Thứ Bảy, 2 tháng 10, 2021

Đốt lò hương cũ 2

Đốt lò hương cũ 2

HÀ NỘI VĂN NGHỆ
NHỮNG NGÀY BÁO HIỆU LOẠN LY

Chúng tôi ra đi mang theo cả linh hồn Hà Nội, từ mùa thu 1954. Và Hà Nội trong tôi, đã hơn 10 năm cách biệt, vẫn còn giữ nguyên bóng dáng một tình nhân của tuổi 20. Tại sao lại tuổi 20? Nếu kể từ ngày Hà Nội bắt đầu có tên Hà Nội (hình như vào năm 1831) thi ít nhất Hà Nội cũng đã hơn 100 tuổi. Nếu lại kể từ khi “ở đây nhà Lý đóng đô…” nghĩa là từ khi cái tên Đại La Thành được cải hiệu là Thăng Long, để rồi từ đó Thăng Long được coi là “miền linh địa kết tụ anh hoa tú khí của non sông, đất cố đô của tiên vương có đủ tay Long, tay Hổ…”, thì Hà Nội văn vật, Hà Nội lịch sử của chúng ta đã có cả gần một ngàn năm tuổi. Đối với tất cả những người dân Hà Nội hiện còn sống dưới ánh sáng mặt trời, dĩ nhiên! Hà Nội là một cố nhân chẳng còn thơ trẻ, và gương mặt Hà Nội một phần lớn thuộc về dĩ vãng vớí rất nhiều di tích lịch sử, tôi vẫn cứ thấy Hà Nội là của cái tuổi 20, và đáng thương, đáng nhớ, đáng yêu nhất vẫn là khuôn mặt Hà Nội 20 tuổi.

Có lẽ tại vì tuổi trẻ của chúng tôi đã tham dự vào tất cả những biến cố lịch sử đáng kể nhất của đầu thế kỷ 20. Chúng tôi đã sinh trưởng, lớn lên, và khởi sự “nhập cuộc”- khởi sự bước chân vào cái thế giới thần thoại của Yêu Đương, Mộng Ảo, và Văn nghệ - từ trong lòng một Hà Nội thanh bình, một Hà Nội đang hồi cực thịnh của trào lưu Lãng mạn tiền chiến (1935-1940). Để rồi, tuổi thanh xuân của chúng tôi đang độ nở hoa bồng bột nhất, liền bị giao động đến tột cùng bởi những sóng gió cuồng loạn khởi đầu cho Cơn Mê Hoảng Dài của Thời đại Chiến Tranh Nguyên Tử. Đã ba lần tuổi trẻ của chúng tôi phải xa lìa Hà Nội: một lần sau đảo chính Nhật (1945), khi mà phi cơ Đồng Minh hàng ngày đe dọa oanh tạc các căn cứ quân sự của binh đội Phù Tang. Cả Hà Nội hàng ngày đã phải rời bỏ 36 phố phường quen thuộc để tạm tản cư về những vùng quê ngoài 5 cửa ô Hà Nội tạm tản cư từ sáng sớm đến chiều tối, để rồi khi thành phố lên đèn tất cả lại từ 5 cửa ô kéo về, tựa những con thiếu thân lao mình vào cái ánh sáng phù hoa của một kinh thành vẫn còn rạt rào sinh khí, chỉ cốt sống được tràn đầy, dù chỉ một đêm.

°

Ba lần xa lìa Hà Nội, tuổi trẻ của chúng tôi đã khóc cười, hờn giận, đau xót, căm hờn, thù hận, oán thương cùng với một Hà Nội ba lần biến diện: 9-3-1945, Đảo Chính Nhật là lần thứ nhất. Lần thứ nhì: Chiến tranh toàn quốc (1946, tản cư, kháng chiến rồi lại hồi cư). Và lần thứ ba: mùa thu 1954 (Hiệp ước Genève, chia đôi đất nước, di cư vào Nam!). Ba cuộc chia ly, giữa thời kỳ hoa niên giàu nhiệt tình nhất, tất cả kỷ niệm nào đối với tôi cũng sâu đậm khó quên. Cũng khó quên hơn nữa là gương mặt thủ đô trước cơn bão loạn, Gương mặt người tình trước thời khắc ly tán, chỉ cần một nét chau mày, cũng đủ mang ý nghĩa một điềm linh ứng.

°

Buổi chiều muộn cuối thu của Hà Nội năm đó hình như thấm lạnh nhiều hơn mọi năm. Một cái lạnh rờn rợn trên da thịt, khiến nhiều lúc, dù trời không nổi gió, người ta cũng thốt rùng mình, như khi sắp lên cơn sốt rét. Mùa thu 1946, một mùa thu lịch sử: mùa thu báo hiệu chiến tranh!

Thành phố đã lên đèn, cái ánh điện vàng u uất, dù phối hợp bởi tất cả những phản quang xa hoa của tất cả trà đình, tửu điếm tráng lệ vùng trung tâm đô thị, cũng không đủ sưởi ấm lòng người, nhất là lòng người nghệ sĩ lãng tử đang đi dạo quanh bờ liễu tiêu sơ của Hồ Hoàn Kiếm.

Liễu rũ xuống hồ, như những mái tóc bệnh nhân sầu muộn soi gương. Lòng hồ, vẫn những đám mây xám nặng chĩu, in hình những mái nhà thấp thoáng ẩn hiện, như những bóng dáng lâu đài lịch sử hoang liêu từ thiên cổ chìm trong đáy nước.

Thành phố thiếu hẳn sinh khí. Mới tám giờ tối, đã nhiều hàng đóng cửa. Đêm kinh kỳ xưa từng bừng đài các, giờ lạnh lùng, ngao ngán buông trên những hàng cây âm thầm đứng xõa tóc như ma bên lề đường quạnh vắng. Đêm thẫn thờ len lỏi quanh những “ụ chướng ngại” sừng sững chắn ngang đường. Đêm dài dằng dặc ngưng đọng trong những “hầm lộ thiên”, những “hố cá nhân” đào vội, rải rác như những nấm mồ vô chủ vừa cải táng trong một nghĩa địa nửa thực nửa hư.

Giữa những màu sắc, nhưng hình thể nửa vời tàn tạ, còn lại một chút sinh khí mong manh, nhưng dù mong manh, lúc này cũng đáng kể là một cái gì ấm cúng dấu hiệu của sự sống vẫn còn ấp ủ được chút hơi thở nhiệt tình: ở xa góc hồ phía Bắc, nổi lên vùng ánh sáng của “Quán Nghệ Sĩ”… một trà đình thường được mệnh danh là “Câu Lạc Bộ Văn nghệ”, chỗ họp mặt của bọn người viết, vẽ hoặc đàn, hát… Sự thực quán bán những hàng xa xỉ quá mức thường, nên nghệ sĩ cũng ít khi tới. Khách hàng phần đông là người ngoại quốc.

Thoảng tiếng dương cầm dìu dặt. A! Tối nay “Quán Nghệ sĩ” có ban âm nhạc trình diễn. Ở đây âm nhạc chỉ trình diễn bất thường, và có dàn nhạc trình diễn lúc này, giữa những ngày Hà Nội đang dầm mình trong cơn sốt định kỳ trầm trọng- những ngày báo hiệu chiến tranh quả là một hiện tượng đáng kể, một hiện tượng cũng “xa xỉ” như những xa xỉ phẩm thuộc loại đắt tiền nhất của thời đại.

Ban nhạc “Quán Nghệ Sĩ” gồm có Giệp: hồ cầm (hiện đã qua đời), Hiếu: dương cầm, một tài tử trung hồ cầm (mà tôi không nhớ tên); và Nguyễn Xuân Khoát với cây đại hồ cầm (contrebasse) mà anh em nghệ sĩ vẫn gọi đùa là “Ngưu Cầm” hoặc nôm na hơn, là… “đàn bò”.

Âm nhạc quyến rũ, nhưng không khí “Quán Nghệ sĩ” vẫn tẻ lạnh. Lác đác một vài bóng tri âm… nhi đồng ngấp nghé ngoài cửa, không biết để nghe đàn hay chỉ để nhìn cái “đàn gì mà to như cả một cái gác-măng-dê”, và cao lênh khênh vừa bằng anh Nguyễn Xuân Khoát đứng kiễng chân.

Các nhạc sĩ vừa dạo xong một cầm tấu khúc mở màn. Mọi người uể oải dừng tay, ngồi quây chung quanh một chiếc bàn góc trong cùng lặng lẽ nhìn nhau. Hình như họ đều cảm thấy đêm nay chơi nhạc không có hứng chút nào.

Bỗng có tiếng giầy cồm cộp gõ ngoài vỉa hè, tiếng cười vang vang, tiếng nói ồm ồm. Không cần phải có tài thẩm âm sành sỏi cũng nhận thấy ngay tiếng giày đó là tiếng giầy “săng đá” của lính Tây, tiếng cười nọ là tiếng cười sặc sụa hơi men của những người say, và tiếng ồm ồm kia, với âm hưởng khá lạ tai, nhất định là tiếng nói của người ngoại quốc, nhưng không phải tiếng Pháp.

Tiếng giầy đinh sền sệt tiến về phía quán. Lũ trẻ con đang đóng vai Tử Kỳ nghe trộm, bỏ chạy tản loạn, như vừa trông thấy quỷ nhập tràng.

Đó là toán bốn người lính lê dương, trong đoàn quân viễn chinh của tướng Morlière có mặt tại Việt Nam từ sau cái hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Họ ùa vào quán như một cơn gió lốc. Họ đã say rượu sẵn từ bao giờ. Bốn bộ mặt đó gay như bốn ông mặt trời xích đạo, bốn bộ mặt gà trọi bừng bừng sát khí đột ngột xuất hiện, khiến cho cái “Quán Nghệ Sĩ” hiền lành này bỗng dưng “thức dậy”, như người vứa tỉnh giấc ngủ gà ngủ gật, đầu óc vẫn còn ngây ngất, bàng hoàng. Không khí đang tẻ lạnh cũng được hâm nóng lên bởi những hơi thở say cùng vị “cô nhắc”, những hơi thở say tưởng chừng có thể bùng lửa cháy ngùn ngụt, nếu được châm mồi bằng một que diêm. Trong hơi thở ấy, và trong cơn gió cuốn theo vào phòng, người ta tưởng ngửi thấy cả mùi thuốc súng, cùng một thứ mùi gì hăng hắc nồng nàn, cái mùi “tứ chiếng” đặc biệt của xa khơi, phảng phất như có trộn lẫn cả mùi gió biển, mùi có dại thảo nguyên, mùi gió lửa sa mạc.

Bốn ông khách viễn phương nghênh ngang, ngất ngưởng và ngật ngưỡng tiến thẳng và phía quầy rượu súng lục kè kè bên hông. Ba kẻ nhảy lên ba chiếc ghế cao cẳng, ngồi tựa vào quầy với dáng diệu rất mã thượng, y như nhẩy lên mình ngựa. Còn một kẻ nhảy tót hẳn lên quầy rượu, ngồi sừng sững trên mặt quầy, thản nhiên cao ngự trên đó, chẳng khác ngồi trên “đi văng” ở nhà riêng.

Các nghệ sĩ trong quán e ngại nhìn bốn ông khách quý. Tuy không ai nói một câu, nhưng tất cả đều tỏ vẻ không mấy hưởng ứng. Nhất là Nguyễn Xuân Khoát ngoài tiếng “đàn bò”, vốn không chịu được những cái gì ồn quá, kể cả tiếng trống ả đào “sực tắc”, mặc dầu Khoát xưa nay vẫn mê nghiên cứu về nghệ thuật hoà tấu của dàn nhạc Ca Trù. Bọn khách hàng võ biền, chiếu cố tới “Quán Nghệ sĩ” với các thế ồn ào của một toán quân đi chinh phục vừa đột nhập vào một đồn lẻ, hẳn không phải là để giải khát hoặc nghe nhạc, mà có lẽ chỉ để gây sự, để tạo nên đổ vỡ, phá phách, nghĩa là để thỏa mãn cái tính hiếu chiến, hiếu sát và hiếu thắng của những kẻ đang có ưu thế của sức mạnh võ khí.

Thời đó, ai cũng biết đoàn lính lê dương chuyên đánh nhau thuê của tướng Morlière, tư lệnh Đệ Nhất Sư Đoàn quân đội viễn chinh Pháp, mệnh danh là “Tiếp Phòng Quân” của lực lượng Đồng Minh, với nhiệm vụ giải giáp quân đội Phù Tang “và giữ gìn an ninh, trật tự” trên lãnh thổ Bắc Việt. “Đoàn quân vong mệnh” tập hợp nhiều quốc tịch khác nhau đó gồm đủ mắt mèo cùng rạch mặt, tóc xoắn trôn ốc cùng tóc đó hung hung, da trắng, da nâu cùng da đen bồ hóng… Chiếm đóng lại năm thị trấn xung yếu: Hà Nội, Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương, Nam Định, ngay từ lúc chiến tranh toàn quốc chưa bùng nổ, đoàn quân ấy đã nổi tiếng là lũ “Kiêu binh của thời đại Tân Chiến Quốc”, với những thành tích gây hấn rất… chuyện nghiệp và rất văn minh! Họ thi hành nhiệm vụ “giữ gìn an ninh và trật tự” nghiêm chỉnh quá, đến nỗi đa số, người dân Hà Nội không còn muốn bước chân ra đường buổi tối. Trên những phố dài thu hình dưới ánh đèn phòng thủ thê lương, thỉnh thỏang một vệt đèn “pha” sáng rực quét lướt trong sương đêm như một tia chớp nhoáng. Đó là lúc đám kiêu binh ngự trên những chiếc xe cơ giới hoặc chiến xa đi dạo quanh thành phố có lẽ để tiêu khiển cho giãn gân giãn cốt. Mỗi khi ngứa tay hoặc cao hứng, họ lại bắn chơi một tràng tiểu liên vào mấy cái ụ chướng ngại đầu đường, như vậy, có lần cả một gánh phở, cả thùng nước lèo bị đạn tiểu liên xạ kích tơi bời. Còn ông hàng phở may mắn lăn được xuống một cái hố cá nhân trốn thoát…

Những cuộc đùa giỡn của lũ Kiêu binh Tân Chiến Quốc cứ như thế tiếp diễn từng đêm. Và từng đêm qua các khu phố Hà Nội nín thở, những tràng liên thanh vẫn nổ ròn. Vừa mấy đêm trước đây, chính những người chơi nhạc trong “Quán Nghệ sĩ” này từng nghe tiếng vang lên ngay bên tai tiếng rú máy kinh khủng của một chiếc xe bọc sắt lao vút qua góc đường xế cửa, kèm theo điệu nhạc dữ dội của một tràng liên thanh hình như nổ tung ngay trong đầu óc họ.

Cái viễn tưởng của chiến tranh, bom đạn, giết chóc đã trở nên mối đe dọa thường xuyên, hàng ngày, hàng đêm ám ảnh họ. Đám kiêu binh mỗi lần xuất hiện lại càng khiến cho sự đe doạ thêm trầm trọng, vì mọi người đều nhìn thấy ở đoàn lính viễn chinh hỗn hợp kia hình bóng cụ thể nhất và linh động nhất của chiến trnnh. Cảm giác nặng nề và ngột ngạt đến khó thở, từng làm căng thẳng thần kinh hệ mọi người, tối nay càng thêm giao động mãnh liệt trong tâm thần bất an sẵn của các nhạc sĩ.

Bốn chàng lê dương say bỗng dưng đột kích vào “Quán Nghệ sĩ” hiển nhiên là bốn hung thần hiếu chiến, hiện thân của phá phách, của tai họa! Người ngồi trên quầy cất giọng gọi rượu mạnh, giọng say nhè như đã ngấm tất cả các thứ rượu “mạc-sê-noa” của kinh thành Hà Nội. Ba người kia cùng gọi theo: “Rượu mạnh! Rượu mạnh” bằng một thứ tiếng Pháp pha trộn âm hưởmg thổ ngữ Nhật Nhĩ Mãn, uốn lưỡi mạnh và nhanh, phì hơi dưới vành môi hung tợn như rắn phun. Thì ra đó là những người lính Đức, trong đoàn quân lê dương viễn chinh, vẫn được tiếng là can trường, bạt mạng và ngổ ngáo hơn cả, và trong đám “kiêu binh bạch chủng”, có lẽ xứng đáng hơn hết với cái hỗn danh “kiêu binh”.

Bốn ông lính Đức này xem chừng không có bản chất văn nghệ chút nào, tuy rằng, nếu sẵn ý tưởng lạc quan, rất có thể họ coi họ là hậu sinh của những Bach, Beethoven, Schumann, của những Schiler, Goethe…

Nhưng khí trời Hà Nội đang chìm trong cơn bệnh u uất. Chẳng ai lạc quan được lúc này. Cho nên các nhạc sĩ chỉ còn biết tặc lưỡi, lắc đầu, khi thấy mấy ông “tây say” đã say tới cái độ không biết, mình say… mà còn gân mãi cổ lên gọi rượu mạnh.

Không đợi rượu mạnh mang tới, họ vồ lấy cả chai Whisky bầy trong tủ hàng, và không đợi cốc đưa lại, họ mở nút, chuyền tay nhau chai rượu mà tu ừng ực. Cái lối uống rượu không văn nghệ như vậy khiến các nhạc sĩ trong quán bắt đầu lo ngại, khó chịu. Nguyễn dằn cốc cà phê xuống bàn, những ngón tay bứt rứt bỗng chạm vèo giây đàn Contrebasse, nẩy lên một âm thanh u trầm, như một tiếng rên còn nghẹn trong cổ họng. Mấy ông khách quý đang vừa chuốc rượu lẫn cho nhau vừa hát – họ đồng ca một bài chắc là ngẫu hứng và có lẽ để tụng Tửu Thần Bacchus, vì chen vào những câu hỗn độn đủ các thứ nhịp, đủ các thứ điệu, luôn luôn thấy họ nhắc lại như một điệp khúc: “Whisky! Whisky! Whisky vạn tuế” bỗng họ quay cả đầu lại vì tiếng “ngưu cầm” rền rĩ.

Bốn cái miệng say đồng thanh kêu lên:

- Âm nhạc! À âm nhạc! Chơi nhạc đi, các ông nhạc sĩ!

Bốn cái mặt đó gay, tám con mắt nảy lửa cùng hướng về phía các nhạc khí và các nhạc công.

- Chơi nhạc đi! Chơi nhạc đi!

- Ô là! Chơi nhạc đi! Các ông ngủ gật đấy hả?

Các nhạc sĩ dù có ngủ gật thực sự cũng phải tỉnh ngủ từ lâu rồi. Nhưng chơi nhạc lúc này làm sao cho có hứng được? Chơi nhạc cho mấy cái tai “tây say” kia nghe, và chơi cho âm điệu vào lọt mấy cái tai ấy, nếu không phải là một cực hình, thì nhất định cũng không phải là cái thú. Hiếu đưa mắt nhìn Giệp, Giệp đưa mắt nhìn Khoát, Khoát đưa mắt nhìn chiếc… “đàn bò”, ngần ngại.

Bọn khách quý đổ xô tới vây chung quanh bàn nhạc sĩ, y hệt như bao vây một cái đồn lẻ của địch quân ngoài trận tuyến. Một kẻ khiêng bổng cây đàn “contrebasse” lên, đặt ngang vào hai tay Nguyễn, miệng thét:

- Các ông nhạc sĩ! Chơi đàn đi! Hay muốn để đàn… “chơi” các ông đấy?

Một kẻ mở ngay nắp chiếc dương cầm ra, xắn tay áo lên, hai cánh tay lông lá trổ hình hai con rắn quấn vòng quanh, mà đầu rắn lại là đầu một người đàn bà man rợ. Đồng thời, hai bàn tay hộ pháp đập lìa lịa trên hàng phím ngà trắng xóa… Nhạc sĩ dương cầm thương xót nhìn chiếc đàn xấu số của mình đang gặp tai nạn…

Bỗng một tướng khác, với hai cánh tay cũng lông lá không kém, nhấc bổng cả anh ta cùng chiếc ghế anh ngồi lên, bưng đến bên cạnh dương cầm, đặt anh xuống, và gào to như ra lệnh:

- Im lặng! Im lặng tất cả! Dàn nhạc sắp sửa trình diễn! Các ngài hãy lắng tai: Đây là bản Hợp tấu của im lặng! (Symphonie du Silence).

Đoạn, nhanh như chớp, kẻ vừa nói rút ngay khẩu súng lục bên hông, bắn luôn một tràng đạn chỉ thiên lên trần. Căn phòng rung chuyển, ngọn đèn điện lớn treo giữa quán vỡ tung từng mảnh, tắt phụp.

Căn phòng vụt trở nên mơ hồ, ảm đạm, chỉ còn ánh điện “néon” bàng bạc tím lẫn ven tường. Và căn phòng yên lặng như nghẹt thở.

Tiếng cười điên rồ từ bốn cái cổ họng say liền vang lên, rờn rợn, tưởng như không bao giờ ngừng.

Sau vài giây đồng hồ chóang váng, Nguyễn Xuân Khoát điềm nhiên mở tập nhạc bản chọn một bài, để lên giá đàn dương cầm, trước mặt Hiếu, và hất hàm làm hiệu với Giệp cùng người bạn sử dụng trung hồ cầm. Nhạc sĩ dương cầm lặng lẽ liếc nhìn giữa bản nhạc, rồi những ngón tay, như có nam châm hút vào phím ngà, bắt đầu lướt trên cung bậc.

Những âm thanh dương cầm đầu tiên rung lên bị lấp ngay bởi tiếng cười ồn ào chưa dứt. Cây hồ cầm hòa theo, vút như hơi gió. Tiếng trung hồ cầm nhập điệu ngân nga. Nhịp giây trầm trầm của chiếc contrebaase cũng bắt đầu ngập ngừng đồng vọng. Âm hưởng của bốn nhạc khí dần dần trộn lẫn, hợp thành một tiếng vang duy nhất, một tiếng vang khích động và tôi cuốn, và chiêu dụ với một hấp lực kỳ lạ- một điện lực thì đúng hơn- một tiếng vang vươn cao, tỏa rộng, bao trùm, phút chốc xoá nhoà tất cả, trấn ngự tất cả, khiến tất cả đều chìm đi thực cảnh không còn nữa, chỉ còn một nguồn suối nhạc mênh mang đang dâng lên, dâng lên như một trùng dương thần thoại. Tiết điệu bản nhạc cũng như nổi thành vóc dáng. Âm hưởng run rẩy quyện vào nhau, dìu nhau lênh đênh trôi vào ánh sáng, hòa vào không gian những tiếng sắc, tiếng đồng mê hoảng.

Căn phòng quán trà vụt im lặng. Đám quân nhân không cười nữa, ngồi xuống ghế.

Tiếng nhạc lại nổi lên, ma quái. Không gian trở nên bát ngát, huyễn hoặc. Mỗi âm đàn như có một linh hồn đột ngôt hiện lên hình thể, sắc màu, dồn dập, xô đẩy nhau, chuyển biến đến vô cùng. Mỗi âm đàn như một gương mặt quen thuộc, vừa gặp gỡ mà tưởng chừng đã xa vắng tự muôn đời - tất cả, sáng lên rồi lại mờ đi trong một nguồn dạ quang lung linh, hư ảo. Ánh sáng cũng hình như có thể chất, và, giữa vùng âm thanh bập bềnh sương khói, những “nốt” nhạc hiện hình múa nhẩy, vạch lên những đường nét mê hoặc trong một vũ điệu lân tinh. Ánh sáng len lỏi, thâm nhập cả vào những vật vô tri, khiến mọi vật như bừng tỉnh thức, và chuyển động bước đi theo những bước chân phù thủy.

Không biết trong bao nhiêu phút đồng hồ, tiếng nhạc lạ lùng như kéo dài thời gian đến hàng thể kỷ. Và suốt trong thời gian ấy, bọn khách hàng ngỗ ngược trước- những “kiêu binh của nửa thế kỷ hai mươi”- tự dưng trở nên hiền lành như những con chiên, im lặng một cách sùng bái. Họ vẫn ngồi yên chỗ cũ, mắt mở to như không nhìn vào đâu hết, những cặp mắt giờ đây xanh biếc như chứa đựng cả một vùng trời hão huyền hoặc có lẽ là vùng trời vô hình, vô ảnh của tâm linh, của siêu ý thức, một vùng trời tin mộ, ngủ thiếp trong vòng”từ trường” của ma lực âm thanh. Họ, những người lính lê dương vong mệnh mang dòng máu Nhật Nhĩ Mãn hiếu chiến, giờ đây như đã không còn say rượu, mà chỉ còn say một cái gì vô cùng huyền bí. Một cơn say gần như ma quái, hay thần linh cũng thế. Họ có nét mặt của những kẻ đang bị thôi miên.

Bản nhạc bỗng hết đột nhiên. Sau đến năm phút, tất cả mọi người đều im lặng. Rồi bốn ngườị lính Đức từ tốn và trịnh trọng đứng lên, trịnh trọng giơ tay chào các nhạc sĩ kiểu nhà binh, đoạn rất lịch sự - lễ độ là khác- rút lui ra khỏi quán, sau khi thanh tóan tiền hàng đầy đủ, không quên bồi thường chiếc bóng đèn điện vỡ rất chu đáo, và thưởng tiền bồi bàn rất trọng hậu.

Nguyễn thở phào một hơi dài khép bản nhạc vừa dạo lại: Đó là bản “Danse Macabre” của Saint Saens 1 .

Câu chuyện Nguyễn Xuân Khoát và bản nhạc “Vũ Khúc Ma Quái” đã khiến tôi nhớ người bạn nghệ sĩ thân hình cao mảnh khảnh ấy thêm một chút. Giờ đây Khoát đang sống dưới chế độ vô sản miền Bắc, ở bên kia vỹ tuyến. Hiện Khoát đang làm gì, tôi không được biết, nhưng bao giờ thì Nguyễn Xuân Khoát cũng chỉ là Nguyễn Xuân Khoát, tác giả nhiều nhạc phẩm quen thuộc từ giai đoạn “mở đường soạn đạo” của nền tân nhạc Việt Nam - những nhạc phẩm đậm đà dân tộc tính, hồn nhiên, chất phác và tế nhị, như “Trấn Thủ Lưu Đồn”, “Lơ Thơ”, “Con Cò Mà Đi Ăn Đêm”, “Con Mèo Trèo Cây Cau”. “Con Vỏi Vòi Voi”, “Thằng Bờm’’..v…v 2 .

Mà chính Nguyễn Xuân Khoát cũng giống như một “Thằng Bờm” ngây thơ nhưng hóm hỉnh. Ai đã được xem anh, giữa núi rừng Việt Bắc (hồi tản cư) tự trình bày bản nhạc “Thằng Bờm”, sẽ thấy Thằng Bờm chính là hiện thân của anh, và có lẽ không ai trình bày bản nhạc đó “tuyệt” hơn anh! Anh không tốt giọng lắm, nhưng anh hát có hồn và có một cái duyên lạ lùng quyến rũ người nghe. Với bộ quần áo nâu cũ, với mái tóc kéo lên dựng đứng giữa trán như một cái bờm, anh nhe răng và cười “khì! khì!” sau câu hát cuối cùng “Phú ông xin đổi nắm xôi, bờm cười…” thì ai cũng phải nhận rằng có lẽ anh giống Thằng Bờm hơn cả Thằng Bờm thật sự!

Hinh ảnh Nguyễn Xuân Khoát, nhạc sĩ của hàng ngũ tiền phong, hiện đến trong tâm tưởng tôi, từ “Quán Nghệ sĩ” đến núi rừng Việt Bắc ở hình thức một Nguyễn Xuân Khoát ôm cây đàn Contrebasse khổng lồ, hay qua vóc dáng một thằng Bờm ngớ ngẩn, cũng chỉ là một Nguyễn Xuân Khoát mà thôi, một Nguyễn Xuân Khoát hồn nhiên, thủ thỉ, một Nguyễn Xuân Khoát với thứ nghệ thuật thuần tuý cảm người bằng trực giác, thứ nghệ thuật ấy ấn tượng trong lòng người, thứ nghệ thuật của những âm đàn Contrebasse, của những nét nhạc Danse Macabre. Nếu không phải là thế, thì anh còn có thể là gì khác? Đừng bắt anh đặt một lá cờ máu vào tay Thằng Bờm.

Nguyễn Xuân Khoát cũng như Thằng Bờm Việt Nam vốn bản chất thuần lương, nhất định sẽ đau lòng vô cùng nếu phải bắt buộc nói lên thứ ngôn ngữ đầy tạp thanh của hận thù, phản bội, để kêu gào máu xương, đấu tố những phú ông vô tội đã từng cho Bờm nắm xôi, và cho Bờm nụ cười…

Vậy mà những kẻ nghệ sĩ như Nguyễn Xuân Khoát, suốt bao năm tao loạn, đã phải ôm đàn đi khắp núi sông, để rồi lại ôm hận trở về Hà Nội, ép mình trong khuôn khổ tù túng của một cuộc sống giả tạo – trở về để thấy mình chợt “tỉnh giấc chiêm bao” sau khi đã “chín năm đốt đuốc soi rừng” như trường hợp của Nguyễn Bính thi sĩ, và cũng như trường hợp của Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Phan Khôi… nghĩa là như tất cả những kẻ sĩ sẵn sàng “tử vì đạo” – cái Đạo Tự Do - trong nhóm Nhân Văn Giai phẩm, những văn nghệ sĩ chống đối với chế độ độc tài đảng trị miền Bắc, vì muốn bảo vệ cá tính và nhân phẩm, vì muốn giữ lại nguyên vẹn linh hồn và trái tim.

Khi vụ Nhân Văn Giai Phẩm bừng lên dạo ấy, không thấy có ai nhắc, đến Nguyễn Xuân Khoát trong danh sách các nạn nhân. Tuy nhiên tôi vẫn tin rằng trái tim Nguyễn Xuân Khoát là trái tim Nhân Văn Giai phẩm, linh hồn Nguyễn Xuân Khoát cũng là linh hồn Giai phẩm Nhân Văn.

Chỉ tiếc rằng ở bên này vĩ tuyến không có Nguyễn Xuân Khoát hiện diện cùng chúng ta. Nếu có Khoát ở đây, và nếu lại họp mặt được thêm một số kiện tướng của làng Nhạc đồng cảnh, đồng tình với Khoát, như Văn Cao, Tử Phác, Tô Vũ, Đoàn Chuẩn, Hoàng Giác… và cả anh chàng Tạ Phước lý thuyết gia, hẳn là tiếng sắt, tiếng đồng tiêu dao tha hồ có dịp rung lên âm hưởng thanh thoát, phóng khoáng và hào hứng.

Tiếng đại hồ cầm của Nguyễn Xuân Khoát sẽ lại có hứng khởi nảy lên những cung bậc hòa âm trầm bổng, như ngày nào xưa, những âm điệu mê hoặc của bản nhạc “Vũ Khúc Ma Quái” đã có hiệu lực chiêu dụ, trấn áp được tà ma, đưa Hồn Người trở về hào quang của cái Đẹp.

Nghe nói sau này Khoát còn thực hiện được, nhiều tác phẩm đáng kể, với công trình nghiên cứu Nghệ thuật Ca Trù,… vì chính Khoát từng là một “cây” đàn đầy tài tử rất phong độ.

--------------------------------

1

Danse Macabre (Ca Khúc Ma Quái) “Một Thi Khúc Hợp Tấu (poème symphonigpe) thuộc loại “nhạc miêu tả”, gợi ấn tượng rùng rợn và quái đản với những bộ xương ma từ dưới mồ hiện lên nhảy múa, va chạm lóc cóc. Nhạc phẩm nổi tiếng của Saint-Saens, nhạc sĩ Pháp (1835-1921).

2

Tôi chỉ xin kể tới một số nhạc phẩm của Nguyễn Xuân Khoát lấy chất liệu ở ca dao hoặc ở những câu hát bình dân, những bản nhạc làm sống lại tiết điệu cổ sơ của dân tộc- và chưa kể tới những sáng tác có “thời đại tính” của Khoát như Hồ Xuân, Tiếng Chuông Nhà Thờ, Uất Hận v.v… Trong số các nhạc phẩm có tính cách dân ca kể trên, một vài nhạc sĩ khác cũng tìm đến một vài đề tài trùng hợp, phát xuất chung từ một nguồn gốc.

TIẾNG ĐÀN XƯA

Người đẹp vẫn thường hay chết yểu

Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai

Nghệ sĩ vốn sinh giàu cảm lụy

Dẫu tàn thân thế khó quên nhau.

Hôm nay chúng tôi xin nhắc đến một nhà thơ đã từng góp tiếng nói tâm tình kín đáo của mình vào bản hợp tấu chung của làng thơ thời tiền chiến- một nhà thơ hiện đã khuất bóng, mà, theo lời thuật lại của một số thi hữu, thì nhà thơ đó đã từ trần vào chính ngày 4 tháng 10, cách đây hơn 20 năm trời. 1

Vậy buổi hôm nay còn có ý nghĩa một buổi hoài niệm. “Đốt lò hương cũ…” để làm rung lên tiếng đàn ngày xưa. Tiếng đàn ngày xưa đây là tiếng thơ của thi sĩ Phạm Hầu, thi sĩ đã từng có lần tự đặt những câu hỏi bâng khuâng:

Chẳng biết trong lòng ghé những ai?

Thềm son từng dội gót vân hài.

Hỡi ôi! người chỉ là du khách

Giây phút dừng chân Vọng Hải Đài.

Cơn gió nào lên có một chiều

Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu

Tháng ngày đi rước tương tư lại

Làm rã chân thành sắp đổ xiêu.

Tiếng nói đó không sôi nổi, không bồng bột - thoạt nghe, người ta chưa thấy nó hấp dẫn, quyến rũ, nhưng đọc lại một đôi lần, người ta sẽ thấy nó có một dư âm ngậm ngùi lưu luyến, tự nhiên lắng dần, lắng dần vào trong tâm khảm chúng ta - và ta bỗng tưởng như nghe thấy tiếng nói thủ thỉ, ân cần của một người tri kỷ.

Bởi lẽ thi sĩ Phạm Hầu tuy đã rụt rè tìm đến với cuộc đời, nhưng vẫn ngờ cuộc đời hờ hững, nên thi sĩ đành ủ kín “mối tình kiêu” như chính lời thi sĩ đã tự thú nhận. Từ đó, người thơ đứng giữa cuộc đời, kề bên những tấm lòng thiên hạ, mà vẫn xa xôi, đơn chiếc như một ngọn hải đăng cô tịch, đêm đêm viễn vông ngoài cửa bể mênh mang, để chỉ tìm thấy toàn những bóng hình du khách ghé qua lòng mình giây phút rồi lại đi xa. Ngày nay, chúng ta không còn hờ hững với Phạm Hầu. Sau những vần thơ trầm lắng của Phạm Hầu, mà trước kia nhiều người chỉ đọc lướt qua không đặc biệt chú ý, ngày nay chúng ta đủ tìm thấy ở đó những âm hưởng thắm thiết của một linh hồn bè bạn sẵn sàng dội lại những rung động của chính tâm hồn chúng ta.

Vì vậy, những bài thơ của Phạm Hầu đọc một lần chưa đủ - cũng như tìm hiểu một người bạn trầm mặc, ít nói, chúng ta không nên nghĩ rằng một vài câu chuyện buổi xã giao đã đủ làm nhịp cầu thông cảm và chúng ta không nên chỉ làm những du khách ghé qua Vọng Hải Đài giây phút rồi đi! Vì vậy, chúng tôi xin đọc lại một lần nữa toàn bài thơ “Vọng Hải Đài” của thi sĩ Phạm Hầu:

Chẳng biết trong lòng ghé những ai?

Thềm son từng dội gót vân hài.

Hỡi ôi! người chỉ là du khách

Giây phút dừng chân Vọng Hải Đài.

Cơn gió nào lên có một chiều

Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu

Tháng ngày đi rước tương tư lại

Làm rã chân thành sắp đổ xiêu.

Trống trải trên đài du khách qua

Mây ngàn vơ vẩn, gió đêm là.

Muốn đời e hãy còn vương vấn,

Một sắc không bờ trên biển xa.

Lòng xiêu xiêu, hồn nức ban mai,

Rạng đông về thức giấc hoa nhài

Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận,

Chẳng biết xa lòng có những ai?

Thi sĩ Phạm Hầu đến làng thơ không ồn ào, không có tuyên ngôn dẫn đường và cũng chẳng cần nhạc dạo báo hiệu, cho đến thơ của thi sĩ cũng chưa có một tác phẩm nào xuất bản thành sách. Phạm Hầu chỉ mới đăng thơ ở vài nguyệt san hoặc đặc san như Tao Đàn và Mùa Gặt Mới, nhưng chỉ một vài âm hưởng man mác của tấm lòng người thơ đó gieo vào trong không gian cũng đủ gây được những rung động sâu sắc, và cũng đủ khiến chúng ta không quên được thi sĩ, tuy rằng đã có biết bao nhiêu trận cuồng phong nổi lên trên nền trời thơ, từ thủa tiếng nói của thi sĩ vẳng lên cung bậc tới nay.

Tiếng nói của Phạm Hầu thủ thỉ và trầm lắng, nhưng trong cái trầm lắng thủ thỉ đó sự thực chứa đựng bao nhiêu rung động xôn xao. Thi sĩ có những cảm giác có vẻ hồn nhiên ngây thơ mà thực là đậm đà ý nhị. Nhìn một bàn chân nho nhỏ có nước da trắng muốt của người đẹp chỉ cần một bàn chân thôi, thi sĩ cũng đủ thấy gợi lên trong tâm hồn tất cả niềm đơn lạnh cố hữu:

Gặp tình cờ song chẳng biết vì đâu

Chân em trắng vậy mà lòng tôi lạnh?

Vì sao thi sĩ có những cảm giác nhự vậy? Ta cũng chẳng rõ, vì chính Phạm Hầu cũng đã chẳng biết vì đâu.

Phạm Hầu hình như không bận tâm nhìn cảnh vật bên ngoài. Thi sĩ thường nhìn vào tận tâm linh của sự vật để tìm những biến chuyển hết sức mong manh, và cũng vô cùng tế nhị. Tả một buổi trưa, thi sĩ viết:

Có cái gì chuyển thay đây với đó

Một cái gì lên xuống mãi không thôi.

Lắng càng lâu càng nghe mãi xa xôi,

Một tiếng nhẹ trong tiếng nào nhẹ nữa.

Thi sĩ Phạm Hầu là con một vị thượng thơ tên gọi Phạm Liệu. Thi sĩ sinh ngày 2-3-1920 ở Trừng Giang, Phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Phạm Hầu đã học ở trường Quốc Học Huế, và trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội.

Chúng ta đang nhắc tới cái bản sắc thi sĩ riêng biệt của Phạm Hầu nhưng Phạm Hầu còn là một họa sĩ, và là một họa sĩ chân chính có tài. Nếu làng thơ đã không quên Phạm Hầu và đã hân hoan ghi tên Phạm Hầu vào lịch sử thi ca, thì làng Mỹ Thuật tất cũng phải dành cho ông một chỗ ngồi xứng đáng.

Phạm Hầu đã từng gửi một bức họa sang dự một cuộc triển lãm ở Nhật Bản và đã được tặng giải thưởng danh dự ở Đông Kinh. Bức họa của thi sĩ chỉ vẽ có 5 hòn đá, một bức họa rất ấn tượng cái màu sắc ấn tượng đã từng toát ra ở chính những lời thơ của Phạm Hầu:

Muốn đời e hãy còn vương vấn,

Một sắc không bờ trên biển xa.

Cái màu sắc không bờ trên biển xa đó chính lá cái màu sắc tâm hồn của thi sĩ Phạm Hầu.

Đọc thơ hoặc xem tranh Phạm Hầu, người ta cũng chỉ thấy một cảm giác duy nhất. Tâm hồn của thi sĩ, dù diễn tả bằng ngôn ngữ, từ điệu, hay bằng hình thể, sắc màu, cũng vẫn chỉ là một tâm hồn nghệ sĩ khao khát Vô Cùng và Tuyệt Đối niềm khao khát điển hình của lớp nghệ sĩ tiền chiến, trước hệ thống trật tự đảo lộn của giá trị tinh thần, bị tràn lan bởi văn minh vật chất đọa lạc của xã hội thực dân phong kiến, lớp nghệ sĩ ấy đã nhận thấy mình “sinh nhầm thế kỷ” nên luôn luôn muốn tìm cách tự giải thoát. Khao khát Vô Cùng và Tuyệt Đối gần như là cái bệnh thời đại của tầng lớp tri thức không muốn tự thả mình vào cơn lốc quay cuồng của thế sự.

Phạm Hầu, cũng như Vũ Hoàng Chương, Thâm Tâm, J. Leiba cùng một số thi sĩ khác đương thời, đã nói được phần nào cái “Bâng Khuâng Lớn Của Thời Đại”.

Và dù làm thơ hay vẽ tranh thì Phạm Hầu cũng vẫn là một thi sĩ có một bản ngã riêng biệt.

Là thi sĩ, là họa sĩ có lẽ Phạm Hầu còn có tâm hồn của một nhạc sĩ. Câu thơ của Phạm Hầu thường có một nhạc điệu bình thanh tự nhiên bay bổng, thanh thoát lâng lâng, mới nghe có vẻ lạ tai. Nhưng chính đó là cái Hồn Nhạc tân kỳ của người thơ đã nhập vào tiết điệu. Ta hãy nghe những câu thơ và tiếng đàn sau đây của Phạm Hầu:

Đêm qua không ở nơi trần gian

Một chàng hào hoa như Tống Ngọc.

Một nàng yểu điệu như Văn Quân

Nói chuyện ái ân, mượn tiếng đàn.

Nàng khóc bằng tay trên phím ngà

Những ngón tay dài như lệ sa.

Một điệu đàn van lời tỉ mỉ

Sầu xuôi dòng theo tình phù sa…

Thi sĩ Phạm Hầu, qua một vài thi điệu vừa rồi, đã biểu lộ cho ta thấy cái bản ngã e lệ và ý nhị của tâm hồn Đông Phương trầm mặc. Nói chuyện ái ân, nhưng không nói thẳng, mà lại nói bằng tiếng đàn, người thi sĩ ấy quả là một thứ Bá Nha của thế kỷ 20. Chẳng biết trong cuộc sống, thi sĩ có tìm thấy một Tử Kỳ hay chăng, nhưng tới ngày nay thì “nước non đã sẵn lắng tai Chung Kỳ” để mà nghe những lời thơ:

Và khóc bằng tay trên phím ngà…

Thi sĩ Phạm Hầu lặng lẽ đến với cõi dời, và âm thầm sống với cõi lòng bao la của mình- bởi vì hình như thi sĩ thấy cõi đời cô liêu, mà chính lòng mình lại càng cô liêu, bát ngát hơn. Đang hứa hẹn rất nhiều với thế hệ thi ca của thời tiền chiến, thì thi sĩ Phạm Hầu vội qua đời giữa tuổi thanh xuân, trở về với cõi vô cùng Tịch Mịch mà trong lúc sống ông vẫn hằng viễn vọng.

Tiếng nói tâm tình của nhà thơ ấy, ngày nay Làng Thơ của miền Tự Do chúng ta tự thấy có nhiệm vụ phải ghi nhớ và ghi nhớ để mà chứng tỏ rằng chúng ta bao giờ cũng sẵn sàng cảm ứng với tất cả những cái gì hướng đến và vươn lên Chân Mỹ Thiện- ánh sáng lộng lẫy và bất diệt của lòng người.

Vì muốn đi tìm cái ánh sáng đó mà thi sĩ Phạm Hầu đã từng có lần phải rỏ lệ - dù là những giọt lệ yêu đương cũng là những giọt lệ của Lý Tưởng. Qua giòng lệ, nỗi buồn Phạm Hầu được thể hiện bằng những vần thơ sau:

Tôi đã dám cầu xin hai giọt lệ

Trên mi nàng huyền bí vẻ say mê

Cho điệu buồn man mác ở đâu về,

Đưa ngọn cỏ theo chiều mây lặng lẽ.

Cho tôi được nghiêng kề nàng thỏ thẻ

Vì lời thương rên siết ở trong tôi.

Chỉ khi buồn thấp thoáng cánh hoa rơi,

Mà hương lệ đó là trang sổ quý!

Buồn len lỏi trên đầu cây thi vị

Gieo lệ vàng trên ngấn nắng chiều trôi.

Tôi kề nàng, ý nhạc đọng trên môi,

Lời tôi lặn trong mắt nàng rung động.

Yêu đương đến tất cả chiều mơ mộng,

Buồn nhẹ nhàng trên làn khói thu không

Buồn mơn man trên đầu tóc rối bồng

Và vơ vẩn bên đôi ngườì vô tội.

Nàng và tôi, nhánh sầu chung rễ cội,

Kề vai nhau khi lệ với chiều rơi.

Khi giọt sương âu yếm rỏ lên người

Nàng và Tôi là hai dòng lệ nối.

Phạm Hầu tuy sống kín đáo âm thầm nhưng không hiểu trong lòng thi sĩ đã xao động những làn sóng ngầm mãnh liệt nào? Và đã có những giông tố hãi hùng nào tràn đến trong đời sống nội tâm của thi sĩ? Bởi vì, chúng tôi được biết thêm rằng: Thi sĩ họ Phạm đã chết vì bệnh động kinh, và chết ở dọc đường, trên một chuyến xe hỏa.

Nhân nhắc tới Phạm Hầu, thi sĩ có một tâm hồn e lệ tiêu biểu cho cái bản sắc Đông Phương trầm mặc, chúng tôi xin trình bày một bài thơ của một thi hữu đương thời với Phạm Hầu đã tặng riêng Phạm Hầu từ khi họ Phạm còn chưa là người thiên cổ:

NHỮNG HƯỚNG SAO RƠI

Khi Miếu Đường kia phá bỏ rồi,

Ta đi về những hướng sao rơi.

Lạc loài theo dấu chân cầm thú,

Từng vệt dương sa mọc khắp người.

Sau trái cô sơn, ngày lại ngày

Hồn kinh kỳ hiện dưới chân mây

Đôi tay vò xé loài hoang thảo

Đổ máu căm hờn trên cỏ cây.

Rồi những đêm sâu bỗng hiện về

Vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya

Đâu đây u uất hồn sơ cổ

Từng bóng ma rừng theo bước đi.

Ta đến sườn non, rẽ cỏ gai.

Sống đây; ghi trước, mãnh di hài.

Lẫn trong kiến trúc tòa vân thạch,

Hồn Cổ ngồi chung, mộng vắn dài.

Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ

Ta nằm trên cỏ, lắng tai nghe.

Thèm ăn một ít hoa hoang dại,

Rồi ngủ như loài muông thú kia.

--------------------------------

1

Bài này do thi sĩ Đinh Hùng đọc trên đài phát thanh ngày 4-10-1957.

MỘT MÙA TƯỞNG NIỆM

Nhớ tới ba nhà thơ đã khuất bóng
Nguyễn Đình Chiểu - Phan Thanh Giản - Nguyễn Du.

Ở bên này vĩ tuyến, dưới vùng trời tự do nhiều ánh sáng của chúng ta, với “hai mùa nắng mưa” cố hữu, tuy thời tiết không phân định rõ bốn mùa “xuân, hạ, thu, đông”, nhưng trong tâm tưởng, tôi vẫn thấy hiền hiện đủ bốn mùa, theo một chu kỳ mầu nhiệm của những tháng, năm- tiềm thức. Mỗi vang bóng, mỗi kỷ niệm còn ghi trong ký ức tôi hình như vẫn mang nặng cái khí hận u linh của những thời gian quá khứ. Khí hậu ấy nhiều lúc tưởng chừng bao phủ cả lên cảnh vật hiện tại. Thời tiết mỗi năm dường như cũng chuyển biến theo. Có thể nói: Luật “tuần hoàn cảm ứng” của lòng người đã tạo nên từng “Mùa Tưởng Niệm” nhắc nhở ngay từ trong cùng thẳm tâm linh. Chúng ta tưởng niệm những gương mặt anh hùng liệt sĩ của ngày xưa, những bóng dáng uy nghiêm mà thâm thiết của các bậc tiền bối đã đem lại cho Non Sông cái sắc thái vĩnh cửu, đã làm cho linh hồn Sông Núi sống mãi trong lòng dân tộc, và đã khiến cho bốn mùa hoa gấm của giang sơn đời đời còn nguyên vẹn thanh sắc. Từ trong tâm linh sâu thẳm của chúng ta, tự nhiên cũng dâng lên khói hương sùng bái.

Vậy mỗi năm, vào đúng tiết thu từ khoảng đầu tháng 7 tới tháng 9 dương lịch. “Một Mùa Tưởng Niệm” lại trở về cùng chúng ta, bàng bạc trong hương khói cảm hoài. Kế tiếp nhau trong ba tháng mùa thu, ba gương mặt kẻ sĩ cao khiết đã khuất bóng từ thế kỷ trước, vào mùa này lại hiển hiện nghi dung phảng phất, nhắc chúng ta nhớ lại ba Ngày Giỗ Lớn trong Lịch Sử Văn Học: Nguyễn Đình Chiểu, từ trần ngày 3 tháng 7 năm 1888; Phan Thanh Giản, tử tiết ngày 1 tháng 8 năm 1867; và Nguyễn Du, mất ngày mồng 10 tháng 8 (âm lịch) năm đầu niên hiệu Minh Mệnh (1820).

Một mùa thu, ba lần Kỷ Niệm! Ba cái chết của ba bậc danh nhân tiền bối mà hậu thế không bao giờ quên được tên tuổi: ba kẻ sĩ đáng kính, ba nhà thơ đáng yêu.

Phải chăng, bởi vì mùa thu là “Mùa của Thi Nhân”, cho nên ba nhà thơ quen thuộc của dân tộc cũng “chọn” đúng thời tiết tiêu sơ hiu hắt để mà tận nhập vào Đại Mộng? Cho hình hài “hoàn phản không hư” vào đúng mùa lá rụng, phải chăng linh hồn thi nhân cũng muốn như chiếc lá lìa cành cuốn theo chiều gió?

Tuy nhiên, ba nhà thơ tiền bối của chúng ta bước vào thiên cổ chính là để sống vĩnh cửu trong không thời gian và sống tự do phơi phới ngoài vật lý, không phải như những vong hồn đọa lạc “lang thang trong trường dạ…”. Không cần chúng ta cầu nguyện, hương hồn các Người cũng đã lâng lâng bay lên những vùng trời siêu thoát. Chúng ta tưởng niệm các anh hồn đó chính là để tìm lại những tia sáng khác với phát tiết ra từ ngọn lửa thiêng quý báu ngày nào đã từng nuôi dưỡng những tâm hồn vĩ đại, mà hào quang chiếu rọi tới chúng ta từ bao lâu nay đủ là dấu hiệu chứng tỏ anh hồn các Người vẫn còn sống ấm nóng bên cạnh chúng ta, và sống mãi muôn đời, nghìn kiếp.

Kẻ trước, người sau, ba kẻ sĩ: Nguyễn Du, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu đã lần lượt đi vào cõi tịch diệt để trở nên bất diệt. Lịch sử đã dành cho các Người những danh dự xứng đáng, trước hết là niềm ngưỡng mộ thành khẩn và lâu dài của hậu thế. Hôm nay, tưởng niệm anh hồn các Người, chúng ta nhắc tới một vài vang bóng đã qua, khả dĩ hình dung được cả gương mặt cùng tấm lòng cao nhã của tiền nhân.

Chúng ta nhớ tới Nguyễn Đình Chiểu tiên sinh, tức Đồ Chiểu, tác giả Lục Vân Tiên, nhà thơ ái quốc tiêu biểu cho sĩ khí miền Nam, vị quân sư mù của lãnh binh Trương Định. Và chúng ta không quên lời thơ trong Ngư Tiều Vấn Đáp của tiên sinh:

Dầu đui mà giữ đạo nhà,

Còn hơn có mắt ông cha không thờ.

Dầu đui mà khỏi danh nhơ,

Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình.

.....

Sáng chi xàm nịnh theo đòi,

Nay vinh mai nhục mang lời thị phi?

Sáng chi nhân nghĩa bỏ đi,

Thảo ngay chẳng biết, lỗi nghì thiên luân.

Thấy rồi muôn việc trong trần,

Xin còn hai chữ “tâm thần” ở ta…

Không những là một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu tiên sinh còn là một nhà đạo đức, một bậc quân tử gương mẫu của Lý Tưởng Nho Giáo, bậc thầy của đám môn sinh các vùng Sài gòn, Mỹ Tho, Bến Tre, và cũng đáng là bậc thầy dạy đạo lý thánh hiền của cả đám hậu sinh thời nay. Lời thơ trong Lục Vân Tiên, đặt vào cửa miệng Ngư Ông, cũng chính là để Đồ Chiểu tiên sinh tự nói lên tâm trạng của mình:

Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chẳng sờn lòng đây.

Rầy doi, mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng…

Tuy có phong thái của bậc hiền giả “an bần lạc đạo”, không màng danh lợi ở đời, nhưng Nguyễn Đình Chiểu còn giữ bền cả cái huyết tính bất khuất của một kẻ sĩ trung kiên với tinh thần dân tộc. Trước cảnh tàn vong của đất nước, tiên sinh đã không ngần ngại góp tài sức cùng các nghĩa sĩ kháng Pháp, quyết tâm tranh đấu dành độc lập cho tổ quốc. Trong phong trào Nghĩa Quân chống xâm lược, danh tiếng vị quân sự mù của Lãnh binh Trương Định đã từng nổi dậy khắp từ thành thị tới thôn quê.

Việc lớn không thành. Tiên sinh chạy về Ba Tri (Bến Tre) ở ẩn dạy học. Nhiều lần người Pháp định mua chuộc tiên sinh, tỏ ý muốn giúp đỡ tiên sinh về tiền tài, nhưng tiên sinh đã từ chối, và nhất định không chịu hợp tác với người Pháp. Thái độ khẳng khái ấy đã thác ngụ trong hai câu thơ Lục Vân Tiên sau đây:

Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,

Núi non ẩn mặt, công hầu lảng tai…

Hiển nhiên hơn nữa, trong bài “Điếu Phan Công Tòng”:

Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây,

Một giấc sa trường phận rủi may.

Viên đạn nghịch thần treo trước mắt,

Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay…

Và thái độ ấy cũng chỉ là thái độ của một kẻ sĩ biết tự trọng, một kẻ sĩ biết giữ tròn khi tiết, đúng với quan niệm Trung thần Nghĩa sĩ của Nho Giáo:

Làm người trung nghĩa đáng bia son,

Đứng giữa càng khôn siềng chẳng mòn.

Cơm áo đền rồi ơn đất nước,

Râu mày giữ vẹn phận tôi con.

Tinh thần hai chữ phao sương tuyết,

Khi phách ngàn thu rỡ núi non.

Gẫm truyện ngựa Hồ, chim Việt cũ,

Lòng đây tưởng đó mất như còn.

Đặc biệt nhất trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, thiết tưởng không phải là Lục Vân Tiên (tuy tác phẩm dài này phổ biến nhất), cũng không phải Ngư Tiều Vấn Đáp, không phải Dương Từ Hà Mậu, mà phải kể tới những thơ văn ái quốc của tiên sinh. Những bài thơ viếng Phan Thanh Giản, Điếu Lãnh binh Trương Định… những bài văn Tế Vong Hồn Mộ Nghĩa, Điếu Lục Tỉnh Sĩ Dân, Tế Trương Định… đều có một tác dụng truyền cảm mãnh liệt sâu xa. Lời văn trầm hùng thống thiết, vần điệu rung động chân thành mà thì tứ vẫn dồi dào phong phú, đúng là lời nói tâm huyết thốt tự đáy lòng một nhà thơ chân chính yêu nước.

Thấm thía biết bao nhiêu, những lời văn Tế Vong Hồn Mộ Nghĩa như sau:

Ôi thôi thôi!

Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm

Lòng son gởi bóng trăng rằm;

Đồn Tây Dương một khắc đặng trả hờn, tủi

phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bầy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn

khuya leo lét trong lầu!

Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, con

bóng xế dật dờ trước ngõ.

Ôi!

Một trận khói tan,

Ngàn năm tiết rỡ.

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, nỡ

làm cho bốn phía mây đen;

Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng

một phường con đỏ?

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm

đồn sáu tỉnh chúng đều khen;

Thác mà ưng đình miễu để thờ, tiếng hay

trải muôn đời ai cũng mộ…

Nhà thơ ái quốc chí thành, tác giả đoạn Văn Tế cảm khái rào rạt đó, trong những ngày về ấn náu ở Bến Tre, đành âm thầm sống với nỗi lòng hoài quốc mênh mang của mình trước cuộc điêu tàn không phương cứu chữa của Đất Nước. Thế rồi, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, niên hiệu Đồng Khánh thứ 3 (tức là ngày 3 tháng 7 năm 1888), tiên sinh lặng lẽ từ trần, lòng còn nghẹn một điều u uất chưa nguôi.

Kẻ sĩ Nguyễn Đình Chiểu từ trần vừa lúc những trận mưa đột ngột miền Nam bắt đầu giăng buồn hiu hắt trên sông núi, cách đây 72 năm. Hãy cứ tin rằng đấy là những dòng nước mắt của Trời Đất khóc một kẻ sĩ anh hùng.

°

Chính kẻ sĩ Nguyễn Đình Chiểu, 21 năm trước khi biệt giã cõi đời, đã từng khóc cái chết nghĩa khí của một kẻ sĩ khác bằng bài thơ dưới đây:

Non nước tan tành, hệ bởi đâu?

Rầu rầu máy bạc, cõi Ngao Châu.

Ba triều công cán, với hàng sớ,

Sáu tỉnh cương thường, một gánh thâu.

Ải Bắc, ngày trông tin nhạn vắng,

Thành Nam đêm chạnh tiếng quyên sầu.

Minh tinh chín chữ lòng son tạc,

Trời đất từ đây mặc gió thâu.

Đó là thơ viếng cụ Phan Thanh Giản, người bạn thanh khí của Nguyễn Đình Chiểu, và cũng là người bạn già đi bước trước Nguyễn Đình Chiểu trên đường phụng sự Nghĩa Lớn (Phan Thanh Giản sinh năm 1796, mất năm 1867, thọ 71 tuổi; Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888, thọ 66 tuổi).

Đồng thời với Phan Thanh Giản, đã có nhiều người khóc cái chết của tiên sinh. Và ngày nay, hậu thế vẫn hằng nhắc nhớ tới cái chết của tiên sinh để mà thương cảm, xót xa, kính trọng, coi đó là một tấm gương tiết tháo sáng ngời.

“Hải Nhai Phan Lương Khê Thư Sinh”!

“Người học trò họ Phan hiệu Lương Khê ở góc bể”, năm 30 tuổi đã từng đỗ tiến sĩ, đã từng làm quan dưới ba triều Minh Mệnh, Thiệu Trị. Tự Đức; từ một chức Hàn Lâm Viện Biên Tu, mấy lần thăng giáng, lên tới Hộ Bộ Thị Lang, được cử đi sứ, rồi sung chức Kinh Lược ba tỉnh phía tây Nam Kỳ, để rồi cuối cùng, khi vĩnh biệt cõi đời, lại chỉ là một thư sinh với hai bàn tay trắng, không chức tước, không phẩm trật.

Nhưng, chết đi như vậy, thư sinh họ Phan đã có một danh hiệu cao đẹp hơn tất cả mọi phẩm tước ở trên đời: đó là cái danh biệu Kẻ Sĩ Khí Tiết, vằng vặc sáng muôn đời.

Ai nấy đều đã rõ: Năm 1867, quân Pháp đánh ba tỉnh miền tây Nam Kỳ. Tự lượng biết sức không chống nổi, Phan Thanh Giản phải buộc lòng nộp thành trì cho khỏi hại dân. Tiên sinh gửi sớ về kinh xin nhận tội, rồi nhịn ăn 17 ngày, và uống thuốc độc tự tử. Tiên sinh từ trần vào ngày mồng 5 tháng 7 năm Đinh Mão, tức là ngày 1 tháng 8 năm 1867 1 .

Tấm lòng trung liệt của Phan Thanh Giản, ai mà không nhận thấy? Cái chết của họ Phan đã có giá trị một sự hy sinh cao quý: tự hủy một thân mình để giữ cho an toàn trăm họ, hành động ấy xét ra còn có ý nghĩa hơn là một cuộc kháng cự đến cùng chỉ gây thêm đổ vỡ.

Tuy triều đình Huế thời đó mù quáng nghị tội “Phan Thanh Giản bị đoạt chức quan, phải đục tên trong bia Tấn sĩ, ghi tội “trảm giam hậu” đời đời… nhưng tới triều Đồng Khánh người ta đã thấu hiểu được tinh thần trung nghĩa của bậc sĩ phu khí tiết mà cho khai phục nguyên hàm.

Có điều: luận công hay định tội thì người chết cũng đã chết rồi, và tiếng thơm của kẻ sĩ tiết tháo vẫn còn nguyên vẹn, không một bản nghị án nào có thể làm tăng thêm hay suy giảm. Người đã khuất bóng không cần nói gì để tự bào chữa. Từ ngày ấy tới nay, đã có dư luận minh oan hộ Người, và gần một trăm năm lịch sử đã thẩm xét thái độ của Người.

An Giang Án sát Phạm Viết Chánh đã ngợi khen:

Sổ hàng di biểu lưu thiên địa,

Nhất phiến đan tâm phó sử thư.

Nghĩa là:

Đôi hàng di biểu vương trời đất,

Một tấm lòng son gửi sử xanh.

Và Phạm Án Sát đã có thơ ca tụng:

Phan công tiết nghĩa sách cao dầy.

Thương bấy vì đâu khiến chẳng may.

Hết dạ giúp vua, trời đất biết,

Nát lòng vì nước, quỷ thần hay.

Tuyệt lương một tháng, rau xanh mặt,

Bị cách ba phen, lửa đỏ mày.

Chỉ sợ sử thần không biết ráo,

Tấm lòng ấm ức phải thày lay!

Cho đến cả người Pháp cũng phải tỏ niềm quý trọng phẩm cách của bậc sĩ phu lão thành. Trong bức thư phân ưu gửi cho gia đình họ Phan, thiếu tướng De Lagrandière đã viết:

‘‘J’apprends avec une grande douleur la mort de S.E. Phan Thanh Giản, votre père. Le royaume d’Annam don’t il était le member le plus éminent perd dans ce vieillard respecté une de ses glories et de ses lumières, et le sentiment de profonde estime qu’il laisse dans ma mémoire se dans celle des Français sera plus durable que la haine de ses ennemis …”

“Bản chức rất lấy làm đau đớn khi hay tin thân phụ công tử là cụ Thượng Phan Thanh Giản từ trần. Nước Nam mà Ngài là một phần tử xuất chúng mất vị lão thành đáng kính ấy tức là mất một phần vinh quang của xử sở, và mối tình quý trọng sâu xa mà Ngài lưu lại trong ký ức riêng tôi cũng như trong ký ức người Pháp sẽ lâu bền hơn mối thù hằn kẻ nghịch…) 2 .

Bao nhiêu xôn xao của thế cuộc, bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu nụ cười. Cả bao nhiêu lời phẩm bình dị nghị, khắc nghiệt bay khoan dung, chê trách hay khâm phục, bao nhiêu tiếng thị, tiếng phi thuở đó giờ đây cũng đều vắng chìm vào tịch mịch, tan biến vào không hư! Chỉ còn lại một tấm lòng kẻ sĩ thiết tha son sắt cùng non sông. Và chỉ còn lại tiếng vọng tâm thành của những vần thơ chứa chan nhiệt huyết, như bài Tuyệt Cốc - biểu thị tận cùng của lòng trung kiên đến thác:

Trời thời, đất lợi, lại người hòa,

Há dễ ngồi coi, phải nói ra?

Lăm trả ơn vua, đền nợ nước,

Đành cam gánh nặng, ruỗi đường xa.

Lên ghềnh, xuống thác, thương con trẻ,

Vượt biển, trèo non, cảm phận già.

Những tưởng một lời an bốn cõi,

Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!

Một Nguyễn Đình Chiểu, một Phan Thanh Giản dù là hai cái bóng mênh mang bao trùm lên hơn nửa phần thế kỷ cận đại, vào giữa lúc đất nước cũng đang chuyển mình sang thu.

Trước ngày Phan Thanh Giản tuẫn tiết 47 năm, và trước ngày Nguyễn Đình Chiểu từ trần 68 năm, Nguyễn Du cũng đã khuất bóng vào một mùa thu, có lẽ để sánh bước nhau cùng đi trên đường thiên cổ, không còn phân biệt niên kỷ, triều đại. Thêm cái bóng vĩ đại của Nguyễn Du hiện hiện trong Mùa Thu Tưởng Niệm, cả vòm trời văn học hôm nay cũng hình như thao thức.

Ngày giỗ Tiên Điền, mồng 10 tháng 8 âm lịch, đã trở nên một ngày lễ truy điệu thường niên mà khắp giới văn nhân thi sĩ đều trọng vọng ghi nhớ. Anh hồn tác giả Đoạn Trường Tân Thanh cùng Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh ở bên kia trần lụy chắc hẳn không còn thắc mắc vì lẽ:

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như.

Không cần phải đợi tới ba trăm năm sau, từ khi tiên sinh lìa trần tới nay, mới có hơn 100 năm, đã biết bao nhiêu người khóc Tố Như, bao nhiêu tấm lòng rung cảm hòa điệu cùng tâm sự Tố Như, bao nhiêu tâm hồn từng thổn thức chung một cung đàn thanh khí với Tố Như?

Thi sĩ Chu Mạnh Trinh đã viết trong bài Tựa Thanh Tâm Tài Nhân Thì Tập (nguyên tác Hán Văn, do Đoàn Tư Thuật dịch nôm) như sau:

“Ai dư nước mắt khóc người đời xưa? Thế mà giống đa tình luống những sầu chung, giọt lệ Tầm Dương chan chứa; lòng cảm cựu ai xui thương mướn? Ngâm câu Ngọc Thụ não nừng. Cho hay danh sĩ giai nhân, cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ. Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai lưu lạc đau lòng…

“Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu. Cái kiếp không hoa luẩn quẩn, con hồn xuân mộng bâng khuâng…

Phong Tuyết Chủ Nhân Thập Thanh Thị đã viết rất đạt lý về Truyện Kiều những lời sau đây:

“Có người hỏi ta rằng: Thúy Kiều có người thật không? Ta đáp rằng: Không biết. Người ta lại hỏi rằng: Thế thì làm sao lại có truyện Thúy Kiều? Ta đáp lại rằng: Từ lúc mờ mịt chưa có gì, đến lúc có thái cực, có lưỡng nghi, có tứ tượng, rồi tự nhiên biến hóa không ai dò được manh mối từ đâu. Trong khoảng ấy có rét, có nóng, có âm, có dương, lúc sinh ra, Iúc mòn đi, lúc đầy lên, lúc vơi xuống, không thể nào giữ mãi được mực thường. Đã không giữ được mực thường, thì tất có cuộc biến. Vì thế hoặc năm sáu trăm năm, hoặc ba bốn trăm năm, hoặc năm sáu mươi năm, cũng phải có một lần biến. Cái biến ấy đã khác với cái thường, thi phàm ai gặp phải thời ấy, bước vào cái cảnh ấy, ngổn ngang những biến cố ở trước mắt, chồng chất những khối lỗi ở trong lòng, mới phải mượn đến bút mực để chép ra, như những truyện anh hùng, truyện phong tình, truyện trung thần, liệt nữ, truyện đạo sĩ ni cô, chẳng qua là mượn ngòi bút, tờ giấy để chép những cái cảnh ngộ lịch duyệt của bản thân mà thôi. Truyện Thúy Kiều có lẽ cũng là một thứ sách như thế cả…”

°

Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân cũng viết những lời thực chí tình tha thiết:

“Truyện Thúy Kiều chép ở trong lục Phong Tình… Tố Như tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn Trường Tân Thanh, thành ra cái lục Phong Tình thì vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy.

Trong một tập thi chung lấy bốn chữ “Tạo Vật, Đố Tài” tóm cả một đời Thúy Kiều: khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đăm khúc tiêu tao; khi duyên và kim cải, non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ càng tê lưỡi. Vui, buồn, tan hợp, mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy…

Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy…

Cổ nhân thương khóc Thủy Kiều của Nguyễn Du như thương khóc một nhân vật có thực mà mình đã quen, đã biết, đã vương duyên nợ đằm thắm từ giờ; như thương khóc một nhân vật do chính mình sáng tác. Đến lượt, cô Kiều của Tố Như lại bị người khác “hoàn thai đoạt cốt”, để biến thành “người tình nhân của tất cả”. Chính đó là dấu hiệu niềm cảm thông hoàn vẹn nhất, hòa điệu với tâm hồn tác giả Đoạn Trường Tân Thanh.

Bài thơ đề Truyện Kiều của Phạm Quý Thích tiên sinh đáng kể là một trong những khúc hòa âm tuyệt diệu đó:

Giai nhân bất thị đáo Điền Đường,

Bán thế yên hoa trái vị thường.

Ngọc diện khởi ưng mai thủy quốc

Băng tám tự khả đối Kim Lang.

Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu,

Bạc mệnh cầm chung oán hận trường.

Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ,

Tân Thanh đáo để vị thùy thương.

Dịch nôm:

Giọt nước Tiền đường chẳng rửa oan,

Yên hoa chưa trắng nợ hồng nhan?

Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng;

Gót ngọc khôn đành chốn Thủy quan.

Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp;

Một giây bạc mệnh dứt cầm loan.

Cho hay những kẻ tài tình lắm.

Trời bắt ùam gương để thế gian.

Nói đến Nguyễn Du và Truyện Kiều, từ xưa đã biết bao nhiêu bút mực tiếp mạch nguồn cảm thông!

Hôm nay, chúng ta gợi nhớ lời vang bóng của Nguyễn Du trong một mùa thu tưởng niệm. Chúng ta chợt nhận thấy hình như vùng ánh sáng Tự Do ở đây có đượm một phong khí lâng lâng thoát tục diệu kỳ. Chính bởi vì khi hậu vùng trời tự do đã giữ bền cho chúng ta kỷ niệm, khiến chúng ta có dịp tìm thấy những ánh hào quang tuyệt vời của dĩ vãng nghĩa là giúp chúng ta lưu luyến thêm dĩ vãng, để mà tin yêu hiện tại và hy vọng ở tương lai.

Chú thích:

1.

Có sách ghi: Ngày 04 -8-1867

2.

Theo tài liệu của Nam Xuân Thọ.

PHAN BỘI CHÂU
NHÀ THƠ CÁCH MẠNG THUẦN TÚY

Ngày 29 tháng 10 năm 1940, tại kinh thành Huế, bên dòng sông Hương tự muôn đời lờ lững trôi xuôi, trong túp lều tranh ba gian nương mình trên Bến Ngự, nhà chí sĩ cách mạng kiêm thi sĩ Phan Bội Châu đã âm thầm trút hơi thở cuối cùng, thọ 74 tuổi, sau 15 năm sống giam lỏng trong cái cảnh:

Những ước anh em đầy bốn biển,

Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian…

Từ khi tử thần còn chờ đợi, trên giường bệnh, thi sĩ cách mạng chưa bao giờ nhụt chí đấu tranh mà phải ép mình buông tay theo số mệnh vô tình, nhà thơ ái quốc thuần tuý đó đã từng đọc cho thân nhân chép lại bài thơ mênh mang cảm khái:

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ

Thiên hạ thùy nhân bất thức quân.

Bẩy mươi tư tuổi trót phong trần,

Nay gặp bạn mới tinh thần hoạt hiện.

Những ước anh em đầy bốn biển,

Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian.

Sống xác thừa mà chết cũng xương tan,

Câu tâm sự gửi chim ngàn cá biển.

Mừng được đọc bài văn “sinh vãn”.

Chữ đá vàng in mấy đoạn tâm can.

Xét mình nay sức mỏng trí thêm khan.

Lấy gì đáp khúc đàn tri kỷ?

Nga nga hồ chí tại cao sơn,

Dương dương hồ chí tại lưu thủy,

Đàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm?

Bỗng nghe qua, khóc trộm lại đau thầm.

Chung Kỳ chết, ném cầm không gẩy nữa,

Nay đương lúc tử thần chờ trước cửa.

Có vài lời ghi nhớ để về sau

Chúc phường hậu tử tiến mau…

- Thực là những lời tâm sự thống thiết, có lúc nghẹn ngào khiến người nghe muốn thùy lệ. Nhưng thống thiết nghẹn ngào mà vẫn thấm đượm cái giọng khảng khái trầm hùng của một tấm lòng sắc son vàng đá với non sông.

Chất thơ Sào Nam rung cảm chúng ta một cách vừa say sưa, vừa thấm thía. Chưa nói đến tính chất cách mạng, tính chất ái quốc, tiếng thơ đó khích động, chúng ta trước hết bằng những tiềm lực mầu nhiệm của thi ca thuần túy: sức quyến rũ của âm thanh, vần điệu, sức gợi cảm của hình ảnh, sắc màu; và giá trị của thi tứ hòa hợp cùng giá trị của kỹ thuật, từ chương, tất cả tạo nên một bản sắc thi nhân độc đáo, nhiều khi biểu hiện sâu đậm hơn cả tính chất ái quốc, cách mạng.

Vẫn biết, nói tới cụ Phan Bội Châu, không nên và cũng không thể tách rời sự nghiệp thi ca khỏi sự nghiệp cách mạng: phải có đủ cả mấy yếu tố “thi sĩ, chiến sĩ, chí sĩ” chung đúc trong một tinh thần “kẻ sĩ” trung kiên, mới kết tụ được đúng cái bản ngã Phan Bội Châu toàn vẹn, mới phát tiết được hết những tinh hoa lỗi lạc thuần chất Phan Bội Châu. Vả lại, ở Sào Nam tiên sinh, con người chí sĩ, cách mạng không hề tương phản với con người thi sĩ. Làm thơ, đối với tiên sinh, chính là để phụ họa, cổ xuý cho cách mạng, và làm cách mạng cũng chính là một quan niệm sống cho đẹp, sống cho hào, sống cho “có thi vị”. Trên bước đường hoạt động đầy sóng gió, tiẻn sinh vẫn nhìn cách mạng với tầm mắt phóng khoáng của một nhà thơ, không phải để tránh nhìn thẳng vào thực lế, nhưng chính là để giữ vững niềm tin tuyệt đối vào cách mạng.

Có thể nói: làm cách mạng, đối với tiên sinh, cũng chính là làm một bài thơ sống động nhất, hào hùng nhất, một bài thơ siêu việt hàm xúc đủ tiết điệu bổng trầm.

Ý niệm đã biểu lộ một nhân sinh quan vừa hùng hậu, vừa lãng mạn, mà chúng ta có thể tìm thấy trong số các bài thơ của tiên sinh- cả trong những bài thơ kêu gọi đồng bào, cảnh tỉnh quốc dân.

Chúng ta nhận thấy: tinh thần cách mạng nhiệt thành của nhà chí sĩ đã khơi mạch nguồn rung cảm mãnh liệt cho hồn thơ của thi sĩ, khiến hồn thơ đó thẳng đường tung cánh bay cao; ngược lại, hồn thơ của thi sĩ cũng có tác dụng hưng khải tinh thần đấu tranh của nhà cách mạng, gây thêm hào hứng cho người chiến sĩ, đem màu sắc huyền dịu của thi ca tô đẹp thêm khung trời lý tưởng, và tạo cho cuộc đời cách mạng đầy hiểm nguy bất trắc một phong vị phiêu lưu quyến rũ khác thường.

 - Hãy đọc bài thơ lưu giản sau đây, do tiên sinh khẩu chiếm để từ biệt anh em đồng chí, trước khi lên đường bôn ba hải ngoại:

Sinh vi nam tử yếu ly kỳ,

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi.

Ư bách niên trung tu hữu ngã,

Khởi thiên tải hạ cánh vô thùy.

Giang sơn tử hỷ sinh đồ nhuế,

Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.

Nguyên trục trường phong Đông Hải khứ,

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

Dịch nôm

Khác thường hay nhẩy mới là trai,

Chẳng chịu văn xoay mặc ý trời.

Trong cuộc trăm năm đành có tớ.

Rồi sau muôn thuở há không ai?

Non sông đã mất, mình khôn sống,

Hiền thánh đâu còn, học cũng hoài.

Đông Hải xông pha nương cánh gió,

Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi.

(Ngục Trung thư)

Đó là ngày mồng hai tháng giêng năm Ất Tỵ (1905), cụ Phan Bội Châu từ Quảng Nam tới Hải Phòng, rồi từ Hải Phòng ra Moncay, giả làm một chú khách đi buôn, cạo đầu gióc bím, bí mật đáp một chiếc thương thuyền vượt biển sang Tàu.

Thực tế là cả một cuộc tranh đấu gay go, với bao nhiêu biến cố bất kỳ, bao nhiêu dặm trường gian khổ. Nhưng hồn thơ đã biến cải sự vật. Hồn thơ đã tỏa rộng chất men kỷ diệu vào sương gió, khiến cho cuộc đăng trình vượt biển của nhà cách mạng trở nên một cuộc viễn du hào hứng của tay lạc phách giang hồ.

Trước cái cảnh:

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi…

Hình ảnh nhà cách mạng lênh đênh hải ngoại tự nhiên hiện lên ngạo nghễ, đẹp một vẻ đẹp vừa ngang tàng vừa phong nhã, không khác hình ảnh một Lý Bạch giữa thời khắc “thi hành tiếu ngạo lăng thương châu”, hoặc hình ảnh một Cao Bá Quát trước khung cảnh “hải thượng bạch ba như bạch đầu… Trung hữu điểm điểm phù khinh âu”…

Tuy trong con người Phan Sào Nam, cái bản ngã cách mạng vẫn hòa đồng cảm ứng khăng khít với cái bản ngã thi sĩ và thường thường hỗ tương ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng phân tách kỹ, chúng ta sẽ nhận thấy cái bản ngã thi sĩ của tiên sinh nhiều lúc hứng khởi rạt rào gần như che lấp hẳn con người thực tế. Những lúc đó, nhà chiến sĩ cách mạng biểu hiện bản sắc rất mờ nhạt, mà chỉ thấy nổi bật lên cái bóng dáng phong lưu tài tử của người thơ cùng gương mặt tao ông, thi khách hào sảng.

Đôi cánh mộng của thi ca đã nâng cao người “khách phiêu bồng” hay vượt lên vùng trời thanh khí, để không cần lưu ý tới những bước thăng trầm tân khổ của cuộc đời, không cần phiền bận vì những bất bằng điên đảo của thế sự. Cuộc sống gai lửa cùng những sự thực tàn nhẫn mà người chiến sĩ cách mạng cần phải nhìn thẳng vào, không một chút ảo tưởng, để phòng ngừa, đối phó, rút kinh nghiệm, cuộc sống thực tế đó, người thơ Phan Sào Nam khi mà thi hứng đã nhập thần, chỉ coi nhẹ như lớp tuồng vân cẩu tự nhiên, và buông xuôi tất cả sự đời trong một tiếng cười khà bất chấp.

Chẳng thế mà biết bao lần vào tù, ra khám, trải qua bao nhiêu thử thách phũ phàng; nơi quê nhà đã phải ẩn mình trốn tránh, miền khách địa lại gặp nhiều cơn tai biến bất ngờ, tiên sinh chẳng những đã không ngã lòng nản chí, mà còn giữ được cái phong thái ung dung tự tại của một kẻ sĩ hào sảng, vốn tin vào định luật vô thường của tạo hóa, nên không để cho cái “biến” của thế sự lay chuyển được tinh thần an nhiên.

Khi ở Quảng Đông, Phan Bội Châu tiên sinh bị đô đốc Long Tế Quang bắt giam vào ngục chung với Mai Quân Lão Bạng, một giáo sĩ đạo Thiên Chúa, người tỉnh Nghệ An, bỏ nước ra ngoài hoạt động chính trị, lần này bị bắt là lần thứ ba, và khi nghe Mai Quân than thở, hận mình vì nước bôn ba, chưa làm nên việc gì, chỉ những giam hãm lao tù, mất hết ngày giờ quý báu, Phan tiên sinh đã đọc miệng bài thơ sau để an ủi Mai Quân:

Phiêu hồng ngã bối các tha hương.

Tân khổ thiên quân phận ngoại thường.

Tánh mạng kỷ hồi tần tử địa,

Tu mi tam độ nhập linh đường.

Kinh nhân sự nghiệp thiên đào chú

Bất thế phong vân đế chủ trương.

Giả sử tiền đồ tận di thản

Anh hùng hào kiệt giã dung thường

Dịch nôm

Bơ vơ đất khách bác cùng tôi,

Riêng bác cay chua nếm đủ mùi.

Tính mạng bao phen gần chết hụt,

Mày râu, ba lượt bị giam rồi.

Trời toan đại dụng nên rèn chi,

Chúa giúp thành công tất có hồi.

Nếu phải đường đời bằng phẳng hết,

Anh hùng hào kiệt có hơn ai.

Lời thơ đượm cái giọng ngang tàng khí phách đầy tự tin, chẳng khác một Nguyễn Công Trứ với cái ngông rất nghệ sĩ, rất tài tử của “chí nam nhi”. Những lúc này, quả thực người thơ có nhiễm phần nào cái tư tưởng phóng nhiệm của Lão Trang, và như vậy, đã gây thêm hào hứng rất nhiều cho nhà cách mạng.

Trên bước đường tranh đấu gian khổ của người chiến sĩ cách mạng, tránh sao khỏi những đổ vỡ, thất bại? Và người chiến sĩ, dẫu kiên gan bền chí như cụ Phan Bội Châu, cũng không tránh khỏi những phút giây khủng hoảng tinh thần trầm trọng, những thời khắc:

“Ưu thế kỷ hồi thương hải khấp.

Kinh nhân nhất chỉ ngọc sơn đồi”.

nghĩa là:

“Lo nước bao phen sa huyết lệ,

Tin quê đưa tới luống kinh tâm”…

Đó là vào những năm 1909-1910, khi Học sinh đoàn Việt Nam ở Nhật Bản bị giải tán: “Kinh tế hết phương” và “Ngoại giao bịt lối”, anh em du học sinh đành phải từ giã đất nước Phù Tang mà đi. Cụ Phan và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cũng bị chính phủ Nhật buộc phải xuất cảnh. Bao nhiêu sách vở truyền đơn của cụ in ra để cổ động quốc dân đều bị nhà đương cuộc Nhật tịch thâu hết 1 .

Tháng tư, mùa hạ, năm Kỷ Dậu (1909), với số tiền của đảng gửi tới, cụ đem trao hết cho một hiệu buôn Nhật để họ lén mua quân giới cho mình. Quân giới mua rồi, do Đặng Tử Mẫn bí mật chở qua Hương Cảng. Lúc ấy là hạ tuần tháng năm, cụ Phan cũng đã từ Nhật trở về Hương Cảng. Nghe tin nước nhà đưa sang: Đề Thám đang kịch chiến với quân Pháp, cụ quyết định phải chuyên chở khí giới về cứu viện họ Hoàng, đồng thời thực hiện chủ trương bạo động mà cụ hằng dự tính. Muốn chở quân giới về nước nhà, tất phải mượn đường Xiêm vào Trung Việt, vậy cụ lập tức lên đường sang Vọng Các, tìm cách yết kiến nhà cầm quyền nước Xiêm, yêu cầu họ giúp đỡ mình, nhưng họ dùng dằng chưa quyết.

Cụ lại giã từ Vọng Các đi Nam Dương, tìm Chương Bình Lân là một đảng viên cách mạng Trung Hoa, nhờ Chương viết một bức thư giới thiệu cụ với lãnh tụ đảng. Bàn định xong, cụ tới một hãng tầu Trung Hoa thương thuyết với họ về khoản tiền chuyên chở.

Không ngờ, trung tuần tháng 2 năm Canh Tuất (1910), cụ ở Nam Dương trở về, bỗng nghe tin: chính phủ Pháp đàn áp dữ quá, người chủ não của Đảng ở trong nước là ông Ngư Hải bị nạn, việc đảng vỡ lở tứ tung. Bao nhiêu quân giới giấu ở Hương Cảng, vì sự đình trệ lâu ngày mà tiết lộ đến tai mắt nhà đương cuộc Anh ở Hương Cảng, tất cả hơn 10 hòm súng đạn đều bị chính phủ Anh tịch thu hết 2 .

Trước những biến cố khốc hại như vậy, nhà cách mạng Phan Sào Nam, dù vững tinh thần đến mấy, cũng không khỏi nao lòng, và bất giác phải thốt lên tiếng thở dài phẫn khích:

“Khả vô mãnh hỏa thiêu sầu khứ,

Thiên hựu cuồng phong tống hận lai”.

Nghĩa dịch:

“Đã không ngọn lửa thiêu sầu rụi.

“Lại có cơn giông thổi giận thêm…

Còn bao nhiêu tai biến kinh tâm khác, khả dĩ khiến cho một tấm gan thiết thạch phải xúc động: tin nước nhà mỗi lúc càng thêm bi đát. Càc đồng chí hoạt động trong nước, kẻ bị bắt, người bị đày. Phong trào cách mạng hải ngoại cũng không phấn khởi hơn, đã có lúc hầu như tan rã.

Cho tới lúc chính bản thân mình cũng bị giam cầm, tù ngục, mà lại bị giam cầm giữa miền khách lạ bơ vơ. Nếu nhìn thẳng vào hoàn cảnh thực tế, không viển vong, không ảo tưởng, có lẽ nhà chí sĩ cách mạng Phan Sào Nam sẽ chỉ thấy toàn một màu đen u ám, một ấn tượng hết sức bi quan. Nhưng nguồn thi cảm phong phú của nhà thơ đã tạo riêng một không khí tiêu dao khoái hoạt, không phải để lẩn trốn thực tế, nhưng để nuôi dưỡng tinh thần, giữ vững phong độ, và hun đúc huyết tinh cho bền.

Chặng đường hoạt động của nhà cách mạng, khi bị dồn vào bốn chản tường nhà giam, thì hiển nhiên phải coi như một bước thất bại, ít nhất cũng là một bước cản trở, làm giảm bớt rất nhiều cái đà bay nhẩy tung hoành. Nhưng với nhãn quan phóng khoáng của thi sĩ, bốn bức tường nhà giam phải đâu đã có hiệu lực trói buộc nổi bước chân lãng tử. Hồn thơ vẫn bay bổng tuyệt vời, có thể vượt qua tất cả mọi chướng ngại trần gian. Lao tù, đầy ải xét ra không hề kìm hãm nổi cái chí bốn phương của nhà thơ cách mạng Sào Nam. Và lao tù đã không ngăn được tiên sinh làm những vần thơ ngạo mạn:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Đã khách không nhà trong bốn biển,

Lại người có tội giữa năm châu

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế

Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Thân nọ vẫn còn, còn sự nghiệp

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu?

Vẫn có cái “hào” của Nguyễn Công Trứ. Thêm cái ‘‘ngất ngưởng” say của Tản Đà. Và đáng kể hơn nữa có cả cái an nhiên thích thảng của một Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhà tù ‘‘của’’ nhà thi sĩ cách mạng Phan Bội Châu tưởng chừng cũng giống như “Bạch Vân Am” của cư sĩ họ Nguyễn – nơi ẩn dật, ẩn cư, chốn tiêu dao ngày tháng. Và khi Sào Nam tiên sinh tuyên bố rất thản nhiên:

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

thiết tưởng cũng không khác cái phong độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm khềnh trong am cỏ, gác chân đọc sách, hoặc ung dung ngồi dưới bóng cây xanh, vui cái vui của người mặc khách lạc đạo vong bần :

‘‘Một mai, một cuốc, một cần câu…’’

Con người thi sĩ “phong lưu hào kiệt”, con người triết nhân, hiền giả Phan Sào Nam ở đây đã mặc nhiên vượt lên trên con người tranh đấu,để mà tìm cho mục đích đấu tranh một ý nghĩa cao đẹp khác thường - phải chăng chính những lúc này tiên sinh mới đột nhiên cảm thấy cái nghĩa vị tha tuyệt đối của lý tưởng cách mạng, đặt trên bình diện nhân loại rộng lớn? Phải chăng tầm mắt nhà thơ đã ít nhiều “tiên tri”, ít nhiều nhìn thông suốt thế cuộc tương lai, cho nên giữa lúc bị cường quyền đàn áp, cương tỏa, bị bóp nghẹt tự do trong tù ngục âm u, tiên sinh vẫn giữ được “lòng vô sự, trăng in nước”, vẫn cười được những nụ cười thanh thoát như “gió thoảng hoa”:

Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Lời nói chứa đụng cả một quan niệm xuất sử cao viễn! Làm cách mạng mà không cần khơi mầm thù oán, tất phải có một tâm hồn bao la, quảng đại tới chừng nào! Đó là thứ cách mạng bác ái của Đấng Cứu Thế. Thứ cách mạng từ bi của Đức Phật. Thứ cách mạng “thế thiên hành đạo” của Chu Công, Khổng Tử. Và, đó là tinh thần cách mạng “anh hùng mã thượng” của nhà chí sĩ kiêm thi sĩ Phan Sào Nam.

Như vậy, làm thơ để cổ xúy cách mạng đối với tiên sinh đâu phải chỉ là làm công việc tuyên truyền vận động bằng bút mực, mà chính là “đem tâm huyết giãi cùng giang sơn”, trước hết lưu lại không gian nghìn vạn thuở một tấm lòng thiết tha gắn bó cùng vận mệnh non sông. Làm thơ cách mạng như tiên sinh trước hết chỉ là sống chân thành và trọn vẹn một cuộc sống tinh anh lý tưởng kết tụ trong từng âm thanh, vần điệu; đồng thời làm cho cuộc sống đó có phần nào “bóng mây hơi nước” tới cuộc sống chung của dân tộc, trao gửi vào sông núi một lời nguyền giao ước không rời đổi.

Những Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư, Hải Ngoại Huyết Thư, Ngục Trung Thư, cùng những thơ văn ái quốc, những bài ca hô hào, cảnh tỉnh đồng bào của Phan Bội Châu tiên sinh, cố nhiên vào thời Pháp thuộc, không thể được tự do truyền bá trong dân gian, cho nên chưa thể ước lượng đúng phạm vi ảnh hưởng trên địa hạt thực tế. Nhưng trong lĩnh vực nghệ thuật, tiếng thơ Phan Bội Châu đã hiển nhiên có một hình thái, một giọng điệu riêng biệt, làm gợn nổi lên bất diệt một bản ngã, thể hiện được sống động một linh hồn.

Thân thế nhà cách mạng có thể bị đàn áp, kiềm tỏa, suốt bao năm chìm nổi, long đong, sự nghiệp đấu tranh của nhà cách mạng có thể chỉ thâu góp toàn những thất bại, tan vỡ, nhưng linh hồn kia vẫn uyển nhiên tồn tại trước thời gian, và lâng lâng bay đi khắp bốn biển: bản ngã kia vẫn giữ bản sắc thái không mờ, từ bao lâu vẫn tỏa rộng bao trùm lên sông, núi, như một cánh chim bao dung lúc nào cũng lưu luyến ân cần liệng quanh tổ ấm, để thiết tha bảo vệ bầy chim nhỏ vô tư…

Hồn thơ Phan Sào Nam như vậy đó. Như một cánh chim luyến tổ, dù bay tới những phương trời nào, cũng vẫn chỉ tìm cành Nam mà đỗ: “Việt điểu sào nam chi…”. Hồn thơ ái quốc của nhà chí sĩ họ Phan, từ khi vỗ cánh tung mây, đã truyền rung động cho cả mỗi đầu cây, ngọn cỏ, trao ý tình đi cho khắp gió nước, trăng sao, gửi tâm sự đến tận chim ngàn, cá biển. Bởi thế, tới khi thấm nhập vào lòng người, hồn thơ Phan Bội Châu đã sẵn sàng rung lên những tiếng vang đồng vọng từ khắp bốn phương sông núi, kết tụ được cả linh khí của núi sông, hòa hợp cùng mảnh hồn thiêng đất nước.

Chính hồn thơ đó đã truyền sinh khí trường cửu cho linh hồn cách mạng mà tiên sinh là hiện thân toàn vẹn. Cho nên, năm 1925, khi ở Thượng Hải bị người Pháp bắt đưa xuống tàu thủy để vượt biên về nước nhà, tiên sinh tưởng cuộc đời mình đã kết liễu từ đấy, và tiên sinh đã làm những vần thơ tuyệt mạng chí tình.

I

Nhất lạc nhân hoàn lạc thập niên,

Hảo phùng kim nhật liễu trần duyên.

Bình sinh kỳ khí vi hà hử?

Nguyệt tại ba tâm, vân tại thiên.

II

Sinh bất năng trừ thiên hạ loạn,

Na kham tử lụy hậu lai nhân.

Hảo tòng hổ khẩu hoàn dư nguyện,

Khẳng nhượng Di, Tề nhất cá nhân.

III

Thống khốc giang san dữ quốc dân,

Ngu trung vô kế chửng trầm luân.

Thủ tâm vị liễu, thân tiên liễu,

Tu hướng tuyền đài diện cố nhân.

Dịch nghĩa:

I

Sáu chục năm nay ở cõi đời,

Trần duyên giờ hẳn rũ xong rồi.

Bình sinh chí lớn là đâu tá?

Trăng dọi lòng sông, mây ngất trời.

II

Sống đã không trừ xong giặc nước,

Chết đi há lụy tới người sau?

Phen này miệng cọp ảu đành dạ,

So với Di, Tề có kém đâu?

III

Thương khóc non sông với quốc dân,

Tài hèn không vớt được trầm luân.

Lòng này chưa hả, thân đã chết.

Chín suối thẹn thùng gặp cố nhân.

Trên thực tế, cuộc đời cách mạng của nhà chí sĩ họ Phan đã biết bao lần bị mây đen che phủ, bao lần trải qua những thất bại gian nan, tưởng chừng kề gần ngay cái chết như vậy? Nhưng cũng lại biết bao lần, chỉ vì tiên sinh còn giữ vững phong độ một nhà thi sĩ, cũng như giữ bền khi tiết một bậc sĩ phu, mà tinh thần cách mạng của tiên sinh mới không bị nao núng, mà ý chí đấu tranh của tiên sinh mới càng thêm nhiệt thành?

Chính nhờ có một hồn thơ phóng khoáng, trung thực, mà trong phạm vì ảnh hưởng tinh thần, phải nói rằng: sử mệnh của Sào Nam tiên sinh đã thành công, và thành công trước hết là do ở tiếng thơ thiết tha truyền cảm của tiên sinh. Tiếng thơ đó, suốt mấy mươi năm Pháp thuộc trải qua bao nhiêu biến thiên trọng đại của lịch sử và của lòng người, cho tới nay vẫn còn để lại trong linh hồn dân tộc những dư âm trầm lắng ngàn trùng. Tiếng thơ ái quốc, tiếng thơ cách mạng của cụ Phan Bội Châu đã gây cả một tác phong quật khởi cho lớp người sống giữa buổi non sông phân tán dưới gót giầy xâm lược của đế quốc thực dân.

Chúng ta thành khẩn cúi đầu ngưỡng vọng trước một hồn thơ cao khiết như vậy.

Và, để cảm thông gần gũi với tấm lòng ưu ái giang sơn của nhà chí sĩ ngày nào xưa từng đã lắng sâu tâm sự u hoài trong niềm cô đơn không kẻ hiểu, chúng ta hãy ghi chú thêm bài thơ sau đây của tiên sinh - một bài thơ với những cảm giác rất ấn tượng, chỉ có vài nét đơn sơ, hầu như không nói gì cả mà chính ra nói rất nhiều:

VÀO THÀNH

Vào thành ra cửa Đông

Xe ngựa chạy tứ tung,

Vào thành ra cửa Tây,

Sa gấm rực như mây.

Vào thành ra cửa Nam,

Ảo mũ đỏ pha chàm.

Vào thành ra cửa Bắc,

Mưa gió đen hơn mực.

Dạo khắp trong với ngoài!

Đàn địch vang tai trời.

Đau lòng có một người!

Hỏi ai? Ai biết ai?.

Chú thích:

1.

Theo lời yêu cầu của người Pháp, dựa vào tinh thần hiệp ước Pháp Nhật.

2.

Theo tài liệu của Đào Văn Hội trong cuốn “Ba nhà chí sĩ họ Phan”.


 

MIỀN TRUNG VĂN NGHỆ

MỘT THI GIA “LỚP TRƯỚC”
CỤ ƯNG BÌNH THÚC GIẠ (1877-1961)

Nền trời thi ca của miền Trung và của riêng đất Thần Kinh thơ mộng vừa khuất bóng một văn tình quen thuộc: Cụ Thúc Giạ Ưng Bình, nhà thơ lão thành chủ súy Hương Bình Thi xã, một trong những đại biểu cuối cùng của làng thơ “phong lưu tài tử”, người đã từ hơn nửa thế kỷ nay, với phong độ ung dung thích thảng của một “tao nhân mặc khách” thời xưa, từng giữ bền cái văn phong cổ điển thuần nhã của những con người “cốt nhạc nòi tình”.

Chúng tôi không có dụng ý - và sự thực cũng chưa dám vội vàng xác định địa vị văn học của một người thơ “lớp trước” như Thúc Giạ tiên sinh, chúng tôi chỉ nhận thấy Ưng Bình Thúc Giạ lão tiên sinh là một trường hợp đáng kể, vì ít nhiều, nếp sống tài tử của tiên sinh cũng biểu hiện cái phong thái của một lớp người nào, trong một bối cảnh lịch sử nào, ở một vị trí xã hội nào đặc biệt

Dưới ánh mặt trời hôm nay, cuộc sống hình như chuyển biến quá mau chóng. Thế kỷ 20 của chúng ta mới trải qua 60 năm lịch sử, mà đã bao nhiêu vật đối sao dời: bao nhiêu lớp tuồng thế sự thăng trầm; bao nhiêu lớp sóng phế hưng dồn dập; bao nhiêu lớp người đã tiếp nhau cất bước không ngừng! Mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày, lại có thêm những người mới tới, tạo nên một nhịp sống xô bồ, cuồng nhiệt, từng giờ, từng phút, từng giây…

Bên cạnh những lớp người mới hoặc còn đang chập chững dò đường hoặc vừa bước chân vào ngưỡng cửa cuộc sống, có những lớp người đang chính thức góp phần tạo nên lịch sử, lại có cả những lớp người đã hoàn toàn chấm dứt nhiệm vụ lịch sử của mình, để có thể an nhiên sống ngoài vòng cương tỏa, hoặc bình thản cất bước tiêu dao trên con đường dẫn tới Im Lặng ngàn đời.

Đáng kể hơn nữa. Thúc Giạ tiên sinh là người đã trải qua cả hai thể kỳ, đã trải qua sóng gió cả hai thời đại, đã chứng kiến cả nhưng biến cố lịch sử bất ngờ nhất của mấy chế độ giao thời. Trước mắt tiên sinh, bao nhiêu lớp tuồng nhân sự bi hoan đã diễn qua, đủ lớp. Vậy mà tiên sinh vẫn giữ thái độ của một kẻ mặc khách, đến với cuộc đời từ cuối thế kỷ trước, giao động giữa bao nhiêu chiều hướng tư tưởng, tâm hồn phong nhã của tiên sinh vẫn giữ nguyên cốt cách thuần lương và tiên sinh ở lại cuộc đời đến tận quá nửa phần thế kỷ hiện kim, bản ngã hào hoa vẫn ung dung, không hề thay đổi, mặc cho nhịp sống mỗi ngày mỗi thêm dồn dập, quay cuồng.

Nếp sống phóng dật của tiên sinh, bên ngoài, phảng phất nhiễm cái phong khí thần tiên xuất thế của Lão Trang. Nhưng trong chiều sâu của ý thức, trong phần mật ẩn bao la của tâm linh, phải nhận rằng: sỡ dĩ tiên sinh giữ bền thái độ an nhiên tự tại như vậy cũng vì tiên sinh đã nhìn thấy cái chân tướng của sự vật hiện ra dưới chiều ánh sáng huyền diệu của triết lý sắc không. Cuộc đời có, không, không, có, đối với với tiên sinh, dù sống qua hơn nửa thế kỷ, cũng chỉ là một khoảnh khắc phù du. Ý niệm đó, tiên sinh đã từng phô diễn trong lời thơ “Khuyên Học Phật”, văn khí tự nhiên mà thành tín như một bài Kệ, gói ghém cả cái duyên nghiệp phù trầm của một kiếp nhân sinh đã sống qua năm mươi tám năm trời (bài thơ làm năm tiên sinh 58 tuổi):

Đường danh nẻo lợi ngó đông đông,

Chen chúc nhau chi đám bụi hồng!

Kìa bóng bạch, câu qua chẳng lại.

Nọ tranh thương cẩu có rồi không.

Dở cười, dở khóc trên sân khấu,

Khi nở, khi tàn mấy cụm bông.

Sao kiếp phù sinh cho khỏi lụy,

Quyển kinh, câu kệ chớ nài công.

Với phong độ tài tử kia, với tâm hồn trầm mặc ấy, lại sẵn theo nền nếp nho phong cố hữu, tiên sinh quả là một “kẻ sĩ cốt tiên, tâm Phật”, phối hợp nhịp nhàng tinh hoa của cả ba nền học thuật Nho, Thích, Lão, chứng tỏ rằng tinh thần “Tam Giáo đồng nguyên” chung đúc trong một con người, nhiều khi đã tạo nên những bản ngã nghệ sĩ đặc biệt. Thúc Giạ Ưng Bình lão tiên sinh chính là một nghệ sĩ điển hình theo chiều hướng ấy.

Thử đọc những vần thơ sau đây, bên cạnh bài thơ “Khuyên Học Phật”, chúng ta sẽ thấy bên cạnh con người mộ đạo bằng “quyển kinh, câu kệ” học lối giải thoát của thiền gia, còn có thêm cả một đệ tử trung thành của Lý, Đỗ, mượn cầm, kỳ, thi, tửu làm thú xuất trần, tạo riêng cho mình một lối “tu” phóng túng, lâng lâng phong vận tiểu thần tiên.

Đây là bài “Phủ Doãn về hưu”, tác giả làm năm 57 tuổi:

Mừng đến bến ba mươi năm bể hoạn,

Lái còn nguyên, lèo lạt vẫn còn nguyên.

Ngoắt ông câu, cậy gởi con thuyền,

Ôm sách cũ lại theo miền núi cũ.

Biết đủ, dầu không chi cũng đủ,

Nên lui, đã có dịp thời lui.

Sẵn có đây phong nguyệt kho trời,

Câu hành lạc cập thời, ta chớ trễ.

Có lầu Ngạc liên huy, có đình Lai vũ thể.

Hội Kỳ anh thêm lắm vẻ phong tao.

Thỏa lòng rày ước mai ao.

Và đây là bài “Gởi ông Phan Kính Chỉ”, Thúc Giạ tiên sinh làm năm 57 tuổi:

Cẩm tú hồ sơn vi địa chủ,

Hỏi còn ai hơn chú Phan Lang?

Có ca cơ, có thi hữu, có ngọc dịch, quỳnh tương.

Sông Hãn có, sông Hương mình chẳng có.

Chắp cánh những mong ra đến đó,

Dừng chèo xin hãy đợi chờ đây.

Khúc Tỳ Bá hãy cứ lên giây.

Câu bạch tuyết thêm gây mùi xướng họa.

Ngã tối liên khanh, khanh ái ngã,

Dệt tờ mây nong nả đứng ngồi trông,

Thấu tình Thúc Giạ hay không?

Có ai chăng, thấu tình Thúc Giạ? Và có ai biết chăng Thúc Giạ là một nghệ sĩ rất mực đa tình, cuộc sống không phải chỉ thu hẹp trong bầu trăng gió cầm ca của chốn đình viên, thi xã, mà còn tỏa rộng trên khắp cả đất nước, non sông, sẵn sàng hòa đồng cùng nhịp sống của những tâm hồn đồng điệu bốn phương. Thế nên Thúc Giạ tiên sinh rất hiếu khách.

Ai là khách văn mặc đặt chân tới kinh thành Huế mà không từng nghe tiếng thi ông Ưng Bình Thúc Giạ, người mặc khách của thôn Vỹ Dạ, chủ súy Thi xã Hương bình, người đã khoác một tấm áo phong nhã hào hoa cho Hồn Thơ sương kính của đất Thần Kinh, gây cho phong trào hội ngâm ở Huế cả một cái nếp diễm lệ từ mấy chục năm nay vẫn giữ nguyên tư thế.

Nếu người du khách lại có cái duyên tri ngộ với chủ súy Hương Bình Thi Xã mà tất cả các khách văn nhân tài tử gần xa, nếu có lòng tìm đến, đều dễ dàng thắt chặt mối duyên - khách sẽ càng có dịp nhìn gần thêm nếp sống phong lưu của người nghệ sĩ tài hoa, và cũng nhìn gần, hiểu rõ, khách sẽ càng thêm cảm mến, không vì cái văn vẻ đài các của cuộc thù ứng mà giảm bớt chân tình. Bởi vì cái đài các văn vẻ của Thúc Giạ tiên sinh rất tự nhiên, phong điệu hào hoa của tiên sinh rất sảng khoái, cốt cách phong lưu của tiên sinh rất thuần nhị, và thứ nhất, tấm lòng hiếu khách của tiên sinh rất đầm thấm, chân thành.

Khách sẽ nhớ mãi những kỷ niệm êm đẹp, và nhớ mãi tâm hồn thuần nhã mà cởi mở của chủ nhân, người nghệ sĩ tài tử hun đúc trong Hồn Thơ Sông Hương Núi Ngự; và cũng xứng đáng “đại điện” cho Núi Ngự Sông Hương.

Gần kinh thành Huế, bên con đường rộng qua thôn Vỹ Dạ, trước một khu vườn xanh rờn cây là thuộc phủ Tuy Lý, khách sẽ nhớ mãi chiếc cổng xây trên đề ba chữ “Chu Hưng Viên”, và chắc hẳn khách cũng không quên đôi câu đôi chữ kèm hai bên:

Khoái mã trường chu, đông tây đắc lộ.

Hầu môn cự thất, tả hữu vi lân…

Quên làm sao cả đôi câu đối nôm:

Ưng đọc thi tiên, thẳng đó một đường lên Vỹ Dạ,

Muốn nghe kinh Phật, cách đây vài cửa đến Ba La

Từ cổng vào vài chục bước, giữa đám cây um tùm, khách còn nhớ chăng “tòa nhà ngói cổ kinh”, với sân lát, bể xây, tường hoa, non bộ? Bên trong thi viện sách, hiên đàn, lầu thơ, đài Phật, hoành phi, câu đối, sập gụ, ghế bành…”. 1 . Đó chỗ ở của Thúc Giạ Ưng Bình tiên sinh; khung cảnh ấy cùng với người ấy đã hòa hợp khăng khít, tưởng chừng cảnh không thể vắng người, mà người cũng không thể thiếu cảnh.

Theo dõi tiểu sử của tiên sinh, chúng ta phải nhận rằng: thực hiếm có một thi gia sống tới gần một thế kỷ (84 năm), mà cuộc sống lúc nào cũng giữ được tiết điệu thăng bằng, đều đặn, một cuộc sống thoải mái trôi xuôi, với đầy đủ phong vận của một con người “cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài, tối thế thượng chi phong lưu giang hồ khí cốt”…

Sinh trưởng trong một gia đình trâm anh thế phiệt (tiên sinh là con cụ Hiệp Tá Tiểu Thảo Hồng Thiết, cháu nội Đức Ông Tuy Lý Vương), ra đời năm Đinh Sửu 1877, cậu công tử Ưng Bình đã sớm tốt nghiệp trường Quốc Học Huế, đỗ đầu kỳ thì Ký lục năm 27 tuổi, đổ Cử nhân Hán học năm 33 tuổi.

Từ tuổi thiếu niên, bước đường công danh của tiên sinh cứ tuần tự mà tiến bắt đầu làm Ký lục năm 1904, sau bổ Tri huyện, lần lượt thăng Tri phủ, Viên ngoại, Thị lang, Bố chánh, Tuần vũ, Phủ doãn Thừa Thiên, rồi về hưu và thăng Thượng thư trị sự năm 1933; sau đó, tiên sinh từng làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ năm 1940-1945, thăng Hiệp tá Đại học sĩ năm 1943.

Đường hoạn lộ như vậy cũng có thể coi là hiển đạt. Nhưng đối với tiên sinh, sự hiển đạt ấy chỉ có ý nghĩa khi mà tiên sinh có đủ hoàn cảnh để thực hiện giấc mộng thơ hào phóng của mình. Bởi vậy những lúc công việc nhàn rỗi, tiên sinh vẫn thường ngao du sơn thủy, uống rượu ngâm thơ, cầm ca xướng họa. Vốn sành âm nhạc, tiên sinh thường soạn lấy khúc hát tự cầm roi chầu, thả hồn trong cung bậc tiêu tao cũng sành điệu như truyền cảm hứng vào thi tứ. Tiên sinh ưa thích nhất là các điệu tuồng cổ, ca Huế, hò mái nhì, cả đến ca trù, chèo cổ. Một câu hò mái nhì của tiên sinh đã trở nên quen thuộc và phổ biến nơi cửa miệng người dân miền Trung, đến nỗi nhiều khi người ta thường quên cả tác giả để yên chí rằng đây là một khúc dân ca:

Chiều chiều trước bên Vân Lâu, ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?

Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?

Thuyền ai thấp thoáng bên sông,

Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.

Một vũng nước trong, mười dòng nước đục,

Một trăm người tục, một chục người thinh.

Biết ai gan ruột gởi mình,

Mua tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân.

Từ khi tiên sinh về hưu, thì căn nhà ngói thanh nhã giữa vườn cây u tĩnh nơi thôn Vỹ Dạ lại càng thêm dặt dìu cung đàn, tiếng hát, câu thơ. “Chốn hưu đinh của tiên sinh đã nghiễm nhiên thành nơi hội ngâm của Thi xã Hương Bình”. Các thi hữu xa gần tới lui xướng họa, cuộc đời của Thúc Giạ lão tiên sinh từ đây quả thực chỉ là một bài thơ dài góp bằng vần điệu của bao nhiêu mặc khách tao nhân, chen lẫn cùng tiếng hát, cung đàn trầm bổng.

Có người sẽ nghĩ rằng nếp sống tài tử đó chỉ là một hình thái tiêu khiển thù tạc với cuộc đời, một lối “chơi thơ” kiểu cách của lớp nhà nho nhàn dật. Và nhiều người trẻ tuổi ngày nay chắc sẽ cho rằng cái văn phong đài các của các Tao Đàn, Thi xã như Thi xã Hương Bình giờ đây không khỏi lỗi thời trước bước tiến không ngừng của trào lưu thi ca hiện đại.

Kẻ viết bài này không nghĩ thế.

Thi ca hiện đại cứ việc tiến đến phương trời mới. Nhưng quá khứ là của lớp người đi trước như Ưng Bình lão tiên sinh. Chúng ta là kẻ hậu sinh, chúng ta không thể lượng biết được tấm lòng quan hoài Dĩ Vãng của tiên sinh mênh mang như thế nào. Những con người đã sống qua cả mấy thế hệ hẳn tâm hồn phải ràng buộc với ngày xưa đậm tình hơn chúng ta.

Còn như phong độ “chơi thơ” tài tử kia, cũng như cái thú chơi cây cảnh, bể xây, non bộ, của cổ nhân cũng như cái hứng “làm thơ”, “sinh điếu” người sống xét ra đã biểu thị một thái độ triết nhân cao viễn du hý với vần điệu, chính vì cổ nhân có quan niệm cuộc đời chỉ là một cuộc thù ứng tiêu dao, không hơn không kém. Đem câu thơ, tiếng hát, cung đàn tô điểm cho cuộc giao tế, phải chăng chính là hòa mình uyển chuyển vào cuộc sống, tạo cho cuộc sống một cái nhịp tương sinh thuần hậu? Cũng như chơi giả sơn, cây cảnh, chính là thu hẹp vũ trụ bao la trước tầm mắt, để thưởng thức được tinh tế hơn những hình thái hòa điệu, và cũng để dễ dàng thông cảm với cái vô cùng của vũ trụ. Và làm thơ viếng trước người sống, cũng như bầy sẵn một cỗ hậu sự trong nhà, phải chăng để mà tự nhủ mình thản nhiên nhìn vào cái chết, để xác nhận rằng kiếp sống quả là phù du, và cuộc đời một con người thực cũng không dài hơn một cuộc thù tạc du hý.

Tất cả những việc làm đó đều thoát thai từ nếp sống nhàn du của cổ nhân, đều biểu lộ một triết lý nhân sinh sâu sắc.

Triết lý thâm thúy đó, cùng văn phong sương kính kia, chúng ta đều có thể tìm thấy trong hồn thơ của Thúc Giạ Ưng Bình lão tiên sinh.

Theo tài liệu của giáo sư Phan Thế Roanh, chúng ta có thể nhận định về sự nghiệp văn chương của Thúc Giạ tiên sinh như sau:

Từ trước đến nay, những thơ xướng họa của tiên sinh, vừa nôm vừa chữ, kể có trên nghìn bài. Thơ nôm trước thời đại chiến, có tập Tình Thúc Giạ, đã trích in năm 1942; sau hồi đại chiến có tập Đời Thúc Giạ, sắp xuất bản. Thơ chữ đã góp thành Lộc Minh Thi tập, cũng chưa in.

Những khúc hát góp, đã trích in năm 1954 thành tập Bán buôn mua vui và được truyền tụng rất nhiều: những câu tình tứ lâm ly, văn chương chải chuốt, ta thường được vẳng nghe nơi núi Ngự sông Hương, trong ấy có rất nhiều câu của tiên sinh, đã biến thành ca dao từ lâu và rất được phổ thông trong quần chúng. Hài kịch thì có tập Tào Lao viết phỏng theo truyện cổ. Còn quyển Tuồng Lộ Địch, tiên sinh đã phỏng theo sự tích quyển tuồng Le Cid của nhà văn Pháp Corneille, mà đặt thành vở tuồng cổ Việt Nam ngày trước đã có đăng ở các báo Đông Phong, Thần Kinh, tạp chí… v.v và đã được rất nhiều thi ca đề tặng của các thi hữu xa gần; đã được diễn nhiều lần trên sân khấu ở các tỉnh Thanh Hóa, Bình Định, Quảng Nam, v.v… và nhiều nhất là ở Huế. Buổi diễn đầu tiên tại rạp Xuân Kinh Đài ở Kinh đô năm 1937, tiên sinh có làm một bài thơ kỷ niệm nhan đề “Khai diễn tuồng Lộ Địch” như sau:

Rạp hát Vương tôn đã khoác màn

Đã ra sân khấu giữa Trường An

Hiếu tình ngắm rõ gương bi kịch

Thanh sắc mừng thêm vẻ lạc quan

Giá ngọc treo cho đào Hữu Hạnh

Nhà vàng dựng để kép Phương Lan.

Ham vui điệu cũ câu tuồng mới,

Tri kỷ xin chào bạn khán quan.

Tuồng này đã xuất bản năm 1936 và mới tái bản năm 1959.

Ngoài Bắc trong Nam, tao nhân mặc khách mà biết tiếng tiên sinh cũng là nhờ có những tác phẩm nói trên. Cụ Phú Khê Đoàn Tá, chủ suý Liên thành Thi xã ở Phan Thiết đã có bài sau này:

Thơ “Tình Thúc Giạ” nhớ từng câu

Lộ Địch tuồng xem cùng thuộc làu.

Đạo lý cương thường gương vạn thuở,

Văn chương đức hạnh tiếng ngàn thu;

Nguồn Tiên lá ngọc là thân trước

Cõi Phật mình vàng hẹn kiếp sau.

Cầu chúc hữu ông thêm thọ mãi

Giữ nền quốc túy đặng dài lâu.

°

Thúc Giạ tiên sinh vừa tạ thế tại Vỹ Dạ thôn, sau 84 năm sống với thi ca, đàn hát. Tiên sinh lìa trần hồi 2 giờ sáng ngày 4- 4-1961 tức là ngày 19 tháng Hai năm Tâu Sửu, nhằm đúng ngày via Đức Phật Quan Thế Âm.

Thúc Giạ Hương Bình lão tiên sinh đã khuất bóng. Tiên sinh đã lên đường đi về thiên cổ, có lẽ để nhập “Hội Kỳ Anh” với những thi hữu đồng niên tuế. Tiên sinh không còn ở lại với chúng ta! Lại thêm một trong những đại biểu cuối cùng của Hồn thơ cổ kính ngày xưa vừa rũ vạt áo hào hoa đi mất. Chúng ta cảm thấy mất theo cả một dĩ vãng dịu hiền và thanh nhã, cả “văn phong ỷ mỹ” dặt dìu “tuyết hoa giăng gió” của các thi gia lớp trước, cái văn phong trang trọng tuy không còn phù hợp với khí hậu thao thức của thời đại chúng ta, nhưng chính vì thế mà chúng ta vẫn coi như hương thơm thuần hậu của một loài hoa quý - không những chỉ quý vì hiếm, mà còn quý, vì đó là biểu thị trung thực nhất, thuần khiết nhất của cái Hồn Sống đã một thời từng xoa dịu nỗi lòng của những người đi trước chúng ta, và ấp ủ cả những giấc mộng của chính chúng ta từ hồi thơ ấu.

Dĩ vãng kia không bao giờ còn trở lại. Và bông hoa phảng phất hương thơm thanh lịch kia cũng chìm dần theo dĩ vãng để rồi vĩnh viễn đi mất.

Còn Thúc Giạ lão tiên sinh, dĩ vãng kia cùng chúng ta vẫn còn gần gũi. Mất Thúc Giạ lão tiên sinh, dĩ vãng kia cùng chúng ta trở nên xa xôi quá.

Giờ đây chúng ta nhắc tới tiên sinh, chính là hoài niệm lại bao nhiêu vang bóng xa xưa, mà dù muốn, dù không, bản chất chúng ta, từ trong cùng thâm tâm linh, đã từng thấm nhập.

Để kết thúc, bài này, và cũng là để kính viếng hương hồn Thúc Giạ Ưng Bình lão tiên sinh, chỉ xin mượn lại bài thơ sau đây của giáo sư Phan Thế Roanh, thay thế một lời ai điếu:

Mây phủ sông Hương, núi Ngự Bình,

Thôi đà che khuất bóng văn tinh.

Câu thơ điệu cổ càng thêm hiểm,

Khúc hát thời xưa khó lựa thành.

Giở mấy phong thư mà gạt lệ,

Ngắm vài bức ảnh đến tàn canh.

Sao cho khuây khỏa niềm thương nhớ?

Thúc Giạ thi ông có thấu tình?

--------------------------------

1

Theo tài liệu của giáo sư Phan thế Roanh (đăng trong Luận Đàm số 5, tháng 4 1961).

CÁI “THÁI DƯƠNG HỆ” THI CA

Cách đây vừa đúng một thế kỷ, tập thơ “Ác Hoa” của thi sĩ Charles Baudelaire ra đời. Đô thành văn học nước Pháp không hề cựa mình. Chỉ riêng mấy ngài giám sát quan giữ nhiệm vụ bảo vệ thuần phong mỹ tục của thời đại là sẵn lòng để mắt chiếu cố tới “Ác Hoa”. Nhưng chiếu cố bằng “bạch nhỡn” chẳng phải “thanh nhỡn”. Bởi vì tập thơ mới xuất bản tháng 6 thì tháng 8 tác giả liền bị ra hầu tòa, để rồi lãnh một cái án phạt vạ 300 quan tiền, và phải loại bỏ đi sáu bài trong thi phẩm.

Thuật lại truyện này chỉ để nhận định rằng: khi mới đến làng thơ, Baudelaire không gặp may chút nào. Trong suốt cuộc sống, không lúc nào Baudelaire gặp may. Thời đại của thi sĩ gần như không biết đến tác giả “Ác Hoa”.

Người ta rất ít đọc thấy tên Baudelaire trên các báo chí đương thời. Tờ báo quan trọng thời đó, tạp chí Hai Thế Giới (La Revue Des Deux Mondes) năm 1855 (sau đó Baudelaire đã 34 tuổi rưỡi) mới thuận đăng cho ông trước sau tất cả 18 bài thơ, nhưng đã cắt xén, sửa chữa đi ít nhiều và phải đăng kèm với một lời “giới thiệu rào đón” nếu không muốn nói là lời xin lỗi độc giả!

Người đọc thơ hồi đó cũng chẳng hề thông cảm với Baudelaire, thi sĩ của nguồn cảm thông hòa điệu, thi sĩ đầu tiên mở lối cho cái hướng cảm xúc của cả một dòng thi sĩ tượng trưng, đầu tiên nghe thấy “hương, sắc và âm thanh giao hưởng!” (Les parfums, les couleurs et les sons se répondent). Trong hồ sơ của ông chủ nhiệm Tạp Chí Hai Thế Giới sau này người ta còn tìm thấy những bức thư của một số độc giả gửi về trách cứ nhà báo “tại sao lại đăng cái thứ thơ kinh khủng, quái gở của ông Baudelaire”.

Thời đại thiếu mắt xanh với tác giả Ác Hoa, đến nỗi năm 40 tuổi, khi thi sĩ có ý tưởng dở hơi muốn xin ứng cử vào Hàn Lâm Viện Pháp, nhà văn Sainte Beuve phải đánh vần từng chữ cái tên B. a. u. d. e. l. a. i. r. e cho các bạn đồng viện nghe người ta mới nhớ! Cái tên mà ngày nay một thế kỷ sau ở một góc trời Đông Á xa xôi này, chúng ta cũng biết. Nhưng tất cả các ông Hàn thời đó, cả mấy ông quan tòa đã kết tội “Ác Hoa” cùng bao nhiêu công hầu, khanh tướng, bao nhiêu nhân vật mặt lớn tai to khác, chưa quá mười năm sau, tên tuổi đều đã chìm vào tích mịch!

Khi sống, Baudelaire không được cuộc đời tiếp nhận nồng hậu. Nhưng từ lúc chết đi, ấy mới là lúc thi sĩ bắt đầu sống chính thức. Và sống lâu đời, bất diệt.

Bởi vì “danh vọng là vầng thái dương của những người chết” đúng như lời một nhà phê bình đã viết.

Trường hợp “hung tinh chiếu mệnh” như Baudelaire, trong lịch sử Văn Học Thế giới, không phải chỉ có một.

Nhưng tôi chỉ muốn nhắc riêng tới Baudelaire, bởi vì, hơn ai hết, tác giả Ác Hoa là một gương mặt tiêu biểu nhất của nền thi ca Pháp.

Không phải chỉ riêng thế kỷ thứ 19, mà đến tận bây giờ, ảnh hưởng Baudelaire vẫn còn ngự trị vững bền trên thi đàn Pháp. Hơn thế, trong làng thơ thế giới nói chung, cái tên Baudelaire đã trở nên một ý niệm, có một thứ thơ, và sau Baudelaire có một thứ thơ! Tôi sẽ có dịp xác định vấn đề rõ hơn. Giờ đây, tôi chỉ muốn ghi lại một nhận xét mà nhiều người thơ đã ghi nhận: Baudelaire là một Ý niệm.

Ý niệm thẩm mỹ tân kỳ mở đường cho bao nhiêu trường phái thi ca sau này: Tượng Trưng, Lập Thể. Đa Đa, Vị Lai, Siêu Thực…” phải chăng đã phát khởi từ Baudelaire? Cố nhiên còn nhiều nguyên nhân sinh thành khác. Nhưng trước những chiều sóng tư tưởng muôn phương, trên biển cả mông mênh của Học Thuật, Baudelaire là một trong những ngọn Hải Đăng sáng chói. Baudelaire là một trái núi biên thùy đứng giữa hai không gian hình thái, sắc màu. Baudelaire là cái mốc phân định hai thời gian nhận thức.

Vậy mà người thơ đó đã không được thời đại của ông thông cảm. Nghĩ cũng đáng buồn! Đáng buồn vì xã hội thời Baudelaire quá ư “tôn ti trật tự”! Cái xã hội mực thước tuy vừa sống qua cơn gió lãng mạn dịu mát, nhưng cũng chỉ mới chịu đựng được những câu thơ âm điệu đoan trang của một Lamartine, một Hugo, một Leconte de l’Isle hoặc một Hérédia! Cái văn phong của thời đại ấy, vẫn còn khuôn theo những kiểu mẫu lý tưởng của nền văn hóa cổ La Hy, chỉ mới chấp nhận được cái đẹp cân đối của Vệ Nữ thần, chưa thể chấp nhận được vẻ đẹp của một cái… đầu đàn ông, hay một thân hình đen bóng như gỗ mun của một cô gái miền nhiệt đới - một Jeanne Duval, cô nhân tình bồ hóng của Baudelaire! Bởi vậy, cũng không chấp nhận được một thiên tài vượt kích thước như tác giả Ác Hoa.

Baudelaire cũng như tất cả những nghệ sĩ đi tìm Vô Cùng và Tuyệt Đối, ra đi với một tấm lòng tinh khôi nguyên vẹn, nhưng giữa đường đã gặp phải một xã hội cũ kỹ, già cỗi như tờ Tạp chí Hai Thế giới! Xã hội đó vẫn còn những ông Hàn Văn chương râu ria mọc dài cả trên… ngòi bút, vẫn có những vị quan tòa khả kính như cây cổ thụ ăn sâu rễ con rễ cái xuống cả ghế ngồi ở giữa pháp đình. Mỉa mai thay! Thời đại bạc bẽo không dung được người thơ, thế mà Baudelaire, nhìn gương mặt thời đại bằng tầm mắt cải biến sự vật, vẫn say mê, cái sắc diện của thời đại mình, sẵn sàng tạo cho nó một vẻ tân kỳ đặc biệt, tuy ông thừa hiểu người đương thời phần đông “bạch nhỡn”.

Ngay trong đám văn hữu, Baudelaire cũng tìm được rất ít tri âm. Đây, lời “đãi ngộ” cuối cùng của tác giả Ác Hoa, sáu tuần lễ trước khi từ giả cõi đời! “Ngoại trừ Chateaubriand, Balzac, Stendhal, Mérimée, de Vigny, Flaubert, Banville, Gautier, Leconte de Lisle, còn tất cả cái đám loạn văn mới đều làm cho tôi ghê sợ”.

Tôi kể tới trường hợp Baudelaire chưa phải để phân tách, giải phẫu một linh hồn thi sĩ. Hãy khoan nói tới cái Ác và cái Thiện trong tư tưởng Baudelaire. Tôi biết có người sẽ nhíu lông mày một cách rất đoan chính, nghĩ rằng: “giữa thời đại lành mạnh và sáng sủa này còn nói tới Baudelaire làm gì! Nói làm gì tới một tâm hồn bệnh hoạn ấy? Nhắc làm gì tới thứ thơ Ác Hoa, sản phẩm của đồi trụỵ, sa đọa, lệch lạc cân não, mất thăng bằng” v.v…

Tôi biết có người sẵn thiện chí xây dựng (tuy chưa xây dựng được gì) muốn tỏ rằng mình hiểu thấu đáo sự đời (tuy chưa hiểu tới bản thân mình) có người nhiệt thành bảo vệ phong hóa, sẽ buông một lời phê phán nghiêm trang: nhắc tới Baudelaire làm gì, trong khi xã hội này đang cần tiến thẳng, đi lên? đang cần xua đuổi hết những đám sương mù ảo giác? Xã hội này đang cần những cánh tay rắn chắc, những khối óc tỉnh táo, những tâm hồn trong lành… v.v… Có phải thế không?

- Hỡi người bạn lành mạnh cả linh hồn lẫn thể xác, nhưng chưa đau khổ cái đau khổ của Baudelaire, chưa sống cuộc đời như Baudelaire đã sống, chưa nhìn thấy sâu mọt đục rỗng những thân hình cường tráng như Baudelaire đã nhìn, mong rằng bạn sẽ bình tĩnh mà nghĩ rằng: từ một trăm năm nay cái mùi hương Ác Hoa vẫn còn thoảng được tới phương trời Đông Á xa xôi này, hẳn không phải là mùi hương độc được! Nếu là hương độc dược, tất đóa hoa linh hồn của Baudelaire đã phai tàn rữa, nát mủn cùng cát bụi thời gian từ lâu rồi, còn gì nữa để cho người bạn lành mạnh của tôi phải phiền bận? Tan biến theo cát bụi, không phải là mảnh linh hồn cô độc của Baudelaire, mà chính là bao nhiêu linh hồn khác của những con người rất đỗi lành mạnh đồng thời với Baudelaire!

“Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch”.

Vậy, nhắc tới Baudelaire, tôi chỉ muốn rẽ lau, vạch cỏ, bằng một ngòi bút tâm thành, khơi lại con đường giao cảm.

Con đường thơ vô cùng tận của chúng ta là vòng luân hồi truyền kiếp.

Nhân loại không tiến thẳng, không đi lên! Tiến thẳng tới cứ điểm nào? Đi lên tới chiều cao mấy độ, tương đối với bình diện trái đất? (Phiếm thay, những lời nói vô nghĩa!).

Không. Từ xưa nhân loại vẫn chỉ xoay vòng tròn. Chúng ta vẫn xoay theo vòng luân hồi bất tận, cho nên ngày xưa vẫn hằng gặp gỡ ngàn sau, cho nên Lý Bạch vẫn gần chúng ta, Baudelaire không cách biệt tôi và bạn. Mỗi linh hồn nghệ sĩ là một thế giới, một hành tinh phát tiết ra ánh sáng, có hấp lực riêng phản ứng lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, luân chuyển chung quanh mặt trời, kết tinh tất cả hào quang vũ trụ, ý niệm lộng lẫy của Chân Thiện Mỹ. Cái “Thái Dương Hệ Thi ca” thành hình.

Tôi thường nghĩ, từ một đêm nào xa lắm, một đêm tưởng nghe Bộ lạc ngàn xưa, lên tiếng:

“Chúng ta làm thơ. Chúng ta muốn ngồi lại bên vực thẳm thời gian, trong khi cuộc đời đi hết. Giữa những tang thương chồng chất từ muôn ngàn thế hệ, chúng ta hát lên man mác một nỗi lòng. Tiếng vọng đơn sơ của chúng ta có vượt nổi Vạn Lý Trường Thành, thấm vào tận lòng đá Kim Tự Tháp, thoát khỏi hình hài, giã từ vật thể, châu lưu trong vũ trụ miên trường?

“Chúng ta làm thơ giữa cát bụi một cõi đời hoang loạn”.

“Qua dòng nước mắt khóc nhân tình, tôi đã thấy mỗi hạt bụi cát đều thấp thoáng bóng tinh cầu những kỷ nguyên xưa. Bạn hãy kể cho tôi nghe câu chuyện đời chuyển biến: những gì thường trụ, những gì tiêu tan? Và những cái gì, “bất biến, nằm ở trong lòng cái “biến”?

“Bài thơ của chúng ta chưa biết bao giờ ngừng khúc điệu”. Từ lâu lắm, bài thơ bất tận đó, tôi vẫn muốn cùng bạn đọc chung…”.

Trong tập thư bạn gửi về, những bạn yêu thơ cùng tôi chưa quen biết, thường có những lời tâm sự như sau:

“Anh chưa gặp tôi bao giờ, nhưng chúng ta vẫn thường gặp nhau ở lãnh vực văn nghệ. Tôi gặp anh trên tờ “Gió Mới” nhờ sự chuyển tiếp hương duyên của thi sĩ Phạm Hầu”.

Lời nói tuy không mới lạ, nhưng mấy chữ “chuyển tiếp hương duyên” đã nói trúng ý nghĩ của tôi. Chắc cũng là ý nghĩ đơn sơ mà tâm thành của những người muốn bước vào con đường quỹ đạo trăng sao, trong Thái Dương Hệ Thi Ca.

Tôi nói “muốn”, thực ra không đúng.

Thi sĩ hay không thi sĩ, chẳng phải muốn hay không mà thành, chẳng như người ta muốn vận động cái hàm Tri Huyện, muốn chạy lấy cái cửu phẩm văn giai!

Trên tất cả ý muốn của con người, còn có một Ý Lực gần như thần bí đầy người thơ bước theo nghiệp dĩ, một sức chiêu dụ lạ lùng, từ bên trong giục dã, từ bên ngoài lôi cuốn - một hấp lực Hành tinh thuộc địa hạt Hình nhi thượng không theo định luật vật lý - một cái Duyên cấu tạo chuyển tiếp sinh khí từ muôn đời để tạo thành cái bản chất một thuở.

Người bạn thơ, của tôi! Hôm nay chúng ta gặp nhau anh làm thơ và tôi đọc thơ đó là “nhờ sự chuyển tiếp hương duyên của thi sĩ Phạm Hầu”. Đó còn là sự chuyển tiếp hương duyên của nhiều thế hệ thi sĩ khác nữa, trong số đó có thi sĩ Baudelaire.

Hãy kể riêng tới Baudelaire, người thơ mở đầu mạch nguồn giao cảm (tôi tạm dịch chữ correspondances: hiểu theo Baudelaire, cái nghĩa “chuyển giao cảm giác” còn sâu sắc hơn 1 kết tinh hơn). Người thơ ấy đã nghe, đã nhìn và đã cảm vũ trụ tinh vi biết bao nhiêu, thế mà chính tiếng nói của nhà thơ không được cuộc đời nghe thấu.

Thời đại trật tự tới vô tình, trang trọng tới kiêu bạc, bình thản tới lạnh lùng ấy đã xa rồi! Xa từ một thế kỷ.

Ngày nay chúng ta sống vào một trong những thời đại xao xuyến nhất của Lịch Sử Nhân Loại. Cũng may những người hoạn nạn và biến cố cùng chịu đựng chung đã đưa chúng ta lại gần nhau. Ngày nay, những người làm văn nghệ không quá giao như thế hệ trước. Cuộc sống luôn luôn biến động khiến những người bản tính lãnh đạm nhất giờ đây cũng trở nên có nhiều bạn.

Phải ở vào một thời đại ấm nóng lắm, mới có những thần đồng trong văn học như Minou Drouet 8 tuổi, Françoise Sagan, chưa tới 20 tuổi, được đưa lên ngai cao tráng lệ của lâu đài Nghệ Thuật. Thử tưởng tượng, nếu sinh vào thời đại Baudelaire có những vị giám sát quan choàng áo dài đen sẵn sàng bảo vệ phong hóa cổ truyền, liệu cô bé Minou Drouet và cô nàng Françoise Sagan có ngước được những con mắt hóm hỉnh lên để mà nhìn vòng lá danh vọng treo thăm thẳm cao trong Hàn Lâm Viện Văn Chương giữa Kinh Đô Văn Học Pháp?

Cũng là một điều đáng mừng: chúng ta không còn sinh nhầm thế kỷ.

Bởi vậy, bạn với tôi lại càng quen nhau thân mật hơn. Bởi vậy, trước khi chúng ta tìm hiểu nhau gần gũi, tôi muốn nhắc tới Baudelaire. Để nghiêng mình chào một người thơ đã vì Thơ mà chịu suốt một đời đơn chiếc, trong khi chúng ta hội ngộ đông vui.

Chính vì người ấy đã chịu cô độc, cho nên ngày nay chúng ta mới càng sốt sắng tìm nhau.

Hôm nay, từ bốn phương tám hướng, vần điệu cảm thòng nhau. Tôi đọc trên tờ giấy mỏng manh như tờ lá thấm những văn thơ bạn giao duyên.

Bâng khuâng duyên mới… Tôi hình dung người bạn xa xôi qua nét mực đậm đà vòng theo hàng chữ lượn. Bạn là ai? Tôi tưởng có thể nhìn thấy chân dung bạn qua bóng dáng của tinh hoa. Mỗi dòng chữ thanh thanh có riêng một sắc thái. Cũng như một vần thơ gieo là một dáng đứng, dáng đi…

Chỉ buồn nhất những khi, bài thơ đọc đến hết, vẫn hoàn nguyên giấy trắng, mực đen. Mực đen, giấy trắng, không hề thấy nét chữ hiện hình người, dù chỉ hiện thoáng mơ hồ một ánh mắt…

--------------------------------

1

Tiểu thuyết gia kiêm nhạc sĩ người Đức Théodore Hoffmann theo phương pháp, giao cảm hiểu Baudelaire, đoan quyết rằng khi ngửi mùi hương Hoa Ưu Tư (Fleur du souci) ông nghe thấy tiếng kèn hautbois: giao cảm hương âm thanh. Thi sĩ Théophile Gauthier xác nhận rằng ông thường trông thấy những “âm thanh xanh lá mạ” âm thanh xanh lơ “âm thanh vàng” chuyển trước mắt ông thành từng gợn sóng rất rõ ràng: đó là giao cảm âm thanh màu sắc… đã nhìn và đã cảm vũ trụ tinh vi biết bao, thế mà chính tiếng nói của nhà thơ không được cuộc đời nghe thấu.

MÂY LÌA NGÀN

Câu chuyện tôi thuật lại đây khởi đầu từ những ngày xa xôi cũ ở miền Bắc, để rồi vào tới miền Nam này mới kết thúc - gọi là “tạm kết thúc” thì đúng hơn. Bởi vì đấy là một thiên hồi ký, động tác biến chuyển theo thời gian, cũng như chuyển theo từng kỷ niệm vui, buồn trong cuộc sống. Và động tác đều do tự nhiên sắp đặt. Tự nhiên sẽ dành cho ta tất cả mọi bất ngờ. Tác giả thiên hồi ký này, dù muốn, cũng không thể đóng vai chủ động. Vai chủ động trong câu truyện chính là Định Mệnh. Định Mệnh dàn bầy, bố cục tất cả. Câu truyện khởi đầu từ một miền rừng ngoài Bắc, đã từ lâu chìm lắng, qua đi tưởng chừng không còn vang bóng. Thế rồi, một ngày ở miền Nam ngẫu nhiên kỷ niệm hiện về toàn vẹn. Quá khứ lại kế gần hiện tại. Những hình bóng của ngày xưa, đã tưởng vĩnh viễn tan biến vào hư không như một bóng mây bay đi mãi mãi. Nhưng bóng mây xưa lại chập chờn trước mắt.

Câu chuyện “Mây Lìa Ngàn” lại trở về trong ký ức tôi, với nguyên vẹn cái phong vị hoang sơ của buổi hạnh ngộ ban đầu…

°

Tôi gặp cô gái ấy một chiều nàng đi xem hội về cùng cả một đoàn phụ nữ lâm tuyền. “Nàng” chỉ là một cô gái Mán, con đẻ của núi rừng, người của những bộ lạc dân tộc thiểu số sống ở vùng sơn cước miền Tây Bắc Bắc Việt.

Người đoàn trưởng là một đàn ông đứng tuổi tay cầm dao quắm, thắt lưng điều, áo chàm khăn lam quấn chéo. Bầy phụ nữ theo sau, y phục đồng loạt bó sát lấy thân hình, màu chàm nổi bật lên trên nền đất núi cỏ vàng. Trong nắng xế chiều thu, khoảnh khắc vàng rực lên như một ảo ảnh đột nhiên bừng sáng, những cái bóng chênh chênh đổ xuống từ lưng chừng non cao, dài thướt tha vĩ đại, gợi nhớ tới một đoàn nữ binh của Hai Bà Trưng, Bà Triệu ngày xưa.

Qua sơn thôn “của” chúng tôi, đoàn người vào nghỉ chân. Bọn tôi liền sửa soạn một cuộc nghênh tiếp long trọng. Chúng tôi là một bọn người văn nghệ đi tránh khói lửa thời chinh chiến. Tuy mới đến đây từ cuối hạ, sống nhờ dưới mái nhà sàn bao dung của một làng Mường, chúng tôi đã quen thuộc ngay với cỏ cây vùng này, và nhận luôn rừng núi hoang vu là vật sở hữu của mình.

Đồng bào Mường rất dễ tính, hình như không cần xác định địa vị chủ nhân, cứ để mặc chúng tôi xâm chiếm núi rừng. Hơn đâu hết, ở đây chúng tôi được quyền nghĩ rằng: thiên nhiên là của chung tất cả mọi người.

Bởi vậy chúng tôi đã mệnh danh cho nơi sơn thôn hẻo lánh này là “Trại Văn Nghệ Tự Do”. Đó là thời kháng chiến, cái thời mà những người tản cư như chúng tôi đang cổ níu lấy một chút ảo tưởng tự do, nên mỗi khi có thể hưởng thụ một chút tự do thực sự- dù chỉ mong manh- tất cả không ai bỏ lỡ cơ hội.

Đoàn phụ nữ sơn cước qua đây và quyết định nghỉ chân tại đây cả một đêm. Từ sơn thôn này về làng của họ còn phải vượt qua ba bốn trái núi, mà tới đây thì trời đã ngả chiều, đi xa hơn nữa không tiện.

Các cô gái Mán bỡ ngỡ nhìn con trai tỉnh thành bưng miệng cười khúc khích. Hàm răng đều, trắng bóng, nở ra như đóa hoa nguồn.

Các cô gái, gọi tên nhau líu ríu. Chúng tôi không ai biết nói tiếng miền Thượng, nhưng các cô biết ít nhiều tỉếng kinh. Chưa được sõi lắm, nên càng có duyên, một cái duyên hoang dã của núi rừng. Tên các cô Mán cũng chỉ giản dị là Liên, Hoa, Mây, Thắm … chứ không phải là những Pan Slao hay Ptầy Lùng như tôi vẫn tưởng.

Cô Mây duyên dáng nhất. Chắc phải là hoa khôi đất Mán. Khuôn mặt tròn, nước da hồng đậm mát, như một trái dâu da rừng vừa ửng chín. Đôi mắt to, mi dài, tưởng chừng gờn gợn cả ánh mây, sắc núi. Thân hình tròn lẳn tươi khoẻ, uyển chuyển như một con báo, tỏa ra nguồn sinh lực thiên nhiên. Tôi có cảm giác nhìn thấy một người con gái ở những đảo xứ nóng miền Bắc xích đạo: một cô gái đảo Hawai hay Tahiti. Tôi lại liên tưởng đến một thiếu nữ Arlésienne lượn mình theo âm hưởng một bản nhạc của Bizet…

Phải so sánh nhiều như vậy là vì đôi mắt của cô Mán, và cả người cô Mán đó thế mà có mãnh lực quyến rũ vô cùng. Tôi nhận thấy thường thường các phụ nữ Mường và Mán miền Châu Rể thuộc Hòa Bình này, rất ít người có nhan sắc. Tuy nhiên, nếu đã có người nhan sắc, thì đó là một sắc mặn mà đặc biệt, với những nét độc đáo khác vời.

Trong khi cô gái Mường nào ở đây cũng… trọc đầu, thì cô gái Mán để tóc dài óng ả. Đồng bào Mán vùng này không “sơn đầu” như ở một vài địa phương khác. Dưới nếp khăn lam tỏa rộng như một thứ lá cây rừng kỳ lạ ngẫu nhiên phủ trên vầng trán, mái tóc cô gái Mán lòa xòa đen nhánh, lại bôi dầu thơm kín đáo, phảng phất hương thơm của cỏ dại, của vỏ cây rừng nồng say.

Ở rừng, chúng tôi phân biệt các loại dân tộc thiếu sổ theo từng thổ ngơi sinh hoạt của họ: người Thổ hay ở những khu rừng ngoài gần đồng bằng. Trong rừng sâu, người Mường trú ngụ, thường ở sát bên chân núi, chênh vênh sườn non cao hoặc chót vót hẳn trên đỉnh núi là chỗ dừng chân của dân tộc Mán.

Dừng chân, vì người Mán vẫn còn sống đời du mục phiêu lưu. Ngày nào kia, họ tìm đến một miền núi phì nhiêu, nhận thấy đất núi đủ nuôi sống người, suối ngàn không phản trắc. Họ rẫỵ núi hoang dại làm nương, chặt tre rừng già làm nhà, đặt máng ống bương dẫn nước nguồn cao. Thế rồi một sớm, một chiều, từng căn nhà sàn được dựng lên, thô sơ mà kiên cố. Nhà nào cũng có một bể đựng nước ghép bằng ván; suốt ngày, suốt đêm, đều đều, bất tận, nước suối theo máng chảy vào bể tràn đầy ăm ắp. Nhà nào cũng có một bếp tre rộng ngay chính giữa, suốt ngày đêm có than hồng nên lúc nào cũng sẵn nước sôi. Và đồng bào Mán tắm rửa toàn bằng nước pha nóng bốc khói, khả dĩ tiêu tán hết chướng khí sơn lam.

Một làng chỉ độ chín, mười nhà lơ thơ, trên từng chòm núi, nương ngô xanh trùng điệp bao kín chung quanh. Muốn đi từ nhà này sang nhà kia, người ta xuống núi rồi lại lên núi theo những bậc đá thiên tạo, có lẽ cũng dễ dàng như người thị thành trèo một cầu thang ngắn.

Chiều chiều, từ lưng chừng núi, những tiếng “khèn” xa vắng, ngập ngừng, theo mây trôi lờ lững, như một nỗi niềm nhớ nhung trời biển. Đó là lúc cô gái Mán mắt thăm thẳm rõi ngàn xanh, cất lên tiếng hát âm u như tiếng chim rừng.

Cho tới một ngày nào, nhận thấy chung quanh đất hết hoa mầu, đoàn người du mục lại lìa ngàn đi tìm một rừng núi mới. Trước khi rời bỏ những mái nhà sàn đã từ bao lâu dùng làm tổ ấm, người Mán không ngần ngại tự tay gieo một mồi lửa, thiêu hủy hết công trình xây dựng, không muốn để lại một dấu vết gì của chỗ ở xưa.

Tối đó, “Trại Văn nghệ” của chúng tôi mở hội. Chúng tôi gọi là “Đêm Liên Hoan đón tiếp Đồng Bào Thiểu số”.

Thể theo lời mời chân thành của chúng tôi, bày phụ nữ Mán lưu bước ở lại xóm Mường chung một lớp nhà sàn với chúng tôi.

Một bữa ăn chiều thịnh soạn đã được tổ chức ngoài trời với tất cả kỹ thuật nấu ăn tỉnh thành của những lâm thời đầu bếp. Ở nơi rừng sâu này xa chợ, chúng tôi phải mua sắm thức ăn đủ dùng cho cả tháng. Được dịp thết khách có bao nhiêu trân vị quý báu lưu trữ, chúng tôi trút hết cả vào bữa cơm tri ngộ. Đồng bào thiểu số Mán, quanh năm chỉ quen dùng cơm nếp hoặc ngô bung, hôm đó được thưởng thức một bữa cơm tẻ gạo trắng với một thực đơn gồm những bốn món (không phải để “ăn chơi”, mà chính là để ăn no thực sự) vì đó là thịt kho, cá kho, tôm kho và dừa cũng kho… Đồng bào có vẻ cảm động lắm.

Trừ người trưởng đoàn tất cả có tám cô nàng: Liên, Hoa, Mây, Thắm, Miên, Man. Mừng, Cầm. Tám bông hoa sơn cước hồn nhiên, chất phác, nhưng chỉ có bốn đóa sắc hương đặc biệt:

Mây linh động nhất.

Miên, Man, hai chị em, mặt bầu bĩnh, mắt là răm, đẹp cái đẹp bình dị của một thứ trái cây vừa chín tới, ngọt và hiền, nhưng chỉ khiến người ta thích, không làm người ta say đến độ thèm.

Cầm ít tuổi hơn cả, thơ ngây hiền lành như con nai vàng.

Sau bữa cơm chiều, sương thu đã dâng lên bàng bạc núi rừng. Giữa khung trời mênh mông tím dần một màn ảo mộng, những điểm sao long lanh buồn như những cặp mắt ân tình nhớ thương nhau. Thế rồi trăng lên. Trăng của rừng thu, đó là một vầng trăng muôn thuở u sầu. Trăng hình như chảy láng thủy ngân trên sườn núi đá xanh huyền hoặc màu ngọc thạch. Trăng lả lướt vương trên những chùm phong lan trắng, mơ hồ nổi lên như một nét cười hư ảo, giữa vùng lá cây ngàn rung động chập chờn. Rừng thu đêm trăng đẹp như một viên ngọc quý.

Chúng tôi ngồi cả ngoài sân, uống một thứ café rừng mới hái, rang bằng nồi đất, xay bằng cối giã gạo, pha bằng nồi đồng, lọc bằng túi vải, rót vào bát đàn, hòa với thứ đường bánh trôi hăng hắc.

Các cô gái Mán, mắt đầy trăng, chúm chím môi nhắm nháp từng ngụm nhỏ thứ café “lập thể” đó, chắc đang tơ tưởng đến cuộc sống văn minh tiến bộ của bọn người đô thị chúng tôi.

Sân giăng in bóng núi.

Mắt các cô nàng càng vời vợi xa xôi.

Mọi người bày ra cuộc hát đối đáp nhau, nghĩa là bên nam, bên nữ lần lượt mỗi người phải hát một bài. Phía đàn ông chúng tôi hát trước. Một vài người cất tiếng hát những bài ca thời đại. Vang núi hắt lại rung chuyển cả đêm rừng.

Mấy bà “mế” già kinh động, sợ hãi bảo chúng tôi:

- Đêm khuya, các thầy đừng hát to thế. Cái ma nó về đấy. Cái ma rừng ở đây thiêng lắm!

Đến lượt các thiếu nữ Mán cất giọng ca khe khẽ.

Tiếng hát tiêu vong trầm trầm, đứt đoạn. Tiếng hát nghẹn ngào trong cổ họng, âm u, hiu hắt như tiếng hòa điệu của loài côn trùng giữa đêm khuya vắng. Chính giọng hát rừng rú đó nghe như tiếng hát chiêu hồn, tiếng hát gọi ma. Tiếng hát đó cất lên, hình như đánh thức dậy cả linh hồn rừng núi hoang sơ.

Giọng Mây và giọng Thắm nghe rõ nhất, vì trong nhất và ngân dài nhất. Như một âm hồ cầm nhấn rung trên cung bậc. Bài hát tắt lúc nào, dư âm vẫn còn chìm đọng chưa dứt, tưởng chừng hơi thở còn vương trong không gian. Chúng tôi cũng thấy rợn người lên một lúc. Cùng một lúc, tôi tưởng vừa bắt gặp một linh hồn đi dạo trong đêm mênh mang huyền bí của lâm tuyền.

Mắt tôi bỗng gặp mắt nàng Mây, trong đó như lấp lánh cả một giải nước nguồn lay động sao khuya. Làn mi dài từ từ dương lên rồi cụp xuống như một cành lá hỗ ngươi. Tôi cảm thấy làn mi đó chạm vào da thịt tôi, êm như một chất tơ nhung. Và tôi vụt nghĩ đến những chuyện bùa chài của miền sơn cước. Chính tôi là kẻ đang muốn được chài.

Sương núi đã thấm lạnh vai áo. Xung quanh bếp lửa quây vuông trên nhà sàn, chúng tôi từng cặp, từng cặp, cứ một cậu trai lại đến một cô “mới”, ngồi sát cánh nhau, ngả đầu vào vai nhau, thân mật, tự nhiên như đã quen nhau từ thuở nào.

Tôi ngồi cạnh Mây. Mây ngả đầu vào vai tôi. Và tôi nắm lấy cánh tay tròn lẳn của Mây. Gần nhau rất ngẫu nhiên, thân nhau không hẹn trước vậy mà tôi cảm thấy chỉ một cái ngả đầu, một cử động nhích tay lúc này cũng đủ trở nên một dấu hiệu của Định Mệnh.

Điếu thuốc lào được chuyển qua tay này sang tay khác. Phong tục ở đây, cái điếu cày bằng ống tre rừng là giây tơ hồng ràng buộc, là quả tơ hồng trao duyên: người con trai muốn tỏ tình cùng người con gái, chỉ cần hút một mồi thuốc lào; xong, nhồi một mồi nữa, mời người con gái. Cô gái nhận điếu thuốc châm lửa hút, là thuận tình. Chỉ nhận điếu thuốc mà không hút, mới là cảm tình xã giao. Giản dị vậy thôi, kỳ thú như vậy đó.

Bếp lửa đốt bằng hai khúc cây lớn đỏ hồng. Má các cô nàng cũng hồng đỏ.

Tôi hút một mồi thuốc lào, lại nhồi một mồi thuốc nữa đưa cho Mây. Mây cầm điếu thuốc, lim dim mắt thủ thỉ:

- ‘‘Cái” anh cho em hút điếu thuốc này, em “say” anh, em theo anh về Thủ Đô thì sao?

Dứt lời, cô nàng châm lửa hút luôn. Và cô nàng say, ngả lưng trên cánh tay tôi.

Tôi hỏi Mây:

- Em có muốn theo anh về Thủ Đô không?

Mây đáp:

- Em có muốn. Nhưng “cái” anh nói dối. Đánh nhau thế này, đời nào “cái” anh về Thủ Đô!

Để cho Mây tin rằng tôi không nói dối, tôi liền… nói dối luôn, giọng chắc nịch:

- Không, anh nói thực. Mai anh về Thủ Đô đấy.

Cô nàng mở tròn cặp mắt tin tưởng:

- Thế à? Thế mai em theo anh về với nhé! À! Ngày kia hẵng về, anh ạ. Sáng mai, em còn phải vào rừng bẻ măng…

Câu chuyện của chúng tôi cứ lẩn thẩn như thế mà cũng kéo dài cho tới lúc bên ngoài trăng đã khuất, cuối cương xa vọng lại một tiếng vượn sằu gọi trăng.

Có lẽ đêm đã khuya lắm. Xóm Mường ngủ im phăng phắc. Trừ bọn chúng tôi còn thức.

Tôi “phỏng vấn” Mây:

- Chúng anh muốn tỏ tình với các em thì chúng anh đưa cho các em hút điếu thuốc lào. Còn các em muốn tỏ tình với chúng anh, thì các em làm thế nào?

Mây cười ngây thơ:

- Nhưng “tỏ tình” là gì hả anh?

- Tỏ tình là giải tỏ tình yêu, là… nói chuyện ái tình ấy!

- Thế tình yêu với ái tình là gì?

Tôi cố giải thích, nhưng xem chừng những danh từ văn hoa chẳng làm cho Mây hiểu được gì hơn. Một anh bạn tôi phải cắt nghĩa giùm:

- Tình yêu hay ái tình là… người con trai với người con gái say nhau, phải lòng nhau, thương nhau, mến nhau ấy mà. Chẳng hạn như bây giờ Mây thương ai mà người ta không biết thì Mây làm thế nào?

Bây giờ Mây mới có vẻ hiểu.

- À! Muốn tỏ lòng mến anh, em đợi lúc anh đi ngủ, em ra bếp lấy lửa… đốt vào bàn chân anh. Thế là anh biết, anh thức dậy.

Tôi cố ý hỏi lẩn thẩn:

- Em đốt chân anh, anh thức dậy… Xong rồi để làm gì?

- À! Anh thức dậy, xong rồi em rủ anh ra suối.

- Ra suối rồi… để làm gì?

- À! Ra suối để chúng mình… nói chuyện!

Thì ra, bài thơ Ân Tình của cô gái Mán không phức tạp chi hết. Tất cả, chỉ gồm có mấy động tác căn bản thô sơ: đốt chân, rồi đi ra suối. Đi ra suối, để… nói chuyện!

Ngay sau lúc ấy tôi đã đi ngủ, để cho Mây tìm đến đốt chân, để cùng đi với Mây ra suối, và để rồi chúng tôi… nói chuyện!

Sau cái đêm thi vị “nói chuyện bên suối” đó, Mây không theo tôi về Thủ Đô. Trái lại, tôi theo Mây lên núi - nghĩa là về làng của Mây. Để được Mây tặng cho rất nhiều: đu đủ chín, dưa hồng, ngô nếp, dâu da, hồng bì, và cả một chiếc vòng tay bằng bạc.

Mây lại thêu vào khăn tay của tôi một con chim và một đoá hoa ngũ sắc, làm kỷ niệm. Cũng như hầu hết các cô gái Mán khác ở đây, Mây thêu rất nhanh. Đặt tay xuống, nhấc tay lên vài lần là xong một đoá hoa. Lượn đường kim vài lượt trên vải đã trở thành một con chim. Nét thêu đơn giản mà linh động, hình thức chim hoa hơi kiểu thức hóa, tựa những nét họa trang trí trong kiến trúc Đế Thiên.

Ghi kỷ niệm vào một chiếc khăn tay chưa đủ, tôi đưa cả áo “sơ mi” cho Mây thêu vào ngực, đưa cả “vét tông” để Mây thêu vào ve áo, và đưa “cả ba lô” cho cô nàng thêu vào hai túi.

Suốt nửa ngày ở chơi trên làng Mán với Mây, câu chuyện giữa hai chúng tôi chỉ loanh quanh với mấy câu nói đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, mà cái luận điệu lẩn thẩn không làm cho tôi chán:

- Thế bao giờ anh mới về Thủ Đô?

- Bao giờ hết chiến tranh thì anh về. Chừng đó anh sẽ đưa em về cùng.

- Hết chiến tranh thì lâu quá nhỉ? Hay là anh ở lại hẳn trên này với em. Ở đây đi làm nương vui lắm…

Tôi cứ gật đầu liều, tuy biết rằng lệ làng Mán, lấy con gái Mán, phải nhập tịch làng Mán, cùng sống, cùng chết, cùng phiêu lưu với bộ lạc.

Mây tỏ vẻ không tin, lắc đầu nói:

- Anh nói dối. “Cái” anh như con chim ấy, hôm nay ở đây, mai bay đi chỗ khác. Em không giữ được anh, em xót lắm.

Câu nói ấy như là thơ, mà thú thực, lời chưa thấy có ở tác phẩm của một nữ sĩ Việt Nam hiện đại nào.

Bài thơ độc nhất trong thời loạn đó chỉ kéo dài có năm, sáu phiên chợ. Ở đây, cứ năm ngày một phiên chợ Bến, tôi đợi Mây từ trong núi đem măng, đem sắn cùng các lâm sản khác đi qua, ghé lại “Trại Văn Nghệ” có khi nửa ngày, có khi cả một đêm. Ngẫu nhiên, “Trại Văn nghệ” của chúng tôi trở nên một cái trạm dừng chân giữa đường sơn cước: xuôi về đồng bằng gần hai chục cây số là chợ Bến, và hướng về non cao, trại chúng tôi chỉ cách làng Mán chừng bốn, năm cây số đường núi.

Đã năm sáu phiên chợ qua đi. Mối tình của tôi với cô gái Mán vẫn không có gì thay đổi. Mây vẫn ngây thơ, duyên dáng, và mỗi ngày mỗi đáng yêu hơn, vì Mây vẫn rất đa tình. Cho nên đã có tới năm, sáu lần tôi bị cô nàng đốt bỏng cả hai chân.

Chiến sự ở những vùng Chợ Bến và Hòa Bình ngày càng lan rộng. Đêm đêm, đứng trên núi cao, nhìn thấy từ những miền rừng xa ánh lửa bập bùng hắt lên nền mây đen vần vũ, có khi thấy cả ánh đèn “pha” quét dài từng vệt trong sương đêm như ánh chớp nguồn.

Chiến sự biến chuyển thì nhiệm kỳ ở rừng của đoàn Văn nghệ chúng tôi chấm dứt. Nghĩa là phải nhổ trại lìa rừng. Riêng tôi không hưởng ửng sự xê dịch chút nào. Tôi nghĩ đến Mây, sắp sửa phải xa cách nhau chưa biết bao nhiêu sông núi.

Tôi muốn gặp Mây trước khi cách biệt. Vì tuy không hưởng ứng, tôi vẫn phải theo ý định của phần đông. Từ sáng, trong lúc mọi người sửa soạn đế chiều hôm đó lên đường về xuôi, tôi lén đi một mình lên làng Mán.

Đường đi vẫn trập trùng đồi, núi. Lội suối, trèo non, sau gần bốn tiếng đồng hồ, tôi đến bên chân dãy núi làng Mây. Nương ngô cuối vụ hái bắp xạc xào. Lá xanh dài che kín lối đăng sơn. Tôi rẽ lá tiến lên. Tới lưng chừng núi, hết rặng ngô, ngọn núi hiện ra giữa khung trời bát ngát.

Tôi bỗng giật mình. Tôi ngờ tôi mê hoảng. Tôi mở mắt thực to mà vẫn tưởng mình trông nhầm: trước mắt tôi, không thấy những mái nhà sàn quen thuộc mọi khi. Những mái nhà có rừng vàng óng của làng Mán, mỗi lần tôi đến đây, vẫn hiện ra trên ngọn núi, thân mật, chào đón. Giờ đây, những mái nhà đó biến mất.

Tôi nhẩy vội từng ba bậc đá lên tới ngọn núi. Ở chỗ những ngôi nhà sàn mọc lên ấm cúng xưa kia, nay chỉ còn là một đống tro thanh quạnh quẽ đìu hiu. Trên những chòm núi khác cũng vậy, không một bóng nhà sàn, không một bóng người Mán, cả một làng Mán gồm chín, mười nóc nhà đều biến đi như giấc chiêm bao.

Không phải đây là kết quả một vụ oanh tạc. Không có dấu vết gì chứng tỏ phi cơ đã tàn phá xóm nhà sàn cô tịch này. Chỉ còn chút tàn tro phơ phất bay vào cơn gió ngàn lạc qua đỉnh núi.

Chắc người Mán ở đây, theo tiếng gọi của đời du mục, đã tự thiêu hủy làng mình, lên đường đi tìm rừng núi khác.

Chính cô nàng Mây đã là một con chim lạ rừng thu vừa bay đi mất.

Cuộc sống chẩy trôi đưa tôi từ núi rừng về đồng ruộng, rồi từ đồng ruộng lên ngàn, xuống biển, để rồi lại trở về Hà Nội. Đã nhiều ngày tháng qua đi, cái bóng “Mây” bay đi dạo đó đã bay đi biền biệt, không còn dấu vết.

Tuy nhiên, tôi vẫn còn giữ được chiếc vòng bạc cùng chiếc khăn tay thêu chim hoa chỉ ngũ sắc của Mây trao tặng. Mỗi lần giở tới những kỷ vật đó, tôi lại thấy nao nao thương nhớ, một niềm nhớ thương day dứt, thấm thía. Nhưng, tôi nhớ tới núi rừng nhiều hơn nhớ tới cô gái Mán. Tôi nhớ núi rừng tha thiết như nhớ tới chính miền quê cha đất tổ của mình, nhớ hơn cả bất cứ một người nhân tình nào, có lẽ trong tiềm thức sâu thẳm của tôi vẫn chìm lắng cái truyền thống hoang dã của người dân du mục phiêu lưu- cái bản năng sơ khai của Bộ lạc.

Trong khi hình bóng cô nàng Mây mờ nhạt dần trong tâm trí tôi, thì cái bóng hình thâm u của rừng núi nhiều lúc vẫn mênh mang bao phủ linh hồn tôi như một niềm ám ảnh.

Cho tới 1954. Quân đội Pháp từ các miền sơn cước rút về Hà Nội. Đồng bào Thượng cũng lũ lượt kéo về đô thị. Trên các phố phường chen chúc, tôi đã thấy hiện ra những vuông khăn trắng bắt đầu cùng tà áo trắng dài lòa xòa phủ ngoài vạt xiêm thổ cẩm của các cô nàng Hòa Bình, Lạng Sơn; những chiếc vòng bạc nổi trên nền áo lam của cô gái Thổ Cao Bằng, Lạng Sơn; những chiếc váy lĩnh thướt tha của cô Thái Trắng Lai Châu… Nét mặt người nào cũng thẫn thờ ngơ ngác tựa những con nai lạc bầy. Những con người của núi rừng hoang dã giờ đây cũng đang lạc giữa rừng người thành thị, bước chân ngượng ngập, rụt rè như còn lưu luyến với cỏ dại cùng sỏi đá lâm tuyền.

Đồng bào thiếu số bỏ rừng về tỉnh mỗi ngày mỗi nhiều. Nhưng, giữa bầy chim lìa ngàn, tôi không tìm thấy “con chim lạ rừng thu” ngày nào của miền Châu Rễ, bên cạnh những người Thổ, người Mường, người Thái di cư về Hà Nội, tôi nhận thấy không có bóng người Mán. Và tuyệt nhiên, tôi chưa tìm thấy bóng dáng cô nàng Mây. Người thiếu nữ thuộc Bộ Lạc Mán ở những dẫy núi cao miền Tây Bắc Bắc Việt một ngày nào từng ao ước “theo tôi về Thủ Đô”, chẳng biết giờ đây có thả mình theo chiều gió cuốn lìa rừng?
Tôi đã tìm đến mấy khu tạm trú của các đồng bào miền Thượng. Tôi hỏi thăm, và được biết: các đồng bào ở rừng núi di cư được về Hà Nội cũng phải có hoàn cảnh đặc biệt. Trước hết, phải thuộc dòng họ Quan Lang, và phải là những dòng Lang có thế lực, có cơ sở hoặc bà con thân quyến ở Hà Nội. Từ những miền sơn cước đèo heo hút gió về được tới chốn cố đô “ngàn năm văn vật” đâu phải chuyện dễ dàng? Phiêu bạt được về đô thị lúc này là một số tối thiểu của các khối… thiểu số đồng bào miền Thượng xứ Bắc mà thôi: họ Đinh, họ Quách ở Hòa Bình, họ Bế ở Lạng Sơn… cô gái Mán lên là Mây “của tôi” tất không ở trong số những người đó.
Tôi nhớ tới lời một vài phụ nữ Thổ nói với tôi, khi thấy tôi lưu ý thăm hỏi về rừng núi thân yêu của họ:
- ‘‘Cái” em buồn lắm, khổ lắm, thầy ạ… “Cái” em thương cha nhớ mẹ lắm. Cái em nhớ rừng lắm…
Tự nhiên tôi cũng thấy nhớ rừng, nhớ núi, nhớ suối, nhớ nương, nhớ nhà sàn. Y như chính mình vừa mới lìa rừng xa Bộ Lạc.
Thế rồi hiệp định Genève.
Tôi di cư vào miền Nam. Quả nhiên đến lượt mình cũng là một con chim lìa tổ.
Câu truyện cô nàng Mây càng thêm trở nên xa xôi.
Năm, sáu năm trời đã trôi qua. Những mái nhà sàn chênh vênh trên ngọn núi cao của xóm Mán giờ đây chỉ còn là hình ảnh đang chìm vào quá khứ.
Tình cờ, một ngày đẹp trời kia, tôi có dịp đi chơi về vùng Ban Mê Thuột cùng mấy người bạn.
Chiếc xe hơi của chúng tôi qua tỉnh lỵ và tiến về những miền rừng bát ngát. Qua những đồi núi trập trùng, lác đác hiện ra hai bên dọc đường những mái nhà sàn thấp thoáng. Để ngắm cảnh núi rừng, chúng tôi cho xe chạy từ từ.
Rừng núi miền Nam cũng không thiếu vẻ hoang vu, hùng vỹ. Hơn nữa, còn nguyên vẹn cả cái vẻ cường tráng man dại của một thiên nhiên đang lớn mạnh. Tự dưng tôi hồi hộp chờ đợi, như sắp sửa được gặp lại một linh hồn bè bạn vô cùng bao dung. Có lẽ vì tôi đang đi sâu vào trong tiềm thức tôi.
Chợt, phía trước mặt, từ trên một sườn đồi thoai thoải dốc xuống ngay bờ đường bên phải, hiện ra một đoàn người áo chàm đi hàng một.
Thiếu chút nữa tôi buột miệng thốt lên một tiếng kêu, nhưng lại nén được ngay: cả một kỷ niệm xa xưa vừa sống lại trước mắt tôi! Bởi vì, đoàn người áo chàm kia là một đoàn phụ nữ Mán. Một đoàn phụ nữ Mán, mà người đi đầu lại chính là cò nàng Mây! Chính cô nàng Mây “của” tôi ngày nào, không thể nhầm được, vẫn dáng điệu ấy, vẫn y phục ấy, vẫn nét mặt ấy, chỉ hơi kém vẻ thơ ngây đôi chút, nhưng lại có vẻ sắc sảo, đậm duyên hơn.
Tôi không mê hoãng. Tôi không nhìn lẫn. Nhưng Mây ngẩn mặt ra nhìn thẳng vào mắt tôi như nhìn một người chưa bao giờ quen biết.
Chiếc xe chở chúng tôi đi xa dần, cho tôi khi khuất bóng đoàn phụ nữ Mán.
Tôi không yêu cầu người bạn tôi dừng xe lại. Tôi cũng chẳng muốn gọi Mây để nhắc lại tình xưa, nghĩa cũ. Tôi hiểu rằng bao giờ “Mây” cũng chỉ là “mây” của rừng, của núi, của bốn phương trời.
Mây đã lìa ngàn. Mây đã bay thoát khỏi ngục tù. Tôi cũng mừng hộ cho nàng, và tự dưng thấy nhẹ nhàng, thanh thản.
Năm 1971
Đinh Hùng
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một chuyến hoa xuân

Một chuyến hoa xuân Nhà văn trẻ Trác Diễm vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh năm 1988 ở Quảng Bình, bắt đầ...