Người Thăng Long 1
Lời tác giả
Hai mươi năm.
Kể từ khi tôi đặt dấu chấm hết cho cuốn “Người Thăng Long” đến
nay đã 20 năm mới công bố phần cuối cuốn tiểu thuyết.
Hai mươi năm để hoàn thành một cuốn tiểu thuyết thì thật là
kì quái. Chẳng ai viết một cuốn tiểu thuyết 10 năm chứ chưa nói đến 20 năm. Con
người ta luôn luôn thay đổi, nếu phải sáng tác một tác phẩm tới 10 năm thì phần
đầu cuốn sách đó sẽ sôi nổi, tươi tắn, phần giữa viết đĩnh đạc, phần cuối viết
kín đáo, thâm thuý. Nói như một anh bạn hoạ sĩ của tôi thì đó là một cô gái 39,
40, mặc áo lơ muya, vấn khăn đuôi gà. Phần đầu của tôi in xong năm 1980, nhân vật
trung tâm là Trần Nhật Duật, ông hoàng Sáu, người Thăng Long thanh lịch, tài
hoa đã thắng được mình trong cuộc chiến đấu với cuộc đời. Phần cuối của tôi,
nhân vật chính là Trần Quốc Tảng, một ông hoàng khác sâu sắc ngạo đời, coi ngai
vàng cũng tầm thường như các chức tước khác. Đáng nhẽ phần cuối ra mắt bạn đọc
năm 1986 nhưng có một sự cố làm cho tôi phải đốt tất cả đi như Trần Anh Tông
sai đốt tất cả bản thảo, tranh vẽ của mình trên giường bệnh. Đó là vì khi
nghiên cứu tư liệu, tôi được đọc một bài ca cổ có những ca từ ngạo đời, phóng
cuồng hết mực với hai câu đầu:
Trời đất xa trông chừ sao ta thấy mênh mông.
Ngoài vòng cương toả chừ ta chống gậy chơi rong.
(Trích Phóng cuồng ca).
Trong một số Tạp chí Văn học khoảng năm cuối 70 đã xác định
tác giả Phóng cuồng ca là Trần Quốc Tảng. Tôi bị mê hoặc bởi con người Trần Quốc
Tảng, ngạo đời, triết gia và phần cuối tiểu thuyết đã hoàn thành trên nền tảng
các sự kiện xoay quanh một tâm điểm là Trần Quốc Tảng. Đến lúc tôi sắp đưa bản
thảo thì Tạp chí Văn học lại công bố một bài khác định Phóng cuồng ca là của Trần
Tung. Thế là sụp đổ hết. Tôi định cứ công bố tác phẩm như vậy bất chấp về
nghiên cứu là như thế nào. Trong lịch sử văn học thế giới đã chẳng có hiện tượng
Koestler viết Spartacus, trong mỗi chương truyện đều có một câu đề từ trích từ
sử biên niên và trong chương ông viết ngược lại với câu đề từ.
Nhưng rồi tôi không làm điều đó vì nó ngược với cách thường
viết của tôi, là các mấu cớ phải là chuyện có thực trong lịch sử! Phải bỏ phần
đó và tôi viết lại phần cuối. Đó là những năm 1990, Trần Quốc Tảng cứ ám ảnh
tôi làm cho tôi không dứt ra được. Phải đến lúc tôi “gặp” Đỗ Vỹ, một điệp viên
gần như duy nhất được ghi trong chính sử, một hàn sĩ, một người Thăng Long
khác, tài hoa, nghệ sĩ, đàn ngọt, thơ hay, bút vẽ thần tình, đường kiếm siêu việt...
Nó chọi với Trần Nhật Duật trên mọi phương diện, một vế đối. Tôi bấy giờ mới hoàn
chỉnh được cuốn tiểu thuyết nhanh chóng, gọn ghẽ, thẳng tắp như một mũi lao
phóng đi không chút ngập ngừng.
Thế là cuốn tiểu thuyết hoàn thành sau 20 năm, tôi vui sướng
kể lại với bạn đọc trong hai trang giấy này.
Hà Ân
Chương 1
Trời đã về chiều. Rặng Yên Tử xa xa đã sẫm màu, một màu tím
mơ màng, bí mật. Một người cưỡi ngựa phi nước kiệu trên con đê thấp viền dòng
sông Lục Đầu, hai bên trồng một giống nhãn gốc to, thân vặn cong xuống, tán thật
thấp, lá cành loà xoà cả ra giữa mặt đê. Những con chuồn chuồn “đi tu”, bay đứng
im lìm trên không trung, chỉ có đôi cánh khẽ run rẩy.
- Trời lại sắp trở gió. Không biết ta có về kịp Côn Sơn đêm
nay không?
Kị sĩ ngước lên nhìn trời dày đặc mây đen xám. Gió xuân đông
bắc vẫn dìu dặt thổi về chợt lạnh, chợt ấm đưa hương nhãn sực nức không gian. Đến
cái điếm hộ đê vắng teo, kị sĩ ghìm ngựa lại. Con ngựa đang mải nước phi, bực dọc
gục gặc cổ hầm hừ. Kị sĩ cả cười, vỗ yêu lên cổ ngựa. Nó thật là một con tuấn
mã. Màu lông đen nhưng nhức, chỉ có một vệt trắng từ khấu đuôi đến lưng chừng bộ
lông đuôi cong lên đúng kiểu tướng ngựa tranh tiên nhưng cũng không muốn có con
ngựa nào khác chạy liền kế ngay sau mình.
Cái đầu con ngựa nhỏ, gầy, gân guốc, hai lỗ mũi nở rộng hếch
lên như hất lửa. Ức nó rộng, mông tròn, bốn vó dài, nhỏ như chân hươu rê những
chiếc móng tròn xoe dày lên, xéo lên những nụ hoa nhãn rụng đầy mặt đất.
- Đừng nổi giận, đừng nổi giận, con trai yêu của ta. Rồi con
sẽ được phi cho thoả bốn vó đuổi gió của con mà. Nào đứng cho yên đi con.
Kị sĩ ngọt ngào dỗ con ngựa quý. Anh ta ăn mặc quá ư xuềnh
xoàng, một bộ quần áo nâu đã bạc nhưng may chẽn. Đầu chít một chiếc khăn màu
tam giang bằng là, chiếc khăn chít thật khéo, hai nếp đầu xếp chéo lên nhau
thành một chữ nhân hơi lệch trên vầng trán rám phong sương nom thật duyên dáng
giang hồ. Ngang lưng kị sĩ thắt một chiếc thắt lưng vải bình thường màu đen cài
một thanh kiếm ngắn vỏ gỗ có ken những khuyên bằng mây chẻ nhỏ. Kị sĩ đi một
đôi hia nhẹ bằng da dê núi, đế bằng nhưng mũi nhọn, chắc rằng dưới lần da dê phải
có mũi bằng sắt.
Kị sĩ buộc con ngựa vào gốc nhãn rồi đi sang mé đê bên kia. Từ
đây có thể nhìn thấy dễ dàng phong cảnh chung quanh Kiếp Bạc. Một dãy núi đất
năm ngọn không cao lắm chắn mặt sau thung lũng. Mé trước có hai mỏm núi chắn
hai đầu, chân núi ăn liền ra tới bờ sông. Bên trong thung lũng, dựa lưng vào một
quả đồi nhỏ, ẩn sau những vòm cây ăn quả, những mái nhà của trang trại Vạn Kiếp
phô màu ngói đã cũ với thời gian. Từ đây về tới Côn Sơn, chỉ có nơi này tiện
ngay bên đường có thể nghỉ chân một đêm được. Chủ nhân trang trại là đức ông
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng nổi tiếng là người trọng hiền, hiếu khách...
- Nhưng... - kị sĩ vụt cười lớn: - nhưng ta không bao giờ muốn
để chân vào đất của các vương hầu, mặc dù trong thái ấp giàu sang kia ta có một
người bạn tri kỉ.
Lúc kị sĩ cười, người ta mới thấy tất cả vẻ đẹp phong trần của
một chàng trai trẻ nhưng đã sớm phiêu lãng nhiều năm. Chính lúc cười kị sĩ mới
tỏ ra mình chỉ mới hai mươi lăm tuổi là cùng.
- Chẳng thà ta ngủ ngồi, dựa lưng vào một gốc cây.
Kị sĩ lại cười lên ha hả. Bất chợt anh ta thôi cười. Anh ta vừa
nhìn thấy một đám người đang làm lụng bên một dòng suối nhỏ. Nhìn họ làm, mặc
dù công việc mới nửa chừng nhưng kị sĩ cũng hiểu rằng họ đang lắp một cái cọn
nước để lấy nước tưới cho những thửa ruộng cao nằm sát chỏm núi ngoài cùng phía
bắc.
- Đáng ra phải làm cái cọn ở trên mấy chục trượng nữa thì mới
dùng được cho cả những thửa ruộng kia... Hay là họ... họ còn định làm thêm cái
cọn nữa.
- Ô kìa!
Một tiếng reo bên tai làm cho kị sĩ giật mình quay lại. Một
người trẻ tuổi mặc áo lụa thâm lịch sự, vai đeo một chiếc hồ rượu, tay cầm một
chiếc sáo trúc đang trịnh trọng và thân mật vái chào:
- Trời ơi, đúng là hiền huynh rồi. Sáng nay tiểu đệ thấy cây
lan tiêu nở bông hoa cực đẹp, tiểu đệ đoán ngay rằng sẽ có khách quý tới thăm.
Nhưng tiểu đệ không ngờ rằng khách quý lại chính là hiền huynh.
- Không đâu. Hiền đệ không lạ gì ta, chiếc thân phiêu bạt
không quen nghi lễ phiền toái đài các ở các thái ấp. Ta định đi Côn Sơn rồi ta
nhắn hiền đệ xuống đó cùng ta trèo núi Phượng Hoàng hái thuốc. Cữ này mưa xuân,
nhiều giống thuốc đang nở hoa, chính là lúc phải hái để dùng dần.
Rồi kị sĩ lùi lại mấy bước ngắm người bạn:
- Trời ơi, ta thấy hiền đệ khác xa cái hôm hiền đệ cùng với
ta xem chọi trâu ở Đồ Sơn. Bữa ấy, nom hiền đệ... còn... lãng tử hơn ta. Thế mà
bây giờ thì...
- Thì sao hiền huynh?
- Thì đúng là khách công hầu rồi. Hiền đệ bây giờ thật đúng
là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, vương tử thứ ba của đức ông chúa thái ấp Vạn
Kiếp kia kìa. Lại còn văn hài vóc thâm nữa chứ. Đã hài vóc lại còn thêu bướm lượn
bướm bay. Chết nỗi, ta đâm sợ cho thân ta đã từng dám suồng sã với hiền đệ như
hai kẻ du đãng coi trời bằng vung.
Trần Quốc Tảng - chính là đức ông vương tử thứ ba của thái ấp
Vạn Kiếp - cũng cả cười:
- Qua sông phải luỵ đò thôi. Hiền huynh ơi, mặc dù hiền huynh
mắng mỏ thế nào tiểu đệ cũng phải chịu nhưng hôm nay thì hiền huynh phải lưu lại
đây cho tiểu đệ được hầu rượu.
- Rượu thì có bao giờ ta chê. Nhưng thôi, hiền đệ đừng bắt ta
bỏ lời nguyền cũ. Ta rất hiểu hiền đệ cho nên ta mới kết bạn tri kỉ với hiền đệ.
Hiền đệ có nhớ hôm gặp nhau lần đầu tiên không?
- Tiểu đệ quên làm sao được...
Trần Quốc Tảng vốn là một chàng trai quý tộc nhưng tính rất
phóng khoáng, ưa thích cuộc đời lãng du đầy những bất ngờ ở bốn phương trời. Là
một người văn võ toàn tài, Trần Quốc Tảng cứ một ngựa, một kiếm ngắn ăn mặc xuềnh
xoàng đi lang thang khắp nơi. Xem hội, xem phong cảnh, vào núi sâu đàm đạo với
các bậc cao tăng, ẩn sĩ hoặc uống rượu trong một cái quán giữa đường cùng với
những kị sĩ du khách quen thói không nhà không cửa. Cách đây ba năm, Trần Quốc
Tảng ra chơi đảo Vân Đồn. Đúng vào cữ trăng sáng. Trần Quốc Tảng lên dải đá lô
xô ven đảo tìm ra một mỏm ở tít ngoài xa. Anh định thưởng trăng một mình ở đó.
Nào ngờ, đêm ấy bọn buôn lậu Lôi Châu cũng hẹn gặp nhau để bàn bạc về chuyến
hàng sắp tới. Thấy có người lạ mặt, chúng định giết đi để khỏi lộ chuyện. Trần
Quốc Tảng là tay kiếm tuyệt luân nhưng bọn buôn lậu đông hơn mười đứa, chúng
cũng là bọn giỏi võ. Trận đánh diễn ra trên những tảng đá bám đầy hà sắc như
dao. Tiếng kiếm chạm nhau chan chát, lửa toé ra rợn người. Sức đôi bên chênh lệch
nên Trần Quốc Tảng phải vừa đánh vừa lùi và lựa thế sao cho mình chỉ phải đối
phó với một, hai tên trước mặt. Anh đã chém ngã ba tên nhưng không vì thế mà bớt
phần nguy hiểm. Ngược lại, sức anh giảm sút và bọn gian toả rộng ra vây tròn
anh lại. Chính lúc nguy cấp ấy có tiếng thét vang động: “Quân đạo tặc, sao dám
lộng hành!”. Rồi một người từ ngoài vòng vây xông vào giúp cho Trần Quốc Tảng
nhảy vọt khỏi vòng vây. Sau đó cả hai mau chóng chuyền nhảy trên những mỏm đá
chạy vào bãi cát. Trần Quốc Tảng về ngay đồn binh của trấn quan Vân Đồn. Viên
tướng trấn thủ lập tức đưa một số lính tuyển phong chia thành nhiều đường vây bắt
quân gian. Tới mờ sáng bọn gian bị bắt giam hết.
Trần Quốc Tảng tìm ân nhân để cảm tạ nhưng người ấy đã bỏ đi
từ lâu. Anh hối hận mãi. May sao, chỉ ba hôm sau, trong phiên chợ ngọc trai bên
Hòn Én, Trần Quốc Tảng nhận ra ân nhân của mình đang say mê nghe một người hát
xẩm già chơi đàn bầu. Trần Quốc Tảng đã chân thành cảm tạ. Chính vì sự chân
thành đó mà người kia bằng lòng kết bạn với Trần Quốc Tảng nhưng với một điều
kiện: không người nào được làm phiền người nào. Người ấy, xưng tên là Đỗ Vỹ,
không nói một li về gốc tích quê quán. Hai người mau chóng trở thành bạn thân.
Có lẽ đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, Trần Quốc Tảng gặp
một người mà đức ông trẻ tuổi kiêu hãnh ấy phải kính phục về tài năng, về tầm
hiểu biết, về sự lịch lãm việc đời, về cả tâm hồn sâu xa mà không độc ác, ôn
hoà chính đính mà không chấp nê. Hai người thân nhau tới mức mỗi khi có việc gì
cần tới sự giúp đỡ của Đỗ Vỹ, Trần Quốc Tảng chỉ cần nhắn người báo tin là việc
tất xong. Với con người hành tung kì bí như Đỗ Vỹ, việc gì anh cũng làm dễ như
trở bàn tay. Hình như anh quen đủ mọi hạng người trong thiên hạ, kể cả những
người ở bên kia biên giới nữa, mà mức độ thân quen đến không từ nan việc gì hết.
- Sở dĩ ta xuống ngựa chỉ để ngắm xem thế đất nơi đây. Ta có
nghe nhiều người tin ở phong thuỷ nói kiểu đất này đẹp lắm.
- Thế hiền huynh cũng tin ở thuật phong thuỷ à?
- Không đâu, ngay kiểu đất mộ tổ dòng họ nhà hiền đệ ta cũng đã
ngó qua. Chẳng qua có những kẻ không vừa lòng với việc dòng họ Trần giữ ngôi nước
này nên họ đặt điều bêu xấu chứ sự thật có như lời đồn đại đâu.
Nhắc tới chuyện kiểu đất mộ tổ, chắc chắn rằng Đỗ Vỹ không có
ý chế giễu, nhưng Trần Quốc Tảng dù là người khoáng đạt cũng phải ngượng ngùng.
Ngôi mộ này nằm ở địa phận xã Thái Đường phủ Long Hưng. Mộ táng từ trước đây
hàng bảy tám đời, từ cái thuở dòng họ Trần mới chỉ là một dòng họ chuyên làm
nghề chài cá và buôn biển. Chắc chắn rằng khi đó táng ngôi mộ không ai nghĩ đến
đất này phát đế vương. Nhưng khi họ Trần lên thay nhà Lý nắm giữ ngôi báu thì bỗng
có tin đồn trong thiên hạ rằng sở dĩ như vậy là vì ngôi mộ này kết phát. Người
ta truyền tụng nhau: “Phấn đại dương giao chiếu. Liên hoa đối diện sinh. Tha nhật
dĩ sắc đắc thiên hạ”, có nghĩa là: Phấn son chiếu về. Hoa sen nở trước mặt,
ngày sau nhờ sắc đẹp đàn bà mà lấy được thiên hạ.
Chao ôi chỉ có những cái gò lổn nhổn bày biện chung quanh
ngôi mộ mà người này đoán là hoa sen, là phấn son còn người khác thì lại đoán
là thanh kiếm, cái ấn. Nhưng đoán là son phấn và hoa sen thì quả là có ác ý. Chắc
rằng họ ám chỉ đến sự việc cuối đời Lý có loạn, thái tử Sảm phải bỏ kinh thành
chạy về Long Hưng. Nhà dân chài họ Trần đón thái tử về nuôi và che chở. Khi ấy
họ Trần đã giàu có lắm rồi. Trong họ lại nhiều người đi buôn biển nên lịch lãm
giang hồ, giỏi võ, giao thiệp rộng, nhìn cũng xa, mưu cũng lớn. Họ tính chuyện buôn
vua. Họ đem Trần Thị Dung, cô gái xinh nhất họ, gả cho cái anh con vua đang chạy
loạn thất cơ lỡ vận. Rồi họ Trần xuất của nhà ra mộ lính hưng binh phò thái tử
Sảm về kinh lên ngôi vua. Sảm thành vua thì Trần Thị Dung dĩ nhiên phải trở
thành hoàng hậu. Giả sử không có chuyện hôn nhân trên thì làm sao họ Trần rời
được cái vạn chài Cửa Bố về được kinh nắm giữ hầu hết những chức vụ quan trọng
trong triều rồi thừa thời cơ mà nắm lấy ngôi vua được.
Vì triều Trần lập nên không từ một võ công dựng nước như các
dòng họ khác nên vẫn có nhiều người còn nhớ đến các vua Lý. Từ chỗ bất phục dẫn
đến đặt chuyện để giễu cợt chơi.
Không để ý đến vẻ mặt Trần Quốc Tảng, Đỗ Vỹ ngắm nghía chăm
chú thế đất Vạn Kiếp:
- Này hiền đệ xem, có đúng là: “Đầu gối ngũ nhạc chân đạp phượng
hoàng, tả có Bắc Đẩu, hữu có Nam Tào” không? Ta thì không tin rằng thế đất này
là thế đất làm tướng nhưng ta thấy đây quả là đất dụng võ.
- Ấy thế mà thân phụ của tiểu đệ coi trọng việc trồng trọt
trong thung lũng này hơn đấy.
- Không phải là trọng hơn mà là tuỳ thời cơ đó thôi. Cái cọn
nước kia sở dĩ có vì bây giờ cần nhiều thóc lúa nuôi tráng đinh trong thái ấp.
Mà nếu phải dụng võ cũng phải nuôi quân no. Kìa, họ đã nghỉ tay rồi sao?
- Không, đã xong thế nào được. Cọn dựng rồi còn phải buộc các
ống múc nữa cơ mà. Kìa, cái người mặc áo dài nâu kia chính là thân phụ tiểu đệ.
Đỗ Vỹ nghển cổ nhìn. Anh cũng không ngờ một bậc vương gia lừng
lẫy như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng coi trọng nghề nông tới mức đích
thân coi sóc việc đặt một cái cọn nước. Đàng xa, Trần Quốc Tuấn đang giơ tay
giơ chân làm hiệu - chắc rằng ông đang chỉ dẫn cho những gia nô đứng chung
quanh. Họ đang nghỉ tay nhưng quần áo xắn gọn vẫn để y nguyên, như vậy là họ
còn làm nữa. Trần Quốc Tảng còn đang chăm chú nhìn bố thì Đỗ Vỹ chợt cười:
- Ta nói đúng mà. Ta đâu có phải là khách của thái ấp Vạn Kiếp,
khách quý của thái ấp ngày hôm nay đang đến kia kìa.
Trần Quốc Tảng nhìn theo tay chỉ của Đỗ Vỹ. Trên sông, ba chiếc
thuyền buồm đang rẽ sóng vào bến. Rõ ràng đây là những chiếc quan thuyền. Chiếc
thuyền nào cũng cắm cờ đỏ khé và thuỷ thủ mặc nhung phục của lính trạo nhi.
Trên mũi thuyền đi đầu có một văn quan mặc áo màu đại hồng.
- Tại sao hiền huynh biết chắc rằng những người này đến thái ấp
Vạn Kiếp?
- Có gì là khó đoán đâu. Hiền đệ thử xem, trên mũi quan thuyền
thứ hai kia có cái biển gì sơn son, đúng là cái biển “Khâm sai truyền chỉ”
không? Rồi hiền đệ cố đoán xem quan khâm sai kia là ai?
- Ờ... quan học sĩ Đinh Củng Viên. Thế thì quả là họ vào chỗ
thân phụ của em rồi.
- Chứ còn đi đâu nữa. Cả một dải đông bắc này có nhà ai mà
hoàng thượng phải sai quan khâm sai đến truyền chỉ nào?
Đoàn quan thuyền đã vào bến. Những người lính dẫn lộ biển
“Khâm sai” đã lên bờ. Họ dàn những lá cờ đại đi trước rồi đến trống mở đường.
Hai chiếc lọng vàng che chênh vênh bên trên cái biển sơn son chữ vàng. Quan
khâm sai trịnh trọng đi ngay bên dưới biển, hai bên ngài có hai ngũ lính ngự
lâm vác kiếm tuốt trần hộ vệ.
- Kì này thì thân phụ của hiền đệ chắc chẳng còn thì giờ đâu
mà lo những chiếc cọn nước nữa.
- Tại sao vậy hiền huynh?
- Tại vì có việc trọng yếu tới mức phải cần đến đức ông Hưng
Đạo. Có thể một là phải tiếp sứ, hoặc hai là...
- Hai là sao cơ hiền huynh?
- Hai là sắp phải dụng binh. Mà ta nghĩ có lẽ vì cả hai lí
do. Tháng trước khi chơi bên bán đảo Lôi Châu, ta đã được chứng kiến họ bắt
lính dân chài và trưng dụng thuyền vận tải đường biển.
Đỗ Vỹ nhìn chăm chăm người bạn không phân biệt vị thế rồi tiếp:
- Có thể cả hiền đệ cũng sẽ không còn dịp đi chơi hội xuân
này ở vùng biển nữa đâu. Nếu đúng như phán đoán, nếu đến mức phải triệu đến đức
ông Hưng Đạo lên kinh cũng có nghĩa là phải cần đến tất cả các đức ông chi Vạn
Kiếp đó.
Bên dưới ruộng, những người làm cọn nước cũng được biết tin
có khách đến. Họ tất tả kéo nhau tắt cánh đồng chạy về trang trại nằm dựa lưng
vào núi Ngũ Nhạc.
Đỗ Vỹ cả cười:
- Nếu mai hiền đệ rảnh thì xuống Côn Sơn, còn nếu bận thì
thôi. Bây giờ thì ta đi đây.
Đỗ Vỹ cởi cương ngựa nhảy phắt lên yên. Con tuấn mã hí dài
trước khi sải vó phi nhanh. Đỗ Vỹ giơ cao roi ngựa chào từ biệt...
Chương 2
Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật mới từ lộ Đà Giang về kinh đêm
hôm qua nhưng phủ Chiêu Văn đã nhộn nhạo quay cuồng như một đàn ong động tổ.
Gia tướng, thư nhi, thị nữ, gia nô, người nào cũng tất bật để làm cho xong được
quá nhiều mệnh lệnh của đức ông hoàng Sáu. Hàng loạt rèm lụa màu cốm non bị
tháo xuống, thay vào đó là những tấm mành trúc nan vót cầu kì, sản phẩm tuyệt
tác của các cô gái sơn cước. Những người thị nữ chầu hầu hối hả trải lên mặt những
án thư, văn kỉ những tấm gấm thổ dệt cách ô đen đỏ. Những lưỡi giáo Chiêm Thành
gác trên vách cho đẹp cũng được gỡ xuống. Người ta dùng lụa màu kết hoa mẫu đơn
treo những chiếc khèn lau, những lưỡi dao Lão Qua vỏ tre, một cái tù và sừng
trâu rừng bịt đồng thau thô sơ... Lính trạo nhi dùng xe trâu chở từ bến Đông về
phủ đệ những chậu cây quý lấy giống từ rừng đại ngàn. Các thư nhi tất bật đo đạc
ngoài vườn, trồng lại vườn theo ý của Trần Nhật Duật. Đức ông hoàng Sáu treo giải
thưởng thật hậu cho những ai tìm được những tên đẹp, tên hay để đặt tên cho những
giống cây lạ mới đem về hôm trước. Dưới bếp còn tíu tít hơn nữa. Ai cũng biết rằng
khi Trần Nhật Duật có mặt ở phủ đệ kinh kì ngày nào là ngày ấy ông thết tiệc.
Khách công hầu, khách văn chương, khách nước ngoài đang vì việc công hoặc việc
riêng mà có mặt ở Thăng Long đều lui tới vương phủ Chiêu Văn. Trần Nhật Duật nổi
tiếng hiếu khách. Ông tiếp họ rất niềm nở đậm đà, có khi hết sức chí tình nếu
như người khách đó chỉ là một hàn sĩ. Sau những ngày vắng người chủ hào hoa,
vương phủ Chiêu Văn bận rộn tíu tít...
Nhưng trong lúc đó, Trần Nhật Duật đang mải mê xem ngựa ở tàu
ngựa mé sau phủ đệ. Đức ông có một tàu ngựa riêng mấy chục con tuấn mã. Con ngựa
này bền sức để đi đường xa, con này gân guốc linh hoạt chuyên dùng để cưỡi đi
săn đuổi, con này ngoan dùng để đi chơi phố phường đông người, con này để cưỡi
khi đánh phết, con này dạn khói lửa để cưỡi ra trận. Mỗi con một nết, mỗi con một
sở trường, mỗi con một sắc lông mà con nào cũng đẹp như ngựa vẽ trong tranh.
Ngay ông Tô Nghĩa Đông nổi tiếng là tay xem tướng ngựa sành nhất hai nước Tống-
Việt cũng khó mà kiếm được một tật để chê ngựa của đức ông hoàng Sáu, Ấy thế mà
hôm nay Trần Nhật Duật và bọn thị mã gia tướng phải ngắm không rời mắt một con
ngựa mới. Con ngựa này do một người buôn biển, dân châu Ô cực nam, biếu Trần Nhật
Duật làm lễ ra mắt khi đoàn thuyền buôn của ông ta cập bến Đông và được Trần Nhật
Duật chỉ bảo cho cách thức trình báo với ty Đại an phủ sứ coi quản mọi công việc
ở kinh thành. Con ngựa mới hai tuổi, gầy, bộ lông đen xù lên và xơ xác nhưng nó
rất cao, mình trường, bốn vó dài mảnh và bộ lông đuôi cong ngay từ khấu nom như
đuôi gà trống. Có lẽ người Thăng Long chưa từng nhìn thấy con ngựa nào cao và
trường mình đến thế. Ngay cái vệt vá trắng dọc từ trán xuống đến mũi nó cũng rất
lạ. Con ngựa bây giờ xấu mã nhưng chắc chắn chăm vỗ vài tháng sẽ thành một con
vật mà tất cả khách phong lưu mã thượng kinh thành phải thèm thuồng tuyệt vọng.
Trần Nhật Duật bẻ một nắm thân cây mía non dứ con ngựa:
- Ăn đi! Ăn đi! Này bọn bay, đã có lần ta gặp một con ngựa
cũng màu lông ô như thế này. Đó thật là một con tuấn mã. Chỉ khác là nó có một
vệt trắng từ khấu đến lưng chừng đuôi. Con ngựa ấy tuyệt hảo nhưng nó còn không
cao và không trường mình bằng con này.
Một thị mã thường được tuỳ tùng Trần Nhật Duật trong những lần
đi xa kinh thành hỏi:
- Thưa đức ông, có phải con ngựa mà đức ông trả giá hai trăm
quan tiền và các luôn cả thanh kiếm quý Bạch Lộ không ạ?
- Ừ, đúng đó. Mà ta chưa hề thấy thằng cha nào cao ngạo như
cái thằng chủ con ngựa ấy. Mi có nhớ hắn hỏi ta câu gì để thay câu trả lời
không?... Hắn hỏi thế này chứ: “Nếu túc hạ có may mắn làm chủ một con ngựa như
thế này thì túc hạ có đem bán nó đi không?”
- Thế thì tôi nhớ ra rồi. Khi ấy đức ông hỏi vặn hắn rằng:
“Thế thì tại sao túc hạ có nó được?”. Hắn ta trả lời: “Tại vì người ta quý kẻ
hèn này mà tặng thôi.”
- Ừ đúng rồi, ta tức lắm nhưng ta phải nhận hắn nói đúng. Tuấn
mã nhường ấy chỉ có tặng nhau chứ đâu có đem bán. Nhưng này, - đức ông hỏi các
thị mã, - đặt tên cho con ngựa này là gì nào?
Thị mã cận vệ Hoàng Mãnh, viên gia tướng trẻ thân cận tranh
nói ngay:
- Bẩm đức ông, em muốn gọi tên nó là Hắc Long Câu.
- Hừ. Ngựa đen đuôi rồng! Thường quá! Con ngựa đánh phết của
đức ông Chiêu Quốc cũng đã được đặt tên là Hồng Long Câu rồi mà.
Hoàng Mãnh vốn cùng tuổi với Trần Nhật Duật, anh đã được Nội
cung chọn theo hầu đức ông hoàng Sáu từ khi đức ông mới lẫm chẫm biết đi. Thực
ra Mãnh là bạn chơi đùa, cùng học, cùng tập côn quyền, cùng ăn, cùng ngủ với Trần
Nhật Duật. Khi Trần Nhật Duật lớn lên được phong vương, vua cha đưa ông ra khỏi
hoàng thành mở phủ Chiêu Văn cho hoàng tử ở, Hoàng Mãnh cũng được đi theo.
Nhưng vị thế hai người bây giờ khác nhau như nước với lửa. Tuy cả hai người đều
phải giữ lễ nhưng thực ra Trần Nhật Duật vẫn coi Hoàng Mãnh như một người em đồng
nhũ đồng tuế, một người bạn tâm phúc tương tri. Những lúc vắng người hai anh em
vẫn thường suồng sã với nhau. Bây giờ cũng vậy, Hoàng Mãnh buột miệng:
- Thế thì mình gọi quách... Bẩm đức ông, hay ta đặt cho nó một
cái tên nôm.
- Ừ, các ngươi cùng nghĩ thử xem.
Các thị mã ồn lên tranh nhau nói. Người thì muốn ngựa mang
tên là Ô Lĩnh, nhưng người khác thì chỉ muốn gọi là Ô không thôi. Người thì
khen con ngựa có tầm cao như thế thì phải đặt tên nó là Nêu Tết. Có người thì bảo
nó có cái vệt trắng ở mũi sao không đặt tên nó là con Vá làm cho tất cả cười ồ
lên chế giễu anh ta lầm ngựa thành chó.
Trần Nhật Duật vỗ lên ót ngựa và cảm thấy gân thịt nó rắn
đanh. Ông hoàng trẻ thốt reo lên:
- Phải rồi! Nó là con ngựa ta sẽ cưỡi đi trận. Ta sẽ gọi nó
là con Bão Đêm.
Mấy anh thị mã trong bụng có anh thích có anh không thích
nhưng đều đồng thanh rú lên:
- Bão Đêm! Hay quá, Bão Đêm, mạnh, dữ, ác liệt và bí mật như
cơn Bão Đêm.
Con mắt Hoàng Mãnh tinh nghịch loé sáng lên liếc ngang:
- Bẩm đức ông! Ta thách đức ông Chiêu Quốc để trả nợ lần trước.
Nghe đến thi ngựa, Trần Nhật Duật mặt sa sầm xuống. Ông hoàng
trẻ nhớ lại lần thi ngựa mấy tháng trước đây ngoài bãi sông Cơ Xá với Chiêu Quốc
vương Trần Ích Tắc. Trần Nhật Duật và Trần Ích Tắc là hai anh em cùng một mẹ
sinh ra. Ích Tắc tuy chỉ hơn Nhật Duật một tuổi nhưng bao giờ cũng là người đầu
têu các trò nghịch ngợm lúc nhỏ tuổi, khi lớn lên vẫn là người dẫn đầu việc học
võ, học văn, việc chiêu nạp tân khách, thủ hạ, việc mở hội bình văn cho đến việc
ăn mặc, việc bày biện trang trí trong phủ đệ. Có thể nói từ lễ nhạc, bắn cung,
cưỡi ngựa, làm thơ, đến các món tạp kĩ như đánh cờ tướng, đá cầu, luyện ngựa,
luyện chó săn, nuôi chim, vẽ tranh sơn thuỷ, nghề nào Ích Tắc cũng giỏi, cũng
hay hoặc cũng có một chút gì dị biệt để chỉ dẫn cho Trần Nhật Duật, dù tí chút
dị biệt ấy đôi khi chính Trần Ích Tắc cũng không cho là đúng. Ba tháng trước Trần
Ích Tắc nhân một chuyến săn đuổi với Trần Nhật Duật ở rừng dâu da bờ trái con
sông Thiên Đức có ngỏ ý khen các con ngựa của tàu ngựa phủ Chiêu Văn. Sau đó Trần
Ích Tắc rủ Trần Nhật Duật thi ngựa ở bãi sông Cơ Xá. Cả ba lần thi (thi chạy
nhanh, thi vượt rào, thi bền sức) con Hồng Long Câu đều thắng cuộc con ngựa nhất
tàu ngựa phủ Chiêu Văn. Sau cuộc thi Trần Ích Tắc bảo Trần Nhật Duật:
- Em luyện ngựa rất khá. Ngựa của tàu ngựa vương phủ Chiêu
Văn vào loại nhất nước nhưng ngựa nước mình sánh thế nào được với con Hồng Long
Câu.
Đúng thế, con Hồng Long Câu là tặng vật của viên quan Đạt Lỗ
Hoa Xích Buyan Têmua cho Trần Ích Tắc năm ngoái. Viên quan nhà Nguyên chịu
trách nhiệm giám sát triều đình ta đã nói với Trần Ích Tắc buổi tặng ngựa:
- Thế là Điện hạ có một con ngựa độc tôn ở nước này. Nó ra đời
trên thảm cỏ thiêng bên bờ sông Ô Nôn nơi tiên đế Thiết Mộc Chân được chín tộc
Mông Cổ suy tôn là Thành Cát Tư Hãn. Nó lại được chọn đưa về tàu ngựa ngự của
Thánh Thiên Tử Hoàng đế nhà Đại Nguyên và của cả thiên hạ nữa. Đưa nó xuống nước
Việt này mất biết bao công phu. Dọc đường đi, nó đã uống nước sông Hoài, sông
Hán, sông Hoàng và sông Dương Tử. Nó đã ăn đậu Ngạc Châu, ăn kê Giang Lăng, ăn
thóc Châu Ung, ăn cỏ Quế Châu. Thế cơ đấy!
Ý của viên Đạt Lỗ Hoa Xích là muốn nhắc khéo cho Trần Ích Tắc
biết rằng hoàng đế nhà Đại Nguyên có biệt nhỡn với hoàng thân Chiêu Quốc nhưng
ban ngựa quý khôn khéo như một tặng vật thông thường của Đạt Lỗ Hoa Xích cho những
người của triều đình Đại Việt phụng mệnh tiếp sứ. Con ngựa quả là một con vật
quý giá. Tuy nó còn non, chỉ mới hơn hai tuổi nhưng nó đã có đầy đủ đức tính của
một con ngựa đáng giá ngàn vàng: chạy nhanh, bền sức, chân vững chãi, pháo nổ
không giật mình. Chỉ phải mỗi cái tội là nó khảnh ăn và sợ voi. Vừa mới ngửi thấy
hơi voi là nó đã rúm bốn vó lại, hai mắt trợn trừng trợn trạc. Còn cái tật khảnh
ăn thì thật khó chịu: cỏ dày thì chê, cỏ mần chầu thì gặm uể oải vài ngọn, và cứ
phải cỏ mật thật sạch thật non mới chịu ăn cho tử tế. Ấy thế mà nó đã thắng hết
sức dễ dàng con ngựa đầu tàu của Trần Nhật Duật. Đức ông hoàng Sáu mỗi lần nhớ
tới cuộc đua đó thì không phải ấm ức vì thua mà là cái gì đấy vướng víu trong
lòng. Đúng, nó không phải cái buồn của người thua cuộc. Hình như nó là một chút
giận tủi thiên nhiên không ưu đãi đất nước này, thiên nhiên đã không cho đất Việt
một giống danh mã cho nên hồn. Ở khắp nước chỉ thấy một giống ngựa thấp nhỏ
lách chách, lành như đất, ăn cả rơm cả rạ và không một con nào có lấy một cái
rung bờm cho duyên dáng. Cho mãi đến bây giờ mới thấy con ngựa đen châu Ô
này...
- Hãy tập con Bão Đêm thêm ít tháng nữa xem sao. Ta muốn nó
thắng con Hồng Long Câu nhưng phải biết chắc chắn sức nó thế nào đã rồi sẽ hay.
Còn bây giờ... ta cấm các ngươi không được tiết lộ tung tích con Bão Đêm với bất
kì ai. Nhớ cho kĩ đấy. Đứa nào sổng miệng là ta xẻo lưỡi.
Trần Nhật Duật quắc mắt nhìn các thị mã. Những người này hiểu
rằng Trần Nhật Duật không doạ họ mà ông sẽ làm thật nếu ai làm trái điều ông vừa
căn dặn. Vừa lúc ấy một gia nô bước vào sân tập ngựa thưa với Chiêu Văn vương:
- Bẩm đức ông, Trịnh công tử xin vào ra mắt!
Nghe nói có Trịnh Mác xin vào yết kiến, Trần Nhật Duật tươi
nét mặt. Đức ông ra lệnh đưa Trịnh Mác vào liên đình. Trước khi đi thay bỏ quần
áo tập ngựa, Trần Nhật Duật còn dặn bọn thị mã lần nữa:
- Nhớ đấy! Đứa nào sổng miệng ta xẻo lưỡi.
Trần Nhật Duật đã thay xong quần áo. Đức ông mặc một chiếc quần
lụa đỏ, gấu quần chùm lên mũi văn hài thêu ong bướm bằng chỉ bạc; một cái áo
hàng vân tơ tằm chuội chanh óng nuột, đôi cửa tay may rộng đột chỉ trứng rận
nom thật nho nhã. Vì Trịnh Mác là hàng con cháu nên Trần Nhật Duật không đội
khăn. Ông búi tóc cho gọn, cài một cái trâm đồi mồi giữ tóc. Cái trâm này là đồ
trang sức duy nhất trên mình ông. Tính không ưa dùng đồ trang sức của đức ông
hoàng Sáu vốn là điều trái nết nhất và rõ rệt nhất với Chiêu Quốc vương Trần
Ích Tắc, anh ruột ông.
Hai gia tướng và bốn cô thị nữ phò ông hoàng trẻ đến liên
đình. Hoàng Mãnh dõng dạc xướng:
- Đức ông đã đến. Thỉnh đức ông thượng đình.
Những người hầu coi quản liên đình dẫn Trịnh Mác ra quỳ đón
Chiêu Văn vương ở thềm đình. Trịnh Mác sụp lạy Chiêu Văn vương hai lạy, miệng
nói to:
- Chú đã về! Cháu chúc chú trường thọ.
Trần Nhật Duật nhanh nhẹn bước lên chín bậc thềm đình, chìa
hai tay đỡ người con trai đứng lên, giọng ông hồ hởi:
- Ta miễn lễ cho cháu. - Trần Nhật Duật ngả người ngắm chàng
trai: - Chà, cháu cao lớn quá, cao lớn quá rồi. Cháu đã thành một trang nam tử
mà tất cả các bậc quốc sắc thiên hương đều mong mỏi được đem nụ cười nghìn vàng
ra nài tặng đấy.
Ông cười, mắt nheo lại, đuôi mắt rạn chân chim.
Trịnh Mác cả thẹn, đỏ mặt lên, cúi đầu xuống giấu một nụ cười
ngượng nghịu. Trịnh Mác quả thực đã trở thành một chàng trai khôi vĩ dị thường,
cái mũi dọc dừa sống sắc như đá đẽo, đôi mắt tròn to, mi mắt dài cong rậm rạp
nom thâm trầm và đa cảm đồng thời cũng huyền bí như rừng núi nhưng cái miệng cười
rất tươi để lộ hàm răng đều đặn to khoẻ và bóng láng đem lại vẻ đẹp khoẻ mạnh,
trong sáng, thiên thần của tuổi mười bảy. Vóc người Trịnh Mác cao lớn, cái cổ
tròn mập mạp của một lực sĩ nhưng đôi bàn tay hết sức thon mảnh như tay một văn
nhân. Anh ấp úng:
- Chú cứ chòng cháu chứ cháu so thế nào được với các vương
tôn công tử kinh kì.
Trịnh Mác nói tiếng kinh kì đã sõi nhưng dù sao người ta dễ
dàng nhận ra giọng sơn cước vùng sông Đà của anh. Trần Nhật Duật bật cười về
cái e thẹn nhút nhát của Trịnh Mác. Ông cầm tay chàng trai trẻ dắt vào liên
đình. Ngôi đình xinh nhỏ ba mặt bỏ trống chỉ có một mặt vách hậu ghép gỗ quý
treo một bức tranh lụa cổ vẽ cảnh Lưu Linh say rượu ngủ lăn quay dưới một vòm
đào thưa thớt. Đầu Lưu Linh gối trên cái bát, chân trái gác lên cái hồ rượu đổ
nghiêng. Mà kì lạ làm sao đôi mắt bợm rượu Lưu Linh nhắm tít nhưng miệng ông vẫn
nhoẻn cười nom vừa khoái chí vừa ngô nghê. Chính giữa liên đình kê một cái sập
gỗ gụ chạm hoa lá cầu kì trên trải một chiếc chiếu cạp điều. Trần Nhật Duật dẫn
Trịnh Mác đến bên sập, cho phép anh ngồi hầu chuyện.
Đã quen lệ cũ, thị nữ dâng trà. Dâng trà xong, tất cả thị nữ,
gia nô im lặng ra khỏi liên đình, trừ Hoàng Mãnh. Đây vốn là chỗ Chiêu Văn
vương tiếp một vài khách thân tình nhất, thường là khách văn chương hoặc một
tay đàn bậc thầy, một kì thủ cự phách. Liên đình nằm lọt giữa một cái hồ nhỏ thả
một thứ sen trắng hương say sưa gọi là tuý liên. Trời đã sang đầu tháng tư, mùa
hoa nở, những bông tuý liên, đoá hàm tiếu, đoá mãn khai toả mùi thơm du hồn
khách liên đình lâng lâng thoát tục.
Trần Nhật Duật trao tay cho Trịnh Mác một chén trà:
- Cháu nhắp thử xem có nhận ra vị trà gì không?
Trịnh Mác nhắp một ngụm nhỏ. Hương vị trà quen thuộc gợi man
mác vị sầu xứ nhớ quê. Hương trà này sao mà quên được!
- Thưa chú, trà cỗi vùng núi đá châu Mai.
- Cháu ta sành lắm! Sành lắm! Bữa ta xuống thuyền xuôi sông
Đà, bố cháu biếu ta một số quà quý trong đó có những cánh chè do các cô nàng
quê cháu vừa hái và sao xong chiều hôm trước. - Trần Nhật Duật cười bảo Hoàng
Mãnh: - Còn nhà ngươi chắc không thích cái hương vị quá tinh khiết này?
- Bẩm đức ông, ở châu Mai tôi chỉ ưa có chất men nếp cẩm.
Nói xong Hoàng Mãnh liếm mép.
Qua vài câu đưa đẩy, Trần Nhật Duật nghiêm nét mặt im lặng
nhìn Trịnh Mác. Trịnh Mác hiểu ý ông hoàng trẻ, anh tuần tự kể lại những gì anh
được mắt thấy tai nghe trong triều.
- Thưa chú, bữa đón tiếp sứ bộ của thằng Sài Thung chú còn ở
nhà, cháu không kể lại nữa.
Trần Nhật Duật gật đầu. Trịnh Mác kể tiếp. Đoàn sứ giả nhà
Nguyên sang ta lần ấy rất đông. Riêng quân hộ tống có mấy ngàn tên. Cùng đi với
đoàn này có quốc thúc Trần Di Ái. Ông này năm trước cầm đầu một sứ bộ của triều
đình Đại Việt sang chúc thọ vua nhà Nguyên và dâng lễ cống. Vua nhà Nguyên bèn
doạ ông quốc thúc này và buộc ông ta phải nhận một tước phong giả dối là An Nam
quốc vương. Vua nhà Nguyên đã nhiều lần đòi vua nước ta sang ở làm con tin. Vua
ta vẫn từ chối khéo không chịu sang. Lần ấy vua Nguyên kiếm cớ gây sự phong quốc
vương cho Trần Di Ái nhằm đưa cái ông quốc thúc hèn nhát ấy về nước, ép triều
đình ta phải nhận vua mới. Nhưng khi phái bộ Sài Thung đưa ông quốc thúc ấy tới
biên giới thì ông ta biết tội trót nhận tước phong của giặc làm nhục đến quốc
thể, nên ông ta bỏ trốn về trước mong vua ta mở lòng thương xót người biết hối
lỗi và thể tình thân thích cùng họ cùng một máu mủ họ Trần. Cuộc bỏ trốn vào thời
điểm chót làm Sài Thung chưng hửng. Nhưng gã sứ giả này vẫn hi vọng dùng uy
thanh của những đội quân chinh phục Thát Đát doạ nạt được triều đình ta nên y cứ
dẫn đầu phái bộ xuống Thăng Long. Gã đòi cống người, cống của. Gã đòi quan gia
ta phải sang lạy mừng Nguyên chúa Hốt Tất Liệt. Nói chung là những yêu sách mà
chúng vẫn đòi ngót mười năm nay. Nhưng lần này, chúng có thêm một yêu sách mới:
chúng đòi cho mượn đường để chúng đem một đạo quân viễn chinh đi xuống phương
nam đánh nước Chiêm Thành. Trong cuộc hành quân trên đất Đại Việt, việc cấp
lương cho đạo quân viễn chinh này sẽ do nước Đại Việt cung đốn, kể cả việc cấp
thịt cho lính, cấp cỏ ngựa, cung đốn rượu tăm Giao Chỉ cho tướng. Tất cả những
yêu sách hỗn xược ấy đều bị khước từ một cách khéo léo. Một mặt quan gia ta cáo
ốm, nói rằng sinh trưởng ở phương nam xứ nóng không quen chịu đựng cái rét xứ
tuyết, rồi phân trần nước nghèo mấy năm liền mùa màng thất bát, trăm họ ăn bữa
đói, bữa no, rồi than phiền đường sá hiểm trở chẳng tiện cho việc hành binh và
cũng không thuận tiện cho việc tải lương. Nhưng mặt khác triều đình ta mở tiệc
to tiệc nhỏ thết đãi từ tên chánh sứ ngông cuồng đến cả những tên lính Nguyên
hung dữ. Cuối cùng đoàn sứ giả doạ không được, làm dữ thì không đủ sức, đành
lên đường tiu nghỉu về nước. Buổi tiễn đưa sứ Nguyên, triều đình ta làm rất trọng
thể. Đức ông hoàng Ba Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đích thân coi sóc mọi việc.
Hoàng tộc còn cho mời thêm vị vương thứ nhất chi Vạn Kiếp là Hưng Đạo vương Trần
Quốc Tuấn về làm nhiệm vụ bồi tiếp sứ Nguyên. Có tiệc trọng thể ở Thăng Long rồi
mà còn mở tiệc biên đình, có chuốc vài chén quan hà tạ từ lưu luyến, làm thơ
lưu giản tặng nhau. Chiêu Minh vương còn tiễn Sài Thung mấy vần thơ:
Biết đến bao giờ vui gặp mặt.
Ân cần, tay nắm chuyện hàn huyên.
làm cho Sài Thung phải nghiến răng lại mà cười.
Trong thời gian này, Trịnh Mác làm việc trong cung nên anh ta
nắm được nhiều chuyện thật tỉ mỉ. Câu chuyện Mác kể vừa rõ ràng vừa nhiều tình
tiết sống động.
- Thưa chú nhưng sau chuyện tiếp sứ này việc bang giao giữa
hai nước xem ra bế tắc. Thằng Đạt Lỗ Hoa Xích Buyan Têmua cả ngày dẫn tay chân
lồng lộn khắp phố phường kinh thành kiếm cớ gây sự. Nó còn phái nanh vuốt trà
trộn vào dân dò la xem ta giấu quốc thúc Trần Di Ái ở đâu.
Trần Nhật Duật bật cười. Có tài thánh thằng Buyan Têmua cũng
không tìm nổi tung tích Trần Di Ái. Ngay cái đêm sứ bộ của Sài Thung dự bữa tiệc
triều đình ta tiếp đón thì cũng là lúc Thượng hoàng Trần Thánh Tông sai ông giải
Ái lên lộ Đà Giang giao cho tù trưởng châu Mai Trịnh Giốc Mật giam giữ cẩn thận.
Trịnh Giốc Mật là anh em kết nghĩa đã trích máu ăn thề với ông. Trịnh Giốc Mật
là bố của Trịnh Mác, chàng trai khôi vĩ đang ngồi trước mặt ông.
- Thưa chú, quân Nguyên đã xuất phát nhưng không phải chúng
đánh ta. Tướng giặc Toa Đô đã dẫn quân đi bằng đường biển, chúng đã đổ bộ vào
Chiêm Thành. Có lẽ chúng đã đặt chân lên đất liền gần một tháng nay.
Trịnh Mác ngập ngừng. Trần Nhật Duật trầm ngâm. Ông hiểu cháu
ông đang nghĩ gì. Quân giặc định gây hấn với nước nào? Với Đại Việt hoặc là với
Chiêm Thành? Lũ giặc này cuồng ngông bạo ngược lắm. Chúng sai sứ giả sang ta mượn
đường đánh Chiêm, nhưng trước đây bốn tháng chúng cũng đã sai một sứ bộ khác
sang Chiêm thuyết phục vua Chiêm cùng đánh ta. Như vậy là chúng muốn chiếm cả
hai nước này, lũ giặc kia có tham vọng quyền uy của thiên triều nhà Đại Nguyên
vươn dài mãi xuống vùng biển phương nam nóng ấm, mỗi năm mấy mùa lúa bội thu,
cây trái lúc nào cũng lúc lỉu quả ngọt, trên rừng thì sâm nam, nhung hươu sao,
mật gấu, ngà voi... dưới biển thì san hô, mã não, đồi mồi, ngọc trai... Chỉ nói
riêng thứ trầm hương ngào ngạt mà tất cả cái đám quan tướng hôi hám nhà Nguyên
đều rất thèm thuồng đã là miếng mồi ngon mà chúng mong được độc chiếm. Sở dĩ
nói độc chiếm vì từ trước đến nay, vua ta theo nghĩa “Lộc bất khả hưởng tận”,
có bao giờ quên món trầm hương trong số lễ vật cứ ba năm một lần đi cống “Thiên
triều”
Cho nên thông minh nhất là hai nước phải nhìn thấy kẻ thù
chung. Việt - Chiêm phải dựa lưng vào nhau mà chống cái thằng giặc đã hung bạo
lại thâm hiểm luôn luôn tìm cách “đục nước béo cò”.
- Này cháu! Thế còn cái đạo viện binh của ta ra sao?
- Đến trước quân Toa Đô nửa tuần trăng ạ.
- Khá lắm, như thế quân còn có thời giờ nghỉ ngơi khoẻ binh,
lại có thời giờ dàn trận sẵn sàng. Chính chú cũng rất muốn làm tướng đạo quân ấy.
- Thưa chú, cắt tiết gà đâu phải dùng đến dao mổ trâu. Cháu
chắc Thượng hoàng và Quan gia đã có chủ định rồi.
Trần Nhật Duật tủm tỉm cười. Ông không tiện nói cho Trịnh Mác
biết triều đình hiện nay chưa hẳn đã nhất trí trong đối sách với Nguyên triều.
Trước đây vài tháng đã cho triệu một số thân vương vào cung triều hội. Cuộc triều
hội này rất ít người: Có Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang quen gọi là ông
hoàng Cả hiện nay đang lĩnh chức trấn thủ châu Hoan, có ông hoàng Ba Chiêu Minh
đại vương Trần Quang Khải hiện giữ chức Thượng tướng coi luôn việc Thái sư đứng
đầu văn võ bá quan, có Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng coi việc nghi lễ, tế tự,
quen gọi là ông hoàng Tư, có Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc quen gọi là ông
hoàng Năm hiện đang lĩnh chức trấn thủ lộ Tam Đái Giang, có ông, người ta thường
gọi là ông hoàng út hay hoàng Sáu; ngoài ra ngành trưởng cũng được mời một vị,
đó là đức ông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn vừa là người có uy thế nhất của cả
ngành trưởng vừa là trưởng tộc của cả họ Trần. Thượng hoàng cũng cho Quan gia
Nhân Tông ngồi dự bàn với các bậc cha chú. Cuộc triều hội mở rất kín trong cung
Thánh Từ, cung riêng của Thượng hoàng. Viên tướng giữ việc canh giữ cửa cung
Thánh Từ hôm ấy là phò mã Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng, chồng của công chúa
Thuỵ Bảo, tức là em rể của Trần Nhật Duật. Như vậy trừ đức ông Hưng Đạo là anh
con nhà bác ra, Thượng hoàng chỉ cho gọi các anh và em ruột nhà mình và dùng
luôn em rể làm tướng canh cửa. Thế mà toàn người thân cận nhất nhưng không phải
ý kiến chung đã giống nhau, gần gũi nhau. Thượng hoàng hỏi: “Nguyên chúa xin mượn
đường hành quân đánh Chiêm Thành. Vậy thâm tâm Hốt Tất Liệt muốn gì? Đối sách của
ta nên thế nào?”. Thế là lần lượt mọi người nói ý kiến của mình ra và các đối
sách tỏ ra không giống nhau. Tĩnh Quốc đại vương bảo giặc chưa phạm bờ cõi ta,
hơi đâu mà gây sự với chúng. Chiêu Đạo vương nói Chiêm chúa là phên dậu thân
thiết của nước Việt ta nay bị giặc dữ đến cướp, nếu ta bỏ qua không cứu thì
không nỡ lòng nhưng nếu ta xuất viện binh thì có khi chiến chinh lan cả tới nước
ta, vạ lây đến cả nhân dân trăm họ nước ta. Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc lại
chêm thêm rằng nếu Nguyên chúa chỉ muốn mượn đường ta đánh Chiêm thì sao. Vì nếu
họ có mưu mô đánh ta thì họ cứ việc im lặng đem quân đánh thẳng vào biên ải, hà
cớ phải sai sứ giả sang mượn đường. Như thế đất ta ta giữ an toàn là hơn, can
chi làm kẻ giữ nhà cho người khác. Nghe em nói thế đức ông Chiêu Minh nghiêm sắc
mặt nói: “Xưa nay mượn đường vẫn là kế mở cửa quan dễ dàng nhất. Bao nhiêu
gương mất nước cũng chỉ vì cho mượn đường đã chép trong sử sách rồi. Nguyên
chúa muốn đánh ta lắm nhưng ngặt vì nước Đại Việt ta không phải là miếng mồi
ngon dễ nuốt. Trước đây hai mươi nhăm năm, tiên đế Thái Tông đã cho tên tướng
giặc kiệt hiệt Ngột Lương Hợp Thai nếm một trận thất bại nhục nhã. Cho nên bây
giờ Nguyên chúa mới phải ném đi ném lại những hòn đá thăm đường chứ”. Đức ông
Hưng Đạo hưởng ứng ngay lời Trần Quang Khải. Trần Quốc Tuấn xin Thượng hoàng
phát quân giúp Chiêm Thành, mặt khác thêm quân thêm tướng canh giữ cẩn mật biên
thuỳ phía bắc. Nhưng sửa soạn binh mã thì cứ sửa soạn còn nếu nhà Nguyên cho sứ
giả sang nữa thì vẫn tiếp sứ hết sức nhún nhường, vẫn nộp cống thật đều đặn để
yên lòng Nguyên triều trong trước mắt.
Thượng hoàng đã tư lự trước khi hỏi lại hai đức ông Chiêu
Minh và Hưng Đạo:
- Như vậy hai khanh cho rằng việc binh đao sớm muộn sẽ xảy
ra?
Cả hai đức ông đồng thanh:
- Giặc sẽ đánh ta. Mưu chúng tuy sâu kín nhưng cũng đã bộc lộ
rõ ràng. Đánh Chiêm Thành chỉ là kế tạo một mũi nhọn xuyên vào lưng quân ta. Chừng
nào đạo quân xâm lược Chiêm Thành đứng vững trên dải đất phía nam thì chừng ấy
ta có thể tính ra ngày giờ nào giặc tấn công ta.
Đức ông Chiêu Quốc vặn lại hai anh:
- Biết chắc binh đao ắt sẽ xảy ra sao hai anh không hiến ngay
kế “Tiên phát chế nhân” 1 lọ là phải vừa đánh vừa bàn, kín kín hở hở
làm cho lòng người trong nước đâm ra li tán?
Hưng Đạo vương ôn tồn:
- Làm chậm cuộc binh đao ngày nào là có lợi cho ta ngày ấy.
Việc chỉnh đốn binh mã rèn luyện sĩ tốt, tích cỏ chứa lương bề bộn ra có phải một
sớm một chiều làm xong được đâu.
Riêng Chiêu Văn vương im lặng trong cuộc triều hội ấy vì ông
là người ít tuổi nhất, phận đàn em, em út. Nhưng khi Thượng hoàng nhắc ông, bảo
ông nói sở kiến riêng của mình ra cho mọi người nghe thì Trần Nhật Duật đã xin
cho mình được làm tướng đạo viện binh sang giúp Chiêm Thành. Câu nói của Trần
Nhật Duật đã làm Chiêu Quốc vương sửng sốt rồi trừng trừng nhìn ông.
Bây giờ thì đạo viện binh xuống Chiêm Thành đã đến nơi rồi,
tuy Thượng hoàng không chọn ông làm tướng chỉ huy đạo quân ấy...
--------------------------------
|
Ra tay trước chế ngự địch. |
Chương 3
Hai chiếc lọng vàng che chon von trên chiếc biển “Nhập nội”.
Liền ngay sau chiếc biển là Chiêu Văn vương và toán dũng thủ hộ vệ cưỡi những
con ngựa lực lưỡng. Một người lính cưỡi ngựa cầm loa đi trước đoàn người một
quãng. Chốc chốc, anh ta lại hoa chiếc loa lên thét:
- Bớ hàng xứ phố phường dẹp ra lấy đường để đức ông tiến
cung. Bớ hàng xứ phố phường...
Vài người lính khác cưỡi ngựa cầm roi song sơn đỏ thật dài vụt
veo veo để doạ những người dân phố phường chậm chân. Đường từ phủ Chiêu Văn tiến
cung phải qua sông Tô Lịch. Đây chính là khu phố đông đúc sầm uất nhất kinh
thành. Hoàng Mãnh rất thích những cuộc diễu ngựa qua những phố đông người như
thế này. Anh chọn con đường qua sông Tô bằng cầu Ngoạn Thiềm. Những con ngựa
đóng yên cương nạm vàng bạc cực kì lịch sự phi nước kiệu nhỏ. Tiếng vó ngựa gõ
mặt đường đều đặn, băm ròn chen với tiếng hàm thiếc, tiếng những quả nhạc đồng,
tiếng vỏ kiếm đập vào hia. Đàn ngựa bị gò đi kiệu nhỏ, hậm hực, thỉnh thoảng một
con lại hục hặc hí gằn trong sống mũi.
Đoàn người ngựa rước Chiêu Văn vương đi qua những phường phố
đông đúc. Các cổng phường ban ngày được mở thông nhưng ở mỗi cổng đều có vài
người phường binh tuyển phong cắp tay thước đứng xét hỏi những kẻ lạ mặt lai
vãng. Các cửa hàng đang lúc đông đúc người mua bán. Tiếng chào mời khách hàng
lanh lảnh nổi lên trên mớ âm thanh trầm náo của kinh thành.
Thỉnh thoảng lại gặp một quán hàng ăn uống trước cửa treo một
lá phướn nhỏ hoặc một cờ bài gỗ chạm mấy chữ tên cửa hiệu: nào Thu Phong tửu
quán, nào Bạch Vân tửu điếm, nào Tùng Trúc phạn điếm, những cái tên cửa hàng đặt
rất hay, dịch nôm ra nghe thật quyến rũ khách qua đường. Ta thử nghe chơi: quán
rượu Gió Thu, hàng rượu Mây Trắng, hàng ăn Thông Trúc... Kèm những lá phướn tên
hiệu thường có những mảnh cót nhỏ dựng bên cạnh cửa ra vào, trên lá cót viết
nguệch ngoạc bằng vôi trắng những món đặc biệt của cửa hàng, nào mắm rươi lộ Hồng,
nào cá chiên sông Cơ Xá nướng chả, nào lươn Thiên Mạc om nghệ, nào gà thiến
làng Hồ quay ròn bì, nào rượu cau, nào rượu đậu, nào rượu cốt kẻ Mơ, nào rượu
cúc Tức Mạc. Nhưng thú vị nhất vẫn là một vài quán đơn sơ, biển đề tên hiệu bằng
chữ nôm: quán rượu vườn Tỏi, quán rượu cụ Hai Còm, quán cô Tư yếm thắm... Có
khi không có cả biển tên quán mà chỉ có một vài chữ nói các đặc sản của quán:
rượu cốt đậu phụ nướng, rượu cúc chả cá, rượu cau gà đồng và ở một quán lại chỉ
có hai chữ: thịt cầy. Hình như chủ ngôi quán này hiểu bụng dạ dân say là đã có
thịt cầy thì phải có rượu, thứ rượu quê sủi tăm nổi tiếng đến nỗi các triều vua
phương bắc cứ buộc trong lễ cống hàng năm phải có chục vò.
Hoàng Mãnh rất thích những chuyến đi diễu như thế này qua những
quán hàng quen thuộc. Không phải anh ta huênh hoang chuộng những vẻ bề ngoài mà
chính vì khi có những đám rước diễu như thế, cảnh phố tự nhiên náo nhiệt hẳn
lên, vẻ mặt những người đi xem thì vừa thích thú tò mò vừa vui vẻ sống động.
Hàng quán hai bên tự dưng như náo nhiệt hơn lên. Nhưng hôm nay Hoàng Mãnh xốn
xang nhất khi đoàn người ngựa qua cổng phường Cổ Vũ đến cái phố bán gương, mài
gương. Những chiếc gương đồng xinh nhỏ, sáng đẹp, cái hình tròn, cái hình chữ
nhật, có những chiếc gương lồng trong khung gỗ quý đánh bóng, có những đôi
gương mang một tên thi vị: gương uyên ương. Hoàng Mãnh muốn mua một đôi gương
uyên ương để gửi lên châu Mai làm quà tặng của kinh thành...
Thình lình dòng suy tưởng của Hoàng Mãnh bị cắt ngang. Từ
phía ngã ba đường, người lính thét loa đang tế ngựa về. Anh ta hấp tấp thưa với
Chiêu Văn vương:
- Bẩm đức ông đường nghẽn.
- Nghẽn sao?
- Bẩm đức ông, nghẽn vì đám rước ngài đại thần Đạt Lỗ Hoa
Xích đi qua.
Trần Nhật Duật tức giận nghiến răng không thốt một tiếng nào.
Đàn ngựa đang cuồng chân nay bị kìm đứng hẳn, xoay sang hục hặc lẫn nhau. Con
ngựa trắng của Chiêu Văn vương huých ức vào bả vai con ngựa của Hoàng Mãnh rồi
nhe răng cắn luôn một miếng. Con ngựa của Hoàng Mãnh gầm lên xoay ngang rún
mông chực đá. Những con ngựa khác hoảng sợ vội quay vòng tại chỗ. Một con ngựa
rồi hai con quệt mình, quệt mông vào những chiếc cọc tre chống dại cửa che nắng
của mấy ngôi cửa hàng mặt đường làm bật cọc đi, mấy tấm dại rơi lạch phạch xuống
đất. Tiếng sành vỡ, tiếng bát vỡ, tiếng người phường phố kêu la, rủa sả náo loạn
lên làm cho Chiêu Văn vương vừa ngượng vừa bực mình. Ông thúc ngựa phi về phía
ngã ba đường. Con đường Chiêu Văn vương đang đi dẫn đến một con đường khác lớn
hơn cắt ngang. Con đường lớn này từ cửa Nam Hoàng thành qua cầu Ngoạn Thiềm dọc
theo phường Cổ Vũ dẫn thẳng tới quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích. Trên con đường ấy, một
đám rước rất đông đang diễu dềnh dàng cả bề mặt con đường và kéo dài lê thê. Đi
đầu đám rước là mười thằng dũng thủ Thát Đát mặc áo giáp da, đội mũ có tua đen
viền lông cáo nâu. Những thằng dũng thủ Thát Đát cầm giáo sắt chín dóng chĩa
chua chủa như lông nhím lù lù dàn hàng ngang đi dẹp đường. Hai bên đường, nhà
phường phố đóng cửa rầm rập, tiếng đàn bà gọi con, gọi em í ới, tiếng trẻ con sợ
khóc rú lên.
Sau những thằng lính Thát Đát mở đường đến những dân phu người
Việt cầm những lá cờ năm màu. Sau hàng cờ ngũ hành, một đám tàn vàng lọng tía
xúm xít che cái biển “Phụng chỉ khâm sai”. Ngay cạnh cái biển khâm sai, một thằng
dũng thủ Thát Đát thật lực lưỡng giương cao cây cờ tiết cán bằng đồng đen, ngọn
kết chín cái tua bằng lông đuôi ngựa. Hai bên ngọn cờ tiết lại có hai thằng dũng
thủ khác cầm hai ngọn phủ, việt. Ngọn cờ tiết và hai lưỡi búa này tiêu biểu cho
quyền uy và sức mạnh của triều đình nhà Nguyên chế áp nước Đại Việt bằng viên
giám sát quan Đạt Lỗ Hoa Xích. Sau hàng cờ búa, một đội trăm thằng dũng thủ vác
giáo ngắn, khoác khiên đồng vàng. Loại vũ khí bọc đồng nặng nề này ngày xưa
quân Thát Đát không ưa dùng. Chúng chỉ được du nhập vào quân đội Thát Đát từ
sau cuộc Tây chinh mấy chục vạn dặm của thần tướng Xu Bu Tai. Bách đội giáo
khiên hộ tống gã Đạt Lỗ Hoa Xích ngồi trên kiệu bát cống không mui, mâm kiệu có
tựa lưng và bành đỡ tay. Gã to béo, mặt tròn xoe, màu đỏ nom như cái lệnh đồng
điếu. Gã ngồi xếp chân bằng tròn, tay phải vân vê chót râu thưa hung hung nâu.
Đám rước vẫn dềnh dàng đi rất chậm. Buyan Têmua sáng nay vào
cung diện kiến với vua ta. Bây giờ hắn từ hoàng cung về quán sứ. Đám rước gã
thì đến ai ở đất nước này cũng phải nhường đường.
Ngoài những tên lính Thát Đát hộ tống Buyan Têmua ra, triều
đình ta còn phải phái một đô lính Củng Thần để dẹp đường và để ngăn cản binh
dân ta xô xát với lính Thát Đát. Những người lính Củng Thần mặc võ phục gấm, cầm
thương đi hai bên đám rước. Họ chia nhau chặn các đầu ngõ đâm ngang ra con đường
lớn. Viên tì tướng chỉ huy đô Củng Thần chạm trán với Trần Nhật Duật ở ngã ba
đường. Anh đỏ mặt vì thẹn nhưng vẫn cứ kiên quyết ngả ngang ngọn giáo chặn
ngang trước ức con ngựa của Trần Nhật Duật. Nhưng chính đức ông Chiêu Văn còn vừa
tức vừa ngượng ngùng hơn anh ta.
Đi sau kiệu bát cống của Buyan Têmua có một dàn nhạc Hồi Hột
hơn chục thằng nhạc công. Những thằng này phồng mang trợn mép thổi những chiếc
kèn vòi loe theo nhịp của một đôi trống tay. Điệu quân hành của chúng tấu lên
man rợ, đinh tai nhức óc. Khép hậu đám rước lại có một trăm dũng thủ người Hán
nữa - bọn này không mang khiên, chỉ đeo kiếm ngắn và khoác cung đơn.
Trái với lệ thường, đám rước diễu qua rồi nhưng không thấy trẻ
con phường phố ùa theo xem. Phố xá lặng ngắt, con đường nom rộng và trống trải
một cách hoang vắng. Người hàng phố chỉ thập thò sau những cánh cửa khép hờ.
Trần Nhật Duật mặt mày tái đi. Ông vẫy đoàn tuỳ tùng ruổi mau
ngựa qua con đường lớn còn cửa đóng người thưa. Ông muốn đi mau cho khuất mắt
dân hàng phố dường như đang từ sau những khe cửa nhìn như xoáy vào lưng ông...
Theo lệ định trước, Trần Nhật Duật là thân vương được vào triều
yết anh ruột Thượng hoàng Thánh Tông ở tận Nội cung Thánh Từ. Nhưng chỉ một người
được theo hầu Chiêu Văn vương, đó là Hoàng Mãnh và anh ta cũng phải cởi kiếm để
lại hành lang vũ khí của lính tứ sương.
Thượng hoàng đang bàn việc với quan Hàn lâm phụng chỉ Nhập nội
Hành khiển Đinh Củng Viên. Trần Nhật Duật sụp lạy. Thánh Tông đỡ em dậy, ôn tồn
cho phép ngồi. Trần Nhật Duật nhận thấy vẻ mặt của anh ruột nhuốm màu tư lự.
Ông đoán sắc mặt ấy có dính líu đến việc Buyan Têmua vào cung yết kiến. Quả như
vậy. Thượng hoàng vỗ tay xuống long án nói một cách bực tức:
- Thằng Đạt Lỗ Hoa Xích vừa đến đây xong.
- Thưa hoàng huynh, em đã biết. Em bị nghẽn đường vì đám rước
của nó cứ dềnh dàng trên đường lớn. Chắc nó vẫn đòi cái điều mà mấy năm nay
chúng vẫn cố ép buộc ta phải làm theo chúng.
Trần Nhật Duật muốn nói đến điều mà Nguyên chúa muốn vua nước
Đại Việt phải theo: Đó là chính quốc vương Đại Việt phải sang chầu vua nhà
Nguyên rồi sau đó vua nhà Nguyên sẽ giữ vua Đại Việt ở lại để làm con tin. Như
vậy triều đình Đại Việt chỉ còn cách cung đốn bằng đủ mọi điều đòi hỏi của nhà
Nguyên. Đòi cống vàng bạc châu báu thì có vàng bạc châu báu. Đòi cống trầm
hương sừng tê thì có trầm hương sừng tê, đòi mĩ nữ có mĩ nữ, đòi quân lính dân
phu có quân lính dân phu, đòi binh lương thuyền ngựa có binh lương thuyền ngựa...
- Không. Lần này nó lại mềm mỏng lắm. Nó khuyên bảo ta nên
rút cánh quân đi tuần phương nam về, đấy là nó nói tránh không gọi đích cái
cánh quân phương nam ấy là viện binh của ta cho Chiêm Thành. Nó còn ỡm ờ nói rằng
nó cũng không tâu lên Nguyên chúa rằng có một cánh quân Đại Việt hiện đang tuần
phòng xuống vùng biển phương nam.
- Thưa hoàng huynh, thế là nó đã biết có cánh quân ấy.
- Tất nhiên. Hai vạn quân chứ có phải cái kiến đâu mà giữ kín
mãi được. Có điều nó biết sớm thế này cho nên ta lo lắng...
- Thưa, hoàng huynh lo lắng có gian tế?
- Phải. Nhưng ta lo lắng vì kẻ gian có thể vào loại trọng thần
vì thằng Buyan Têmua nói đúng cả ngày quân ta đến kinh đô Chiêm Thành. Nó còn
nói rất khinh thường ta rằng không nên làm mệt quân vô ích. Nguyên chúa không
đem quân tiễu phạt Chiêm Thành đâu mà lần này chỉ sai một đoàn sứ giả đến phủ dụ
vua Chiêm mà thôi.
- Thưa hoàng huynh, thế là thằng Buyan Têmua nói dối khéo đấy.
- Không. Nó nói thật đấy. Đoàn hộ tống sứ giả nhà Nguyên chỉ
gồm một nghìn quân và hơn hai trăm thuỷ thủ. Cánh quân của Toa Đô chưa lên đường.
- Nhưng nó ngọng gì mà không đưa quân vào sau này.
- Ấy thế. Cho nên ta đoán là chúng muốn ta rút quân tiếp viện
về và khi quân ta vừa rút xong là chúng mở cuộc tấn công bất ngờ vào Chiêm
Thành. Đến khi ta biết thì muốn cứu Chiêm Thành cũng không kịp nữa.
- Mưu chúng tuy sâu hiểm nhưng giấu sao được ta.
Thánh Tông bỗng dằn từng tiếng:
- Chúng ta không nên quên rằng kẻ bày mưu này phải là đứa hiểu
ta rất kĩ.
Thượng hoàng phất tay làm hiệu. Đinh Củng Viên mở ra một bản
tấu trải rộng trên long án. Thượng hoàng chỉ vào bản tấu:
- Tấu của quan trấn thủ đạo Vân Đồn và chỉ huy thuỷ đạo biển
Đông. Giặc đang luyện quân thuỷ ở đảo Quỳnh Châu và ở bán đảo Lôi Châu. Tập
quân thuỷ để đánh ở chiến trường nào? Đánh Chiêm hay đánh ta. Lại thêm dạo này
khách phương bắc, bọn lái buôn Hồi Hột, lái buôn Trảo Oa đến cảng Vân Đồn cũng
nhiều. Đây chính là cửa ngõ cho quân gian tế thông tin cho nhau. Ông học sĩ
nghĩ sao?
Đinh Củng Viên kính cẩn:
- Tâu bệ hạ, đề phòng gian tế thì tự bịt nguồn là thượng
sách.
Thánh Tông nghiêng mái đầu ngẫm nghĩ. Thượng hoàng hé môi định
nói câu gì rồi lại thôi. Rõ ràng lời tâu của Đinh Củng Viên cuốn hút suy tư của
Thượng hoàng. Thánh Tông giơ tay ra hiệu cho Đinh Củng Viên lui ra. Quan Học sĩ
sụp lạy Thượng hoàng, quay sang vái dài Trần Nhật Duật rồi khom lưng đi giật
lùi ra cửa cung. Trong hoàng cung rộng lớn rực rỡ vàng son chỉ còn lại hai anh
em. Hoàng Mãnh cũng đã theo chân ông Học sĩ lui ra cung ngoài. Không khí gia
đình thân thiết đầm ấm trở về. Hai anh em Thánh Tông chênh nhau mười lăm tuổi
nhưng tiêu biểu cho hai thế hệ người họ Trần. Thánh Tông sinh ra và lớn lên khi
triều Trần mới lập. Khắp nước cựu thần nhà Lý chui lủi trong chốn đồng nội, núi
rừng, họ chưa chịu khuất phục triều đình mới. Nhất là những bậc sĩ nhân, sĩ đức
lại càng chê người triều Trần thô lỗ, thất học, kém lịch thiệp, kém duyên dáng
lịch sự. Ngay cả những người nông phu cũng không phải tuyệt đại đa số đã tin tưởng
ở triều đình mới mặc dù chỉ tính công lao mang lại cho đất nước sự yên ổn làm
ăn, nhà nào cũng no đủ đã là một triều đại xứng đáng với sự tin cậy của mọi người
rồi. Ấy thế mà khi Thánh Tông mới sinh ra, cứ vài năm, đôi ba tháng lại có một
vùng nổi dậy dựng cờ phục Lý. Năm Thượng hoàng còn chưa lên ngôi vua, vẫn còn
là thái tử Hoảng, giặc Thát Đát từ hướng nước Đại Lý tiến quân sang nước ta. Lần
đầu tiên, dân Việt biết thế nào là sức công phá hung dữ của kị binh Thát Đát.
Giặc tràn đi như nước vỡ bờ, kinh thành Thăng Long thất thủ, thái tử Hoảng theo
vua cha rút về phía nam. Tuổi trẻ của Thái tử được tôi luyện nước thép đầu tiên
năm ấy. Ăn uống thất thường, hàng ngày di chuyển hàng trăm dặm bằng ngựa, bằng
thuyền, bằng sức đôi chân của chính mình, đêm đến ngủ dưới một mái lều trận đơn
sơ, có khi ngay cái mái lều đơn sơ ấy cũng không có nữa. Rồi tiếng thét chiến
trường, lửa giặc đốt xóm làng, lửa ta đốt trại binh giặc, những cuộc truy đuổi
mấy ngày không cần ăn và lễ hiến phù 1 sôi
nổi, trang trọng ở nhà Thái miếu, nơi tôn nghiêm, thờ cúng tổ tông. Có thể nói
Thánh Tông lớn lên khi họ Trần còn đang vất vả để gìn giữ ngai vàng, vừa phải
lo phòng giặc ngoài vừa phải chống thù trong.
Còn Chiêu Văn vương, ông hoàng trẻ lớn lên trong một đất nước
đã yên ấm, trăm họ no đủ. Mà nói trăm họ no đủ là đúng như mong ước của cổ
nhân: “Dân lấy ăn làm trọng, vua lấy dân làm trọng”. Trăm họ đã no ấm nên hoàng
tộc đã giữ vững được ngai vàng. Ngôi báu đã vững nghĩa là họ Trần đã đứng trên
thế mạnh. Đang thế mạnh làm việc gì dù khó cũng xong. Chỉ nói một lời cả nước
theo răm rắp nhưng giàu sang như một cái bả ma quái đã bắt đầu mê hoặc con người.
Tiệc nhỏ, yến lớn, gấm vóc ngọc ngà đã quyến rũ ngay chính một số người xưa nay
quen quấn một chiếc chăn ngựa ngủ dưới một vòm trời lạnh làm màn.
Cho nên cần kiệm và làm việc nghiêm ngặt là đức tính của
Thánh Tông. Trần Nhật Duật không có những đức tính đó, ông còn nông nổi, lịch sự
và đài các hơn nhưng ông thông minh, làm việc quả đoán và tự tin, gặp khó khăn
đến mấy cũng dày đạp lên mà vượt qua.
Sự hiểu biết cuộc đời và tình người cũng như sở học và kiến
văn của hai người cũng khác nhau và chênh lệch nhiều, ấy thế mà trong mấy anh
em ruột, Thánh Tông quý mến và hợp tính nhất với Trần Nhật Duật. Hình như Thượng
hoàng nhận thấy Chiêu Văn vương có những đức tính mà mình không có hoặc nếu có
cũng chỉ ít thôi, cái ít ấy lại là cái cũ thời trai trẻ mà bây giờ quá ư mờ nhạt
hay không còn nữa. Năm mười tám tuổi Thánh Tông được tiên đế Thái Tông truyền
cho ngôi báu. Vừa ngồi trên ngai vàng, Thánh Tông đã phải giải quyết một việc
tày đình: đó là việc xét thưởng phạt các vương hầu và văn võ bá quan sau trận
chiến thắng quân Thát Đát của Ngột Lương Hợp Thai. Có những lệnh khen, Thánh
Tông biết rằng chưa thoả đáng nhưng hãy chỉ nên ban thưởng như vậy. Có những lệnh
xử phạt có thể nặng hoặc nhẹ nhưng vẫn cần thiết phải làm ở mức đó. Chỉ một việc
thưởng phạt này đã đủ làm cho Thánh Tông già người đi nhưng đồng thời cũng làm
cho tính tình trầm tĩnh và kín đáo. Có thể nói khác đi là nhà vua sớm già dặn
trước tuổi. Sau đó là mười mấy năm trường lo lắng sắp xếp việc nước việc dân,
lo cho mùa màng bội thu để trăm họ no đủ, quân lính có lương ăn phòng khi phải
dụng binh, lo cho việc học việc thi đều đặn để tuyển lựa nhân tài, lo sửa sang
việc vũ bị để sẵn sàng yên thù ngoài giặc trong lo cho anh em hoà mục để họ
hàng đại thống... trăm thứ việc to nhỏ đổ dồn vào một người mà mỗi lời phán
truyền có thể làm cho lửa tắt đi hay đỏ vui trong bếp mỗi căn nhà. Cho nên
Thánh Tông ưa nhất sự trẻ trung hồn nhiên của Trần Nhật Duật. Mà Chiêu Văn
vương thì phục nhất sự sâu xa trầm tĩnh của Thượng hoàng. Có những việc quốc
gia đại sự, sau khi nghiền ngẫm kĩ lưỡng rồi nhưng Thánh Tông vẫn hay hỏi lại
Chiêu Văn vương. Thượng hoàng muốn kiểm tra lại xem có một cách nhìn nhận nào
khác mình không, có một cách hành động nào khác cách mình dự định không? Đã nhiều
lần Chiêu Văn vương xét đoán sự việc mà bàn những giải pháp kì lạ làm cho Thánh
Tông phải sững sờ nhưng về sau cách xét đoán của Chiêu Văn vương tỏ ra nhanh nhạy
vô cùng và cách hành động của ông hoàng trẻ mạnh gọn, mau mắn đưa đến những hiệu
quả rõ rệt, đỡ tốn sức, đỡ tốn của. Cách suy xét và hành động của ông hoàng trẻ
rõ ràng không bị những thiên kiến của quá vãng cản trở như Thượng hoàng.
Thượng hoàng quý em nhất sau việc Chiêu Văn vương dẹp yên
vùng sông Đà hai năm trước đây. Lộ Đà Giang vốn đất rộng sông hùng, núi non rừng
rú cực kì hiểm trở. Các tù trưởng vùng sơn cước này có nhiều bậc hào kiệt chẳng
chịu khuất phục ai, trai tráng sông Đà lại là những người vũ dũng, tinh thần
thượng võ rất cao. Năm ấy, tù trưởng châu Mai là Trịnh Giốc Mật đã cùng một số
tù trưởng khác họp quân sơn cước để chống lại triều đình. Họ kéo cờ “Thế thiên
hành đạo”, cử quan, đặt tướng, đem quân đóng giữ tất cả các chỗ hiểm yếu. Triều
đình hết sức lo lắng vì cuộc nổi dậy này lại nhằm vào lúc triều Nguyên đang
bành trướng thế lực, chúng đang âm mưu qua nước ta tiến xuống vùng biển phía
nam. Chúng đang liên tiếp đòi quân lương, đồ cống, chúng đang đòi nộp sổ bạ tịch
của quân dân, chúng đang đòi quân trưởng nước ta và một số nước phía nam phải sang
làm con tin bên triều Nguyên. Như thế chính là lúc ta đang cần sự cả nước đấu sức
lại. Khi cuộc nổi dậy của Trinh Giốc Mật bùng ra, Thượng hoàng phát quân, sai
Chiêu Văn vương làm tướng đi tiễu phạt. Kế sách đã bàn kĩ ở Nội cung nhưng khi
xuất quân, Thượng hoàng vẫn nhủ em: “Lúc này phải hết sức tránh dụng binh. Em
lưu ý cho ta điều đó”.
Chiêu Văn vương dẫn quân lên đến vùng giáp giới thì hạ trại
đóng lại. Ông viết một lá thư cho một tì tướng cầm vào quân doanh của Trịnh Giốc
Mật. Lá thư ông viết rất tha thiết. Ông nói về nạn nước đang bị đe doạ xâm lăng
nghiêm trọng, giặc đang tập trung quân ở ngoài biển, như vậy ở trong nước từ bậc
hào kiệt đến kẻ thất phu đều phải nghĩ đến bổn phận của mình đối với giang sơn
xã tắc. Giặc mạnh là quốc nạn, trăm họ phải đấu sức lại mới mong giữ gìn được đất
nước tổ tông để lại, ai xưng hùng xưng bá một phương là mưu lợi riêng, làm yếu
quân, làm yếu nước là có tội với tổ tông, với đất nước và trăm họ. Đất nước và
trăm họ sẽ không cho họ làm thế. Nhưng đối với con em thân thuộc, ruột thịt thì
trước là răn dạy bằng lời, cùng bất đắc dĩ mới phải dùng đến roi vọt, có nghĩa
là động binh tiễu phạt. Ông khuyên Trinh Giốc Mật dẹp quân.
Cách viết thư thẳng thắn ấy hẳn đã làm Trịnh Giốc Mật phải
suy nghĩ. Trịnh cũng là một con người nghĩa khí. Khi đã nhận ra điều gì, Trịnh
có gan làm theo. Trịnh sai sứ giả ra diện kiến Chiêu Văn vương mang theo một lá
thư lời lẽ cũng tâm huyết. Trịnh nhận rằng mình chưa nghĩ hết lẽ, chưa xét đến
mặt quốc nạn ngoài biên và bằng lòng dẹp quân nếu như đức ông cùng bày tỏ tâm
thành bằng cách tay không vào quân doanh ăn thề với Trịnh trước sự chứng kiến của
ba quân. Chiêu Văn vương bằng lòng, cho sứ giả của Trịnh về trước hẹn ngày ông
sẽ vào ăn thề.
Sứ giả của Trịnh Giốc Mật đi rồi, quân tướng tả hữu của Chiêu
Văn vương mới ồn lên, nhiều người can ông đừng vào quân doanh của Trịnh hoặc chỉ
nên cử một tướng thay mặt cho đức ông mà thôi. Họ lo lắng vì đi hội ăn thề như
thế thì lành ít dữ nhiều. Nếu Trịnh giở mặt hoặc Trịnh không giữ nổi quân tướng
của y giở mặt thì sao?
Trần Nhật Duật ngẫm nghĩ rồi giảng giải cho các tướng:
- Người sơn cước coi lễ ăn thề rất trọng. Mỗi lần thề họ đều
đem nhau đến trước bàn thờ tổ tông cho nên họ Trịnh mới phải mời ta vào. Hơn nữa
lần này thề chung cho cả vùng Đà Giang cần phải có sự chứng kiến của các bậc
cao tuổi. Còn như ta đề phòng thì họ cũng đề phòng, đó là lẽ tự nhiên. Mà ta
tính rằng chính chúng ta ở thế thuận chiều gió, chỉ chúng ta có giở mặt mới có
lợi. Vậy thì muốn tỏ ra thực bụng, ta phải vào. Trịnh Giốc Mật là bậc hào kiệt
lộ Đà Giang, quân sơn cước vùng sông Đà đều là những dũng thủ có khí phách. Họ
có thể cũng muốn thề với những người tương xứng.
Ấy thế mà Hoàng Mãnh vẫn hỏi gặng:
- Nhưng nếu họ cứ giở mặt thì sao?
- Nếu vậy chỉ là điều không may cho riêng ta, còn triều đình
sẽ cử một vị vương khác lên làm tướng!
...
Trịnh Giốc Mật sai quân đón Chiêu Văn vương từ cổng trại
ngoài. Chiêu Văn vương mặc áo xuyến hoa, tay cầm một cái quạt nan ngà phất lụa
bạch. Theo hầu Chiêu Văn vương có bốn người đeo kiếm ngắn. Ngoài ra Hoàng Mãnh
còn dẫn theo mười người lính đội những quả sơn đựng tặng phẩm như cau, rượu, lụa,
chè.
Quân Đà Giang vừa trông thấy đoàn người tiến về phía trại của
họ là họ đã hò hét náo động. Một viên tướng rất trẻ dẫn một toán dũng thủ vác
mác sáng loáng xông ra vây Chiêu Văn vương và đoàn tuỳ tùng. Chiêu Văn vương thản
nhiên, đường bệ chỉ quạt bảo viên tướng trẻ sông Đà:
- Đưa ta vào chỗ chúa trại!
Câu nói đầy quyền uy và tự tin của Trần Nhật Duật làm cho
viên tướng trẻ sững sờ. Hai mắt anh ta mở tròn xoe nhìn trừng trừng con người
phong nhã, bình lặng và đường hoàng đi lại giữa đám quân sĩ giáo mác hung dữ.
Chiêu Văn vương cũng nhìn viên tướng trẻ. Anh ta trẻ quá, hầu như vừa tới tuổi
dậy thì nhưng vóc dáng thật là cao lớn vũ dũng. Đôi mắt trong to của anh ta mau
chóng chuyển từ hung dữ sang kính phục. Anh ta hầu như mất tự chủ, ngọn mác vẫn
chĩa nhăm nhăm bên sườn Trần Nhật Duật nhưng sau câu nói của ông, anh ta bất
giác bước giật lùi, mở đường và cũng là dẫn đường cho Chiêu Văn vương; ông
hoàng trẻ cứ bình thản tiến bước.
Chỗ ở của chúa trại Trịnh Giốc Mật giống như ngôi nhà làng của
bộ lạc Hươu trong lúc chiến tranh với bộ lạc Cò vào thời các vua Hùng dựng nước.
Chỉ thấy chông chà, giáo mác, chỉ thấy người đông nghìn nghịt đi đi lại lại vướng
cả vào nhau. Ngoài sân, ngoài vườn, bếp núc bắc khắp nơi, khói bốc lên nghi
ngút, chỗ này thui trâu, chỗ kia làm lợn.
Trịnh Giốc Mật ngồi xếp bằng tròn trên chiếc chiếu giải giữa
căn nhà sàn rộng thênh thang như sân đánh phết. Bên phải tù trưởng là bàn thờ tổ
tiên, sau lưng ông là các cụ già cao tuổi. Trần Nhật Duật bước lên nhà sàn bằng
chiếc thang gỗ ngắn. Ông đứng giữa cửa nhìn chằm chằm vào Trịnh Giốc Mật. Sau
lưng Trần Nhật Duật, những dũng thủ Đà Giang vẫn chĩa mác vào ông, Trần Nhật Duật
cười nói bằng tiếng Man Lão:
- Ta đã đến!
Tù trưởng Trinh Giốc Mật phải đứng bật lên, dẫn các bô lão ra
đón Chiêu Văn vương. Ngay hôm ấy một buổi lễ ăn thề trang nghiêm đã diễn ra. Một
bên Trịnh Giốc Mật, một số tù trưởng khác, các bô lão và con trai Trịnh; một
bên, Chiêu Văn vương và các tướng tuỳ tùng, tất cả cùng trích máu bắp tay cho
nhỏ vào một bình rượu lớn. Hai bên cùng đọc lời thề đời đời hoà hiếu, coi nhau
như anh em ruột thịt. Mỗi người uống một hớp rượu có giọt máu của mọi người
trong đó. Trịnh Giốc Mật hơn Trần Nhật Duật ngót hai mươi tuổi, làm anh. Nhưng
đôi anh em kết nghĩa ấy, ở một mặt nào đó lại là một đôi bạn quên tuổi, tin cậy
nhau, kính phục nhau. Con trai Trịnh Giốc Mật quý ông chú nuôi vô cùng, coi ông
chú nuôi như ông thần ông thánh, mặt trời mặt trăng của anh ta. Anh ta chính là
viên tướng trẻ đã chĩa giáo vào Trần Nhật Duật khi ông vào chỗ đóng quân của Trịnh
Giốc Mật, anh ta chính là Trịnh Mác, Thượng phẩm Phụng ngự chuyên coi các ao cá
trong hoàng cung.
Chuyện ăn thề năm xưa của Trịnh Giốc Mật và Trần Nhật Duật mấy
hôm nay ám ảnh tâm trí của Thượng hoàng Thánh Tông. Bởi vì chỉ còn vài hôm nữa
đã đến hội thề long trọng của toàn thể hoàng tộc và văn võ trăm quan ở đền Đồng
Cổ.
Thánh Tông sau một lúc tư lự, đột nhiên bảo:
- Ta muốn hỏi em một điều này. Em nghe rồi có thể vài hôm nữa
hãy trả lời ta.
Thượng hoàng ngước nhìn ra ngoài hiên như lơ đãng hỏi tiếp:
- Giả sử nếu ta phải động binh lớn thì quyền Tiết chế thống
lĩnh tất cả quân đội trong cả nước nên giao vào tay ai?
Đó là một câu hỏi mà muốn trả lời được phải tính đếm đến tất
cả mọi lực lượng trong nước. Bởi vì người cầm quyền Tiết chế phải là người được
cả người dân đồng bằng cũng như dân sơn cước tin phục và nhất là phải được tất
cả các vương hầu của ba chi trong họ Trần tin phục. Ba chi đó là: Chi trưởng gồm
các vương hầu vùng Đông Bắc đất nước quen gọi là chi Vạn Kiếp thuộc dòng dõi của
đức ông Trần Liễu. Chi thứ là chi Tức Mạc, hiện đang nắm giữ quyền chính và
ngai vàng, chính là chi có Trần Nhật Duật, thuộc dòng dõi của tiên đế Trần Cảnh,
em ruột của đức ông Trần Liễu. Chi út là chi hiện nay vẫn còn ở lại phần lớn ở
đất quê Long Hưng, Thiên Trường. Chi này thực sự cũng có nhiều người làm quan
làm tướng trong triều, nói một cách khác cũng chỉ là phụ thuộc vào chi thứ mà
thôi.
Thượng hoàng giơ tay ngăn không cho Trần Nhật Duật trả lời
ngay.
- Em đừng trả lời vội. Em cứ nghĩ cho kĩ vài ngày nữa hãy trả
lời ta. Nhưng điều ta vừa hỏi em thì em hãy giữ riêng cho em mà thôi. Thế nhé.
Bây giờ là lúc càng phải nghĩ đến những mối dây liên hệ máu mủ ruột thịt, phải
nhớ tới những tình nghĩa đá vàng.
Cũng gần như do một sợi dây vô hình, kì diệu dẫn dắt, Trần Nhật
Duật cũng đang băn khoăn đến một nghĩa anh em:
- Tâu hoàng huynh, em cũng đang định tâu bày một việc có liên
quan đến người anh em kết nghĩa của em ở Đà Giang.
- Em cứ nói.
Lại đến lượt Trần Nhật Duật tư lự:
- Thưa anh, chiến chinh có thể xảy ra. Trên khắp nước phải có
đủ những đội quân thiện chiến. Lộ Đà Giang là một nơi phên giậu phía Tây Bắc.
Trên ấy, các nghĩa sĩ lộ Đà Giang sẽ là những người lính can đảm nhưng hiện nay
họ không có tướng giỏi luyện tập cho họ. Xin hoàng huynh hạ chỉ cho Trịnh Mác
trở về châu Mai để cầm đầu cánh quân ấy.
Thánh Tông ngần ngừ. Thượng hoàng chú ý tới Mác và biết anh
ta có tài cho nên rất quý anh ta. Thượng hoàng không muốn xa anh ta, nhưng còn
một lẽ nữa tuy mơ hồ nhưng cũng có ma lực rất lớn: Trịnh Mác còn ở kinh kì ngày
nào thì lộ Đà Giang chắc chắn yên tĩnh ngày ấy. Anh ta chính là con tin mà Trịnh
Giốc Mật đã gửi triều đình để triều đình yên tâm. Xin cho Trịnh Mác về châu Mai
phải chăng chỉ là một ý xốc nổi của tuổi trẻ? Hay đây là một cách dùng người bằng
tâm phục. Quả thật không gì bằng những người đã thực bụng theo. Chuốc được những
con người như thế phải bằng đức nhân rộng như trời biển. Cổ nhân có câu: “Ràng
buộc người bằng đức còn chặt chẽ hơn bất kì thứ gông cùm, tù ngục nào”.
- Thưa anh, Trịnh Mác đã được đào luyện hai năm nay ở Giảng
Vũ đường. Đó là một tướng trẻ tuy chưa thao lược nhưng hào khí lắm.
- Nhưng mà ta muốn mối giao tình giữa hai miền Đà Giang và
kinh sư thắm thiết hơn nữa. Có thể...
Trần Nhật Duật tươi nét mặt:
- Em định tâu với hoàng huynh hai việc nữa nhưng còn đang
phân vân. Muôn tâu, toàn là việc vui mừng ạ.
- Em nói đi.
- Hiện nay Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác là cháu nuôi của
em. Nó đã đến tuổi lấy vợ. Em định tâu hoàng huynh đứng ra xin cô quận chúa út
nhà Nhân Thành hầu cho nó.
- A, quận thượng chúa Bích Vân. Còn việc nữa?
- Thưa anh, việc nữa là việc vui mừng của người em đồng nhũ của
em.
- Của Hoàng Mãnh, dũng thủ vô địch kinh thành à?
- Bẩm vâng, Mai Sơn hầu Trịnh Giốc Mật có hai người con gái.
Nàng cả đã gả cho công tử con chúa trại Thu Vật. Còn nàng hai chưa có nơi nào
ưng ý. Mối lái thì nhiều đám đấy.
- Thật là hai đám đẹp đôi. Em còn hỏi gì ta nữa cơ chứ?
- Thưa anh em e nhà Nhân Thành hầu chê Trịnh Mác chưa môn
đăng hộ đối, còn đám kia thì Hoàng Mãnh chưa có danh vị gì cả.
Thượng hoàng Thánh Tông ngẫm nghĩ. Về việc Hoàng Mãnh chưa có
danh vị gì thì cũng dễ xử thôi. Bây giờ Hoàng Mãnh đang là đệ nhất dũng thủ
kinh thành cũng xứng đáng với một chức Điện tiền tướng quân. Chỉ duy đám nhà
Nhân Thành hầu cần làm cẩn thận hơn. Phó tướng quân Nhân Thành hầu thất lộc đã
lâu rồi, để lại hai người con trai. Người cả là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư.
Thái Tông khi chưa nhường ngôi lui về làm Thượng hoàng đã nhận Nhân Huệ vương
làm con nuôi. Do là Thiên tử nghĩa nam nên Nhân Huệ vương được phong chức Phiêu
Kỵ Đại tướng quân. Nhưng về sau Nhân Huệ vương phạm lỗi đã bị Thánh Tông sai
đánh trượng rồi cách tuột quan chức đuổi về làm dân. Người em của Trần Khánh Dư
vì thế cũng bị thất sủng theo. Hoài Thượng hầu Trần Văn Lộng cũng là người có
tài kiêm văn võ nhưng không được dùng cho xứng với tài đó. Nhân Huệ vương Trần
Khánh Dư thì về Chi Linh, ở trong đất phong cũ của Nhân Thành hầu. Nghe nói anh
ta đóng cửa thái ấp, không giao du với giới vương hầu quý tộc, mà chỉ mở lò hầm
than buôn bán với các lái buôn chuyến về vùng gốm Bát Tràng, Thổ Hà hoặc về
vùng đảo nơi có nghề sấy hải sản quý như bào ngư, hải sâm. Hoài Thượng hầu ở lại
kinh thành cũng tránh chỗ đông người, trừ những buổi triều hội lớn buộc ai nấy
phải có mặt.
- Thôi được. Bây giờ vương đệ cho Hoàng Mãnh tiến triều. Ta sẽ
phong cho y chức Điện tiền tướng quân, cho y coi quản một vệ Cẩm y Thánh Dực.
Khi hôn lễ cử hành, y thành con rể Trịnh hầu, ta sẽ cho Hoàng Mãnh được tiến tước
Minh tự. Tốt nhất là sai y lấy chức Điện tiền tướng quân lên Đà Giang cùng với
Trịnh Mác luyện quân Man Lão sơn cước. Tại sao ta cứ bắt họ để con tin mà chính
ta lại không gửi con tin cho các chúa trại... Tại sao... tại sao trong việc cởi
bỏ oan khiên, hờn giận ta cứ đòi cả đôi bên cùng làm một lúc? Mà bên nào ở thế
ngọn thác phải động thủ trước có phải không em?
Đột nhiên Thánh Tông cả cười nói tiếp:
- Còn việc vui mừng nhà Nhân Thành hầu thì em nói thuận tiện
hơn ta. Mồng bốn này hội thề đền Đồng Cổ. Thề xong, em mời Hoài Thượng hầu về
vương phủ chơi, em ướm thử trước đi. Nếu hai việc này tốt đẹp cả thì lộ Đà
Giang vững như bàn thạch. Hoài Thượng hầu nếu có ý ngần ngại chê Trịnh Mác là
người sơn cước thì ta sẽ phong cho y tước bá trước khi y được tập tước hầu châu
Mai. Hôn lễ Trịnh Mác sẽ do ta làm chủ hôn.
- Được như vậy thì thật là vui mừng cho bọn trẻ.
Quan học sĩ coi quản việc từ hàn cung Thánh Từ là Đinh Củng
Viên được gọi vào giao cho thảo chế ban phong. Ông học sĩ thấy hai anh em Thượng
hoàng vui mừng hớn hở. Ông cũng mừng thay cho Hoàng Mãnh và Trịnh Mác là hai
chàng trai mà ông yêu về tính, trọng về tài.
Trên đường về vương phủ, Chiêu Văn vương rẽ vào thăm Nhân Túc
vương Trần Toàn, người đứng đầu phủ Tông Chính chuyên coi sóc mọi việc của
hoàng tộc. Trần Toàn so về thế thứ là hàng chú của Trần Nhật Duật. Ông ta thuộc
chi út, vẫn sinh sống bằng nghề làm ruộng và đánh cá ở phủ Long Hưng. Khi tiên
đế Trần Cảnh tức Trần Thái Tông lập phủ Tông Chính, Trần Toàn được chọn làm
Phán thủ Đại tông chính, và được tiến phong vương. Thiên hạ thường nghĩ ông ta
được vua chọn vào chức vụ trọng yếu này vì đức độ và tuổi tác, thực ra không phải
thế mà nó có những uẩn khúc không ai nói ra. Chi Vạn Kiếp chi trưởng họ Trần và
chi thứ Tức Mạc hiện đang giữ ngôi vua vốn có hiềm khích với nhau kể từ đời hai
anh em Trần Liễu, Trần Cảnh là hai người mở đầu hai chi đó. Phủ Tông Chính coi
sóc việc hoàng tộc phải lo cho cả họ đại thống, anh em hoà mục, cho nên chọn
người chi trưởng hay người của chi thứ làm Đại Tông chính đều không tiện bằng
dùng người của chi út Long Hưng.
Năm nay Nhân Túc vương Trần Toàn đã trên sáu mươi tuổi, được
cả họ trọng vọng về sự hiền lành. Công việc phủ Tông Chính không bận rộn và phiền
toái như việc cai trị dân nhưng lại rất long trọng. Phủ Tông Chính chăm lo ngày
kị các bậc tiên đế tiên hậu, ngày sinh nhật của Thượng hoàng và đương kim hoàng
đế, ngày sinh nhật của hoàng thái tử, việc dựng vợ gả chồng cho các vương hầu,
công chúa, quận chúa, công tử, công tôn, việc chọn mĩ tự để phong tước cho các
tôn thất đến tuổi được tập ấm... Tất cả những công việc ấy đã có lề thói, khuôn
phép đặt sẵn của họ mạc, phủ Tông Chính chỉ đứng ra đảm đương việc thi hành.
Công việc nhàn nhã nhưng trọng thể xứng với một vị tản quan đã già và thích hội
hè, đình đám, chè rượu như Trần Toàn. Nhưng công việc đó đòi hỏi mọi nghi thức
phải thật đúng với tôn ti trật tự, thành thử lúc nào cũng thấy Nhân Túc vương
đăm chiêu dường như ông ta đang đau khổ dằn vặt, lo lắng vì công việc. Kì thực
vẻ mặt ấy quả là thích hợp với một ông Đại Tông chính chuyên việc hoà giải các
chi trong họ và chia thưởng, tiến tước cho cả họ, thành thử Nhân Túc vương tình
cờ luyện được bộ mặt đó là cứ khư khư giữ lấy nó.
Nhưng lần này đến thăm Nhân Túc vương, Trần Nhật Duật thấy
ông Đại Tông chính cuống thật sự. Vừa nghe thấy gia tướng xướng tính danh Chiêu
Văn vương đến thăm, Trần Toàn đã mừng quớ lên. Ông ta không kịp xỏ dép cứ xéo lấm
ra đón tận thềm chính đường. Nhân Túc vương xưa nay vẫn coi Chiêu Văn vương là
người hết sức thông minh, hành động lại quả đoán, việc gì đến tay cũng làm băng
băng mà Nhân Túc vương lại sẽ phải thi hành một lệnh vua nan giải.
- Trời ơi! Vương điệt, ta đang ao ước gặp vương điệt thì may
sao cháu lại tới.
- Lạy chú! Cháu mới ở Đà Giang về hôm qua. Hôm nay cháu tiến
cung mừng thọ Thượng hoàng xong là rẽ vào để vấn an chú.
Vừa nói, Trần Nhật Duật vừa ngắm ông chú. Nhân Túc vương lên
kinh đã ngót mười năm nay nhưng ông vẫn còn hầu như nguyên vẹn cốt cách mộc mạc
thôn dã của một ông già phú ông thú quê. Ông mặc áo vóc tía đã chững chạc nhưng
mấy nếp khăn là quấn không khéo và ngắm cho kĩ thì ông vẫn “người đi đằng người,
áo đi đằng áo”. Nhân Túc vương vồn vã:
- Chú vẫn mạnh, vẫn rượu. Nhờ trời ăn ngon ngủ kĩ.
Ông mời Trần Nhật Duật vào chính đường, quát gia nô pha trà,
quát thị nữ bày bánh trái, quát người quạt mát, quát kẻ đốt trầm om sòm. Hình
như ông nghĩ có quát tháo om sòm như thế mới ra phong cách nhà quyền quý. Trong
khi đó các viên lệnh thư gia, xá nhân thuộc quan của phủ Tông Chính cũng hớn hở
như Nhân Túc vương. Những người này phần lớn đều nhiều hơn Chiêu Văn vương gần
hai chục tuổi, có người còn gấp đôi tuổi ông. Nhưng họ kì vọng ở ông một kiến
giải hồn nhiên nhờ vậy mà trở thành đúng cách. Với dòng họ Trần, thuộc quan phủ
Tông Chính đều là tôn thất thuộc những chi, những nhánh rất xa phần lớn rơi rớt
từ những nàng hầu, thứ thiếp, con hoang, nhưng ở trong cái phủ Tông Chính này quan
chức ít được kể đến, trái lại thế thứ, tuổi tác là những cái luôn luôn được nại
ra để sắp xếp trên dưới và để chia phần lộc nước vua ban vào những dịp có việc
vui mừng ân tứ. Họ nhớ kĩ những tiểu tiết đến một mức độ vô lí:
- Bẩm đức ông, tước Minh Tự Trần Hữu Pháp thuộc chi út, thế
thứ bảy, tính từ đức cố tổ. Đức cố tổ đến lập nghiệp ở hương Tức Mặc, lấy ba vợ.
Bà thứ ba đẻ hai con trai. Người con trai thứ hai thiên sang lập nghiệp ở cái
gò bãi nổi cuối làng Tức Mặc lập thành chi út. Bẩm chi này không phấn phát
nhưng các ngày kị, ngày huý giữ rất đủ lễ, nói về nghề nghiệp nhà thì con cháu
chi này vẫn giữ được nghề đánh cá.
- Bẩm đức ông, Tước liệt hầu Trần Đức sở dĩ đầu hói là thừa
hưởng vẻ người của ngoại tổ Tô Trung Tự. Cho nên dịp ân tứ này không nên ban
trâm cài tóc mà nên ban mũ phốc đầu.
- Bẩm đức ông, ngày mười sáu tháng ba này là kị nhật của bà
nhũ mẫu đã có công bú mớm cho đức Thái Tổ. Họ của bà bị phạt tự, hết con trai.
Thượng hoàng thương tình cho thờ phụ bà ở bên ngoài cửa tả của Chiêu lăng. Xin
cho lập một cái miếu riêng cho bà để khỏi phải thờ chung trong miếu thờ thổ địa.
- Bẩm đức ông, đức Thái Tổ ta khi còn hàn vi có đi lại với một
bà ở thôn Bà Liệt, sinh được đức ông Hoài Đức vương. Theo lễ thì con đã được
phong thì mẹ phải được tặng. Xin làm sớ tâu phong cho bà làm thứ phi, và lấy
tên huyện quê quán của bà làm hiệu. Bẩm thế là Tây Chân thái phi. Bẩm bài vị để
thờ xin lập dưới chân bài vị của Thái hoàng thái hậu Hiển Từ.
Và cứ như thế, thuộc quan phủ Tông Chính cứ bẩm báo luôn mồm
nhắc Nhân Túc về thế thứ, về chi ngành, về dòng dõi, sở đắc, sở trường, hình
dáng, tính nết cho chí những chi tiết lắt léo nhất trong đời tư của tất cả tôn
thất họ Trần để Trần Toàn khu xử sao cho ơn mưa móc đã mưa thì mưa cho khắp,
cho hợp lễ, cho đủ tình.
Ấy thế mà cái việc nan giải lần này của Nhân Túc vương thì bọn
thuộc quan cũng bó tay không biết nên làm thế nào. Họ càng hiểu kĩ mọi tình tiết
mắc mớ trong dòng giống bao nhiêu thì họ càng tắc tị bấy nhiêu. Mấy hôm trước
đây, đương kim hoàng đế Nhân Tông cho gọi Nhân Túc vương vào cung và phán:
- Lần này, lễ thề ở đền Đồng Cổ có cả các đức ông ở chi Vạn
Kiếp cũng về dự. Hoàng thái thúc cử người làm chủ tế đọc thệ thư hôm đó.
Chỉ có một lời phán truyền ngắn ngủi như vậy mà phủ Tông
Chính mất ngay không khí nhung lụa êm đềm đài các và chỉ còn trơ trỏng một thứ
quyền rơm vạ đá.
Bởi vì cả họ Trần đều biết mối thù giữa chi trưởng và chi thứ.
Mối thù này có từ thuở họ Trần mới khai lập vương nghiệp. Bấy giờ Thái Tổ Trần
Thừa và Trung Vũ vương Trần Thủ Độ đang làm quan tể dưới triều vua Lý Huệ Tông.
Lý Huệ Tông không có con trai, sau lấy thêm bà Trần Thị Dung cũng chỉ sinh được
hai người con gái. Nàng công chúa cả là Thuận Thiên, nàng công chúa út là Chiêu
Thánh. Trần Thủ Độ bày mưu cho hai con trai của Trần Thừa vào hầu trong cung.
Người anh là Trần Liễu lấy nàng Thuận Thiên làm vợ. Người em là Trần Cảnh lấy
nàng Chiêu Thánh mặc dù cả hai lúc đó mới lên tám tuổi. Sau đó Trần Thủ Độ ép
vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái thứ hai. Vua con gái xưng vương hiệu là
Lý Chiêu Hoàng và lẽ tất nhiên vua vợ nhường ngôi cho chồng. Cướp ngọt ngôi vua
về cho họ Trần rồi, Trần Thủ Độ lập mẹo chôn sống tất cả tôn thất nhà Lý, và
bày trăm phương nghìn kế để giữ ngai vàng. Khi ấy lòng người tao loạn, trăm họ
chán ghét nhà Lý không giữ được kỉ cương trật tự trong nước để ai nấy yên ổn
làm ăn. Nay họ Trần lên làm cho nước an dân no nhưng không phải vì thế mà người
ta nhận chân giá trị công lao của họ Trần ngay. Lúc đó kẻ sĩ đọc sách cố tình lảng
tránh việc giúp triều đình mới. Tôn thất nhà Lý chốn quê Đông Ngàn thì bỏ lên rừng
núi, ẩn thân cũng có, mộ quân trả thù cũng có. Lo lắng vì vua Trần Cảnh còn ít
tuổi quá, Trần Thủ Độ tôn Trần Thừa làm Thượng hoàng nhiếp chính việc nước.
Nhưng chẳng may Thượng hoàng Trần Thừa lâm bệnh băng hà. Việc nước ngổn ngang,
vua Trần Thái Tông lại chưa có con trai, mà nói cho đúng thì bấy nhiêu tuổi sao
mà có con được. Trần Thủ Độ cực chẳng đã phải thi hành một độc kế: Nhân biết bà
Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu đang có mang, Trần Thủ Độ bắt Trần Liễu phải nhường
vợ cho Trần Cảnh để mong bà Thuận Thiên sinh lấy một hoàng tử phòng hờ trước một
sự bất trắc xảy ra. Còn đứa con ấy vẫn chỉ là giọt máu của họ Trần, “lọt sàng
xuống nia đi đâu mà thiệt.”
Việc bị ép nhường vợ làm cho Trần Liễu uất hận bèn đem thủ hạ
nổi loạn. Về sau cô thế, Trần Liễu phải đầu hàng và Trần Thủ Độ cho cắt đất An
Sinh, An Bang, An Phụ cho Trần Liễu lập làm thái ấp nhưng kì thực là giam lỏng
Trần Liễu ở đó. Chẳng có thế mà hiệu của Trần Liễu từ Phụng Càn vương lại đổi
là An Sinh vương. An Sinh vương là vị vương sống yên. An Sinh vương ở đất phong
lập ra chi Vạn Kiếp mà nay người con cầm đầu chi Vạn Kiếp chính là Hưng Đạo
vương Trần Quốc Tuấn. Đứa con có mang sẵn của bà Thuận Thiên bây giờ chính là
Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Thái Tông Trần Cảnh không truyền ngôi cho
Quốc Khang vì biết rằng không phải con mình. Thái Tông chờ bà Thuận Thiên đẻ đứa
con sau mới lập làm Thái tử và truyền ngôi cho. Vị vua nối ngôi ấy nay là Thượng
hoàng Thánh Tông, anh em cùng mẹ khác cha với Trần Quốc Tuấn và cũng là anh em
con chú con bác với nhau.
Chi Vạn Kiếp ít khi về kinh, trừ khi có chỉ vua triệu. Những
năm trước đây, hội thề đền Đồng Cổ là hội thề của triều thần, cung Quan Triều của
đương kim hoàng đế cử chủ tế. Lễ thề của triều thần thì quan tướng quốc làm chủ
tế là phải. Vì thế trong nhiều năm nay vẫn do Thượng tướng quân Thái sư Chiêu
Minh đại vương Trần Quang Khải đọc thệ thư trong hội thề. Nhưng năm nay, đột
nhiên Thượng hoàng Thánh Tông triệu cả các đức ông chi Vạn Kiếp về kinh bàn việc
nước. Lần này hội thề không chỉ là hội thề của triều thần mà là hội thề của
toàn bộ tôn thất, cung Quan Triều không đủ quyền cử chủ tế, đương kim hoàng đế
Nhân Tông giao việc đó cho Đại Tông chính Nhân Túc vương Trần Toàn. Lệnh chỉ
nay chẳng khác một tảng đá gieo vào đàn cá đang tung tăng nhởn nhơ kiếm ăn
trong bể cảnh. Phủ Tông chính lo cuồng lên.
Ai không biết tính kiên nghị sắt đá của đức ông Chiêu Minh? Đức
ông Chiêu Minh xưa nay giữ quyền chính rất chặt chẽ không để lọt một mảy may
vào tay chi trưởng.
Mà ai không biết lời trăng trối của đức ông An Sinh cho con
trai: “Ta kén người tài dạy con thành người văn võ song toàn là để con đòi cho
được ngai vàng thì ta mới yên lòng nhắm mắt nơi chín suối”. Đức ông Hưng Đạo là
người thâm trầm, lúc nào cũng cười nói như không nhưng ở đáy lòng kia ai là người
dò được mớ suy tư mấy chục năm dằn vặt nó ra thế nào?
Thế mà cả hai đức ông Hưng Đạo, Chiêu Minh đều đủ quyền uy để
giữa triều đình chỉ mặt bất kì ai, hặc tội, trị tội.
...
Nhân Túc vương Trần Toàn rất mừng vì sự có mặt của Chiêu Văn
vương. Cả phủ Tông Chính cũng mừng như ông Đại Tông Chính. Phải nói là cả phủ
Tông Chính kì vọng ở đức ông Chiêu Văn một ngõ thoát. Họ cũng ham nghe chuyện
Trần Nhật Duật kể, chuyện săn bắn, chuyện văn chương, chuyện cầm quân tiễu phạt
ở những nơi biên viễn... Những chuyện ấy từ cửa miệng của Trần Nhật Duật kể ra
thật thú vị và vô cùng cuốn hút con người. Ngay cả những chuyện tưởng như bình
thường khó làm cho người nghe thích thú như chuyện chăn tằm trồng dâu, chuyện
trồng thuốc, trồng ngô, trồng khoai, trồng sắn mà Trần Nhật Duật kể lại cũng
làm cho người ta thấy cả cái mát của gió đồng nội, thấy cả cái ngọt thơm của
bát chè nấu bằng bột ngô nếp non nấu với đường cát hoa mai. Bởi vậy trong lúc
Nhân Túc vương muốn đem cái việc nan giải ra hỏi thì bọn thuộc quan cứ quen cái
thói thân mật họ mạc ra, vừa thân thiết vừa kính cẩn mà gợi chuyện, hóng chuyện
Trần Nhật Duật. Nhân Túc vương phát cáu. Ông ta cắt ngang:
- Bây giờ các ngươi muốn đi đâu thì đi, để ta bàn chút việc
riêng với đức ông Chiêu Văn.
Trần Nhật Duật mỉm cười ngắm cái mũi giống như quả quýt hôi của
ông chú họ thích và cần rượu hơn cần cơm tẻ. Ông không tin rằng ông già này có
việc gì phải lưu tâm ngoài những lạc thú thông thường nhất ở ngoài đời. Nhân
Túc vương gấp gay cặp mắt nghĩ cách gợi làm sao cho câu hỏi chính xác nhưng vẫn
kín đáo.
- Ờ!... Vương điệt này, năm nay hội thề long trọng lắm đấy!
- Thưa chú, mười mấy năm nay mới có một ngày họ ta về kinh
đông đủ thế đấy.
- Cũng chỉ thiếu đôi ba người đang có đại tang phải ở nhà cư
tang và đôi ba người ốm nặng. Cả họ đi thề,... cháu có thấy lễ thề khác với mọi
năm không?
- Thưa chú mọi năm chỉ có văn võ bá quan, còn năm nay thêm
các vị ở Vạn Kiếp về.
Nhân Túc vương kéo dài giọng:
- Đấ... ấy. Quan gia giao cho chú cử đức ông chủ tế mà chú
khó nghĩ quá.
- Thưa chú làm sao mà chú khó nghĩ ạ?
Trần Toàn lúng túng đâm liều:
- Thế cháu bảo nên cử ai?
Trần Nhật Duật trong lòng sửng sốt. Trong một ngày có hai người
hỏi ông hai điều vừa giống nhau vừa khác nhau. Giống là việc cử người, khác là
cử chức vụ. Nhưng rõ ràng cả hai câu hỏi chỉ nhằm vào việc cân nhắc giữa hai đức
ông Chiêu Minh và Hưng Đạo.
- Thưa chú chắc chú muốn cân nhắc xem nên chọn ai giữa đức
ông hoàng Ba và đức ông trưởng họ?
- Đúng đấy. Không biết ta nên cử đức ông Chiêu Minh hay đức
ông Hưng Đạo? Cháu bảo thế nào?
- Thưa chú việc này Quan gia đã giao cho phủ Tông Chính, cháu
không dám dự bàn. Cháu vừa ít tuổi vừa là phận con cháu.
- Nhưng chú nghĩ khác. Cháu là người đã tình đã thân lại thạo
xử thế. Chú hỏi thật cháu nếu cháu chọn thì cháu chọn ai?
- Mọi năm thì cháu cử anh hoàng Ba còn năm nay cháu cử đức
ông Hưng Đạo.
Nhân Túc vương hỏi gặng:
- Như thế ổn chưa?... Chú sợ chưa ổn!
- Hay là...
Nhân Túc vương hỏi cướp lời:
- Hay là sao cơ?
- Hay là chú hỏi thẳng anh hoàng Ba hay đức ông Hưng Đạo xem
sao.
Trần Toàn thuỗn mặt ra. Quả thật lần này sự hồn nhiên của Trần
Nhật Duật không giúp được gì cho Trần Toàn. Chỉ nghĩ đến tính kiêu hãnh của
Chiêu Minh vương, Trần Toàn đã lạnh gáy. Còn nhớ việc tiếp thằng Sài Thung sang
sứ lần thứ nhất, vua Nhân Tông và Chiêu Minh vương đang đem quân tuần thú
phương nam, Thượng hoàng phải cho triệu Trần Quốc Tuấn về kinh đối phó với thằng
Sài Thung. Thượng hoàng đã định phong chức Đại Tư đồ cho Hưng Đạo vương để danh
chính ngôn thuận có vị thế chức tước tiếp sứ. Hưng Đạo vương biết tính Chiêu
Minh vương, đã từ chối nói rằng ông xin nhận việc tiếp sứ còn phong chức thì
hãy hoãn lại chờ Quan gia và Thái sư về sẽ hay. Việc tiếp sứ làm rất hoàn hảo,
thế mà khi Quan gia và Chiêu Minh vương về kinh, việc phong tước bị dẹp đi
không kèn không trống.
Bây giờ đem việc cử chủ tế ra hỏi thẳng đức ông Chiêu Minh,
có khi đức ông cho là hỏi móc hỏi máy hoặc là nịnh thối rồi đức ông hặc tội
cho. Rồi thì nghĩ cho kĩ được hặc tội ngay còn là khá chứ đức ông cứ im ỉm
trong bụng thì chửa biết mắc vạ tày đình vào thân lúc nào? Trần Toàn ngẩn mặt
ra khi Chiêu Văn vương vái chào xin lui:
- Việc tế tự, chú cứ phép công chú làm. Lễ thề của cả họ, ông
trưởng họ làm chủ tế là đúng nhất.
Nhân Túc vương giữ chặt hai tay cháu hỏi cố thêm:
- Cháu chắc không bận gì chứ? Cháu không bận gì thì cháu tạt
vào phủ Chiêu Minh hỏi hộ cháu hoàng Ba cho chú một câu thì hay quá?
Trần Nhật Duật cười, hứa sẽ làm theo lời ông chú. Trên đường
về, Chiêu Văn vương rẽ vào phủ đệ Chiêu Minh thật nhưng gia nô thưa với đức ông
rằng Chiêu Minh vương đi săn bên rừng Sặt đã hai ngày nay chưa về. Chiêu Văn
vương hỏi anh mình đi săn với ai thì người gia nô thưa một câu làm cho đức ông
hoàng Sáu phải sửng sốt rồi mau chóng chuyển sang trầm tư:
- Thưa đức ông, vương gia con đi săn với đức ông Hưng Đạo.
--------------------------------
|
Lễ giải tù binh vào đền thờ các vua trước để tấu cáo chiến
thắng. |
Chương 4
Mùa xuân đi săn! Không ai làm như vậy bởi vì mùa xuân là mùa
thú sinh đẻ. Vì thế Trần Quang Khải tổ chức cuộc đi săn này chỉ bằng bẫy lưới
nhằm bắt trọn từng bầy dê núi, kể cả các con mới đẻ để đem thả vào những cánh rừng
trong châu Ái. Giống thú quý này vì sống trong cánh rừng gần kinh thành nhiều
người săn bắt quá, nhất là săn bắn bằng lưới dồn lưới đuổi cho nên chúng đã ít
đi rất nhiều. Trần Quang Khải muốn đem thả chúng vào vùng núi đá giáp giới giữa
châu Ái, châu Hoan để lưu lại cho đất nước sau này một giống thú quý.
Đi từ trên mỏm núi cao Chiêu Minh vương Trần Quang Khải nhìn
sang phía bên kia con sông. Ông trông thấy đoàn thợ săn vùng sông Cà Lồ dắt
theo những đàn chó săn nổi tiếng dữ tợn và can đảm. Cho đến lúc cuối cùng của
cuộc săn, người ta mới nghĩ rằng mặc dù lần này chỉ nhằm bắt sơn dương nhưng những
thú dữ khác vẫn cứ có. Muốn tránh nguy hiểm cho thợ săn tốt nhất là cho gọi phường
đem thêm chó tới. Đằng sau mấy phường săn, Trần Quang Khải nhìn thấy một đoàn
người ngựa di chuyển lên thượng lưu sông. Rõ ràng là những người này đang khép
một mắt của vòng vây mà từ ba ngày nay đã bủa chung quanh khu rừng búng báng rất
rộng ở mé sông Cà Lồ. Trần Quang Khải nhìn thấy người cưỡi con ngựa dẫn đầu
đoàn người giơ tù và lên thổi một hồi dài. Đó là hiệu lệnh cho cả đoàn mau
chóng vượt qua con sông mùa này cạn nước để chiếm lĩnh điểm hợp vây. Người thổi
tù và đó là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Trần Quang Khải gọi tả hữu đem ngựa
đến. Ông ra lệnh cho một gia tướng:
- Nhà ngươi thay ta chỉ huy cuộc săn. Ta lại chỗ đức ông Hưng
Đạo. Ngươi không cho bất kì ai biết ta ở đâu.
Trần Quang Khải lên ngựa, ông chỉ mang theo một vệ sĩ thân
tín. Hai con ngựa phi dọc theo bờ sông tiến về phía trước nơi có một ngọn miếu
cổ bỏ hoang. Khi ông tới nơi đã thấy Trần Quốc Tuấn ngồi nghỉ ở cái sập lễ xây
bằng gạch phía trước bàn thờ. Chính Trần Quốc Tuấn đã giao việc chỉ huy toán thợ
săn cho gia tướng của mình còn ông đến miếu này rõ ràng là có hẹn trước với đức
ông hoàng Ba. Hai người vái chào nhau vừa kín vừa thân. Trần Quang Khải nói:
- Đệ thấy anh trưởng phóng ngựa như bay xem ra phong độ vẫn
như xưa.
Trần Quốc Tuấn cười. Ông đã ngoài năm mươi tuổi nhưng thực ra
với một người sống ở thôn quê không khí trong lành, ăn ngủ điều độ lại luyện tập
võ nghệ đều đặn thì năm mươi tuổi chưa phải là tuổi già. Có chăng tuổi này là
tuổi thực chín để làm những công việc lớn. Đó là ông già quắc thước, gân guốc,
râu ba chòm dài rậm, đôi mắt sáng lấp lánh dưới đôi lông mày to dài hình nét
mác. Ông mặc một chiếc áo dài thâm may chẽn chân xỏ đôi hia kị sĩ cùng màu
thâm, ngang sườn thắt dải lưng màu vỏ dà bình thường. Nếu chỉ bằng vào quần áo
thì không ai có thể ngờ được ông già này lại là Trần Quốc Tuấn, vị vương trưởng
tộc họ Trần, vị vương quyền uy như một người chủ nợ chưa hé răng đòi chi thứ một
chiếc ngai vàng.
Trần Quang Khải còn trẻ. Ông mới bốn mươi tuổi, cái tuổi phương
cường vừa có sức khoẻ để xông xáo, vừa có kinh nghiệm của một người trí lự. Ngược
lại với Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải mặc áo vóc tía thêu rồng bốn móng may
chẽn như kiểu áo chiến. Ông thắt thắt lưng xanh. Bên sườn trái một thanh bảo kiếm
vỏ thau cẩn chỉ bạc, thanh kiếm có cái chuôi ngà nạm hai con thuồng luồng bằng
vàng. So với anh, Trần Quang Khải không cao lớn bằng, nhưng ông có dáng người cực
kì linh hoạt và sắc sảo. Hai người mời nhau ngồi xuống cái sập lễ xây bằng gạch.
Trần Quốc Tuấn mở một cuộn giấy màu vàng ra: Đó là một tấm bản đồ vùng Đông Bắc.
- Theo như thư trước chú viết về cho anh, anh đã cho thư nhi
vẽ lại tấm bản đồ này. Chú hỏi về thế đất vùng này thì tốt nhất là vẽ ngay nó
ra.
Rõ ràng hai người đều muốn làm việc thật nhanh gọn, Trần
Quang Khải cúi xem bản đồ. Ông nói:
- Chỗ này vẫn là nơi chúng qua.
Ông chỉ tay xuống một hẻm núi ở phía bắc lộ Lạng Giang. Từ hẻm
này một đường son nâu tượng trưng cho con đường cái quan ngoằn ngoèo chỉ xuống
kinh thành Thăng Long.
- Trước đây quân Tống đã có một cánh quân xuyên cánh rừng
phía tây nhưng vẫn chỉ là cánh quân phụ. Vả chăng hành quân đường này không sao
biện nổi lương.
Trần Quang Khải cuộn tấm bản đồ lại, ông bồi hồi nhìn Trần Quốc
Tuấn. Trước đây ít hôm ông chỉ muốn nhờ Trần Quốc Tuấn chỉ dùm cho địa thế vùng
đông bắc vì Hưng Đạo vương là người rất thông thạo vùng này. Mà thực ra, Chiêu
Minh vương cũng chỉ mượn cớ để cho tình anh em giữa ông và Trần Quốc Tuấn thêm
thân. Những gì cha ông để lại, cả những hiềm khích đều dai đều bền. Giữa hai người
đó là tình anh em con chú con bác mà cũng là anh em cùng mẹ khác cha. Ấy thế mà
trong nhiều năm hai người nhìn nhau ngượng ngùng. Thiên hạ đa sự thì cho là hai
vị huynh trưởng trọng yếu nhất của chi trưởng và chi thứ bị mối hiềm truyền kiếp
du vào thế đối nghịch. Thực ra không phải như thế. Mỗi thế hệ trưởng thành phải
gánh trên đôi vai mình những trách nhiệm mà trăm họ và đất nước giao cho. Thời
cuộc bây giờ đang đòi hỏi họ phải sát cánh với nhau. Đó là khía cạnh dịu đi của
mối hiềm xưa. Nhưng cũng có những khía cạnh trầm trọng hơn xưa. Nếu như trước
đây là mối oán thù giữa hai người Trần Liễu và Trần Cảnh thì bây giờ người ta
đã có thời gian sàng lọc để nhận chân nguyên nhân gây ra không phải là Trần Cảnh
mà là Trần Thủ Độ. Gia dĩ Trần Thủ Độ làm như vậy cũng vì lợi ích của toàn họ
Trần. Công lao của Trung Vũ vương càng ngày càng rõ rệt có ích cho xã tắc. Có
thể nói tình hình hỗn loạn cuối đời Lý đã chấm dứt. Một xã hội mới hình thành dần
dần. Trăm họ no đủ, mùa màng trúng liên tiếp, đêm đêm cổng ngõ không phải đóng
chốt, của rơi ngoài đường không ai nhặt. Chi Vạn Kiếp chẳng còn lí do gì để
trách cứ Trần Cảnh, cũng chẳng còn lí do gì để trách cứ Trung Vũ vương Trần Thủ
Độ. Nhưng ở trong lòng những người chi trưởng, người ta lại thấy nảy sinh một mối
băn khoăn mới, nhất là những người có đọc sách: Đó là chính kiến “ngôi vua phải
nằm trong tay ngành trưởng”. Hiện nay chi thứ Tức Mặc giữ ngôi báu, Trần Quang
Khải là người chủ chốt nắm giữ binh quyền, chính quyền. Còn người đại diện cho
chi trưởng Vạn Kiếp là Đức ông Hưng Đạo. Cho nên hai người này thân mật hay lạnh
nhạt với mức độ nào đó đều được triều thần, hoàng tộc và cả kẻ địch chú ý tới.
Trần Quốc Tuấn ngắm đăm đăm Trần Quang Khải:
- So với hồi tháng trước chú Ba nom gầy yếu hơn. Nhất là chỗ ấn
đường có gân xanh nổi lên. Chú Ba nên bớt rượu đi. Ta nghe tả hữu nói chú Ba uống
rượu nhiều lắm đó.
Nam vô tửu như kì vô phong. Trai không rượu như cờ thiếu gió.
Cổ nhân đã nói như thế. Trần Quang Khải cả cười. Ông không biết trả lời anh như
thế nào cả. Thực ra ông vẫn có uống rượu nhưng uống cũng ít thôi, ông có sút
người đi là vì ngót một năm nay ông làm việc quá sức. Nào việc triều chính, nào
việc quân cơ mật, nào việc duyệt xét bạ tịch các lộ xa xôi ở ven biển và vùng rừng
núi tây bắc, nào việc tế lễ của quốc gia và dòng họ... có thể nói việc to việc
nhỏ ông đều để mắt đến hết. Không phải Trần Quang Khải không hiểu rằng người
làm việc giỏi là người biết xếp việc và chọn người giúp việc sao cho mình vẫn
thư nhàn mà mọi việc đều chạy băng băng. Cũng không phải ông không chọn được
người tin cẩn hoặc không biết chọn người. Lại càng không phải ông tham quyền cố
vị. Việc của triều Trần, việc của quốc gia sơn hà xã tắc do hoàn cảnh lịch sử
dun dủi đã rơi trọn vẹn vào tay ông. Lúc bình thì quyền thế danh lợi chen trộn vào
nhau nhưng đến khi quốc gia có chuyện tày đình thì người ta mới thấy gánh nặng
trĩu trên vai những người có trách nhiệm. Đúng, lúc ấy chỉ trách nhiệm mới nổi
rõ lên trên mọi sự. Trần Quang Khải muốn thử xem mình làm việc được đến mức nào
và khả năng của ông bao quát được đến đâu?
Bây giờ thì ông khẳng định được rằng ông có sức làm việc rất
lớn, ông có khả năng bao quát một khối lượng công việc phức tạp, có nhiều mặt,
nhiều loại, có tỉ mỉ cụ thể, có việc đòi hỏi một sự tổng định đại cương hết sức
trừu tượng mà kết quả của loại công việc này cũng không thể tính đếm cụ thể được
nhưng đó cũng là những công việc vô cùng quan trọng mà lịch sử đã minh chứng bằng
gương thành bại của biết bao bậc tiền bối.
Tuy thế qua lần thử thách này một ý nghĩ đến với ông. Nếu ông
có khả năng lớn như thế thì những người khác cũng có. Cần phải huy động được tiềm
lực của tất cả mọi người vào sự nghiệp chiến đấu của đất nước. Chỉ cần người cầm
quyền nhìn rõ và bạo dạn giao việc.
Và thế là một mối lo lắng mơ hồ nảy ra trong ông: Người cầm
quyền ấy là ông hay là ông và vài người khác?
Trả lời được câu tự hỏi đó không phải là dễ dàng. Ông đã trằn
trọc nhiều đêm. Ông đủ tài, đủ sức đảm đương trọng quyền. Ông cũng nhận rằng
nhiều người trong anh em cùng họ cũng đủ tài đủ sức như ông hoặc hơn một chút,
kém một chút. Ví như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, như Chiêu Quốc vương Trần
Ích Tắc, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, Hưng Ninh vương Trần Tung, Tĩnh Quốc
vương Trần Quốc Khang...
Đem so sánh đến cùng, xứng đáng giữ trọng quyền có hai người
là ông và đức ông Hưng Đạo. Tài sức ngang nhau, kiến văn quảng bác, đọc thông
kim cổ bốn phương, hào khí hiên ngang, trí lực sâu sắc. Đó là hai người có tài
nguyên thủ và có đức thu phục được trăm họ. Có thể ông, Chiêu Minh vương trẻ
trung hơn, xông xáo sát phạt hơn một chút còn đức ông Hưng Đạo già dặn hơn, điềm
đạm quyền biến hơn. Nhưng chỗ hơn kém ấy cũng chỉ chút xíu có thể nói hầu như
không đáng kể. Chỉ mới so sánh thầm thôi ông đã băn khoăn, Chiêu Minh vương đã
phải triệu phó quan của ông đến vấn kế. Đó là quan đại học sĩ Lê Văn Hưu. Ông
này năm xưa đỗ bảng nhãn, đã từng làm việc trong Viện Hàn lâm trong nhiều năm
sau đổi sang làm việc của quan chép sử trong Thái viện sử. Khi hoàng tử Quang
Khải lớn lên, để trong hoàng cung không tiện, vua cha bèn phong tước vương
Chiêu Minh và đưa ra ngoài hoàng cung, mở vương phủ cho ở, cử quan giỏi làm phó
để giúp việc trong mạc phủ nhưng kì thực là làm hai việc: một là dạy dỗ ông
hoàng tử mới được phong vương thành người có tài đắc dụng với quốc gia và hoàng
tộc, hai là giám sát vị vương ấy và chịu trách nhiệm với nhà vua về đức trung
quân của người học trò vương giả. Có nghĩa là phải dạy và kèm chặt hoàng tử trẻ,
dẫn ông ta đi đúng đường là giữ vững phận thần tử khi vua cha truyền ngôi cho
thái tử. Hoàng tử trẻ phải biết trung thành với vị vua mới anh mình, người được
vua cha đã chọn để nối ngôi. Nếu ông ta trung thành, ông phó quan sẽ được khen
thưởng trọng hậu, nếu ông ta nổi loạn tranh ngôi thì triều đình sẽ phát quân trừng
trị cả hai thầy trò.
Lê Văn Hưu được cử làm phó quan của đức ông Chiêu Minh cũng với
trọng trách như thế. Khi Thánh Tông lên ngôi, Trần Quang Khải được anh trọng vọng.
Ông từ những chức trấn thủ nhiều lộ quan trọng như lộ Hồng, Khoái, Hoàng Giang,
Thanh Hoá... và mau chóng được giao quyền Tể tướng Thái sư, nắm trong tay cả
chính quyền lẫn binh quyền. Trải qua các chức, Trần Quang Khải đi đến đâu cũng
mang theo Lê Văn Hưu, ông bảng nhãn này trở thành người tả hữu không thể thiếu
được của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Mãi cho đến khi Trần Quang Khải về
kinh nhận chức Tể tướng, Lê Văn Hưu mới thôi chức phó quan để nhận quan chức của
triều đình. Ông chuyên tâm vào việc chép sử và soạn bộ sử của nước ta từ thời
các vua Hùng lập quốc cho tới bây giờ. Tuy vậy, đôi khi gặp việc khó khăn, éo
le, trọng đại, đức ông Chiêu Minh thường tìm đến bậc thầy mình để vấn kế.
Việc chọn nguyên thủ lần này đúng là một việc trọng đại. Trần
Quang Khải mời Lê Văn Hưu đến phủ Thái sư vào một buổi tối, đối ẩm song bôi,
đánh với nhau một ván cờ tướng. Lê Văn Hưu không còn lạ gì tính người học trò
trẻ của mình, ông cứ uống rượu, cứ đánh cờ thản nhiên và điềm đạm. Đầu canh
hai, thình lình Chiêu Minh vương dẹp bàn cờ, giơ tay đuổi tả hữu ra hết và ngồi
trân trân suy nghĩ. Lê Văn Hưu cũng không hỏi. Ông quan chép sử thu tay trong
lòng và cũng im lặng nhìn người học trò của mình. Ông thừa hiểu người học trò của
mình lúc chưa muốn nói thì có cậy răng cũng không nói mà lúc muốn nói rồi thì
cũng không gì ngăn cản nổi.
Lê Văn Hưu ngồi lặng thinh nhìn Trần Quang Khải. Ông già chép
sử biết tỏng cơn phong ba trong lòng người học trò mình. Vốn là kẻ chép sử,
quen với việc phải nghiền ngẫm biết bao chuyện cổ kim cân nhắc và đánh giá
chúng để chép lấy đôi hàng chữ, Lê Văn Hưu như người sống ngoài thời gian. Việc
một nghìn năm trước với ông cũng có khi như việc mới xảy ra và việc hôm nay tưởng
như chỉ là việc quá ư xưa cũ. Mọi người, mọi việc trong tâm trí ông như đông cứng
lại theo mẫu sử bút cổ: Viết sử là để khuyên can thiên tử, răn đe chư hầu, trấn
áp các đại phu. Cho nên giới vương giả quyền quý đối với ông vốn cực kì quen
thuộc, họ cũng chỉ là những con người có thể thành hay bại, có thể vinh hay nhục,
có thể được sử sách nêu tên bằng chữ vàng chói lọi hay bôi nhọ bằng giấy trắng
mực đen. Công việc của ông từ mười năm nay được hoàng đế sủng ái giao cho đã
làm cho vô khối công hầu khanh tướng hoảng sợ ngầm. Mỗi bận gặp gỡ ông họ cứ lấm
lét thăm dò bằng những lời ngọt ngào mong được ông lộ cho đôi điều về cái đức
cái nhân cái trí cái dũng của họ dù chỉ tí chút để họ mừng còn ngược lại nếu
ông nghiêm mặt không nói (vì tính Lê Văn Hưu lầm lì) hoặc ông đang bận nghĩ một
chuyện gì khác mà không trả lời là họ băn khoăn lo lắng. Trần Quang Khải vốn là
người có đức lớn, ông không ham danh vọng, không ham giàu sang mặc dầu ông sống
trong khung cảnh giàu sang danh vọng từ tấm bé. Những điều Lê Văn Hưu đã rèn dạy
ông từ thơ ấu có điều ông theo, có điều ông không chịu nhưng chỉ duy một chữ
“Hành” là ông tâm đắc nhất. Ông không thể có một ngày một khắc ngồi không. Con
người không làm việc đối với ông không khác gì thú vật. Lê Văn Hưu thừa hiểu
tâm tính đó của Trần Quang Khải. Vậy thì học trò của ông có băn khoăn thì chỉ
vì công việc mà là những việc quân quốc trọng sự. Chả phải suy nghĩ sâu xa ông
cũng đoán ra đó là việc gì. Và ông cứ ngồi nhìn...
Trần Quang Khải đột nhiên hỏi:
- Lão ân sư, nhà Nguyên có dị chí, ai là người đảm đương được
trách nhiệm cự địch?
Đúng rồi, ông đoán đúng rồi, học trò của ông băn khoăn về vị
thế của nguyên thủ trọng thần. Lê Văn Hưu điềm đạm mỉm cười hỏi lại:
- Hay lắm, vương gia hỏi câu ấy cho ai vậy đó?
Câu hỏi của Lê Văn Hưu làm cho Trần Quang Khải sửng sốt.
Chiêu Minh vương nhíu cặp mày lưỡi mác suy nghĩ trầm ngâm. Như thế là Lê Văn
Hưu có thể có nhiều cách trả lời khác nhau tuỳ theo phía người cầu nghe.
- Xin lão ân sư nói rõ thêm.
- Được lắm, tôi là người được vương gia coi như sư phó, tình
thân, tâm phúc, tri ngộ đã lâu dài. Đây này, vương điệt nhi, ta nói rõ ý ta. Việc
chọn người có thể vì hoàng gia, có thể vì hoàng thượng, có thể vì ngành trưởng
hay ngành thứ và cũng có thể vì giang sơn trăm họ. Vương điệt nhi chỉ cần nghĩ
một tí thôi là cũng thấy câu trả lời nên như thế nào.
Trần Quang Khải suy nghĩ rất lung. Câu nói của Lê Văn Hưu rõ
ràng giúp cho ông xếp sắp lại bao mối lo âu lộn xộn trong đầu. Chợt Lê Văn Hưu
lại tiếp:
- Nên trả lời như thế nào ư? Đâu chỉ nên dừng lại ở đó mà nên
vì ai để lựa chọn cách nên theo.
Như thế lại càng rõ, mặc dù sự thật quả có tàn nhẫn, Trần
Quang Khải hiểu rằng thầy mình đã khéo vạch ra chỗ khiếm khuyết trong cách suy
nghĩ của ông. Lê Văn Hưu lại cười, ông già đã từng danh đứng tam khôi thừa hiểu
ý nghĩ của Trần Quang Khải. Nhìn học trò, Lê Văn Hưu mừng thầm và thấy lúc này
thiện lương đang đột khởi thì dấn luôn tí nữa cũng hay.
-Vương gia nên nhớ cổ nhân đã có câu: “Tự tri giả anh, tự thắng
giả hùng”. Biết được mình là anh, thắng được mình là hùng. Bậc anh hùng chỉ có
vậy đó thôi. Trong việc chọn nguyên thủ trọng thần lần này, người quyết là
vương gia. Chẳng những cần người có tài mà cái chính là phải quy tụ được hoàng
gia, chư tướng, anh hùng nghĩa sĩ và trăm họ.
Lê Văn Hưu chỉ nói có vậy nhưng dư thừa sức thuyết phục với
Trần Quang Khải và Chiêu Minh vương quả quyết vào cung bàn riêng với Thượng
hoàng Thánh Tông một buổi tối. Sau đó người ta thấy có chiếu chỉ triệu đức ông
Hưng Đạo tiến kinh bàn việc quân quốc trọng sự. Hưng Đạo vương không bao giờ ngờ
tới việc tiến kinh của ông nảy ra từ bữa rượu giữa thầy trò ông già chép sử.
Ông lên kinh và mơ hồ nhận thấy đức ông Chiêu Minh hết sức chăm chút ông một
cách kín đáo. Trong sự chăm chút đó, đức ông Chiêu Minh còn tỏ ra kính trọng và
tin cẩn Hưng Đạo vương bội phần. Từ việc to việc nhỏ, Chiêu Minh vương đều khéo
léo hỏi ý ông, lắng nghe và thân mật bàn bạc. Ngay việc tìm hiểu địa thế vùng
đông bắc này chả hạn, tuy nó là việc quan trọng đó nhưng đâu đã phải đến hai đức
ông lo lắng nhiều. Nó chỉ là một trong những cái cớ để hai người mỗi lúc mỗi
thân thiết gần gũi nhau thêm, và mỗi lúc mỗi quen có nhau.
Trên bờ sông Cà Lồ hôm đó cuộc săn thật mĩ mãn. Người ta bắt
được hơn mười đôi sơn dương trong đó có ba đôi mới được ba năm tuổi, đúng vào
thời sinh sản thuận lợi. Trần Quang Khải sai đóng cũi bầy dê. Đàn dê được đưa
qua Thăng Long một cách ồn ào và lộ liễu, chúng được thuyền quân chở thẳng xuống
phía nam để thả vào những cánh rừng đại ngàn giáp ranh hai châu Hoan, Ái.
Nhưng rất ít người lưu ý và cũng ít người được biết có cuộc gặp
gỡ giữa hai đức ông.
Chương 5
Theo tập tục của dân ta, người ta coi anh em đồng nhũ như một
đôi bạn chung thân gắn bó với nhau vì đã lớn lên và được nuôi nấng bằng cùng một
dòng sữa mẹ. Trần Nhật Duật và Hoàng Mãnh lại còn là anh em đồng tuế: anh em
cùng tuổi là một cặp mà hình như thiên nhiên đã ràng buộc họ, khiến họ phải
luôn luôn sống bên nhau, cùng sống cùng chết, cùng vinh cùng nhục, cùng sướng
cùng khổ với nhau.
Xưa kia, khi cả hai người còn niên thiếu, họ được nuôi chung
với nhau trong một cung riêng. Họ cùng được ăn một mâm, nằm trên cùng một chiếc
giường, chung một lá màn che muỗi. Tuy vậy thể chất hai người vẫn khác nhau rất
nhiều. Trần Nhật Duật thuộc dòng giống một họ mà ngay khi chưa cướp được ngai
vàng đã giàu có bề thế. Thế mà tính từ khi họ đã cướp được ngai vàng cho tới giờ
cũng đã ba đời. Cho nên ông, hoàng tử Chiêu Văn, là một cậu bé quý tộc đã lọc
giống, duyên dáng, thanh tú, lịch sự từ cách ăn mặc, cách nói năng, cách chơi bời
cho chí thể chất hình hài. Cổ tay ông thon nhỏ, những ngón tay tháp bút, một
mái tóc tơ đen láng. Trần Nhật Duật đẹp một vẻ thư sinh mặc dù theo lề thói tộc
họ, người ta đã buộc hoàng tử Chiêu Văn luyện tập võ nghệ thật giỏi ngay từ khi
còn nhỏ. Hoàng Mãnh cũng được nuôi trong gấm vóc cung đình từ năm lên một nhưng
anh vẫn giữ cái thô mạnh hoang sơ của thôn dã, cái bình dị của suối sông, cái
cao rậm của rừng núi.
Hai con người khác nhau như nước với lửa ấy đã quấn quýt lấy
nhau từ thuở nhỏ rất thắm thiết. Hình như thiên nhiên đã tạo ra hai thế đối lập
đó để cho chúng hài hoà vẻ đẹp của trời đất.
Hoàng Mãnh là một đứa trẻ hiếu động, nghịch ngợm. Trong lúc
chơi đùa, nó được người ta dạy là phải nhường hoàng tử Chiêu Văn, nó cũng làm
theo trừ khi có cái gì làm cho nó quá say mê đến quên cả thân phận. Trong những
lúc hiếm hoi đó, nếu là một thứ đồ chơi thì Hoàng Mãnh cướp nghiến còn nếu là một
chuyện cãi cọ thì Hoàng Mãnh cũng đoạt lời bằng được.
Năm Trần Nhật Duật mười lăm tuổi, người ta xây phủ đệ Chiêu
Văn bên ngoài hoàng thành. Người ta đưa cả hai cậu bé ra ở ngoài đó, triều đình
cử hai quan Hàn lâm dạy Trần Nhật Duật và Hoàng Mãnh học kinh sử. Những lúc máu
Đông A bốc lên, Trần Nhật Duật hay rủ người em khác mẹ là Bảo Uy vương Trần Duy
đi chơi ngoài phố, hễ thấy đám vật, đám võ nào cũng sà vào thử chơi vài keo. Có
bận đến nỗi xảy ra gây gổ đánh lộn với thiếu niên phường phố. Những bận ấy,
chính Hoàng Mãnh là đứa đứng ra đánh mở đường cho hai tiểu vương tháo chạy. Có
bận đã bị no đòn mà lúc về phủ Hoàng Mãnh còn bị quan Hàn lâm quở trách là con
nhà bách tính kém lễ. Hoàng Mãnh phải cắn răng chịu nỗi bất công, nhục mạ đó để
giấu tội cho Chiêu Văn vương rồi sau đó mới lựa lời khuyên nhủ người anh em học
hành cho tử tế, tu thân trui rèn bản lĩnh sao cho sau này đủ vững vàng bước vào
đời... Thực ra Trần Nhật Duật tuy ham chơi nhưng việc luyện võ học văn vẫn tấn
tới. Đúng là một con người thông minh bẩm sinh, chẳng những lầu thông kinh sử,
đọc khắp bách gia chư tử, đọc rất kĩ những bộ sách của các tác gia triều Lý,
tay ghi miệng đọc mà hễ còn hoài nghi điều gì thì dù canh đã khuya vẫn không chịu
tắt đèn đi ngủ. Ông lại có biệt tài về học tiếng nước ngoài, tiếng Man Lão nữa.
Thời gian trôi qua, Chiêu Văn vương đã hai lần được cử giữ chức trấn thủ những
lộ đất rộng dân đông như Thanh Hoá, Đà Giang, ở nơi nào ông cũng làm tốt mọi việc
quân dân. Ông đi đâu, Hoàng Mãnh cũng đi theo. Triều đình đã chọn anh chính là
để anh chia sẻ mọi ngọt bùi với Chiêu Văn vương.
Bữa nay, ngồi một mình trong thư phòng, Trần Nhật Duật nghĩ về
người em đồng nhũ của mình. Xưa nay chưa hề xa nhau lâu, Trần Nhật Duật không
có dịp để hiểu mức độ keo sơn trong tình anh em ấy. Đã sắp đến ngày hội thề, Trần
Nhật Duật mong muốn đến ngày ấy, em mình đã có một chút công danh sự nghiệp
trong triều đình. Ông cũng biết Hoàng Mãnh không quan tâm một chút nào nhưng từ
đáy lòng, ông vẫn thấy mình phải thực hiện được điều tâm nguyện kể trên. Và phải
nhận rằng mỗi khi nhớ đến chen vào đó vẫn có đôi chút bâng khuâng trước sự chia
li cần thiết.
Trần Nhật Duật đã ra lệnh may sắm quần áo tiến triều cho
Hoàng Mãnh: áo chiến vóc hồng, hia nỉ đen. Ông lại dành cho người em một thanh
kiếm tốt trong bộ sưu tập binh khí rất quý của ông. Trần Nhật Duật đã đến Môn hạ
sảnh để đốc viên lệnh thư gia thảo chiếu cho kịp ngày. Ông đã sai người đi đón
mẹ Hoàng Mãnh về kinh để kịp dự tiệc mừng con bà nhậm chức vụ của triều đình.
Trần Nhật Duật vốn là người sống với hiện tại và tương lai, chỉ những dịp ít ỏi
này, ông mới trở về với những chuyện đã qua. Những chuyện ấy thường dính líu tới
một trong ba người. Người thứ nhất là Hoàng Mãnh. Người thứ hai là mẹ Hoàng
Mãnh. Bà họ Trương, vốn là người Thanh Hoá, lấy chồng họ Đỗ quê ở làng Xuân Lôi
huyện Đông Ngàn. Ông Đỗ làm chức Bạ đầu, coi việc giấy tờ ở một vệ quân đi thú
châu Ô. Khi Trần Nhật Duật được tiến tước vương, bà Trương cũng được triều đình
ban cho tước tòng tứ phẩm nghi nhân. Ông Đỗ nhờ vợ cũng đâm ra sang, từ chức Bạ
đầu, ông được phong chức Đại tư xã ở ngay quê nhà. Chính cũng vì bà nhũ mẫu quê
Thanh Hoá mà Trần Nhật Duật đã hạnh ngộ một người...
Năm ông mười tám tuổi, Trần Nhật Duật được cử đi tuần thú
châu Ái. Ông mang nhũ mẫu đi theo để đưa bà về quê thăm nơi chôn rau cắt rốn.
Nơi ấy là một làng nhỏ xanh rờn bóng dừa nằm kề biển Đông mênh mông. Anh trai
bà Trương làm chức câu đương trong hương coi việc sổ sách bạ tịch. Ông ta có một
cô con gái út. Cô gái ấy không có vẻ e lệ của tiểu thư khuê các, không có vẻ
đài đệ của loại con chúa con vua, không có cái dáng mảnh mai lả lướt yếu mềm của
dòng quý tộc. Nước da cô hồng hào căng nhựa sống, đôi mắt của cô láng ướt tình
tứ, một nốt ruồi ngộ nghĩnh ở khoé miệng và cách nói năng của cô rất mộc mạc giản
dị và chân thành, người con gái ấy tràn trề vẻ đẹp trẻ trung khoẻ mạnh của đồng
ruộng bình dị, bình dị ngay từ cái tên bình dị đi: cô Mơ. Mơ hầu như ngược hẳn
với con người Trần Nhật Duật và thật ra chính ông đang thiếu một cái gì ngược hẳn
với ông như thế.
Một duyên, hai nợ, ba tình.....
Cuộc hạnh ngộ này có cả ba cách đó. Ai cho phép một thân
vương lấy một người con gái bách tính lê dân làm vợ. Nhất là họ Trần đã có một
lời nguyền độc địa: Trai họ Trần chỉ được lấy gái họ Trần. Đừng ngu xuẩn như họ
Lý mà để cho ngai vàng lọt sang tay họ khác. Trần Ích Tắc biết mối tình éo le ấy
đã xui em: nạp Mơ làm thiếp!
Không được! Đã vui duyên phận thì phải đứng ngôi chính phi chứ
nạp thiếp thì chẳng những xúc phạm đến tâm hồn phong nhã của Trần Nhật Duật mà
còn làm vẩn đục đến cái duyên nợ thiêng liêng của mối tình đầu. Cho nên cái việc
ấy đành cứ treo lại và bây giờ Trần Nhật Duật chưa lập chính phi mà người con
gái vùng biển kia cũng chưa thành gia thất. Không một người con trai làng nào
dám dạm hỏi cô Mơ cả. Người ta sợ oai sợ vía một đức ông và người ta sợ cả cái
phận trời huyền bí của một người đàn bà cao số.
Cho đến bây giờ, Trần Nhật Duật vẫn còn gìn giữ một kỉ vật của
Mơ. Kỉ vật ấy là một bộ xà tích bằng bạc chạm trổ rất thô. Trần Nhật Duật cầm bộ
xà tích ấy trong tay, mắt mơ màng nhìn vào khoảng không vô định. Ông chợt
thương chợt nhớ người con gái năm xưa. Ông còn bộ xà tích này làm kỉ vật chứ
nàng Mơ chẳng có tí gì để mà ngắm mà tìm về với bến vắng người xưa...
Trần Nhật Duật đằm trong mớ hồi niệm miên man không biết bao
nhiêu lâu nữa rồi bất chợt ông cảm thấy trong thư phòng có người lạ. Trần Nhật
Duật nắm gọn bộ xà tích để giấu nó đi rồi trừng mắt nhìn: Hoàng Mãnh khoanh tay
đứng bên cửa từ lúc nào không rõ nữa. Trần Nhật Duật gượng cười:
- Nhà ngươi đến đã lâu chưa?
- Thưa đức ông, tiểu tướng đến đã lâu rồi ạ.
Hoàng Mãnh trả lời rất cung kính nhưng trả lời xong thì anh
ta lại toét miệng ra cười. Trần Nhật Duật lườm Hoàng Mãnh một cái tưởng đổ đình
rồi bảo:
- Quần áo tiến triều của nhà ngươi đã may xong rồi đấy. Thật
là cờ kiếm vào tay rồi lại “rượu cần ai uống cho say, cuối mắt đầu mày kiệu
võng sánh đôi”.
Hoàng Mãnh cả cười, một vẻ ta đây thoáng hiện ra trong cái cười
đó:
- Thưa đức ông, việc nước vua giao thì phải nhận chứ còn việc
vợ con thì...
- Thì sao?
- Thưa đức ông điện hạ, đã làm trai thì phải bốn biển tung
hoành, sông hồ rừng núi là nhà, hễ vợ con vào chỉ tổ vướng víu cuộc đời thanh
gươm yên ngựa giang hồ đó thôi.
Trần Nhật Duật cười chế giễu:
- Nhà ngươi nói du dương như thơ mã thượng. Có thể đem miệng
lưỡi so sánh với miệng lưỡi của ông Tô Nghĩa Đông khi ông ta lem lém bàn về thơ
sơn thuỷ kia đấy.
Nghe Trần Nhật Duật ví mình với phái thơ sơn thuỷ và phái thơ
mã thượng mà Tô Nghĩa Đông vác tự bên Tàu sang huênh hoang, Hoàng Mãnh ức quá
nhưng anh ta sợ Chiêu Văn vương nên không dám cãi lại. Tô Nghĩa Đông là một văn
thần nhà Tống lúc mạt triều. Khi nhà Tống bị quân Mông Cổ tiến quân tiêu diệt,
Tô Nghĩa Đông lúc ấy giữ chức thị lang đã ra hàng quân Mông Cổ để cầu sống cũng
như nhiều văn thần võ tướng khác của nhà Tống. Nào ngờ tướng Mông Cổ A Ta Khai
rất ghét những thằng hèn nhát, phản chủ nên định đem Tô Nghĩa Đông đóng cọc nêu
bêu ở chợ Dương Châu. Hình phạt đóng cọc nêu thường chỉ áp dụng để trừng trị bọn
đạo tặc ở các nước dưới quyền thống trị của Mông Cổ. Đao phủ dùng một cây gỗ bằng
bắp đùi dài và thẳng, thường là làm bằng gỗ liễu, một đầu đẽo nhọn. Chúng vật
ngửa người bị hình phạt ra đất, trói thẳng dăng ra, dùng bò kéo để tống cái đầu
cọc nhọn vào hậu môn kẻ bị tội rồi dựng đứng lên thành cây nêu ở những chỗ đông
người như chợ búa phố phường để ra oai. Có những cọc nêu cao lắm. Người ta đi
xa mấy chục dặm còn nhìn thấy xác người bêu co quắp trên ngọn cột nom như con
khỉ ngủ. Tô Nghĩa Đông biết mình sắp bị hành tội, y liều mạng bỏ trốn. May mắn
làm sao y trốn thoát khỏi ngục, chui vào được đoàn thuyền buôn từ bán đảo Lôi
Châu ra đảo Quỳnh Châu. Từ Quỳnh Châu, y theo thuyền đánh cá lọt vào được vào
Vân Đồn, cửa khẩu rất lớn ở biển Đông nước ta. Y vào trình quan ta trấn thủ Vân
Đồn, xưng là vong thần nhà Tống. Bấy giờ các quan ta trấn thủ các quan ải biên
thuỳ đã được lệnh cứu giúp kín đáo các vong thần nhà Tống. Vì thế quan trấn thủ
Vân Đồn tiếp đón Tô Nghĩa Đông rất trọng vọng, mở tiệc áp kinh thết đãi cho y bớt
sợ, tặng vàng bạc, tặng quần áo cho y mặc xênh xang rồi cấp thuyền, cấp ngựa
đưa Tô Nghĩa Đông về Thăng Long. Tô Nghĩa Đông là kẻ có ngòi bút rất hoạt. Thoạt
đầu khoác cái vỏ vong thần nhà Tống, đi đến đâu Tô Nghĩa Đông cũng múa bút làm
thơ. Những bài thơ mã thượng của y đọc lên nghe như chuông, hơi thơ hào sảng có
tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Các vương hầu kinh thành đua nhau mời Tô Nghĩa
Đông đến dự tiệc hoặc dự các buổi bàn luận văn chương, các buổi bình thơ. Y trở
thành một nhân vật huyền thoại như trong các thiên anh hùng ca thời cổ. Thơ y
được truyền tụng, người ta chép cho nhau nào tuyển tập nào toàn tập Tô thi. Người
ta kể truyền miệng cho nhau những chiến công của văn tướng Tô Nghĩa Đông ở hồ
Phiên Dương, ở cửa quan Hàm Cốc, ở Kinh Châu, ở Giang Lăng, ở Điền Đông, ở
Dương Châu, ở Quế Bắc... Những chiến công thần kì của Tô Nghĩa Đông mà, ôi kì lạ,
chính y cũng chưa hề biết. Nhưng y cứ im lặng nhận tất.
Mãi sau vong thần nhà Tống đào tẩu sang ta nhiều, nào Trần Trọng
Vi, nào Tăng Uyên Tử, nào Mã Vượng, Tô Cảnh Do, nào Triệu Trung... Đột nhiên
người ta thấy biến mặt Tô Nghĩa Đông một thời gian khá dài ở các đám tiệc tùng
kinh thành. Rồi lại thấy y xuất hiện, lần này với điệu thơ cao đạo thoát tục
toàn vịnh mây gió, trăng sao, sương mù, lừa ngựa. Nhiều người không cắt nghĩa nổi
sự thoắt biến thoắt hiện của Tô Nghĩa Đông. Chỉ biết Triệu Trung thì không bao
giờ chịu dự một bữa tiệc hoặc một cuộc luận bàn văn chương hay binh pháp nào có
Tô Nghĩa Đông. Triệu Trung chính là viên tướng đã quần nhau với dũng tướng Thát
Đát Ô Mã Nhi suốt một mùa đông tuyết lạnh lùng chung quanh cái biển hồ Phiên
Dương và hiện nay là chỗ đi lại thân thiết với Hoàng Mãnh. Triệu Trung là người
ít nói, cả ngày có khi không thốt một câu nên cũng chưa lộ chuyện gì với Hoàng
Mãnh nhưng anh chàng tinh quái này cũng đã đoán ra uẩn khúc trong các mối rối
như tơ vò đó. Thành thử bị ví với cái nhà anh Tô Nghĩa Đông, Hoàng Mãnh ức lắm.
Mặt Hoàng Mãnh lầm lầm, tái đi rồi lại đỏ bừng lên, rồi lại tái đi. Anh cố gắng
thưa bằng một giọng kính cẩn lạnh lẽo:
- Kính thưa đức ông điện hạ, kẻ hèn mọn này vốn dòng ti tiện,
đâu dám sánh với quan thị lang họ Tô.
Trần Nhật Duật đâm ra thương Hoàng Mãnh, ông làm lành:
- Nói chơi thế thôi. Em với ta cùng uống chung một bầu sữa mẹ.
Em nghĩ thế nào thì cứ nói thẳng ra để ta khỏi bận lòng. Ta muốn em yên bề gia
thất cho mẹ được vui lúc tuổi già. Em biết đấy, đích mẫu của ta là đức thái
hoàng Thái hậu Hiển Từ vốn là người khoảnh nết không hay gần gụi các con. Sinh
mẫu của ta là đức Thái hoàng thái phi lại là người thể chất yếu đuối, ốm đau
quanh năm có trông nom chăm sóc gì được cho ta đâu. Chính mẹ của em mới vừa là
nhũ mẫu vừa là dưỡng mẫu của ta. Mẹ cho ta bú, mẹ ủ ấm cho ta, mẹ che chở ta
lúc ta còn nhỏ nhoi, mẹ chăm ta lúc ta ươn người hờn quấy. Ơn cúc dục của mẹ dẫu
ta đền đáp đến bao nhiêu chăng nữa cũng không xứng.
Trần Nhật Duật ngừng nói. Không khí thư phòng trầm hẳn xuống.
Biết bao kỉ niệm hồi thơ trẻ trở về trong tâm trí dũng sĩ Hoàng Mãnh. Cái thuở
chưa biết phân biệt tôn ti trật tự, bé Hoàng Mãnh thường bắt nạt bé Duật, nào
cướp bánh trái, cướp đồ chơi, cướp quần áo, nào có bận còn đấm đá anh. Bà
Trương bênh Trần Nhật Duật, bà đét cho bé Mãnh những trận rất đau. Mẹ đánh rồi
mẹ lại thương Mãnh. Mẹ tắm cho Mãnh, mẹ ru Mãnh ngủ, âu yếm rung rinh Mãnh
trong đôi tay ấm áp làm cho trí óc thơ ngây của Mãnh không sao hiểu nổi tính nết
thất thường kì lạ đó.
Rồi đến những năm tháng trai trẻ trưởng thành ở các trấn,
Hoàng Mãnh càng ngày càng tài giỏi, càng khôi ngô, đẹp hùng tráng như một thần
tướng nhà trời, mắt long lanh sáng như mắt quỷ, gờ mũi, đường viền quai hàm như
đá tạc, một vành râu rậm đen lánh chạy từ mang tai bên này sang mang tai bên
kia. Hoàng Mãnh đã làm thổn thức biết bao tấc lòng của các công nương ở các lộ
anh theo Chiêu Văn vương đến trấn nhậm. Nhưng Chiêu Văn vương chưa nạp chính
phi nên Hoàng Mãnh cũng dẹp chuyện vợ con sang một bên. Việc nàng Hai đang dày
vò lòng anh. Bây giờ bỏ đi hỏi vợ trên lộ Đà Giang, Hoàng Mãnh cảm thấy như
mình làm điều chi bạc nghĩa với Chiêu Văn vương. Ngay việc anh tiến triều nhận
chức tướng quân Trấn điện, Mãnh cũng cho là nó na ná như một việc bỏ đi mà
thôi.
Hoàng Mãnh tự hào rằng không một ai hiểu nổi những khúc mắc
sâu kín nhất trong lòng Trần Nhật Duật, cũng như không một ai có thể hộ vệ
Chiêu Văn vương chu đáo bằng anh. Cũng có lúc trong cuộc đời phải có chia li;
thật là một điều dĩ nhiên nhưng phi lí biết bao. Bây giờ nữa, nếu Hoàng Mãnh rời
Thăng Long, ai sẽ là người an ủi đức ông Chiêu Văn trong những giờ khắc cô đơn
làm man mác thêm nỗi buồn sẵn có.
- Mẹ đã lên! - Hoàng Mãnh cúi đầu nói nhỏ.
Hoàng Mãnh mừng rỡ, Trần Nhật Duật càng mừng rỡ hơn, ông đứng
bật dậy:
- Sao bây giờ mới nói? Mẹ ở đâu?
- Mẹ ở ngoài tiền sảnh chờ anh cho vào.
- Ô hay, cả khu phủ đệ này mẹ muốn vào chỗ nào không được. Thôi,
ta ra tiền sảnh đón mẹ vậy.
Trần Nhật Duật đi mau ra khỏi thư phòng. Ra đến cửa, ông chợt
nhớ ra cái vật còn cầm trong tay. Ông liếc vội Hoàng Mãnh và giấu vật đó vào
trong bọc. Hoàng Mãnh thoáng mỉm cười rồi lờ đi làm như không trông thấy gì hết.
Trần Nhật Duật thấy bà nhũ mẫu họ Trương đỏ da thắm thịt hơn
hồi bà ở trong cung nhưng vẻ mặt hơi tư lự.
Trần Nhật Duật đoán rằng bà Trương chê nàng Hai là người Man
Lão. Ông định bụng sẽ nói khéo cho Hoàng Mãnh và nàng Hai bởi vì thực ra cũng
chẳng có đám nào hơn thế. Ông mời bà nhũ mẫu vào hậu đường để cho cuộc gặp mặt
thêm ấm cúng gia đình. Bà Trương đã trên sáu mươi tuổi nhưng vẫn còn tráng kiện
lắm. Bà có một chiếc gậy lụi hun đen cầm trong tay nhưng chỉ là để cho đẹp lão,
đó chính là làm dáng chứ không phải để chống cho gân cốt của tuổi già. Bà
Trương đem theo một người đàn bà. Người này ôm khư khư trong lòng một chiếc đãy
vải cứ như sợ mất cắp. Bà Trương thấy vậy bật cười bảo:
- Bà đưa cho tôi cái đãy.
Bà Trương cầm cái đãy, cởi cái lạt buộc miệng đãy ra, bà nói
xởi lởi:
- Thím Tư em dâu ông Đỗ đó. Cô ấy ao ước được lên kinh chơi một
lần dối già nhưng tôi đưa cô ấy vào đây thì cô ấy lại sợ quá. Tôi đã bảo là đức
ông rộng lượng lắm nhưng cô ấy vẫn chín vía còn ba.
Trần Nhật Duật nhìn người đàn bà quê mùa mộc mạc mặc bộ quần
áo may đã lâu, chắc chắn là thế nhưng chỉ mới xỏ tay đôi lần hiếm hoi trong đời
người. Ông bảo bà ta:
- Thôi cho phép bà lui.
Người đàn bà vái lia vái lịa và theo người thị nữ đi về phía
dãy nhà dành cho những người hầu gái. Bà Trương mỉm cười theo và khi người em
dâu đi khuất mới ngoảnh lại lấy các vật trong chiếc đãy vải bày lên mặt sập:
- Đây là quà quê, anh chị lòng thành mang ra.
Bà Trương vẫn giữ lối xưng hô chị dưỡng - cậu hoàng với Trần
Nhật Duật trong những lúc vắng vẻ thân tình như thế này. Chính Trần Nhật Duật
cũng thích như vậy.
- Sâu dâu để ngâm rượu này. Mật ong hoa trám này. Anh bảo thứ
mật hoa trám này để người uống rượu nhiều dùng thì tốt lắm đấy.
Trần Nhật Duật bật cười:
- Vừa có thứ để ngâm rượu uống thích miệng vừa có thứ dùng
cho giã rượu và hạ hoả. Quà của chị dưỡng sao mà khéo thế.
Bà Trương hờn mát:
- Chị ở chốn quê mùa làm sao mà có được quà quý. Vì thế cho
nên cứ bảo tại sao chị chả dám lên kinh.
Biết tính bà Trương, khi nào bà còn mở miệng là bà vẫn vui,
Trần Nhật Duật đùa:
- Lần này chị dưỡng không muốn lên kinh cũng phải lên.
Bà Trương nghiêm ngay nét mặt lại. Bà nói giọng bồi hồi:
- Cậu hoàng cho gọi chị lên kinh chắc vì việc thằng cả phải
không? Thế việc đã đến đâu rồi?
- Việc cũng mới bày ra nhưng em chắc phải xong. Chị cho em
thay mặt họ nhà giai lo liệu việc này nhé.
Bà Trương lo lắng:
- Thì nó là em cậu hoàng. Chị chỉ lo họ người ta là thế gia
phiên trấn...
Trần Nhật Duật sửng sốt kiêu hãnh:
- Em lại cứ tưởng chị lo chuyện gì kia chứ. Người nhà ta uy
danh lừng lẫy ở bất kì đất nào trên nước Việt ta.
Bà Trương ngắt lời.
- Không phải chị so đo chuyện đó đâu. Ở cửa cậu hoàng, em nó
là khách khanh đứng đầu hàng trăm tân khách, gia tướng, gia nô. Nó kém gì các bậc
công hầu.
Trần Nhật Duật bật cười vì ít khi ông nghe thấy bà Trương
dùng lời lẽ kiểu cách chữ nghĩa hệt như một quan viên hàn lâm đến thế. Cái đó
chứng tỏ bà Trương đã đem chuyện riêng hỏi ý những bậc túc nho rồi lời lẽ của họ
nhập tâm bà.
- Thế chị dưỡng ngại chuyện gì?
- Ôi dào, nhà người ta tù trưởng cầm đầu một lộ. Lấy con cái
nhà người ta thì phải ở rể trên ấy. Tôi sợ là tôi sợ chuyện ấy thôi.
Trần Nhật Duật hỏi vặn bà Trương:
- Thế thì mười mấy năm nay mỗi năm thằng Mãnh cũng chỉ về
thăm chị được có mấy ngày thôi chứ gì. Có phải gửi rể châu Mai thì nó cũng mỗi
năm về thăm cha mẹ đôi lần cơ mà. Có khác gì trước đâu nào?
Bà Trương đột nhiên nói to lên, thật to:
- Có khác, mà khác nhiều cơ. Khác là trước kia nó hầu hạ cậu
hoàng quanh năm, bây giờ thì nó đi vui thú chỗ khác một mình nó.
Trần Nhật Duật và bà Trương cùng im lặng. Trần Nhật Duật xúc
động về tình nghĩa của mẹ con bà Trương đối với mình. Hoàng Mãnh đã chẳng gạt bỏ
bao nhiêu mối lương duyên chỉ vì anh ta không muốn xa người anh em đồng nhũ đấy
ư? Bây giờ bà Trương cũng vậy. Bà cũng không muốn Hoàng Mãnh xa Trần Nhật Duật.
Vậy mà người mẹ nào chả mong mỏi con trai của mình sớm thành gia thất, để rồi sớm
có cháu đích tôn nối dõi tông đường.
Nhưng không phải bà Trương chỉ e ngại về mặt tình nghĩa mà
thôi đâu. Có một mối lo lắng mơ hồ mà bà chưa từng suy nghĩ tìm hiểu nhưng sự mẫn
cảm của một bà mẹ đã hướng bà về điều đó. Sức mạnh kín đáo và huyền bí của sự mẫn
cảm ấy đã làm cho bà Trương lo lắng cho sự lẻ loi của Trần Nhật Duật. Xưa nay
Chiêu Văn vương đã đảm nhiệm nhiều trọng trách của triều đình kể cả việc quân
việc nước. Nào là chức trấn thủ những lộ quan trọng như lộ Thanh Hoá, lộ Đà
Giang, nào là đem quân giữ yên bờ cõi, giữ yên từng vùng có kẻ phản loạn, nào
là thay mặt triều đình làm giám sát các khoa thi Thái học sinh... Việc nào ông
cũng làm tròn một cách xuất sắc. Tất nhiên sau một công lao xuất sắc ông lại được
Quan gia trao những chức vụ trọng yếu hơn để rồi lại khen thưởng khi ông làm
tròn một cách xuất sắc hơn nữa. Nhưng bấy nhiêu công việc, Trần Nhật Duật đều
làm trong trường hợp có tả hữu giúp đỡ, nói cho đúng hơn là có người tâm phúc ở
bên mà người tâm phúc ấy chính là Hoàng Mãnh. Bà Trương cảm thấy hình như phải
có sự cặp đôi ấy, của hai tâm hồn, hai khối óc ấy để chúng bù trì cho nhau. Bà
Trương mơ hồ cảm thấy những người thuộc dòng hoàng tộc như Trần Nhật Duật quen
sống trong điều kiện có tả hữu đông đúc vây quanh, không quen chen vai thích
cánh để mở lấy một hướng đi, không quen hay nói cho đúng hơn chưa được tôi luyện
để một mình quả quyết và xông xáo vượt băng mọi ách tắc chướng ngại gay cấn
trên đường đời. Bà lo cho Trần Nhật Duật chứ bà không lo cho Hoàng Mãnh trong
cuộc chia lẻ này. Bà nói nhỏ:
- Giá cậu hoàng cũng lập vương phi mà thằng cả nó cũng lấy vợ
quanh đây thì chị cũng yên lòng hơn.
Trần Nhật Duật vốn bắt gặp rất nhạy những uẩn khúc sâu kín
trong đáy lòng những người ông gần gũi quen thuộc. Ông an ủi bà Trương:
- Trước hay sau thì cũng phải lấy vợ cả thôi mà em Mãnh thì
khó mà kiếm được một đám nào hơn đám này. Chị dưỡng cứ ừ đi một tiếng để em vui
vẻ mà lo việc cho nó.
Bà Trương cười, thoạt đầu nụ cười còn hơi gượng gạo rồi dần dần
cũng tự nhiên. Trần Nhật Duật kể để bà Trương nghe qua những lễ vật sẽ đưa nhà
gái hôm vấn danh. Ngoài cau, rượu, chè, trâu, lợn; Trần Nhật Duật còn cho dẫn
cưới mười tấm đoạn đại hồng, mười hai đôi xuyến vàng, một bộ trâm, lược đồi mồi,
một đôi hài thêu vóc tía. Chắc chắn theo phong tục châu Mai, nhà gái sẽ thách dẫn
thêm hai mươi bốn bộ chăn gối bằng thổ cẩm, một trăm quan tiền. Tiền để phân phát
cho bọn trẻ con trong vùng còn hai mươi bộ chăn gối để chia cho những người con
gái họ Trịnh đã đi lấy chồng họ ngoài. Trần Nhật Duật đã sai gia nô đặt thợ
thêu ở phường Tàng Kiếm dùng chỉ bạc cải những ô chữ Song Hỉ lên mặt chăn mặt gối.
Những lễ vật này đúng là đồ dẫn cưới của nhà quyền quý! Hoàng Mãnh chẳng muốn lễ
vật sang trọng thế. Anh muốn hôn lễ cử hành vui vẻ, thắm thiết, tưng bừng nhưng
không vượt khỏi vị thế của những người dân thường trong làng quê của anh. Trần
Nhật Duật can em, ông bảo hôn lễ này không phải riêng của cô dâu chú rể và hai
họ, hôn lễ này còn biểu hiện sự gắn bó của triều đình với phiên trấn miền núi nữa.
Chẳng những thế, Trần Nhật Duật cũng dè chừng miệng tiếng người đời chê ông nhẹ
tình, không rộng rãi với người em đồng nhũ. Cái gương anh em đồng nhũ giữa thái
tử Sảm nhà Lý với Đoàn Thượng cho đến bây giờ vẫn được người ta nhắc đến, kể cả
những người trong họ Trần là những kẻ tử thù với họ. Trần Nhật Duật kiên quyết
làm hôn lễ cho em theo ý mình. Hoàng Mãnh đành nghe lời anh nhưng Hoàng Mãnh dứt
khoát đòi bỏ tiền riêng chi hết các khoản hôn lễ của mình. Anh nói:
- Thưa đức ông điện hạ, đức ông ban thứ gì em cũng quý nhưng
những khoản này phải để em chi kẻo người ta lại bảo thế nọ thế kia. Chỉ xin đến
lúc cướp dâu, đức ông đi cho có một tay kiếm sắc.
Bà Trương nghe con nói khảng khái cũng ưng ý nhưng bà sửng sốt
ngẩn người ra mà hỏi:
- Cướp dâu à? Thế là thế nào?
Trần Nhật Duật cười và giảng giải cho bà nhũ mẫu hiểu tục cướp
dâu ở châu Mai làm cho bà tái mặt đi:
- Thế thì còn giời đất nào nữa! Đã gọi là thuận đôi vừa lứa
thì mới cho làm lễ cưới chứ. Bây giờ lại còn bày ra cái trò cướp bóc phá phách
này nữa. Mũi tên ngọn giáo lỡ ra mất mạng như chơi. Thôi mày về quê nội quê ngoại
kiếm một cô gái quê làm vợ. Thiếu gì người đẹp đảm đang ngay các bậc vương công
cũng phải thèm nhớ...
Bà Trương vẫn há mồm mà không nói tiếp được nữa. Hoàng Mãnh
liếc thấy Trần Nhật Duật bần thần cúi mặt xuống nên vội nói chữa:
- Ôi dào ôi! Mẹ cứ lo phỗng lo loan. Đánh cướp một cô dâu thì
nào có khó khăn gì. Con đưa đội dũng thủ của con lên thì hiểm trở như cửa ải Lê
Hoa chúng con cũng chiếm phăng. Còn phong tục người ta trên ấy nó như vậy. Người
ta giữ tiếng họ nhà người ta là họ to; người ta lại không muốn kén phải rể hèn.
Mà việc này, đức Thượng hoàng đứng làm chủ hôn. Ai trái vương mệnh là mắc tội
khi quân tru di ba họ. Mẹ cứ yên lòng. Việc khó nhưng đã có anh con đây.
Bà Trương quát con:
-Việc của mày mà mày cứ kéo anh mày vào. Cái trò đánh cướp ấy
có khác gì đi trận đi mạc không nào. Mày muốn cướp gì thì mặc mày. Mày muốn cướp
cả giời cũng được chứ tao là không bằng lòng để cậu hoàng cũng bôi mặt cầm tay
thước đi cướp vợ cho mày.
Trần Nhật Duật cười dàn hoà:
- Cướp dâu mà chị dưỡng lại ví với bọn giặc cỏ bôi nhọ nồi
lên mặt. Thôi... từ nay đến tháng một còn hơn bảy tháng nữa cơ mà. Đến lúc đó sẽ
liệu sau.
Bà Trương cũng cười. Đến lúc này cả ba người mới thực sự cùng
một lòng bàn về lễ cưới, trước mắt là lễ vấn danh sắp tới. Bố mẹ chú rể và
Chiêu Văn vương không phải đi châu Mai. Hoàng Mãnh cũng vậy. Trần Nhật Duật sẽ
nhờ một ông học sĩ viện Hàn lâm thay mặt nhà trai dẫn một đoàn người ngựa mang
lễ vật lên nhà họ Trịnh. Đám cưới của một tướng quân Trấn điện, sủng thần của
nhà vua ắt phải vui vẻ, náo động - nhất là viên tướng đó đã từng là khách khanh
trong mạc phủ của Chiêu Văn vương. Trần Nhật Duật sẽ đích thân viết lên lá thiếp
hồng tên, họ, ngày sinh tháng đẻ của Hoàng Mãnh để ông học sĩ mang đi châu Mai
trao cho nhà gái để so đôi tuổi hai trẻ.
Cả ba người đều thấy trước lễ sẽ trọng thể nhưng họ đều không
ngờ việc này đã được Thượng hoàng, Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải lưu tâm
bàn bạc. Ngay khi được biết Hoàng Mãnh và nàng Hai nhà họ Trịnh có mối lương
duyên, Thượng hoàng đã cho gọi hai đức ông vào cung Thánh Từ. Xét mối duyên này
có khả năng thắt chặt thêm tình nghĩa giữa tù trưởng thượng du và triều đình,
Thượng hoàng có ý sẽ giao cho ông Chính khanh Quang Lộc Tự mang biển Khâm sai
đi dẫn lễ. Trần Quốc Tuấn tâu Thượng hoàng xin một ngũ lính hổ bôn hộ tống biển
khâm sai. Trần Quang Khải nhấn mạnh hôn lễ này phải làm sao để các lộ thượng đạo
thấy rõ triều đình rất quý các phiên trấn và cũng tôn trọng những dũng thủ có
tài. Và cả ba người đều khen Trần Nhật Duật là người thông minh và tình nghĩa.
Cung cách tiến hành lễ vấn danh tỏ rõ là họ Trần đã quyền quý
ba đời, khác với cái thuở nửa dân chài nửa buôn biển, cướp biển vác đòng đi mở
nước tìm một ngai vàng.
Ngày xưa, họ Trần lênh đênh trên các triền sông Bạch Đằng,
sông Luộc, sông Hoàng, sông Hoá, nghênh ngang biên hải; họ đặt tên con cái là
những giống cá sông, cá biển. Ông tổ là Kình, chữ kình có bộ ngư là cá ở bên.
Ông Kình sinh con đặt tên là Hấp chính là con trắm trong chữ nôm, thứ nữa là
Lý, tên chữ của con cá chép, rồi đến thế hệ nữa: Khánh là con cá ngạch, Thừa là
con cá dưa, Liễu là con cá nheo, Cảnh là con cá lành canh, tất cả đều có bộ ngư
bên cạnh. Khi đã cướp được ngai vàng rồi, họ Trần sai bọn biết chữ soạn sách
vàng dòng họ, bao nhiêu bộ ngư bỏ hết. Qua hai thế hệ bây giờ họ Trần đã là họ
tôn quý, tên tuổi các con đều lấy điển trong kinh sách thật hay. Họ sang rồi
thì lễ lạt cưới xin phải sang.
Chương 6
Từ giữa giờ đầu, các vương hầu và các quan văn võ đã đốt đuốc
đến tề tựu ở cửa hoàng thành. Hai đô Long Dực, Hổ Dực dàn rộng ra vừa để giữ trật
tự vừa để tăng phần long trọng cho ngày lễ thề trong đền Đồng Cổ. Tất cả vương
hầu và các quan văn võ đều mặc triều phục. Lính cận vệ cũng mặc áo chiến may bằng
gấm thật đẹp. Những lá cờ đại đã được cắm sẵn trên mặt thành, những lá phướn
mang quân hiệu từng đô bay phần phật trong bóng đêm. Bấy nhiêu con người đứng
im lặng chăm chú. Họ đã tắm gội sạch sẽ bằng nước nấu với rễ hương bài và ăn chay
ba ngày nay để tỏ lòng thành và ý niệm thanh khiết. Bây giờ họ chờ hai vua ngự
ra ngoài cung để phò lên đền Đồng Cổ cử hành lễ thề. Đức ông Nhân Túc vương Trần
Toàn đã dẫn đức ông Chiêu Minh vương Thái sư Trần Quang Khải và đức ông Hưng Đạo
vương Trần Quốc Tuấn vào cung để rước hai vua xuất cung. Lần thề năm nay sẽ do
đức ông Hưng Đạo vương làm Điển nghi Kiểm chính tức là chức vụ chủ tế. Nhân Túc
vương Trần Toàn không ngờ việc chọn chủ tế lại dễ dàng đến thế. Mấy hôm trước,
Nhân Túc vương có việc phải vào cung Thánh Từ tâu việc. Khi vào đến nơi, Trần
Toàn thấy cả hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo đang ngồi hầu vua. Trần Toàn
tâu việc xong, Thượng hoàng phán:
- Được, việc đó cứ thế mà làm. Còn văn thề thì chú đưa ngay
cho chủ tế đi.
Nhân Túc vương Trần Toàn cuống lên chỉ biết vâng dạ vì đức
ông Nhân Túc không biết ai được chọn làm chủ tế cả. Bỗng thấy đức ông Chiêu
Minh như hiểu chuyện và muốn gỡ bí cho Nhân Túc vương, cười bảo:
- Đức ông chủ tế Hưng Đạo muốn xem trước văn thề để khi tuyên
đọc cho dõng dạc đó chú Nhân Túc ạ.
Trần Toàn sướng muốn múa tay trong bị. Ông không ngờ cách chọn
của Chiêu Văn vương lại đúng cách như thế. Giá mình biết thế này thì mình tâu
trước có khi Thượng hoàng và cả hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo cũng phải phục
mình là công minh.
Ánh đuốc và lửa của hàng trăm cây đèn lồng soi rõ cánh cửa
hoàng thành cực kì trang nghiêm. Lính tứ sương chịu trách nhiệm giữ trật tự dọc
con đường ven hồ Dâm Đàm đã chia từng ngũ cưỡi ngựa mở đường bởi vì nhân dân
kinh thành đã tề tựu rất đông chờ xem đám rước vua. Họ chờ từ ngoài xa, mặc dầu
lệnh cấm rất nghiêm ngặt nhưng họ vẫn bàn tán xôn xao. Mặc cho những ngọn roi
đe nẹt, mặc cho những tiếng quát mắng cáu giận, mặc cho những giáp binh nai nịt
gọn ghẽ khí giới sáng loè, đám dân đầu đen chỉ im được một tí rồi lại hỏi nhau,
cãi nhau, bàn tán râm ran về lễ thề. Hình như họ biết rằng trong ngày lễ thề sẽ
không bắt bớ trừng trị ai cả, nói tóm lại là không dám làm mất lòng dân trong
ngày thiêng liêng đó.
Rõ ràng thệ hội là một lễ long trọng của vương hầu và các
quan văn võ. Bách tính lê dân nhìn vào đó có thể hiểu phần nào cái lễ nghĩa kỉ
cương biểu hiện ở các đồ nghi trượng sơn son vẽ phượng hào nhoáng che giữa hai
chi trưởng và chi thứ của họ Trần. Đám dân đen lo lắng hai chi đánh lộn nhau
như cuối triều Lý gây thành hoạ loạn cho trăm họ bàn dân thiên hạ. Họ cố rình
xem để đoán, qua nét mặt của các đức ông hai chi, mối đại thống họ Trần nó ra
sao để còn liệu mà chôn giấu của nả, đem con cái đi ẩn náu ở chốn sơn thôn.
Hai vua chưa ra khỏi cung, hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo
cũng không có mặt trong đám vương hầu và văn võ bá quan nhưng bách tính lê dân
vẫn nhận ra chưa có sự hể hả thực sự giữa hai chi Tức Mạc và Vạn Kiếp.
Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai trưởng của Trần Quốc
Tuấn, là người sẽ thay Trần Quốc Tuấn làm trưởng họ Trần sau này. Quốc Nghiễn
là người giữ trách nhiệm Đông Xướng trong lễ thề hôm nay, đứng riêng ra một mé
bên dưới một chiếc biển sơn son thếp vàng hai chữ Khâm sai viết chân phương. Vẻ
mặt Quốc Nghiễn trang trọng nhưng đôi mắt Quốc Nghiễn luôn kín đáo liếc về cửa
hoàng thành và liếc luôn cả viên Tây Xướng đứng đối diện. Viên Tây Xướng là Tả
Thiên vương Trần Đức Việp, em ruột và kế cận ngay sau vua Nhân Tông. Đức Việp
chính là người sẽ cầm đầu chi thứ tiếp theo Trần Quang Khải. Tả Thiên vương
cũng không lơi con mắt tò mò ngắm lại Quốc Nghiễn. Nhưng cả hai người từ nhỏ
chưa hề có va chạm gì với nhau, hơn thế nữa họ đã từng đôi lần dự những cuộc
săn, những dạ hội cùng với nhau một cách thích thú.
Hai con trai khác của Trần Quốc Tuấn là Hưng Trí vương Trần
Quốc Hiệu và Hưng Hiếu vương Trần Quốc Uất cùng mấy gia tướng đứng phòng hờ
phía sau lưng anh cả. Hình như mấy người này vẫn lo lắng một sự giở mặt có thể
xảy ra phía chi thứ. Nhưng thực ra thì không phải thế, Quốc Hiếu, Quốc Uất đã
lâu chưa lên kinh. Họ như những người thôn phu bình thường choáng mắt trước cảnh
đông đúc lộng lẫy và kinh ngạc rằng tại sao người ta lại có thể ung dung chịu
được cung cách sống phiền toái ấy.
Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng vốn là người ba phải. Đức
ông Chiêu Đạo là em kế cận cùng mẹ của Thượng hoàng Thánh Tông và đức ông Chiêu
Minh. Đức ông rõ là người cũng quyền uy của chi thứ nhưng Chiêu Đạo mặt mũi hể
hả đứng chung với đám vương hầu thuộc chi út Long Hưng. Đám này chuyện trò vui
vẻ thoải mái nhất. Rõ ràng thệ hội này ngoài tính chất trang nghiêm trọng thể
còn là cuộc vui hội hè thực sự với họ. Và họ náo nức bàn tán về cuộc rượu đêm
nay trong điện Tập Hiền.
Hai tốp riêng rẽ nhất là tốp Chiêu Quốc - Chiêu Văn và tốp
Hưng Nhượng - Chương Hiến.
Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, con trai út của Trần Quốc
Tuấn và Chương Hiến hầu Trần Kiện, con trai của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc
Khang vốn là hai người cùng tuổi, học cùng khoá trong Quốc Tử Giám, học vấn
uyên bác nức tiếng cả trong kinh ngoài trấn. Tước hầu của Trần Kiện là hầu thượng
vị, được mặc áo tía hệt như các vương. Người ta thường cho rằng hai người là bạn
chi lan chi huệ với nhau. Họ đều là những bậc túc nho thâm thuý, gần đây nghe
đâu lại cùng nhau nghiền ngẫm lẽ huyền diệu của Đạo Đức kinh và Đại Tạng kinh nữa.
Ngay đến bậc lão học thông quán cổ kim là Hưng Ninh vương Trần Tung khi nhắc tới
họ cũng không dám coi thường. Họ đứng cạnh nhau như một cặp bài trùng nhưng thực
ra khi nhìn kĩ, họ vẫn khác nhau lắm. Hai vẻ mặt cùng bình lặng của triết gia
nhưng đôi mắt Trần Quốc Tảng lim dim buông thả, còn Trần Kiện có một nụ cười mơ
hồ giễu cợt.
Đứng đối diện với tốp ấy là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và
Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, anh em cùng mẹ cùng cha. Chiêu Quốc vương có một
dáng người và một vẻ mặt tuyệt đẹp. Mái đầu có một góc nghiêng kiêu sa khinh thị,
một nụ cười nửa miệng dường như gạt bỏ tất cả các thứ lễ nghi đang bày ra và sẽ
diễn ra hôm nay. Da mặt Chiêu Quốc vương trắng xanh càng làm cho đôi mắt có quầng
thâm sâu thăm thẳm. Tay phải Chiêu Quốc vương cầm một lá quạt trầm xinh nhỏ,
tay trái lơ đãng đếm những hạt ngọc nạm trên chuôi cây kiếm ngắn đeo bên sườn
trái. Chiêu Quốc vương nói không động môi:
- Kìa, nhìn mà xem đám khỉ tu tiên.
Chiêu Văn vương ngơ ngác nhìn để tìm cái đám “khỉ tu tiên” mà
anh mình nói tới. Thốt nhiên đức ông Chiêu Văn cảm thấy xưa nay mình vẫn chưa
nghiền ngẫm đầy đủ về các mối quan hệ trong dòng họ cũng như chưa tìm hiểu đến
nơi đến chốn về vị trí của mình trong mối quan hệ rối rắm ấy. Xưa nay đức ông
quen sống hồn nhiên, quen đằm mình vào những hoạt động sôi nổi trước mắt theo một
thiên hướng công bằng đầy thiện chí của tuổi trẻ. Trong cuộc đời sôi nổi ấy, đức
ông Chiêu Văn thu nhận một cách vô tình những tác động tự nhiều nguồn ảnh hưởng
khác nhau. Ông phục sự trí lự dày dạn của Hưng Đạo vương, ông chiêm ngưỡng sự
uyên bác thâm trầm của Hưng Ninh vương, ông thích thú cái duyên dáng lịch sự của
Chiêu Quốc vương, ông công nhận cách làm việc quả đoán sát phạt của Chiêu Minh
vương, ông quý cái ham suy tư tìm hiểu lí lẽ huyền diệu đất trời của Hưng Nhượng
vương... Hầu như với tất cả những người ông gặp gỡ trong việc nước cũng như
trong giao tiếp bình thường, Chiêu Văn vương đều lọc ra được những điều đáng
lưu giữ.
Trong số những người gần gụi ông, Chiêu Văn vương xưa nay vẫn
thân thiết nhất với Chiêu Quốc vương. Đó cũng là lẽ tự nhiên vì cùng mẹ, tuổi
tác cũng không chênh nhau bao nhiêu. Chiêu Quốc vương lại là người thật tài giỏi,
kể từ sở học đến tạp kĩ đức ông Chiêu Quốc có một sức hấp dẫn hết sức kì lạ với
những người chung quanh. Tuy thế câu nói khinh thị về cái “đám khỉ tu tiên” hôm
nay không được Chiêu Văn vương tán thưởng. Đức ông Chiêu Văn chỉ gượng cười. Đức
ông định nói với anh rằng Trần Quốc Tảng và Trần Kiện là hàng cháu, tranh chấp
làm gì với bọn họ nhưng rồi lại thôi vì sợ mếch lòng Chiêu Quốc vương.
Đầu canh năm, đài đồng hồ nước thỉnh ba hồi khánh. Thế rồi tiếng
trống, tiếng chiêng nổi lên. Cửa hoàng thành mở toang. Quan Trấn điện Phạm Ngũ
Lão dẫn quân Thánh Dực ra khỏi hoàng thành bằng hai cửa nách. Các đồ nghi trượng
được dàn ra trên bãi rộng trước cửa hoàng thành. Một viên Nội giám Trung quan đứng
trên vòm cổng hoa cái loa bầu thét:
- Thánh giá xuất cung.
Nghe hiệu xướng vua ra khỏi cung, vương hầu và các quan cùng
lạy rạp xuống đất. Một đám tàn vàng tán tía xúm xít che hai cỗ kiệu nối nhau ra
cửa thành. Kiệu đi trước rước đương kim hoàng đế Nhân Tông, kiệu thứ hai rước
vua cha Thượng hoàng Thánh Tông. Kế sau hai cái kiệu, người ta thấy Nhân Túc
vương Trần Toàn, cái mũi càng sần đỏ hơn bao giờ hết; rồi đến Tĩnh Quốc đại
vương Trần Quốc Khang, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Hưng Đạo vương Trần Quốc
Tuấn đi bộ ra từ hai cửa tả, hữu. Theo sau các đức ông phò giá là toán dũng thủ
áo gấm kén chọn trong các vệ thân quân. Viên tướng chỉ huy toán dũng thủ này là
Trung phẩm Phụng ngự Điện tiền tướng quân Hoàng Mãnh hiên ngang trong bộ áo chiến
bằng vóc đại hồng mới tinh khôi.
Thế rồi chiêng trống và đồ nghi trượng dàn bày lên trước. Những
lá cờ thêu mặt trời, mặt trăng, thêu rồng mây, cờ năm màu, may bằng lụa và vải
bay phần phật trong gió sớm. Cả một đô Hổ Dực cầm côn sơn đỏ đi đầu vút roi để
mở đường. Tất cả vương hầu và các quan văn quan võ nối nhau thành hàng dài đi bộ
theo hai cỗ kiệu vàng rước vua.
Bây giờ trời đã rạng. Nhân dân kinh thành đã dậy và bày hương
án ở hai bên vệ đường để tỏ lòng tôn kính nhà vua và cũng xem rõ mặt rồng bởi
vì dù họ là dân kinh thành nhưng hai vua xuất cung vẫn là dịp hiếm hoi, có khi
chỉ một đôi lần trong một năm. Sau đoàn vương hầu đến các phi tần và nữ quan
hai cung. Chung quanh những người đàn bà yếm áo lượt là này là nội giám mặc áo
tía trơn. Kế sau đoàn nữ quan là đoàn các đạo sĩ cung Cảnh Linh mặc áo chéo vạt
bằng lụa huyền nền mờ hoa bóng tay cầm phất trần bằng lông đuôi ngựa trắng. Ông
đạo thống đã già lắm, vẻ mặt bí hiểm, tay cầm sợi xích thau treo lủng lẳng một
cái lư trầm toả khói mù mịt. Kề sau đoàn đạo sĩ là đoàn các tăng ni chùa Chân
Phúc mặc áo cà sa lụa nâu, lụa vàng, tay cầm những chuỗi hạt bồ đề vừa đi vừa đếm
hạt và niệm Phật hiệu. Vị tăng thống cầm cây thiền trượng, đầu trượng rủ xuống
nhiều dải lụa màu rực rỡ.
Sau đám tăng đạo mới đến các quan văn quan võ từ tòng tứ phẩm
trở xuống. Dẫn đầu đoàn các quan là viên Đại An Phủ sứ kinh thành và quan Học
sĩ Lê Văn Hưu hiện giữ việc phó quan trong phủ Tể tướng Thái sư của Chiêu Minh
vương.
Khi các quan đã đi qua, các gia tướng, thư nhi, gia nô và
quân tuỳ thân của các vương hầu mới chụm lại thành cái đuôi dài lê thê của đám
rước. Chủ xích mích với nhau một thì tớ gầm ghè với nhau mười. Gia nô của các
vương phủ chi Tức Mạc mặc đẹp hơn, ăn nói hoạt bát hơn bọn ở Vạn Kiếp về. Những
gia tướng Vạn Kiếp thì vũ dũng hơn, họ cao lớn, hơi cục mịch đôi chút, quần áo
kém phần xát xóng và một đôi người có cái dáng giang hồ ngang ngửa. Họ nín nhịn
trước những lời châm chọc khá nanh nọc:
- Chắc cái áo này ông anh may phòng nhớn?
- Tại sao chú em cứ ru rú mãi ở rừng Yên Tử? Chú em sợ lên
kinh không có ăn à?
Có lời khiêu khích rõ rệt hơn:
- Này mấy chú em, có nhớ trận đòn năm Mão không?
Trận đòn năm Mão cách đây đã trên mười năm. Lần ấy vua Thánh
Tông chưa nhường ngôi cho con. Nhân một dịp mừng chiến thắng quân phiến loạn ở
vùng núi phía tây, triều đình làm lễ hiến phù dâng tù binh ở nhà Thái Miếu. Buổi
tối vua ban tiệc khao thưởng tướng sĩ tòng chinh. Tiệc đến khuya mới tan, các vương
hầu về phủ đệ, chẳng biết nguyên cớ làm sao nhiều đám đánh lộn đã xảy ra ở nhiều
nơi trong kinh thành. Quân tứ sương phải đánh trống ngũ liên, huy động mấy đô,
mấy vệ ra phường phố giữ trật tự. Không bắt được một hung thủ nào, lính tứ
sương chỉ thấy nằm ngả ngốn những gia nô, gia tướng tuỳ thân của các đức ông
chi Vạn Kiếp. Người kinh thành đoán những kẻ hành hung là những dũng thủ của
các đức ông chi Tức Mạc nhưng đoán thì đoán thế thôi chứ nào ai dám hé răng.
Trận đòn năm Mão là một nghi án nhưng chẳng ai nghi cả. Ai
cũng hiểu hung thủ là loại người gì cũng như ai cũng hiểu trận gọt gáy năm Ngọ
(sau trận năm Mão đúng ba năm) là do ai gây ra vào dịp các đức ông chi Tức Mạc
đi vãn cảnh chùa Yên Tử sau khi chùa chính ở núi này trùng tu xong. Trận gọt
gáy năm Ngọ cũng không tìm ra hung thủ, chỉ mấy người bị đánh nằm ngổn ngang ở
sườn núi bờ khe mà toàn là tướng, lính tuỳ thân của các đức ông chi Tức Mạc.
Anh nào cũng bị đòn đau, tóc bị gọt một mảng nơi gáy và bôi vôi vào. Nghe nói gọt
gáy bôi vôi là hình phạt thường chỉ dùng với loại đàn bà lẳng lơ quá mức lừa chồng
đi ngoại tình, nó đã xót mà mấy tháng sau tóc mọc lại cũng lởm chởm khó coi.
Trong cái đuôi lê thê của đám rước, người ta nhận ra vóc dáng
cao lớn của hai gia tướng thân cận của Trần Quốc Tuấn là Yết Kiêu và Dã Tượng.
Phía người của chi Tức Mạc cũng có một dũng thủ to lớn cầm đầu. Anh ta mang một
cái biệt hiệu là Đô Trâu, nghe đâu xưa kia đã từng giải chiếu cạp điều xơi liền
mười một giải cạn của hội vật hàng năm của vùng hai bờ sông Đà. Con người thô lỗ
hung dữ ấy mà lại có cái lưỡi rất sắc. Những câu châm chọc đau nhất của anh ta
và thường nhằm vào Yết Kiêu. Điều đó có một nguyên nhân xa xưa mà Đô Trâu không
bao giờ thổ lộ. Đó là giải cạn lần cuối của Đô Trâu. Năm ấy theo phong tục vùng
sông Đà, hội vật mùa xuân mở ngay sau ngày tết Nguyên đán. Khi ấy Chiêu Quốc
vương đang làm trấn thủ lộ Đà Giang. Các bô lão trong vùng mời đức ông làm chúa
hội vật. Bộ hạ của đức ông Chiêu Quốc có một đô vật tài nghệ rất cao mà tầm vóc
cũng thật dềnh dàng. Hắn ta chính là Đô Trâu, cái biệt hiệu thực xứng đáng với
vóc người nhưng thực ra không đúng với tính nết của y. Con trâu vốn là bạn nhà
nông, đã hay làm lại chỉ ăn cỏ, hiền dịu và có nghĩa còn Đô Trâu tính độc ác,
vô học và nham hiểm. Hắn lại được Chiêu Quốc vương hết sức nuông chiều nên thả
sức lộng hành trong lộ, áp bức dân lành, ăn của đút, chiếm đoạt tài sản của những
người thân cô thế cô, dân sự ta oán mà không ai dám nói. Bởi vì Đô Trâu là công
cụ của Chiêu Quốc vương dùng để chế ngự hào kiệt trong vùng. Hễ ai không chịu
theo Chiêu Quốc vương là Đô Trâu được lệnh dùng độc thủ hạ sát ngay trong các sới
vật mở hai mùa xuân thu ở lộ Đà Giang hoặc bằng cách gây sự lúc thời bình. Các
huyện quan không dám hé răng, thậm chí trong những lá sớ dâng về triều đình cũng
không một dòng đả động đến những cuộc sát hại đê nhục ấy nữa. Hàng năm cứ đến
mùa hội vật là Đô Trâu lại giải chiếu cạp điều trước sới, y vào vuốt lên giải
nhất nói với các cụ bô lão: “Thưa, các cụ cho con xin cái giải nhất”. Thế rồi y
ngồi xếp chân chữ ngũ trên chiếc chiếu cạp điều chờ tan giải lĩnh cạn giải nhất.
Lần ấy, Hưng Đạo vương đi tuần thú theo lệnh của triều đình vùng thượng lộ sông
Đà. Chiêu Quốc vương mời ông cùng ngồi cầm trịch. Có một thiếu niên to lớn nằng
nặc đòi được đấu với Đô Trâu. Sự kiện quái dị ấy làm cho các bô lão kinh ngạc
phải xin ý kiến của hai đức ông. Hưng Đạo vương sau khi suy nghĩ thấy cậu bé
tuy tuổi chưa phải đã lớn nhưng cốt cách người đã chẳng kém chi Đô Trâu. Ông thấy
sự quả quyết của cậu bé thật đáng tin cậy nên đã bằng lòng cho cậu tranh giải
nhất với gã đô vật hung ác.
Trận đấu diễn ra rất quyết liệt. Cậu bé có lối vật rất riết
róng làm cho Đô Trâu mất cả tự tin và bình tĩnh. Sau mười một nhịp, Đô Trâu bị
cậu bé vật ngửa tênh hênh tấm lưng bằng một đòn cao, chính là đòn sở trường của
Đô Trâu. Thế mới cay cho hắn. Cậu bé nẫng cái giải nhất năm ấy chính là Yết
Kiêu. Sau trận thắng Đô Trâu, Yết Kiêu được đức ông Hưng Đạo vương thu nhận làm
gia tướng trong đội quân gia đồng hương Vạn Kiếp.
Bây giờ oan gia lại gặp nhau sau hơn mười năm cách biệt, Đô
Trâu gây sự với Yết Kiêu cũng chẳng có gì là lạ. Gia nô hai chi cũng ùa vào
khích bác nhau. Con người ta nhẫn nhục cũng có hạn. Đã thấy những cặp mắt vằn đỏ
lên và những hơi thở dài rất mạnh. May thay chính vào lúc đó, hình như đấng chí
tôn nhớ ra cái nết hết lòng vì chủ chính là cái hay và cũng là cái dở của quân
gia nô tôi tớ nên đã sai một tướng trấn điện dẫn thân binh quay trở lại để coi
sóc trật tự.
Đám rước lên đến đền Đồng Cổ không xảy ra chuyện gì đáng tiếc.
Ngôi đền này ở bờ tây bắc hồ Dâm Đàm có kiểu cách tuy nhỏ nhưng trang nghiêm. Đền
Đồng Cổ làm đã trên hai kỉ. Mỗi kỉ là sáu mươi năm. Xưa kia ông vua khai sáng
ra triều Lý đem quân đi tiễu phạt phương nam. Đến châu Ái, Lý Thái Tổ nghỉ quân
tại núi Khả Lại. Khả Lại là một chòm núi ba ngọn châu vào nhau như ba vì sao.
Dưới chân núi có một ngôi đền cổ xây dựng từ thời nào không rõ. Trên chính điện
thờ một cỗ trống đồng rất to. Lý Thái Tổ dâng hương xem trống. Cỗ trống nặng chừng
một trăm cân, rộng hai thước một tấc, cao một thước năm tấc. Chính giữa mặt trống
là một cái rốn tròn chung quanh có chín vòng hoa văn dường như văn tự khoa đẩu
cổ xưa. Đêm hôm ấy, Lý Thái Tổ ngủ lại trong đền. Không hiểu vì ban ngày quá
chăm chú về việc quân hay vì một lẽ huyền bí gì mà người ta chưa hiểu thấu, hoặc
giả vua biết bụng quân còn tin ở chuyện quỷ thần, mà sáng hôm sau nhà vua kể lại
một giấc mộng trải qua trong đêm. Mộng rằng nhà vua thấy một ông tướng nhà trời
giáp trụ uy nghi, râu tóc dài rậm. Viên tướng tự xưng là thần trống đã sinh thành
từ thuở vua Hùng vương dựng nước Văn Lang. Nay nghe nói nhà vua đi mở nước ở
phương nam, thần tướng xin theo để có một tay âm phù linh diệu. Khi tỉnh giấc,
Lý Thái Tổ lại dâng hương một lần nữa, khấn to cho các tướng đứng chung quanh
nghe thấy rằng lần này ra quân thắng lớn như lời thần giáng, thì khi ban sư, hồi
triều nhà vua sẽ cho lập đền thờ ở kinh thành và cho rước trống về đó.
Lần xuất quân ấy, Lý Thái Tổ lập nên công lớn. Nhà vua giữ lời,
sai lập ngôi đền ở Thăng Long, rước trống về thờ ở đó. Đến đời Lý Thái Tông, thần
lại báo mộng cho nhà vua biết có ba hoàng tử sắp làm loạn. Vì thế sau khi dẹp
xong loạn, Lý Thái Tông đặt lệ hàng năm tôn thất và các quan văn võ phải lên đền
Đồng Cổ uống máu ăn thề. Lời thề truyền mãi rằng: “Làm tôi phải trung, làm con
phải hiếu, ai bất trung bất hiếu quỷ thần tru diệt”.
Năm nào cũng thề bồi, triều nào cũng có kẻ phản loạn nhất là
nhằm những triều vua hoang dâm xa xỉ, rồi nhà Lý vẫn mất ngôi báu về tay họ Trần
nhưng chính triều Trần lại đưa lễ thề thành một thệ hội cực kì long trọng. Thần
linh chưa hề thấy hiển hiện cho ai trông thấy dung nhan nhưng có lẽ đã phân
thân ra thành muôn ngàn mảnh nhỏ chui rúc ẩn náu tận đáy lòng sâu thẳm của mỗi
con người làm cho những kẻ có mối khát vọng bất chính, dù chỉ một thoáng mơ hồ,
cũng cảm thấy rợn lòng tưởng như sắp bị một sức mạnh huyền bí nào đó ở thế giới
bên kia trừng trị.
Thệ hội năm nay do đức ông Hưng Đạo đứng chức quan Điển nghi
Kiểm chính. Hưng Đạo vương dẫn đầu các vương hầu đi sau kiệu hai vua. Ông
thoáng nghĩ đến cái buổi hương Vạn Kiếp tiếp chiếu chỉ nhà vua triệu ông về
kinh hồi đầu năm nay. Người tuyên chiếu là quan Học sĩ Đinh Củng Viên. Chiếu
không chỉ rõ lí do vua triệu nhưng quan học sĩ sau khi mọi nghi lễ tiếp chiếu
đã xong, trong lúc ngồi uống trà giải khát với ông đã chuyển giao cho ông một
thư tay của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Thư này thì rõ ràng minh bạch, Trần
Quang Khải nói rằng việc nước đang lúc bộn bề, thậm chí chiến chinh có thể tính
tới rồi. Họ Trần phải bồi đắp lập tức mối đại thống để đảm đương việc nước. Muốn
làm được việc này thì Hưng Đạo vương, người cầm đầu chi trưởng và Chiêu Minh
vương, người cầm đầu chi thứ phải gắn với nhau chặt chẽ. Chiêu Minh vương mời đức
ông về kinh ngay. Thư không nói gì về việc bảo đảm an toàn cho các đức ông chi
Vạn Kiếp khi họ về kinh, cũng không hề có một lời bảo đảm về cách đối xử của
triều đình với chi Vạn Kiếp nhưng lại có một câu viết thêm ở cuối thư: “Khi
vương huynh về kinh xin đến thẳng nhà đệ”. Trần Quốc Tuấn đã trầm lặng nghĩ. Về
kinh đến thẳng nhà Trần Quang Khải, an toàn của ông có thể là rất mỏng manh nếu
như lá thư che giấu một mưu độc, ngược lại sẽ rất vững vàng khi việc bảo vệ cho
ông sẽ rất chu đáo ngay từ đầu vì do đích thân Trần Quang Khải tự trông nom việc
đó. Trần Quốc Tuấn nghĩ về Trần Quang Khải. Đó là một con người cương nghị, quả
đoán, sát phạt, một tính cách anh hùng. Nếu là một người anh em thì thật ruột
thịt, nếu là một người bạn thì là một tri kỉ, nếu là một kẻ thù cũng vinh dự
cho người đối đầu. Trần Quốc Tuấn về Thăng Long, và đúng như lời dặn trong thư
Trần Quang Khải, ông đến ngay phủ đệ Chiêu Minh. Ở đây, ông được tiếp đãi rất
thân tình. Chiêu Minh vương và phó quan của ông là Học sĩ Lê Văn Hưu đã bàn bạc
với Hưng Đạo vương tại một gian nhà kín đáo tận hậu thất. Việc xuất hiện của đức
ông Hưng Đạo công khai trước nhân dân toàn kinh thành được ấn định vào ngày hội
thề. Hưng Đạo vương có hỏi đức ông Chiêu Minh: “Còn ý của Thượng hoàng thế
nào?” Chiêu Minh vương đã thẳng thắn trả lời: “Thượng hoàng đã cho em toàn quyền”.
Câu nói đó có nghĩa là Trần Quang Khải chủ động trong việc giao quyền hay không
cho Trần Quốc Tuấn và ông đã trao.
Hôm nay dẫn đầu trăm quan, Trần Quốc Tuấn lại nghĩ về Trần
Quang Khải và thấy kính phục con người ấy. Trần Quang Khải đã suy nghĩ thế nào
mà trao lại quyền cho ông. Đức ông Chiêu Minh so với ông không chút gì thua sút
về tài năng, nếu ông thâm trầm hơn trí lự hơn thì Chiêu Minh vương cứng rắn, quả
đoán và nhanh nhạy hơn. Nhưng nếu Chiêu Minh vương cầm quyền thì việc điều động
các đức ông chi Vạn Kiếp khó khăn hơn ông. Còn nếu ông cầm quyền thì cả họ Trần
dễ nghe theo ông tộc trưởng miễn là Chiêu Minh vương nêu gương trước. Trần
Quang Khải đã nói thẳng với ông rằng: “Cái khó là mấy em tôi. Nếu họ trung
chính biết theo hai anh em mình thì đó là đại phúc cho họ”. Trần Quốc Tuấn công
nhận điều đó và nói thêm: “Chúng ta đã có một sự gắn bó mới khác trước. Chúng
ta biết nhưng những người khác chưa biết. Họ sẽ hiểu thế nào khi thấy anh em ta
đi bên nhau trong các buổi triều hội và tế lễ? Phải cần bao lâu thì họ mới hiểu
đúng ý của chúng ta?” Trần Quang Khải trầm ngâm rồi đáp: “Điều đáng lưu tâm là
thái độ của các cháu ở Vạn Kiếp và các em tôi. Các người khác thì anh em ta cứ
dùng phép nước mà ràng buộc. Nếu sai đâu cứ việc nắn cho thẳng. Em hi vọng rằng
việc của chúng ta làm sẽ được tất cả những ai trung chính tuân theo.”
Trần Quang Khải mới bốn mươi tuổi. Người ta thường có câu:
“Con người ta ba mươi tuổi mới kể là đứng, bốn mươi tuổi mới hiểu mọi việc ở đời,
còn năm mươi tuổi sẽ biết được mọi diễn biến lắt léo của thế sự”. Trần Quang Khải
vẫn giữ được tính cương của một tướng trẻ nhưng ông đã có trí lự của bậc tướng
già. Bàn chuyện với Chiêu Minh vương, Trần Quốc Tuấn cảm thấy nếu cầm quân,
Chiêu Minh vương cũng không kém gì ông. Nhưng ông phục đức ông hoàng Ba ở đức
hi sinh hỉ xả vì việc công và khi đã có ý định rồi thì không có cái gì trong thế
gian này có thể làm con người ấy thay đổi ý định...
Hưng Đạo vương trang nghiêm dẫn các quan văn võ vào đền. Ngôi
đền tuy rộng rãi nhưng không chứa nổi bấy nhiêu con người. Chỉ các vương hầu áo
tía và các nữ quan được vào trong chính điện, còn tất cả nêm chặt ngoài sân
ngoài vườn. Lính tứ sương được lệnh Hưng Đạo vương đóng chặt cửa lớn. Bên ngoài
đền lính canh đang vất vả để dẹp đám dân kinh thành đang kéo đến mỗi lúc một
đông thêm.
Hưng Đạo vương đứng vào chiếu chủ tế trải trước án thờ. Ông
xướng to: “Ban bài”. Đó là hiệu lệnh cho tất cả mọi người đứng vào chỗ của mình
chờ làm lễ. Không khí nặng nề trang trọng đến tức thở. Chiêu Văn vương Trần Nhật
Duật liếc Chiêu Quốc vương và thấy bộ mặt thường ngày xanh lạnh của anh mình
bây giờ hồng au lên. Quả nhiên Chiêu Quốc vương đang xúc động mạnh. Khi viên
Thông tán Đông xướng Trần Quốc Nghiễn hô to: “Quỵ”. Thì Trần Ích Tắc như sụm xuống.
Trước ban thờ thần trống đã bày một cái thống da lươn rất lớn.
Những người hầu việc lễ bưng mấy vò rượu đổ đầy cái thống. Các quan chấp sự sai
lính dắt vào ba con sinh: một con nghé tơ, một con ngựa trắng còn non. Lính chọc
tiết ba con sinh cho huyết chảy vào thống rượu.
Dâng hương. Mùi trầm huyền bí ngào ngạt trong đền. Người ta
nghe tiếng quan Điển Nghi dõng dạc đọc to lời thệ thư. Tiếng hô “xin thề” bay cả
ra ngoài đền. Dân kinh thành đứng ở ngoài cũng đồng thanh thề góp. Hưng Đạo
vương uống chén rượu thề trước hết mọi người. Chiêu Minh vương uống chén rượu
thứ hai. Sau đó các vương hầu và các quan đại thần văn võ lần lượt nhận chén rượu
từ tay viên quan chấp sự. Họ uống chậm, người thì mặt nhợt ra, người thì đỏ mặt
lên.
Thông tán Tây xướng Trần Đức Việp hô to: “Cúc cung bái”. Tất
cả cùng lạy xuống, thành kính và lòng tràn trề niềm tin.
Thế là thệ hội đã xong. Trần Quốc Tuấn sai viên Đại An phủ sứ
kinh thành kiểm tên các vương hầu và các quan xem có ai thiếu mặt không. Đến
lúc này Chiêu Văn vương mới thấy nhẹ người đi. Trần Nhật Duật tò mò nhìn mọi
người. Hoài Thượng hầu Trần Văn Lộng đang dán mắt vào mấy con sinh nằm ngổn
ngang trên mặt đất. Hoàng Mãnh làm nhiệm vụ kiểm tên mọi người một cách gay gắt
đứng như một viên tướng mới tiến tước. Ông thấy Chiêu Minh vương Trần Quang Khải
đứng sừng sững như chưa quen vị thế thụ động chờ lệnh. Đại Tông Chính Nhân Túc
vương Trần Toàn vẫn áy náy cao độ, cái mũi càng sần đỏ lên, đôi mắt hết nhìn đức
ông Chiêu Minh lại chuyển sang đức ông Hưng Đạo.
Trần Nhật Duật nuốt nước bọt một cách khó khăn. Thế là thệ hội
đã xong, hai chi Tức Mạc và Vạn Kiếp đã gần thêm lại. Đến lúc này, Chiêu Văn
vương mới hiểu, trong tiềm thức của ông, sự phân biệt giữa hai chi không phải
là không có dù nó chỉ là một cỏn con mang sẵn trong huyết quản.
Điện tiền Tướng quân Hoàng Mãnh là một trong mười viên quan
được chọn để chăm nom cho việc rượu tối mùng bốn tháng tư diễn ra đúng thông lệ.
Tiệc rượu này đặt ra từ thời Trung Vũ vương Trần Thủ Độ còn sống,
Hiển hoàng Trần Liễu còn sống, Tiên hoàng đế Trần Cảnh còn sống, Thiên Cực công
chúa Trần Thị Dung còn sống, Thiên Cực công chúa chính là vợ của ông vua cuối
cùng của nhà Lý - Lý Huệ Tông, và bà đã lấy người chồng sau là Trần Thủ Độ. Tên
cá của bà là Ngừ, cái thứ cá lẳn mình, xanh biếc. Có nghĩa là lúc đó còn sống
những người có hai nửa cuộc đời, ở một nửa trước họ hãy còn hàn vi, sống bằng
nghề chài cá và buôn bán hải sản bằng thuyền biển, họ chưa bị lễ giáo của vị thế
chức tước nhà sang ràng buộc; sang nửa đời sau, họ trở thành những người đứng đầu
triều đình, nhất cử nhất động đều bị trăm quan, trăm họ nhìn vào, một lời họ
nói ra cũng làm hàng trăm người có vị thế cao trong xã hội tìm hiểu suy nghĩ đắn
đo xem có những ẩn ý gì. Phú quý cực phẩm nhưng thế là nửa đời sau của họ bị
hàng trăm mối ràng buộc. Lúc đó ngôi báu nhà Trần đã vững vàng, trăm họ no đủ,
việc nước ung dung cho nên người ta nảy ra ý muốn bày đặt thú chơi. Đã có những
người không biết nén dục vọng đâm ra phạm lỗi. Năm Bính Thân, nước lên to ngoài
sông Cơ Xá. Nước lũ tràn vào hồ Dâm Đàm, nước tràn cả vào nội cung. Hiển hoàng
Trần Liễu lúc đó coi quản công việc cung Thánh Từ, một buổi đi thuyền vào cung
chầu vua cha. Thuyền bơi qua cung Lệ Thiên. Cung này dùng để giam giữ các phi tần
cũ của triều Lý. Trần Liễu nhìn thấy một bà cung phi còn xinh đẹp liền tạt ngay
thuyền vào. Thế là việc lăng nhăng chẳng ra làm sao xảy ra làm cho hoàng tộc
cũng đâm ngượng với trăm quan trăm họ. Hiển hoàng là anh ruột vua Trần Thái Tông,
người tôn quý đến tội gì cũng còn tha huống nữa một tật trai gái cỏn con. Vì thế
Trần Liễu chỉ bị sửa một chữ trong tước vị từ Hiển hoàng xuống còn Hiển vương.
Cung Lệ Thiên thì bị đổi tên thành cung Thưởng Xuân để ghi nhớ một việc thông
thường của đạo trời đất về mùa sinh nở của muôn loài.
Như cái bong bóng rượu cứ bị ép mãi thế tất phải phì ra. Thái
sư Trần Thủ Độ phải tìm kiếm nhiều phương thuốc cứu chữa. Một trong các phương
thuốc ấy là bày tiệc rượu đeo mặt nạ mo nang. Về tiệc rượu này, triều đình cho
phép các vương hầu đều được dự không phân biệt thế thứ chi ngành, không phân biệt
văn võ chức tước. Quần áo ai muốn dùng màu gì thì dùng trừ màu vàng tôn quý
dành riêng xưa nay cho vua. Để không còn ai nhận ra ai, tất cả mọi người đều phải
đeo một cái mặt nạ vẽ trên một cái mo nang. Các công chúa, quận chúa, tiểu thư,
công nương có chồng rồi hoặc đã có đính hôn cũng được phép dự tiệc. Tiệc có một
ông cầm trịch. Thường thường người ta chọn người hiền nhất, hiền đến mức ngu
vào chức đó. Cho đến bây giờ, các vương hầu còn cười cợt nhắc đến ông cầm trịch
đêm tiệc đầu tiên mở năm Tân Hợi (1251). Đó là quan Trạng nguyên Ngự sử Trần
Chu Phổ. Bậc túc nho này đang muốn đem lề thói lễ nghĩa đạo Nho vào trong sinh
hoạt của triều đình, ông ta vốn là người chăm chắm bắt chước các bậc tiên sư,
tiên thánh của đạo Nho cho nên ông ta đi không dám đi nhanh, ăn không dám ăn
nhiều, miếng thịt thái có vuông mới dám đụng đũa, thấy vàng thấy con gái đẹp
thì ông ta nhắm mắt lại... thành thử triều đình vừa bực mình vừa nghịch ngợm chọn
luôn ông ta làm việc cầm trịch. Người ta giao cho Trần Chu Phổ một cái dùi đục
để gõ ra lệnh trong tiệc rượu. Người ta biến luôn chức cầm trịch thành một chú
Tễu giống như một chú Tễu ngô nghê ỡm ờ trong trò múa rối nước thường diễn ngày
xuân ở phủ Long Hưng.
Tiệc rượu mặt nạ mo nang thường diễn ra thâu đêm. Người ta chỉ
ăn uống đến đầu giờ Tuất còn từ giờ Hợi trở đi thì hết chỗ nói: hát hổng, cợt
ghẹo, châm chọc, lả lơi, ngả ngốn. Nhưng tiệc rượu mặt nạ mo nang cũng không chỉ
để nô đùa phỉ chí, người ta còn hát những điệu dân ca tình tứ nhất, duyên dáng
nhất, đưa người ta từ cung đình về với làng quê đẹp hiền hoà bình dị, người ta
còn ngâm những bài thơ tài tử nhất có những thần cú làm vào những lúc nửa tỉnh
nửa say, người ta còn múa những điệu vũ đẹp nhất của dân tộc Việt và các dân tộc
láng giềng. Cũng chính nhờ những lời ca, vần thơ, điệu vũ mà người dự tiệc đoán
ra sau cái mặt nạ quỷ sứ kia là người nào: Một vị múa điệu Hời, múa giỏi lắm, vậy
thì chỉ có Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang mới có thân thủ điêu luyện như
thế được. Một bà giọng tuy già dặn nhưng hát một làn điệu dân ca vùng biển lời
rất đanh đá chua ngoa và lẳng lơ mà lại như tiếc như thương gió muối trăng sông
bềnh bồng sóng nước, thế là cả tiệc nhận ngay ra bà chúa Ngừ tức công chúa
Thiên Cực Trần Thị Dung. Một ông ngồi lọt thỏm giữa một đám các bà bị họ đẩy ra
ngâm thơ, ông ta ngâm một bài thơ thiên nhiên bằng một giọng ề à như sư ông đọc
kệ. Cả tiệc bụm miệng lại không ai dám cười vì nhà thơ ề à như sư này chính là
Trần Thái Tông, đạo hiệu Phổ Minh thiền sư. Một ông khác lúc bị đẩy ra thì nổi
cáu không chịu ra mà lại cáu kiểu hách dịch, thôi đúng là Thái sư Trần Thủ Độ,
người đặt lệ cho tiệc rượu mo nang rồi lại quên lệ ngay tại tiệc.
Trong bữa tiệc đầu tiên, khi không khí đã ra chiều lơi lả người
ta hát nhiều khúc huê tình và người ta đẩy bậc túc nho - chú Tễu - Trần Chu Phổ
ra bắt phải hát một bài. Trần Chu Phổ phải cầm dùi đục ra giữa tiệc. Vốn là người
chăm chắm luân lí lễ nghĩa, một câu hát cũng không hề có ý định học, Trần Chu
Phổ đành giang tay ra, ê a: “Ngự sử hát thế thôi! Ngự sử hát thế thôi!”
Ông sử gia Lê Văn Hưu chộp ngay chi tiết ấy chép luôn vào
chính sử. Thái sư Trần Thủ Độ nghĩ đến thể chế vội cấm Lê Văn Hưu chép thêm những
tình tiết khác. Thế nhưng nhờ có những biện pháp triều đình chọn bấy giờ như tiệc
rượu mo nang, cái chất ngang tàng của những người phóng khoáng ngang dọc sông hồ
mới tràn trề trong hoàng cung vàng lụa và người ta mới còn giữ được cái thèm
thuồng biển cả non cao, thèm thuồng cái thú một gươm một ngựa ra đi chỉ một nụ
cười tạ từ những người ở lại.
Buổi chiều Hoàng Mãnh được lệnh đem cái dùi đục để trong cái
hộp gỗ sơn son thếp vàng đến cho Nhân Túc vương Trần Toàn là ông cầm trịch năm
nay. Hoàng Mãnh yên trí rằng Trần Toàn sẽ đờ người ra khi nhìn thấy cái dùi đục.
Ông ta giữ một chức vụ xưa nay lấy sự long trọng làm lẽ tồn tại. Thế mà bây giờ
lại bắt ông ta cầm cái dùi đục thì còn ra thể thống nào nữa! Thế nhưng, thật
không ngờ, Trần Toàn lại hết sức khoái chí khi biết mình sẽ là người cầm trịch
giương ra cái dùi đục hiệu lệnh đêm nay. Ông ta mừng muốn rú lên:
- Thế mới là vận đỏ như son! Thế mới là ơn vua tri ngộ! Thế mới
thật là trên dưới hiểu lòng nhau. Thế cơ chứ lại!
Trần Toàn sướng quá. Trưa hôm nay, trên đường rước hai vua từ
đền Đồng Cổ về nội cung, Trần Quang Khải đã đến gần ông và kính cẩn nói với
ông:
- Thưa chú, thệ hội được thế này thật là nhờ tay chú.
Trần Toàn lúc ấy sướng không nói được ra tiếng, cái mũi đỏ
bóng lên. Ông ta cảm thấy rõ ràng quyền uy của mình to lên, giá trị con người của
Đại Tông Chính nâng lên. Lời khen của Thái sư Thượng tướng Chiêu Minh vương chắc
chắn sẽ dẫn đến cho ông tước lộc mới. Bây giờ thì sự ấy diễn ra nhỡn tiền ở cái
dùi đục kia! Mối đại thống họ Đông A đã đem ra thề bồi trước thánh thần sáng
hôm nay, đêm nay họ Đông A lại hội họp vui chơi một bữa thoả thuê, bãi hết mọi
ranh giới, rũ hết mọi hận thù giận hờn trong một bữa tiệc mà cái tiệc rượu dạ
đài ấy lại cũng chính tay ông giương ra cái dùi đục của đức ông cầm trịch.
Hà, thế thì quyền uy của chi trưởng, quyền uy của chi thứ từ
đây cũng phải cậy đến tay ta, ta, Đại Tông Chính họ Đông A.
Té ra Nhân Túc vương Trần Toàn không chỉ là người xuề xoà ham
ăn thích uống. Ông ta cũng là bậc trí lự biết giấu tâm tư sau một bộ mặt chè rượu,
tự mãn, tầm thường.
- Này đây, vừa là thưởng vừa là để mừng tướng quân tiến tước.
Trần Toàn cầm luôn một gói trên án đưa cho Hoàng Mãnh. Đó là
một cái mật gấu người ta vừa biếu Trần Toàn hôm qua. Đối với Nhân Túc vương,
cái mật gấu chẳng hữu ích bao lăm nhưng với Hoàng Mãnh, dũng thủ vô địch kinh
thành thì nó lại vô giá. Anh ta chẳng có tháng nào là không trẹo khớp, bong
gân, sưng tay, toác chân.
- Xin đa tạ đức ông.
Trần Toàn cười hề hề. Ông giơ lên trước mặt Hoàng Mãnh một
cái mặt nạ mo nang.
- Tướng quân ngắm xem. Có phải là Bụt cũng không nín cười được
phải không?
Trên cái mặt nạ mo nang vẽ một cái mặt Phỗng chột bằng những
nét vôi trắng rất tài hoa, rất nghịch ngợm. Hoàng Mãnh phì cười. Anh hỏi Trần
Toàn:
- Bẩm đức ông sao mặt nạ lại chỉ được vẽ trên mo nang?
- Lệ mà! Đó là lệ mà! Lệnh bà Thiên Cực công chúa đã đặt ra
cái lệ này từ ngày xưa. Đã là lệ thì nó phải thế chứ sao.
Hoàng Mãnh cáo từ xin lui.
- Bẩm đức ông, đây là tín bài để vào dự tiệc của đức ông. Xin
đức ông nhận cho để tiểu tướng còn đi làm nốt việc vua.
Hoàng Mãnh đưa cho Trần Toàn một cái tín bài bằng gỗ son méo
như một cái vỏ trai.
Rời phủ Tông Chính, Hoàng Mãnh lên ngựa đến phủ Chiêu Quốc.
Anh gặp ở đấy một cuộc tụ hội của những vì sao: Chiêu Quốc vương, tác giả của tập
thơ Củng cực lạc ngâm mà lời lời đẹp như gấm thêu, ca ngợi lòng sùng kính ngưỡng
mộ của bề dưới hướng đầu lên đấng cửu trùng; đức ông Văn Nghĩa thượng vị hầu Trần
Tú Hoãn, đức ông Văn Nghĩa là con của vua Thái Tông (?) nhưng vì mẹ chỉ là một
cung nữ tầm thường nên con không được phong vương. Văn Nghĩa hầu chỉ là hàng
cháu của Chiêu Quốc vương nhưng hai người thân thiết gắn bó với nhau một cách
quái lạ lắm, nhất là về mặt văn thơ. Nếu thơ Chiêu Quốc là âm thanh dịu ngọt
thì thơ Văn Nghĩa là tiếng vang của âm thanh ấy. Rồi Chương Hiến hầu áo tía Trần
Kiện nổi tiếng cả nước về học thức uyên bác, văn chương đanh thép, đọc lên âm
hưởng như cồng. Rồi mạc khách của Trần Kiện là Lê Trắc tên tự là Cảnh Cao. Ông
này hồi nhỏ nổi tiếng là một thần đồng đã từng được vua Trần Thái Tông đem vào
nuôi ở trong cung cho ăn học theo những bậc túc nho kén chọn từ Quốc Học viện.
Người Thăng Long truyền tụng đến là lắm giai thoại về Lê Trắc nhưng giai thoại
nào cũng không bì được chuyện dòng dõi nhà ông ta do chính miệng ông ta hễ có dịp
là kể ra: “Lê Trắc này tên chữ là Cảnh Cao, người ngoại quốc thường gọi là An
Nam Lê Trắc. Tài Trắc thì tuy mọn nhưng mắt đã liếc qua bách gia chư tử ấy là
vì Trắc vốn dòng dõi Nguyễn Phu tiên sinh, quan Thứ sử Giao Châu thời cái nước
An Nam này còn “được” thuộc về nhà Đông Tấn bên Tàu. Trắc thường nghĩ lập thân
tối hạ thị văn chương cho nên chỉ làm thơ chơi vài bài vào cái lúc cơm no rượu
ngà ngà. Còn thì Trắc chỉ mong được đi đây đi đó, nay làm một vần tức cảnh xứ
trúc, mai lại thay một vần khác về đất thông. Thơ văn hào mại phải dành cho
phong hoa tuyết nguyệt nói làm chi đến chuyện đời. Cái nhà ông Đỗ Phủ thì thật
gàn, thơ châu ngọc đâu có nên dành cho quân nghèo đói lính tráng, có phải không
chư hiền hữu?”
Đó là lời của một kẻ tự nhận là cao đạo!
Ngay cách Lê Trắc chọn chủ cũng cao đạo! Chủ của Lê Trắc
chính là Chương Hiến hầu Trần Kiện, nhân vật mà cả nước có nói đến dòng dõi ông
ta cũng chỉ dám rỉ tai nhau. Trần Kiện là con Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc
Khang. Ông này như ta đã biết, bề ngoài là con Trần Thái Tông nhưng thực ra là
con của An Sinh vương Trần Liễu. Thế là, về dòng giống, Trần Kiện hệt như con
nòng nọc đối với con cóc và con cá trê vậy. Ấy thế mà đức ông Trần Kiện còn là
chồng của công chúa Quỳnh Huy, cô gái yêu của Thái sư Chiêu Minh vương nữa. Làm
mạc khách của Trần Kiện có nghĩa là người của cả chi trưởng lẫn chi thứ họ Trần,
kể cả máu chính hiệu lẫn máu pha.
Rồi đến Tô Nghĩa Đông, con người lục thao tam lược đã từng
tung hoành ngang dọc trong chiếu rượu bàn trà, tinh thông nho, y, lí, số, tướng
pháp, phong thuỷ để mồ để mả, thơ mã thượng cũng hay, thơ thiên nhiên thì được
phái thơ sơn thuỷ nhà Tống bên Tàu coi là khuôn vàng thước ngọc.
Lúc Hoàng Mãnh được đưa vào chính đường phủ Chiêu Quốc, Tô
Nghĩa Đông đang xem số tử vi cho Trần Ích Tắc. Ông ta tán:
- Bẩm đức ông, lá số này kì cách. Xuất nhập Tướng mà các hung
tinh đắc địa cả, chúng hội với Lưỡng Tướng càng phù trợ đắc lực thêm. Bẩm hung
tinh đắc địa số phát như lôi, có nghĩa là như sấm nổi ạ. Bẩm đức ông, như thế
là anh hùng cái thế danh trấn biên cương ạ. Ngay lá số của Tống triều Thái Tổ
cũng chỉ đến vậy mà thôi.
Trần Ích Tắc là người cũng ham cũng tin tử vi, nhâm độn và
cũng học các môn này nhiều năm. Ông không lạ gì điều Tô Nghĩa Đông vừa nói
nhưng nghe lời khen thì bao giờ chẳng thích, nhất là người khen thuộc loại tiếng
tăm cả hai nước ta, Tàu như Tô Nghĩa Đông mà câu khen lại thốt lên trong quầng
sáng lấp lánh của một vì sao nhan sắc nghiêng nước đổ thành, tài hoa diệu ảo:
công chúa An Tư.
An Tư là em ruột Văn Nghĩa hầu Trần Tú Hoãn. Đó là một cô gái
vừa mười sáu tuổi, vẫn còn cái ngây thơ của con trẻ nhưng đôi mắt đã lúng liếng
dõi tìm vui thú và hạnh phúc. Thượng hoàng Thánh Tông yêu thương Vũ Đạo hầu nên
đã nhận An Tư làm con nuôi từ năm quận thượng chúa mới lên năm tuổi. Công chúa
An Tư trở thành cô gái được cưng chiều nhất hoàng cung. Kinh kì nức tiếng ngón
đàn bầu của nàng công chúa út. Người ta kể là ngón đàn ấy đã từng làm cho mặt sắt
của sứ Tàu Sài Thung phải ngây ra chỉ bằng một bản dạ khúc Canh Lậu Trường.
Kinh kì còn nức tiếng nước pháo song tiên của kì thủ An Tư, nước pháo đã từng
buộc kì hầu hai nước là Tăng Uyên Tử phải chật vật mới giữ được hoà...
Trần Ích Tắc nghi ngờ bảo Tô Nghĩa Đông:
- Tiên sinh nói chơi đấy chứ? Xưa nay nhân định thắng thiên
là lẽ thường. Phải trau dồi phúc cho đầy nhờ ở đức. Có phải tiên sinh muốn
khuyên ta thế không?
Trần Ích Tắc nhìn sang Hoàng Mãnh:
- Chào quan Điện tiền! Chà, thế là từ nay tướng quân lại là
người xét biển Nhập nội của ta mỗi bận ta tiến cung đấy nhé.
- Bẩm đức ông, tiểu tướng phải tuân theo phép nước luật vua
đó thôi.
Trần Ích Tắc hỏi Hoàng Mãnh:
- Lại thẻ tín bài hả?
Chiêu Quốc vương cười nhận thẻ tín bài. Hoàng Mãnh tiện thể
cũng đưa thẻ cho Trần Kiện và Trần Tú Hoãn. Hoàng Mãnh cũng đưa cả thẻ của
vương phi Chiêu Quốc và các bà phu nhân của hai hầu tước Chương Hiến, Văn
Nghĩa. Tô Nghĩa Đông và Lê Trắc tò mò nhìn Hoàng Mãnh. Cặp mắt của họ soi mói,
khinh thị và chen cả ánh lửa thoáng loé lên của khát vọng. Tô Nghĩa Đông hỏi:
- Có phải tướng quân sắp đi ở rể nhà Mai Sơn hầu?
- Đúng đó! Nhưng thưa quan nhân chưa đúng tất cả. Chúng tôi
đã làm lễ vấn danh. Đến mùng chín, sau lễ Vu Lan Bồn tắm Phật một ngày thì tôi
ngược châu Mai nhưng không phải là đi ở rể.
Lê Trắc mỉm cười:
- Vậy là tướng quân lên núi tìm các bậc cao sĩ ở ẩn?
Biết Lê Trắc nói xỏ trên núi chỉ có khỉ ở chứ làm gì có cao
sĩ, Hoàng Mãnh cũng mỉm cười, mắt quỷ lại sáng lên:
- Thưa không ạ! Bậc đại ẩn thường ở thành thị. Quan gia sai
tôi lên châu Mai để giúp họ luyện một đội quân sơn cước. Vả chăng - Hoàng Mãnh
liếc xéo Lê Trắc - cao sĩ xưa nay còn hiếm hơn lá mùa thu. Ta có tìm thì cũng
chỉ thấy nhan nhản bọn đạo nho và lũ thư si la liếm tìm chủ mà thôi.
Thư si là những kẻ mê mẩn sách chỉ tầm chương trích cú, tách
biệt với cuộc đời, còn đạo nho là lũ nhà nho ăn cắp văn! Hoàng Mãnh vốn là người
xông xáo quen đốp chát và còn trẻ nên rất hiếu thắng. Câu ví kín đáo của anh về
Lê Trắc và Tô Nghĩa Đông với bọn đạo nho và thư si làm cho hai gã căm ra mặt.
Nhưng căm thì căm chứ với dũng thủ vô địch kinh thành thì cũng chẳng dám nổi
hung, hai gã đang tím ruột tìm câu đối đáp thì công chúa An Tư xen vào:
- Này ông Điện tiền, còn thẻ của tôi đâu?
Hoàng Mãnh lại mỉm cười kính cẩn:
- Bẩm lệnh bà, phủ Tông Chính lập danh sách không có tên lệnh
bà. Tiểu tướng chỉ theo lệnh trên đưa thẻ đến tận tay những người có tên.
An Tư mắt cháy lên nhưng không có cớ để vặc Hoàng Mãnh. Cô
gái đang tuổi bước vào đời, thèm khát những nơi đông đúc hội hè chen vai thích
cánh, nhất là tiệc rượu này đã được người ta nhắc nhở đến hàng mấy tháng nay.
An Tư còn được nghe kể lại bà chúa Ngừ đã chẳng thèm đếm xỉa đến miệng tiếng thế
gian, cứ mỗi mùa hội xuân, lệnh bà thường nại cớ lễ Phật dâng hương để đi lộ Bắc
Giang xem các hội làng: hội vật, hội thả chim, hội bơi chải, hội hát xướng...
Còn lần bà mặc giả gái quê cùng mấy người tuỳ tùng dự hội làng Xuân Dương rước
nõ nường vẫn là giai thoại đầu trò về người đàn bà đã từng làm hoàng hậu của
vua Lý Huệ Tông rồi sau làm vợ của Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ. Hàng năm cứ
mùa xuân đến, Xuân Dương mở hội. Các cụ trong dân làm một cái nõ bằng lõi dứa dại
để nguyên cả xơ úa xồm xoàm và một cái nường bằng mo nang cài cỏ rối lờm xờm.
Người ta để nõ, nường lên kiệu chõng tám rồi cả làng rước linh đình qua xóm
này, thôn khác. Trong khi đó gái làng kéo từng đám đi xô bè đám trai tứ chiếng
về xem hội kì cho những người đó ngã xuống ao. Sau đó thì những cô gái Xuân
Dương lại vớt trai tứ chiếng lên đưa về nhà ném một mớ quần áo khô cho thay,
đãi cơm rượu tử tế, trải chiếu buông mùng cho ngủ tốt. Thiên Cực công chúa đã dự
cả những hội dân dã như thế đó. Và cũng vì thế bà đặt lệ mặt nạ nhất thiết phải
vẽ lên mo nang.
An Tư thích thú nghĩ đến một câu nói của người đàn bà tài đảm,
nghịch ngợm và đanh đá ấy. Câu ấy thế này:
- Xét cho cùng, thế gian này còn mãi muôn đời cũng là nhờ có
mấy cái đó, mà hễ có là phải có đủ đôi.
Nghe đâu ngay chính Trung Vũ đại vương cũng phải chẹp miệng rồi
im. An Tư thường nghĩ Trung Vũ đại vương sợ vợ nhưng thật ra không phải thế.
Khi Trần Thị Dung còn là con gái mà nhà họ Trần chỉ là hào trưởng một phương
thì kinh thành có loạn, thái tử Sảm nhà Lý tránh loạn về vùng biển, nương náu ở
nhà họ Trần. Họ Trần lập mưu buôn vua, đem cô gái xinh đẹp nhất họ gả cho thái
tử Sảm. Trần Thị Dung và Trần Thủ Độ lúc đó đã thầm yêu trộm thương nhau rồi
cho nên việc Trần Thị Dung bị các cụ cha chú tộc họ ép gả cho Thái tử Sảm là một
sự kiện to lớn gây trong lòng người đàn bà xinh đẹp tài năng ấy một vết thương
mãi mãi không lành. Thái tử Sảm lên ngôi vua thành Lý Huệ Tông, ông vua cuối
cùng triều Lý. Đất nước lúc bấy giờ tao loạn, giặc giã nổi lên tứ tung mà tôn
thất nhà Lý chỉ mải ăn chơi dâm dật xa xỉ. Trần Thị Dung trở thành bà hoàng hậu,
quốc mẫu của cả nước. Chính bà là một tay quan trọng trong việc chuyển ngôi vua
từ họ Lý sang tay họ Trần. Đến khi họ Trần lấy xong ngai vàng rồi, Lý Huệ Tông
bị an trí rồi tự tử ở chùa Chân Phúc thì Trần Thị Dung bị giáng xuống làm Thiên
Cực công chúa và về làm vợ Trần Thủ Độ. Việc giáng chức này thực sự là một giải
thoát cho người đàn bà ấy. Hiểu hết mọi ngóc ngách sâu kín nhất của kỉ cương, lễ
giáo, người đàn bà ấy cười cợt tất cả mọi thứ kể từ danh vọng, tài năng, cương
thường, đạo lí thậm chí đến cả tình nghĩa nữa và bà chỉ coi trọng có một nết,
đó là sự thành thật với chính mình...
Bà chúa Ngừ mà còn dự cả hội nõ nường thì ta, công chúa An Tư
sẽ bằng mọi cách lọt được vào cái tiệc rượu mặt nạ kì quái này. Mắt An Tư tối sầm
lại và nàng công chúa trẻ trung mới chỉ hiểu cuộc đời là một trò chơi, là vui
thú đã nhìn Hoàng Mãnh chằm chằm mà hỏi:
- Không có tín bài thì ta cũng dự, nhà anh có tin lời ta
không?
Hoàng Mãnh chỉ mỉm cười, một nụ cười làm cho đối phương ngang
ngửa và tức bực:
- Bẩm lệnh bà, tiểu tướng sẽ là người chỉ huy việc xét tín
bài ở cửa cung.
Hoàng Mãnh kính cẩn vái chào mọi người và xin lui.
Chiêu Văn vương lên ngựa. Đoàn lính tuỳ thân do Triệu Trung
chỉ huy cũng lên ngựa. Đoàn người ngựa đi nước kiệu nhỏ giữa các phố phường đã
lên đèn sau một ngày hội náo động. Đoàn người ngựa nhằm hướng vương phủ Hưng Đạo
mà đi. Trần Nhật Duật đến rủ Trần Quốc Tuấn cùng đi dự tiệc.
Hưng Đạo vương đón Trần Nhật Duật ở chính đường vương phủ
nhưng ông nói:
- Bây giờ mới đầu canh một, còn sớm quá, anh em ta vào trong
này uống chút trà thơm đã.
Trần Quốc Tuấn đưa em qua hậu đường đến một khu vườn rậm rạp
um tùm. Trong vườn này, Hưng Đạo vương đã cho xây cất gác Ngoạn Hoa. Tên này do
con trai thứ ba của ông là Trần Quốc Tảng đặt mà thực ra ông không thích một
cái tên cầu kì lịch sự đến thế. Ông chỉ muốn một chỗ ngồi tĩnh mịch, cô đơn một
chút, có vài cây hoa thơm của đồng quê đất Việt như lan tiêu, móng rồng, ngâu,
sói... Gác này xinh nhỏ, trang trí bằng vài bức tranh cổ vẽ lối thuỷ mặc và một
bức trướng lụa mỡ gà. Trên một cái kỉ gỗ trắc có bày một chậu tùng cỗi, thế
cành rất xương kính. Trần Nhật Duật ngắm bức trướng và nhẩm đọc. Té ra là bài
Trà ca của Lư Đồng chép theo kiểu chữ thảo. Trần Quốc Tuấn tủm tỉm cười:
- Chữ của ông Thám hoa Đặng Ma La đấy. Ta thích chữ của ông
ta. Cách viết không bay bướm cầu kì, kiểu cách, nó đường bệ mà vẫn bình dị. Em
xem, bài thơ có nhiều chữ trà mà không chữ nào ông ta viết giống chữ nào. Nghe
nói Đặng Ma La chép bài thơ này vào một lúc rượu ngà ngà say. Về sau ông ta đã
thử chép lại vài lần khác nhưng không lần nào đạt được vẻ đẹp của bức trướng
này.
Trần Nhật Duật cũng thích bức trướng này lắm nhưng ông đang ở
tuổi sôi động của con người, ông chưa hợp với những gì trầm lắng và sâu đọng.
Ông thích những cuộc phi ngựa cuồng loạn, thích leo lên những đỉnh núi chon
von, thích đi thuyền trên biển buổi gió cả để ngắm trăng, thích gió ngàn thổi
như bão, thích những trận đánh phết dậy lên tiếng hò tiếng hét dữ dội.... Không
hợp với ông nhưng những gì trầm lắng và sâu đọng thường buộc ông phải chiêm ngưỡng.
Tỉ như lần ông đi chơi Yên Tử rẽ vào thăm Hưng Đạo vương ở Vạn Kiếp. Hưng Đạo
vương đã dẫn ông đi xem những cái cọn nước để lấy nước tưới ruộng mà Trần Quốc
Tuấn đã cho làm và dạy dân cùng làm ở hết cả vùng ruộng trong thái ấp và trong
hương. Đó cũng chính là mối quan hệ giữa Hưng Đạo vương và Trần Nhật Duật. Hai
người cách xa nhau cả thế hệ, khác nhau về những biến cố trong cuộc đời. Chiêu
Văn vương thường nghĩ đến Trần Quốc Tuấn với một thái độ kính trọng và một chút
xa xôi. Về những chiếc cọn nước, ông rất thích, rất muốn làm nhưng ông không kiếm
ra thời giờ để thực hiện chúng trong thái ấp của ông. Thực ra thì giờ thì ông
không thiếu nhưng những thú vui và những công việc thích hợp với ông đã choán hết
mất rồi. Chiêu Văn vương rất kính trọng Trần Quốc Tuấn, ông cho rằng đó là một
con người mà cảnh gia biến đã hun đúc nên một bản lĩnh tuyệt vời. Trần Nhật Duật
đã được nghe kể lại năm Hiển hoàng Trần Liễu nổi quân chống lại Trần Thủ Độ khi
bị ép nhường vợ cho em là Trần Cảnh thì Trần Quốc Tuấn còn để chỏm. Một người
nhũ mẫu đã bế Trần Quốc Tuấn về trốn ở quê mình. Mối đe doạ bị bắt, bị hành hạ
đã tạo cho Trần Quốc Tuấn một đức tính cứng cỏi, bướng bỉnh, ít nói. Về sau hai
anh em hoà nhau nhưng Trần Liễu không nguôi căm hận. Trần Liễu đã dụng công kén
thầy văn thầy võ thật giỏi để dạy con trai, những mong mượn tay con trả mối nhục
cho mình. Trần Quốc Tuấn dần dần lớn lên, nổi tiếng là một bậc nam tử văn võ
toàn tài. Được nuôi dạy trong không khí thù hận nhưng mỗi bước trưởng thành lại
nảy nở ở Trần Quốc Tuấn những đòi hỏi mới ở thế hệ trẻ. Ông thuộc thế hệ họ Trần
đã thôi mang tên một loài cá, thế hệ đầu của họ Trần nắm đại quyền. Ông mơ ước
được xông ra đời, góp sức với đời chứ không thích ru rú ở ẩn trong một xó trang
trại với nỗi dày vò của một mối thù từ đời trước. Ông mơ ước đem tài năng mình
ra làm việc nước, muốn đảm đương những chức vụ khó, muốn đem hoài bão của mình
thi thố cho sự yên vui của trăm họ. Tuy thế mối hận xưa vẫn tác động trong lòng
người trai trẻ ấy. Lúc còn trẻ, Trần Quốc Tuấn đã mấy lần va vấp với người của
chi thứ. Sự biến to lớn nhất chính là cuộc hôn nhân của ông.
Vào một ngày đi dâng hương, vãn cảnh chùa Phật Tích năm xưa,
Trần Quốc Tuấn có dịp gần gụi công chúa Thiên Thành. Như một lằn sét, cuộc hạnh
ngộ đó dẫn đến mối tình thầm kín giữa đôi trai tài gái đẹp ấy. Nhưng khốn thay
vua Thái Tông lại muốn gả công chúa Thiên Thành cho Trung Thành vương. Hôn lễ
đã định rồi. Cô dâu đã bị rước đến vương phủ Trung Thành. Trần Quốc Tuấn hận lắm,
đã tìm cách vào vương phủ Trung Thành để gặp người yêu dấu mà than vãn. Mẹ nuôi
của Trần Quốc Tuấn là công chúa Thuỵ Bà biết nhưng giả vờ hoảng sợ đã nửa đêm đến
đập cửa cung tâu với vua Thái Tông và xin vua Thái Tông ra tay cứu Trần Quốc Tuấn,
kẻo người nhà Trung Thành vương mà bắt quả tang thì họ cứ phép nước giết luôn.
Đã liên can đến việc bôi một vết xấu vào cuộc đời của anh, Trần
Thái Tông không muốn mang thêm tiếng xấu khác về việc của cháu. Nhà vua vội vã
dẫn lính ngự lâm đến vương phủ Trung Thành. Bấy giờ đã khuya lắm nhưng yến tiệc
vẫn diễn ra linh đình trong vương phủ. Thấy vua đến, cha con Trung Thành vương
vội ra đón. Nhưng nhà vua không nói không rằng, cứ dẫn lính ngự lâm xộc thẳng
vào khu nhà hậu, tìm đến buồng cô dâu và thấy Trần Quốc Tuấn ngồi trong đó. Trần
Thái Tông vội hộ tống Trần Quốc Tuấn ra khỏi vương phủ Trung Thành. Vua cũng
đem luôn công chúa Thiên Thành về cung. Sự phán xử của nhà vua ngày hôm sau làm
cho hoàng tộc và triều thần phải sửng sốt, Trần Quốc Tuấn chẳng những vô can mà
còn được lấy công chúa Thiên Thành làm vợ. Để bù cho chuyện vợ hụt của Trung
Thành vương, vua đền cho ông ta hai nghìn khoảnh ruộng.
Chính cuộc hôn nhân này làm cho Trần Quốc Tuấn càng trưởng
thành, càng băn khoăn. Trong cuộc tình địch xưa, Trần Thái Tông chỉ là người
tình cờ thành tòng phạm còn trong cuộc tình địch này, Trần Quốc Tuấn là nạn
nhân nhưng cũng là chính phạm rõ ràng. Sự so sánh đó làm cho Trần Quốc Tuấn phải
nghĩ rằng oán cừu nên cởi không nên buộc.
Trần Nhật Duật lúc này lại không nghĩ về cuộc tình duyên trên
khía cạnh đó. Trần Nhật Duật kính phục cách xử sự quyết liệt của Trần Quốc Tuấn.
Giá như Trần Nhật Duật biết quyết liệt như Trần Quốc Tuấn, cứ thẳng thắn xử sự
như lòng mình muốn thì chắc chắn cô gái làng biển kia đã về với ông, đem theo hạnh
phúc và sự bình lặng đến với ông.
Ngược lại Trần Quốc Tuấn cũng rất mến Trần Nhật Duật. Nếu như
có người vô tư nhất trong cả hai chi trưởng, chi thứ của họ Trần thì người ấy
phải là Trần Nhật Duật. Cái đó thật đáng quý. Trần Quốc Tuấn nhìn nhận ở sự vô
tư của Trần Nhật Duật một nết hay mà ông đã thiếu khi còn trẻ. Ngoài ra hai người
còn yêu quý nhau về tài năng nữa. Mỗi bận lên kinh, Trần Quốc Tuấn thường đến
phủ đệ Chiêu Văn thăm em. Khi chén rượu, khi cuộc cờ, khi săn bắn, khi bình
văn, Trần Quốc Tuấn thầm mong truyền cho Trần Nhật Duật mọi sở đắc sở trường của
ông. Năm trước Trần Nhật Duật có dịp đi với Trần Quốc Tuấn tuần thú lộ Lạng
Giang, Trần Quốc Tuấn khéo léo giả như hỏi các bô lão địa phương về việc mùa
màng, về đời sống của trăm họ trong vùng, cốt để cho em nghe những cái mà theo
ông Trần Nhật Duật hiểu biết còn nông cạn và hời hợt. Trần Quốc Tuấn còn dắt cả
Trần Nhật Duật đi thăm đồng, tự ông còn lội cả xuống ruộng vạch gié lúa tìm
sâu, sục tay xuống bùn làm cỏ để cho Trần Nhật Duật xem. Ông còn đố Trần Nhật
Duật phân biệt các giống lúa, nói về từng cái hay cái dở của chúng. Rồi ông bảo
em: “Làm tướng phải biết thật rộng, cầm quyền nước càng phải biết rộng nữa. Biết
đến mức nào thật không chừng. Có thế trăm họ mới được nhờ. Có thế mới thật là
tay anh hùng đem lại miếng cơm manh áo cho dân nước.” Trần Nhật Duật ngu gì mà
không nhận ra tấm lòng của Trần Quốc Tuấn với việc công và với chính ông nữa.
Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật ngắm mấy bức tranh rồi ngắm chậu
tùng. Trần Quốc Tuấn sai gia nô pha trà mời Trần Nhật Duật. Ông cười bảo em:
- Hôm nay ta đến thăm Triệu Trung.
Sáng hôm nay ông và viên gia tướng Nguyễn Địa Lô mặc thường
phục lên cửa ô Yên Hoa thăm Triệu Trung. Căn nhà khách Triệu Trung tiếp đón ông
trang trí rất sơ sài. Vách hậu có bày ban thờ Văn Thiên Tường, viên tể tướng Tống
trào đã tuẫn tiết khi nhà Tống mất. Bên mảng tường mé tả còn treo một bức trướng
có chép bài Chính khí ca của con người trung nghĩa đó. Trần Quốc Tuấn vốn có
lòng nhớ tiếc Văn Thiên Tường và rất thích mấy vần thơ nghĩa liệt của Văn:
Người ta tự cổ ai không chết.
Lưu lại lòng son trong sử xanh.
Nước Việt đang ở lúc mà tôi con cũng đành phải tính đếm đến
lúc cần thì biết chết sao cho ra con người trung nghĩa nên câu thơ đó tác động
rất mạnh đến Trần Quốc Tuấn. Ông đã hỏi Triệu Trung về phép đánh những thành
trì có phòng thủ kĩ với hệ thống hầm hào, bẫy đá, luỹ dày thả chông. Ông muốn
Triệu Trung đến Giảng Võ đường nói cho các tướng cùng tường. Sau đó ông hỏi ý
Triệu Trung rằng ông muốn thu nhận Triệu Trung làm môn khách trong mạc phủ của
ông. Triệu Trung rất cảm động vì được coi trọng nhưng từ chối với lí do đã được
Trần Nhật Duật thu nhận trước rồi. Triệu Trung cho gọi các con ra lạy chào Trần
Quốc Tuấn và sau đó xin ông một bài châm chép quạt. Trần Quốc Tuấn ngẫm nghĩ rồi
chép hai câu thơ của Văn Thiên Tường vào lá quạt cho Triệu Trung...
- Hôm nay ta đến thăm Triệu Trung. Viên hổ tướng này đã về
làm môn khách của em. Tinh mắt và trọng hiền đó em.
Lời khen đó của Trần Quốc Tuấn làm cho Trần Nhật Duật sung sướng.
- Thưa anh, Triệu Trung về làm giáo luyện thay cho Hoàng Mãnh
mới tiến triều.
- Ta biết. Hoàng Mãnh hợp với em hơn nhưng Triệu Trung là một
tướng thao lược, đã từng phải đánh những trận lớn quân đông. Nếu chiến tranh xảy
ra quân Thát Đát kéo sang, chúng sẽ có cả quân có kĩ thuật đánh thành của người
Hán, lại có cả quân kị tiến lui cực nhanh, lúc đó kinh nghiệm của Triệu Trung rất
đáng quý. Em có con mắt xét người rất tinh. Ta không lấy làm lạ khi Triệu Trung
đã thành người của phủ Chiêu Văn.
Rồi ông trầm ngâm giờ lâu trước khi tiếp:
- Từ bao đời nay, phương Bắc luôn luôn là mối đe doạ xâm lăng
với nước Việt ta. Bọn vua chúa cầm quyền đã nếm bao trận thua đau rồi mà chúng
vẫn giữ nguyên mộng xâm lược. Chả là đất nước ta sản vật nhiều như chất núi,
trâu, lợn, gạo, cá cho đến ngọc trai, sừng tê, trầm hương, chí đến cỏ hoa làm
thuốc quý... cái gì cũng sẵn. Kẻ tham thì giữa chợ chỉ nhìn thấy vàng chứ có thấy
ai đâu. Hễ là người Việt không được một giây khắc quên điều đó. Chúng ta là người
cầm quyền chính coi sóc sự an nguy của tôi con nước Việt, sự tồn nguy của nước
nhà, lại càng phải đinh ninh khắc cốt ghi xương rằng bọn vua chúa “thiên triều”
lúc nào cũng thèm rỏ rãi cái nước Việt bốn mùa cây cối xanh um, một năm ba mùa
lúa chín này. Ai hễ chỉ quên lơi một chút là đã có tội với đất nước chứ không kể
đến những kẻ ngu dại tin theo chúng nữa. Thế đó.
Trần Nhật Duật im lặng nghe lời dạy bảo đó. Thốt nhiên ông chợt
nhớ đến gã Đạt Lỗ Hoa Xích đã là người thân thiết và tặng ngựa quý cho Chiêu Quốc
vương. Một ý nghĩ chợt đến chưa thành hình hẳn đã bị ông đuổi bay ra khỏi tâm
trí: “Nếu như anh ông, Chiêu Quốc vương phạm phải...”
Trần Quốc Tuấn không hay kéo dài những giây khắc quá nặng nề,
ông chợt đổi nét mặt, cười hỏi Chiêu Văn vương:
- Đêm nay em đeo mặt nạ gì?
Chiêu Văn vương giở cái mặt nạ sẽ mang theo ra cho Trần Quốc
Tuấn xem. Trên cái mo nang ấy vẽ một cái mặt trai trẻ rất đẹp. Trần Quốc Tuấn bật
cười:
- Thế này thì người ta biết ngay chủ nhân của nó là ai.
Trần Nhật Duật ngẩn mặt ra. Trần Quốc Tuấn nhìn chằm chằm vào
em nói tiếp:
- Em đeo mặt nạ để giấu mặt mà lại vẽ mặt chính mình lên nó.
Phải làm thế này này.
Trần Quốc Tuấn cầm ngọn bút trên án và bằng mấy nét chính xác
vẽ lên mặt nạ mấy nếp nhăn trên trán và hai vết má hóp.
- Phải như thế! - Trần Quốc Tuấn nhìn đăm đăm Trần Nhật Duật
và hỏi nhỏ: - Em có điều chi mà mấy hôm nay vẻ mặt thảng thốt lắm?
Chiêu Văn vương gượng cười. Trần Quốc Tuấn cầm lấy tay em:
- Chắc vẫn cái chuyện năm nọ!
Trần Nhật Duật mặt đanh lại, cúi đầu xuống. Trần Quốc Tuấn muốn
khuyên em một lời nhưng ông biết nói gì bây giờ. Khuyên em làm như mình hồi trẻ
thì ngày nay tuổi tác ông phản đối cách đó, còn khuyên em cam chịu thì điều đó
ngược hẳn với bản tính của ông. Trần Quốc Tuấn chép miệng than:
- Chả trách người đời vừa muốn lánh vào cửa thiền cho thoát nợ
lại vừa báng bổ nguyền rủa mệnh trời.
Trần Nhật Duật ngửng mặt lên, một vẻ quả quyết đầy phẫn nộ
thoáng loé lên trong đôi mắt rất đẹp của ông hoàng trẻ.
- Tất cả sẽ êm đẹp hết. Bây giờ anh em ta đi thôi. Cây gì thế
này anh trưởng? Lá tùng nhưng cành cội không hẳn là tùng.
- Nó là loại tùng rừng Yên Tử. Không hiếm ở vùng núi phía
đông nhưng thế nhân chỉ quen chuộng những cái gì từ phương xa tới.
Sau một lát lưỡng lự, Trần Quốc Tuấn tiếp:
- Chậu tùng này là quà tặng của Trung Thành vương.
Trần Nhật Duật vội ngửng nhìn Trần Quốc Tuấn. Chỉ thấy trên
gương mặt lão tướng quắc thước ấy một vẻ bình dị lặng lẽ trong sáng như đồng
quê lúc hoàng hôn thu.
Trước khi lên ngựa, Trần Quốc Tuấn chợt níu cương ngựa của
Chiêu Văn vương. Vị tướng già nheo mắt lại trước khi nói:
- Người đời thường hay luận về anh hùng nhưng đã mấy ai nghĩ
đến tới chỗ tinh tuý của đức tính ấy. “Tự tri giả anh, tự thắng giả hùng”. Ta
đã quá nửa đời người mới biết lưu ý đến lẽ đó. Hiểu được mình là Đẹp, thắng được
mình là Hùng. Châm ngôn cổ đơn giản mà thâm thuý thật.
Châm ngôn ấy, Trần Nhật Duật đã được nghe giảng từ nhỏ, nhưng
quả thật phải đến đêm nay, thốt ra từ cửa miệng một người chìm nổi như Trần Quốc
Tuấn, ý nghĩa của nó mới đột nhiên lấp lánh. Trần Nhật Duật không biết rằng Trần
Quốc Tuấn khi nói ra câu châm ngôn này là vị tướng già đang nghĩ tới Trần Quang
Khải với tất cả niềm ưu ái và biết ơn, biết ơn vì ông, biết ơn vì trăm họ và đất
nước.
Thăng Long đã vào đêm. Các lâu đài soi bóng xuống những mặt
nước hồ đen lạnh. Tiếng mõ vào canh từ các điếm phường binh gọi đáp lại nhau.
Xa xa, mấy ánh đèn lồng, ánh đuốc chon von trên vòm cổng cung thành. Có ai đang
ru con đâu đó dưới một mái nhà kín đáo:
Ạ ời! Ngủ đi con...
Một đời được mấy anh hùng?
Một nước được mấy đức ông trị vì?
Ạ ơi! Hãy ngủ đi con.
Sinh thành gặp buổi loạn li.
Vàng thau thử lửa sá chi bại thành.
Một là kim sách đề danh.
Hai là bia miệng, sử xanh lưu truyền.
Ạ ơi! Ạ ời!
Tiếng ru êm dịu, ấm áp thấm vào lòng người, thấm vào cả những
ngóc ngách sâu nhất cùng nhất của lòng người.
An Tư bỏ cơm chiều. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời nàng
công chúa út này ước muốn mà không toại nguyện. An Tư ước muốn được dự đêm tiệc
mặt nạ nhưng công chúa đã lần lượt bị những người thân nhất từ chối không nhường
thẻ cho. Trần Tú Hoãn bảo em gái:
- Em đến chỗ ấy sao tiện.
Trần Ích Tắc thì chỉ cười:
- Đấy là nơi dành cho những người đã trải việc đời.
Thượng hoàng Thánh Tông nghiêm khắc với cô con gái:
- Phép nước đã đặt rồi. Con là con gái chưa chồng, ta cấm con
bén mảng đến chỗ đó.
An Tư về cung riêng, hậm hực, bỏ cơm, gắt gỏng thị nữ. Công
chúa thấy tất cả những thú vui, những đồ quý giá... vẫn ham thích xưa nay trở
nên vô nghĩa, vô giá trị: những bộ xiêm bằng vóc bằng lụa dệt cầu kì, may cầu
kì, những đôi hài xinh xắn, những chiếc quạt trầm, quạt đồi mồi chạm trổ tinh xảo,
những chiếc quạt Hới ghép mỗi nan hai mặt cật chuốt láng bóng, lá vẽ hoa điểu,
lá đề một bài thơ và chữ của danh sĩ hai nước ta và Tàu, những hộp đựng chất
thơm quý giá, những hộp đựng các loại phấn thoa mặt, những chiếc gương đồng
thau hình tròn hình bầu dục, những chiếc hộp gỗ trắc lót nỉ đựng đồ trang sức,
bức tranh mực nước vẽ cuộc gặp gỡ giữa chàng họ Chử với nàng Tiên Dung, cho chí
cây đàn độc huyền chế bằng gỗ hoàng đàn đã từng thức đêm với An Tư nhiều
phen... Tất cả những cái đó, chỉ mới hôm qua thôi, còn được nàng công chúa út
coi là rất quý báu, rất thân thiết.
An Tư ngồi đứng không yên. Trời đã tối rồi. Các loại đình liệu,
các loại đèn cầy, đèn lồng, đèn đĩa, các cây hoàng lạp, bạch lạp trong cung đã
thắp sáng. Những viên nội giám và cung nữ cầm đèn lồng đi tuần sát vườn ngự, ao
ngự. Những tay đàn trong ban nhã nhạc nội cung đã kéo nhau đi qua vườn nhài để
đến điện Đại Minh. Những nội giám làm việc ở bếp ngự cũng đã đội những cái mâm
gỗ sơn son trên bày những đĩa bát đồ nấu sơn hào hải vị, tấp nập theo gót các
nhạc công. Nhìn cảnh ấy lòng An Tư càng bồn chồn nghĩ mãi, An Tư thấy chỉ một
cách có thể toại ý...
An Tư gọi một thị nữ theo hầu rồi cả hai người ra khỏi cung
riêng. An Tư đến cung Quan Triều. Nàng công chúa út nghĩ rằng Thánh Tông vốn
nghiêm khắc và quả quyết, một khi người đã nói là người không đổi ý. Còn Trần
Ích Tắc và Trần Tú Hoãn thì chính họ cũng chỉ có một thẻ tín bài là phần của họ.
Cho nên nếu có ai đưa An Tư vào tiệc thì người đó chỉ có thể là Nhân Tông hoàng
đế. Vua Nhân Tông vốn chiều cô em út mà nếu nhà vua có cho em cái thẻ đi nữa
thì Nhân Tông vẫn đến dự tiệc được. Chiếc thẻ ấy nó nằm kia, trên án sách của
nhà vua trong cung Quan Triều.
Chẳng may, An Tư đến cung Quan Triều nhưng không được gặp nhà
vua. Hoàng đế Nhân Tông chiều nào cũng giữ lệ quần ngựa tập bắn cung ở trường bắn
của lính tứ sương. Chiều nay, nhà vua cũng không bỏ lệ và bây giờ nhà vua vẫn
chưa về cung. Thư phòng cung Quan Triều im lặng như tờ tuy đám thị nữ đội đèn vẫn
đứng thị lập ở các chân cột. An Tư bồn chồn ngồi đợi anh. Nhưng nàng ngồi không
yên, lại đứng lên... Thế rồi thình lình, trong quầng sáng của cây đèn long trúc
An Tư nhìn thấy bộ mặt ngạo mạn đang cười chế giễu mình. Bộ mặt ấy có một quai
râu đen lánh, đẹp một cách đáng ghét, mắt sáng như mắt quỷ, hàm răng to bóng trắng
bong như răng một gã lục lâm chọc trời hoặc một gã hải tặc quấy biển. “Thưa lệnh
bà, tiểu tướng là người chỉ huy việc xét thẻ tín bài ở cửa cung!”. Chiếc tín
bài sơn son méo theo hình cái vỏ trai nằm kia, trên án sách nhà vua! An Tư mắt
long lanh, mặt đỏ bừng lên, đôi chân nhũn ra nhưng bàn tay thì quả quyết. An Tư
chộp lấy cái tín bài, hai tay ôm nó khư khư trước ngực. Nàng công chúa út nhìn
trước nhìn sau. Nàng công chúa út không thấy ai cả. Những thị nữ đội đèn vẫn đứng
như tượng đá. Xưa nay những thị nữ đội đèn có ai kể đến sự hiện diện của họ
đâu. Cả những đốm sáng trên đĩa đèn hình như cũng không lay động. An Tư muốn bỏ
chiếc tín bài xuống án. Đôi tay An Tư đột nhiên run bần bật nhưng một giọng nói
mơ hồ thoảng đâu bên tai: “Tiểu tướng chỉ theo lệnh trên đưa thẻ tận tay những
người có tên.” Cái cười ngạo mạn phô hàm răng của hải tặc. Cái cười, phải rồi,
chính cái cười đó xúi giục An Tư như một sức mạnh thần linh run rủi. Nàng công
chúa út ôm luôn cái thẻ tín bài ra khỏi cung Quan Triều, mặc kệ nét mặt hoảng hốt
của những thị nữ đội đèn.
An Tư đi được một lát thì các nội giám phò đương kim hoàng đế
từ nhà Dục Đường về đến cung Quan Triều. Đức vua đã tắm gội ở Dục Đường sau buổi
quần ngựa bắn cung. Bây giờ chỉ còn việc thay áo đi dự tiệc.
Đã sang giữa canh một. Tiếng nhạc nhã từ điện Đại Minh, nơi sẽ
diễn ra đêm tiệc, văng vẳng đưa lại cung bực lả lơi của bản Đạp Thanh. Chắc
khách khứa đến đã khá đông rồi. Nhân Tông ra lệnh cho các nội giám ra khỏi cung
Quan Triều, trừ Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác. Đó là viên tướng sẽ phò đương
kim hoàng đế đến dự tiệc. Đó cũng là người duy nhất được biết hoàng đế đến vui
đêm hội này đằng sau chiếc mặt nạ nào? Nhân Tông lấy chiếc mặt nạ ra, nó đây.
Chính tay nhà vua tài hoa đã vẽ lên một chiếc mo nang bình thường cái mặt nghịch
ngợm của Liêu Thủ Tâm, thằng hề liến thoắng, sủng thần của vua Lê Ngoạ Triều.
Cái mũi hếch lên, đôi mắt nheo lại trong một cái cười châm chọc, và hai cái ria
lệch lạc, hai cái ria đã từng mua vui cho cả một triều đình và cũng làm cho lắm
bậc quan to hống hách phải bầm gan tím ruột. Nhân Tông đeo chiếc mặt nạ lên.
Không khí chúa tôi giữa nhà vua và Trịnh Mác lập tức bay biến ngay. Trịnh Mác
phì cười và nhà vua cũng phì cười. Nhân Tông bắt Trịnh Mác cầm hai cái gương
giơ chéo cho mình xem. Soi chán rồi, nhà vua lột mặt nạ ra bắt Trịnh Mác phải
đeo lên cho nhà vua coi... Ơ hay, sự vui đùa làm cho con người ta trẻ trung
sung sướng thế này mà làm sao người đời cứ đặt ra rồi bám khư khư lấy mọi thứ lễ
nghi phiền toái bó buộc người ta, làm cho người ta già đi, xấu đi?
Lúc ra đi, Trần Nhân Tông tìm không thấy thẻ bài của mình.
Nhà vua tìm rồi Trịnh Mác cũng tìm đều không thấy. Thư phòng riêng trong cung
Quan Triều đâu phải là nơi dễ vào? Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác chợt nhìn thấy
ánh mắt sợ hãi của một thị nữ đội đèn. Trịnh Mác bước lại gần trợn mắt giật giọng:
- Bỏ đèn xuống... ta hỏi.
Người thị nữ sợ hãi líu lưỡi lại nhưng những lời đứt nối mau
chóng làm cho Trịnh Mác và Nhân Tông hiểu ai là người đã vào thư phòng cung
Quan Triều và lấy đi cái thẻ hình vỏ trai sơn son.
Lúc ấy đang là lúc Nhân Tông vui vẻ nên nhà vua trẻ muốn cười
to lên. Nhân Tông bảo Trịnh Mác:
- Thôi! Tha cho nó! Nó có dính dáng gì đến đâu.
Nhân Tông đeo cái mặt nạ mo nang và ra khỏi cung Quan Triều.
Trịnh Mác theo sau...
Đêm nay, Điện tiền tướng quân Nguyên soái Bảo Nghĩa hầu Trần
Bình Trọng chỉ huy việc canh phòng và tuần sát. Các chức Điện tiền Tướng quân
chia nhau mỗi người trấn một cửa cung. Hoàng Mãnh coi cửa nách bên phải quen gọi
là cửa Vân Hội. Viên tướng trẻ đeo kiếm quý, mặc áo chiến màu đại hồng. Dưới
ánh sáng của những chiếc đèn lồng lợp lụa trong suốt, Hoàng Mãnh đẹp lắm, một vẻ
đẹp vũ dũng và nghịch ngợm. Hoàng Mãnh xét thẻ bài của những người dự tiệc. Anh
tò mò cố nhìn để đoán xem những người đưa thẻ cho anh là ai nhưng rồi cũng chịu.
Những chiếc mặt nạ mo nang vẽ đủ kiểu mặt, kiểu người làm Hoàng Mãnh hoa cả mắt.
Này đây, một ông già hom hem, này đây mặt của một cô thôn nữ vùng đồi Lim, này
đây một vẻ mặt của người đẹp Chiêm Thành, này đây bộ mặt đen của một nhà sư Tây
Vực... Rồi có cả mặt của những người nổi tiếng đã qua đời, mặt ma, mặt quỷ, mặt
thánh, mặt thần... Hoàng Mãnh chỉ nhận ra Nhân Túc vương Trần Toàn với bộ mặt của
một ông Phỗng chột. Vả chăng, Trần Toàn cầm lăm lăm trong tay cái dùi đục nổi
tiếng thì ai mà chẳng nhận ra được.
Các đức ông, các lệnh bà đeo mặt nạ mo nang lũ lượt đến cửa
Vân Hội... Họ cười nói, họ trao tín bài cho quan Điện tiền trấn cửa. Trong điện
Đại Minh và các dãy hành lang, giải vũ vây quanh đã đông lắm rồi. Mấy cái sân rộng
lát gạch son có cắm sẵn những chiếc lọng để nếu đông người quá thì chơi bời cả
ngoài sân...
Một người mặc áo lụa xanh, dáng dong dỏng cao đeo một cái mặt
nạ mo nang đi tới cửa Vân Hội. Hoàng Mãnh đã quen cái mặt hề này rồi. Các phường
trò ở kinh kì thường diễn tích cổ về cái bác Liêu Thủ Tâm đã từng mua vui cho cả
một triều đình. Mãnh cười và chìa tay đòi thẻ nhưng người áo xanh lại ghé đầu
sát vào Mãnh và thầm thào:
- Ta đây! Ta đây! Đừng có mà làm mọi người để ý.
Mãnh sửng sốt. Sau lưng người áo xanh là Thượng phẩm Phụng ngự
Trịnh Mác cũng nhăn răng nhìn Mãnh mà cười. Người áo xanh ghé đầu hé cái mo
nang cho Mãnh nhìn thoáng được một phần ba mặt và lại nói khẽ:
- Ta vào nhé.
Hoàng Mãnh lưỡng lự định thi lễ nhưng người áo xanh ngăn lại
và đi qua cửa. Hoàng Mãnh nhìn theo mãi cái người mang bộ mặt Liêu Thủ Tâm. Anh
tò mò muốn xem bậc đế vương đùa nghịch như thế nào nhưng chỉ được một lát, bóng
người áo xanh kia đã trà trộn vào đám đông và trong đám đông cũng có nhiều người
mặc áo xanh, cái màu xanh lẫn lộn của các viên quan cấp thấp.
Cuối canh hai đã có người đánh rơi chén, bát xuống nền gạch.
Tiếng gốm vỡ, tiếng nhạc tấu huyên thuyên và tiếng cười nói trong tiệc ồn ào
náo nhiệt như chợ cầu Đông vào lúc đầy người. Có tiếng Nhân Túc vương Trần Toàn
lè nhè cầm trịch cho tất cả phải uống ba bát rượu thông luôn:
- Một! - Có tiếng dùi đục nện đánh chát một tiếng.
- Hai! - Lại một tiếng dùi đục nữa.
- Ba này! - Tiếng dùi đục thứ ba.
Đó là hiệu lệnh từ lúc này ăn uống là phụ, vả chăng sau ba
bát rượu thì cái cột trong điện Đại Minh cũng say rồi, mọi người tuỳ ý nghĩ trò
giở ra mà vui chung. Mấy người lính đô Củng Thần theo lệnh đã có từ trước, vào
tắt bớt đèn đóm cho nó tranh tối tranh sáng. ánh sáng giảm đi nhưng tiếng nói
cười ồn ào hơn và thỉnh thoảng có giọng nữ cười rú lên như người bị cù nách.
Từ cửa Vân Hội đến điện Đại Minh chỉ cách một cái sân không rộng
lắm. Hoàng Mãnh thấy hội đêm diễn ra lúc huyên náo, lúc lặng đi. Chính cái lúc
lặng đi ấy kích thích trí tò mò của viên tướng trẻ.
Mãi đến gần nửa đêm mới thấy Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng
đến dự tiệc. Hưng Nhượng vương cầm trong tay cái mo nang vẽ bộ mặt “dở khóc dở
cười”. Ông hoàng trẻ cũng đã say khướt rồi. Tối nay ở phủ đệ Hưng Đạo, Hưng Nhượng
vương uống rượu với một người bạn quen trong chốn giang hồ. Người này suốt năm
đi lang thang khắp nơi, hành tung bí mật. Có thể là dòng dõi cựu thần nhà Lý.
Nhưng không hề bao giờ anh ta tỏ ý oán ghét nhà Trần mà cũng không bao giờ tỏ ý
luyến tiếc nhà Lý. Nhưng anh ta không chịu ra làm việc công. Anh ta khi thì ở đỗ
lại một ngôi chùa vắng vẻ, vẽ cho xong một bộ tranh phong cảnh cho người tri kỉ,
khi thì theo đám dân chài ra khơi đánh cá. Người ta không hề biết quê quán tung
tích của anh ta mà chỉ biết tên anh ta xưng ra là Đỗ Vỹ. Trần Quốc Tảng đã kết
bạn với Đỗ Vỹ ở bãi biển Vân Đồn. Vốn cũng là người quen rong chơi lang bạt kì
hồ, Trần Quốc Tảng rất quý Đỗ Vỹ. Qua vài năm tình bạn càng thắt chặt thêm. Mỗi
lần gặp bạn, Trần Quốc Tảng lại nhận ra ở người bạn tri kỉ những khả năng tiềm
tàng vô cùng to lớn. Đỗ Vỹ là một người uyên bác thấu hiểu tình đời. Đỗ Vỹ yêu
thiên nhiên say sưa, yêu từ màu sắc, âm thanh, yêu từ vẻ đường bệ đến thói thất
thường của thiên nhiên. Đỗ Vỹ chơi đàn rất hay, vẽ tranh rất giỏi mà võ nghệ
cũng xuất chúng. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì một du khách quanh năm nơi đất
khách quê người thì phải đủ tài giữ mình bằng một thứ vũ khí có khi chỉ là một
cái quạt. Anh cũng có một cái tính kì quái là không bao giờ chịu lân la đến những
nhà công hầu, không chịu đẩy mức giao tiếp với những người quyền quý khỏi mức
quen biết thông thường. Trần Quốc Tảng là một người bạn trong công hầu biệt lệ
của Đỗ Vỹ.
Hôm nay Đỗ Vỹ về kinh xem hội thề. Trần Quốc Tảng bắt gặp bạn
ở ven hồ Lục Thuỷ bèn chèo kéo Đỗ Vỹ đến vương phủ chơi. Buổi chiều, Trần Quốc
Tảng mở tiệc tay đôi uống với bạn. Đến đầu canh ba, Đỗ Vỹ nhắc Trần Quốc Tảng
và giục bạn đi dự hội. Trần Quốc Tảng không muốn đi, cứ ở nhà tiếp bạn nhưng Đỗ
Vỹ tạ từ nói rằng mình phải lên đường ngay để sáng mai còn kịp dự cuộc săn đuổi
với phường săn bên rừng dâu da kề bên con sông Thiên Đức. Vốn hiểu tính nhau,
Trần Quốc Tảng không nài ép. Nhưng trước khi từ giã, Trần Quốc Tảng trao cho Đỗ
Vỹ một vật - đó là một nửa mảnh phù Hưng Đạo:
- Cha em cần tìm được một người để trao một việc lớn. Cha em
giao cho em toàn quyền chọn và em thấy chỉ có anh là đáp ứng đủ mọi điều kiện
cha em yêu cầu.
Đỗ Vỹ cười:
- Ta cần đến lúc nào? Và ở đâu?
- Khoảng tháng sau ở Vạn Kiếp, vì cha em không muốn cho ai biết
việc này.
Tiễn Đỗ Vỹ xong thì Trần Quốc Tảng cũng đi dự tiệc để trốn
tránh cái lẻ loi sau chén rượu biệt li.
Đưa thẻ bài cho Hoàng Mãnh rồi Trần Quốc Tảng mới đeo cái mo
nang lên mặt chuệnh choạng bước vào điện Đại Minh. Trần Quốc Tảng không thích
không khí những bữa tiệc như thế này. Ông hoàng trẻ thường tìm thấy thú vui
trong những cuộc gặp gỡ giữa đôi ba người tri kỉ tri âm. Chàng không thích sự ồn
ào, càng không thích sự ồn ào diễn ra rồ dại trong một đêm để rồi cả năm sau đó
bị ràng buộc bởi trăm điều rối rắm của triều nghi, lễ giáo, đạo lí, của phép
vua, lệ làng.
Tiệc rượu mo nang lúc ấy đang lắng xuống, chắc là vừa qua một
đợt quá đỗi náo nhiệt. Những người dự tiệc cười hét mệt quá đang phải ngồi dựa
vào cột mà hổn hển. Loáng thoáng đã thấy những người kéo chệch cái mặt nạ ra
cho dễ thở đôi chút.
Tuy vậy, vừa thấy một người đến muộn đeo mặt nạ “dở khóc dở
cười” bước vào chân cao chân thấp, mọi người lại ồn lên. Một bà dáng trẻ trung,
cổ tay tròn vo, da tay ngăm ngăm đen sấn đến, kéo anh “dở khóc dở cười” ra trước
đám đông, ép anh ta khai ra xem vừa vui thú ở đâu mà bây giờ mới đến. “Dở khóc
dở cười” cũng biết tôn trọng lề thói của tiệc. Anh ta nói rằng mình vừa phải tiếp
ông Phật say ở chợ cầu Đông. Bà kia cất tiếng cười giòn tan. Bà ta đeo mặt nạ vẽ
một cô gái đẹp kiêu kì, đuôi mắt có chấm một cái nốt ruồi “thương phu trích lệ”.
Bà “thương phu trích lệ” cười ré lên, hỏi rằng Phật say và anh “dở khóc dở cười”
đã nói chuyện gì thì kể ra cho mọi người nghe.
- Chúng tôi bàn đến cái sự huyền bí của thuật nhập định phái
Phật Tây Vực.
“Dở khóc dở cười” thuật lại luôn một chuyện nhập định của
phái Thiền Tông Tây Vực. Ai luyện được thuật này thì có thể ngủ như người đã chết
trong một tháng trời và cũng có thể nhịn ăn trong hàng chục hôm. Thế là người
ta dồn “dở khóc dở cười” xem anh ta đã nhập định được chưa? Anh ta đáp là được
rồi. Cả tiệc đua nhau ép “dở khóc dở cười” thi thố tài năng cho mọi người được
xem. “Dở khóc dở cười” đáp:
- Nếu muốn xem tôi trổ tài thì cũng được thôi nhưng phải có
hai người ra phụ cho tôi.
Tất cả mọi người bằng lòng điều kiện của anh ta. “Dở khóc dở
cười” len ngay vào đám đông để chọn người. Đôi mắt anh ta, từ hai cái lỗ nhỏ
khoét trên cái mo nang chợt loé lên một ánh nghịch ngợm. “Dở khóc dở cười” đi đến
đâu, người ta thôi nói cười đến đấy. Người ta vẫn ghê ghê sợ sợ những thuật huyễn
hoặc của các thiền sư Tây Vực. Những lời đồn đại về họ kể từ thiền sư Tì Ni Đa
Lưu Chi đều dần dần đi quá sự thực chính là nguyên nhân dẫn đến sự sợ hãi ấy.
“Dở khóc dở cười” chộp lấy cái cổ tay nần nẫn của “thương phu trích lệ” giơ
lên:
- Bà này là một nhé.
“Thương phu trích lệ” rú lên một tiếng, muốn giật tay ra để
chạy nhưng giật sao cho nổi. Gân sức của “dở khóc dở cười” vốn đã có công phu
luyện tập nhiều năm rồi.
- Đứng yên nào! Có gì mà phải giãy giụa thế? - “Dở khóc dở cười”
chộp cổ tay một người mặc áo xanh đeo mặt nạ Liêu Thủ Tâm: - Hai nhé!
Đám đông reo hò khoan khoái vì thoát nợ. “Dở khóc dở cười” dắt
hai người phụ trò ra trước tiệc và giảng giải trò vui của mình. Anh ta nói là sẽ
hoá phép cho rượu trong cái nậm sẽ biến hết rồi rượu sẽ hiện ra trong cái bát
không mà bà “thương phu trích lệ” sẽ cầm trong tay giơ cao lên khỏi đầu để cho
ai cũng nhìn thấy. Anh ta sẽ làm cho thịt lợn quay hiện ra trong một cái phễu
giắt ở cạp quần “Liêu Thủ Tâm”. Sau đó “dở khóc dở cười” giắt vòi phễu vào cạp
quần Liêu Thủ Tâm. Còn “thương phu trích lệ” thì được anh ta giao cho một cái
bát không và bắt bà ta giơ cái bát lên cao.
“Dở khóc dở cười” bảo bà “thương phu trích lệ”:
- Nghiêng cái bát xem trong đó có cái gì không nào?
“Thương phu trích lệ” nghiêng cái bát, cái bát không đựng cái
gì hết.
- Lật úp hẳn cái bát xuống chứ!
Cái bát được lật úp hẳn xuống. Đúng là cái bát không.
- Giơ cao cái bát lên!... Nghe xem có tiếng rượu chảy vào bát
không...? Có nghe tiếng róc rách chưa?
Những người chung quanh cũng lắng nghe... Hình như có tiếng
róc rách thật. Đúng thật, có tiếng róc rách nhỏ thôi nhưng đúng là tiếng của chất
lỏng đang chảy thật...
Thình lình có người kêu oái lên làm cho ai nấy giật mình. Người
ta ngơ ngác tìm xem ai kêu? Và người ta thấy “Liêu Thủ Tâm” đang nhảy cẫng lên
rũ quần phành phạch. Té ra lúc mọi người đang mải nhìn cái bát trong tay
“thương phu trích lệ” thì “dở khóc dở cười” nghiêng cái nậm lên lén rót rượu
vào cái phễu giắt ở cạp quần của “Liêu Thủ Tâm” làm cho con người đã từng lừng
tiếng hơn ba kỉ trước phải nhảy cẫng lên vì buồn nhột ướt dính nhem nhép...
Cả tiệc rũ ra mà cười nghiêng ngả...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét