Thứ Hai, 25 tháng 10, 2021

Lời nguyền 1

Lời nguyền 1

Lời nói đầu

Khi sửa soạn làm số đặc biệt tưởng niệm Khái Hưng, anh Trần Đình Phong cùng anh Nguyễn Đình Vượng có đến tòa soạn nhật báo Dân Chủ tìm tôi, yêu cầu cho Văn được biết những gì tôi biết về Khái Hưng, cung cấp cho Văn một ít tài liệu và viết cho Văn một vài bài.

Tuy quá bận, song tôi đã vui vẻ nhận lời và "Văn số 22, tưởng niệm Khái Hưng" được ra đời vào ngày15 - 11 - 1964.
Trong đó, ngoài những tài liệu đặc biệt và giá trị viết về Khái Hưng của học giả Hồ Hữu Tường và các văn hữu khác, tôi đã phải bận tâm và chú ý đến đoạn chót của bài " Khái Hưng, thân thế và tác phẩm " Bài tiểu luận này do Thư Trung viết.
Sau khi đã kể lại thân thế và sự nghiệp văn chương của Khái Hưng, Thư Trung kết luận:
"In lại những tác phẩm mà Khái Hưng đã hoàn thành trong thời gian ông đấu tranh Cách Mạng không những là việc nên làm của thân nhân và văn hữu Khái Hưng mà, theo thiển ý còn là việc cần làm của Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Cùng lúc với sự khôi phục giá trị cho một Khái Hưng nhà văn Cách Mạngt việc in những tác phẩm hiếm có của Khái Hưng còn gìn giữ cho kho tàng văn học dân tộc những tác phẩm có giá trị bền vững, và hơn thế nữa, còn nuôi nấng được trong lòng những thế hệ trai trẻ đang tới cái ý thức hào hùng của nhà Cách mạng chân chính thực lòng mến yêu quê hương, thiết tha với tương lai dân tộc...
"Có một điều này chắc chắn: chịu tốn công sưu tầm rồi đem in thành sách những tác phẩm của Khái Hưng viết hồi 1945 - 1946 it nhất cũng có ích cho văn giới và học giới nhiều hơn là đem in lại những bài báo của Phạm Quỳnh viết từ năm 1917. Việc có ích đấy, nhưng mà có ai làm không? Và ai sẽ làm đây?"
Theo Thư Trung, chỉ "chịu tốn công sưu tầm rồi đem in thành sách", vấn đề thật cũng quá giản dị đấy, và cũng không mấy khó? Nhưng sưu tầm ở đâu? Thư viện nào có giữ? Mò trăng đáy nước có lẽ còn dễ hơn là việc đi sưu tầm những bài của Khái Hưng viết trong nhữrng năm1945 - 1946.
Tôi có một may mắn không ngờ (nhưng không tiện nói rõ ra đây) là ngay từ năm 1945 - 1946, và sau ngày toàn quốc, khói lửa tôi vẫn còn giữ được một số tài liệu quí, có cả những bài Khái Hưng viết. Tôi còn được biết thêm là ngay từ hồi đó. Khái Hưng còn có cả bản dịch toàn bộ "Liêu Trai Chí Dị" và đã cho một thân hữu mượn.
Người bạn đó là ai, hiện còn giữ nguyên bộ "Liêu Trai Chí Dị" của Khải Hưng như lúc văn sĩ cho mượn nữa hay không, tôi cũng xin miễn kể. Câu chuyện đã trở thành riêng tây và đã đi vào quá khứ "im lặng như một nấm nhà mồ" rồi.
Lời Nguyền tập truyện cuối cùng cũng như vở kịch dài bốn hồi nhan đề "Khúc tiêu ai oán" của Khái Hưng, hiện nay tôi vẫn giữ (Ấy là chưa kể tập truyện dài "Xiềng Xích" tôi có được một ít, vì Khái Hưng đang viết giở giang, và những bài thuộc loại, nghị luận về chính trị, xây dựng văn hóa, xã hội, khảo cứu và các loại linh tinh khác...)
Qua nhiều lần yêu cầu, thúc dục của gia đình tác giả mong tôi sớm cho in thành sách và qua những lời kêu gọi của anh bạn Thư Trung nói trên tôi đã cố gắng cho in cuốn Lời Nguyền, giữa một thời củi quế gạo châu này.
Đế làm đẹp lòng người đã chết, với tất cả chân thành của một người em văn nghệ vẫn hằng mến yêu văn sĩ. Để làm vui lòng những người còn sống, đã luôn luôn tha thiết với tiền đồ Văn học nước nhà... Và phần thưởng tinh thần mà tôi tin tưởng sẽ đến với tôi, chính nhờ ở tấm lòng cởi mở của các thân hữu và của các bạn đọc.
Saigon ngày 19- 5 -1966
NGUYỄN THẠCH KIÊN
LỜI NGUYỀN
Đồ sộ, chót vót trên đỉnh đồi cao, đồn Vụ bản hách dịch nhìn xuống con đường đá nối Nho-quan với Hòa-bình. Trên một quả đồi đối diện và thấp hơn, khu trại giam chính trị phạm náu mình trong hàng dậu dầy nứa nhọn và hai hàng cọc chăng giây thép gai. Phía dưới là một cái thung lũng nhỏ với con sông Vành quanh co uốn éo như con rắn dài vận khúc bạc lướt mình trong cỏ hoang, rừng rậm. Bên kia sông là phố và chợ Trào, dăm chục nóc nhà vừa lợp ngói vừa lợp tranh quây vuông lấy bốn cái quán gạch trống rỗng.
Xa xa về phía Tây Nam, dẫy núi Hoành Sơn sừng sững như một bức thành kiên cố đứng ngăn. Buổi sáng nó chìm biến vào trong sương dầy trắng đục, buổi chiều nó lờ mờ trong sương lam bốc lên như khói. Buổi trưa nó lấp lánh ném ánh bạc của những cây ngân diệp mọc bên sườn. Về phương Đông bắc, và chỉ xa chừng dăm cây số, một quả đồi cao và dài đứng án ngữ như một bức bình phong. Quanh đó những núi đá trắng và đen mọc lởm chởm, với những hình thù cổ quái. Còn phía Tây bắc là những đồi rậm liên tiếp những rừng sâu, cỏ sắc bao vây lấy từng khu ruộng nhỏ hẹp và dài.
Vùng ấy hằng ngày yên ngủ để chờ đợi những hồi kèn rời rạc báo giờ từ vòm đồn tỏa xuống, cả những hôm phiên chợ tắp nập, nó cũng yên lặng buồn tẻ với những người Mường it cười ít nói: Họ lững thững gánh gạo, gánh măng, gánh lợn, gà, vịt, ngỗng ra chợ bán, rồi lại lững thững trở về làng vời một ít muối và các thức đồ dùng của người Kinh đem từ vùng xuôi lên. Họ như chán nản, chả buồn mặc cả nài giá bao giờ.
Cái trạng thái u huyền giữa một cành thiên nhiên hùng vĩ, khiến Khanh, một tù nhân chính trị, tưởng tượng ra một thần bí gì rùng rợn ngày đêm bay lượn trên không để đe dọa vùng này. Một hôm vác ống bương ra suối lấy nước, y ngỏ ý nghĩ đùa bỡn ấy với người lính kèn. Thì kinh ngạc xiết bao, người kia hãi hùng se sẽ đáp lại:
- Phải, một lời nguyền.
Người lính cũng chỉ thốt ra một câu vắn tắt. Rồi như khiếp sợ một cái gì có thể sắp xảy tới, y im bặt.
Đêm hôm ấy trong khi nằm lịm trên giường lát nứa, nghe bài kèn tám giờ, Khanh lại liên tưởng đến người linh kèn và câu chuyện đương tò mò khao khát muốn biết : Một lời nguyền ! Bài kèn buồn rời rợi với những âm thanh trầm trầm như những lời ai oán của lòng người sau bao phen uất ức! Hay đó là lời nguyền đêm đêm lên tiếng làm vang động làn không khí âm u nơi đồi núi?
Tà tà ta ta tí a ta ta...
Lời nguyền của những kẻ bỏ xác nơi ma thìêng nước độc chốn sơn lâm? Mới tuần lễ trước Khanh đi đưa một người bạn giam đến nơi yên nghỉ cuối cùng: bên sườn đồi dưới bóng một cây lao xao cành lá rườm rà luôn luôn thì thào lời oán trách trong gió thoảng qua. Trong đám dân Kinh bên phố, cũng như trong hàng ngũ binh lính bên đồn và anh em chính trị trong trại giam, thỉnh thoảng lại một người từ giã cõi nhân gian, sau những cơn sốt nóng sốt rét mê sảng. Phải chăng họ đáp lại tiếng gọi thìêng liêng, của một lời nguyền độc địa tự đời nào vang lại?
Hồi kèn đã dứt. Từ đó, trong tiếng thanh sắt trên đồn, tiếng mõ tre ở các điểm canh, Khanh đều cảm thấy có liên can tới cái lời nguyền ghê gớm nào đó của người xưa. Qua kẽ rào nứa, một vài chấm lửa bên sông còn le lói, lập lòe. Đó là những dấu hiệu mong manh của sự sống trong một vùng như chết lịm dưới màn sương. Khanh ngủ thìếp đi lúc nào không biết. Và y mê thấy còn thành đanh đỏ mỏ từ trên trời cao bay sả xuống mổ vào ngôi mộ người bạn đồng trại, chơ vơ bên sườn đồi dưới bóng cây lao xao ủ rũ.
Nhưng câu chuyện "Lời nguyền" một hôm Khanh đã được người linh kèn thuật lại cho nghe trong cái lều canh lúa của người Mường.
Sáng hôm ấy, ra tới suối, Khanh thấy hiện ra một cảnh tượng rất nên thơ: Bên kia dịp cầu tre, trong một khu ruộng khô đất nhỏ, sáu cô Mường, áo cánh trắng xiêm dài xanh đương chậm rải gieo ngô. Từng đôi, người đi trước cầm cây hóp uẻ oải chọc xuống đất một lỗ, người theo sau uể oải bỏ rơi vào đó một hạt ngô. Họ đi thong thả, làm việc rời rạc như biểu diễn trên sân khấu cho khán giả ngắm nghía cái điệu bộ nhịp nhàng của họ. Ngồi trên lều cao, hai chân quấn "xà cạp" đá đưa đánh dịp, Chín-bảy - tên gọi tắt con số 1297 của người lính kèn - đương phùng má thổi bài "la mát".. Xúm chung quanh y, trên các bực thang bốn cô Mường lắng tai kính cẩn ngồi nghe.
Thấy Khanh đến gần, Chín-bảy vội rời cái kèn, bước xuống đón tiếp, vẻ mặt rạng rỡ, dáng bộ dương dương đắc chí như một con gà sống giữa đám gà mái tơ vậy. Trong khi hai người nói chuyện, các cô Mường chỉ mỉm cười yên lặng đứng nhìn. Hỏi câu gì các cô cũng làm thình không đáp. Chín-bảy bảo Khanh:
- Các nàng chỉ biết có hai việc: cười và hút thuốc lào. Rồi anh xem!
Quả nhiên lúc y đi lấy một cái điếu cầy lớn đem ra bỏ thuốc đánh diêm hút, tức thì cả mười cô đều bỏ việc cười rú lên, chạy ùa lại. Họ xếp thành một vòng tròn, lần lượt truyền cho nhau cái điếu cầy miệng rộng che kín nửa mặt mà rít từng hơi dài. Hết mồi thuốc ấy thay mồi thuốc khác, cái điếu đi vòng tới vài chục lần và bao diêm đánh đã gần cạn. Và cô nào cô ấy ngây ngất mỉm cười đầu lảo đảo.
Khi các cô nàng lại quay về với công việc gieo ngô của họ, Khanh theo Chín-bảy lên lều ngồi nói chuyện, và vui vẻ hỏi đến việc gia thất của người bạn quân nhân.
- Tôi đã có vợ ở vùng xuôi, y đáp, nhưng thế nào rồi tôi cũng phải lấy một người vợ nữa ở trên này.
Và y thêm: "Cũng như phần đông anh em "nhà binh" ở đây. Đó là một việc bất đắc dĩ".
- Việc bất dắc dĩ? Khanh hỏi, nghĩa là không được phép đưa vợ con ở vùng xuôi lên đây?
- Không phải không được phép, nhưng vì đã có lời nguyền.
Khanh bỗng thấy rùng rợn. Người lính kèn lại nhắc tới "lời nguyền" ghê gớm. Chưa kịp hỏi thêm, thì Chín- bảy đã đưa mắt âu yếm nhìn theo các cô nàng áo trắng xiêm xanh hoạt động dưới trời thu mà kể cho bạn nghe câu chuyện tương truyền trong hàng đội ngũ.
Ngày xưa, thời còn chưa chịu phục tòng người Pháp, dân Hòa bình chỉ vâng theo mệnh lệnh của các quan lang; người Kinh cũng ít khi lên vùng này buôn bán. Đi bắt buộc dân Mường phải theo pháp luật của mình và đóng các thứ thuế như dân Trung châu, một mặt người Pháp đưa những ông quan lang có thanh thế nhất trong các họ lớn, như họ Đinh, họ Quách ra làm chánh quan lang hay tuần phủ đứng cai quản tỉnh Hòa bình, một mặt họ lập nên những đòn binh kiên cố ở khắp các yếu điểm trong địa. hạt với những toán lính khố xanh Trung Châu không biết tiếng Mường, không thuộc phong tục Mường. Mục đích của họ là để đàn áp dân Mường và để tránh sự thân thìện giữa nhà binh và dân bản xứ.
Đồn Vụ- bản là một trong những đồn binh kiến thìết theo chương trình thống trị. Nó án ngữ con đường Nho Quan- Ninh Bình. Và đóng giữa giang san họ Quách, nó lại có thể kiểm soát những hành động của những ông quan lang có oai quyền ấy.
Với những nhiệm vụ to tát như thế, viên quản mà người Pháp tín nhiệm cho về coi đồn, ta có thề tưởng tượng hách dịch đến bực nào.
Có một ông, ông quản Tăng, không những hách dịch, mà còn bệ vệ và ăn ở hành động theo lối Âu Tây y như một quan binh Pháp vậy. Y nằm giường Hồng kông, ăn cơm tây. Lúc nào sang phố y cũng đóng trào phục mới với hàng huy chương rực rỡ trên ngực. Tay y cầm roi da, quay tít, miệng y huýt sáo một điệu âm nhạc nhà binh. Một con chó tây kếch sù đi bên cạnh y ; gặp nhà nào quen thuộc của chủ nó là nó chạy sồng sộc vào khiến lũ trẻ hết cả hồn vào bảo nhau:
- Quan quản!"
Quan quản! Tiếng ấy oai vệ như tiếng quan Sứ ở tỉnh vậy. Quan quản là chúa tể vùng này. Quan châu, một quan lang, đối với y, chỉ như một công chức bản xử đối với quý quan. Bao nhiêu công việc trọng đại đều ở trong tay quan quản: như thu thuế thợ, thuế đò, thuế thân, thuế điền. Quan châu chỉ là một người giúp việc.
Nhưng tiếng "quan quản" hình như cũng chưa vừa lòng y. Một hôm, người ta không hiểu vì đâu, tiếng ấy bỗng đổi ra "quan đồn" rồi cứ theo cái đà ấy, chẳng bao lâu nó lại biến chuyển thành "Cụ lớn".
Cụ lớn hét ra lửa! Bao nhiêu là môn hạ! Suốt ngày thì thọt trong đồn những kẻ nấp bóng Cụ lớn. Thôi thì chẳng thìếu gì lễ lạc, tết nhất, mùa nào thc ấy. Dùng không hết, "Cụ lớn" phân phát cho binh lính.
Về nhậm chức mới được hai tháng, quan quản đã lấy một cô nàng hầu người Kinh con một thương gia có tiếng bên phố chợ. Rồi cách đó nửa năm quan lại kén luôn một lúc hai cô nàng hầu người Mường nữa.
Cái việc lấy nhiều vợ ấy cũng không tốn kém gì cho quan vì bọn họ đều là con nhà khá giả. Có một điều khiến họ lo lắng sợ hãi, mỗi khi tưởng tới: "Là chẳng chóng thì chầy thế nào bà lớn quản cũng lên đây thăm chồng. Lúc bấy giờ nếu cái tin vợ nọ con kia đến tai bà, thì liệu bà có để cho yên không. Mà cứ theo lời huyên truyền và lời nói úp mở của quan quản thì bà là con nhà thế gia đại tộc. Ông thân sinh ra bà làm Tổng đốc và đã hồi hưu. Người ta khen: "Thực là môn đăng hộ đối!" Vì quan quản nghe đâu cũng là con một vị đường quan. Y thường kể chuyện thời niên thìếu của y cho mọi người nghe. Nhà y giàu sang và y rất được chiều chuộng. Mới mười hai tuổi y đã cưỡi ngựa, bắn súng, và chỉ thích có một nghề binh. Vi thế lớn lên y đã bỏ học để nhập ngũ "làm quan quản" chơi. Bao giờ đến đoạn này y cũng thêm: "Làm quan văn thì biết bao giờ lên đến ngũ phẩm, thế mà làm quan võ tôi mới ngoài ba mươi tuổi đã chánh tam rồi!".
Có lần y tưởng tượng ra cả một thìên tiểu thuyết để tả cái gia thế nhà y, bịa đặt ra những nhân vặt đẹp đẽ và các phương diện ăn chơi hào phóng hay đạo mạo nho phong. Người được y tả tĩ mỉ chu đáo nhất là Cụ cố và Bà lớn. Cụ cố là một hưu quan chỉ thích đánh tổ tôm và uống chè tàu. Cụ ở một cái nhà lầu kiến trúc kiểu Tây. Trước mặt là cái vườn hoa trồng đủ các thứ hoa quý và lạ. Trên giàn thì treo đủ các thứ phong lan đi kiếm từ các miền Thượng du đem về. Còn Bà lớn thì tính rất tốt rất rộng lượng, để mặc quan lớn muốn yêu ai thì yêu. Một mình bà lớn trông coi mấy trăm mẫu ruộng thượng đẳng điền, người ăn người làm tấp nập quanh năm, nên không rảnh rang mà lên thăm quan được. Nào đã hết đâu, quan lại còn có một người em trai đã đậu tú tài tây và đương theo học trường Luật và một người em gái nhan sắc tuyệt trần hiện còn đương kén chồng. Tóm lại nhà quan lớn là một nhà danh giá và sung sướng vào bực nhất ở Bắc Hà.
Một buổi sáng người ta thấy đến phố chợ Trào một ông già râu tóc hoa râm và một người đàn bà vào chạc ngoài ba mươi tuổi. Cả hai đều y phục quê mùa, ông lão mặc cái áo cánh đũi nhuộm vỏ xó và một cái quần nâu sắn cao đến đầu gối. Người đàn bà mặc áo tứ thân mầu nâu bã với miếng đổi vai bằng lụa thâm, một cái váy chồi nhuộm bùn và một cái yếm trắng cổ xẻ với hai giải màu hoa hiên đã cũ.
Họ hỏi đường sang đồn, xuống phà qua sông, khó khăn nặng nhọc leo cái dốc cao, gò ghề. Được một quãng ông già lại đặt cái tay nải nâu xuống ngồi hổn hển và thì thầm nói chuyện với người kia. Đứng trên vòm canh, người lính gác nhìn theo họ và nghĩ thầm: "Lại một ông già và một mẹ đi lên thăm con thăm chồng."
Đương gò lưng leo nốt đoạn cuối cùng của cái dốc dài tưởng không bao giờ đến đỉnh, thì hai người bỗng dựt mình vì mội tiếng hô lớn từ trên vòm chòi ném xuống. Họ ngửng đẫu sợ hãi nhìn lên.
- Hai người nhà quê hỏi ai?
Không phải vì hai người kia ăn mặc quê mùa mà người lính gọi họ là "nhà quê." Đối với quân đội, vì thói quen bắt chước người Pháp, chỉ có ba hạng người Việt Nam: nhà binh, nhà pha, và nhà quê. Những người không phải nhà binh và nhà pha đều là nhà quê. Vì thế, một thìếu nữ y phục tân thời, nếu nghe một chủ lính canh kêu là "nhà quê" thì đừng nên lấy làm lạ và phật lòng.
- Thưa thầy, chúng tôi vào thăm ông quản.
Người lính hỏi lại để chữa câu nói hỗn của bọn nhà quê:
- Vào hầu quan có việc gì?
- Bẩm chúng tôi là người nhà.
Chú lính canh cho người vào trình quan. Một lát sau người này ra cổng hách dịch quát:
- Người nhà thế nào mới được chứ?
- Bẩm bẩm tôi là... tôi là.., Người đàn bà thấy ông lão ấp úng lúng túng liền đỡ lời:
- Thầy vào trình hộ rằng có ông cụ và người đàn bà ở nhà quê ra thăm.
Người lính gắt:
- Ông cụ! Nhưng ông cụ có họ hàng thế nào với quan?
- Thưa ông cụ... sinh ra quan, còn tôi là vợ... quan,
Người lính hơi có vẻ sợ hãi vội vàng quay vào đồn, thì vừa gặp ông quản đứng trong sân ngó nhìn ra hỏi ;
- Hai bố con lão nhà quê đến xin gì thế chú?
- Bẩm, bẩm quan...
Người lính không dám nói dứt câu.
- Đuổi cổ chúng nó ra!
Câu quát tháo to quá khiến ông già và người đàn bà cũng nghe thấy. Và nhân lúc cổng đồn mở, họ xông vào trong sân. Thấy thế viên quản liền thét:
- Bọn nhà quê kia đi dâu? Có biết nơi này là gì không mà dám xông xáo hử? Mất đầu như chơi, biết chưa? Tổng cổ chúng nó ra!
- Tăng! Anh Tăng!
Ông già và người đàn bà chỉ kêu được một tiếng thì đã bị hai người lính ấy bừa ra khỏi cổng đóng sập cánh cửa lại.
°
Ông lão già và người đàn bà lại lủi thủi xuống dốc. Họ cùng uất ức đến cực điểm nên không ai nói với ai một câu, cả hai cùng chôn sâu nỗi căm hận trong lòng.
Ở chân đồi, ngay bên sông, có một ngôi đền thờ Mẫu. Người đàn bà mua vàng hương vào lễ, quỳ khấn rất lâu, thì thầm kể lể hết nỗi niềm tâm sự với Mẫu. Khi ra đường, nàng thấy bố chồng vẫn ngồi y nguyên một chỗ, mắt đỏ ngầu đăm đăm nhìn giòng sông chảy mạnh, quay nhanh cái guồng nước sừng sững in lên nền trời trong.
- Thôi đi về, thày!
Ông già thong thả đứng dậy. Nhưng ông đi rẽ xuống ruộng chứ không qua phà. Ông bảo con dâu:
- Tao không muốn gặp người lái phà, vì tao đã trót bảo cho nó biết rằng tao là bố thằng Tăng.
Người đàn bà cũng lẳng lặng đi tbeo ông. Hai cha con, men bờ ruộng sang một khu rừng lao xao, qua một cái cầu tre bắc trên suối, rồi đến ngồi nghĩ ở một bãi cát sỏi bên sông. Sau trận mưa to đêm hôm trước nước nguồn kéo về chảy ào ào như thác. Những thân cây từ rừng đổ về nổi lềnh bềnh, và bị giòng nước phăng phăng cuốn đi.
- Dẫu sao thì cũng ăn nắm cơm cho đỡ đói đã thầy ạ...
- Mày cứ ăn trước đi. Tao không đói.
Ông già đứng lên, ra sát bờ sông đứng vịn vào mộr thân cây lao xao. Bỗng ông nghiêm nét mặt dữ tợn nhìn giòng sông, thốt lời nguyền độc:
"Từ nay đứa nào còn lên đây thăm chồng thăm con thì chết như thế này".
Dứt lời ông gieo mình xuống sông tự tử. Và thân ông cùng với các thân cây, bị nước nguồn vô tình cuốn đi...
°
Từ đó lời nguyền vẫn thìêng. Những người cha, người vợ lên đây thăm con, thăm chồng, khi trở về đều ốm nặng rồi chết.
Và những binh lính trên đồn, những dân Kinh bên phố đều sống dưới sự đe dọa và sự thực hiện của lời nguyền.
BÓNG GIAI NHÂN
Dĩ úy phù hiền nhi nhục ư thử
LIỄU TÔN NGUYÊN
Chiếc xe ô tô thùng lớn nuốt đường giải bọn tù chính trị phạm lên trại giam Vụ Bản. Đó là một cái hòm sơn màu đen, ba mặt kín mít, chỉ hở một cửa ở phía sau. Qua lỗ hổng ấy bụi cát ùa vào trong xe, quét một lượt trắng lên tóc, lên mặt, lên kính, lên quần áo, chân tay ba mươi tội nhân và bốn người lính khố xanh áp giải chen chúc chồng chất lên nhau. Trên bực bước lên xe, đứng hai người lính nữa, mà Khanh một tù nhân, ví với hai pho tượng đá canh cổng một nơi đền thiêng, trong một ngày gió lớn.
Khanh có cảm tưởng ấy vì phía sau xe, cát bụi tung lên xoáy cuồn cuộn chạy theo như trong một cơn gió lốc. Đường từ ga Đồng Giao đi phủ Nho Quan ngoắt ngoéo lượn quanh các đồi, nhưngkhông vì thế mà xe chậm đà. Từ lúc bắt đầu mở máy cho tới lúc dừng lại, trong khoảng ba bốn giờ đồng hồ, tốc lực của nó không thay đổi, và ở những chỗ ngoặt, người ngồi ngổn ngang trong xe lại xô đập vào nhau.
Khanh để ý tò mò quan sát sự biến hình đổi dạng của an hem đồng chí mà y không nhận được ra ai nữa, mà y thấy già thêm lên hàng chục tuổi, với mái tóc và bộ ria bạc phơ. Và y ghé tai bảo người ngồi bên cạnh: "Chúng ta đều là Ngũ Tử Tư, qua một đêm tư lự".
Về sau Khanh cũng quen mắt đi, và y ngồi yên không nhìn xét nữa. Cái cảnh ra đi buổi sáng vụt diễn lại trong ký ức: Sáng nay y vui vẻ sửa soạn hành lý để cùng an hem lên đường. Luôn ba tháng nay sống chật chội tù hãm trong bốn bức tường sàn lim, trong một nơi không khí nặng nề hôi hám lúc nhúc những người, y chỉ ao ước được mau chóng thoát ly cái địa ngục ấy, dù phải giải đi đâu cũng cam, đi Côn đảo hay Tân thế giới cũng không phàn nàn. Thì nay y đã được như ý nguyện. Y còn nhớ cái lúc bị xích tay hai người vào một đứng xếp hàng ở cổng trại giam Liêm phóng. Y tưởng tượng ra một khoảng trời trong sáng, một khu đồi lành sạch đương chờ đợi đón tiếp y ở một nơi xa xôi nào đó. Y không tin những lời dọa dẫm về nước độc ma thiêng. Được rời nơi tối tăm, tanh tưởi đầy những tiếng oan khốc của người chịu cực hình này, thì đâu đâu cũng sẽ là thiên đường, đâu đâu cũng sẽ là đất khoáng đạt của lòng người. Và y thấy trong lòng y reo lên những âm hưởng của tự do, tuy tay y đang bị xích khóa. Y càng ngây ngất trong hy vọng của đời sống ngày mai, khi nhớ có lời can thiệp của một viên thanh tra mật thám Tây lai xưa nay vẫn có chút cảm tình với bọn y, khóa xích được tháo bỏ hết.
Rồi kế đến cảnh đi bộ từ sở Liêm phóng tới nhà ga giữa hai hàng lính khố xanh và lính mật thám, dưới ánh đèn điện mờ nhạt trong cái chụp đèn thời chiến tranh. Lời kêu khóc của những gia nhân đi tiễn. Y thấy buồn cười hơn là thảm thiết. Và y nghĩ: "Khóc cái nỗi gì? Không mừng cho người ta được thoát khỏi địa ngục thì chớ, lại còn khóc lóc!"
Ra đến sân ga, thì cảnh tiễn đưa thành một cảnh khôi hài với cái vẻ mặt tươi tắn của người đi và dáng bộ tang tóc của người ở. Cảnh khôi hài ấy trở nên hoàn toàn khi thấy mấy bà vợ và bà mẹ mon men lại gần chồng gần con, người cai lính khố xanh quát tháo mắng ầm lên. Khanh chỉ mỉm cười vui thú, vì được nhận thêm bao kinh nghiệm trong cái đời văn chương, lúc nào cũng tò mò quan sát tâm lý loài người.
Bây giờ nhớ lại tấn bi hài kịch ấy, Khanh còn thấy tức cười... Bổng y nghiêm nét mặt lại buồn rầu. Một bóng giai nhân vừa lóe ra trong thâm tâm y: một bạn gái bị giam ở sàn lim bên cạnh sàn lim y trong một thời gian vừa đúng hăm bốn tiếng đồng hồ. "Sàn lim 18", đó là tên giai nhân, mà cả trại giam đều ghi nhớ, nhắc nhỏm sau khi nàng bị giải đi dâu không ai biết. Sáng hôm ấy giữa giờ anh em ở các sàn lim và nhà câu lưu được thả ra sân thì cổng trại giam bổng nặng nề mở để dẫn vào một giây người vừa bị bắt về. Trong đó có một thiếu nữ ăn mặc quê mùa, cũ kỹ và rách rưới. Ai nấy chạy lại gần xem tuy bị lính mật thám xua đuổi. Trong khi mọi người đàn ông còn bị giữ ở ngoài sân thì người ta đưa thiếu nữ vào hiên dẫy sàn lim và ở đấy người canh ngục chào nàng bằng một dịp cười và một câu nói mỉa mai: "Thế nào, cô lại trở về đây ư?"
Lại trở về đây? Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Hỏi "cụ Quỳnh", tên người "gác" thì người ấy vẫn cười và đáp: "Lần này là lần thứ ba cô ta đến đây. Lần thứ nhất cô ta là một nữ học sinh mặc tân thời, lần thứ hai cô ta giả trai. Lần này, thì đó, anh em coi, có nhà quê đặc không? Lại răng nhuộm mầu cánh kiến cẩn thận nữa cơ đấy! Thôi lần này thì phát vãng, phát vãng cô ạ." Một người thì thầm hỏi:
"Vậy cô ta phạm tội gì thế?"
"Lại còn tội gì nữa "người "gác" tiếp với một gịọng nói khinh bạc, tội làm Cách mệnh chứ còn tội gì nữa". Thế là bắt đầu ngay từ phút ấy, thiếu nữ chiếm lấy hết cả lòng sùng kính của toàn thể trại giam.
"Sàn lim mười tám" là một người bé nhỏ, xinh xắn. Đôi mắt sáng với cặp môi tươi trong khuôn mặt trái soan, nước da nhỏ mịn tuy rám nắng vì công việc đồng áng mà thiếu nữ tạm theo trong khi đi trốn tránh. Một luồng gió lạ như vừa thổi tới nơi giam cầm u tối. Anh em chạy đi chạy lại nhộn nhịp xới tấp qua cái lỗ cửa con con của gian sàn lim só 18 để ngó mắt nhòm vào trong và để hỏi thăm tin tức, nhưng thiếu nữ chỉ giữ một vẻ mặt tươi cười và một thái độ lặng thinh. Thấy thế người gác phải can thiệp nhiều lần: "Anh em lảng xa ra, không Tây nó xuống thì bị cùm cả lũ bây giờ, mà tôi cũng sẽ bi khiển trách mất".
Khanh ra chỗ ghế ngựa riêng của Quỳnh và tò mò hỏi chuyện thì biết rằng lần bị bắt trước, thiếu nữ đã dùng mưu để ra khỏi nơi này: nhân một người thanh tra mật thám vào trại giam, lúc y trở về bàn giấy, thiếu nữ đã lẳng lặng đi theo. Người canh càng tưởng viên mật thám lấy nàng ra hỏi cung, nên không giữ lại. Thế là nàng đã trốn thoát. Câu chuyện ấy lan truyền khắp mọi nơi trong giây phút càng làm tăng giá trị "sàn lim số 18" lên bội phần. Và chiều hôm ấy cảm tấm lòng săn sóc của anh em Cách mệnh, nàng đã chịu nhận quà bánh đem đến tặng nàng và đã ôn tồn đáp lại những câu hỏi của mọi người.
Trong số anh em luôn luôn đến thăm nàng, Khanh là người chăm chỉ nhất, và tưởng được nàng lưu ý đến nhất. Cái tuổi dưới ba mươi ấy bao giờ cũng sẵn lòng tin tưởng, và hy vọng mênh mông.
Nhưng bổng giai nhân chỉ thoáng qua nơi giam cầm như chút ánh nắng tươi hé ra giửa khoảng trời mây đen đặc, Sáng sớm hôm sau người ta đã xích tay giải nàng không biết đi đâu, giữa nỗi ngây ngất bâng khuâng của bọn thiếu niên cách mệnh.
Khanh thốt ra một tiếng thở dài, và đau đớn và lãng mạn nghỉ thầm: " Ước gì ta được gặp mặt nàng một lần nữa rồi có bị đày chung thân cũng cam lòng!"
Y bỗng tỉnh choàng giấc mộng! Xe vừa dừng lại, và ai nấy sửa soạn để xuổng.
- Đến nơi rồi ư, các anh?
- Ngủ đấy à? Một người hỏi lại.
Khanh mỉm cười:
- Ngủ thì không ngủ, nhưng mà chiêm bao, chiêm bao thức.
Ra khỏi cái hòm kín, y thấy mình đứng trong một nơi phố nhỏ, bên cạnh một giòng sông con.
- Chợ Trào đây phải không, người ta hỏi nhau?
Nhưng viên đồn già, chủ trại giam, đương rảo bước trên con đường giốc, ở bên kia sông. Chạy quanh lão là một con chó, lông dài và đen. Tay lão cầm cái hèo lớn chỉ trỏ sang bên này và ra lệnh cho người lính đi theo sau. Chỉ cái hình thủ lão hiện ra đủ làm mất hết vui trong bọn anh em và ai nấy lẳng lặng đứng chờ, như chờ một sự bất trắc gì sắp xảy tới, nhất ai nấy khi ở trại Liêm phóng lại đã được nghe huyên truyền cái tiếng hung tợn cua lão ta.
Thời giờ lại êm đềm chảy trong khu trại giam Vụ bản. Một nhịp sống đều đều khác- đã đến kế tiếp nhịp sống đều đều trước. Những giờ dài đằng đẳng đi bách bộ trong sân trại giam Liêm phóng đã đổi ra những giờ mệt nhọc, làm việc trên đồi cỏ, trong rừng rậm, bên giòng nước, dưới sương lạnh hay dưới nắng hè.
Nhưng chiều chiều, sau bữa cơm gạo đỏ, Khanh lại ngồi im lìm trên thành bể nhìn dẫy núi Hoành sơn mà tưởng nhớ mà mơ mộng tới người gập gỡ trong hăm bốn giờ, giữa một hoàn cảnh đau thương. Và y có cảm tưởng rằng y sẽ mãn kiếp sống ở nơi núi đồi trùng điệp bao bọc một làn không khí âm u này với hình ảnh bất diệt của giai nhân không bao giờ trở lại.
Nhưng một buổi chiều trong lúc y gửi lòng yêu đi phương xa lạ, thì cửa trại giam bổng mở ra, và người ta thấy bước vào một thiếu nữ chừng mười bảy tuổi với một gánh hàng nặng trỉu trên vai. Anh em hấp tấp chạy ùa cả ra sân để nhận hàng vì đó là cô hàng tạp hóa bên phố mà lần đầu tiên lão chủ đồn chuẩn lời xin của anh "trật tự " cho phép đem hàng đặt vào thẳng trong trại để anh em khỏi phải thân sang tận bên kia sông mang về.
Khanh lại gần đăm đăm ngắm nghía cô hàng, và thấy nàng mơn mởn trong tuổi xuân đương dậy thì. Thiếu nữ chợt ngẩng lên và gặp cái nhìn ao ước của thanh niên, nàng cúi đầu bẽn lẽn, giả vờ điểm lại hàng hóa trong quang thúng.
Từ đó trong những buổi chiều tà. Khanh ngồi rao mộng, bóng giai nhân xưa lại hiện ra bên một bóng giai nhân mới. Và mỗi tuần lễ một lần, cô hàng tạp hóa bên kia sông lại đem tới cho y một nụ cười kín đáo lặng lẽ và một chút ánh tươi rọi nơi giam cầm ủ rũ.
Rồi đây, những lúc cách mệnh tha thiết gắt gao lên tiếng gọi, y sẽ cảm thấy lòng tự tin, lên đường xông pha trong gian khổ với bóng giai nhân huyền ảo gặp gở giữa cảnh lao tù.
HỔ!
Co ro trong chiếc áo tơi dài, mũ nhọn trùm đầu. Bảy hai đứng canh trên chòi cao, nép mình sau cái cột bương để cố tránh luồng gió bấc thổi đến từng cơn. Y vừa ở trong chăn ra thay phiên gác một giờ. Mắt y ngủ còn giở giấc chỉ muốn nhíu lại. Đêm hôm trước, y đã thức suốt sáng đánh bạc ở bên phố Trào. Cả ngày hôm nay, ông đội Giới lại cắt y vào việc cưa củi ở trong đồn, nên y chỉ chợp được có nửa tiếng đồng hồ vào khoảng giữa trưa, " Giá nó để mình coi tù đi làm cỏ như mọi hôm thì làm gì minh không đánh được hai giấc ngon lành!" Y nghĩ đến cái ổ kín đáo, khuất gió, ấm áp, ở giữa khóm xim dại mà y lại oán lão đội. "Hừ! thằng cha nó thù mình vì cái tiếng bạc ngửa từ tối hôm nọ!" và Bảy-hai vui thú cười lên tiếng. Y như còn trông thấy cái cảnh tượng mở bát chạy làng hôm ấy của đội Giới, mà y đã làm mất thể diện trước mặt dân phố. "Hèn chi mà nó chẳng để tâm thù vặt!"
Đã hai lần Bảy-hai đánh mõ tre đáp lại tiếng khánh sắt cầm canh bên đồn. Y chỉ muốn nằm xuống mộc lát cho đỡ mỏi mệt, nhưng y lại sợ ngủ thìếp đi mắt. Y tự nhủ: "Đêm hôm nay mà mình bỏ một tiếng mõ thì cứ là chết với nó. Thế nào nó chả thức ngồi chờ kết quả! Không, nhất định không chịu để nó phạt!" Y can đảm lấy gân, cứng bắp thịt lại, thò đầu ra hẳn ngoài bức phên nứa vây che bốn mặt chòi và chỉ cao tới ngực người lính gác. Luồng gió lạnh làm cho y đỡ buồn ngủ. Nhưng chỉ được dăm phút, rồi mắt y lại nhắm nghiền, và y như nghe thấy tiếng ngáy của mình. Cái thói ngủ đứng đã quen thuộc với y lắm; nhiều khi đưa tù xuống đồi làm việc, y cũng vừa đi vừa chập chờn được.
Chợt nhớ đến cái mưu vẫn thì thố, y hướng vào trại cất tiếng gọi:
- "Tài! Tài!" Mọi lần khi biết chắc không sao tránh được cái giấc ngủ có tội, y đã nhờ Tài giúp việc này ; là hể không nghe thấy tiếng mõ của y đáp lại tiếng khánh thứ hai thì nhặt một viên gạch mà ném lên chòi để đánh thức y dậy. Như thế, y có thể bình tĩnh mà ngủ được để cứ mười lăm phút lại thức giấc đánh mõ. Nhưng lần này y gọi mãi mà vẫn không thấy có tiếng Tài trả lời.
- "Rét thế này, anh chàng nằm ngủ chăn trùm kín đầu thì còn biết giời đất gì nữa!" Gọi một tên khác, lại một tên khác, vẫn không ai thưa.
"Liều! Y nghĩ thầm, có bị phạt nữa thì đã chết đâu. Hãy làm một giấc cho thỏa vong linh đã !" Và y định ngả lưng xuống cái ổ rơm mà y đã ngầm giải từ lâu. Nhưng lòng tự ái của y phản kháng lại liền: "Không! không thể thế được. Bị phạt vẫn biết chẵng sao, nhưng bị lão đội Giới phạt để trả thù thì nhục lắm. Đã có được nửa giờ rồi làm gì không có nốt được một giờ rưỡi nữa!" Y quả quyết trong ý chí, và lại đưa cả nửa người ra phía ngoài để tắm thể chất và tinh thần trong sương đêm giá buốt.
Bổng y rùng rợn quay lại, một tia sáng lạnh vừa chiếu xiên qua vai. Đó là trăng hạ tuần mời mọc, lơ lửng trên nóc đồi bình phong, và nhợt nhạt, ủ rũ, mệt mỏi như tâm hồn mệt mỏi của y. Dưới làn ánh sáng lờ mờ, con sông Vành lấp lánh hiện ra từng khúc, và những lùm cây trên sườn đồi in rõ hình đen. Y lưu ý ngắm cảnh vật để cố quên cái giấc ngủ vẫn luôn luôn ám ảnh.
Một lần chợp đi trong vài phút, y giật mình choàng thức dậy. Tâm linh y như vừa báo cho trực giác y biết sắp xảy ra một sự gì kinh dị huyền bí. Và y chú ý nhìn xuống chân đồi. "Ta mê ngủ à?" Y nghĩ thầm đưa tay lên dụi mắt, và nhìn kỹ lại. Không, y không mê ngủ, quả thực một lùm cây đương từ phía ruộng thắp theo giốc đồi thong thả tiến đến phía y. Y nghĩ tiếp liên: "Không, không phải cây. Một con vật... con bò...Cũng không phải bò... Hay là ma?" Cái ý ma làm y mềm cả chân tay, và ngừng cả tư tưởng. Vùng này đã nổi tiếng là xứ ma thiêng nước độc và những chuyện ma hiện hồn trêu lính canh đêm không phải là ít.
Cái vật đen vẫn thong thả, êm lặng tiến.Thỉnh thoảng một tiếng răng rắc cành khô gẫy lại báo cho Bảy-hai biết rằng đó không phải là một cái bóng mà đó là một vật có hình có chất.
Đến lưng chừng đồi, nó dừng lại một phút rồi rẽ sang phía Nam, khuất sau hàng giậu nứa. Tự nhiên Bảy-hai thấy vững dạ và như thoát khỏi một tai nạn, tuy vẫn chưa biết rõ đó là con vật gì hay là ma quỷ. Bỗng một lát sau, tiếng lao xao se sẽ trên con đường cát sỏi vòng quanh trại giam khiến y cứ nhìn xuống. Y toan kêu thét lên. Nhưng tiếng kêu mắc lại ở cổ họng và miệng y há hốc, mắt y mở to, chân tay y không nhúc nhích: Chỉ cách chòi y chừng vài chục thước, một con hổ to lớn, lực lưỡng đương ung dung nhẹ nhàng đặt từng bước và tiến về phía y. Mặt nó cúi xuống nhìn đất và luôn luôn nó hướng vào trại hít mạnh đánh hơi. Có lúc nó tò mò ghé gần mắt vào hàng giây thép gai chắng ở hai bên lối đi và dừng lại vài giây như để mưu tính một kế hoạch gì.
Bảy-hii im thin thít và không cử động. Hồn vía y như đã tán loạn hay trốn biệt nơi nào và y chỉ còn như cái xác với những trực giác quan thụ động. Nhưng dần dần y hoàn hồn và cảm thấy lo lắng sợ hãi. Y nghe rõ tiếng thở mạnh của y, mà y cố kìm lại, nhìn hắn. Và vì thế y thấy đêm khuya, càng mênh mông, tiếng gió khô khan càng rít mạnh, và âm nhạc hàng sáo nứa càng thê thảm, rùng rợn.
Con mãnh thú vẫn chậm rải bước lại gần, dáng bộ suy nghĩ, nghe ngóng, tìm tòi. Khi tới chân thang chòi, nó dừng lại một lát rồi uể oải nằm xuống, mũi không rời phía trại giam, Bảy-hai đã bắt đầu luận lý có trật tự. Y hết sức giữ gìn, không cựa cạy, yên trí rằng chỉ một tiếng cạch, cũng đủ vang lên trong đêm vắng và làm cho con hổ giật
mình vùng dậy, chồm lên đạp đổ mấy cái cột bương chân chòi cao ngất nghểu. Vì quá lưu ý, y tưởng tượng cái chòi lảo đảo, lắc lư, mỗi khi có luồng gió mạnh.
Nhưng một lát sau, y thấy mắt quen đi, tim trấn tĩnh lại và trí sáng suốt hơn. Và y nhớ đến cây súng cầm trong tay, nghỉ đến bắn vào đầu con vật một phát. Y dương súng ngắm, ngón tay đặt vào cò, run run, do dự không dám bấm tuy đã chợt nhận ra rằng chưa kéo "qui-lát" để đẩy đạn lên nòng. Rồi y lại rón rén chống súng xuống, mắt gián vào cái khối đen ở ngay dưới chân và cách y không đầy mười thước. Câu chuyện huyền bí về hổ mà một người lính Thổ đã kể cho y nghe như vụt hiện ra và lần lần tự bày ra trước mắt y. Y tưởng trông thấy người đi săn tự buộc thân vào cành cây cao, chĩa súng bắn xuống con vật thần, rồi nước ở đâu té vọt lên như mưa làm cho kẻ xúc phạm mờ cả mắt không nhìn thấy gì nữa trong khi ấy thì con hổ nói thành tiếng người mà mắng nhiếc ầm ỹ: "Mày định giết ông mày, mày định giết cha mày à?" Câu chuyện đã làm cho Bảy-hai và anh em trong hàng đội cười lăn cười lóc. Nhưng lần này ôn lại, y không dám cười nữa dù chỉ mỉm cười thầm. Ngắm nghía cái hàm oai nghiêm, hai chân trước duỗi ra bệ vệ, cái đuôi hách dịch đập bên sườn, y cảm thấy tôn kính, khiếp sợ tràn ngập trong lòng và không còn ngờ vực một sự hoang đường gì về cái sức mạnh phi thường ấy.
Bây giờ y đã hoàn hồn hẳn, và mũi y đã ngửi thấy mùi hôi nồng như mùi phân bò ú. Hắn lợn giọng và chỉ chực nhổ bọt nhưng vẫn cố giữ lại được. Y tự nhủ: "Nó mà nghe tháy tiếng nhổ tất sẽ ngửng đầu nhìn lên. Và nếu nó biết trên này có người thì nó rất có thể rung chuyển cái chòi ọp ẹp này để mình rơi xuống mà ăn thịt. Các ngài mà bụng đói thì phải biết các ngài liều" Ý nghĩ ấy lại càng làm cho Bảy-hai lo lắng, mắt bình tĩnh. Nhưng chỉ trong vài phút. Rồi những câu chuyện hiền lành về hổ dần dần nhớ lại khiến y trở nên vững tâm và can đảm nữa. Theo lời nhiều người Mường y quen biết thì con hổ chỉ là một con chó lớn nhút nhát và không dám gần người: Nó cũng giống như loài chó, hể chạy thì đuổi, hể sấn lại thì nó lùi. Điều nhận xét ấy đã được chứng thực: cách đây mới chừng một tháng, một con hổ - có lẽ chính con này cũng chưa biết chừng- đến rình ở sân nhà ông giáo Quý bên phố. Nửa đêm bà giáo thức giấc, dậy ra hiên trông thấy nó và sợ hãi chết ngất đi. Nnưng con hổ cũng sợ hãi chạy trốn.
"Phải, cái giống này chỉ chống lại người khi nào người định giết nó" Bảy- hai nghĩ thế và lấy làm mừng rằng ban nẫy đã không lên đạn bắn nó. Bắn mà trượt hoặc làm nó bị thương thì cứ mà chết với nó thôi. Trong lúc hồi hộp mình có thể run tay bắn chệch đích. Có phải bắn bia đâu mà bình tĩnh ngắm kỹ được!" Ý nghĩ bắn bia làm y mỉm cười quên bẵng con hổ để nhờ đến anh Mười - bốn kỳ vừa rồi, bắn tám phát không những không trúng đích mà không trúng cả cái liếp mang đích...
Y giật mình như chợt tĩnh một giấc chiêm bao: Tiếng khánh sắt bên đồn và tiếng mõ tre các chòi canh vừa đánh thức y dậy, kéo y về với thực tế, với nhiệm vụ, với bổn phận. Thì ra mới qua chưa đầy mười lăm phút thế mà y tưởng đã sống trong hàng giờ dài đằng đẵng. Y vội cằm dùi dơ lên nhưng lại rón rén đặt xuống không dám đánh. Tiếng khánh và tiếng mõ nhắc lại một lần nữa. Y vẫn im lìm không đáp lại.
"Được, mai ta sẽ trình vì sao thiếu tiếng mõ ở chòi này. Mà có bị phạt nữa thì đã sao!"
Một lác sau, ở truớc cổng đồn, một tia ánh sáng thoáng rạch một vệt dài lên tấm sương đêm. Bảy -hai mỉm cười nghĩ thầm: "Đích đèn pin của lão đội rồi! Được cứ đến đây mà bắt... hổ!" Thực vậy, đội Giới vẫn thức để rình. Khi thấy thiếu tiếng mõ ở chòi gác Đông Bắc trại giam, y đoán ngay rằng Bảy-hai đã ngủ. Y liền sang đi "rông" để bắt quả tang kẻ thù phạm tội.
Ánh sáng kín đáo lập lòe, khi chúc xuống đất, khi vọt lên trời, thong thả tiến lại gần trại giam. Bảy-hai cúi xuống nhìn. Con hổ vẫn nằm yên một chổ, không nhúc nhích. Y bắt đầu lo sợ cho tính mạng người kia. Mối thù, y vụt quên để chỉ nghĩ tới tai nạn xảy đến cho kẻ đồng loại do một loài khác, một loài tàn ác gây nên. Lòng trắc ẩn, tình nhân đạo đến với y một cách tự nhiên, một cách ngẫu nhiên. Y không luận lý nữa, không cân nhắc nữa, chỉ tìm cách cứu sống một con người, thoát khỏi nanh vuốt một con vật. Ánh sáng đã xuống hết giốc và sắp rẽ vào con đường vòng quanh trại, để đi thẳng tới chòi canh của y. Ở chân thang, con hổ vẫn nằm im, đuôi se sẽ đập sườn như báo cho biết rằng nó không ngủ vì có lẽ đã sửa soạn để vồ cái mồi ngon lành đương tiến lại gần. Bị hàng giậu nứa cao che khuất. Bảy-hai không nhìn thấy lửa sáng đèn bấm nữa, nhưng y đã thoáng nghe rõ tiếng lạo xạo xa xa của bước chân trên sỏi và cát. Chỉ vài phút nữa... Y hoảng hốt vội thét:
- Đứng lại! có hổ đấy!
Rồi vừa rướn mình nhìn qua ngọn hàng rào nứa, y vừa tiếp luôn:
- Có Hổ! Hổ! Hổ!
Lúc cúi nhìn xuống thì con hổ đã biến đâu mất. Đằng xa tiếng chân chạy mau và nặng. Ngay lúc ấy, cả trại giam xôn xao huyên náo.
- Cái gl thế!
- Hổ! lời đáp của Bảy-hai từ trên chồi ném xuống,
- Hổ à! Hổ các anh ạ!
- Hổ đâu? - Nó đâu!
Anh em nhốn nháo chạy cả ra sân, lại gần chổ canh góc Đông Bắc.
- Có hổ thực à Bảy- hai? Tài hỏi, vì đã nhận được tiếng người lính quen. -
- Lại chà thực!
- Nó đâu?
- Nó đi rồi! Nó nằm gần nửa tiếng đồng hồ ở ngay chân thang
- Nó rình bắt lợn của căng rồi, vì chổ ấy sát ngay bên chuồng lợn.
- Thế sao không bắn? Súng không có đạn à?
- Có nhưng không dám bắn vì sợ tiếng nổ làm náo động cả trại bị tù thì có mà bỏ mẹ!
- Bị gì thì bị chứ mấy khi gặp mồi ngon thế, mà đi bỏ lỡ. Rõ đáng tiếc!
- Tiếc à! Cu cậu sợ co rúm cả chân tay lại rồi còn bắn với biếc gì,
Câu khôi hài của Hải làm ai nấy phá lên cười và Bảy- hai đáp lại tức tối:
- Xừ nào sỏ siên moa thế hử?
- Không phải tôi sỏ siên anh đâu, anh Bảy- hai ạ. Nhưng sự thực là thế. Tôi đi bắn đã nhiều, giết có tới vài chục hươu nai mà tôi cũng xin thú thực rằng giá có gặp hổ vị tất tôi đã dám bắn. Nói vụng cac ngài chứ các ngài oai linh lắm! Đến rào vườn Bách thú nhìn các ngài đi đi. lại lại trong chuồng, cũng đã thấy rờn rợn rồi còn nói chi bắn ngài nữa.
Ai nấy lại cất tiếng cười, và lần này cả Bảy- hai cũng góp vui.
- Thực thế đấy, các anh ạ, Hải kể tiếp. Tôi có người bạn ngồi rình hổ ở trong một gian nhà, qua cái cửa sổ có chắn song sắt kiên cố. Lúc hổ đến anh ta dương súng ngắm bắn, nhưng thấy nó đi đi lại lại oai nghiêm dưới ánh trăng mờ, anh ta sợ hãi mướt mồ hôi, rồi ngất đi, đái cả ra quần.Tỉnh dậy thì con hổ đã đi mất. Các anh thấy chưa, ở trong một nơi vững chắc như thế, và dù có bắn hụt cũng không nguy đến tính mạng thế mà còn không đủ can đảm mổ cò đấy, huống hồ là đứng trên cái chòi mỏng mảnh, ọp ẹp kia.
Cười lại nối, làm ầm ỹ cả đêm khuya thanh vắng và giá lạnh.
- Ông đội có vào trong căng không, các anh?
- Không. Sao? Anh em ngơ ngác không hiểu vì sao Bảy-hai lại hỏi một câu lạ lùng như thế.
Nhưng Bảy Hai chỉ đáp lại sự ngơ ngác của anh em bằng một nụ cười bất tuyệt.
TÂY XÔNG NHÀ
Tết năm 1930 ở Ninh Giang, tôi đã được Tây xông nhà.
Người Tây đó tên là Heineshilk- ấy là tôi theo vần đọc mà viết ra, chứ tôi cũng chưa trông thấy tên hắn trên giấy bao giờ. Theo lời đồn, hắn là một người Áo can án tử hình bỏ trốn sang nước Pháp xin đăng lính "Lê dương" đi Maroc dự chiến. Mãn hạn hắn nhập Pháp tịch và được bổ đi có một đòn lính khố xanh.
Nếu muốn tìm một kiểu mẫu tiểu nhân, thì hắn thực là một người hoàn toàn. Đối với dân gian, hắn hống hách, đàn áp, bóc lột, chuyên chế như một ông vua chuyên chế. Trái lại, đối với ông Sứ hay ông Giám binh thì hắn quỵ lụy, nịnh nọt, đút lót, trung thành như một tên mọi trung thành với chủ. Nhờ đó mà hắn thăng chức rất nhanh chóng và được đổi về đòn quan trọng này, kiêm chức quyền đại lý Ninh giang.
Quan đại ! Hắn sung sướng khi nghe người ta chào mình bằng hai tiếng Việt Nam ấy. Có việc gì vào tòa mà kêu hắn là Monsieur le Délégué thì thế nào cũng xong tuy nếu việc phải mất tiền thì vẫn mất tiền như thường.
Vô phúc cho ai không biết, đi kêu đúng chức hắn "Monsieur le chef de poste" hay tôn hắn lên "Monsieur L'lnspecteur" nữa !Một là hắn im lặng không đáp, rồi sau này tìm cơ hội báo thù. Hai là hắn hét đinh lên làm mình mất thể diện trước mặt mấy viên thư ký của hắn.
Về chữ Đức hắn học đến bực nào tôi không rõ. Nhưng về chữ Pháp thì tôi đã may mắn được đọc văn của hắn.
Vào dịp khánh thành nhà thương mới, ông Y sĩ ở Ninh giang chẳng hiểu vì lười hay vì cớ gì, có nhờ tôi thảo hộ bài diễn văn. Bài diễn văn ấy phải đem trình "quan đại" để ngài kiêm duyệt. Vì thế mà tôi đã được đọc một đoạn hắn thêm vào. Đó là những lời tán tụng quan chánh sứ, quan phó sứ, quan lục lộ v.v... mà tôi đã vô tình bỏ rơi. Tôi đây tôi lại vô tình mỉm cười khi xem thấy văn pháp lính tây của quan đại. Nói chi những chữ viết sai, đến những mẹo mực thông thường sơ cắp nhất quan cũng "măng phú",
Cái mỉm cười ấy và lời khen kín đáo của tôi được hân hạnh lọt tai quan. Và phải biết! Cái tức giận, cái căm thù của quân dốt, nhất quân dốt ấy lại là môt quan "cai trị", một quan đại lý hách dịch, oai quyền như một vua con. Cái căm thù ấy càng cố nén lâu bao nhiêu thì khi bừng ra càng mãnh liệt bấy nhiêu.
Ai đã đọc tập truyện ngắn của Daudet hẳn thấy cái móng bò của con La dữ dội đến bực nào, sau bảy năm sửa soạn để chờ ngày thi hành.
Viên đại lý của tôi không kiên gan bằng con La. Hắn chỉ chờ đến hôm mồng một Tết nguyên đán để đem ra thi hành cái móng bò của hắn. Nhưng dù thế cái móng bò của hắn vẫn chẳng kém cái móng bò của con La về phần mãnh liệt cũng như về phần hiểm hóc.
Tối hôm mồng một Tết ấy, giữa lúc chúng tôi đương xum họp vui cười xung quanh bàn bất gia đình thì một người lính cảnh sát lên gác nói cho chúng tôi biết có "quan đại" đến.
Quan đại đến? Tôi kinh ngạc tự hỏi: "Đến chúc Tết mình chăng?" Tôi thừa biết hắn ta chẳng ưa gì tôi, tôi lại nhớ vẻ mặt hằn học của hắn khi hắn liếc nhìn tôi. Nhưng gặp nhau ngoài đường đôi bên vẫn tươi cười  chào nhau như hai người bạn sơ "Bonjour monsieur le délégué!" "Bonjouur monsieur G!" Vậy thì hắn có thể nhân dịp Tết Nguyên Đán đến chúc mừng mình lắm, cũng như vào dịp Tết Tây dân phố đến chúc mừng hắn vậy.
"Mà hắn đến chơi mình vào giờ này (9 giờ tối) có lẽ để đôi bên hàng phố khỏi thấy sự hạ mình của hắn đi chúc Tết một người Việt Nam?"
Tôi chưa kịp nghĩ dài thêm đã bừng tỉnh ngộ. Vì người lính chờ mãi không thấy tôi trả lời liền tiếp:
- Thưa ông, quan nói nếu ông không bằng lòng để quan khám ngay tối hôm nay thì sáng mai quan đến sớm cũng được.
Chết chưa! Thì ra quan đến khám nhà! Mà lại khám nhà vào giữa hôm mồng một Tết! Các bạn của tôi đã thấy cái móng bò của "quan đại tôi" hiểm độc thế nào chưa? Chừng ngài biết - hoặc có kẻ xui ngài điều ấy - ngày đầu năm người Việt Nam mình sợ rông, không muốn một sự không may gì xảy ra. Mà sự khám nhà thì cố nhiên là một sự không may rồi! Các bạn hẳn cho rằng tôi tức uất lên phải không? Không, tôi chỉ tức cười thôi, và quả nhiên tôi phá lên cười vui vẻ mà trả lời người lính cảnh sát:
- Ai lại đi làm phiền quan phải trở lại một lần nữa như thế. Ông xuống mời quan lên cho, để tôi ở trên nầy sửa soạn đón tiếp ngài.
Trong khi người lính bước xuống thang gác, các em gái tôi cuống quít, toan thu xếp bài lại. Tôi vội ngăn cản:
- Không! Cứ để y nguyên! Thu dọn đi, nó sẽ cho rằng mình sợ cái oai nó. Thế nào người lính cảnh sát chẳng báo cho nó biết chúng mình đương rút bất.
Một lát sau, lão đại lý, trong bộ trào phục đầy kim tuyến, cao lớn, sừng sững hiện ra trước ánh đèn măng xông. Theo sau hắn là viên tri phủ Ninh giang với cái bài ngà chức tước vừa tô son lại lủng lẳng trước ngực. Theo sau viên tri phủ là viên thông ngôn tòa đại lý, cặp mắt hấp háy chớp trong đôi mục kính cận thị. Theo sau viên thông ngôn, Ià hai viên cảnh sát với cái bao súng lục oai nghiêm đeo bên sườn.
Lão đại lý tươi cười đáp lại cái chào của tôi và hỏi:
- Tôi đến khám nhà ông vào giờ này là trái pháp luật, vì thế tôi đã cho hỏi xem ông có bằng lòng không đã rồi mới lên. Nhưng ông nên hiểu cho rằng tôi làm thế là vì có lòng tốt đối với ông. Vào giờ này dân phố đều đã ngủ cả không ai biết nhà ông bị khám. Chứ giữa ban ngày thì người ta xúm lại bàn tán và như thế ông sẽ mất thề diện nhiều lắm.
Tôi mỉm cười cảm ơn cái nhã ý của quan đại... và quan phủ, tôi nói thêm và quay lại nhìn cái ông quan có vẻ mặt lạnh lùng, bình thản như không từng quen biết tôi dù chủ nhật nào ông ta cũng mời tôi vào phủ đánh tổ tôm với "cụ cố".
- Chà các người đánh bạc! Ông đại bắt đầu.
- Phải, đó là một bàn bạc gia đình để mua vui trong dịp Tết. Đây xin giới thiệu ông T. em giai tôi, ông M. cũng em giai tôi, ông B. em rể tôi.Còn đây bà T. bà M. bà B. và vợ tôi.
Tôi gắng hết sức để giữ bình tĩnh nhưng tôi vẫn tự thấy tôi làm sao ấy. Các bạn cũng hiểu cho rằng khi người ta cố nén lòng căm tức thì người ta khó mà tự chủ được cử chỉ ngôn ngữ của mình.
- Thôi cũng được, ông đại tiếp, nhưng bắt đầu từ ngày kia mà đánh bạc thì sẽ bị bắt giam.
Rứt lời, hắn quay sang hất hàm hỏi ông phủ:
- Có phải thế không quan phủ?
- Bẩm chính thế, thưa quan đại.
- Bây giờ thì chúng ta đi làm bổn phận của chúng ta.
Việc bổn phận của họ là rút hết ngăn kéo ra, mở hết các tủ ra, lục tung hết các sách vở, quần áo vứt tung ra đầy sàn gác. Khi vớ được mấy tập ảnh của tôi, mặt lão đại lý sáng rực lên sau đôi kính cặp mũi:
- À! tôi biết, ông là một nghệ sĩ về nhiếp ảnh. Hẳn ông có đủ các ảnh kỷ niệm gia đình.
Vừa nói, hắn vừa mở, vừa chăm chú tìm tòi. Rồi hắn thì thầm hỏi ông phủ:
- Ông có biết mặt nó không?
- Thưa không.
Lão đại lý lắ đầu chán nản. Bổng hắn quay phắt về phía tôi sừng sộ:
- Ông biết tôi tìm ảnh ai không?
- Không, tôi biết sao được.
- Thôi ông đừng vờ. Ảnh tên C... đâu, ông phải trở ngay cho tôi biết nếu không tôi sẽ có cách.
Tôi thừa hiểu bọn thực dân đương đi lùng kiếmảnh của C... một nhà cách mạng quan trọng, người vùng này. Nhưng tôi cũng hỏi:
- C... nào thế, thưa quan đại?
- C... nào? Ông muốn biết C. nào à? C... trưởng ban ám sát của cái đảng mà ông rất quen thuộc. Không những tôi biết ông có ảnh của C... mà tôi còn mới được tin hắn trốn về đây ăn tết với ông nữa kia.
- Vậy xin ông cứ lục lọi khám xét thực kỹ có hay không thì ông sẽ rõ.
- Ông nói lý với tôi, phải không? Ông nên biết những ý tưởng bài pháp, chống quan lại của ông chỉ sẻ đưa tai hại đến cho ông. Rồi ông sẽ thấy.
Tôi đã thấy. Tôi đã thấy rằng trả tời hắn chỉ là một việc mất thì giờ vô ích, mà lại thêm khó chịu cho mình và cả cho hắn. Từ đấy tôi chỉ lạnh lùng im lặng đứng chứng kiến việc lục lọi khám xét hoặc mở khóa rương nọ, ngăn kia. Trong khi ấy thì M. miệng ngậm cái "pipe" thuốc lá to tướng, thản nhiên đi đi lại lại trong căn phòng như con hổ trong cũi sắt trên vườn bách thảo.
Mãi đến 12 giờ khuya việc khám nhà mới xong. Bọn "nhà nước" ra đi, để lại cho chúng tôi mấy gian phòng tung tóe, bừa bộn như vừa bị giặc cướp đến phá phách.
Mấy anh em chị em lặng lẽ nhìn nhau. Bỗng tôi phá lên cười bảo vợ tôi:
- Thôi năm nay thì tha hồ mà rông! Và ai nấy đều vui vẻ cười theo. Em gái tôi trách tôi:
- Ai bảo anh cứ trêu tức nó, khiêu khích nó vào.
Có chăng từ hôm ấy mới bắt đầu một chương trình khiêu khích của tôi. Tự nhiên tôi trở nên một nhà viết báo để thỉnh thoảng gởi bài đăng chơi trên báo Annam Nouveau hay Trung Bắc Tân Văn. Trong những bài vớ vẩn ấy tôi không hề đá động tới lão đại, nhưng mỗi lần thân ra nhà Bưu chính gửi thư, tôi lại vui sướng và hóm hỉnh nhìn đùa lão chủ sư để nghĩ thầm: "Thế nào chốc nữa thầy trò chúng mày chẳng mở thư của tao ra xem trước!"
Và cũng từ hôm ấy dân phố Ninh Giang nghiễm nhiên thấy tôi trở nên tay kình địch ghê gớm của "quan đại". Cuối năm ấy tôi bỏ nghề luôn để theo nghề văn. Các bạn đã thấy sự khám nhà đầu năm rông đến bực nào và cái móng bò của một con La thuộc địa có công hiệu phá hoại đến bực nào chưa?
QUAN CÔNG SỨ
Ngày vui nhất ở trại giam Vụ bản là ngày phát thư, mỗi tuần lễ một lần. Cái vui âm ỹ, huyên náo, công cộng chứ không phải cái vui kín đáo âm thầm, riêng biệt của những kẻ xa nhà nhận được tin tức những người thân thích.
Người lính trạm, lưng đeo cái túi vàng bao giờ cũng được anh em chào mừng bằng một tiếng hoan hô, trong khi y leo con đường giốc lên đồn, qua hai quả đồi cỏ tranh có anh em làm việc. Mấy người mắc bệnh tê, lưu lại trong trại ngồi phơi nắng trên mặt bể, vội đứng dậy rướn nhìn qua ngọn rào nứa nhọn, mỉm cười, Bắt đầu từ giờ ấy, hơn trăm trái tim hồi hộp mong chờ...
Tiếp đến giờ nghỉ, anh em về trại giam, quên cả rửa mặt, rửa tay, ai nấy đăm đăm nhìn sang phía cổng đồn.
- À! Kia rồi!
Đó là lão đồn già và ông quản sang điểm lại số tù nhân, và cố nhiên mang cả thư sang phát. Ông già cao lớn lực lưỡng tóc bạc và tơ dựng lên trước gió, mỉm cười ranh mãnh nhìn khắp mọi người, trong khi ông qnản thân hình lủn mủn, giơ ngón tay trỏ lẩm nhẩm đếm.
- Com-bờ-lê, me-sừ sếp-đờ-pôt.
Tức thì " Me-sừ sếp-đờ-pôt " mở cái cặp bìa ra gọi tên hay gọi sẽ từng người có thư, để đưa cho một hoặc hai cái phong bì đã mở. Mỗi khi gặp có lời chú thích phê trên phong bì, y đều không quên bình lên cho anh em cùng nghe để mà cùng cười: "Kiểm duyệt một trang, vì gia nhân đã đụng chạm tới tình hình Hà nội". "Số... sẽ phải bảo người nhà không được viết dài quá". "Vợ số... làm gì mà gửi cho chồng những ba cái thư một lúc. Đi gửi trả lại một cái..v.v..."
Những lời phê ấy toàn là thủ bút của ông Công sứ Hoa - bình tự kiểm duyệt lấy tất cả thư tín vãng lai giữa, bọn tù chính trị Vụ-bản và những thân thích bạn bè của họ. Ở ngoài phong bì, lời văn còn bình thường, chứ ở ngay trong thư thì mới thực là những công trình văn chương kiệt tác về phương diện triết lý nghiêm trang cũng như về phương diện khôi hài trào phúng. Người ta cho biết rằng bao giờ "quan" cũng kiểm duyệt thư từ vì đêm trong khi quan nằm mơ mộng bên cạnh cái khay đèn thuốc phiện. Thực vậy, phải có tinh thần sáng suốt của một đồ đệ ả Phù-dung mới nghĩ ra được những lời cẩm tú.
Chính vì thế mà cái vai nhận thư nhà bao giờ cũng ầm ỹ, huyên náo ; Anh em đem những lời "quan" phê ra phô nhau để mà cùng cười.
- Nghe đâu hắn là một người Tây lai.
- Không, hắn lai có một phần ba Việt Nam, vì, bố hắn là "Pháp chính tống" chỉ mẹ hắn lai thôi.
- Thế thì một phần tư chứ một phần ba Việt Nam thế nào đvrợc.
- Một nửa, một phần ba, hay một phân tư thì cũng là lai, chứ còn là gì nữa.
- Tôi muốn gặp thằng cha ấy quá, để xem mặt mũi nó thế nào mà nó láu cá láu tôm, nghịch ngợm đến thế.
Anh em đến Vụ bản được hơn một tháng rồi mà y vẫn chưa về, tuy đã ba lần lão đồn già báo cáo cái tin quan công - sứ sắp tới thăm trại giam, khiến lá đơn thảo ra để yêu sách điều nọ điều kia nằm ẹp mãi trong cái cặp da của anh trật tự. Sự mong mỏi đã làm sốt ruột nhiều người, và họ đã thốt những lời nguyền rủa, oán trách. Nhưng trong khi ấy thì thư tín vẫn đều đều tới đúng kỳ hạn và vẫn kèm thêm những lời phê phán, soi mói, có duyên.
- Thằng cha ý chừng là một văn sĩ trào phúng các anh ạ.
Tài cười ngặt nghẹo, đưa ra phô một cuốn tiểu thuyết chữ Pháp mà y vừa nhận được với một câu Pháp văn an ủi để trên đầu sách của người bạn Hà thành gửi tặng. Câu văn cầu kỳ và kém cõi ấy được tăng giá trị và khiến người ta lưu ý do một chữ "lu" vắn tắt, dưới ký tên người phê, với giòng chức tước " ông sứ nước Pháp tại Hòa-bình" Và Tài, giải thích, Tài, mà lão đồn già mệnh danh là "nhà triết học số một", và yên trí rằng trong đầu óc chứa đầy những tư tưởng nguy hiểm cho nền thống trị thực dân:
- Nó chửi chữ đấy, các anh ạ. Nó để thế là nó muốn bảo thầm ông bạn tôi rằng nó đã đọc kỹ cái dốt và cái ngông của người tặng sách. Thằng cha này bất trị!
Tiếng cười thét lên ồn ào. Ở cái nơi thiếu tự do ấy, người ta rất thích có những ngôn ngữ cử chỉ tự do. Và người ta xúm nhau lại đem cái anh chàng tặng sách ra làm thịt:
- Thì sao không dùng ngay chữ Việt mà lại đi viết chữ Pháp để nó chế diễu vào mặt cho.
- Rõ sính chữ mà lại sính chữ không ra hồn!
- Đọc xong tiểu thuyết, gửi trả về cho nó xem!
Ai nấy lồng lên để nói một câu ác nghiệt cho hạ đôi chút cái khổ bị giam cầm. Họ như lúc nào cũng chỉ chờ dịp để được trút cái giận, cái tức lên một cái gì.
Từ đó người ta lại càng nóng lòng muốn gặp mặt nhà kiểm duyệt phê bình thư tín,
Rồi khi không ai nghĩ đến y nữa thì bỗng một hôm y về, về bất thình lình không báo trước, mà cũng không một ai ở trại giam biết y về lúc nào, vì không thấy cờ ô tô lên dốc đồn.
Buổi chiều, trước giờ kèn nghĩ việc, anh em đã được về trại để đón tiếp quan Công sứ. Có người ngơ ngác hỏi :
- Ông ta về lúc nào?
Một người lính đáp:
- Cụ lớn về lúc mười một giờ nhưng ô tô phóng thẳng tới dinh quan Châu,
- Sao lại không đến đón trước nhỉ?
- Đến Châu để còn hút chứ!
- Nghe đâu ông ta cũng không ưa gì lão đồn già.
Lại được một dịp cho dân trại giam bàn tán. Nhưng họ cũng sửa soạn cuộc đón tiếp cho được long trọng: Quét qua cái nhà, xếp lại đống củi, vất gọn cái màn. Rồi sau khi thay mặc những bộ quần áo sạch sẽ, tươm tất, họ ra đứng xếp hàng ở sân.
Một nửa giờ mong đợi. Một tiếng hô ở cổng. Tiếng rít hãm máy xe. Rồi cổng trại mở. Im lặng, mặt đỏ gay miệng mỉm cười, quan công sứ tiến vào, theo sau là lão đồn già, ông Tri châu, ông bác sĩ và ông thương tá Hòa bình. Đó là một người trung bình đối với dân bản xứ nhưng bé nhỏ đối với các quý quan. Đôi mắt lờ lờ xanh, cặp môi mỏng dính và cái mũi rất lõ thuộc giòng cha, nhưng mớ tóc dẹp hung hung đen thì không thề không Việt Nam được.
Sau mấy lời giới thiệu của lão đồn già, anh trật tự tay cầm lá đơn tiến lên, đi lại gần ông chủ tỉnh. Bổng toàn thể anh em trong trại như bị một gáo nước lạnh dội vào gáy. Cái cử chỉ và lời nói thứ nhất của người Pháp lai đã cắt phứt ngay mối cảm tình gây ra bởi những Iời phê có duyên trong các lá thư. Y xòe bàn tay xua anh trật tự ra và vẻ mặt nghiêm khắc y nói:
- Anh nên biết rằng anh đương đứng trước mặt quan công sứ.
Câu nói trịnh trọng, Khanh thấy ngụ một ý nghĩa khôi hài, và y bấm người đứng bên cạnh mỉm cười thầm: "Hay hắn lại diễu cợt đùa bỡn bọn mình như hắn vẫn làm trong công việc kiểm duyệt phê bình thư?"
Nhưng không, hắn không bỡn cợt, vì hắn đã cất cao lời diễn thuyết:
- Hỡi các phu, các anh có biết không, các anh nhỏ mọn quá! Tôi là người thông minh hơn các anh, nhiều học vấn hơn các anh, lại con nhà quý phái hơn các anh nửa, tôi bảo cho các anh biết rằng các anh chỉ là những đứa trè nhỏ mọn... "Bài diễn văn, trong nửa tiếng đồng hò, kéo dài một giọng gay gắt mỉa mai như thế để kết luận rằng:
"Toàn trại sẽ bị phạt nửa tháng không được gửi thư về nhà, vì trong khi quan công sứ đi dưới đường thấp có mấy kẻ đã dám ngồi vắt vẻo trên ngọn thang leo vô lễ nhìn xuống".
Đọc xong bài diễn văn, ném xong cái lệnh phạt, viên cai trị quên cả bản yêu sách của trại giam, hầm hầm bỏ sang đồn, đem theo đoàn quan chức rầm rộ kéo đi.
Thoạt đầu, trại giam như thốt nhiên bị một làn không khí độc là xuống bao phủ. Ai nấy thẫn thờ ngồi im. Có nguời như lên cơn điên xé nát bức thư vừa viết ra: "Nó không cho phép gửi thì để làm gì. Chó thật !ngày mai là ngày thư!" Chính cái cử chỉ cáu kỉnh ấy đã làm anh em hết buồn và đồng thanh phá lên cười vui thú. Họ cười to quá, khiến chú canh cổng phải vào can thìệp: "Se sẽ chứ các ông, cụ lớn mà nghe thấy thì chết cả nút bây giờ". Anh em đáp lại bằng dịp cười nửa. Và một người giọng như say rượu nhè nhè:
- Cụ lớn à? Cụ lớn anh lớn lắm đấy! Chúng tôi bé nhỏ bì sao kịp!
Lịnh lên giọng tây nhại đoạn diễn văn: "Các anh nhỏ mọn quá! Tôi thông minh hơn, nhiều học vấn hơn, lại con nhà quý phái hơn".
Lại một dịp cười nữa. Trại giam trở nên tấp nập, ồn ào như một ngày hội. Và trong lúc người ta vui thú, người ta quên khuấy cái thất vọng chưa đạt được một yêu sách nào. Nhưng cuộc vui nào cũng có giới hạn và rồi người ta cũng nghĩ đến cái điều thắc mắc. Ý cái anh chàng đa nghi và nhát gan bao giờ cũng tìm ra một nguyên nhân tưởng tượng cho bất cứ một việc gì.
- Tôi đã bảo các anh rằng phải đem bản yêu sách trình ông đồn đã, các anh không nghe, quả nhiên nó xui xiểm lão sứ trị mình.
- Trị thế quái nào được mình!
- Rồi gửi thẳng bản yêu sách ấy cho sứ.
- Nếu không ăn thua thì hôm nào người nhà lên nhớ đem về Hà-nội gửi cho thằng sứ. Cho toàn quyền nữa ấy!
Một người thốt ra một câu trách móc:
- Chỉ tại mấy anh đi leo lên ngọn thang ngồi nhìn xuống nó.
- Ai đấy? Ai mà vô lý thế nhỉ?
Lịnh gắt:
- Ai thì việc cũng qua rồi. Nó đã muốn tìm cớ để ra oai với chúng mình thì chẳng có cớ ấy nó cũng có một cớ khác, Nguyên nhân việc này không phải ở cái thang mà ở chỗ khác, các anh có biết không: nó ngờ bọn mình tuyên truyền rủ rê đội, cai và binh lính ở đây.
Câu chuyện lại xoay chiều tới viên đội trẻ và những bữa rượu thơ trong rừng củi để rồi lại quay về cái thang leo.
- Anh Năm chuyến này thì đi Sơn-la! Nó hỏi ai làm cái thang ấy, tưởng nó khen nhận ngay lấy công thôi. Để nó mỉa mai cho.
Một người không hiểu tiếng Pháp hỏi:
- Nó mỉa thế nào đấy?
- Nó bảo anh này thích những cái cao rồi sẽ làm đến thượng thư đấy.
Anh em lại cười:
- Sao không trả lời nó rằng chỉ ao ước một chức be bé thôi. Chức Công sứ Hòa-bình chẳng hạn.
Đêm hôm ấy, sau khi bị nhốt trong ba gian phòng chật hẹp, anh em dong nến tụ họp từng nhóm nói chuyện rất khuya về ông Công sứ Hòa bình, mặc kèn tắt lửa và mặc những Iời đe dọa của người cai trại đi "rông".
Theo Tài, người được toàn thể lính đồn quý mến và luôn luôn cho biết những tin quan trọng thì sở dĩ hôm nay lão Sứ bắn tính là vì hắn ta đương khó chịu với ông có đạo về một chuyện kiện cáo thuốc sái gì đó. Anh em có ngay cảm tình với nhà tu hành ấy vì thấy là địch thủ đáng sợ của ông Sứ, Ai biết một bí mật gì về hai cừu nhân đều đem ra kể cho mọi người nghe. Rồi chẳng thèm giữ gìn như mọi tối khác, họ phá lên cười từng cơn.
- Một đoản thiên của Maugham, các anh ạ, Tài tuyên bố.
Và Khanh tiếp:
- Nhan đề là ông Công sứ và ông Cố đạo.
- Không, nhan đề là "Tôn giáo và Cai Trị"
Lịnh chữa:
- Không, là ảnh hưởng khói thuốc phiện!
- Cũng chưa ổn, phải là một nhà cai trị khôi hài... Y lại gần thì thầm:
- Thằng cai gác là mật thám của Sứ đấy, các anh nên be bé cái mồm chứ.
Ai nấy giận dữ cự lại cái anh chẳng nhát như cáy ấy:
- Im ngay! Anh sợ nó thì đi ngủ!
- Nhưng các anh làm liên lụy đến cả trại...
Tiên, người chỉ hùng hổ những khi biết mình mạnh cánh, đe dọa một câu làm Y lảng ngay:
- Câm cái mồm! Không tao đánh bây giờ!
Câu chuyện tiếp tục đến quá nửa đêm trong làn không khí nặng nề đầy khói, vì để phản đối lại bọn cai trị bất công, anh trật tự tháo khoán một đêm nay và cho phép anh em hút thuốc lá thả cửa.
Sự xảy ra đặc biệt ấy làm hoạt động trại giam được mười hôm. Rồi người ta cũng quên nó đi, nhất cái lệnh phạt gửi thư lại được thu ngắn từ nửa tháng tới một tuần. Nhưng hình ảnh ông Công sứ thì không thể phai nhạt được trong ký ức mọi người, mỗi khi họ ngâm nga những lời phê trong thư vẫn đều đều và hóm hĩnh như trước,
Cách đó it lâu, trong khi không ai mong đợi, viên Công sứ lại về thăm trại, lần này cùng đi với vợ, một người đàn bà lai, bé nhỏ xinh sắn, vẻ mặt rất thông minh, và một thằng con bảy tám tuổi, đầu tóc chải mượt và quần áo bảnh bao. Cũng như lần trước, Y đi thẳng tới Châu để ăn cơm sáng ở đấy. Rồi mặt đỏ gay sắc rượu, Y cùng vợ con, và tùy tòng rầm rộ kéo sang trại giam. Một sự lạ!
Y thay đổi hẳn tính nết, rất nhũn nhặn chứ không kiêu căng nữa, lẩn thẩn thân mật nói chuyện với người nọ người kia và thốt ra những câu khôi hài vui vẻ làm ai nấy không nhịn cười được.
Tài ghé tai người đứng bên thì thầm: "Có lẽ nó điên! Hay vi ngài vừa chén say, hút no, nên ngài khoái"
Điều đoán phỏng ấy bị cải chính ngay bằng sự trao thư từ và các gói quà kèm thêm một lời ân cần của viên công sứ:
- Nhân tiện tôi mang về cho các anh các thư này; tuy hôm nay chưa phải là ngày phát thư.
Thì ra hắn có lòng tốt từ trước khi say.
Nhưng đã hết đâu: Bất cứ một yêu sách gì vừa nêu ra là được chuẩn y ngay, khiến lão đồn già phải can thiệp phản đối nhiều lần.
Sau khi đoàn công chức ra đi, anh em reo mừng. Một anh lắc lư cái đầu, đọc câu sắm Trạng Trình "Bất chiến tự nhiên thành, các anh ạ!"
Đêm hôm ấy là đêm đầu tiên dân trại được ngủ mở cửa theo lời yêu sách và người ta dắt tay nhau đi chơi quanh sân rất khuya dưới ánh trăng thượng tuần để tán dương cái tính ngộ nghĩnh khó hiểu của một viên cai trị thuộc địa.
- Đó là kết quả của ảnh hưởng nước độc và thuốc phiện!
Câu phê bình ấy của Lịnh vẫn không giảng giải được sự thay đổi bất thình lình kia.
Cho tới một ngày gần đây, một tin dữ dội bay về với trại giam: Viên công sứ bị giáng, và đổi đi nhậm chức phó công sứ ở một tỉnh Trung châu. Tin ấy cho biết thêm rằng trong một lúc nóng tiết và mất hẳn trấn tĩnh y đã thẳng tay tát một ông chủ đồn điền người Pháp giầu có và mạnh thế lực ở trước mặt ông Thanh tra chính trị lên Hòa bình điều tra về việc tranh ruộng giữa người Pháp ấy và dân Mường. Thì ra có lẽ y mắc bệnh thần kinh, cái bệnh truyền nhiểm rất thông thường trong giới cai trị thực dân.
Ông Thanh tra tức giận bỏ ra đi, và ngày hôm sau ông công sứ bị gọi về Hà nội. Từ đó dân trại giam Vụ bản mất hẳn cái thứ đọc những câu phê hóm hỉnh và khôi hài của ngưòi Pháp lai, vụt trở nên, sau vụ giáng chức một người "dễ thương" của anh em chính trị phạm.
NHUNG
Từ ngày được vô can trong vụ cướp nhà ông thượng Nguyễn nhờ có những lời làm chứng công bằng của Nhung, con gái khổ chủ, thì Sinh bỗng đổi hẳn tính nết. Trước hắn hay nói hay cười, hay đi chơi khắp các xóm để bới chuyện nhà này nhà khác nhất là chuyện nhà ông thượng Nguyễn mà hắn ghét cay ghét độc. Nay thì không mấy khi người ta gặp mặt hắn nữa. Hình như hắn xấu hổ vì đã bị dính líu vào cái việc nhơ nhớp kia, nên tuy vô tội, hắn vẫn thấy cần phải sống ẩn thân trong ít lâu. Bây giờ, người làng Bắc còn thì thào bàn tán nhiều quá, đi đây đi đó nhờ thoáng nghe thấy chỉ thêm bực mình ! Ấy là người ta đoán thể thôi chứ chính Sinh cũng không từng ngỏ tâm sự với một ai. Hắn hầu như mộr người câm và cả ngày chui rúc trong gian buồng cửa đóng kín mít. Đến bữa, mẹ và các em có gọi đi ăn cơm thì một là hắn lẳng lặng bước ra, ngồi xuống phản và lùa luôn mấy bát rồi đứng dậy lại trở vào buồng. Buổi đầu Sinh mới được tha về, mẹ hắn thấy vậy chỉ lắc đầu thương hại con hay thốt lời tục tằn nguyền rủa bọn cướp đã khai tnan để làm khổ con bà. Nhưng sau thấy Sinh cứ kéo dài mãi cái trạng thái buồn phiền chán nản, bà sinh ra cáu kỉnh.
Một hôm trong bữa cơm chiều bà gọi chuyện bảo con:
- Mày lại bảo học đi thôi, cứ ăn không ngồi rồi mãi như thế thì đến chết đói mất.
Sinh dằn mạnh cái bát xuống mâm, yên lặng dứng dậy. Bà kia liền thét:
- Mày làm như vì tao mà mày bị bắt, bị tù, bị tội không bằng ! Nếu mày không đi lại chơi bời với quân du thủ du thực thì chúng nó biết mày là ai mà đi tố cáo mày với quan nha để đến nổi mày khổ sở, nhục nhằn. May mà chị Nhung chị ấy tốt bụng, chị ấy không thèm thù hằn mày, chứ nếu chị ấy cứ nhận diện bừa đi thì mầy ngồi tù đã đành, đến cái thanh danh nhà mày cũng chả còn ra gì. Thấy mày ngày xưa đã làm gì nên tội, tao ngày nay đã làm gì nên tội mà để mày bêu xấu bêu hổ, bêu nhục, bêu nhuốc?
Hà thấy anh vùng vằng đi vào buồng đóng xập cửa lại liền gắt sẽ với mẹ :
- Anh ấy đã bị oan uổng khổ sở, bu lại còn không để cho anh ấy yên thân.
Người đàn bà vẫn chưa thôi:
- Ừ thì việc đã nhở ra như thế, nó cũng phải chịu nhẫn nhục mà quên đi, chứ có đâu cứ như ăn vạ tao thì mày bảo tao biết làm thế nào.
Bà ngừng lại nghĩ vơ nghĩ vẩn một lát rồi bưng mặt ngồi khóc thút thít.
Bà lấy làm tủi nhục cho cái đời sống túng bẩn vất vả của bà. Là con một ông cử, bà lấy chồng con nhà nho, cũng như chị bà. Nhưng hai người anh em đồng hao ấy đã bỏ xa nhau trên con đường tiến thủ: một người đỗ đạt ra làm quan, một người suốt đời là một ông Đồ nghèo kiết. Chị bà cũng có giúp đỡ bà nhiều phen và lại nhận nuôi cả Sinh cho cùng đi học với con mình. Rồi chồng bà chết, rồi chị bà chéế. Bà thấy đời bà bơ vơ không nơi nương tựa, với một cái gia sản hèn mọn khộng đủ nuôi sống một gia đình bốn mẹ con, nhất từ khi Sinh không chịu nổi sự bạc đãi của nhà ông Thượng, bỏ về ở với bà.
Bấy giờ Sinh đã hai mươi tuổi nhưng vì ham thích chơi bời lêu lổng nên chỉ mới đậu được cái bằng Tốt nghiệp. Không một nghề trong tay, lại đam mê rượu chè cờ bạc, chẳng bao lâu hắn trở nên cái mầm nguy vong cho gia đình. Bà Đồ và Hà đội vải đi bán chợ xa chợ gần vẫn không sao đánh thăng bằng được cái quỹ chi thu thường nhật, Vì thế số nợ một ngày một chồng chất thêm mãi lên.
Bà Đồ chỉ biết than thân trách phận, và đổ tại số mình không ra gì. Nhưng Sinh thì hắn quy hết oán thù vào cả cái gia đình ông Thượng. Hắn không thể quên được cái thời kỳ sung sướng, vô tư vô lự của hắn khi chị mẹ hắn còn tại thế. Những người anh họ hắn có thứ gì hắn đều có thứ ấy. Hắn thấy đời dống dễ dàng và đẹp đẽ bên những người thân thích đáng yêu, bên những người chị họ xinh tươi và âu yếm.
Ngày nay tình thế đã đổi thay, và sự đổi thay chỉ do hai mẹ con Nhung đã gây nên. Nhung mà xưa kia hắn cho là một lẽ sống của đời hắn, là nguồn ánh sáng chiếu rọi vào tâm hồn hắn, nay hắn chỉ thấy là một kè thù đã phá hoại hạnh phúc của hắn. Từ hai người đàn bà, lòng oán ghét của hắn lan rộng ra tới toàn thể cái gia đình ông Thượng rồi tới tất cả cái xã hội cao quý của bọn quan lại và phú hào, một xã hội trưởng giả mà hắn tìm ra đủ các tội lỗi, đủ các điều đê tiện xấu xa.
Hắn bắt đầu có một quan niệm về xã hội, về loài người. Loài người chỉ chia ra làm hai giai cấp: giai cấp được hưởng đủ các quyền lợi và giai cấp không được hưởng một chút quyền lợi gì. "Sao lại có mãi sự bất công ấy được? ". Sinh hằn học tự hỏi thế. Rồi câu hỏi dần dần mất cái tính cách hằn học, mà chỉ còn là một vấn đề nhân sinh. Sinh thấy một ngày một rõ rệt rằng vấn đề ấy cần phải được giải quyết ngay do những người ở cái giai cấp bị thua thiệt, và giải quyết bằng đủ mọi cách với đủ mọi phương pháp. Hắn vốn nhu nhược và lười biếng, thế mà chỉ vì sốt sắng muốn cải tạo xã hội, hắn bổng trở nên cương quyết và mẫn cán trong công việc theo đuổi để phá hoại phe địch. Hắn không ở đảng phái nào, và cũng chẳngg đọc qua một lý thuyết xã hội nào.
Nhưng hắn cần gì phải có lý thuyết vững vàng mới đánh đổ được đối phương: Hắn sẽ đi tuyên truyền nói xấu bọn phú hào. Họ không thiếu gì hành vi nhơ nhớp. Mà có bịa đặt thêm ra cũng chẳng sao ! Bắt đầu, hắn hãy thu hẹp phạm vi công kích của hắn vào trong một làng, làng hắn, và đứng đầu cái bảng đen là nhà ông Thượng, cái gia đình đã nuôi hắn, cho hắn biết mùi phú quý để rồi ném hắn xuống đất đen cho hắn thấy thấm thía cái chênh lệch bất công giữa hai giai cấp.
Trong khi việc tuyên truyền có phương pháp đương tiến hành để hạ cái gia đình cao quý kia xuống, để gây lòng phẫn uất của người làng đối với bọn đã xây hạnh phúc trên mồ hôi xương máu của quần chúng, thì xảy ra vụ cướp nhà ông thượng Nguyễn. Vì thế người ta đoán chắc Sinh có dính líu vào việc ấy. Người ta đồ rằng cái dinh cơ rộng rãi, và kiên cố kia nếu không có một người thông thuộc đường đi, lối lại như Sinh làm dẫn đạo thì cướp khó lòng vào lọt được. Tới khi Sinh bị bắt, hết thẩy người làng cùng vui cười. Họ vui cười không phải vì ghét gì hắn, hay thương hại gì ông Thượng, nhưng vì họ thấy họ đoán đúng: thủ phạm vụ cướp không thể là ai được, mà chỉ là kẻ thù ghê gớm của cái gia đình quý phái ấy.
Vận mệnh của sinh hoàn toàn ở trong tay người đến huyện nhận diện các tên hung đồ. Người ấy là Nhung, vì hôm mất cướp, ông Thượng bà Thượng đi Hà nội vắng, và người nhà đều chạy trốn thoát cả, duy có Nhung là bị bắt. Và nàng đã nhận diện hết mọi tên; trừ một mình sinh ra.
Thế là dư luận dân làng Bắc lại xoay chiều. Người ta bảo nhau: "Dầu sao thì nó cũng là cháu chẳng lẽ cháu lại dắt cướp vào nhà bác?". "Chẳng gì nó cũng là con nhà gia giáo, đâu nó có thể trụy lạc quá đến thế!" Nhưng vẫn có người còn ngờ vực và nói: "Cô Nhung, cô ấy thưomg hại một người em họ nên cô ấy không nhận diện đấy, chứ chính cướp nó đã cung khai ra thì có mà chệch đi đằng giời!".
Vụ cướp rồi cũng bị người ta quên đi. Khi nó không còn làm đầu để cho câu chuyện mua vui trong các xóm nữa thì bỗng xảy ra một việc khiến người ta lại quay trở lại bàn tán đến nó. Đó là cái chết của Sinh: Sinh tự thắt cổ ở trong buồng kín, dưới chân hắn có bức thư sau này gửi cho Nhung:
B..... ngày... . 1940.
Em Nhung,
Chị cho phép tôi, một lần cuối cùng, kêu chị bằng em. Kể tôi hơn chị những ba tuổi thì tôi có xưng hô như thế cũng không đến nổi quá đáng. Còn bảo tôi là em họ chị thì điều đó có đâu, mẹ tôi là em ruột bà thượng cả, chứ có là dì chị đâu. Tóm lại chị vớì tôi không có dính họ hàng gì cả và ví như tôi lấy chị làm vợ cũng không có tội kia mà.
Chị thấy lời lẽ tôi bình tĩnh lắm phải không? Từ hôm tôi được tha về bao giờ trí tôi cũng rối ren, loạn xạ, mà vì sao hẵn chị cũng hiểu. Nhưng nay thì lòng tôi tự nhiên dẹp hẳn xuống: Tôi đã quả quyết chết, mà khi người ta đã quả quyết chết thì người ta tiếc gì ở đời nữa mà còn phải băn khoăn. Vậy khi Nhung đọc bức thư này thì Sinh đã là cái xác không hồn.
Chắc chị muốn an ủi tôi, chị muốn khuyên tôi không nên tự hủy hoại thân thể phải không? Nhưng chị thì thử bình tĩnh lại mà xem, chỉ sợ thấy tôi đã bị xô đẩy tới con đường cùng rồi.
Vậy lời thứ nhứt và lời cuối cùng của người sắp vĩnh biệt đời này là một lời tạ tội. Em xin lỗi chị, anh xin lỗi em, vì đã xúc phạm tới em trong cái đêm lịch sử ấy.
Sau nữa, và đó là điều độc nhất đáng kể, em sẽ lợi dụng cái chết của em để thú tội với chị, như kẻ mộ đạo Thiên Chúa thú tội với nhà giáo sĩ để mong trút được gánh nặng trong lòng trước khi thênh thang lên đường giải thoát.
Chị đừng tưởng là cái tội đã dắt cướp vào nhà chị, hay cái tội đã dám có dã tâm định làm điếm nhục một người thiếu nử. Hai tội ấy có đáng kể chi bên cái tội tầy trời mà em đã phạm. Nhưng xin hãy nghe em đây:
Ngay từ thuở nhỏ em được hai bác nuôi nâng dạy dỗ, coi chẳng khác gì con đẻ. Lớn lên trong cảnh giàu sang đầy đủ em có bao giờ nghĩ đến thương hại những người lăn lóc trong đám bình dân nghèo nàn thiếu thốn đâu. Cả mẹ em làm ăn tần tảo để kiếm tiền nuôi gia dinh, em cũng không hề để ý đến một cách thiết tha. Mẹ em thì chịu nhịn đủ thứ, chỉ nuôi trong lòng cái hy vọng mai sau em học thành tài làm nên vẻ vang cho nhà cho họ.
Đời tôi, lọ là tôi phải thuật lại với chị. Như anh em trong một nhà, còn một điều gì về tôi mà chị không biết! Nhưng có một điều mà chị không ngờ, mà chị không thể ngờ được, là tôi yêu chị, là anh yêu em.
Em Nhung, bao tội lỗi gây nên bởi mỗi ái tình ngăn cấm. Trong bao lâu anh yêu trộm thương thầm... Rồi có ngày anh trông rõ rằng em chỉ đáp lại anh bằng sự lãnh đạm và mẹ em chỉ đối đải anh bằng sự khinh nhờn, thì anh không chịu nổi vì anh bỏ đi cho khuất mắt cái gia đình mà anh thù ghét thấy đáng thù ghét. Anh tìm ra, cố moi ra đủ các lý do để mà thù ghét, những lý do chính đáng nữa. Rồi lòng thù ghét cá nhân đối với cá nhân, lòng tư thù biến đi để nhường chỗ cho lòng thù chung của một xã hội bị bốc lột, lòng công phẩn của đại chúng. Anh thấy bác Thượng là một người đáng bị, và anh lấy làm thẹn rằng anh là cháu bác.
Lòng uất ức của anh một ngày một lớn dần, cho tới khi anh thấy cần phải trả thù bằng việc làm. Hình ảnh em cũng đã bị xóa hẳn trong ký ức anh rồi. Một dục vọng mãnh liệt hơn đã đến chiếm hẳn chỗ tình yêu: Đó là sự trả thù, trả thù cho anh bị hất hủi, và anh rất thành thực ít ra cũng thành thực trong thời ấy, anh rất thành thực mà thêm rằng: trả thù cho cái giai cấp bị hất hủi trong đó có anh.
Thế rồi như em đã biết đó, anh dắt cướp vào nhà em. Chủ ý anh là định giết hai bác, và làm ô nhục em mà anh đã thù ghét đến cực điểm rồi. Vì thế anh cũng chẳng thèm giữ gìn giấu diếm nữa, anh đã đến trước mặt em, ngạo nghễ tỏ cho em biết rằng anh có đủ sức mạnh để chiếm đoạt được em, rằng em đủ tự phự cao quý đến đâu cũng có thể bị bôi nhọ đi như trở bàn tay được.
Nhưng có một điều anh không ngờ là ái tình mà anh tưởng đã chết hẳn, sự thực nó vẫn còn sống dù đó chỉ sống âm ỉ trong tiềm giác anh. Hình ảnh em trong một giây đã đánh thức nó dậy và đã khiến anh trở nên "hèn nhát" (xin tha thử cho chữ ấy) và không dám đụng chạm tới em. Anh đã dám hối hận điều ấy ở trong nhà giam trước khi gặp mặt em đến nhận diện.
Em Nhung, sao em không để anh yên thân với tội lỗi của anh, sao em không để anh yên thân với những hình phạt đương chờ đợi anh, sao em lại đến cứu vớt anh ra khỏi ngục thất và tù đầy? Trời ơi I nay đối với mọi người, anh đã vô tội. Nhưng anh cần gì điều ấy. Riêng đối với em, anh vẫn đời đời kiếp kiếp là một thằng khốn nạn, mà vì điều ấy, anh đã quả quyết tự khép anh vào tử hình.
Thôi chào em ở lại.
SINH
Bức thư ấy đến tay Nhung, và nàng đọc từ đầu đến cuối với một tâm hồn bình thản. Nhưng từ đó nàng trở nên ngẩn ngơ trong ít lâu..
Năm 1966
Khái Hưng
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...