháp định mua chuộc tiên sinh, tỏ ý muốn giúp đỡ tiên
sinh về tiền tài, nhưng tiên sinh đã từ chối, và nhất định không chịu hợp tác với
người Pháp. Thái độ khẳng khái ấy đã thác ngụ trong hai câu thơ Lục Vân Tiên
sau đây:
Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,
Núi non ẩn mặt, công hầu lảng tai…
Hiển nhiên hơn nữa, trong bài “Điếu Phan Công Tòng”:
Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây,
Một giấc sa trường phận rủi may.
Viên đạn nghịch thần treo trước mắt,
Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay…
Và thái độ ấy cũng chỉ là thái độ của một kẻ sĩ biết tự trọng,
một kẻ sĩ biết giữ tròn khi tiết, đúng với quan niệm Trung thần Nghĩa sĩ của
Nho Giáo:
Làm người trung nghĩa đáng bia son,
Đứng giữa càng khôn siềng chẳng mòn.
Cơm áo đền rồi ơn đất nước,
Râu mày giữ vẹn phận tôi con.
Tinh thần hai chữ phao sương tuyết,
Khi phách ngàn thu rỡ núi non.
Gẫm truyện ngựa Hồ, chim Việt cũ,
Lòng đây tưởng đó mất như còn.
Đặc biệt nhất trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu,
thiết tưởng không phải là Lục Vân Tiên (tuy tác phẩm dài này phổ biến nhất),
cũng không phải Ngư Tiều Vấn Đáp, không phải Dương Từ Hà Mậu, mà phải kể tới những
thơ văn ái quốc của tiên sinh. Những bài thơ viếng Phan Thanh Giản, Điếu Lãnh
binh Trương Định… những bài văn Tế Vong Hồn Mộ Nghĩa, Điếu Lục Tỉnh Sĩ Dân, Tế
Trương Định… đều có một tác dụng truyền cảm mãnh liệt sâu xa. Lời văn trầm hùng
thống thiết, vần điệu rung động chân thành mà thì tứ vẫn dồi dào phong phú,
đúng là lời nói tâm huyết thốt tự đáy lòng một nhà thơ chân chính yêu nước.
Thấm thía biết bao nhiêu, những lời văn Tế Vong Hồn Mộ Nghĩa
như sau:
Ôi thôi thôi!
Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm
Lòng son gởi bóng trăng rằm;
Đồn Tây Dương một khắc đặng trả hờn, tủi
phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bầy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn
khuya leo lét trong lầu!
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, con
bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan,
Ngàn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, nỡ
làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng
một phường con đỏ?
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm
đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miễu để thờ, tiếng hay
trải muôn đời ai cũng mộ…
Nhà thơ ái quốc chí thành, tác giả đoạn Văn Tế cảm khái rào rạt
đó, trong những ngày về ấn náu ở Bến Tre, đành âm thầm sống với nỗi lòng hoài
quốc mênh mang của mình trước cuộc điêu tàn không phương cứu chữa của Đất Nước.
Thế rồi, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, niên hiệu Đồng Khánh thứ 3 (tức là ngày 3
tháng 7 năm 1888), tiên sinh lặng lẽ từ trần, lòng còn nghẹn một điều u uất
chưa nguôi.
Kẻ sĩ Nguyễn Đình Chiểu từ trần vừa lúc những trận mưa đột ngột
miền Nam bắt đầu giăng buồn hiu hắt trên sông núi, cách đây 72 năm. Hãy cứ tin
rằng đấy là những dòng nước mắt của Trời Đất khóc một kẻ sĩ anh hùng.
°
Chính kẻ sĩ Nguyễn Đình Chiểu, 21 năm trước khi biệt giã cõi
đời, đã từng khóc cái chết nghĩa khí của một kẻ sĩ khác bằng bài thơ dưới đây:
Non nước tan tành, hệ bởi đâu?
Rầu rầu máy bạc, cõi Ngao Châu.
Ba triều công cán, với hàng sớ,
Sáu tỉnh cương thường, một gánh thâu.
Ải Bắc, ngày trông tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm chạnh tiếng quyên sầu.
Minh tinh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ đây mặc gió thâu.
Đó là thơ viếng cụ Phan Thanh Giản, người bạn thanh khí của
Nguyễn Đình Chiểu, và cũng là người bạn già đi bước trước Nguyễn Đình Chiểu
trên đường phụng sự Nghĩa Lớn (Phan Thanh Giản sinh năm 1796, mất năm 1867, thọ
71 tuổi; Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888, thọ 66 tuổi).
Đồng thời với Phan Thanh Giản, đã có nhiều người khóc cái chết
của tiên sinh. Và ngày nay, hậu thế vẫn hằng nhắc nhớ tới cái chết của tiên
sinh để mà thương cảm, xót xa, kính trọng, coi đó là một tấm gương tiết tháo
sáng ngời.
“Hải Nhai Phan Lương Khê Thư Sinh”!
“Người học trò họ Phan hiệu Lương Khê ở góc bể”, năm 30 tuổi
đã từng đỗ tiến sĩ, đã từng làm quan dưới ba triều Minh Mệnh, Thiệu Trị. Tự Đức;
từ một chức Hàn Lâm Viện Biên Tu, mấy lần thăng giáng, lên tới Hộ Bộ Thị Lang,
được cử đi sứ, rồi sung chức Kinh Lược ba tỉnh phía tây Nam Kỳ, để rồi cuối
cùng, khi vĩnh biệt cõi đời, lại chỉ là một thư sinh với hai bàn tay trắng,
không chức tước, không phẩm trật.
Nhưng, chết đi như vậy, thư sinh họ Phan đã có một danh hiệu
cao đẹp hơn tất cả mọi phẩm tước ở trên đời: đó là cái danh biệu Kẻ Sĩ Khí Tiết,
vằng vặc sáng muôn đời.
Ai nấy đều đã rõ: Năm 1867, quân Pháp đánh ba tỉnh miền tây
Nam Kỳ. Tự lượng biết sức không chống nổi, Phan Thanh Giản phải buộc lòng nộp
thành trì cho khỏi hại dân. Tiên sinh gửi sớ về kinh xin nhận tội, rồi nhịn ăn
17 ngày, và uống thuốc độc tự tử. Tiên sinh từ trần vào ngày mồng 5 tháng 7 năm
Đinh Mão, tức là ngày 1 tháng 8 năm 1867 1 .
Tấm lòng trung liệt của Phan Thanh Giản, ai mà không nhận thấy?
Cái chết của họ Phan đã có giá trị một sự hy sinh cao quý: tự hủy một thân mình
để giữ cho an toàn trăm họ, hành động ấy xét ra còn có ý nghĩa hơn là một cuộc
kháng cự đến cùng chỉ gây thêm đổ vỡ.
Tuy triều đình Huế thời đó mù quáng nghị tội “Phan Thanh Giản
bị đoạt chức quan, phải đục tên trong bia Tấn sĩ, ghi tội “trảm giam hậu” đời đời…
nhưng tới triều Đồng Khánh người ta đã thấu hiểu được tinh thần trung nghĩa của
bậc sĩ phu khí tiết mà cho khai phục nguyên hàm.
Có điều: luận công hay định tội thì người chết cũng đã chết rồi,
và tiếng thơm của kẻ sĩ tiết tháo vẫn còn nguyên vẹn, không một bản nghị án nào
có thể làm tăng thêm hay suy giảm. Người đã khuất bóng không cần nói gì để tự
bào chữa. Từ ngày ấy tới nay, đã có dư luận minh oan hộ Người, và gần một trăm
năm lịch sử đã thẩm xét thái độ của Người.
An Giang Án sát Phạm Viết Chánh đã ngợi khen:
Sổ hàng di biểu lưu thiên địa,
Nhất phiến đan tâm phó sử thư.
Nghĩa là:
Đôi hàng di biểu vương trời đất,
Một tấm lòng son gửi sử xanh.
Và Phạm Án Sát đã có thơ ca tụng:
Phan công tiết nghĩa sách cao dầy.
Thương bấy vì đâu khiến chẳng may.
Hết dạ giúp vua, trời đất biết,
Nát lòng vì nước, quỷ thần hay.
Tuyệt lương một tháng, rau xanh mặt,
Bị cách ba phen, lửa đỏ mày.
Chỉ sợ sử thần không biết ráo,
Tấm lòng ấm ức phải thày lay!
Cho đến cả người Pháp cũng phải tỏ niềm quý trọng phẩm cách của
bậc sĩ phu lão thành. Trong bức thư phân ưu gửi cho gia đình họ Phan, thiếu tướng
De Lagrandière đã viết:
‘‘J’apprends avec une grande douleur la mort de S.E. Phan
Thanh Giản, votre père. Le royaume d’Annam don’t il était le member le plus
éminent perd dans ce vieillard respecté une de ses glories et de ses lumières,
et le sentiment de profonde estime qu’il laisse dans ma mémoire se dans celle
des Français sera plus durable que la haine de ses ennemis …”
“Bản chức rất lấy làm đau đớn khi hay tin thân phụ công tử là
cụ Thượng Phan Thanh Giản từ trần. Nước Nam mà Ngài là một phần tử xuất chúng mất
vị lão thành đáng kính ấy tức là mất một phần vinh quang của xử sở, và mối tình
quý trọng sâu xa mà Ngài lưu lại trong ký ức riêng tôi cũng như trong ký ức người
Pháp sẽ lâu bền hơn mối thù hằn kẻ nghịch…) 2 .
Bao nhiêu xôn xao của thế cuộc, bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu
nụ cười. Cả bao nhiêu lời phẩm bình dị nghị, khắc nghiệt bay khoan dung, chê
trách hay khâm phục, bao nhiêu tiếng thị, tiếng phi thuở đó giờ đây cũng đều vắng
chìm vào tịch mịch, tan biến vào không hư! Chỉ còn lại một tấm lòng kẻ sĩ thiết
tha son sắt cùng non sông. Và chỉ còn lại tiếng vọng tâm thành của những vần
thơ chứa chan nhiệt huyết, như bài Tuyệt Cốc - biểu thị tận cùng của lòng trung
kiên đến thác:
Trời thời, đất lợi, lại người hòa,
Há dễ ngồi coi, phải nói ra?
Lăm trả ơn vua, đền nợ nước,
Đành cam gánh nặng, ruỗi đường xa.
Lên ghềnh, xuống thác, thương con trẻ,
Vượt biển, trèo non, cảm phận già.
Những tưởng một lời an bốn cõi,
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!
Một Nguyễn Đình Chiểu, một Phan Thanh Giản dù là hai cái bóng
mênh mang bao trùm lên hơn nửa phần thế kỷ cận đại, vào giữa lúc đất nước cũng
đang chuyển mình sang thu.
Trước ngày Phan Thanh Giản tuẫn tiết 47 năm, và trước ngày
Nguyễn Đình Chiểu từ trần 68 năm, Nguyễn Du cũng đã khuất bóng vào một mùa thu,
có lẽ để sánh bước nhau cùng đi trên đường thiên cổ, không còn phân biệt niên kỷ,
triều đại. Thêm cái bóng vĩ đại của Nguyễn Du hiện hiện trong Mùa Thu Tưởng Niệm,
cả vòm trời văn học hôm nay cũng hình như thao thức.
Ngày giỗ Tiên Điền, mồng 10 tháng 8 âm lịch, đã trở nên một
ngày lễ truy điệu thường niên mà khắp giới văn nhân thi sĩ đều trọng vọng ghi
nhớ. Anh hồn tác giả Đoạn Trường Tân Thanh cùng Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh ở
bên kia trần lụy chắc hẳn không còn thắc mắc vì lẽ:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như.
Không cần phải đợi tới ba trăm năm sau, từ khi tiên sinh lìa
trần tới nay, mới có hơn 100 năm, đã biết bao nhiêu người khóc Tố Như, bao
nhiêu tấm lòng rung cảm hòa điệu cùng tâm sự Tố Như, bao nhiêu tâm hồn từng thổn
thức chung một cung đàn thanh khí với Tố Như?
Thi sĩ Chu Mạnh Trinh đã viết trong bài Tựa Thanh Tâm Tài
Nhân Thì Tập (nguyên tác Hán Văn, do Đoàn Tư Thuật dịch nôm) như sau:
“Ai dư nước mắt khóc người đời xưa? Thế mà giống đa tình luống
những sầu chung, giọt lệ Tầm Dương chan chứa; lòng cảm cựu ai xui thương mướn?
Ngâm câu Ngọc Thụ não nừng. Cho hay danh sĩ giai nhân, cùng một kiếp hoa nghiêm
nặng nợ. Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai lưu lạc đau lòng…
“Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu. Cái kiếp không hoa
luẩn quẩn, con hồn xuân mộng bâng khuâng…
Phong Tuyết Chủ Nhân Thập Thanh Thị đã viết rất đạt lý về
Truyện Kiều những lời sau đây:
“Có người hỏi ta rằng: Thúy Kiều có người thật không? Ta đáp
rằng: Không biết. Người ta lại hỏi rằng: Thế thì làm sao lại có truyện Thúy Kiều?
Ta đáp lại rằng: Từ lúc mờ mịt chưa có gì, đến lúc có thái cực, có lưỡng nghi,
có tứ tượng, rồi tự nhiên biến hóa không ai dò được manh mối từ đâu. Trong khoảng
ấy có rét, có nóng, có âm, có dương, lúc sinh ra, Iúc mòn đi, lúc đầy lên, lúc
vơi xuống, không thể nào giữ mãi được mực thường. Đã không giữ được mực thường,
thì tất có cuộc biến. Vì thế hoặc năm sáu trăm năm, hoặc ba bốn trăm năm, hoặc
năm sáu mươi năm, cũng phải có một lần biến. Cái biến ấy đã khác với cái thường,
thi phàm ai gặp phải thời ấy, bước vào cái cảnh ấy, ngổn ngang những biến cố ở
trước mắt, chồng chất những khối lỗi ở trong lòng, mới phải mượn đến bút mực để
chép ra, như những truyện anh hùng, truyện phong tình, truyện trung thần, liệt
nữ, truyện đạo sĩ ni cô, chẳng qua là mượn ngòi bút, tờ giấy để chép những cái
cảnh ngộ lịch duyệt của bản thân mà thôi. Truyện Thúy Kiều có lẽ cũng là một thứ
sách như thế cả…”
°
Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân cũng viết những lời thực
chí tình tha thiết:
“Truyện Thúy Kiều chép ở trong lục Phong Tình… Tố Như tử xem
truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn
đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn Trường Tân Thanh, thành ra cái lục Phong Tình
thì vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy.
Trong một tập thi chung lấy bốn chữ “Tạo Vật, Đố Tài” tóm cả
một đời Thúy Kiều: khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi
nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đăm khúc tiêu tao; khi duyên và kim cải,
non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng
tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải
nghĩ càng tê lưỡi. Vui, buồn, tan hợp, mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra
như hệt, không khác gì một bức tranh vậy…
Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm
tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ
suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy…
Cổ nhân thương khóc Thủy Kiều của Nguyễn Du như thương khóc một
nhân vật có thực mà mình đã quen, đã biết, đã vương duyên nợ đằm thắm từ giờ;
như thương khóc một nhân vật do chính mình sáng tác. Đến lượt, cô Kiều của Tố
Như lại bị người khác “hoàn thai đoạt cốt”, để biến thành “người tình nhân của
tất cả”. Chính đó là dấu hiệu niềm cảm thông hoàn vẹn nhất, hòa điệu với tâm hồn
tác giả Đoạn Trường Tân Thanh.
Bài thơ đề Truyện Kiều của Phạm Quý Thích tiên sinh đáng kể
là một trong những khúc hòa âm tuyệt diệu đó:
Giai nhân bất thị đáo Điền Đường,
Bán thế yên hoa trái vị thường.
Ngọc diện khởi ưng mai thủy quốc
Băng tám tự khả đối Kim Lang.
Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu,
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường.
Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ,
Tân Thanh đáo để vị thùy thương.
Dịch nôm:
Giọt nước Tiền đường chẳng rửa oan,
Yên hoa chưa trắng nợ hồng nhan?
Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng;
Gót ngọc khôn đành chốn Thủy quan.
Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp;
Một giây bạc mệnh dứt cầm loan.
Cho hay những kẻ tài tình lắm.
Trời bắt ùam gương để thế gian.
Nói đến Nguyễn Du và Truyện Kiều, từ xưa đã biết bao nhiêu
bút mực tiếp mạch nguồn cảm thông!
Hôm nay, chúng ta gợi nhớ lời vang bóng của Nguyễn Du trong một
mùa thu tưởng niệm. Chúng ta chợt nhận thấy hình như vùng ánh sáng Tự Do ở đây
có đượm một phong khí lâng lâng thoát tục diệu kỳ. Chính bởi vì khi hậu vùng trời
tự do đã giữ bền cho chúng ta kỷ niệm, khiến chúng ta có dịp tìm thấy những ánh
hào quang tuyệt vời của dĩ vãng nghĩa là giúp chúng ta lưu luyến thêm dĩ vãng,
để mà tin yêu hiện tại và hy vọng ở tương lai.
Chú thích:
1. |
Có sách ghi: Ngày 04 -8-1867 |
2. |
Theo tài liệu của Nam Xuân Thọ. |
PHAN BỘI CHÂU
NHÀ THƠ CÁCH MẠNG THUẦN TÚY
Ngày 29 tháng 10 năm 1940, tại kinh thành Huế, bên dòng sông
Hương tự muôn đời lờ lững trôi xuôi, trong túp lều tranh ba gian nương mình
trên Bến Ngự, nhà chí sĩ cách mạng kiêm thi sĩ Phan Bội Châu đã âm thầm trút
hơi thở cuối cùng, thọ 74 tuổi, sau 15 năm sống giam lỏng trong cái cảnh:
Những ước anh em đầy bốn biển,
Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian…
Từ khi tử thần còn chờ đợi, trên giường bệnh, thi sĩ cách mạng
chưa bao giờ nhụt chí đấu tranh mà phải ép mình buông tay theo số mệnh vô tình,
nhà thơ ái quốc thuần tuý đó đã từng đọc cho thân nhân chép lại bài thơ mênh
mang cảm khái:
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ thùy nhân bất thức quân.
Bẩy mươi tư tuổi trót phong trần,
Nay gặp bạn mới tinh thần hoạt hiện.
Những ước anh em đầy bốn biển,
Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian.
Sống xác thừa mà chết cũng xương tan,
Câu tâm sự gửi chim ngàn cá biển.
Mừng được đọc bài văn “sinh vãn”.
Chữ đá vàng in mấy đoạn tâm can.
Xét mình nay sức mỏng trí thêm khan.
Lấy gì đáp khúc đàn tri kỷ?
Nga nga hồ chí tại cao sơn,
Dương dương hồ chí tại lưu thủy,
Đàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm?
Bỗng nghe qua, khóc trộm lại đau thầm.
Chung Kỳ chết, ném cầm không gẩy nữa,
Nay đương lúc tử thần chờ trước cửa.
Có vài lời ghi nhớ để về sau
Chúc phường hậu tử tiến mau…
- Thực là những lời tâm sự thống thiết, có lúc nghẹn ngào khiến
người nghe muốn thùy lệ. Nhưng thống thiết nghẹn ngào mà vẫn thấm đượm cái giọng
khảng khái trầm hùng của một tấm lòng sắc son vàng đá với non sông.
Chất thơ Sào Nam rung cảm chúng ta một cách vừa say sưa, vừa
thấm thía. Chưa nói đến tính chất cách mạng, tính chất ái quốc, tiếng thơ đó
khích động, chúng ta trước hết bằng những tiềm lực mầu nhiệm của thi ca thuần
túy: sức quyến rũ của âm thanh, vần điệu, sức gợi cảm của hình ảnh, sắc màu; và
giá trị của thi tứ hòa hợp cùng giá trị của kỹ thuật, từ chương, tất cả tạo nên
một bản sắc thi nhân độc đáo, nhiều khi biểu hiện sâu đậm hơn cả tính chất ái
quốc, cách mạng.
Vẫn biết, nói tới cụ Phan Bội Châu, không nên và cũng không
thể tách rời sự nghiệp thi ca khỏi sự nghiệp cách mạng: phải có đủ cả mấy yếu tố
“thi sĩ, chiến sĩ, chí sĩ” chung đúc trong một tinh thần “kẻ sĩ” trung kiên, mới
kết tụ được đúng cái bản ngã Phan Bội Châu toàn vẹn, mới phát tiết được hết những
tinh hoa lỗi lạc thuần chất Phan Bội Châu. Vả lại, ở Sào Nam tiên sinh, con người
chí sĩ, cách mạng không hề tương phản với con người thi sĩ. Làm thơ, đối với
tiên sinh, chính là để phụ họa, cổ xuý cho cách mạng, và làm cách mạng cũng
chính là một quan niệm sống cho đẹp, sống cho hào, sống cho “có thi vị”. Trên
bước đường hoạt động đầy sóng gió, tiẻn sinh vẫn nhìn cách mạng với tầm mắt
phóng khoáng của một nhà thơ, không phải để tránh nhìn thẳng vào thực lế, nhưng
chính là để giữ vững niềm tin tuyệt đối vào cách mạng.
Có thể nói: làm cách mạng, đối với tiên sinh, cũng
chính là làm một bài thơ sống động nhất, hào hùng nhất, một bài thơ siêu việt
hàm xúc đủ tiết điệu bổng trầm.
Ý niệm đã biểu lộ một nhân sinh quan vừa hùng hậu, vừa lãng mạn,
mà chúng ta có thể tìm thấy trong số các bài thơ của tiên sinh- cả trong những
bài thơ kêu gọi đồng bào, cảnh tỉnh quốc dân.
Chúng ta nhận thấy: tinh thần cách mạng nhiệt thành của nhà
chí sĩ đã khơi mạch nguồn rung cảm mãnh liệt cho hồn thơ của thi sĩ, khiến hồn
thơ đó thẳng đường tung cánh bay cao; ngược lại, hồn thơ của thi sĩ cũng có tác
dụng hưng khải tinh thần đấu tranh của nhà cách mạng, gây thêm hào hứng cho người
chiến sĩ, đem màu sắc huyền dịu của thi ca tô đẹp thêm khung trời lý tưởng, và
tạo cho cuộc đời cách mạng đầy hiểm nguy bất trắc một phong vị phiêu lưu quyến
rũ khác thường.
- Hãy đọc bài thơ lưu giản sau đây, do tiên sinh khẩu
chiếm để từ biệt anh em đồng chí, trước khi lên đường bôn ba hải ngoại:
Sinh vi nam tử yếu ly kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hạ cánh vô thùy.
Giang sơn tử hỷ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyên trục trường phong Đông Hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Dịch nôm
Khác thường hay nhẩy mới là trai,
Chẳng chịu văn xoay mặc ý trời.
Trong cuộc trăm năm đành có tớ.
Rồi sau muôn thuở há không ai?
Non sông đã mất, mình khôn sống,
Hiền thánh đâu còn, học cũng hoài.
Đông Hải xông pha nương cánh gió,
Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi.
(Ngục Trung thư)
Đó là ngày mồng hai tháng giêng năm Ất Tỵ (1905), cụ Phan Bội
Châu từ Quảng Nam tới Hải Phòng, rồi từ Hải Phòng ra Moncay, giả làm một chú
khách đi buôn, cạo đầu gióc bím, bí mật đáp một chiếc thương thuyền vượt biển
sang Tàu.
Thực tế là cả một cuộc tranh đấu gay go, với bao nhiêu biến cố
bất kỳ, bao nhiêu dặm trường gian khổ. Nhưng hồn thơ đã biến cải sự vật. Hồn
thơ đã tỏa rộng chất men kỷ diệu vào sương gió, khiến cho cuộc đăng trình vượt
biển của nhà cách mạng trở nên một cuộc viễn du hào hứng của tay lạc phách
giang hồ.
Trước cái cảnh:
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi…
Hình ảnh nhà cách mạng lênh đênh hải ngoại tự nhiên hiện lên
ngạo nghễ, đẹp một vẻ đẹp vừa ngang tàng vừa phong nhã, không khác hình ảnh một
Lý Bạch giữa thời khắc “thi hành tiếu ngạo lăng thương châu”, hoặc hình ảnh một
Cao Bá Quát trước khung cảnh “hải thượng bạch ba như bạch đầu… Trung hữu
điểm điểm phù khinh âu”…
Tuy trong con người Phan Sào Nam, cái bản ngã cách mạng vẫn
hòa đồng cảm ứng khăng khít với cái bản ngã thi sĩ và thường thường hỗ tương ảnh
hưởng lẫn nhau, nhưng phân tách kỹ, chúng ta sẽ nhận thấy cái bản ngã thi sĩ của
tiên sinh nhiều lúc hứng khởi rạt rào gần như che lấp hẳn con người thực tế. Những
lúc đó, nhà chiến sĩ cách mạng biểu hiện bản sắc rất mờ nhạt, mà chỉ thấy nổi bật
lên cái bóng dáng phong lưu tài tử của người thơ cùng gương mặt tao ông, thi
khách hào sảng.
Đôi cánh mộng của thi ca đã nâng cao người “khách phiêu bồng”
hay vượt lên vùng trời thanh khí, để không cần lưu ý tới những bước thăng trầm
tân khổ của cuộc đời, không cần phiền bận vì những bất bằng điên đảo của thế sự.
Cuộc sống gai lửa cùng những sự thực tàn nhẫn mà người chiến sĩ cách mạng cần
phải nhìn thẳng vào, không một chút ảo tưởng, để phòng ngừa, đối phó, rút kinh
nghiệm, cuộc sống thực tế đó, người thơ Phan Sào Nam khi mà thi hứng đã nhập thần,
chỉ coi nhẹ như lớp tuồng vân cẩu tự nhiên, và buông xuôi tất cả sự đời trong một
tiếng cười khà bất chấp.
Chẳng thế mà biết bao lần vào tù, ra khám, trải qua bao nhiêu
thử thách phũ phàng; nơi quê nhà đã phải ẩn mình trốn tránh, miền khách địa lại
gặp nhiều cơn tai biến bất ngờ, tiên sinh chẳng những đã không ngã lòng nản
chí, mà còn giữ được cái phong thái ung dung tự tại của một kẻ sĩ hào sảng, vốn
tin vào định luật vô thường của tạo hóa, nên không để cho cái “biến” của thế sự
lay chuyển được tinh thần an nhiên.
Khi ở Quảng Đông, Phan Bội Châu tiên sinh bị đô đốc Long Tế
Quang bắt giam vào ngục chung với Mai Quân Lão Bạng, một giáo sĩ đạo Thiên
Chúa, người tỉnh Nghệ An, bỏ nước ra ngoài hoạt động chính trị, lần này bị bắt
là lần thứ ba, và khi nghe Mai Quân than thở, hận mình vì nước bôn ba, chưa làm
nên việc gì, chỉ những giam hãm lao tù, mất hết ngày giờ quý báu, Phan tiên
sinh đã đọc miệng bài thơ sau để an ủi Mai Quân:
Phiêu hồng ngã bối các tha hương.
Tân khổ thiên quân phận ngoại thường.
Tánh mạng kỷ hồi tần tử địa,
Tu mi tam độ nhập linh đường.
Kinh nhân sự nghiệp thiên đào chú
Bất thế phong vân đế chủ trương.
Giả sử tiền đồ tận di thản
Anh hùng hào kiệt giã dung thường
Dịch nôm
Bơ vơ đất khách bác cùng tôi,
Riêng bác cay chua nếm đủ mùi.
Tính mạng bao phen gần chết hụt,
Mày râu, ba lượt bị giam rồi.
Trời toan đại dụng nên rèn chi,
Chúa giúp thành công tất có hồi.
Nếu phải đường đời bằng phẳng hết,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai.
Lời thơ đượm cái giọng ngang tàng khí phách đầy tự tin, chẳng
khác một Nguyễn Công Trứ với cái ngông rất nghệ sĩ, rất tài tử của “chí nam
nhi”. Những lúc này, quả thực người thơ có nhiễm phần nào cái tư tưởng phóng
nhiệm của Lão Trang, và như vậy, đã gây thêm hào hứng rất nhiều cho nhà cách mạng.
Trên bước đường tranh đấu gian khổ của người chiến sĩ cách mạng,
tránh sao khỏi những đổ vỡ, thất bại? Và người chiến sĩ, dẫu kiên gan bền chí
như cụ Phan Bội Châu, cũng không tránh khỏi những phút giây khủng hoảng tinh thần
trầm trọng, những thời khắc:
“Ưu thế kỷ hồi thương hải khấp.
Kinh nhân nhất chỉ ngọc sơn đồi”.
nghĩa là:
“Lo nước bao phen sa huyết lệ,
Tin quê đưa tới luống kinh tâm”…
Đó là vào những năm 1909-1910, khi Học sinh đoàn Việt Nam ở
Nhật Bản bị giải tán: “Kinh tế hết phương” và “Ngoại giao bịt lối”, anh em du học
sinh đành phải từ giã đất nước Phù Tang mà đi. Cụ Phan và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để
cũng bị chính phủ Nhật buộc phải xuất cảnh. Bao nhiêu sách vở truyền đơn của cụ
in ra để cổ động quốc dân đều bị nhà đương cuộc Nhật tịch thâu hết 1 .
Tháng tư, mùa hạ, năm Kỷ Dậu (1909), với số tiền của đảng gửi
tới, cụ đem trao hết cho một hiệu buôn Nhật để họ lén mua quân giới cho mình.
Quân giới mua rồi, do Đặng Tử Mẫn bí mật chở qua Hương Cảng. Lúc ấy là hạ tuần
tháng năm, cụ Phan cũng đã từ Nhật trở về Hương Cảng. Nghe tin nước nhà đưa
sang: Đề Thám đang kịch chiến với quân Pháp, cụ quyết định phải chuyên chở khí
giới về cứu viện họ Hoàng, đồng thời thực hiện chủ trương bạo động mà cụ hằng dự
tính. Muốn chở quân giới về nước nhà, tất phải mượn đường Xiêm vào Trung Việt,
vậy cụ lập tức lên đường sang Vọng Các, tìm cách yết kiến nhà cầm quyền nước
Xiêm, yêu cầu họ giúp đỡ mình, nhưng họ dùng dằng chưa quyết.
Cụ lại giã từ Vọng Các đi Nam Dương, tìm Chương Bình Lân là một
đảng viên cách mạng Trung Hoa, nhờ Chương viết một bức thư giới thiệu cụ với
lãnh tụ đảng. Bàn định xong, cụ tới một hãng tầu Trung Hoa thương thuyết với họ
về khoản tiền chuyên chở.
Không ngờ, trung tuần tháng 2 năm Canh Tuất (1910), cụ ở Nam
Dương trở về, bỗng nghe tin: chính phủ Pháp đàn áp dữ quá, người chủ não của Đảng
ở trong nước là ông Ngư Hải bị nạn, việc đảng vỡ lở tứ tung. Bao nhiêu quân giới
giấu ở Hương Cảng, vì sự đình trệ lâu ngày mà tiết lộ đến tai mắt nhà đương cuộc
Anh ở Hương Cảng, tất cả hơn 10 hòm súng đạn đều bị chính phủ Anh tịch thu hết 2 .
Trước những biến cố khốc hại như vậy, nhà cách mạng Phan Sào
Nam, dù vững tinh thần đến mấy, cũng không khỏi nao lòng, và bất giác phải thốt
lên tiếng thở dài phẫn khích:
“Khả vô mãnh hỏa thiêu sầu khứ,
Thiên hựu cuồng phong tống hận lai”.
Nghĩa dịch:
“Đã không ngọn lửa thiêu sầu rụi.
“Lại có cơn giông thổi giận thêm…
Còn bao nhiêu tai biến kinh tâm khác, khả dĩ khiến cho một tấm
gan thiết thạch phải xúc động: tin nước nhà mỗi lúc càng thêm bi đát. Càc đồng
chí hoạt động trong nước, kẻ bị bắt, người bị đày. Phong trào cách mạng hải ngoại
cũng không phấn khởi hơn, đã có lúc hầu như tan rã.
Cho tới lúc chính bản thân mình cũng bị giam cầm, tù ngục, mà
lại bị giam cầm giữa miền khách lạ bơ vơ. Nếu nhìn thẳng vào hoàn cảnh thực tế,
không viển vong, không ảo tưởng, có lẽ nhà chí sĩ cách mạng Phan Sào Nam sẽ chỉ
thấy toàn một màu đen u ám, một ấn tượng hết sức bi quan. Nhưng nguồn thi cảm
phong phú của nhà thơ đã tạo riêng một không khí tiêu dao khoái hoạt, không phải
để lẩn trốn thực tế, nhưng để nuôi dưỡng tinh thần, giữ vững phong độ, và hun
đúc huyết tinh cho bền.
Chặng đường hoạt động của nhà cách mạng, khi bị dồn vào bốn
chản tường nhà giam, thì hiển nhiên phải coi như một bước thất bại, ít nhất
cũng là một bước cản trở, làm giảm bớt rất nhiều cái đà bay nhẩy tung hoành.
Nhưng với nhãn quan phóng khoáng của thi sĩ, bốn bức tường nhà giam phải đâu đã
có hiệu lực trói buộc nổi bước chân lãng tử. Hồn thơ vẫn bay bổng tuyệt vời, có
thể vượt qua tất cả mọi chướng ngại trần gian. Lao tù, đầy ải xét ra không hề
kìm hãm nổi cái chí bốn phương của nhà thơ cách mạng Sào Nam. Và lao tù đã
không ngăn được tiên sinh làm những vần thơ ngạo mạn:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù
Thân nọ vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu?
Vẫn có cái “hào” của Nguyễn Công Trứ. Thêm cái ‘‘ngất ngưởng”
say của Tản Đà. Và đáng kể hơn nữa có cả cái an nhiên thích thảng của một Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Nhà tù ‘‘của’’ nhà thi sĩ cách mạng Phan Bội Châu tưởng chừng cũng
giống như “Bạch Vân Am” của cư sĩ họ Nguyễn – nơi ẩn dật, ẩn cư, chốn tiêu dao
ngày tháng. Và khi Sào Nam tiên sinh tuyên bố rất thản nhiên:
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
thiết tưởng cũng không khác cái phong độ của Nguyễn Bỉnh
Khiêm nằm khềnh trong am cỏ, gác chân đọc sách, hoặc ung dung ngồi dưới bóng
cây xanh, vui cái vui của người mặc khách lạc đạo vong bần :
‘‘Một mai, một cuốc, một cần câu…’’
Con người thi sĩ “phong lưu hào kiệt”, con người triết nhân,
hiền giả Phan Sào Nam ở đây đã mặc nhiên vượt lên trên con người tranh đấu,để
mà tìm cho mục đích đấu tranh một ý nghĩa cao đẹp khác thường - phải chăng
chính những lúc này tiên sinh mới đột nhiên cảm thấy cái nghĩa vị tha tuyệt đối
của lý tưởng cách mạng, đặt trên bình diện nhân loại rộng lớn? Phải chăng tầm mắt
nhà thơ đã ít nhiều “tiên tri”, ít nhiều nhìn thông suốt thế cuộc tương lai,
cho nên giữa lúc bị cường quyền đàn áp, cương tỏa, bị bóp nghẹt tự do trong tù
ngục âm u, tiên sinh vẫn giữ được “lòng vô sự, trăng in nước”, vẫn cười được những
nụ cười thanh thoát như “gió thoảng hoa”:
Mở miệng cười tan cuộc oán thù
Lời nói chứa đụng cả một quan niệm xuất sử cao viễn! Làm cách
mạng mà không cần khơi mầm thù oán, tất phải có một tâm hồn bao la, quảng đại tới
chừng nào! Đó là thứ cách mạng bác ái của Đấng Cứu Thế. Thứ cách mạng từ bi của
Đức Phật. Thứ cách mạng “thế thiên hành đạo” của Chu Công, Khổng Tử. Và, đó là
tinh thần cách mạng “anh hùng mã thượng” của nhà chí sĩ kiêm thi sĩ Phan Sào
Nam.
Như vậy, làm thơ để cổ xúy cách mạng đối với tiên sinh đâu phải
chỉ là làm công việc tuyên truyền vận động bằng bút mực, mà chính là “đem
tâm huyết giãi cùng giang sơn”, trước hết lưu lại không gian nghìn vạn thuở một
tấm lòng thiết tha gắn bó cùng vận mệnh non sông. Làm thơ cách mạng như tiên
sinh trước hết chỉ là sống chân thành và trọn vẹn một cuộc sống tinh anh lý tưởng
kết tụ trong từng âm thanh, vần điệu; đồng thời làm cho cuộc sống đó có phần
nào “bóng mây hơi nước” tới cuộc sống chung của dân tộc, trao gửi vào sông núi
một lời nguyền giao ước không rời đổi.
Những Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư, Hải Ngoại Huyết Thư, Ngục
Trung Thư, cùng những thơ văn ái quốc, những bài ca hô hào, cảnh tỉnh đồng bào
của Phan Bội Châu tiên sinh, cố nhiên vào thời Pháp thuộc, không thể được tự do
truyền bá trong dân gian, cho nên chưa thể ước lượng đúng phạm vi ảnh hưởng
trên địa hạt thực tế. Nhưng trong lĩnh vực nghệ thuật, tiếng thơ Phan Bội Châu
đã hiển nhiên có một hình thái, một giọng điệu riêng biệt, làm gợn nổi lên bất
diệt một bản ngã, thể hiện được sống động một linh hồn.
Thân thế nhà cách mạng có thể bị đàn áp, kiềm tỏa, suốt bao
năm chìm nổi, long đong, sự nghiệp đấu tranh của nhà cách mạng có thể chỉ thâu
góp toàn những thất bại, tan vỡ, nhưng linh hồn kia vẫn uyển nhiên tồn tại trước
thời gian, và lâng lâng bay đi khắp bốn biển: bản ngã kia vẫn giữ bản sắc thái
không mờ, từ bao lâu vẫn tỏa rộng bao trùm lên sông, núi, như một cánh chim bao
dung lúc nào cũng lưu luyến ân cần liệng quanh tổ ấm, để thiết tha bảo vệ bầy
chim nhỏ vô tư…
Hồn thơ Phan Sào Nam như vậy đó. Như một cánh chim luyến tổ,
dù bay tới những phương trời nào, cũng vẫn chỉ tìm cành Nam mà đỗ: “Việt điểu
sào nam chi…”. Hồn thơ ái quốc của nhà chí sĩ họ Phan, từ khi vỗ cánh tung mây,
đã truyền rung động cho cả mỗi đầu cây, ngọn cỏ, trao ý tình đi cho khắp gió nước,
trăng sao, gửi tâm sự đến tận chim ngàn, cá biển. Bởi thế, tới khi thấm nhập
vào lòng người, hồn thơ Phan Bội Châu đã sẵn sàng rung lên những tiếng vang đồng
vọng từ khắp bốn phương sông núi, kết tụ được cả linh khí của núi sông, hòa hợp
cùng mảnh hồn thiêng đất nước.
Chính hồn thơ đó đã truyền sinh khí trường cửu cho linh hồn
cách mạng mà tiên sinh là hiện thân toàn vẹn. Cho nên, năm 1925, khi ở Thượng Hải
bị người Pháp bắt đưa xuống tàu thủy để vượt biên về nước nhà, tiên sinh tưởng
cuộc đời mình đã kết liễu từ đấy, và tiên sinh đã làm những vần thơ tuyệt mạng
chí tình.
I
Nhất lạc nhân hoàn lạc thập niên,
Hảo phùng kim nhật liễu trần duyên.
Bình sinh kỳ khí vi hà hử?
Nguyệt tại ba tâm, vân tại thiên.
II
Sinh bất năng trừ thiên hạ loạn,
Na kham tử lụy hậu lai nhân.
Hảo tòng hổ khẩu hoàn dư nguyện,
Khẳng nhượng Di, Tề nhất cá nhân.
III
Thống khốc giang san dữ quốc dân,
Ngu trung vô kế chửng trầm luân.
Thủ tâm vị liễu, thân tiên liễu,
Tu hướng tuyền đài diện cố nhân.
Dịch nghĩa:
I
Sáu chục năm nay ở cõi đời,
Trần duyên giờ hẳn rũ xong rồi.
Bình sinh chí lớn là đâu tá?
Trăng dọi lòng sông, mây ngất trời.
II
Sống đã không trừ xong giặc nước,
Chết đi há lụy tới người sau?
Phen này miệng cọp ảu đành dạ,
So với Di, Tề có kém đâu?
III
Thương khóc non sông với quốc dân,
Tài hèn không vớt được trầm luân.
Lòng này chưa hả, thân đã chết.
Chín suối thẹn thùng gặp cố nhân.
Trên thực tế, cuộc đời cách mạng của nhà chí sĩ họ Phan đã biết
bao lần bị mây đen che phủ, bao lần trải qua những thất bại gian nan, tưởng chừng
kề gần ngay cái chết như vậy? Nhưng cũng lại biết bao lần, chỉ vì tiên sinh còn
giữ vững phong độ một nhà thi sĩ, cũng như giữ bền khi tiết một bậc sĩ phu, mà
tinh thần cách mạng của tiên sinh mới không bị nao núng, mà ý chí đấu tranh của
tiên sinh mới càng thêm nhiệt thành?
Chính nhờ có một hồn thơ phóng khoáng, trung thực, mà trong
phạm vì ảnh hưởng tinh thần, phải nói rằng: sử mệnh của Sào Nam tiên sinh đã
thành công, và thành công trước hết là do ở tiếng thơ thiết tha truyền cảm của
tiên sinh. Tiếng thơ đó, suốt mấy mươi năm Pháp thuộc trải qua bao nhiêu biến
thiên trọng đại của lịch sử và của lòng người, cho tới nay vẫn còn để lại trong
linh hồn dân tộc những dư âm trầm lắng ngàn trùng. Tiếng thơ ái quốc, tiếng thơ
cách mạng của cụ Phan Bội Châu đã gây cả một tác phong quật khởi cho lớp người
sống giữa buổi non sông phân tán dưới gót giầy xâm lược của đế quốc thực dân.
Chúng ta thành khẩn cúi đầu ngưỡng vọng trước một hồn thơ cao
khiết như vậy.
Và, để cảm thông gần gũi với tấm lòng ưu ái giang sơn của nhà
chí sĩ ngày nào xưa từng đã lắng sâu tâm sự u hoài trong niềm cô đơn không kẻ
hiểu, chúng ta hãy ghi chú thêm bài thơ sau đây của tiên sinh - một bài thơ với
những cảm giác rất ấn tượng, chỉ có vài nét đơn sơ, hầu như không nói gì cả mà
chính ra nói rất nhiều:
VÀO THÀNH
Vào thành ra cửa Đông
Xe ngựa chạy tứ tung,
Vào thành ra cửa Tây,
Sa gấm rực như mây.
Vào thành ra cửa Nam,
Ảo mũ đỏ pha chàm.
Vào thành ra cửa Bắc,
Mưa gió đen hơn mực.
Dạo khắp trong với ngoài!
Đàn địch vang tai trời.
Đau lòng có một người!
Hỏi ai? Ai biết ai?.
Chú thích:
1. |
Theo lời yêu cầu của người Pháp, dựa vào tinh thần hiệp ước
Pháp Nhật. |
2. |
Theo tài liệu của Đào Văn Hội trong cuốn “Ba nhà chí sĩ họ
Phan”. |
MIỀN TRUNG VĂN NGHỆ
MỘT THI GIA “LỚP TRƯỚC”
CỤ ƯNG BÌNH THÚC GIẠ (1877-1961)
Nền trời thi ca của miền Trung và của riêng đất Thần Kinh thơ
mộng vừa khuất bóng một văn tình quen thuộc: Cụ Thúc Giạ Ưng Bình, nhà thơ lão
thành chủ súy Hương Bình Thi xã, một trong những đại biểu cuối cùng của làng
thơ “phong lưu tài tử”, người đã từ hơn nửa thế kỷ nay, với phong độ ung dung
thích thảng của một “tao nhân mặc khách” thời xưa, từng giữ bền cái văn phong cổ
điển thuần nhã của những con người “cốt nhạc nòi tình”.
Chúng tôi không có dụng ý - và sự thực cũng chưa dám vội vàng
xác định địa vị văn học của một người thơ “lớp trước” như Thúc Giạ tiên sinh,
chúng tôi chỉ nhận thấy Ưng Bình Thúc Giạ lão tiên sinh là một trường hợp đáng
kể, vì ít nhiều, nếp sống tài tử của tiên sinh cũng biểu hiện cái phong thái của
một lớp người nào, trong một bối cảnh lịch sử nào, ở một vị trí xã hội nào đặc
biệt
Dưới ánh mặt trời hôm nay, cuộc sống hình như chuyển biến quá
mau chóng. Thế kỷ 20 của chúng ta mới trải qua 60 năm lịch sử, mà đã bao nhiêu
vật đối sao dời: bao nhiêu lớp tuồng thế sự thăng trầm; bao nhiêu lớp sóng phế
hưng dồn dập; bao nhiêu lớp người đã tiếp nhau cất bước không ngừng! Mỗi năm, mỗi
tháng, mỗi ngày, lại có thêm những người mới tới, tạo nên một nhịp sống xô bồ,
cuồng nhiệt, từng giờ, từng phút, từng giây…
Bên cạnh những lớp người mới hoặc còn đang chập chững dò đường
hoặc vừa bước chân vào ngưỡng cửa cuộc sống, có những lớp người đang chính thức
góp phần tạo nên lịch sử, lại có cả những lớp người đã hoàn toàn chấm dứt nhiệm
vụ lịch sử của mình, để có thể an nhiên sống ngoài vòng cương tỏa, hoặc bình thản
cất bước tiêu dao trên con đường dẫn tới Im Lặng ngàn đời.
Đáng kể hơn nữa. Thúc Giạ tiên sinh là người đã trải qua cả
hai thể kỳ, đã trải qua sóng gió cả hai thời đại, đã chứng kiến cả nhưng biến cố
lịch sử bất ngờ nhất của mấy chế độ giao thời. Trước mắt tiên sinh, bao nhiêu lớp
tuồng nhân sự bi hoan đã diễn qua, đủ lớp. Vậy mà tiên sinh vẫn giữ thái độ của
một kẻ mặc khách, đến với cuộc đời từ cuối thế kỷ trước, giao động giữa bao
nhiêu chiều hướng tư tưởng, tâm hồn phong nhã của tiên sinh vẫn giữ nguyên cốt
cách thuần lương và tiên sinh ở lại cuộc đời đến tận quá nửa phần thế kỷ hiện
kim, bản ngã hào hoa vẫn ung dung, không hề thay đổi, mặc cho nhịp sống mỗi
ngày mỗi thêm dồn dập, quay cuồng.
Nếp sống phóng dật của tiên sinh, bên ngoài, phảng phất nhiễm
cái phong khí thần tiên xuất thế của Lão Trang. Nhưng trong chiều sâu của ý thức,
trong phần mật ẩn bao la của tâm linh, phải nhận rằng: sỡ dĩ tiên sinh giữ bền
thái độ an nhiên tự tại như vậy cũng vì tiên sinh đã nhìn thấy cái chân tướng của
sự vật hiện ra dưới chiều ánh sáng huyền diệu của triết lý sắc không. Cuộc đời
có, không, không, có, đối với với tiên sinh, dù sống qua hơn nửa thế kỷ, cũng
chỉ là một khoảnh khắc phù du. Ý niệm đó, tiên sinh đã từng phô diễn trong lời
thơ “Khuyên Học Phật”, văn khí tự nhiên mà thành tín như một bài Kệ, gói ghém cả
cái duyên nghiệp phù trầm của một kiếp nhân sinh đã sống qua năm mươi tám năm
trời (bài thơ làm năm tiên sinh 58 tuổi):
Đường danh nẻo lợi ngó đông đông,
Chen chúc nhau chi đám bụi hồng!
Kìa bóng bạch, câu qua chẳng lại.
Nọ tranh thương cẩu có rồi không.
Dở cười, dở khóc trên sân khấu,
Khi nở, khi tàn mấy cụm bông.
Sao kiếp phù sinh cho khỏi lụy,
Quyển kinh, câu kệ chớ nài công.
Với phong độ tài tử kia, với tâm hồn trầm mặc ấy, lại sẵn
theo nền nếp nho phong cố hữu, tiên sinh quả là một “kẻ sĩ cốt tiên, tâm Phật”,
phối hợp nhịp nhàng tinh hoa của cả ba nền học thuật Nho, Thích, Lão, chứng tỏ
rằng tinh thần “Tam Giáo đồng nguyên” chung đúc trong một con người, nhiều khi
đã tạo nên những bản ngã nghệ sĩ đặc biệt. Thúc Giạ Ưng Bình lão tiên sinh
chính là một nghệ sĩ điển hình theo chiều hướng ấy.
Thử đọc những vần thơ sau đây, bên cạnh bài thơ “Khuyên Học
Phật”, chúng ta sẽ thấy bên cạnh con người mộ đạo bằng “quyển kinh, câu kệ” học
lối giải thoát của thiền gia, còn có thêm cả một đệ tử trung thành của Lý, Đỗ,
mượn cầm, kỳ, thi, tửu làm thú xuất trần, tạo riêng cho mình một lối “tu” phóng
túng, lâng lâng phong vận tiểu thần tiên.
Đây là bài “Phủ Doãn về hưu”, tác giả làm năm 57 tuổi:
Mừng đến bến ba mươi năm bể hoạn,
Lái còn nguyên, lèo lạt vẫn còn nguyên.
Ngoắt ông câu, cậy gởi con thuyền,
Ôm sách cũ lại theo miền núi cũ.
Biết đủ, dầu không chi cũng đủ,
Nên lui, đã có dịp thời lui.
Sẵn có đây phong nguyệt kho trời,
Câu hành lạc cập thời, ta chớ trễ.
Có lầu Ngạc liên huy, có đình Lai vũ thể.
Hội Kỳ anh thêm lắm vẻ phong tao.
Thỏa lòng rày ước mai ao.
Và đây là bài “Gởi ông Phan Kính Chỉ”, Thúc Giạ tiên sinh làm
năm 57 tuổi:
Cẩm tú hồ sơn vi địa chủ,
Hỏi còn ai hơn chú Phan Lang?
Có ca cơ, có thi hữu, có ngọc dịch, quỳnh tương.
Sông Hãn có, sông Hương mình chẳng có.
Chắp cánh những mong ra đến đó,
Dừng chèo xin hãy đợi chờ đây.
Khúc Tỳ Bá hãy cứ lên giây.
Câu bạch tuyết thêm gây mùi xướng họa.
Ngã tối liên khanh, khanh ái ngã,
Dệt tờ mây nong nả đứng ngồi trông,
Thấu tình Thúc Giạ hay không?
Có ai chăng, thấu tình Thúc Giạ? Và có ai biết chăng Thúc Giạ
là một nghệ sĩ rất mực đa tình, cuộc sống không phải chỉ thu hẹp trong bầu
trăng gió cầm ca của chốn đình viên, thi xã, mà còn tỏa rộng trên khắp cả đất
nước, non sông, sẵn sàng hòa đồng cùng nhịp sống của những tâm hồn đồng điệu bốn
phương. Thế nên Thúc Giạ tiên sinh rất hiếu khách.
Ai là khách văn mặc đặt chân tới kinh thành Huế mà không từng
nghe tiếng thi ông Ưng Bình Thúc Giạ, người mặc khách của thôn Vỹ Dạ, chủ súy
Thi xã Hương bình, người đã khoác một tấm áo phong nhã hào hoa cho Hồn Thơ
sương kính của đất Thần Kinh, gây cho phong trào hội ngâm ở Huế cả một cái nếp
diễm lệ từ mấy chục năm nay vẫn giữ nguyên tư thế.
Nếu người du khách lại có cái duyên tri ngộ với chủ súy Hương
Bình Thi Xã mà tất cả các khách văn nhân tài tử gần xa, nếu có lòng tìm đến, đều
dễ dàng thắt chặt mối duyên - khách sẽ càng có dịp nhìn gần thêm nếp sống phong
lưu của người nghệ sĩ tài hoa, và cũng nhìn gần, hiểu rõ, khách sẽ càng thêm cảm
mến, không vì cái văn vẻ đài các của cuộc thù ứng mà giảm bớt chân tình. Bởi vì
cái đài các văn vẻ của Thúc Giạ tiên sinh rất tự nhiên, phong điệu hào hoa của
tiên sinh rất sảng khoái, cốt cách phong lưu của tiên sinh rất thuần nhị, và thứ
nhất, tấm lòng hiếu khách của tiên sinh rất đầm thấm, chân thành.
Khách sẽ nhớ mãi những kỷ niệm êm đẹp, và nhớ mãi tâm hồn thuần
nhã mà cởi mở của chủ nhân, người nghệ sĩ tài tử hun đúc trong Hồn Thơ Sông
Hương Núi Ngự; và cũng xứng đáng “đại điện” cho Núi Ngự Sông Hương.
Gần kinh thành Huế, bên con đường rộng qua thôn Vỹ Dạ, trước
một khu vườn xanh rờn cây là thuộc phủ Tuy Lý, khách sẽ nhớ mãi chiếc cổng xây
trên đề ba chữ “Chu Hưng Viên”, và chắc hẳn khách cũng không quên đôi câu đôi
chữ kèm hai bên:
Khoái mã trường chu, đông tây đắc lộ.
Hầu môn cự thất, tả hữu vi lân…
Quên làm sao cả đôi câu đối nôm:
Ưng đọc thi tiên, thẳng đó một đường lên Vỹ Dạ,
Muốn nghe kinh Phật, cách đây vài cửa đến Ba La
Từ cổng vào vài chục bước, giữa đám cây um tùm, khách còn nhớ
chăng “tòa nhà ngói cổ kinh”, với sân lát, bể xây, tường hoa, non bộ? Bên trong
thi viện sách, hiên đàn, lầu thơ, đài Phật, hoành phi, câu đối, sập gụ, ghế bành…”. 1 . Đó chỗ ở của Thúc Giạ Ưng Bình tiên
sinh; khung cảnh ấy cùng với người ấy đã hòa hợp khăng khít, tưởng chừng cảnh
không thể vắng người, mà người cũng không thể thiếu cảnh.
Theo dõi tiểu sử của tiên sinh, chúng ta phải nhận rằng: thực
hiếm có một thi gia sống tới gần một thế kỷ (84 năm), mà cuộc sống lúc nào cũng
giữ được tiết điệu thăng bằng, đều đặn, một cuộc sống thoải mái trôi xuôi, với
đầy đủ phong vận của một con người “cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt
tình hoài, tối thế thượng chi phong lưu giang hồ khí cốt”…
Sinh trưởng trong một gia đình trâm anh thế phiệt (tiên sinh
là con cụ Hiệp Tá Tiểu Thảo Hồng Thiết, cháu nội Đức Ông Tuy Lý Vương), ra đời
năm Đinh Sửu 1877, cậu công tử Ưng Bình đã sớm tốt nghiệp trường Quốc Học Huế,
đỗ đầu kỳ thì Ký lục năm 27 tuổi, đổ Cử nhân Hán học năm 33 tuổi.
Từ tuổi thiếu niên, bước đường công danh của tiên sinh cứ tuần
tự mà tiến bắt đầu làm Ký lục năm 1904, sau bổ Tri huyện, lần lượt thăng Tri phủ,
Viên ngoại, Thị lang, Bố chánh, Tuần vũ, Phủ doãn Thừa Thiên, rồi về hưu và
thăng Thượng thư trị sự năm 1933; sau đó, tiên sinh từng làm Viện trưởng Viện
Dân biểu Trung Kỳ năm 1940-1945, thăng Hiệp tá Đại học sĩ năm 1943.
Đường hoạn lộ như vậy cũng có thể coi là hiển đạt. Nhưng đối
với tiên sinh, sự hiển đạt ấy chỉ có ý nghĩa khi mà tiên sinh có đủ hoàn cảnh để
thực hiện giấc mộng thơ hào phóng của mình. Bởi vậy những lúc công việc nhàn rỗi,
tiên sinh vẫn thường ngao du sơn thủy, uống rượu ngâm thơ, cầm ca xướng họa. Vốn
sành âm nhạc, tiên sinh thường soạn lấy khúc hát tự cầm roi chầu, thả hồn trong
cung bậc tiêu tao cũng sành điệu như truyền cảm hứng vào thi tứ. Tiên sinh ưa
thích nhất là các điệu tuồng cổ, ca Huế, hò mái nhì, cả đến ca trù, chèo cổ. Một
câu hò mái nhì của tiên sinh đã trở nên quen thuộc và phổ biến nơi cửa miệng
người dân miền Trung, đến nỗi nhiều khi người ta thường quên cả tác giả để yên
chí rằng đây là một khúc dân ca:
Chiều chiều trước bên Vân Lâu, ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.
Một vũng nước trong, mười dòng nước đục,
Một trăm người tục, một chục người thinh.
Biết ai gan ruột gởi mình,
Mua tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân.
Từ khi tiên sinh về hưu, thì căn nhà ngói thanh nhã giữa vườn
cây u tĩnh nơi thôn Vỹ Dạ lại càng thêm dặt dìu cung đàn, tiếng hát, câu thơ.
“Chốn hưu đinh của tiên sinh đã nghiễm nhiên thành nơi hội ngâm của Thi xã Hương
Bình”. Các thi hữu xa gần tới lui xướng họa, cuộc đời của Thúc Giạ lão tiên
sinh từ đây quả thực chỉ là một bài thơ dài góp bằng vần điệu của bao nhiêu mặc
khách tao nhân, chen lẫn cùng tiếng hát, cung đàn trầm bổng.
Có người sẽ nghĩ rằng nếp sống tài tử đó chỉ là một hình thái
tiêu khiển thù tạc với cuộc đời, một lối “chơi thơ” kiểu cách của lớp nhà nho
nhàn dật. Và nhiều người trẻ tuổi ngày nay chắc sẽ cho rằng cái văn phong đài
các của các Tao Đàn, Thi xã như Thi xã Hương Bình giờ đây không khỏi lỗi thời
trước bước tiến không ngừng của trào lưu thi ca hiện đại.
Kẻ viết bài này không nghĩ thế.
Thi ca hiện đại cứ việc tiến đến phương trời mới. Nhưng quá
khứ là của lớp người đi trước như Ưng Bình lão tiên sinh. Chúng ta là kẻ hậu
sinh, chúng ta không thể lượng biết được tấm lòng quan hoài Dĩ Vãng của tiên
sinh mênh mang như thế nào. Những con người đã sống qua cả mấy thế hệ hẳn tâm hồn
phải ràng buộc với ngày xưa đậm tình hơn chúng ta.
Còn như phong độ “chơi thơ” tài tử kia, cũng như cái thú chơi
cây cảnh, bể xây, non bộ, của cổ nhân cũng như cái hứng “làm thơ”, “sinh điếu”
người sống xét ra đã biểu thị một thái độ triết nhân cao viễn du hý với vần điệu,
chính vì cổ nhân có quan niệm cuộc đời chỉ là một cuộc thù ứng tiêu dao, không
hơn không kém. Đem câu thơ, tiếng hát, cung đàn tô điểm cho cuộc giao tế, phải
chăng chính là hòa mình uyển chuyển vào cuộc sống, tạo cho cuộc sống một cái nhịp
tương sinh thuần hậu? Cũng như chơi giả sơn, cây cảnh, chính là thu hẹp vũ trụ
bao la trước tầm mắt, để thưởng thức được tinh tế hơn những hình thái hòa điệu,
và cũng để dễ dàng thông cảm với cái vô cùng của vũ trụ. Và làm thơ viếng trước
người sống, cũng như bầy sẵn một cỗ hậu sự trong nhà, phải chăng để mà tự nhủ
mình thản nhiên nhìn vào cái chết, để xác nhận rằng kiếp sống quả là phù du, và
cuộc đời một con người thực cũng không dài hơn một cuộc thù tạc du hý.
Tất cả những việc làm đó đều thoát thai từ nếp sống nhàn du của
cổ nhân, đều biểu lộ một triết lý nhân sinh sâu sắc.
Triết lý thâm thúy đó, cùng văn phong sương kính kia, chúng
ta đều có thể tìm thấy trong hồn thơ của Thúc Giạ Ưng Bình lão tiên sinh.
Theo tài liệu của giáo sư Phan Thế Roanh, chúng ta có thể nhận
định về sự nghiệp văn chương của Thúc Giạ tiên sinh như sau:
Từ trước đến nay, những thơ xướng họa của tiên sinh, vừa nôm
vừa chữ, kể có trên nghìn bài. Thơ nôm trước thời đại chiến, có tập Tình
Thúc Giạ, đã trích in năm 1942; sau hồi đại chiến có tập Đời Thúc Giạ, sắp
xuất bản. Thơ chữ đã góp thành Lộc Minh Thi tập, cũng chưa in.
Những khúc hát góp, đã trích in năm 1954 thành tập Bán
buôn mua vui và được truyền tụng rất nhiều: những câu tình tứ lâm ly, văn
chương chải chuốt, ta thường được vẳng nghe nơi núi Ngự sông Hương, trong ấy có
rất nhiều câu của tiên sinh, đã biến thành ca dao từ lâu và rất được phổ thông
trong quần chúng. Hài kịch thì có tập Tào Lao viết phỏng theo truyện cổ. Còn
quyển Tuồng Lộ Địch, tiên sinh đã phỏng theo sự tích quyển tuồng Le Cid của
nhà văn Pháp Corneille, mà đặt thành vở tuồng cổ Việt Nam ngày trước đã có đăng
ở các báo Đông Phong, Thần Kinh, tạp chí… v.v và đã được rất nhiều thi ca đề tặng
của các thi hữu xa gần; đã được diễn nhiều lần trên sân khấu ở các tỉnh Thanh
Hóa, Bình Định, Quảng Nam, v.v… và nhiều nhất là ở Huế. Buổi diễn đầu tiên tại
rạp Xuân Kinh Đài ở Kinh đô năm 1937, tiên sinh có làm một bài thơ kỷ niệm nhan
đề “Khai diễn tuồng Lộ Địch” như sau:
Rạp hát Vương tôn đã khoác màn
Đã ra sân khấu giữa Trường An
Hiếu tình ngắm rõ gương bi kịch
Thanh sắc mừng thêm vẻ lạc quan
Giá ngọc treo cho đào Hữu Hạnh
Nhà vàng dựng để kép Phương Lan.
Ham vui điệu cũ câu tuồng mới,
Tri kỷ xin chào bạn khán quan.
Tuồng này đã xuất bản năm 1936 và mới tái bản năm 1959.
Ngoài Bắc trong Nam, tao nhân mặc khách mà biết tiếng tiên
sinh cũng là nhờ có những tác phẩm nói trên. Cụ Phú Khê Đoàn Tá, chủ suý Liên
thành Thi xã ở Phan Thiết đã có bài sau này:
Thơ “Tình Thúc Giạ” nhớ từng câu
Lộ Địch tuồng xem cùng thuộc làu.
Đạo lý cương thường gương vạn thuở,
Văn chương đức hạnh tiếng ngàn thu;
Nguồn Tiên lá ngọc là thân trước
Cõi Phật mình vàng hẹn kiếp sau.
Cầu chúc hữu ông thêm thọ mãi
Giữ nền quốc túy đặng dài lâu.
°
Thúc Giạ tiên sinh vừa tạ thế tại Vỹ Dạ thôn, sau 84 năm sống
với thi ca, đàn hát. Tiên sinh lìa trần hồi 2 giờ sáng ngày 4- 4-1961 tức là
ngày 19 tháng Hai năm Tâu Sửu, nhằm đúng ngày via Đức Phật Quan Thế Âm.
Thúc Giạ Hương Bình lão tiên sinh đã khuất bóng. Tiên sinh đã
lên đường đi về thiên cổ, có lẽ để nhập “Hội Kỳ Anh” với những thi hữu đồng
niên tuế. Tiên sinh không còn ở lại với chúng ta! Lại thêm một trong những đại
biểu cuối cùng của Hồn thơ cổ kính ngày xưa vừa rũ vạt áo hào hoa đi mất. Chúng
ta cảm thấy mất theo cả một dĩ vãng dịu hiền và thanh nhã, cả “văn phong ỷ mỹ”
dặt dìu “tuyết hoa giăng gió” của các thi gia lớp trước, cái văn phong trang trọng
tuy không còn phù hợp với khí hậu thao thức của thời đại chúng ta, nhưng chính
vì thế mà chúng ta vẫn coi như hương thơm thuần hậu của một loài hoa quý -
không những chỉ quý vì hiếm, mà còn quý, vì đó là biểu thị trung thực nhất, thuần
khiết nhất của cái Hồn Sống đã một thời từng xoa dịu nỗi lòng của những người
đi trước chúng ta, và ấp ủ cả những giấc mộng của chính chúng ta từ hồi thơ ấu.
Dĩ vãng kia không bao giờ còn trở lại. Và bông hoa phảng phất
hương thơm thanh lịch kia cũng chìm dần theo dĩ vãng để rồi vĩnh viễn đi mất.
Còn Thúc Giạ lão tiên sinh, dĩ vãng kia cùng chúng ta vẫn còn
gần gũi. Mất Thúc Giạ lão tiên sinh, dĩ vãng kia cùng chúng ta trở nên xa xôi
quá.
Giờ đây chúng ta nhắc tới tiên sinh, chính là hoài niệm lại
bao nhiêu vang bóng xa xưa, mà dù muốn, dù không, bản chất chúng ta, từ trong
cùng thâm tâm linh, đã từng thấm nhập.
Để kết thúc, bài này, và cũng là để kính viếng hương hồn Thúc
Giạ Ưng Bình lão tiên sinh, chỉ xin mượn lại bài thơ sau đây của giáo sư Phan
Thế Roanh, thay thế một lời ai điếu:
Mây phủ sông Hương, núi Ngự Bình,
Thôi đà che khuất bóng văn tinh.
Câu thơ điệu cổ càng thêm hiểm,
Khúc hát thời xưa khó lựa thành.
Giở mấy phong thư mà gạt lệ,
Ngắm vài bức ảnh đến tàn canh.
Sao cho khuây khỏa niềm thương nhớ?
Thúc Giạ thi ông có thấu tình?
--------------------------------
Theo tài liệu của giáo sư Phan thế Roanh (đăng trong Luận
Đàm số 5, tháng 4 1961). |
CÁI “THÁI DƯƠNG HỆ” THI CA
Cách đây vừa đúng một thế kỷ, tập thơ “Ác Hoa” của thi sĩ
Charles Baudelaire ra đời. Đô thành văn học nước Pháp không hề cựa mình. Chỉ
riêng mấy ngài giám sát quan giữ nhiệm vụ bảo vệ thuần phong mỹ tục của thời đại
là sẵn lòng để mắt chiếu cố tới “Ác Hoa”. Nhưng chiếu cố bằng “bạch nhỡn” chẳng
phải “thanh nhỡn”. Bởi vì tập thơ mới xuất bản tháng 6 thì tháng 8 tác giả liền
bị ra hầu tòa, để rồi lãnh một cái án phạt vạ 300 quan tiền, và phải loại bỏ đi
sáu bài trong thi phẩm.
Thuật lại truyện này chỉ để nhận định rằng: khi mới đến làng
thơ, Baudelaire không gặp may chút nào. Trong suốt cuộc sống, không lúc nào
Baudelaire gặp may. Thời đại của thi sĩ gần như không biết đến tác giả “Ác
Hoa”.
Người ta rất ít đọc thấy tên Baudelaire trên các báo chí
đương thời. Tờ báo quan trọng thời đó, tạp chí Hai Thế Giới (La Revue Des Deux
Mondes) năm 1855 (sau đó Baudelaire đã 34 tuổi rưỡi) mới thuận đăng cho ông trước
sau tất cả 18 bài thơ, nhưng đã cắt xén, sửa chữa đi ít nhiều và phải đăng kèm
với một lời “giới thiệu rào đón” nếu không muốn nói là lời xin lỗi độc giả!
Người đọc thơ hồi đó cũng chẳng hề thông cảm với Baudelaire,
thi sĩ của nguồn cảm thông hòa điệu, thi sĩ đầu tiên mở lối cho cái hướng cảm
xúc của cả một dòng thi sĩ tượng trưng, đầu tiên nghe thấy “hương, sắc và âm
thanh giao hưởng!” (Les parfums, les couleurs et les sons se répondent). Trong
hồ sơ của ông chủ nhiệm Tạp Chí Hai Thế Giới sau này người ta còn tìm thấy những
bức thư của một số độc giả gửi về trách cứ nhà báo “tại sao lại đăng cái thứ
thơ kinh khủng, quái gở của ông Baudelaire”.
Thời đại thiếu mắt xanh với tác giả Ác Hoa, đến nỗi năm 40 tuổi,
khi thi sĩ có ý tưởng dở hơi muốn xin ứng cử vào Hàn Lâm Viện Pháp, nhà văn
Sainte Beuve phải đánh vần từng chữ cái tên B. a. u. d. e. l. a. i. r. e cho
các bạn đồng viện nghe người ta mới nhớ! Cái tên mà ngày nay một thế kỷ sau ở một
góc trời Đông Á xa xôi này, chúng ta cũng biết. Nhưng tất cả các ông Hàn thời
đó, cả mấy ông quan tòa đã kết tội “Ác Hoa” cùng bao nhiêu công hầu, khanh tướng,
bao nhiêu nhân vật mặt lớn tai to khác, chưa quá mười năm sau, tên tuổi đều đã
chìm vào tích mịch!
Khi sống, Baudelaire không được cuộc đời tiếp nhận nồng hậu.
Nhưng từ lúc chết đi, ấy mới là lúc thi sĩ bắt đầu sống chính thức. Và sống lâu
đời, bất diệt.
Bởi vì “danh vọng là vầng thái dương của những người chết”
đúng như lời một nhà phê bình đã viết.
Trường hợp “hung tinh chiếu mệnh” như Baudelaire, trong lịch
sử Văn Học Thế giới, không phải chỉ có một.
Nhưng tôi chỉ muốn nhắc riêng tới Baudelaire, bởi vì, hơn ai
hết, tác giả Ác Hoa là một gương mặt tiêu biểu nhất của nền thi ca Pháp.
Không phải chỉ riêng thế kỷ thứ 19, mà đến tận bây giờ, ảnh
hưởng Baudelaire vẫn còn ngự trị vững bền trên thi đàn Pháp. Hơn thế, trong
làng thơ thế giới nói chung, cái tên Baudelaire đã trở nên một ý niệm, có một
thứ thơ, và sau Baudelaire có một thứ thơ! Tôi sẽ có dịp xác định vấn đề rõ
hơn. Giờ đây, tôi chỉ muốn ghi lại một nhận xét mà nhiều người thơ đã ghi nhận:
Baudelaire là một Ý niệm.
Ý niệm thẩm mỹ tân kỳ mở đường cho bao nhiêu trường phái thi
ca sau này: Tượng Trưng, Lập Thể. Đa Đa, Vị Lai, Siêu Thực…” phải chăng đã phát
khởi từ Baudelaire? Cố nhiên còn nhiều nguyên nhân sinh thành khác. Nhưng trước
những chiều sóng tư tưởng muôn phương, trên biển cả mông mênh của Học Thuật,
Baudelaire là một trong những ngọn Hải Đăng sáng chói. Baudelaire là một trái
núi biên thùy đứng giữa hai không gian hình thái, sắc màu. Baudelaire là cái mốc
phân định hai thời gian nhận thức.
Vậy mà người thơ đó đã không được thời đại của ông thông cảm.
Nghĩ cũng đáng buồn! Đáng buồn vì xã hội thời Baudelaire quá ư “tôn ti trật tự”!
Cái xã hội mực thước tuy vừa sống qua cơn gió lãng mạn dịu mát, nhưng cũng chỉ
mới chịu đựng được những câu thơ âm điệu đoan trang của một Lamartine, một
Hugo, một Leconte de l’Isle hoặc một Hérédia! Cái văn phong của thời đại ấy, vẫn
còn khuôn theo những kiểu mẫu lý tưởng của nền văn hóa cổ La Hy, chỉ mới chấp
nhận được cái đẹp cân đối của Vệ Nữ thần, chưa thể chấp nhận được vẻ đẹp của một
cái… đầu đàn ông, hay một thân hình đen bóng như gỗ mun của một cô gái miền nhiệt
đới - một Jeanne Duval, cô nhân tình bồ hóng của Baudelaire! Bởi vậy, cũng
không chấp nhận được một thiên tài vượt kích thước như tác giả Ác Hoa.
Baudelaire cũng như tất cả những nghệ sĩ đi tìm Vô Cùng và
Tuyệt Đối, ra đi với một tấm lòng tinh khôi nguyên vẹn, nhưng giữa đường đã gặp
phải một xã hội cũ kỹ, già cỗi như tờ Tạp chí Hai Thế giới! Xã hội đó vẫn còn
những ông Hàn Văn chương râu ria mọc dài cả trên… ngòi bút, vẫn có những vị
quan tòa khả kính như cây cổ thụ ăn sâu rễ con rễ cái xuống cả ghế ngồi ở giữa
pháp đình. Mỉa mai thay! Thời đại bạc bẽo không dung được người thơ, thế mà
Baudelaire, nhìn gương mặt thời đại bằng tầm mắt cải biến sự vật, vẫn say mê,
cái sắc diện của thời đại mình, sẵn sàng tạo cho nó một vẻ tân kỳ đặc biệt, tuy
ông thừa hiểu người đương thời phần đông “bạch nhỡn”.
Ngay trong đám văn hữu, Baudelaire cũng tìm được rất ít tri
âm. Đây, lời “đãi ngộ” cuối cùng của tác giả Ác Hoa, sáu tuần lễ trước khi từ
giả cõi đời! “Ngoại trừ Chateaubriand, Balzac, Stendhal, Mérimée, de Vigny,
Flaubert, Banville, Gautier, Leconte de Lisle, còn tất cả cái đám loạn văn mới
đều làm cho tôi ghê sợ”.
Tôi kể tới trường hợp Baudelaire chưa phải để phân tách, giải
phẫu một linh hồn thi sĩ. Hãy khoan nói tới cái Ác và cái Thiện trong tư tưởng
Baudelaire. Tôi biết có người sẽ nhíu lông mày một cách rất đoan chính, nghĩ rằng:
“giữa thời đại lành mạnh và sáng sủa này còn nói tới Baudelaire làm gì!
Nói làm gì tới một tâm hồn bệnh hoạn ấy? Nhắc làm gì tới thứ thơ Ác Hoa, sản phẩm
của đồi trụỵ, sa đọa, lệch lạc cân não, mất thăng bằng” v.v…
Tôi biết có người sẵn thiện chí xây dựng (tuy chưa xây dựng
được gì) muốn tỏ rằng mình hiểu thấu đáo sự đời (tuy chưa hiểu tới bản thân
mình) có người nhiệt thành bảo vệ phong hóa, sẽ buông một lời phê phán nghiêm
trang: nhắc tới Baudelaire làm gì, trong khi xã hội này đang cần tiến thẳng, đi
lên? đang cần xua đuổi hết những đám sương mù ảo giác? Xã hội này đang cần những
cánh tay rắn chắc, những khối óc tỉnh táo, những tâm hồn trong lành… v.v… Có phải
thế không?
- Hỡi người bạn lành mạnh cả linh hồn lẫn thể xác, nhưng chưa
đau khổ cái đau khổ của Baudelaire, chưa sống cuộc đời như Baudelaire đã sống,
chưa nhìn thấy sâu mọt đục rỗng những thân hình cường tráng như Baudelaire đã
nhìn, mong rằng bạn sẽ bình tĩnh mà nghĩ rằng: từ một trăm năm nay cái mùi
hương Ác Hoa vẫn còn thoảng được tới phương trời Đông Á xa xôi này, hẳn không
phải là mùi hương độc được! Nếu là hương độc dược, tất đóa hoa linh hồn của
Baudelaire đã phai tàn rữa, nát mủn cùng cát bụi thời gian từ lâu rồi, còn gì nữa
để cho người bạn lành mạnh của tôi phải phiền bận? Tan biến theo cát bụi, không
phải là mảnh linh hồn cô độc của Baudelaire, mà chính là bao nhiêu linh hồn
khác của những con người rất đỗi lành mạnh đồng thời với Baudelaire!
“Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch”.
Vậy, nhắc tới Baudelaire, tôi chỉ muốn rẽ lau, vạch cỏ, bằng
một ngòi bút tâm thành, khơi lại con đường giao cảm.
Con đường thơ vô cùng tận của chúng ta là vòng luân hồi truyền
kiếp.
Nhân loại không tiến thẳng, không đi lên! Tiến thẳng tới cứ
điểm nào? Đi lên tới chiều cao mấy độ, tương đối với bình diện trái đất? (Phiếm
thay, những lời nói vô nghĩa!).
Không. Từ xưa nhân loại vẫn chỉ xoay vòng tròn. Chúng ta vẫn
xoay theo vòng luân hồi bất tận, cho nên ngày xưa vẫn hằng gặp gỡ ngàn sau, cho
nên Lý Bạch vẫn gần chúng ta, Baudelaire không cách biệt tôi và bạn. Mỗi linh hồn
nghệ sĩ là một thế giới, một hành tinh phát tiết ra ánh sáng, có hấp lực riêng
phản ứng lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, luân chuyển chung quanh mặt trời, kết
tinh tất cả hào quang vũ trụ, ý niệm lộng lẫy của Chân Thiện Mỹ. Cái “Thái
Dương Hệ Thi ca” thành hình.
Tôi thường nghĩ, từ một đêm nào xa lắm, một đêm tưởng nghe Bộ
lạc ngàn xưa, lên tiếng:
“Chúng ta làm thơ. Chúng ta muốn ngồi lại bên vực thẳm thời
gian, trong khi cuộc đời đi hết. Giữa những tang thương chồng chất từ muôn ngàn
thế hệ, chúng ta hát lên man mác một nỗi lòng. Tiếng vọng đơn sơ của chúng ta
có vượt nổi Vạn Lý Trường Thành, thấm vào tận lòng đá Kim Tự Tháp, thoát khỏi
hình hài, giã từ vật thể, châu lưu trong vũ trụ miên trường?
“Chúng ta làm thơ giữa cát bụi một cõi đời hoang loạn”.
“Qua dòng nước mắt khóc nhân tình, tôi đã thấy mỗi hạt bụi
cát đều thấp thoáng bóng tinh cầu những kỷ nguyên xưa. Bạn hãy kể cho tôi nghe
câu chuyện đời chuyển biến: những gì thường trụ, những gì tiêu tan? Và những
cái gì, “bất biến, nằm ở trong lòng cái “biến”?
“Bài thơ của chúng ta chưa biết bao giờ ngừng khúc điệu”. Từ
lâu lắm, bài thơ bất tận đó, tôi vẫn muốn cùng bạn đọc chung…”.
Trong tập thư bạn gửi về, những bạn yêu thơ cùng tôi chưa
quen biết, thường có những lời tâm sự như sau:
“Anh chưa gặp tôi bao giờ, nhưng chúng ta vẫn thường gặp nhau
ở lãnh vực văn nghệ. Tôi gặp anh trên tờ “Gió Mới” nhờ sự chuyển tiếp hương
duyên của thi sĩ Phạm Hầu”.
Lời nói tuy không mới lạ, nhưng mấy chữ “chuyển tiếp hương
duyên” đã nói trúng ý nghĩ của tôi. Chắc cũng là ý nghĩ đơn sơ mà tâm thành của
những người muốn bước vào con đường quỹ đạo trăng sao, trong Thái Dương Hệ Thi
Ca.
Tôi nói “muốn”, thực ra không đúng.
Thi sĩ hay không thi sĩ, chẳng phải muốn hay không mà thành,
chẳng như người ta muốn vận động cái hàm Tri Huyện, muốn chạy lấy cái cửu phẩm
văn giai!
Trên tất cả ý muốn của con người, còn có một Ý Lực gần như thần
bí đầy người thơ bước theo nghiệp dĩ, một sức chiêu dụ lạ lùng, từ bên trong giục
dã, từ bên ngoài lôi cuốn - một hấp lực Hành tinh thuộc địa hạt Hình nhi thượng
không theo định luật vật lý - một cái Duyên cấu tạo chuyển tiếp sinh khí từ
muôn đời để tạo thành cái bản chất một thuở.
Người bạn thơ, của tôi! Hôm nay chúng ta gặp nhau anh làm thơ
và tôi đọc thơ đó là “nhờ sự chuyển tiếp hương duyên của thi sĩ Phạm Hầu”. Đó
còn là sự chuyển tiếp hương duyên của nhiều thế hệ thi sĩ khác nữa, trong số đó
có thi sĩ Baudelaire.
Hãy kể riêng tới Baudelaire, người thơ mở đầu mạch nguồn giao
cảm (tôi tạm dịch chữ correspondances: hiểu theo Baudelaire, cái nghĩa “chuyển
giao cảm giác” còn sâu sắc hơn 1 kết
tinh hơn). Người thơ ấy đã nghe, đã nhìn và đã cảm vũ trụ tinh vi biết bao
nhiêu, thế mà chính tiếng nói của nhà thơ không được cuộc đời nghe thấu.
Thời đại trật tự tới vô tình, trang trọng tới kiêu bạc, bình
thản tới lạnh lùng ấy đã xa rồi! Xa từ một thế kỷ.
Ngày nay chúng ta sống vào một trong những thời đại xao xuyến
nhất của Lịch Sử Nhân Loại. Cũng may những người hoạn nạn và biến cố cùng chịu
đựng chung đã đưa chúng ta lại gần nhau. Ngày nay, những người làm văn nghệ
không quá giao như thế hệ trước. Cuộc sống luôn luôn biến động khiến những người
bản tính lãnh đạm nhất giờ đây cũng trở nên có nhiều bạn.
Phải ở vào một thời đại ấm nóng lắm, mới có những thần đồng
trong văn học như Minou Drouet 8 tuổi, Françoise Sagan, chưa tới 20 tuổi, được
đưa lên ngai cao tráng lệ của lâu đài Nghệ Thuật. Thử tưởng tượng, nếu sinh vào
thời đại Baudelaire có những vị giám sát quan choàng áo dài đen sẵn sàng bảo vệ
phong hóa cổ truyền, liệu cô bé Minou Drouet và cô nàng Françoise Sagan có ngước
được những con mắt hóm hỉnh lên để mà nhìn vòng lá danh vọng treo thăm thẳm cao
trong Hàn Lâm Viện Văn Chương giữa Kinh Đô Văn Học Pháp?
Cũng là một điều đáng mừng: chúng ta không còn sinh nhầm thế
kỷ.
Bởi vậy, bạn với tôi lại càng quen nhau thân mật hơn. Bởi vậy,
trước khi chúng ta tìm hiểu nhau gần gũi, tôi muốn nhắc tới Baudelaire. Để
nghiêng mình chào một người thơ đã vì Thơ mà chịu suốt một đời đơn chiếc, trong
khi chúng ta hội ngộ đông vui.
Chính vì người ấy đã chịu cô độc, cho nên ngày nay chúng ta mới
càng sốt sắng tìm nhau.
Hôm nay, từ bốn phương tám hướng, vần điệu cảm thòng nhau.
Tôi đọc trên tờ giấy mỏng manh như tờ lá thấm những văn thơ bạn giao duyên.
Bâng khuâng duyên mới… Tôi hình dung người bạn xa xôi qua nét
mực đậm đà vòng theo hàng chữ lượn. Bạn là ai? Tôi tưởng có thể nhìn thấy chân
dung bạn qua bóng dáng của tinh hoa. Mỗi dòng chữ thanh thanh có riêng một sắc
thái. Cũng như một vần thơ gieo là một dáng đứng, dáng đi…
Chỉ buồn nhất những khi, bài thơ đọc đến hết, vẫn hoàn nguyên
giấy trắng, mực đen. Mực đen, giấy trắng, không hề thấy nét chữ hiện hình người,
dù chỉ hiện thoáng mơ hồ một ánh mắt…
--------------------------------
Tiểu thuyết gia kiêm nhạc sĩ người Đức Théodore Hoffmann
theo phương pháp, giao cảm hiểu Baudelaire, đoan quyết rằng khi ngửi mùi
hương Hoa Ưu Tư (Fleur du souci) ông nghe thấy tiếng kèn hautbois: giao cảm
hương âm thanh. Thi sĩ Théophile Gauthier xác nhận rằng ông thường trông thấy
những “âm thanh xanh lá mạ” âm thanh xanh lơ “âm thanh vàng” chuyển trước mắt
ông thành từng gợn sóng rất rõ ràng: đó là giao cảm âm thanh màu sắc… đã nhìn
và đã cảm vũ trụ tinh vi biết bao, thế mà chính tiếng nói của nhà thơ không
được cuộc đời nghe thấu. |
MÂY LÌA NGÀN
Câu chuyện tôi thuật lại đây khởi đầu từ những ngày xa xôi cũ
ở miền Bắc, để rồi vào tới miền Nam này mới kết thúc - gọi là “tạm kết thúc”
thì đúng hơn. Bởi vì đấy là một thiên hồi ký, động tác biến chuyển theo thời
gian, cũng như chuyển theo từng kỷ niệm vui, buồn trong cuộc sống. Và động tác
đều do tự nhiên sắp đặt. Tự nhiên sẽ dành cho ta tất cả mọi bất ngờ. Tác giả
thiên hồi ký này, dù muốn, cũng không thể đóng vai chủ động. Vai chủ động trong
câu truyện chính là Định Mệnh. Định Mệnh dàn bầy, bố cục tất cả. Câu truyện khởi
đầu từ một miền rừng ngoài Bắc, đã từ lâu chìm lắng, qua đi tưởng chừng không
còn vang bóng. Thế rồi, một ngày ở miền Nam ngẫu nhiên kỷ niệm hiện về toàn vẹn.
Quá khứ lại kế gần hiện tại. Những hình bóng của ngày xưa, đã tưởng vĩnh viễn
tan biến vào hư không như một bóng mây bay đi mãi mãi. Nhưng bóng mây xưa lại
chập chờn trước mắt.
Câu chuyện “Mây Lìa Ngàn” lại trở về trong ký ức tôi, với
nguyên vẹn cái phong vị hoang sơ của buổi hạnh ngộ ban đầu…
°
Tôi gặp cô gái ấy một chiều nàng đi xem hội về cùng cả một
đoàn phụ nữ lâm tuyền. “Nàng” chỉ là một cô gái Mán, con đẻ của núi rừng, người
của những bộ lạc dân tộc thiểu số sống ở vùng sơn cước miền Tây Bắc Bắc Việt.
Người đoàn trưởng là một đàn ông đứng tuổi tay cầm dao quắm,
thắt lưng điều, áo chàm khăn lam quấn chéo. Bầy phụ nữ theo sau, y phục đồng loạt
bó sát lấy thân hình, màu chàm nổi bật lên trên nền đất núi cỏ vàng. Trong nắng
xế chiều thu, khoảnh khắc vàng rực lên như một ảo ảnh đột nhiên bừng sáng, những
cái bóng chênh chênh đổ xuống từ lưng chừng non cao, dài thướt tha vĩ đại, gợi
nhớ tới một đoàn nữ binh của Hai Bà Trưng, Bà Triệu ngày xưa.
Qua sơn thôn “của” chúng tôi, đoàn người vào nghỉ chân. Bọn
tôi liền sửa soạn một cuộc nghênh tiếp long trọng. Chúng tôi là một bọn người
văn nghệ đi tránh khói lửa thời chinh chiến. Tuy mới đến đây từ cuối hạ, sống
nhờ dưới mái nhà sàn bao dung của một làng Mường, chúng tôi đã quen thuộc ngay
với cỏ cây vùng này, và nhận luôn rừng núi hoang vu là vật sở hữu của mình.
Đồng bào Mường rất dễ tính, hình như không cần xác định địa vị
chủ nhân, cứ để mặc chúng tôi xâm chiếm núi rừng. Hơn đâu hết, ở đây chúng tôi
được quyền nghĩ rằng: thiên nhiên là của chung tất cả mọi người.
Bởi vậy chúng tôi đã mệnh danh cho nơi sơn thôn hẻo lánh này
là “Trại Văn Nghệ Tự Do”. Đó là thời kháng chiến, cái thời mà những người tản
cư như chúng tôi đang cổ níu lấy một chút ảo tưởng tự do, nên mỗi khi có thể hưởng
thụ một chút tự do thực sự- dù chỉ mong manh- tất cả không ai bỏ lỡ cơ hội.
Đoàn phụ nữ sơn cước qua đây và quyết định nghỉ chân tại đây
cả một đêm. Từ sơn thôn này về làng của họ còn phải vượt qua ba bốn trái núi,
mà tới đây thì trời đã ngả chiều, đi xa hơn nữa không tiện.
Các cô gái Mán bỡ ngỡ nhìn con trai tỉnh thành bưng miệng cười
khúc khích. Hàm răng đều, trắng bóng, nở ra như đóa hoa nguồn.
Các cô gái, gọi tên nhau líu ríu. Chúng tôi không ai biết nói
tiếng miền Thượng, nhưng các cô biết ít nhiều tỉếng kinh. Chưa được sõi lắm,
nên càng có duyên, một cái duyên hoang dã của núi rừng. Tên các cô Mán cũng chỉ
giản dị là Liên, Hoa, Mây, Thắm … chứ không phải là những Pan Slao hay Ptầy
Lùng như tôi vẫn tưởng.
Cô Mây duyên dáng nhất. Chắc phải là hoa khôi đất Mán. Khuôn
mặt tròn, nước da hồng đậm mát, như một trái dâu da rừng vừa ửng chín. Đôi mắt
to, mi dài, tưởng chừng gờn gợn cả ánh mây, sắc núi. Thân hình tròn lẳn tươi
khoẻ, uyển chuyển như một con báo, tỏa ra nguồn sinh lực thiên nhiên. Tôi có cảm
giác nhìn thấy một người con gái ở những đảo xứ nóng miền Bắc xích đạo: một cô
gái đảo Hawai hay Tahiti. Tôi lại liên tưởng đến một thiếu nữ Arlésienne lượn
mình theo âm hưởng một bản nhạc của Bizet…
Phải so sánh nhiều như vậy là vì đôi mắt của cô Mán, và cả
người cô Mán đó thế mà có mãnh lực quyến rũ vô cùng. Tôi nhận thấy thường thường
các phụ nữ Mường và Mán miền Châu Rể thuộc Hòa Bình này, rất ít người có nhan sắc.
Tuy nhiên, nếu đã có người nhan sắc, thì đó là một sắc mặn mà đặc biệt, với những
nét độc đáo khác vời.
Trong khi cô gái Mường nào ở đây cũng… trọc đầu, thì cô gái
Mán để tóc dài óng ả. Đồng bào Mán vùng này không “sơn đầu” như ở một vài địa
phương khác. Dưới nếp khăn lam tỏa rộng như một thứ lá cây rừng kỳ lạ ngẫu
nhiên phủ trên vầng trán, mái tóc cô gái Mán lòa xòa đen nhánh, lại bôi dầu
thơm kín đáo, phảng phất hương thơm của cỏ dại, của vỏ cây rừng nồng say.
Ở rừng, chúng tôi phân biệt các loại dân tộc thiếu sổ theo từng
thổ ngơi sinh hoạt của họ: người Thổ hay ở những khu rừng ngoài gần đồng bằng.
Trong rừng sâu, người Mường trú ngụ, thường ở sát bên chân núi, chênh vênh sườn
non cao hoặc chót vót hẳn trên đỉnh núi là chỗ dừng chân của dân tộc Mán.
Dừng chân, vì người Mán vẫn còn sống đời du mục phiêu lưu.
Ngày nào kia, họ tìm đến một miền núi phì nhiêu, nhận thấy đất núi đủ nuôi sống
người, suối ngàn không phản trắc. Họ rẫỵ núi hoang dại làm nương, chặt tre rừng
già làm nhà, đặt máng ống bương dẫn nước nguồn cao. Thế rồi một sớm, một chiều,
từng căn nhà sàn được dựng lên, thô sơ mà kiên cố. Nhà nào cũng có một bể đựng
nước ghép bằng ván; suốt ngày, suốt đêm, đều đều, bất tận, nước suối theo máng
chảy vào bể tràn đầy ăm ắp. Nhà nào cũng có một bếp tre rộng ngay chính giữa,
suốt ngày đêm có than hồng nên lúc nào cũng sẵn nước sôi. Và đồng bào Mán tắm rửa
toàn bằng nước pha nóng bốc khói, khả dĩ tiêu tán hết chướng khí sơn lam.
Một làng chỉ độ chín, mười nhà lơ thơ, trên từng chòm núi,
nương ngô xanh trùng điệp bao kín chung quanh. Muốn đi từ nhà này sang nhà kia,
người ta xuống núi rồi lại lên núi theo những bậc đá thiên tạo, có lẽ cũng dễ
dàng như người thị thành trèo một cầu thang ngắn.
Chiều chiều, từ lưng chừng núi, những tiếng “khèn” xa vắng,
ngập ngừng, theo mây trôi lờ lững, như một nỗi niềm nhớ nhung trời biển. Đó là
lúc cô gái Mán mắt thăm thẳm rõi ngàn xanh, cất lên tiếng hát âm u như tiếng
chim rừng.
Cho tới một ngày nào, nhận thấy chung quanh đất hết hoa mầu,
đoàn người du mục lại lìa ngàn đi tìm một rừng núi mới. Trước khi rời bỏ những
mái nhà sàn đã từ bao lâu dùng làm tổ ấm, người Mán không ngần ngại tự tay gieo
một mồi lửa, thiêu hủy hết công trình xây dựng, không muốn để lại một dấu vết
gì của chỗ ở xưa.
Tối đó, “Trại Văn nghệ” của chúng tôi mở hội. Chúng tôi gọi
là “Đêm Liên Hoan đón tiếp Đồng Bào Thiểu số”.
Thể theo lời mời chân thành của chúng tôi, bày phụ nữ Mán lưu
bước ở lại xóm Mường chung một lớp nhà sàn với chúng tôi.
Một bữa ăn chiều thịnh soạn đã được tổ chức ngoài trời với tất
cả kỹ thuật nấu ăn tỉnh thành của những lâm thời đầu bếp. Ở nơi rừng sâu này xa
chợ, chúng tôi phải mua sắm thức ăn đủ dùng cho cả tháng. Được dịp thết khách
có bao nhiêu trân vị quý báu lưu trữ, chúng tôi trút hết cả vào bữa cơm tri ngộ.
Đồng bào thiểu số Mán, quanh năm chỉ quen dùng cơm nếp hoặc ngô bung, hôm đó được
thưởng thức một bữa cơm tẻ gạo trắng với một thực đơn gồm những bốn món (không
phải để “ăn chơi”, mà chính là để ăn no thực sự) vì đó là thịt kho, cá kho, tôm
kho và dừa cũng kho… Đồng bào có vẻ cảm động lắm.
Trừ người trưởng đoàn tất cả có tám cô nàng: Liên, Hoa, Mây,
Thắm, Miên, Man. Mừng, Cầm. Tám bông hoa sơn cước hồn nhiên, chất phác, nhưng
chỉ có bốn đóa sắc hương đặc biệt:
Mây linh động nhất.
Miên, Man, hai chị em, mặt bầu bĩnh, mắt là răm, đẹp cái đẹp
bình dị của một thứ trái cây vừa chín tới, ngọt và hiền, nhưng chỉ khiến người
ta thích, không làm người ta say đến độ thèm.
Cầm ít tuổi hơn cả, thơ ngây hiền lành như con nai vàng.
Sau bữa cơm chiều, sương thu đã dâng lên bàng bạc núi rừng.
Giữa khung trời mênh mông tím dần một màn ảo mộng, những điểm sao long lanh buồn
như những cặp mắt ân tình nhớ thương nhau. Thế rồi trăng lên. Trăng của rừng
thu, đó là một vầng trăng muôn thuở u sầu. Trăng hình như chảy láng thủy ngân
trên sườn núi đá xanh huyền hoặc màu ngọc thạch. Trăng lả lướt vương trên những
chùm phong lan trắng, mơ hồ nổi lên như một nét cười hư ảo, giữa vùng lá cây
ngàn rung động chập chờn. Rừng thu đêm trăng đẹp như một viên ngọc quý.
Chúng tôi ngồi cả ngoài sân, uống một thứ café rừng mới hái,
rang bằng nồi đất, xay bằng cối giã gạo, pha bằng nồi đồng, lọc bằng túi vải,
rót vào bát đàn, hòa với thứ đường bánh trôi hăng hắc.
Các cô gái Mán, mắt đầy trăng, chúm chím môi nhắm nháp từng
ngụm nhỏ thứ café “lập thể” đó, chắc đang tơ tưởng đến cuộc sống văn minh tiến
bộ của bọn người đô thị chúng tôi.
Sân giăng in bóng núi.
Mắt các cô nàng càng vời vợi xa xôi.
Mọi người bày ra cuộc hát đối đáp nhau, nghĩa là bên nam, bên
nữ lần lượt mỗi người phải hát một bài. Phía đàn ông chúng tôi hát trước. Một
vài người cất tiếng hát những bài ca thời đại. Vang núi hắt lại rung chuyển cả
đêm rừng.
Mấy bà “mế” già kinh động, sợ hãi bảo chúng tôi:
- Đêm khuya, các thầy đừng hát to thế. Cái ma nó về đấy. Cái
ma rừng ở đây thiêng lắm!
Đến lượt các thiếu nữ Mán cất giọng ca khe khẽ.
Tiếng hát tiêu vong trầm trầm, đứt đoạn. Tiếng hát nghẹn ngào
trong cổ họng, âm u, hiu hắt như tiếng hòa điệu của loài côn trùng giữa đêm
khuya vắng. Chính giọng hát rừng rú đó nghe như tiếng hát chiêu hồn, tiếng hát
gọi ma. Tiếng hát đó cất lên, hình như đánh thức dậy cả linh hồn rừng núi hoang
sơ.
Giọng Mây và giọng Thắm nghe rõ nhất, vì trong nhất và ngân
dài nhất. Như một âm hồ cầm nhấn rung trên cung bậc. Bài hát tắt lúc nào, dư âm
vẫn còn chìm đọng chưa dứt, tưởng chừng hơi thở còn vương trong không gian.
Chúng tôi cũng thấy rợn người lên một lúc. Cùng một lúc, tôi tưởng vừa bắt gặp
một linh hồn đi dạo trong đêm mênh mang huyền bí của lâm tuyền.
Mắt tôi bỗng gặp mắt nàng Mây, trong đó như lấp lánh cả một
giải nước nguồn lay động sao khuya. Làn mi dài từ từ dương lên rồi cụp xuống
như một cành lá hỗ ngươi. Tôi cảm thấy làn mi đó chạm vào da thịt tôi, êm như một
chất tơ nhung. Và tôi vụt nghĩ đến những chuyện bùa chài của miền sơn cước.
Chính tôi là kẻ đang muốn được chài.
Sương núi đã thấm lạnh vai áo. Xung quanh bếp lửa quây vuông
trên nhà sàn, chúng tôi từng cặp, từng cặp, cứ một cậu trai lại đến một cô “mới”,
ngồi sát cánh nhau, ngả đầu vào vai nhau, thân mật, tự nhiên như đã quen nhau từ
thuở nào.
Tôi ngồi cạnh Mây. Mây ngả đầu vào vai tôi. Và tôi nắm lấy
cánh tay tròn lẳn của Mây. Gần nhau rất ngẫu nhiên, thân nhau không hẹn trước vậy
mà tôi cảm thấy chỉ một cái ngả đầu, một cử động nhích tay lúc này cũng đủ trở
nên một dấu hiệu của Định Mệnh.
Điếu thuốc lào được chuyển qua tay này sang tay khác. Phong tục
ở đây, cái điếu cày bằng ống tre rừng là giây tơ hồng ràng buộc, là quả tơ hồng
trao duyên: người con trai muốn tỏ tình cùng người con gái, chỉ cần hút một mồi
thuốc lào; xong, nhồi một mồi nữa, mời người con gái. Cô gái nhận điếu thuốc
châm lửa hút, là thuận tình. Chỉ nhận điếu thuốc mà không hút, mới là cảm tình
xã giao. Giản dị vậy thôi, kỳ thú như vậy đó.
Bếp lửa đốt bằng hai khúc cây lớn đỏ hồng. Má các cô nàng
cũng hồng đỏ.
Tôi hút một mồi thuốc lào, lại nhồi một mồi thuốc nữa đưa cho
Mây. Mây cầm điếu thuốc, lim dim mắt thủ thỉ:
- ‘‘Cái” anh cho em hút điếu thuốc này, em “say” anh, em theo
anh về Thủ Đô thì sao?
Dứt lời, cô nàng châm lửa hút luôn. Và cô nàng say, ngả lưng
trên cánh tay tôi.
Tôi hỏi Mây:
- Em có muốn theo anh về Thủ Đô không?
Mây đáp:
- Em có muốn. Nhưng “cái” anh nói dối. Đánh nhau thế này, đời
nào “cái” anh về Thủ Đô!
Để cho Mây tin rằng tôi không nói dối, tôi liền… nói dối
luôn, giọng chắc nịch:
- Không, anh nói thực. Mai anh về Thủ Đô đấy.
Cô nàng mở tròn cặp mắt tin tưởng:
- Thế à? Thế mai em theo anh về với nhé! À! Ngày kia hẵng về,
anh ạ. Sáng mai, em còn phải vào rừng bẻ măng…
Câu chuyện của chúng tôi cứ lẩn thẩn như thế mà cũng kéo dài
cho tới lúc bên ngoài trăng đã khuất, cuối cương xa vọng lại một tiếng vượn sằu
gọi trăng.
Có lẽ đêm đã khuya lắm. Xóm Mường ngủ im phăng phắc. Trừ bọn
chúng tôi còn thức.
Tôi “phỏng vấn” Mây:
- Chúng anh muốn tỏ tình với các em thì chúng anh đưa cho các
em hút điếu thuốc lào. Còn các em muốn tỏ tình với chúng anh, thì các em làm thế
nào?
Mây cười ngây thơ:
- Nhưng “tỏ tình” là gì hả anh?
- Tỏ tình là giải tỏ tình yêu, là… nói chuyện ái tình ấy!
- Thế tình yêu với ái tình là gì?
Tôi cố giải thích, nhưng xem chừng những danh từ văn hoa chẳng
làm cho Mây hiểu được gì hơn. Một anh bạn tôi phải cắt nghĩa giùm:
- Tình yêu hay ái tình là… người con trai với người con gái
say nhau, phải lòng nhau, thương nhau, mến nhau ấy mà. Chẳng hạn như bây giờ
Mây thương ai mà người ta không biết thì Mây làm thế nào?
Bây giờ Mây mới có vẻ hiểu.
- À! Muốn tỏ lòng mến anh, em đợi lúc anh đi ngủ, em ra bếp lấy
lửa… đốt vào bàn chân anh. Thế là anh biết, anh thức dậy.
Tôi cố ý hỏi lẩn thẩn:
- Em đốt chân anh, anh thức dậy… Xong rồi để làm gì?
- À! Anh thức dậy, xong rồi em rủ anh ra suối.
- Ra suối rồi… để làm gì?
- À! Ra suối để chúng mình… nói chuyện!
Thì ra, bài thơ Ân Tình của cô gái Mán không phức tạp chi hết.
Tất cả, chỉ gồm có mấy động tác căn bản thô sơ: đốt chân, rồi đi ra suối. Đi ra
suối, để… nói chuyện!
Ngay sau lúc ấy tôi đã đi ngủ, để cho Mây tìm đến đốt chân, để
cùng đi với Mây ra suối, và để rồi chúng tôi… nói chuyện!
Sau cái đêm thi vị “nói chuyện bên suối” đó, Mây không theo
tôi về Thủ Đô. Trái lại, tôi theo Mây lên núi - nghĩa là về làng của Mây. Để được
Mây tặng cho rất nhiều: đu đủ chín, dưa hồng, ngô nếp, dâu da, hồng bì, và cả một
chiếc vòng tay bằng bạc.
Mây lại thêu vào khăn tay của tôi một con chim và một đoá hoa
ngũ sắc, làm kỷ niệm. Cũng như hầu hết các cô gái Mán khác ở đây, Mây thêu rất
nhanh. Đặt tay xuống, nhấc tay lên vài lần là xong một đoá hoa. Lượn đường kim
vài lượt trên vải đã trở thành một con chim. Nét thêu đơn giản mà linh động,
hình thức chim hoa hơi kiểu thức hóa, tựa những nét họa trang trí trong kiến
trúc Đế Thiên.
Ghi kỷ niệm vào một chiếc khăn tay chưa đủ, tôi đưa cả áo “sơ
mi” cho Mây thêu vào ngực, đưa cả “vét tông” để Mây thêu vào ve áo, và đưa “cả
ba lô” cho cô nàng thêu vào hai túi.
Suốt nửa ngày ở chơi trên làng Mán với Mây, câu chuyện giữa
hai chúng tôi chỉ loanh quanh với mấy câu nói đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, mà
cái luận điệu lẩn thẩn không làm cho tôi chán:
- Thế bao giờ anh mới về Thủ Đô?
- Bao giờ hết chiến tranh thì anh về. Chừng đó anh sẽ đưa em
về cùng.
- Hết chiến tranh thì lâu quá nhỉ? Hay là anh ở lại hẳn trên
này với em. Ở đây đi làm nương vui lắm…
Tôi cứ gật đầu liều, tuy biết rằng lệ làng Mán, lấy con gái
Mán, phải nhập tịch làng Mán, cùng sống, cùng chết, cùng phiêu lưu với bộ lạc.
Mây tỏ vẻ không tin, lắc đầu nói:
- Anh nói dối. “Cái” anh như con chim ấy, hôm nay ở đây, mai
bay đi chỗ khác. Em không giữ được anh, em xót lắm.
Câu nói ấy như là thơ, mà thú thực, lời chưa thấy có ở tác phẩm
của một nữ sĩ Việt Nam hiện đại nào.
Bài thơ độc nhất trong thời loạn đó chỉ kéo dài có năm, sáu
phiên chợ. Ở đây, cứ năm ngày một phiên chợ Bến, tôi đợi Mây từ trong núi đem
măng, đem sắn cùng các lâm sản khác đi qua, ghé lại “Trại Văn Nghệ” có khi nửa
ngày, có khi cả một đêm. Ngẫu nhiên, “Trại Văn nghệ” của chúng tôi trở nên một
cái trạm dừng chân giữa đường sơn cước: xuôi về đồng bằng gần hai chục cây số
là chợ Bến, và hướng về non cao, trại chúng tôi chỉ cách làng Mán chừng bốn,
năm cây số đường núi.
Đã năm sáu phiên chợ qua đi. Mối tình của tôi với cô gái Mán
vẫn không có gì thay đổi. Mây vẫn ngây thơ, duyên dáng, và mỗi ngày mỗi đáng
yêu hơn, vì Mây vẫn rất đa tình. Cho nên đã có tới năm, sáu lần tôi bị cô nàng
đốt bỏng cả hai chân.
Chiến sự ở những vùng Chợ Bến và Hòa Bình ngày càng lan rộng.
Đêm đêm, đứng trên núi cao, nhìn thấy từ những miền rừng xa ánh lửa bập bùng hắt
lên nền mây đen vần vũ, có khi thấy cả ánh đèn “pha” quét dài từng vệt trong
sương đêm như ánh chớp nguồn.
Chiến sự biến chuyển thì nhiệm kỳ ở rừng của đoàn Văn nghệ
chúng tôi chấm dứt. Nghĩa là phải nhổ trại lìa rừng. Riêng tôi không hưởng ửng
sự xê dịch chút nào. Tôi nghĩ đến Mây, sắp sửa phải xa cách nhau chưa biết bao
nhiêu sông núi.
Tôi muốn gặp Mây trước khi cách biệt. Vì tuy không hưởng ứng,
tôi vẫn phải theo ý định của phần đông. Từ sáng, trong lúc mọi người sửa soạn đế
chiều hôm đó lên đường về xuôi, tôi lén đi một mình lên làng Mán.
Đường đi vẫn trập trùng đồi, núi. Lội suối, trèo non, sau gần
bốn tiếng đồng hồ, tôi đến bên chân dãy núi làng Mây. Nương ngô cuối vụ hái bắp
xạc xào. Lá xanh dài che kín lối đăng sơn. Tôi rẽ lá tiến lên. Tới lưng chừng
núi, hết rặng ngô, ngọn núi hiện ra giữa khung trời bát ngát.
Tôi bỗng giật mình. Tôi ngờ tôi mê hoảng. Tôi mở mắt thực to
mà vẫn tưởng mình trông nhầm: trước mắt tôi, không thấy những mái nhà sàn quen
thuộc mọi khi. Những mái nhà có rừng vàng óng của làng Mán, mỗi lần tôi đến
đây, vẫn hiện ra trên ngọn núi, thân mật, chào đón. Giờ đây, những mái nhà đó
biến mất.
Tôi nhẩy vội từng ba bậc đá lên tới ngọn núi. Ở chỗ những
ngôi nhà sàn mọc lên ấm cúng xưa kia, nay chỉ còn là một đống tro thanh quạnh
quẽ đìu hiu. Trên những chòm núi khác cũng vậy, không một bóng nhà sàn, không một
bóng người Mán, cả một làng Mán gồm chín, mười nóc nhà đều biến đi như giấc
chiêm bao.
Không phải đây là kết quả một vụ oanh tạc. Không có dấu vết
gì chứng tỏ phi cơ đã tàn phá xóm nhà sàn cô tịch này. Chỉ còn chút tàn tro phơ
phất bay vào cơn gió ngàn lạc qua đỉnh núi.
Chắc người Mán ở đây, theo tiếng gọi của đời du mục, đã tự
thiêu hủy làng mình, lên đường đi tìm rừng núi khác.
Chính cô nàng Mây đã là một con chim lạ rừng thu vừa bay đi mất.
Cuộc sống chẩy trôi đưa tôi từ núi rừng về đồng ruộng, rồi từ
đồng ruộng lên ngàn, xuống biển, để rồi lại trở về Hà Nội. Đã nhiều ngày tháng
qua đi, cái bóng “Mây” bay đi dạo đó đã bay đi biền biệt, không còn dấu vết.
Tuy nhiên, tôi vẫn còn giữ được chiếc vòng bạc cùng chiếc
khăn tay thêu chim hoa chỉ ngũ sắc của Mây trao tặng. Mỗi lần giở tới những kỷ
vật đó, tôi lại thấy nao nao thương nhớ, một niềm nhớ thương day dứt, thấm
thía. Nhưng, tôi nhớ tới núi rừng nhiều hơn nhớ tới cô gái Mán. Tôi nhớ núi rừng
tha thiết như nhớ tới chính miền quê cha đất tổ của mình, nhớ hơn cả bất cứ một
người nhân tình nào, có lẽ trong tiềm thức sâu thẳm của tôi vẫn chìm lắng cái
truyền thống hoang dã của người dân du mục phiêu lưu- cái bản năng sơ khai của
Bộ lạc.
Trong khi hình bóng cô nàng Mây mờ nhạt dần trong tâm trí
tôi, thì cái bóng hình thâm u của rừng núi nhiều lúc vẫn mênh mang bao phủ linh
hồn tôi như một niềm ám ảnh.
Cho tới 1954. Quân đội Pháp từ các miền sơn cước rút về Hà Nội.
Đồng bào Thượng cũng lũ lượt kéo về đô thị. Trên các phố phường chen chúc, tôi
đã thấy hiện ra những vuông khăn trắng bắt đầu cùng tà áo trắng dài lòa xòa phủ
ngoài vạt xiêm thổ cẩm của các cô nàng Hòa Bình, Lạng Sơn; những chiếc vòng bạc
nổi trên nền áo lam của cô gái Thổ Cao Bằng, Lạng Sơn; những chiếc váy lĩnh thướt
tha của cô Thái Trắng Lai Châu… Nét mặt người nào cũng thẫn thờ ngơ ngác tựa những
con nai lạc bầy. Những con người của núi rừng hoang dã giờ đây cũng đang lạc giữa
rừng người thành thị, bước chân ngượng ngập, rụt rè như còn lưu luyến với cỏ dại
cùng sỏi đá lâm tuyền.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét