Người Thăng Long 2
Chương 7
Vào cuối tháng quý thu, Trần Nhật Duật lên châu Mai để lo lễ
cưới của Hoàng Mãnh. Theo như dự định cũ, lễ cưới đáng lẽ làm vào mùa đông
nhưng tình hình đất nước buộc triều đình muốn cố kết sớm lòng dân miền tây bắc
và hai họ cũng muốn lo sớm cho đôi trẻ.
Sau khi được tin Toa Đô lên đường, triều đình khẩn cấp phái
các tướng giỏi ra biên giới để sẵn sàng đối phó. Không khí chuẩn bị chiến tranh
sôi động trong các vương phủ, trong các trại quân. Nhưng nửa tháng sau, được
tin đoàn chiến thuyền của Toa Đô đã đâm xổ vào Chiêm Thành, mọi hoạt động dường
như chững lại. Người ta lại từ các làng quê trở về kinh thành. Các phường thủ
công lại tiếp tục việc làm, các cửa hàng cửa hiệu lại tấp nập kẻ mua người bán.
Thuyền bè các nơi lại châu mũi về bến Đông hoặc đổ hàng lên phố, hoặc cất hàng
để đem về các lộ xa. Mọi hoạt động ngoài dân gần như đã trở lại bình thường của
một thời thái bình nếu như không có những cuộc diễu rước thị oai của gã Đạt Lỗ
Hoa Xích qua các phố phường kinh thành.
Tuy vậy ở trong triều, trong tầng lớp các vương hầu giữ các
chức vụ trọng yếu, mọi hoạt động đều ráo riết hướng về chuẩn bị chiến tranh chống
giặc. Những buổi luyện quân và nghe giảng về binh pháp ở Giảng Vũ đường diễn ra
căng thẳng hơn trước. Việc điểm mặt, điểm tên trong những buổi đó tiến hành kĩ
lưỡng hơn. Đã có những viên tướng bị giáng chức vì lơ đãng phạm điều lệ học
hành, luyện tập. Đã có những vụ nã bắt kín đáo những kẻ thì thụt ra vào sứ quán
của gã Đạt Lỗ Hoa Xích...
Trần Nhật Duật lên đến châu Mai vào một ngày cuối thu. Trời
châu Mai vào lúc này bềnh bồng mây trắng xám. Rừng châu Mai xanh thẫm lại và
loáng thoáng đã có những khoảng cây lá chuyển sang sắc đỏ lửa. Núi đá châu Mai
đã từng lúc phủ sương lam nhàn nhạt và khí núi đã gây gây mỗi buổi chiều sớm về.
Nhà họ Trịnh ở bản Mai Hạ nên Trần Nhật Duật đóng lại ở bản
Mai Thượng. Mai Thượng trở thành một trại quân của đoàn tuỳ tùng hộ tống Chiêu
Văn vương vừa là nơi ở của họ nhà trai.
Đám cưới của Minh tự Điện tiền tướng quân Hoàng Mãnh lấy con
gái yêu của Mai Sơn hầu Trịnh Giốc Mật là một sự việc hiếm có trên miền sơn cước.
Cả hai bản Mai Thượng và Mai Hạ hàng ngày phải tiếp hàng trăm khách từ các nơi
về mừng hai họ và cô dâu chú rể. Theo phong tục châu Mai, trước lễ rước dâu,
chú rể phải đứng mời quan khách ở nơi nhà gái thết đãi, cô dâu ngược lại phải
có mặt ở nơi họ nhà trai mời khách đến uống rượu mừng. Ai cũng tấm tắc khen chú
rể thật là một trang nam tử văn vũ song toàn, diện mạo khôi ngô kì vĩ. Và ai
cũng khen cô dâu, nàng Hai, quả là một cô gái đẹp duyên dáng, đảm đang, có một
chút sắc rợn huyền bí của núi rừng. Tiệc mở liên tiếp mấy ngày liền nhưng nàng
Hai lúc nào cũng tươi tỉnh mời rượu mọi người. Rõ ràng là cô dâu chú rể vừa
lòng nhau. Đám này thật là một mối hảo lương duyên.
Hôm nay là ngày rước dâu. Chú rể đã về Mai Thượng từ chiều
hôm qua. Ngược lại cô dâu cũng xuống Mai Hạ từ sáng hôm trước nữa. Hai họ ráo
riết sửa soạn cho cuộc đón dâu suốt hai ngày đêm. Hoàng Mãnh đã thuật lại cho
Chiêu Văn vương nghe binh tình bên nhà gái. Họ cương quyết đem trai đinh trong
họ ra giữ dâu. Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác lúc tiễn Hoàng Mãnh về Mai Hạ đã
bảo thẳng rằng họ Trịnh vũ dũng thượng võ muốn có một chàng rể xứng đáng. Chiêu
Văn vương cũng cho là phải bởi vì ông hiểu tinh thần thượng võ của con người
sơn cước châu Mai. Ông bảo em nuôi:
- Qua sông thì phải luỵ đò. Vào nhà ai thì phải theo nếp nhà
nấy. Được, rồi ta sẽ cho họ biết thế nào là trai Thăng Long.
Nhưng bà Trương thì lo lắm và mấy người trong họ nhà trai
cũng lo lắm, chỉ trừ cô chị họ Hoàng Mãnh lại rất hứng thú. Đó là cô Mơ, cô gái
của một làng biển Thanh Hoá. Trần Nhật Duật cũng có cảm xúc giống như cô ta.
Hoàng Mãnh thuật lại cách bố phòng bên họ nhà gái. Trịnh Mác
đã cho gọi tất cả trai đinh trong họ và toàn thể gia nhân của nhà họ Trịnh. Họ
đều sắm sẵn mỗi người một cái gậy gỗ vông cao một đầu một với. Côn gỗ vông tuy
không thể đánh ai chết hoặc mang thương tật nhưng chắc ai bị đánh trúng một đòn
thì cũng đau lắm. Tổng số quân của Trịnh Mác lên tới ngót năm trăm. Đội quân đó
dàn thành ba tuyến phòng ngự quanh bản Mai Hạ xinh đẹp. Họ đóng thành từng điểm
nhỏ mươi người một. Việc cắt canh làm đúng như luật quân, có mõ gọi, có mõ trả
lời, có chia phiên, có đội đi tuần sát và ở nhà Mai Sơn hầu Trịnh Mác giữ lại một
đội hai mươi người khoẻ mạnh, giỏi võ do chính Trịnh Mác chỉ huy.
Càng nghe bà Trương càng hoảng sợ. Bà nguyền rủa những tập tục
ác chết người. Bà bảo: “Có định làm dâu nhà người ta mãn đời hay không? Hay chỉ
định ở chơi một vụ chiêm”. Trần Nhật Duật bật cười. Ông phải giảng giải thêm
cho bà Trương:
- Không đến nỗi thế đâu. Họ có năm trăm tay côn nhưng đám
trai tráng châu Mai hiếu động, được dịp tụ bạ thì nô nức thế thôi. Chứ họ coi
đám cưới này là một mối duyên lành. Họ cũng nhân dịp này có các cô gái châu Mai
đến làm giúp nhà Mai Sơn hầu thì cũng tìm cho mình một người hiền hậu mà kết
ngãi đá vàng đó thôi. Chị dưỡng đừng lo.
Nhưng bảo bà Trương không lo thế nào được.
Sự thật thì Trần Nhật Duật nói rất đúng. Đám trai tráng châu
Mai chỉ cầm gậy vông làm phép mà thôi. Tục cướp dâu ở đây được các nhà dân thường
ưa chuộng. Những lễ cưới vùng sơn cước tuy không phiền toái như lễ cưới vùng đồng
bằng nhưng lại rất tốn kém, đồ dẫn cưới rất nhiều, nào trâu bò gà lợn, nào rượu
ngon gạo tốt, nào bạc trắng lụa hoa, nào gối áo cưới... Vì vậy trai gái nhà
nghèo dựa luôn vào tục cướp dâu mà phá lệ. Con gái hẹn con trai đem bạn đến “rước”
dâu. Qua một ngày, thế là đã thành vợ thành chồng. Bạn bè cô dâu chú rể kéo đến
mỗi người một tay, đốn gỗ, cắt cỏ tranh làm một nếp nhà cho đôi vợ chồng trẻ. Mỗi
lần đi giúp bạn làm tổ ấm, trai gái lại gặp nhau và những vụ cướp dâu khác lại
diễn ra suốt một mùa cưới. Cho nên họ Trịnh cho gọi trai tráng đến đông như thế
nhưng thật ra Trịnh Mác biết rằng họ đến như những người đi dự hội hè, còn muốn
giữ dâu, nhà họ Trịnh chỉ trông cậy ở vài anh em thân trong họ. Đó chính là đội
quân nhỏ hai chục người ở liền trong ngôi nhà sàn to rộng có hàng rào tre gai
vây quanh của Mai Sơn hầu. Đồng thời, Trịnh Mác có nói cứng cũng chỉ vì theo tục
lệ cổ truyền, còn anh ta với Minh tự Hoàng Mãnh vốn thân thiết còn hơn cả anh
em ruột. Bà Trương nghe nói vậy cũng yên tâm. Tuy vậy, Chiêu Văn vương vẫn hào
hứng cười, đuôi mắt rạn chân chim nheo tít lên nom rất đa tình:
- Nhưng đã đúc trống rồi thì cũng phải gióng lên. Rượu đã rót
rồi thì cũng phải uống cho cạn chén.
Ông trình bày cho mọi người nghe kế cướp dâu của ông. Đôi mắt
to đen của Chiêu Văn vương thoáng loé lên ánh sáng của xuân tình.
Ông bảo cô Mơ:
- Sáng hôm nay sẽ phải nhờ đến cô em một tay. Xong việc này
thì thằng Mãnh nó phải nhớ ơn cô suốt đời.
Chỉ thấy Mơ chúm chím cười. Người con gái e thẹn chính là vì
họ có điều chi vương vấn trong lòng. Mơ đi sắm sửa để lên đường. Các dũng thủ
Thăng Long, bạn của Hoàng Mãnh cũng bắt tay vào việc nai nịt cho gọn ghẽ.
Một lát sau, Mơ từ trong phòng bước ra, cô mặc chiếc áo đổi
vai màu nâu non, thắt chiếc thắt lưng hoa lí làm tôn tấm thân cường tráng; một
cái khăn vuông chít trên đầu, màu thâm của khăn, màu đen của món tóc mai tương
phản với làn da trắng hồng của cô gái vùng biển. Nhưng đẹp nhất là đôi mắt bồ
câu ngơ ngác của Mơ và tươi nhất là màu môi của cô gái.
Sững sờ nhìn Mơ, Trần Nhật Duật tưởng đâu đám cưới này là đám
cưới của ông, một đám cưới không xa hoa kiểu cách mà bình dị và hạnh phúc vô
vàn, đám cưới của hai con người bách tính lê dân không có một giọt máu quý của
kim chi ngọc điệp chảy trong huyết quản.
Theo phong tục của châu Mai không có lễ đưa trầu xin dâu,
nhưng Trần Nhật Duật cứ làm vì ông hiểu rằng nếu nhà trai tôn trọng tập tục
châu Mai thì họ nhà gái cũng sẽ chịu tất cả nghi thức của tập tục Thăng Long.
Đoàn nhà trai đi xin dâu đưa trầu chỉ có mười bốn người. Người
dẫn đầu chính là một người chị của bà Trương, một bà lão trên sáu mươi tuổi,
phúc hậu, nhiều con. Người thứ hai là Trần Nhật Duật, người thứ ba là Mơ bưng một
cơi trầu têm cánh phượng với những trái cau tròn trĩnh vỏ xanh non đã được người
con gái khéo tay ấy dùng dao nhọn trổ lên những hình chim đậu cành mai, hoặc
hai con bướm vờn nhau... Triệu Trung là người thứ tư. Viên tướng vong Tống mặc
một bộ áo lụa màu gan gà nho nhã để giấu bớt vẻ lực lưỡng gân guốc của tấm thân
trải nhiều chinh chiến. Triệu Trung chỉ huy năm người con trai và năm người con
gái đội đồ lễ. Năm người con trai đều kén trong đội dũng thủ của Hoàng Mãnh.
Năm cô con gái đều là các chị em họ của chú rể. Họ đều mang thắt lưng màu lộng
lẫy.
Cả đoàn thung dung theo gót Trần Nhật Duật tiến về bản Mai Hạ.
Chỉ có Chiêu Văn vương và Triệu Trung cưỡi ngựa. Con Bão Đêm bây giờ, quả như dự
đoán, đã thành một con ngựa tuyệt đẹp, trường mình, cổ cao, mảnh, thanh tú, bốn
vó thẳng, dài, gân guốc. Trần Nhật Duật hôm nay nom lịch sự lạ thường. Ông mặc
áo vóc tía thắt lưng xanh đi văn hài thêu chỉ bạc. Trần Nhật Duật chít một chiếc
khăn lụa màu tam giang, chiếc khăn chít khéo đã tôn thêm vẻ quý phái lịch sự vốn
sẵn có của ông. Trần Nhật Duật cầm trong tay một chiếc quạt. Đôi mắt ông long
lanh, nghịch ngợm và trẻ trung.
Trang trại nhà họ Trịnh nằm trong một cái lũng nhỏ, ba mặt là
vách núi không cao lắm. Khi mới đến cửa lũng, đoàn đưa trầu nhà trai đã nghe thấy
tiếng cười nói ồn ào vẳng lại. Đoàn đến điếm canh đầu tiên, Trần Nhật Duật làm
chủ ngay cuộc chạm trán ấy. Ông tiến thẳng đến điếm, cười ha hả bảo những chàng
trai áo chàm cầm côn vông:
- Đã chén rượu no say chưa các tráng sĩ? Nếu chưa thì đây,
hãy uống mừng cho ngày vui của em ta.
Ông bảo đoàn tuỳ tùng đưa ra một vò rượu ngon và một vai lợn
quay. Những chàng trai sơn cước dựa ngay côn gỗ vông vào vách điếm. Họ cung
kính chắp tay vái Chiêu Văn vương.
- Kính lạy đức ông.
Họ rót rượu ra bát và uống mừng Chiêu Văn vương, mừng hai họ,
mừng cô dâu chú rể, mừng tuổi trẻ và mùa hôn phối. Trần Nhật Duật mỉm cười khi
thấy trong điếm canh có cả các cô nàng sơn cước. Ở hai điếm canh sau, mọi sự
cũng diễn ra tương tự như thế. Đúng như Chiêu Văn vương đoán trước, trai gái
châu Mai coi dịp này như một hội hè linh đình, ở các điếm đều có các cô gái sơn
cước đến hát vui với các chàng trai côn gỗ vông. Uống thêm tí rượu cho long
lanh mắt, cho hồng má rồi họ dựa côn vông vào vách điếm, vác kèn lau ra thổi những
điệu xuân tình. Những chiếc váy nhiều nếp thêu màu lộng lẫy xoay đi xoay lại,
các cô gái khe khẽ hát, mắt đong đưa.Tình yêu đã gạt tập tục sang một bên và thực
ra, khi cần thì nó xếp luôn tập tục đó sang hủ tục.
Trang trại nhà họ Trịnh tưng bừng náo nhiệt. Trịnh Giốc Mật
bày hương án giữa nhà, rước biển Ân Tứ trang trọng đặt lên án. Mai Sơn hầu và
các bô lão của các bản châu Mai ra đón Trần Nhật Duật từ bên ngoài cổng lớn. Bá
tước Trịnh Mác cũng dàn đội quân dũng thủ để nửa khoe nửa doạ họ nhà trai. Trịnh
Mác vái lạy Chiêu Văn vương:
- Lạy chú, cháu nghe tin chú lên nhưng việc nhà bộn quá chưa
đem đầu đến lạy chú được.
Cũng muốn đe Trịnh Mác, Chiêu Văn vương cười bảo:
- Này ông bá tước, ở đất Thăng Long người ta giữ dâu bằng cái
cười còn lợi hại hơn côn vông đó.
Trịnh Mác cười thẹn. Anh ta đã từng biết sức mạnh chứa đựng
trong các câu nói ỡm ờ của gái kinh kì rồi. Trần Nhật Duật nhìn quanh. Khác hẳn
lần ông đến trang trại ngót ba năm về trước, nhà họ Trịnh vẫn đông người nhưng
sắp xếp ngăn nắp hơn, gia đinh dũng thủ có kỉ luật đội ngũ hơn nhiều. Điều đó
chứng tỏ những năm tháng học hành ở kinh kì của Trịnh Mác có hiệu lực và nửa
năm luyện tập dưới quyền chỉ huy của Minh tự Hoàng Mãnh, đội quân sơn cước thu
được nhiều kết quả. Ông bà Trịnh Giốc Mật mời nhà trai lên nhà sàn uống nước ăn
trầu. Cô Mơ bưng cơi trầu cánh phượng tới. Chiêu Văn vương cười nói:
- Tạ ơn Thượng hoàng ân tứ cho hai trẻ, hôm nay ngày lành
tháng tốt, tôi có cơi trầu đến trình các cụ, xin được đón em dâu tôi về nhà
riêng.
Họ nhà gái hỉ hả đón cơi trầu từ tay Mơ bưng đặt lên ban thờ
gia tiên. Ông bà Trịnh Giốc Mật tươi cười, trong khi đó chị bà Trương cứ lấm
lét nhìn Trịnh Mác cao lớn dềnh dàng đứng sau lưng cha mẹ. Hôm nay là lễ cưới của
chị gái Mác nhưng anh ta mặc quần áo chiến ngắn tay, hẹp ống, cổ áo không cài
hai khuy bên trên để hở một chút lồng ngực vuông nở. Mác đeo một chiếc hoa tai
bạc bên tai phải, chiếc khăn chàm quấn thật to. Nom Mác dữ tợn tuy cái miệng rất
tươi cũng không kéo lại được.
Đôi bên mời lẫn nhau một vài tuần trà nước trầu thuốc. Đã sắp
đến lúc đoàn xin dâu ra về. Bỗng đâu có tiếng tù và văng vẳng đưa lại. Trịnh
Mác bước ra sân ngoài nhưng thình lình Triệu Trung cầm chiếc áo khoác vẫn vắt
vai, trùm lên đầu Trịnh Mác. Chiêu Văn vương và các dũng thủ Thăng Long nhảy phắt
ra cửa. Họ tháo luôn thắt lưng, dùng mấy sải lụa màu làm thành một thứ binh khí
lợi hại. Chỉ một thoáng, họ đã cướp được mấy chiếc côn gỗ vông và chia nhau người
trấn cửa lớn, người chẹn cửa sổ. Triệu Trung dùng sức giật chiếc thang gỗ ra
ném luôn cái thang xuống vườn dưới.
Từ mé vách núi sau nhà, có mấy người bám chão tụt xuống. Đó
là Hoàng Mãnh và mấy anh phù rể nữa. Họ xông qua cửa trang trại vào sân trong.
Họ la tưởng như đến mấy chục người.
Trịnh Mác đã gỡ được cái áo trùm đầu. Ông bá tước trẻ tuổi mặt
đỏ phừng phừng nhảy từ sân nhà cao xuống sàn để giúp các đinh tráng bên họ nhà
gái. Chỉ thấy giải lụa xanh trong tay Chiêu Văn vương múa phần phật, Trịnh Mác
bị lụa quấn chân giật ngã chổng kềnh ra đất.
Đánh lúc đối phương không phòng bị. Lẽ thường của binh pháp
đã giúp cho họ nhà trai chiếm ưu thế hoàn toàn trong trang trại Trịnh Giốc Mật.
Từ lối cổng chính, những ngũ dũng thủ Thăng Long khác cũng đã mở thông đường
xông vào tiếp tay. Chiêu Văn vương quát giật giọng bảo Hoàng Mãnh:
- Đi cho mau! Kìa!
Hoàng Mãnh xông về phía bếp. Nàng Hai đang coi sóc gia nhân
làm tiệc trong đó! Đám đàn bà chạy re lên sàn trên vừa chạy vừa cười hoảng sợ.
Mãnh gọi nàng Hai:
- Nàng ơi! Ra sân mau!
Nhưng kì lạ thật, nàng Hai quắc mắt cầm luôn cái cặp tre cời
bếp giáng cho Mãnh một cái vào đầu. Mãnh ngẩn người nhìn cô vợ chưa cưới xong.
Nàng Hai nổi cáu nói dỗi:
- Cướp đi chứ nhìn gì? Này nhìn này!
Và cô nàng lại giáng cho Mãnh một cặp cời lửa nữa. Nhưng lần
này thì cô nàng không đánh trúng. Mãnh bắt cái cặp cời lửa giật phắt lấy quẳng
đi. Anh sấn đến bốc nàng Hai vác lên chạy ra sân trong khi cô nàng vừa kêu cứu
vừa đấm thùm thụp hai tay vào lưng Mãnh.
Trần Nhật Duật vừa đỡ cây côn gỗ vông của Trịnh Mác vừa liếc
mắt theo dõi em nuôi. Chiêu Văn vương hô:
- Con Bão Đêm!
Hoàng Mãnh hiểu ý chạy ra cổng lớn. Mơ đã tháo cương con Bão
Đêm đứng chờ sẵn ở đấy. Nàng Hai giãy giụa. Mãnh phát cho nàng Hai một cái thật
lực vào lưng làm cho cô nàng phải kêu lên vì đau và sung sướng. Anh đang sắm nắm
nhảy lên lưng con Bão Đêm thì chợt cô nàng kêu toáng lên:
- Có người kìa! Có người kìa!
Mãnh ngoảnh nhìn. Trịnh Mác đang vung cái côn gỗ vông xông đến
đánh một đòn bổ thượng. Mãnh không đỡ và cũng không đánh lại. Anh rê cương, cả
con ngựa và Mãnh lướt sang một bên. Cây côn gỗ vông giáng hụt xuống đất gãy làm
đôi... Một nhún chân, một gót chân thúc mạnh, Hoàng Mãnh nghe gió reo vui bên
tai. Con Bão Đêm hí một tiếng vang lên mừng rỡ. Nó cất vó nhảy vọt qua đám trai
sơn cước của điếm canh thứ nhất. Con ngựa tung bờm giang rộng vó phi nhanh.
Hoàng Mãnh tưởng như con ngựa có cánh. Anh không nghe tiếng vó ngựa, chỉ nghe
thấy tim đập nhanh và tiếng đập của một trái tim nữa kề sát trái tim anh.
Ngay hôm nhị hỉ của vợ chồng Hoàng Mãnh, Chiêu Văn vương phải
lên đường về kinh vì có chỉ vua triệu rất gấp. Chiêu Văn vương cười bảo hai em:
- Ta cũng muốn đưa hai em về nhị hỉ bên nhà gái. Ta với hai
em là chỗ thân tình, cho nên chẳng sợ ai cười là tham ăn đến nỗi dự cả cỗ giáp
mông đâu. Ngặt vì có chỉ vua triệu gấp. Trước khi ngược sông Đà, Thượng hoàng
đã hẹn sẽ giao cho ta một việc quan trọng. Ta cũng tưởng ít nhất cũng phải dăm
bữa nữa, nào ngờ có chỉ triệu gấp thế nên ta phải xuôi ngay hôm nay.
Đám cưới của Hoàng Mãnh thế là xong xuôi êm đẹp cả. Sau khi
Hoàng Mãnh cướp được nàng Hai đem về Mai Thượng thì họ nhà trai mới dềnh dàng
kéo xuống Mai Hạ. Nhà gái hỉ hả mời khách dự một bữa tiệc gồm toàn món sơn hào
quý. Hoàng Mãnh và các dũng thủ phù rể đến Mai Hạ thấy Chiêu Văn vương ngồi nói
chuyện thân mật với ông bà Trịnh Giốc Mật. Bá tước Trịnh Mác cũng thay bỏ áo
chiến, mặc áo dài gấm xanh tay thụng. Anh ta đón anh rể từ cổng. Họ tay bắt mặt
mừng đưa nhau lên nhà sàn lạy chào ông bà Mai Sơn hầu và Chiêu Văn vương. Trẻ
con thôn bản đốt những chiếc pháo lệnh nổ như sấm. Các chàng trai và cô gái kéo
nhau đến xem mặt chú rể làm cho Hoàng Mãnh vốn táo tợn cũng phải thẹn rúm người
lại. Thế rồi rượu cần kèn lau, ông già bà già thì ăn uống với nhau trên nhà
sàn. Đám trẻ chẳng thiết ăn uống, tiệc chuyển thành hội, người ta kéo nhau ra sân,
ra vườn, dìu nhau xuống suối lên rừng. Tiếng kèn lá, đàn môi nỉ non đó đây. Tiếng
kim chen tiếng thổ, trai gái hát đối đáp nhau những lời ướm hỏi hẹn hò, nhờ rừng
núi chứng giám cho lời thề yêu nhau chung thuỷ suốt đời.
Chập tối, Chiêu Văn vương về Mai Thượng. Ông bàn với bà
Trương là sẽ đưa bà và dâu con về Thanh Hoá lễ tổ bên ngoại chú rể và ăn tết
cơm mới tháng mười ở đó luôn thể. Nhưng nửa đêm quan khâm sai mang chỉ vua lên
đến nơi. Thế là ngày nhị hỉ chỉ còn bà Trương và cô Mơ đưa cô dâu chú rể về nhà
gái. Hoàng Mãnh đã trả vợ cái vòng vía. Cô dâu đền chồng một chiếc xuyến bạc
đeo tay “cho nhớ”.
Khi từ biệt bà nhũ mẫu, Chiêu Văn vương nói:
- Việc châu Ái, em vẫn lưu tâm, chị dưỡng đừng lo.
Bà Trương cười gượng. Số là ở quê bà có một người con gái tiến
cung làm cung nữ triều tiên đế Trần Thái Tông. Tiên đế ban cho bà ta một cái
bãi dâu ven con sông chảy qua làng để ăn lộc. Thiếp ban cho bà ta ghi rõ cái
bãi rộng ba mươi mẫu. Nhưng trải qua mấy chục năm ròng, cái bãi được con sông bồi
phù sa rộng ra gấp mấy lần. Dân làng tiếp tục khai phá phần đất mới. Chủ bãi đợi
đất khai phá trồng trọt đã thuần thục mới ỷ quyền thế đòi đất. Dân làng cử ông
câu đương họ Trương viết đơn trình quan trấn thủ để xin quan khu xử cho dân được
trồng tỉa phần đất trời cho. Nhưng quan trấn thủ cũng sợ uy thế bà cung phi
đành khuyên dân làng chẳng nên đương đầu với bà ta. Dân làng ấm ức lắm. Ông câu
đương cũng vậy. Nhân lễ cưới Hoàng Mãnh, người làng đi châu Mai theo bà Trương.
Ông câu đương dặn con gái nói với bà Trương để bà nhờ Chiêu Văn vương can thiệp
giúp. Chiêu Văn vương trong một lần về thái ấp Vạn Kiếp với Hưng Đạo vương, được
ông dẫn đi xem những đồng ruộng, đất bãi trong thái ấp và giảng giải cho em
nghe về tình cảnh người dân trong đồng quê và sự cần thiết ruộng đất đối với họ,
Trần Quốc Tuấn đã dặn em:
- Vua lấy dân làm trời. Còn dân lấy ăn làm trời. Em chớ nên
coi thường bí quyết cầm quyền chính đó.
Vì thế, khi nghe bà Trương nói việc, Chiêu Văn vương bằng lòng
ngay. Ông biết bà cung phi này rất quý ông, lại còn rất nể ông nữa. Ông nói chắc
bà dễ xuôi tai. Nhưng nếu bà không nghe thì Chiêu Văn vương sẽ đem phần đất bãi
dâu của chính ông ở bãi sông Cơ Xá ngay cạnh kinh thành để đổi cho bà ta. Thế
là xong thôi.
Việc đi châu Ái lần này với lí do thu xếp đất bãi và ăn tết
cơm mới thực ra che giấu ước muốn của Chiêu Văn vương được trở về một nơi lưu
giữ khoảnh sâu sắc thắm thiết trong lòng ông. Ông nhớ những rặng dừa lao xao
trưa hè, nhớ tiếng hò vời vợi của những người lái bè trên dòng sông Mã mênh
mang, nhớ những con đường làng quanh co, vệ đường lấm tấm những bông hoa cỏ trắng
tinh khiết, tầm thường nhưng ý nhị và kín đáo, nhớ tiếng nói tiếng cười quen
thuộc ở một nếp nhà quen thuộc.
Ấy thế rồi lại không về được châu Ái. Trần Nhật Duật hấp tấp
từ giã bà Trương và Mơ. Ông muốn hẹn một ngày về thăm cái làng nghèo ven biển
Đông nhưng đã mấy lần hẹn và cả mấy lần thất hứa rồi.
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo.
Nói ra câu ấy bây giờ chẳng xuôi. Trần Nhật Duật ngậm ngùi
lên ngựa. Con Bão Đêm như hiểu lòng chủ, nó gằm cổ quẩn mấy vòng thương nhớ
trên trảng đất đầu làng Mai Thượng trước khi cất vó phi về hướng nam.
Chương 8
Hai ngày sau, Trần Nhật Duật và đoàn tuỳ tùng về đến Thăng
Long. Trần Nhật Duật lập tức tiến triều.
Trước cung Thánh Từ là thư phòng của Đinh Củng Viên, ông quan
giữ chức Hành khiển nội cung của Thượng hoàng Thánh Tông. Trần Nhật Duật được
Đinh Củng Viên cho biết Thượng hoàng đang bàn việc với đức ông Chiêu Minh và chỉ
bàn tay đôi. Ông tính ngồi chờ ở thư phòng của Đinh Củng Viên nhưng một viên nội
giám đã từ trong cung Thánh Từ ra thưa với Chiêu Văn vương:
- Thượng hoàng truyền triệu đức ông vào chầu hầu.
Chiêu Văn vương vào lạy chầu hai anh. Ông thấy cả hai người đều
mặc áo lụa mát và chắc rằng họ đã làm việc lâu rồi vì bên cạnh, trên một cái
bàn tròn thấy bày đầy bánh trái và chè ngọt mà một số đĩa đã bị khuyết. Chiêu
Minh vương cười:
- Thế nào, ông mối đã bị ăn cái đấm cái đạp nào chưa?
Trần Nhật Duật cũng cười:
- Thưa anh, chỉ bị uống cả rượu phạt lẫn rượu thưởng thôi ạ.
- Thế nào là rượu thưởng mà thế nào là rượu phạt?
- Dạ, thưởng công ông mối lương duyên còn rượu phạt của các
cô gái châu Mai...
- Hẳn là phạt những người đi đất khác chứ gì?
- Dạ đúng thế.
Thượng hoàng bảo:
- Tốt lắm, em về đây vừa hay. Ta đang mong. Này chú Ba, thế
thì việc tuần sát vùng biển ta giao cho Quốc Tảng.
- Chọn người ấy là đúng nhưng ta không nên vượt quyền đức ông
Hưng Đạo. Tuần sát là việc quân. Đã là việc quân thì phải do nguyên soái chọn
tướng.
Trần Nhật Duật ngẩng nhìn hai anh chăm chú. Trần Quang Khải
hiểu ý em nói ngay:
- Chúng ta đã quyết định giao quyền Tiết chế các quân cho đức
ông Hưng Đạo. Việc chọn tướng sẽ do anh trưởng quyết định lấy.
Thốt nhiên Trần Nhật Duật nghĩ tới câu luận bàn về anh hùng của
đức ông Hưng Đạo. Phải chăng Chiêu Minh vương là một người anh hùng, một người
hiểu mình, hiểu người và biết thắng mình?
Thượng hoàng giao cho Chiêu Văn vương một công việc quan trọng.
Đó là việc thu xếp mọi mặt cho một cuộc họp quan trọng đông người. Thượng hoàng
dặn em:
- Họp đông nhưng bàn việc lớn. Phải giữ cho thật kín đáo. Ăn
uống chè rượu phải biện tại chỗ mà phải đề phòng quân gian tế bỏ độc. Em nên nhớ
bọn vua chúa phương bắc thời nào cũng ỷ mình là thiên triều, chúng không thể
nào bỏ được mộng xâm lăng nước ta đâu. Chỉ duy cái sự có mặt của nước Đại Việt
ta ở phương nam cũng đã làm cho chúng tức tối ghen thù rồi đó.
Trần Nhật Duật hỏi Thượng hoàng về đất họp ở đâu? Thượng
hoàng trầm ngâm suy nghĩ giờ lâu rồi mới đáp:
- Ở vùng Lục Đầu Giang!
Trần Nhật Duật nhìn anh đăm đăm. Ông đã hiểu rằng một khi đã
định giao quyền nguyên soái cho một người chi Vạn Kiếp thì hai anh mình đã tính
đến mọi lẽ hơn thiệt, nhưng chọn Lục Đầu Giang làm nơi hội họp là một quyết định
can đảm của Thánh Tông sau khi đã nghiền ngẫm thấu đáo lòng người. Sông Lục Đầu
nằm trong miền đất phân phong của chi trưởng. Ngày xưa Hiển hoàng Trần Liễu được
phong thái ấp ở vùng này. Về sau các đức ông của ngành Trưởng đều được ban
phong thái ấp quanh sông Lục Đầu từ địa giới lộ Lạng Giang cho tới vùng quần đảo
Vân Đồn, Ngọc Sơn, Bạch Long Vĩ... Từ đó chi trưởng thành tên là chi Vạn Kiếp.
Đi phó hội ở vùng sông Lục Đầu chính là đến họp trong đầm rồng ổ cọp của chi
trưởng. Ông hỏi Thánh Tông:
- Thưa anh, ta lấy bao nhiêu quân túc vệ?
Thánh Tông mỉm cười:
- Lấy quân túc vệ lần này thì nhiều đến đâu cũng không đủ. Mà
đã an toàn thì không đem quân tuỳ thân cũng vẫn an toàn. Em hãy lấy một quân là
cùng. Cũng là để giữ cho tai mắt giặc ở Thăng Long không nhận ra. Còn thì lấy
quân gia đồng bản thổ. Họ vừa hầu hạ trong cuộc họp vừa canh phòng.
Dùng quân gia đồng bản thổ có nghĩa là dùng quân của các
vương hầu chi trưởng! Hai anh của Trần Nhật Duật thật đã biết đánh tan mối hiềm
nghi nếu có trong lòng các đức ông chi Vạn Kiếp. Trần Nhật Duật thấy mình không
một chút e ngại. Ông tin ở sự xét đoán người của mình, ông tin ở sự sâu sắc của
anh ruột. Tình nghĩa máu mủ tông tộc trong vài năm lại đây cũng đã mỗi lúc mỗi
tốt đẹp hơn. Đó là cái cớ để mà vững tin.
Ở hoàng cung ra về, Chiêu Văn vương sắp sửa ngay việc lên đường
đến vùng Lục Đầu Giang vào sáng hôm sau. Buổi chiều, Chiêu Quốc vương đột ngột
đến vương phủ Chiêu Văn. Tuỳ tùng cận vệ chỉ có một gã đô vật đã từng nổi tiếng
lừng lẫy một thời bây giờ giải nghệ và giữ việc dạy võ nghệ cho đội quân gia nô
của vương phủ Chiêu Quốc. Gã ta cũng có tên huý tên hèm nhưng bằng ở khổ người
và tật tính, người ta chỉ gọi gã là Đô Trâu.
Chiêu Quốc vương nói là nghe tin Trần Nhật Duật ở sông Đà về
nên đến chơi thăm em. Nhưng cách nói năng của Chiêu Quốc vương khác mọi khi mặc
dù cái khác đó rất kín đáo và nhỏ bé.
Mọi việc thu xếp để lên đường đã ổn thoả rồi, Trần Nhật Duật
hồ hởi tiếp anh. Ông đưa Chiêu Quốc vương vào đình sen. Mùa này sen đã hết hoa,
lá úa và xơ xác rách nát, cảnh đình sen đẹp một vẻ tiêu sơ. Trần Nhật Duật sai
pha trà cỗi châu Mai đãi anh. Thị nữ hầu trà bưng lên hai chén trà men nâu có nắp
đậy, đặt trên một cái khay chạm.
Chiêu Quốc vương mở nắp một chén trà, khói thơm bốc lên thoảng
qua.
- Trà cỗi tháng thu! - Đôi mắt Chiêu Quốc vương sáng lên. Thật
là một đôi mắt đẹp, đuôi mắt dài, màu đen thăm thẳm. Những lúc Chiêu Quốc vương
lim dim mắt, người ta có cảm giác như màn đêm phủ xuống không gian bí mật...
Chiêu Quốc vương nhắp một ngụm trà. Thứ trà có pha thêm gỗ cây mai già mọc trên
núi đá châu Mai quả có hương vị đặc biệt. Chiêu Quốc vương chợt mỉm cười, mắt
sáng lên nhìn em, ngâm khẽ:
Bạch vân nhất phiến khứ du du
Thanh phong phổ thượng bất thăng sầu
Thuỷ gia kim dạ thiên chu tử
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu 1
Chiêu Văn vương cười gượng. Trần Ích Tắc vốn có một ma lực hấp
dẫn rất mạnh. Ở chỗ vắng hay ở chỗ đông người, mặc dù Ích Tắc ít nói nhưng vẫn
là cái xoáy mà nước chung quanh cứ cuồn cuộn xoay tròn. Ít lâu nay, Trần Ích Tắc
và Tô Nghĩa Đông thường tụ họp với vài danh sĩ áo gấm để thưởng thức những thi
phẩm cùa phái thơ Hoa gian. Những thi phẩm này lời lẽ bóng bẩy, tứ thơ lẳng lơ
đã một thời được thi nhân tài tử triều Nguỵ Tống ngâm ngợi. Người ta gọi các
thi sĩ phái thơ này là thi sĩ phái Hoa gian hay phái Hoa nguyệt, phái thơ của
những kẻ miệt mài trong những đêm trai gái truy hoan.
Câu thơ Trần Ích Tắc vừa ngâm, gợi đúng cái nút thắt trong
lòng Trần Nhật Duật nhưng Chiêu Quốc vương nói về việc này mà thực ra đang nghĩ
về việc khác. Con người ấy biết tạo cho mình một bộ mặt đẹp, một dáng điệu ung
dung tưởng như một con người thoát tục, không một chút bụi trần vương tới,
không một thú vui trần tục nào quyến rũ được, nhưng tất cả chỉ để che giấu những
khát vọng luôn luôn thay đổi và càng ngày càng mạnh hơn, càng ngày càng đen tối
hơn.
Bây giờ thì Chiêu Quốc vương lại cụp mi mắt xuống
- Em sắp đi đông bắc à?
-...
- Thượng hoàng đã giao cho ta việc đó nhưng ta từ chối không
nhận. Ta chẳng muốn làm việc gì mà trong lòng không muốn.
Mặc dù đã nhiều năm trước đây, Chiêu Quốc vương là thần tượng
của Trần Nhật Duật nhưng lần này Chiêu Văn vương vẫn im lặng nhìn anh. Một làn
heo may nhẹ thổi. Bức tranh lụa cổ vẽ cảnh Lưu Linh say ngủ bay lên, đầu trục gỗ
gõ lộp cộp vào ván vách. Chiêu Văn vương cũng không hề có ý định giấu anh việc
đi đông bắc. Ông biết đây là một việc trọng yếu mà Thượng hoàng và Thái sư
Chiêu Minh vương đã đắn đo kĩ trong việc chọn người để giao việc. Ông chỉ nghĩ
rằng Chiêu Quốc vương đáng được giao việc ấy và ông cũng ngạc nhiên tại sao anh
mình lại từ chối không nhận nó.
Chiêu Quốc vương trầm ngâm nhưng không phải vì nghĩ về công
việc mà là thử trầm ngâm để tìm lời thích hợp với ý nghĩ.
- Con đường đông bắc mạo hiểm quá!
- Không! Đó là con đường tất phải đi!
Chiêu Văn vương không kìm được phải thốt lên. Trần Ích Tắc
nhìn em. Ích Tắc không muốn tranh cãi với em. Xưa nay Ích Tắc chưa hề làm như vậy
mỗi khi có ý kiến khác ý kiến của mình về một việc gì đó. Ông ta quen để cho mọi
việc tự nó nó đến sau khi ma lực hấp dẫn của mình đã hoành hành. Chiến thắng tự
nhiên sẽ đến như một trái chín bình thản rụng về gốc.
- Thế tất phải như vậy! - Chiêu Văn vương tiếp:
- Giặc đang lăm le ngoài bờ cõi, triều đình và tông thất phải
thành một khối bền vững, mối đại thống phải như rễ sâu gốc chắc mới mong chống
trả với giặc được.
Chiêu Quốc vương chỉ cười và gọi Đô Trâu vào, sai gã về vương
phủ lấy một bọc quà tặng. Đô Trâu đi rồi, Chiêu Quốc vương mới thủng thẳng nói:
- Giặc ngoài chỉ mới lăm le nhưng thù trong đã có sẵn từ mấy
đời rồi.
Chiêu Quốc vương bằng một cách nói hết sức bình thản, nhắc lại
cho em nhớ đến cuộc nổi loạn của Vũ Thành vương Trần Quốc Doãn hai mươi nhăm năm
về trước.
Bấy giờ vào thời Nguyên Phong, niên hiệu của tiên đế Trần
Thái Tông, nhà Nam Tống đang bị quân Thát Đát tung hoành cả một đất nước mênh
mông. Phương bắc lại bị triều đình nhà Kim của người Khiết Đan bức bách. Tướng
Thát Đát cho một cánh quân từ phía tây đánh vòng xuống phía nam quân Tống. Mũi
tiến quân của chúng rõ ràng sẽ phải tràn qua đất Việt ta. Triều đình họp bàn
cách chống giặc. Tình thế đất nước lúc đó không khác gì bây giờ cả. Lẽ tất
nhiên, tiên đế Trần Thái Tông và Thái sư Trần Thủ Độ cũng đặt ra việc giữ cho bền
vững mối đại thống những mong nhờ cậy ở đó để trường sức chống giặc.
- Thế mà em thử nhớ lại coi, trước khi giặc tràn tới. Vũ
Thành vương dẫn cả gia quyến và quân bản bộ bỏ trốn ra khỏi biên thuỳ theo quân
Tàu của nhà Tống.
Trần Ích Tắc trầm ngâm, hai mi mắt cụp xuống nhìn đăm đăm
gương mặt băn khoăn của em.
Vũ Thành vương Trần Quốc Doãn là anh ruột của Hưng Đạo vương
Trần Quốc Tuấn. Năm ấy Vũ Thành vương định vượt biên thuỳ phía bắc nhưng chỉ ít
lâu sau, triều đình bắt được Doãn và cả gia quyến. Triều đình nghị tội khép vào
đại nghịch và trừng trị thật nặng. Thế rồi giặc tràn đến và cuộc kháng chiến chống
giặc Thát lần thứ nhất xảy ra. Tướng giặc Ngột Lương Hợp Thai, vốn dòng Khiết
Đan, dẫn một đạo quân thiện chiến bao gồm những tên lính Thát Đát cưỡi ngựa, những
tên Ô Man chuyên đánh rừng và quân Hán miệt Xuyên Thục. Giặc tràn vào lộ Quy
Hoá. Quân ta cũng dàn trận ngăn giặc từng bước một. Thế giặc mạnh quá, chúng tiến
quân qua bãi bằng Binh Lệ, chúng đánh chiếm bến đò Phù Lỗ và tràn xuống Thăng
Long. Thế mà quan dân cả nước không nao núng vẫn bình tĩnh chống đánh. Những trận
mai phục đánh giập đầu, đánh chẹn hậu, cướp lương, bắt ngựa diễn ra khắp nơi
làm cho giặc càng ngày càng khốn quẫn. Giáp tết năm Nguyên Phong thứ bảy vua ta
đưa binh thuyền ngược sông Thiên Mạc đánh giải phóng kinh thành. Và sau chiến
thắng lẫy lừng ấy, thừa thế quân ta đuổi tràn đi, đuổi luôn thẳng cổ lũ giặc ra
khỏi đất nước. Một viên tướng lúc ấy còn trẻ đã lập công to, tiết chế mọi việc
quân mạn đông bắc một cách xuất sắc và dũng cảm. Người đó là Trần Quốc Tuấn. Sử
sách chép cuộc chiến tranh ấy là chiến thắng thời Nguyên Phong.
Nhắc đến chuyện xưa, Chiêu Văn vương băn khoăn. Ông thấy kiến
giải của Chiêu Quốc vương nghiệt ngã và không công bằng với người chi trưởng.
Vũ Thành vương làm phản, đó là một sự thực nhưng Hưng Đạo vương lập công lớn
cũng là một sự thực nữa. Đã bắc cân thì phải cân cho đầy đủ và trọn vẹn mọi bề.
Trong lúc giao việc cho Chiêu Văn vương, Thượng hoàng Thánh Tông đã nói tỉ mỉ
tâm sự của mình cho ông nghe. Chiêu Văn vương cho rằng cách nghĩ của Thượng
hoàng là đúng. Cách nghĩ của Chiêu Minh vương cũng đáng phục nữa. Đó chính là
những người hiểu mình và biết dẹp đi những riêng tư của mình. Muốn thắng giặc
thì tông tộc phải đại thống, muốn đại thống thì chi thứ phải làm trước tất cả mọi
điều cần thiết để dẫn đến sự tin cẩn giữa hai chi. Hình như Chiêu Quốc vương đọc
được những suy nghĩ của em. Ông ta bình thản nói tiếp:
- Ai chẳng mong tông tộc đại thống, thiên hạ đại thống. Nhưng
em nên nhớ mối bất hoà trong họ nhà ta đã truyền từ đời ông qua đời cha. Này nhớ
tiên đế và Hiển hoàng, anh hoàng Ba và Hưng Đạo vương, Nhân Huệ vương Trần
Khánh Dư và Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Tá Thiên vương Trần Đức Việp và
Chương Hiến hầu Trần Kiện... Thế là cứ từng đôi một, đôi một giữ nhau từng miếng
kể đã bốn đời.
- Chương Hiến hầu là người của chi thứ, đâu phải là người của
chi trưởng.
Trước câu thốt lên của Trần Nhật Duật, Trần Ích Tắc chỉ cười
nhạt nhìn em. Mãi sau, Chiêu Quốc vương mới nói:
- Chắc vương đệ phải hiểu tại sao tiên đế lại nhường ngôi cho
anh hoàng Hai mà không nhường ngôi cho đức ông Tĩnh Quốc?... Là vì phụ hoàng biết
chắc người ấy không phải là con của mình rồi.
Đó là một vết nhơ trong gia đình mà Chiêu Văn vương xưa nay vẫn
xua đuổi không muốn nghĩ tới. Nó không hợp với tâm hồn bình dị, trong lành của
ông. Chiêu Quốc vương nói:
- Không nói tới thì thôi mà đả động đến nó thì phải bàn cho đến
cùng kì lí. Vậy thì Nhân Huệ vương phạm tội gì mà bị trừng phạt nghiêm ngặt thế?
Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư vốn là cháu nội của Thái sư Trần
Thủ Độ. Thời Nguyên Phong, Trần Khánh Dư đánh giặc có công lớn được Trần Thái
Tông yêu quý nhận làm con nuôi. Vì là thiên tử nghĩa nam nên Nhân Huệ vương được
giao chức Phiêu kị Thượng tướng quân, tên gọi khác của Điện tiền Nguyên soái.
Đó là một chức trọng yếu, cần người thật tin cẩn thân thiết, xưa nay chỉ có các
thân vương hoàng tử mới được trao. Nhân một tiệc rượu mo nang, Nhân Huệ vương gặp
công chúa Thiên Thuỵ, vợ của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, là nàng dâu trưởng
của Trần Hưng Đạo. Hai bên bằng lòng nhau rồi phải lòng nhau. Việc vỡ lở ra và
Trần Thái Tông sai nọc con nuôi trên bờ hồ Dâm Đàm để đánh cho kì chết, nhưng lại
dặn dũng thủ đánh nương tay. Dũng thủ bèn đánh chúc mũi côn cho chạm đất cho
nên đánh tới một trăm hèo mà Trần Khánh Dư vẫn còn sống. Thế là theo bộ luật
Hình Thư, đánh tới một trăm hèo mà chưa chết coi như trời tha, Trần Khánh Dư bị
tịch biên gia sản đuổi về làm dân. Bây giờ ông đang làm một nghề lam lũ gì đó ở
vùng Chí Linh để sinh sống. Bởi vì ở vùng Chí Linh cha của Trần Khánh Dư là
Nhân Thành hầu Trần Phó Duyệt còn để lại một trang trại nhỏ ở đó.
Chiêu Văn vương cưỡng lại nho nhỏ:
- Nhưng mà tại Nhân Huệ vương đã bôi xấu cho gia đình đức ông
Hưng Đạo.
Chiêu Quốc vương mỉa mai:
- Thế còn đức ông Hưng Đạo thì tô vẽ đẹp đẽ cho nhà Trung
Thành vương chắc?
Chiêu Văn vương im lặng nhưng không cho lời Chiêu Quốc vương
là đúng cả. Giữa Hưng Đạo vương và công chúa Thiên Thành vốn đã có một lời hẹn
ước, vả chăng Hưng Đạo vương không có dã tâm gây chuyện với Trung Thành vương.
- Em còn nhỏ tuổi mới lớn lên nên chưa hiểu hết mọi uẩn khúc
đó thôi. Cha sai đánh anh Trần Khánh Dư nhưng lại sai dũng thủ đánh chúc mũi
côn xuống cho nên anh ấy mới thoát chết. Chẳng qua chi thứ chúng ta nhường chi
trưởng mọi điều chỉ trừ có một...
- Sao cơ?
- Chỉ trừ một khi chi trưởng đòi ngai vàng. Nếu có, trị ngay,
trị đến nơi đến chốn. Ví như cả nhà Vũ Thành vương vậy. Còn lần này chính là cơ
hội để họ đòi cái đó. Mà như thế là không được.
Vừa lúc đó, Đô Trâu bước vào đình sen đưa trình Chiêu Quốc
vương một cái bọc. Trần Ích Tắc đón lấy bọc trao cho Trần Nhật Duật:
- Thôi, đã nhận mệnh vua thì hãy làm cho tròn đạo thần tử. Ta
có cái này cho em, may ra giúp em được chút gì nữa cũng hay.
Trần Nhật Duật giở cái bọc ra xem. Đó là một cái áo giáp ngắn
không tay kết bằng những vảy đồng thau rất khéo. Chiêu Quốc vương từ biệt ra về.
Đứng ở cổng chính vương phủ, Chiêu Văn vương nhìn lơ đãng theo cái kiệu sơn
then đang đi xa dần. Ông suy nghĩ miên man...
Không! Oan cừu nên cởi không nên buộc, oan cừu tuy còn nhưng
đâu đến nỗi nặng nề như anh ta đã nói. Ta đã gặp trên gác Ngoạn Hoa một bằng chứng
rõ ràng. Đó là chậu tùng Yên Tử, tiêu biểu cho đức độ quân tử. Ta lại chẳng kết
nghĩa đá vàng với một người thù nghịch cũ là Mai Sơn hầu đó sao? Điều cốt yếu
là phải có một mục đích cao cả làm cốt lõi cho tình người. Nhưng vì cớ gì mà
lòng ta xốn xang thế này? Có ai đó làm ơn chỉ cho ta khúc nhôi ấy? Thốt nhiên
Trần Nhật Duật nhớ đến nỗi lo lắng của bà nhũ mẫu về ông. Chao ôi những bà mẹ,
những bà mẹ hiền có sự mẫn cảm cực kì linh diệu! Mẹ đã nhiều năm bú mớm cho
con, nâng giấc con những lúc con ươn, chăm bẵm con những lúc con chơi nhởi, hồi
hộp chờ những thành tựu của con và lo lắng trước cho những thất bại của con. Mẹ,
chỉ những bà mẹ mới nhìn thấy những gì chưa xảy ra trong đời một đứa con...
Trần Nhật Duật trở lại đình sen. Ông nghĩ về mình và bây giờ
ông hiểu rằng có những cái tưởng như chẳng có gì bí hiểm nhưng định hình chúng
cho được cũng không phải là dễ dàng. Lòng dạ con người thật là một cõi bao la
vô định.
Lại một cơn heo may nhẹ, bức tranh Lưu Linh gõ trục vào ván
vách. Còn ở trên sập là cái bọc áo giáp ngắn, loại giáp mặc sát người, kín đáo
mà nhẹ nhõm.
Hai ngày sau, Trần Nhật Duật đã xuôi thuyền đến Vạn Kiếp, ấp
phong của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Các con của Hưng Đạo vương cũng đều ở
thái ấp này cả mặc dù họ đều được phong vương và phong ấp ở nơi khác. Trần Nhật
Duật đến Vạn Kiếp để tuyên chiếu mật của Thượng hoàng giao trọng trách cho đức
ông Hưng Đạo phải giúp Chiêu Văn vương sắp xếp việc canh phòng tuần sát, làm
nhà cửa và biện lương cho một cuộc triều hội bí mật sẽ diễn ra trên miền đất
phong của mình. Mật chiếu cũng tuyên giao cho Trần Quốc Tuấn việc truyền báo
cho các đức ông chi Vạn Kiếp biết mà giúp sức và về dự cuộc triều hội.
Trần Nhật Duật khi tuyên chiếu, nhận thấy vầng trán dạn dày của
Trần Quốc Tuấn nhuốm bâng khuâng. Những ý nghĩ gì đang chuyển vần trong khối óc
trí lự kia?
Trần Nhật Duật được Trần Quốc Tuấn đưa đi xem cảnh thái ấp.
Phong cảnh Vạn Kiếp đẹp một vẻ hùng tráng. Ba bề núi, một mặt sông. Thái ấp nằm
lọt giữa vùng sông núi ấy. Trần Quốc Tuấn đã lập một khu nhà dựa lưng vào núi
Phượng Hoàng. Vài chục năm trước đạo sĩ Huyền Vân đã đến đây lập cái quán tre
trúc lợp cỏ đặt tên là quán Lệ Kỳ. Phong cảnh đất này quả xứng đáng với người
muốn lánh đời để tu tiên. Đứng ngay trên thềm chính đường của thái ấp, người ta
có thể nhìn thấy hai ngọn núi nhỏ nằm sát bờ sông như hai đồn binh thiên nhiên
canh giữ cho thái ấp. Tô Nghĩa Đông có lần đến chơi thái ấp, nhìn thấy hai quả
núi đó, khen thế núi đẹp, đặt tên chúng là núi Nam Tào, Bắc Đẩu nhưng người Vạn
Kiếp không thích những cái tên nhuốm màu sắc phong thuỷ đó. Họ vẫn cứ gọi núi
đó là núi Thuốc.
- Trên ấy, đám trẻ ấp này có trồng được vài giống thuốc quý.
Trần Quốc Tuấn cắt nghĩa cái tên núi Thuốc cho em nghe. Ông
chỉ ra xa:
- Cái bãi mờ mờ xa kia là hòn Châu. Sáu đầu sông như sáu con
rồng quay đầu lại vờn hòn Châu ấy.
Trần Nhật Duật nhìn cái doi bãi xa tít tắp một màu xanh non.
Sông Lục Đầu mênh mông. Vòm trời Lục Đầu đầy mây mùa thu trôi giạt bềnh bồng.
Trên cánh đồng nhỏ trước cửa thái ấp, những chấm cò trắng đỗ la liệt, những gia
nô đang gặt gấp vụ mùa. Đã lâu lắm, Trần Nhật Duật mới được đằm mình vào cảnh sống
một thái ấp đồng quê vụ mùa. Trần Quốc Tuấn rủ em:
- Ta xuống đồng xem đi.
Ý ông muốn cho Trần Nhật Duật hiểu cảnh một nắng hai sương của
nhà nông. Điều đó thật có lợi cho một người quyền quý quen sống thị thành như
Chiêu Văn vương. Hai đức ông đi qua khu nào trong thái ấp cũng thấy gia nô tíu
tít làm việc.
Hương lúa phơi được nắng bốc lên phảng phất như mùi cốm. Những
đàn gà lăn xả vào mổ lấy mổ để những hạt thóc mẩy. Tiếng lúa rót vào cót, tiếng
cối xay, tiếng chày giã chân thậm thịch, tiếng những suy thất phụ 2 chuyện trò với nhau vui vẻ trong nhà bếp...
gợi lên cảm giác phong túc của một trang trại trù phú. Lần nào được sống trong
không khí này, Trần Nhật Duật cũng tự hứa sẽ về làm như vậy trong thái ấp của
ông nhưng sau thì không lần nào thực hiện được lời hứa. Quả thật việc nông
trang khó quá đối với ông.
Từ cánh đồng, Trần Quốc Tuấn lại đưa Trần Nhật Duật về hậu đường.
Ở đây ông có một căn phòng biệt lập, sáng, mát, và yên ắng. Cửa sổ căn phòng trổ
ra một cái sân nhỏ chung quanh bày những chậu cây cảnh chăm chút kĩ lưỡng. Kể
ra với một người quen sống với núi sông hùng vĩ thiên nhiên mà chơi cây cảnh
thì cũng thật kì lạ. Nhưng thực ra Trần Quốc Tuấn muốn dùng những lúc xén cây,
tỉa cây trải qua nhiều năm liền để rèn luyện đức tính kiên nhẫn của mình. Kế
cái sân nhỏ là một thửa vườn trồng cúc. Rất nhiều giống cúc khác nhau. Một kiến
thức chợt thoáng qua trong trí Trần Nhật Duật: Cúc là giống hoa cần được chăm
sóc tưới tắm, bắt sâu, diệt muỗi hàng ngày. Người ta thường dặn nhau hễ ai còn
phải xa nhà vài ngày thì đừng có mà trồng cúc. Đó là thứ hoa dành riêng cho những
người già ít đi xa và những cao sĩ ở ẩn. Vườn cúc là vườn của ẩn sĩ...
Vườn cúc của Trần Quốc Tuấn đã trồng tỉa để đón vụ hoa tết
Nguyên Đán. Những luống cúc non lên mơn mởn, chồi nào cũng mập mạp. Tuy chưa tới
tuổi trồng cúc nhưng Trần Nhật Duật cũng là người sành hoa. Ông nhận ra các loại
cúc gấm, cúc giấu hương, cúc móng ưng, cúc đeo ngọc, cúc lù, cúc vàng bông to,
cúc tơ trời... Những khóm cúc này hứa hẹn một yến tiệc hương sắc vài tháng tới.
Bên kia vườn cúc là một dãy nhà trúc vàng lợp lá thông non
nhã thú. Đó là nhà sách của Trần Quốc Tuấn. Nửa đời người xa lánh kinh đô, xa
lánh công danh phú quý, Trần Quốc Tuấn đã bỏ bao công sức, bao tiền của để chuốc
lấy những pho sách quý báu các loại chứa vào đó. Tuy Trần Quốc Tuấn không nói
ra nhưng Trần Nhật Duật cũng hiểu rằng nơi ấy, Trần Quốc Tuấn đã bao phen ngồi
trầm tư nghiền ngẫm việc đời, việc người. Ở đấy biết bao tư tưởng đến với Trần
Quốc Tuấn, biết bao kiến thức được lật phải lật trái để rồi được xếp thứ tự sau
vầng trán ưu tư kia.
Trần Nhật Duật bước xuống vườn cúc. Trần Quốc Tuấn im lặng dẫn
em đến nhà sách. Ở chái đầu nhà, Trần Quốc Tuấn dành làm chỗ ngủ và chỗ làm việc
cho một cậu bé mười lăm tuổi. Người thư nhi này tên là Trương Hán Siêu giữ việc
coi sóc nhà sách và ghi chép những điều kín nhẹm riêng tư của Trần Quốc Tuấn.
Chái nhà sách đầu kia là chỗ nghỉ đêm và học tập của người con trai thứ ba của
Hưng Đạo vương. Lúc này trong chái nhà, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng đang đọc
bộ sách Nam Bắc phiên giới địa đồ, một bộ trước tác đã ngót hai trăm năm, từ thời
vua Lý Anh Tông. Đây là bộ sách chép về hình thế sông, núi và kể ra phong tục
cùng sản vật các vùng trong đất nước.
Thấy cha dẫn chú đi tới, Trần Quốc Tảng vội buông sách, sửa lại
khăn áo ra lạy chào. Là hàng cháu nhưng Trần Quốc Tảng còn hơn Trần Nhật Duật
hai tuổi. Hai người đã nhiều năm theo học ở Quốc Tử viện và Giảng Võ đường. Về
mặt kiến văn, Trần Nhật Duật rất phục Trần Quốc Tảng. Chiêu Văn vương còn coi
Hưng Nhượng vương là người khác thường vì con người này hầu như không đếm xỉa tới
mọi thú vui quen thuộc của thế nhân. Cũng chỉ một người có nết lạ đáng chú ý
như thế là Hưng Ninh vương Trần Tung. Hàng năm Trần Quốc Tảng hay bỏ đi chơi
lang thang khắp nơi ít nhất vài ba tháng. Mỗi lần đi đều ăn mặc như người dân
thường, ăn uống trong những quán bên đường, chen vai thích cánh với dân chúng
xem hội, nghe hát xẩm, trò chuyện với mọi người trên một chuyến đò. Những chuyến
đi như thế mở rộng kiến văn của chàng và cũng làm cho Trần Quốc Tảng thấu rõ
tình người. Cha chàng coi chàng là một người hiểu biết người, biết cách xử thế
quyền biến và có những người bạn tri kỉ trong đủ mọi hạng người. Nhưng những lần
lang thang sông hồ cũng làm cho dung mạo của chàng thêm phong trần và có khi
làm cho con người tiều tuỵ đi nhiều. Đến nỗi có lần một người lính gia đồng
vương phủ Hưng Đạo đã ngáng giáo không cho Hưng Nhượng vương vào, thậm chí còn
quát tháo nạt nộ chỉ vì sau những ngày lang thang trong bộ quần áo dân thường,
ăn uống thất thường Trần Quốc Tảng chẳng còn mấy tí phong độ của một bậc vương
giả.
Những cuộc gặp gỡ chuyện trò với Trần Quốc Tảng bao giờ cũng
đem lại cho Trần Nhật Duật những bất ngờ hết sức thú vị. Có khi là chuyện hèm của
một làng, có khi là tính nết của một giống hoa, có khi là một suy nghĩ thoạt mới
nghe tưởng như kì quặc nhưng lúc nghĩ kĩ mới thấy nó mới lạ và sâu sắc, có khi
là một vần thơ thoát tục nhuốm mùi thiền, có khi là một phương thuốc gia truyền
chữa bệnh hiểm nghèo... Những bất ngờ ấy đến với Trần Nhật Duật qua cách kể
bình thường và dung dị của Trần Quốc Tảng. Mấy năm gần đây, những cuộc nói chuyện
giữa hai người đã sang một bước mới. Trần Quốc Tảng hay dẫn dắt Trần Nhật Duật
đến những địa hạt hết sức rối rắm của lí học, tâm học. Đó là cuộc bàn luận
không kết thúc và sau đó cả hai người chia tay ra đi thường vẫn mang theo những
vấn đề chưa có kiến giải. Tuy vậy, Trần Nhật Duật biết rằng Trần Quốc Tảng rất
ghét các đạo sĩ cung Cảnh Linh và các sư phái Mật Tông ở chùa Chân Phúc. Các đạo
sĩ và thiền sư này rất có thế lực trong triều và mặc dù vậy, họ vẫn kiêng sợ
Hưng Nhượng vương. Nghe đâu trong đôi ba cuộc khẩu chiến, Hưng Nhượng vương bằng
cách nói lạnh lẽo mỉa mai và rất thông minh, đã đẩy các đạo sĩ và thiền sư ấy
lâm vào cảnh tự mình lại cãi nhau với mình một cách hăng hái và hung hãn...
Trần Quốc Tuấn nói với Chiêu Văn vương:
- Em sẽ đi thăm thú thế đất quanh vùng và chọn nơi họp. Cháu
Ba sẽ đưa chú đi.
Ông bảo Trần Quốc Tảng:
- Con sẽ theo hầu chú! Chú chịu mệnh vua về đó.
Trần Quốc Tảng chắp tay nghiêm chỉnh vâng lời cha.
Tối hôm ấy, Trần Quốc Tuấn thết Chiêu Văn vương một bữa tiệc
bằng toàn các sản vật đồng quê trong vùng. Đó là một bữa ăn hết sức thân mật giữa
hai người nhưng cả bốn con trai của Hưng Đạo vương đều ngồi hầu rượu cha và
chú. Chiêu Văn vương nắc nỏm khen món nhệch om béo và ngọt thịt hơn lươn đồng
nước ngọt. Ông khen cả món sò huyết nướng và món chả rươi bùi béo. Trần Quốc Tảng
nói:
- Bẩm chú, rươi cuối mùa không thật ngậy cho lắm nhưng lại
thơm hơn.
Trần Nhật Duật cười:
- Đó là lẽ bù trừ của thiên nhiên đó thôi.
Ông ít khi uống một bữa rượu thoải mái thế này, kể cả những
lúc uống tay đôi với một người tri kỉ ở phủ đệ kinh thành. Hình như những bữa
đó ở Thăng Long đã bị cái ồn ào của kẻ chợ chen vào, chúng bị thêm vào một chút
gì phù phiếm của nghi lễ và giàu sang...
Đêm khuya, Trần Nhật Duật ngắm trăng muộn chiếu qua cửa sổ
căn phòng Trần Quốc Tuấn dành cho ông. Trần Nhật Duật không sao ngủ được, lòng
bâng khuâng thậm chí không tập trung tâm trí để nghĩ về một vấn đề gì. Khối núi
Phượng Hoàng đen lạnh, tiếng nước Lục Đầu thầm thào, hương phấn thông và hơi đá
núi tạo thành một khung cảnh vừa xa lạ vừa thân thiết khiến cho ông suy nghĩ
miên man...
Liền trong mấy ngày Trần Quốc Tảng đưa Trần Nhật Duật đi
quanh vùng sáu đầu sông. Hai đức ông chỉ đem theo mươi người hộ vệ. Tất cả đều
cưỡi ngựa, những con ngựa béo mượt trong tàu ngựa của Thái ấp Vạn Kiếp. Từ ngòi
Chiêu đến sông Phượng Hoàng qua những cánh rừng tre, rừng trúc đầy vắt, từ núi
Phao, núi Lừng xuống bãi lầy Đan Hội, từ Khê Cầu qua Phong Cốc, Cổ Đô, Trần Nhật
Duật phóng ngựa về bến đò Đại Than. Trần Quốc Tảng đã hứa với chú là về đây sẽ
sửa một bữa chén thật lạ để chú thưởng thức gỏi cá đầy phong vị sông nước mênh
mang vùng sông Lục Đầu.
Họ về đến Đại Than vào một buổi chiều vàng, nắng hanh còn le
lói nhưng không gian đã sớm lạnh lẽo. Từ ngôi chùa Phả Lại tít mù xa, tiếng
chuông thu không thong thả buông lẩn vào gió thu. Giữ đúng lệ của con nhà tướng,
Trần Nhật Duật vẫn dẫn đầu đoàn người ngựa xuống bãi sông. Ai nấy đều tắm và tắm
chải luôn thể cho ngựa. Sau đó họ cùng thay quần áo sạch.
Trần Quốc Tảng đưa chú đến một cái bè vó cắm ở mé trên bến Đại
Than. Chủ cái bè vó là một ông già thấp nhỏ, vẻ rụt rè, có một đôi mắt gấp gay
đã kém tinh tường. Đó là cụ Uẩn, người làm nghề kiếm cá và chở đò ngang qua bến
Đại Than. Theo lời Trần Quốc Tảng thì ông cụ giỏi võ lắm, những người lính
trong đội quân gia đồng thái ấp Vạn Kiếp rất quý ông cụ. Họ thường đến xin ông
cụ chỉ giáo cho những đường kiếm hiểm hóc và nghe cụ kể chuyện chinh chiến thời
trai trẻ. Họ coi ông cụ là thầy. Đối với cụ Uẩn, Trần Quốc Tảng là người chịu
ơn. Nghe đâu, trong một lần đi săn, Trần Quốc Tảng ngã ngựa sái xương hông.
Lính gia đồng mời cụ Uẩn đến thái ấp Vạn Kiếp chữa cho đức ông Hưng Nhượng. Bằng
thủ thuật bí truyền trong chốn giang hồ, ông cụ đã nắn cho Trần Quốc Tảng khỏi
sái. Sau đó Hưng Nhượng vương thưởng gì ông cụ cũng không nhận, ngoài ba chén
rượu uống suông. Từ đó, Hưng Nhượng vương mỗi lần có dịp thường ghé thăm ông cụ
và lần nào cũng được ông cụ thết món gỏi cá.
Cụ Uẩn đăm đăm ngắm Chiêu Văn vương. Đức ông hoàng Sáu hồ hởi
bảo ông cụ:
- Kính chào ông lão, tôi ở kinh thành về Hải Đông qua đây ghé
thăm ông lão.
- Kính lạy đức ông, kẻ dân hèn này được hai đức ông đến thăm
thật quá đỗi lo lắng và mừng rỡ.
Ông cụ mời hai đức ông xuống bè vó. Chiếc bè có một khoang nhỏ
mui lá rất sạch sẽ. Hai chiếc chiếu cói đan lấy rất khéo trải gần kín khoang. Một
lưỡi đòng, một thanh quất chuôi đồng thau giắt trên mui mái. Mặc dầu đã được Trần
Quốc Tảng kể qua lai lịch ông già độc thân này, Trần Nhật Duật vẫn tò mò ngắm
ông cụ và có cảm tưởng như được gặp một bậc du hiệp kì tài. Cụ Uẩn pha trà Yên
Tử mời hai đức ông uống.
- Bẩm trà núi đá hái tiết sương giáng!
Đã cuối tháng mười trăng mọc muộn. Đêm ấy Trần Nhật Duật được
ăn một bữa gỏi cá kì lạ nhớ đời. Mỗi người một cái vó con nhỏ xíu. Họ tự bắt lấy
những con cá chép thả trong chiếc chậu da lươn để giữa mâm, những con cá chép bằng
ngón tay út đã được cụ Uẩn nuôi bằng nước vo gạo nếp. Rượu là thứ rượu cất bằng
quả kim anh Yên Tử hâm nóng trên hoả lò than đặt ngay cạnh mâm.
Rượu say, họ ngủ ngay trong khoang bè vó. Gió sông ào ạt thổi
bên ngoài mui mái, nước vỗ lóc bóc đầu bè. Càng về khuya, thiên nhiên càng thuộc
về côn trùng và muông thú, chim chóc. Tiếng chim vỗ cánh lưng trời, tiếng dế nỉ
non, tiếng phì của rái cá ở vụng nhỏ cuối bè... Trước khi ngủ thiếp đi, Trần Nhật
Duật thoáng nhớ một lần Trần Quốc Tảng nói về cái dung dị thoát phàm của những
đêm đất lạ. Trong thiên nhiên trong lành, người ta chợt thấy cũng có những điều
nhân loại bày đặt ra thành vô nghĩa và một câu hỏi tự nảy ra: Thế nào là có
nghĩa đối với một con người?
Sáng hôm sau cụ Uẩn hạ chiếc thuyền con vẫn úp trên mui mái
bè xuống nước để đưa hai đức ông đi thăm thú trên sông. Cụ chống thuyền dọc
theo soi Tiểu Than xuống soi Đại Than. Đây chính là cái bãi giữa Lục Đầu giang
mà Trần Quốc Tuấn gọi là hòn Châu có sáu rồng vờn. Cái bãi rất rộng, bốn bề là
nước. Trên bãi lau sậy um tùm, mùa này chim mùa từ phương bắc tránh rét bay xuống
phương nam đậu lại nghỉ cánh, nào ngỗng trắng xám, nào sâm cầm, sít chân đỏ mỏ
đỏ, vịt trời... hàng vạn con.
Cụ Uẩn kéo thuyền ghếch mũi lên bãi soi. Hai đức ông nhanh nhẹn
nhảy lên cạn đi vào trong soi. Đây thật là nơi tốt nhất để làm chỗ họp sắp tới:
bãi Bình Than.
Trần Nhật Duật tính toán rất nhanh những việc cần làm để có một
nhà rạp thật lớn chứa đủ vài trăm người. Ông lập tức cùng Trần Quốc Tảng về Vạn
Kiếp. Những mệnh lệnh liên tiếp ban ra.
Hàng loạt bến thuyền dành cho quân thuỷ của vương hầu được dọn
dẹp chờ thuyền chiến vào đậu.
Những người lính hoả đầu vận chuyển gạo, cá khô đến lập kho ở
hai ven sông.
Những đội tuần sát được phái đi các làng ven sông Lục Đầu để
xét hỏi những người lạ mặt khả nghi.
Một đô lính trạo nhi gia đồng của Hưng Vũ vương Trần Quốc
Nghiễn được lệnh đi dắt mấy bè gỗ và tre luồng từ phủ Lạng Giang về Đại Than.
Những người lính khác được lệnh phát quang bãi Bình Than. Họ
làm một nhà rạp rất lớn mái lá gồi ở giữa bãi. Họ làm thêm những dãy nhà thay
quần áo, nhà mộc dục để tắm rửa, ở cuối bãi là nhà bếp. Những suy thất phụ
khiêng đến Bình Than những chiếc nồi đồng ba mươi, những chiếc chảo cực lớn và
những chiếc chum đựng mỡ. Họ lấy đất thó nặn đầu rau bắc bếp rồi dùng thuyền nhỏ
chuyên chở đến kho thực phẩm các loại hạt khô như đậu, ngô, vừng, lạc... Theo lệnh
Trần Nhật Duật, quan trấn thủ lộ Lạng Giang ra lệnh ngừng tạm thời việc khai
thác lâm sản. Những người lái bè, những người buôn củ nâu, trầu vỏ, lá gồi...
phải hàng ngày đến trình diện ở dinh trấn thủ. Cũng theo lệnh Trần Nhật Duật,
viên tướng chỉ huy quân thuỷ ở cửa Vân Đồn rải thuyền chiến tuần sát đường biển
từ Vân Đồn về các cửa Nam Triệu, cửa Lục... Viên tướng ấy cũng ra lệnh nghiêm cấm
lái buôn nước ngoài vào quá cửa Vân Đồn.
Trần Nhật Duật còn cho triệu các viên chỉ huy lính tuyển
phong xưa nay chuyên đảm nhận việc giữ gìn trật tự, pháp luật ở mấy phủ huyện
chung quanh đến và đặt ra cho họ nhiệm vụ là phải lưu tâm tới những kẻ lưu manh
du đãng, buộc chúng phải ở nhà ban đêm, còn những kẻ chuyên đi buôn sang Trung
Quốc thì phải lên sung vào các đội tu tạo sửa chữa các dinh thự.
Tất cả các công việc chuẩn bị cho cuộc triều hội đã được đốc
thúc làm rất nhanh chóng. Trần Nhật Duật như muốn thử sức mình, đã tỏ ra linh
hoạt và quả quyết vô cùng. Lần này là lần đầu tiên Trần Nhật Duật không có
Hoàng Mãnh bên cạnh. Nhưng cũng là lần đầu tiên ông làm việc công có một người
chỉ giáo rất ít lời nhưng cực kì thâm thuý: Trần Quốc Tuấn. Đức ông Hưng Đạo thẳng
thắn bảo em: “Tất cả những gì anh nói với chú thì chú cứ xem xét, nếu thấy phải
làm thì làm còn nếu có cách nào hay hơn thì tuỳ chú. Con người ta phải quả
đoán. Anh mong rằng chú cũng được cái tính ấy như em hoàng Ba.”
Trần Nhật Duật làm hết mình. Người ta thấy đức ông hoàng Sáu
có mặt khắp nơi, thông minh, tháo vát, tự tin. Đức ông quên bẵng chiếc áo giáp
ngắn mang từ Thăng Long về. Chỉ đến hôm các việc lớn đã xong xuôi, duy còn việc
cho lính giăng màn lụa và thảo sớ dâng vua công việc hoàn tất, Trần Nhật Duật mới
chợt trông thấy cái bọc áo giáp. Bấy giờ trời đã tối và ông đang cùng với Hưng
Nhượng vương Trần Quốc Tảng bàn soạn về ý tứ sẽ viết trong mật sớ tại căn phòng
cuối thái ấp Vạn Kiếp.
Trần Nhật Duật cầm cái áo giáp lên đưa cho Trần Quốc Tảng
xem. Trần Quốc Tảng vốn có kiến văn rộng rãi và đi giang hồ cũng nhiều. Hưng
Nhượng vương cầm xem cái áo và nói về nơi ra đời của nó:
- Loại áo của bọn Tuốc! Bọn này học được thuật đúc áo giáp của
những thương nhân Nhã Điển.
Trần Quốc Tảng khen cái áo tốt, Trần Nhật Duật nói:
- Cháu hay đi chơi lang thang một mình thì cầm lấy nó mà
dùng.
Trần Quốc Tảng ngẩng nhìn chú và kín đáo nhìn rất lâu.
--------------------------------
|
Trích thơ Trương Nhược Hư. Bài Xuân giang hoa nguyệt dạ. |
|
|
Suy thất phụ là những đàn bà nô tì làm việc trong bếp. |
Chương 9
Chiêu Minh Vương Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải vào nội
cung phò hai vua ra điện Thiên An. Các vương hầu và các quan văn võ tung hô vạn
tuế.
Sau một mùa thu xét án tích lưu tồn trong một năm, Thượng
hoàng Thánh Tông sai thiết triều một buổi cuối mùa để mừng đất nước phong tục
thuần hậu. Mùa thu vốn mát mẻ. Các án tích trong một năm đã xử xong, những án
nào nặng thường lưu đến mùa thu để phúc lại với lẽ trời mát, người xử án trong
người thư thái hơn, họ sẽ xem xét kĩ lưỡng có lí có tình hơn. Vụ thu thẩm năm
nay đã được đương kim hoàng đế Nhân Tông giao cho Thái sư Trần Quang Khải chỉ
huy các quan Học sĩ cung Quan Triều và các Ngự sử của Thẩm Hình viện phúc lại
các án. Án tích nặng không nhiều, việc phúc lại làm cũng chu đáo. Trần Quang Khải
đã tâu vua giảm đẳng phần lớn và nhà vua đã chuẩn cho. Vì thế có buổi triều hội
hôm nay để mừng đất nước bằng yên, hoà vui.
Sau khi tuyên chiếu giảm đẳng xong, các quan mừng rỡ tung hô
chúc hai vua sống lâu một lần nữa. Thánh Tông sai ban cho Trần Quang Khải và
các quan Học sĩ, quan Ngự sử phúc án mỗi người ba chén rượu ngon. Trần Quang Khải
còn được ban thưởng thẻ phù chạm mây, các ông Học sĩ thì được mỗi vị một đồng
tiền bằng bạc. Vua tôi cùng mừng rỡ. Thánh Tông phán:
- Triều đình không phải dùng hình phạt là một điều đáng vui.
Sau đó đương kim hoàng đế Nhân Tông sai bày cuộc đánh phết
trên thềm điện Thiên An và sai quan Điện tiền Nguyên soái Trần Bình Trọng mở cửa
hoàng thành cho trăm họ vào xem luôn thể. Đây cũng là cách để tuyên xa đức trạch
của triều thịnh trị, cho nghĩa vua tôi thuần phác thêm.
Hất quả phết vốn là một trò chơi thượng võ đã có trên một
nghìn năm nay và được trăm họ ham thích. Các vua chúa triều trước - triều Lý -
cũng ưa chuộng, các vua nhà Lý và các hoàng tử hay cho các quan đánh phết làm
vui và cũng nhiều lần đánh phết với các quan. Từ thời Trần Thái Tông, Hiển
hoàng Trần Liễu lại càng thích trò vui này vì tính chất thượng võ rất hợp với họ
Đông A. Triều đình hay mở cuộc đánh phết, các vương hầu đua nhau, thay nhau vào
chơi.
Ông giám cuộc hất phết lần này chính là Thượng tướng Trần
Quang Khải. Dưới sự điều khiển của ông, lính túc vệ đô Củng Thần nhanh chóng dựng
hai cầu môn ở hai đầu sân thềm điện Thiên An. Sân thềm này vốn rất rộng, xưa
nay các buổi triều đông đảo hàng nghìn người mà vẫn rộng rãi.
Những bộ cửa cầu môn bằng gỗ sơn son đã dựng xong, mỗi cửa sừng
sững cao hơn một trượng. Lính Củng Thần bày hai cái giá trước thềm. Giá này là
giá cờ. Mỗi quả phết lọt vào cầu môn sẽ được cắm một lá cờ vào giá của bên thắng
quả đó.
Trần Quang Khải bưng một cái khay trên để một quả phết tròn bằng
da nhồi lông, sơn đỏ đến quỳ tâu Nhân Tông:
- Tâu bệ hạ, sâu cầu đã bày xong, thần thỉnh mệnh bệ hạ chọn
hai tướng của hai đội phết.
Trần Nhân Tông vốn là vị vua trẻ, thượng võ. Làm chủ những cuộc
vui chơi vũ dũng thế này rất hợp với lòng ham muốn của nhà vua. Trần Nhân Tông
không thích những trận cầu, trận phết chơi uể oải hoặc mềm yếu, vì vậy nhà vua
chọn tướng đội phết áo xanh là Tá Thiên vương Đức Việp, em ruột mình. Để đội phết
áo đỏ đủ sức chọi được với đội phết áo xanh, Nhân Tông chọn tướng cho đội này
là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Đức ông Chiêu Quốc xưa nay nổi tiếng là người
vô địch hai môn phết và cầu ở kinh thành.
Để trận phết thêm phần hào hứng, Nhân Tông ra lệnh cuộc chơi
này là cưỡi ngựa hất phết. Nhà vua cho phép hai bên được chọn ngựa trong tàu ngự
hoặc dùng ngựa riêng của mình tuỳ ý. Một lát sau, hai đội phết đã sửa soạn xong
chờ cuộc đấu. Mỗi đội phết gồm mười hai người cả tướng. Mỗi đội mặc một màu áo
và thắt một màu thắt lưng. Đội áo xanh thắt lưng hoả hoàng, đội áo đỏ thắt lưng
thâm. Hai đội dàn hai hàng trước điện Thiên An. Họ cưỡi những con ngựa cực kì lực
lưỡng. Những vó trước các con ngựa đều buộc những miếng đệm bông dày nong gân
tre bên trong để che giữ xương ống. Trần Ích Tắc, trên lưng con Hồng Long Câu,
nghiêng đầu kiêu hãnh ngắm đội đối thủ. Một chút khinh thị loé lên trong đôi mắt
đẹp của Chiêu Quốc vương.
Theo lệnh của Trần Quang Khải, người ta đưa những chiếc gậy
tre đực đầu quằm đến cho các đấu thủ. Hai đội quay ngựa về dàn trước cửa cầu
môn của đội mình.
Đội trống đồng và nhạc quân cũng đã chỉnh đốn xong ở mé trái
điện Thiên An. Trần Quang Khải tâu vua xin cho cuộc hất phết bắt đầu. Trần Nhân
Tông hai tay nâng quả phết sơn đỏ lên khỏi đầu, đi ra tận đầu thềm điện Thiên
An miệng hô lớn:
- Bớ tráng sĩ hai đội!
Hai đội phết đồng thanh náo nức dạ ran lên.
- Trước là để tỏ tráng chí Đông A, sau để vui chung bốn bể,
này bắt đầu này!
Nhân Tông ném quả phết son xuống giữa sân. Nhạc quân nổi lên
hùng tráng. Những kị sĩ cho ngựa phi nước đại. Những chiếc gậy quắm dựng cao
lên trong tư thế sẵn sàng vụt quả phết. Trận phết bắt đầu.
Không khí sân đấu phết náo nức. Những người dân kinh thành đứng
bên kia hồ Dưỡng Ngư cất tiếng hò dậy đất.
Danh tiếng vô địch của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc quả
không ngoa. Con Hồng Long Câu cũng đáng là một con ngựa quý. Một mình Trần Ích
Tắc chơi giỏi bằng mấy người. Chiếc gậy quằm trong tay Ích Tắc khéo léo dắt quả
phết như lẩn vào giữa bốn vó ngựa. Nhiều lần Ích Tắc và đội áo đỏ lừa quả phết
tới sát cầu môn đội áo xanh nhưng Tá Thiên vương Đức Việp và đội áo xanh ra sức
xông xáo cản phá. Họ bày ngựa thành hàng dày đặc trước cầu môn. Ngựa đôi bên va
ức, va hông vào nhau, tiếng hò hét của tráng sĩ hai đội, của người xem cùng dậy
lên.
Đội áo xanh chống trả rất dũng cảm nhưng Trần Ích Tắc đã dùng
một mẹo rất khéo. Chiêu Quốc vương từ xa lừa quả phết đến bằng tay phải. Đội áo
xanh dẫn ngựa cản mé phải của Trần Ích Tắc nhưng khi gần đến nơi, Ích Tắc gạt
quả phết qua bụng ngựa sang mé trái và chuyển gậy sang tay trái quật quả phết
bay vút qua cầu môn của đội áo xanh.
Một thắng! Trống đồng và nhạc quân nổi bài mừng. Người ta cắm
một lá cờ vào giá cờ của đội áo đỏ. Tráng sĩ của hai đội lại trở về cầu môn của
mình bắt đầu chơi tiếp.
Chừng một khắc, đội áo xanh thua liền ba quả. Loáng thoáng đã
có kị sĩ phải thay những con ngựa mệt quá. Sau quả thua thứ ba, bên áo xanh đã
đen lại đen rấp: Trong một cuộc va ngựa rất mạnh giữa Tá Thiên vương Đức Việp
và Chiêu Quốc vương, con Hồng Long Câu xô con ngựa của Tá Thiên vương xiêu đi
làm cho Trần Đức Việp ngã xuống sân.
Theo lệ đấu, người ngã ngựa không được chơi tiếp nhưng đội có
quyền cử người thay cho đủ mười hai người. Nếu là một cầu thủ thường thì tướng
chọn người thay. Nếu người ngã là tướng thì người giám cuộc sẽ chọn tướng mới.
Thế là Trần Quang Khải tiến đến tâu Nhân Tông xin cử tướng mới cho đội áo xanh.
Chỉ thấy Nhân Tông im lặng nhưng đôi mắt nhà vua rực sáng
lên. Nhân Tông truyền nội giám:
- Lấy cho ta chiếc áo xanh và sai đóng yên ngự mã.
Thế là nhà vua thân làm tướng đội áo xanh một phần vì máu
Đông A thượng võ, một phần vì muốn giữ thể diện cho thế hệ mình.
Đội áo đỏ cũng thay một người. Trần Ích Tắc biết Nhân Tông là
tay đánh phết rất giỏi nên không dám khinh thường. Ích Tắc cũng phải chọn một cầu
thủ trẻ: Chương Hiến hầu Trần Kiện.
Trận phết lại tiếp tục. Đội áo xanh từ lúc được nhà vua thân
làm tướng đã tỏ ra dũng mãnh hơn trước. Họ cho người chạy chéo qua chéo lại làm
rối loạn thế trận của đội áo đỏ. Quả phết bay vun vút từ sân đội này sang sân đội
kia. Nhân Tông có cách dẫn phết ngay trước đầu ngựa của mình. Cách dẫn phết này
làm các kị sĩ áo đỏ bối rối không đoán được ý nhà vua sẽ đánh quả phết đi bằng
tay trái hay bằng tay phải.
Sức nhanh của con ngựa làm Nhân Tông say sưa. Con ngựa trắng
của nhà vua vốn là con ngựa nhất tàu ngựa ngự. Nó ngửa mặt hất bờm xông thẳng
vào con Hồng Long Câu. Mặc dù thấp hơn Hồng Long Câu đến nửa gang, con ngựa của
Nhân Tông cứ hung hăng xông vào, nó vừa hí gằn vừa nhăn răng ra doạ. Khi hai
con ngựa díu vào nhau, con ngựa trắng cạp luôn vào cổ con Hồng Long Câu. Nhân
Tông nhanh như cắt thúc gót, con ngựa trắng chồm lên mở một đường phi. Nhân
Tông vung gậy phết dứ, con Hồng Long Câu giật mình giạt sang một bên. Thế là
chiếc gậy phết vụt mạnh một cái, trái phết bay như một vệt lửa mờ qua cửa cầu
môn.
Đây là quả phết thắng cuộc của hoàng đế nên trống đồng và nhạc
quân nổi bài đại hạ tưng bừng. Cuộc đấu tạm ngừng. Thượng hoàng Thánh Tông sai
ban rượu cho cả hai đội. Thượng tướng quân Trần Quang Khải tâu vua:
- Tâu bệ hạ, trái cầu vừa rồi thật bất ngờ. Ngay Chiêu Quốc
mà cũng không lường trước được.
- Chỉ là đúng thời thôi. Chú Ba thường nói đúng thời còn hơn
kì tài là gì.
- Tâu bệ hạ, bậc kì tài mới hành động đúng thời được.
Chúa tôi cùng mừng rỡ uống rượu với nhau. Chiêu Quốc vương Trần
Ích Tắc cũng dâng chén rượu mừng thay mặt cho cả hai đội cầu. Nhân Tông uống cạn
chén rượu rồi ném chén ra lệnh:
- Lên ngựa! Đánh tiếp!
Liếc nhìn quanh, Trần Quang Khải tâu khẽ:
- Bệ hạ đừng để cho cuộc đấu kéo dài.
Nhân Tông khẽ gật đầu. Nhà vua xắn cao hai ống tay áo. Thị mã
dâng cương con ngựa ngự. Nhân Tông lên ngựa, giơ cái gậy phết lên cao, cười nói
với Trần Quang Khải:
- Chú Chiêu Minh sai giục trống đi. Đánh xong trận phết này
ta cho miễn triều bảy ngày.
Hai đội phết lại lăn xả vào nhau tiếp tục cuộc đấu. Tiếng hò
la của kị sĩ của các vương hầu và trăm quan của binh lính tứ sương, của trăm họ
đứng bên kia hồ Dưỡng Ngư cùng nổi lên vang dậy. Không khí náo động tưởng như tất
cả mọi người có mặt đều bị cuốn hút vào trận đấu. Nhưng Bảo Nghĩa hầu Trần Bình
Trọng đến gần Trần Quang Khải khẽ trình: “Bẩm đức ông, bọn tay chân của thằng Đạt
Lỗ Hoa Xích đã lẻn vào trà trộn trong đám đông. Có nên đuổi cổ chúng ra không?”
Trần Quang Khải mỉm cười: “Không cần. Tướng quân hãy sắp sẵn tiền thưởng để
tung hê cho dân mừng Quan gia sức khoẻ đi!”
Trận phết tới xế chiều thì xong. Đội áo đỏ thắng chật vật đội
áo xanh, bên chín cờ bên tám. Nhân Tông mặt đẫm mồ hôi, mắt sáng như bốc lửa bảo
Trần Quang Khải:
- Quan Thái sư cho ban phát gạo rượu để binh lính uống vui,
cho ban tiền để dân dự phần mừng rỡ nhé.
Nhân Tông sai mở tiệc ở điện Thiên An cho các vương hầu dự.
Trần Bình Trọng sai lính tung tiền thưởng cho dân. Ai nấy reo mừng ran cả khu
hoàng cung.
Đầu canh một tiệc bắt đầu. Cuối canh hai tiệc triệt. Ai nấy
chuếnh choáng. Nhân Tông sai quây màn dài ở ngay đình lan, đem chăn gối vào đấy
để vua tôi ngủ chung. Thượng hoàng hài lòng nói với các vương hầu bằng vai với
mình về thế thứ:
- Thiên hạ là của chung cả họ. Thằng nhỏ ở ngôi đứng ra gánh
vác việc công. Các chú các bác hãy giúp cháu.
Thánh Tông, Nhân Tông và các vương hầu dan tay đưa nhau vào
đình lan đi ngủ. Hoàng thành và kinh sư im lặng dần trong giấc ngủ say.
Nhưng đầu canh ba, Trần Bình Trọng vào đình lan đánh thức mọi
người dậy. Thượng hoàng nói một câu ngắn:
- Có việc lớn phải bàn. Việc lại phải bàn kín ở nơi xa. Các
khanh ra bến Đông ngay, ta đã sai sắp thuyền ở đó rồi.
Nửa trống canh sau, những chiếc thuyền không thắp đèn thắp đuốc
im lặng và âm thầm rời bến. Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng sai treo một cái biển
“miễn triều” lên trên vọng lâu cửa Đại Hưng. Binh lính tứ sương được lệnh: Nội
bất xuất ngoại bất nhập. Trong không được ra, ngoài không được vào. Hoàng cung
sẽ im lìm một nửa tuần trăng nữa.
Trần Ích Tắc trằn trọc, ruột gan bồn chồn. Việc rời Thăng
Long bất chợt này rõ ràng được bàn trước và được sắp xếp có lớp lang hẳn hoi. Ấy
thế mà Trần Ích Tắc không được hay biết chi hết, ngay việc tạt qua về vương phủ
lấy một vài vật tuỳ thân cũng không được phép. Đây là lần đầu tiên trong đời Trần
Ích Tắc không được hỏi han về việc nước, trong khi đó Bảo Nghĩa hầu Trần Bình
Trọng không phải là thân vương mà vẫn được trao mệnh.
Con thuyền xuôi nước, được gió, trôi bềnh bồng như lướt trong
mơ. Nước sông Thiên Đức mùa này cạn, lắng nghe thấy tiếng đất lở hai ven sông.
Đoàn thuyền đã qua ngã ba Cơ Xá lâu rồi. Đèn đuốc trên các thuyền đã được lệnh
thắp lên. Những đốm sáng trong đêm cuối thu giăng giăng trông như lửa chài mùa
cá ở vụng biển Tức Mạc. Trần Ích Tắc suy nghĩ miên man. Nhớ lại năm xưa khi được
phong vương, mở phủ ở kinh thành, Trần Ích Tắc là người trọng yếu của chi thứ họ
Đông A. Những lần Chiêu Minh vương phò vua ngự giá thân chinh phía nam đất nước,
Chiêu Quốc vương thường được cử làm hoàng tử lưu thủ kinh thành. Uy quyền, tài
năng của Chiêu Quốc vương gắn liền với ngôi báu của chi thứ, Trần Ích Tắc không
bằng lòng trước sự phục hồi quyền thế của chi Vạn Kiếp, mặc dù cho đến nay các
chức vụ trọng yếu vẫn nằm trong tay những người của chi thứ. Nhưng dù sao cũng
đã đến lúc Trần Ích Tắc phải nghĩ về mình và về nhân tài của chi trưởng.
Cuối canh tư, có lệnh của Thượng hoàng Thánh Tông triệu Trần
Ích Tắc đến chầu hầu. Một chiếc thuyền con đưa Trần Ích Tắc từ chiếc thuyền lầu
đến chiếc thuyền Long Phụng của Thượng hoàng. Khi lên thuyền vua, Trần Ích Tắc
thấy Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đã có mặt rồi, ông đang chuyện trò với
Thánh Tông và Nhân Tông. Tá Thiên vương Trần Đức Việp và Chương Hiến thượng vị
hầu Trần Kiện cắp kiếm đứng ở hai đầu thuyền.
Thánh Tông bảo Ích Tắc:
- Em Năm ngồi xuống đây. Ta có việc muốn bàn với em.
Thánh Tông sai ban bánh trái cho Trần Quang Khải và Trần Ích
Tắc. Sau vài tuần trà nước, Thánh Tông trầm ngâm giờ lâu mới nói:
- Theo ta đoán định, giặc sẽ cất quân đánh nước ta vào một
ngày gần đây. Chúng là lũ tàn bạo chưa từng thấy ở thế gian này. Đã thế chúng lại
sẵn ý nghĩ chúng là “thiên triều”, giời cho chúng quyền đè nén các nước chung
quanh. Ở nước ta, vận nước phải trao vào tay người xứng đáng mới mong xã tắc được
vẹn toàn. Cha con ta đức mỏng, lạm giữ ngôi báu đã vài chục năm nay, may nhờ tổ
tông để phúc nên một tấc đất cũng chưa suy suyển. Nhưng đến bây giờ, ta có ý định
muốn trả lại ngôi báu cho chi trưởng để hợp với vương đạo. Các em nghĩ thế nào?
Câu hỏi của Thánh Tông thật minh bạch buộc Chiêu Minh vương
và Chiêu Quốc vương cùng phải suy nghĩ. Những điều gì vụt loé lên rồi tắt đi
trong hai tâm hồn này? Đôi mắt Chiêu Quốc vương vụt rực sáng. Đôi mắt đầy dục vọng
ấy cụp mi xuống. Ngôi vua phải về ngành trưởng, xưa nay lẽ ấy thường tình.
Nhưng nếu ngai vàng về tay chi trưởng, Trần Ích Tắc sẽ không còn là bậc thân
vương tôn quý nữa. Nghĩ đến cái nước mỗi khi triều hội, phải quỳ sau bao nhiêu
người, Chiêu Quốc vương đã thấy khó chịu rồi.
Người trả lời trước lại là Chiêu Minh vương:
- Thưa anh, việc nước không phải là việc riêng của họ ta. Bây
giờ xã tắc gặp lúc nguy nan, đặt việc nhường ngôi ra, em e ngại lòng dân li
tán. Sau này lúc đất nước vững bền rồi, anh muốn làm cho hợp với vương đạo thì
lúc đó sẽ hay.
Chiêu Quốc vương bật cười:
- Thế nước nguy nan, hoàng huynh mới phải đặt ra việc nhường
ngôi chứ thế nước bền thì còn nói chuyện gì nữa.
Chiêu Minh vương nghiêm sắc mặt:
- Không phải đến lúc này hoàng huynh mới nghĩ đến việc đó. Ta
đã được hoàng huynh hỏi một lần rồi và ta cũng đã trả lời như vậy.
Chiêu Quốc vương mỉm cười lạnh lẽo. Đức ông hoàng Năm tin chắc
rằng mình hiểu bụng hai anh mình. Họ lo chống trả với giặc và mong ước được sự
ra tay phò giúp của chi trưởng. Nhưng nếu thực chỉ muốn thế thì hà tất phải đặt
việc trả lại ngôi cho thêm rắc rối. Hay là lòng họ vẫn lo chi trưởng đặt ra việc
trao nhường ngôi báu vào dịp này. Xưa nay, sử sách đã từng chép lại những chuyện
giống như thế rồi. Nào là “lên ngôi cửu ngũ cho yên bụng dân trăm họ”, nào là
“trước hết phải chính danh sau mới xuất quân”.
- Tôi e rằng nếu ta không đặt việc này ra thì các bác chi Vạn
Kiếp cũng đặt ra thôi. - Trần Ích Tắc liếc nhìn Thánh Tông rất nhanh.
Trần Quang Khải lưỡng lự:
- Cũng có thể có người... có người nghĩ thế nhưng chắc đức
ông Hưng Đạo...
Chiêu Quốc vương cướp lời:
- Nếu chi Vạn Kiếp muốn được trao ngôi thì người mong muốn nhất
phải là đức ông Hưng Đạo. Thưa anh, ta nên đem việc ấy ra hỏi mọi người. -
Chiêu Quốc vương thoáng mỉm cười: - Ai nấy sẽ can rằng không nên làm việc đó
bây giờ. Thế là ta sẽ cử các đức ông chi Vạn Kiếp giữ các chức vụ quan trọng...
trừ... quyền Thượng tướng và quyền Tiết chế ba quân.
Chiêu Minh vương gạt đi:
- Không được! Cách đó chẳng che được mắt ai cả. Nói một đằng
làm một nẻo chỉ tổ làm tăng thêm mối nghi kị mà thôi. Bây giờ mối đại thống
cũng khá vững rồi. Việc nhường ngôi chẳng cần phải đặt ra. Em xin anh cứ đem việc
nước ra hỏi cả họ, cứ nói cho mọi người thấy rõ cái lẽ đất nước lâm nguy kẻ thất
phu cũng có trách nhiệm. Sau đó việc cử tướng thì chiểu đúng phép tiến hiền.
Chiêu Quốc vương tò mò nhìn anh, hỏi gặng:
- Kể cả chức Thượng tướng và chức Tiết chế hay sao?
Trần Quang Khải sửng sốt nhìn lại Trần Ích Tắc:
- Đã nói tiến hiền thì sao lại còn phân biệt nữa?
Trần Ích Tắc im lặng. Đức ông hoàng Năm không tin những sự việc
ấy sẽ diễn ra xuôi sẻ như vậy. Chi thứ trả quyền cho chi trưởng, đức ông hoàng
Ba nhượng chức Thượng tướng cho một đức ông chi Vạn Kiếp, rồi chức Tiết chế chư
quân cũng về tay một người chi trưởng hoặc chi út. Việc nước đang lúc ngổn
ngang, quân quyền nắm trong tay hà tất phải đòi ngôi báu mà ngôi báu rớt vào
tay cứ như lá thu rụng xuống gốc.
Từ một ngách sâu nào đó trong lòng Trần Ích Tắc, một thèm muốn
bùng lên rất nhanh thành một khát vọng. Là một trong hai người cột trụ của chi
thứ, Trần Ích Tắc phải được trao một trong hai chức Thượng tướng quân và Tiết
chế. Trần Ích Tắc khẽ rùng mình. Chinh chiến... chinh chiến... trong lúc đất nước
nghiêng ngửa ấy, mũi tên ngọn giáo chưa biết sống chết thế nào, nhưng có khi chỉ
một mẹo nhỏ mà ngôi báu cũng rơi vào tay hà huống chức Thượng tướng hoặc chức
Tiết chế. Trần Ích Tắc chợt thấy mồ hôi chảy buồn buồn dọc lưng. Y vội xua đuổi
những ý nghĩ đó đi. Bản tính vốn kiêu sa, tự phụ, Trần Ích Tắc như một vì sao
đã sáng nhưng vẫn khát vọng cả cái sáng của những vì sao khác. Và cái nhầm lẫn
của y là y có cái sáng của một vì sao nhưng y cứ ngỡ đó là cái sáng và cái đức
của vầng mặt trời.
- Như vậy, không cần và cũng chẳng nên đặt việc nhượng ngôi
ra nữa nhé?
Thánh Tông gặng hỏi hai em. Trần Ích Tắc lạnh lùng:
- Đấy là nói về chi thứ chúng ta. Nếu đức ông Hưng Đạo, đức
ông Tĩnh Quốc cáo ốm không đến Bình Than triều hội thì chính lại do người Vạn
Kiếp muốn có việc ấy.
Chiêu Minh vương chau mày:
- Nếu họ đặt ra, hoặc ta đặt ra cũng đều là cái không hay cho
đất nước. Họ Đông A chưa hết phúc, đâu đã đến nỗi ấy.
Chiêu Quốc vương biết mình đã quá lời bèn nói lấp liếm cho
qua chuyện:
- Đó là nói phòng xa thế thôi. Vậy chứ anh hoàng Ba đã nghĩ
xong kế đánh giữ rồi chứ?
- Không, đó là việc lớn quốc gia, còn phải chờ tất cả vương hầu
cùng bàn bạc.
Bấy giờ trời đã sáng. Đoàn thuyền đang đi men vùng bãi dâu
Tiêu Xá rộng mênh mông. Những vườn dâu cuối mùa loáng thoáng lá già xanh thẫm.
Những người con gái đất lề quan họ len lỏi giữa các luống, cố hái cho đủ lá
nuôi lứa tằm muộn cuối năm. Hai cánh đồng, người gặt, người gánh lúa về các
thôn làng thấp thoáng sau những luỹ tre xanh.
Trần Thánh Tông cùng hai em và con ra mũi thuyền ngắm cảnh. Vốn
là người có hồn thơ phong phú, Thượng hoàng khuây dần nỗi ưu tư. Vẻ mặt người dần
tươi tỉnh.
Gần trưa, quang cảnh ven sông nhộn nhịp hơn. Đã gần tới Bình
Than. Từ trên mũi thuyền Long Phụng vua tôi nhìn thấy những người lính thông hiệu
phi ngựa như bay. Những trạm nêu kéo cờ hiệu “Vua đến” để truyền tin về Vạn Kiếp.
Hai bên sông nhân dân trăm họ kéo nhau lên đê cao xem hai vua ngự giá sang
đông. Tiếng reo hò chúc tụng vang dội. Trăm họ vừa được loa truyền báo cho biết
tin hai vua qua thăm phủ An Bang để lễ tổ ở Vạn Kiếp và vãn cảnh chùa Yên Tử mới
trùng tu xong.
Cách Bình Than năm dặm sông, đoàn thuyền vua gặp đoàn thuyền
của chi Vạn Kiếp đi đón giá. Tiếng pháo mừng nổ liên hồi, tiếng trống đồng trầm
hùng, tiếng quân tướng hò reo làm náo động cảnh sông. Người ta thấy đứng trên
mũi thuyền đi đầu có đức ông Hưng Đạo mặc áo tía chống một cây gậy nom như một
ông tiên. Sau Hưng Đạo vương là Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật vóc dáng thanh mảnh
như một văn nhân tài tử. Trên các mũi thuyền đi sau thấy đủ mặt các đức ông chi
Vạn Kiếp.
Hai đoàn thuyền nhập làm một cùng thuận nước xuôi về Bình
Than. Đó là vùng sáu đầu sông vờn hòn châu mà sử sách ngàn đời đã và sẽ chép bằng
những chữ vàng về hào khí Việt Nam thời Đông A.
Chương 10
Cũng vào những ngày này, tuyết trắng phau bay xuống đầy kinh
thành Đại Đô nước Nguyên. Các tướng khiếp tiết, loại thân vệ, đã mặc quần áo
chiến may bằng lông thú xứ lạnh. Họ dàn quân túc vệ ngoài cửa hoàng thành mười
dặm để đón hoàng tử Thoát Hoan đi hành hương về. Lúc đó trên vọng lâu cửa cấm
cung, Hốt Tất Liệt hoàng đế triều nhà Nguyên của “thiên quốc”, đứng nhìn con
trai đang dẫn đoàn người ngựa phi đến trong một cơn lốc bụi tuyết mịt mù. Hốt Tất
Liệt cảm thấy bằng lòng về mình, vì đã theo đúng lời di huấn của cha là phải
gìn giữ sao cho chất máu thảo nguyên vũ dũng vẫn tiếp tục lưu thông trong huyết
quản, mặc dù triều Nguyên đã lập nên ở vùng đất trồng trọt phì nhiêu từ bao đời
nay đã có một nền văn minh cao.
- Ta, con của Tô Lui, cháu của Thành Cát Tư Hãn, vị đại hãn đầu
tiên của chín tộc Thát Đát chúa tể thiên hạ, hiện nay đang trị vì đất Trung Quốc
rộng bao la, người đông như kiến. Ta vẫn làm tròn lời di huấn của ông cha ta.
Một niềm tự hào dân lên nóng tai Hốt Tất Liệt. Nguyên chúa tự
hào về đứa con trai của mình. Đúng là một chàng trai anh hùng như con chim ưng
trên thảo nguyên. Hốt Tất Liệt nhớ lại một câu nói đầy lo âu của ông nội. Lần ấy
trước đây vài chục năm, Thành Cát Tư Hãn thân chinh đánh nước Khôresmơ. Kinh
thành Mécvơ của nước này trở thành một bãi hoang tàn. Bảy mươi vạn người Mécvơ
bị chặt đầu cùng với quốc vưong Khôresmơ. Nhưng hoàng tử Khôresmơ trốn thoát, lấy
dân binh chống lại. Kì lạ thay, cậu bé mười bảy tuổi ấy đã liên tiếp đánh thắng
các cánh quân Thát Đát thiện chiến. Có trận quân Thát Đát bị diệt hơn một tu
man. Mỗi tu man là một vạn quân. Thành Cát Tư Hãn nổi giận, thề sẽ bắt sống cậu
bé cứng cổ, đem dựng nêu treo chết mòn trên thảo nguyên để làm gương cho những
kẻ dám chống lại mình. Thành Cát Tư Hãn huy động một lực lượng rất lớn, tiến
quân thận trọng, dồn cậu bé về phía biển Ba Tư. Quân Khôresmơ mòn mỏi dần. Cuối
cùng, cậu bé chỉ còn hơn một trăm lính hộ thân, cậu bị vây trên một mỏm núi
vách dựng đứng trên mặt biển. Thành Cát Tư Hãn ra lệnh cho binh lính bẻ đầu mũi
tên rồi mới bắn, mục đích là bắn cho cậu bé đau mà bắt sống cậu ta. Quân Thành
Cát Tư Hãn từ từ tiến lên núi. Quân Khôresmơ cũng từ từ rút lên núi. Sau lưng họ
là biển sâu xanh thẳm.
Chắc chắn là bắt được kẻ thù, Thành Cát Tư Hãn đã nghĩ đến những
câu hỏi trước lúc hành tội hoàng tử Khôresmơ. Nhưng đúng lúc đó, cậu bé cứng cổ
gọi tên Thành Cát Tư Hãn và mắng lớn:
- Hỡi này kẻ bạo ngược! Thượng đế sẽ trừng phạt mày! Còn ta
đây, mày đừng hòng làm nhục được ta. Xem đây!
Từ mỏm đá cheo leo, cậu bé thúc ngựa nhảy xuống vụng biển
xanh. Cậu bé rơi rất lâu mới xuống tới mặt nước, trong khi rơi cậu bé vẫn lớn
tiếng chửi mắng bọn cướp nước. Thành Cát Tư Hãn đứng trên mỏm đá cậu bé vừa đứng,
sững sờ nhìn xuống biển. Đại Hãn lẩm bẩm:
- Con người như vậy xứng đáng có kẻ hầu người hạ.
Thành Cát Tư Hãn ra lệnh chọn một trăm lính Thát Đát đi theo
hầu hoàng tử Khôresmơ. Một trăm người tình nguyện được chọn và họ đã theo nhau
thúc ngựa nhảy xuống biển. Nhưng câu nói nổi tiếng của Đại Hãn không phải là
câu khen ngợi đối thủ mà là một lời lo âu về con cháu của mình. Sau khi đã tiễn
một trăm người đi theo hoàng tử Khôresmơ, Đại Hãn đã nói với các tướng tòng
chinh như thế này:
- Con cháu ta sẽ mặc gấm vóc, trị vì các xứ giàu sang. Ta rất
lo chúng sẽ không nhớ gì đến ta, đến chúng ta, những người đã cả đời chinh chiến
để mở nước, đã phải sống hết sức gian lao và đau khổ.
Cũng vì lời nói đó mà Hốt Tất Liệt bắt các con lần lượt phải
hành hương về đất tổ mỗi khi đến tuổi trưởng thành. Khí thiêng đất tổ sẽ tôi
rèn họ thành những dũng sĩ Thát Đát chúa tể thảo nguyên xưa, những dũng sĩ của
Đại Hãn anh hùng. Bây giờ thì một dũng sĩ Thát Đát đang phi ngựa về kia, Thoát
Hoan, đứa con trai của ta, thông minh, anh hùng và đẹp như thần tướng đang phi
ngựa về kia.
Không phải Hốt Tất Liệt lo sợ vô căn cứ. Ngay như y, bố mẹ đều
Thát Đát cả, y lại sinh ra trong một cuộc viễn chinh, lớn lên theo anh đánh
đông đánh tây, rồi tự mình lập ra một triều đại thật giàu sang trên đất nước
Trung Quốc mênh mông này. Có phải chính cái giàu sang này đã làm cho Hốt Tất Liệt
nhớ đến câu nói nổi tiếng của ông nội chăng? Hay là vì cái xa hoa của cấm cung
Trung Quốc làm cho y sa đoạ rồi và làm cho y lo lắng đến đàn con? Có thể cả hai
nhưng chắc chắn rằng quyền uy trên đất nước mênh mông này làm cho y khát khao một
quyền uy trên một đất nước mênh mông hơn nữa. Quyền uy làm cho con người thành
lang sói, ăn không đã thèm, lúc nào cũng như một con thú đói. Bây giờ thì y đã
già rồi, mộng chinh chiến chiếm đoạt làm cỏ những nước láng giềng đã khó tự thực
hiện thì y sai các con y làm. Một đứa con của y đang về kia.
Thoát Hoan là hoàng tử thứ chín của Hốt Tất Liệt. Đó là một
chàng trai có vẻ đẹp mà nhiều tiểu tiết trái ngược nhau. Gã có một tấm thân cường
tráng của giống người du mục quanh năm cưỡi ngựa trên thảo nguyên, nhưng bộ mặt
của gã lại là một bộ mặt thanh tú pha máu nòi Nam Tống, tóc đen, mắt đen. Dáng
gã ngồi ngựa lịch sự nhưng ánh mắt lại là mắt của giống chim đại bàng ăn thịt sống
của vùng hoang mạc xa xôi.
Thoát Hoan đã đến cửa thành. Giàn kèn vòi tu tu thổi một điệu
mừng trầm trầm buồn buồn.
Giữ tục thượng võ của dũng sĩ du mục thảo nguyên, Hốt Tất Liệt
không ngồi trên ngai vàng đón con vào chầu mà Thoát Hoan cũng để nguyên quần áo
phủ bụi đường đến gặp vua cha. Hốt Tất Liệt xuống cổng thành. Thoát Hoan đi rất
nhanh qua cửa lớn vòng thành thứ nhất vào khu điện các, nơi làm việc của các
quan văn võ trong triều. Thoát Hoan đi rất nhanh qua cổng vòng thành thứ hai
sang khu đại điện. Đây là nơi hoàng đế nhà Nguyên thiết triều. Hốt Tất Liệt đứng
trên thềm son chờ con. Bên trái y là Tả thừa tướng A Mê, một khối óc trí lự, một
tín đồ theo đạo Hồi, bên phải là Hữu thừa tướng A Lý Hải Nha, công thần khai quốc,
người đã chỉ huy cuộc công chiến diệt nước Nam Tống, cuộc công chiến đã đem lại
cho Hốt Tất Liệt ngôi vua trên cả một đất nước Trung Quốc mênh mông. Thoát Hoan
định lạy bố, nhưng Hốt Tất Liệt đã ngăn lại.
- Thưa cha, con đã trở về!
Hốt Tất Liệt ngắm đứa con yêu. Thoát Hoan mặc một chiếc áo
lông chuột tuyết màu xám tro. Những vệt tuyết tan còn chảy đẫm hai vai áo. Một
chiếc mũ lông cáo rất dày có chỏm nhọn bằng vàng. Ngang sườn Thoát Hoan cài một
thanh kiếm Ba Tư lưỡi cong rất quý. Bụi đường và tuyết phủ trắng lông mày, lông
mi gã hoàng tử trẻ. Hài lòng về con nhưng Hốt Tất Liệt vẫn làm ra vẻ nghiêm khắc:
- Con ta đi đường có vất vả lắm chăng?
- Thưa cha, nỗi vất vả đường trường ấy sánh sao được với sự
gian lao của cha những lần đánh đông đánh tây.
Hốt Tất Liệt cười lớn. Hốt Tất Liệt sai nội giám đưa hoàng tử
Thoát Hoan đi thay quần áo mới. Chiều tối hoàng cung mở tiệc mừng hoàng tử đi
hành hương về mạnh khoẻ. Những cung tần mĩ nữ kén từ hàng chục nước xa lạ múa
chầu, họ tấu những khúc nhạc của các nước chư hầu xa xôi, họ hát những bản nỉ
non ai oán trong khi các tướng ăn uống như hùm cuốn. Gần nửa đêm tiệc mới mãn.
Thoát Hoan lạy vua cha xin về phủ lập ngoài hoàng thành nhưng Hốt Tất Liệt giữ
lại. Hoàng đế nhà Đại Nguyên nói:
- Đêm nay cha con ta sẽ ngủ chung.
Hốt Tất Liệt dẫn con từ khu Đại điện vào nội cung nhưng cũng
không dừng lại ở khu này. Hai cha con lại qua một vòng thành nữa vào đến khu
chính giữa. Đây là một khu đất rộng không có một công trình xây dựng nào. Nó chỉ
là một bãi cỏ rộng mênh mông. Giống cỏ này lấy từ bãi cỏ thiêng bên bờ sông
Ônôn đem về trồng ở đây. Hốt Tất Liệt luôn luôn tự nhắc mình để khỏi quên đất tổ
Ônôn. Nơi ấy, lần đầu tiên các bộ tộc du mục thảo nguyên họp đại hội Kurintai bầu
Đại Hãn, chúa tể của các bộ tộc Thát Đát và của cả muôn loài.
Hốt Tất Liệt sai các khiếp tiết dựng một lều trận ở giữa bãi.
Cái lều bằng nỉ đen lợp trên một bộ khung bằng gỗ. Trong lều, Hốt Tất Liệt sai
trải hai tấm da gấu tuyết và thắp một đĩa đèn thô sơ bằng mỡ cừu. Hốt Tất Liệt
bảo con:
- Ngày mai con sẽ được trao quyền đại tướng đi đánh phương
nam. Đêm nay cha con ngủ trên thảm cỏ thiêng. Mong rằng cỏ thiêng nhắn nhủ con
ghi nhớ dòng giống anh hùng của chúng ta.
Tất cả các tướng tuỳ tùng đều phải ra ngoài vòng thành.
Hốt Tất Liệt và Thoát Hoan vào lều trận. Trong lều lợp lụa đỏ.
Trên những cọc lều treo những vật tuỳ thân của một nhà quý tộc Thát Đát: Một bộ
yên cương nạm vàng, hàm thiếc và bàn đạp cũng bằng vàng, một cây thương chín đốt
có ngù làm bằng lông đuôi ngựa nhuộm đỏ, một cây cung cánh dài của bộ binh, một
cây cung cánh ngắn dùng khi cưỡi ngựa, cả hai cánh cung đều sơn son rất đẹp, một
ống tên làm bằng gỗ bọc gấm thêu con đại bàng đang bay, một cái roi ngựa tết bằng
gân cừu, một thanh kiếm Xa Mắc Căng, nơi rèn khí giới nổi tiếng thế giới, một
cái que bằng trúc Thiên Sơn cán làm bằng sừng dê núi. Cái que này dùng để gợt mồ
hôi ngựa lúc tắm cho chúng. Nó được cài vào hia và là vật không thể thiếu được
của một dũng sĩ Thát Đát.
Trong lều còn có một cái vò sành đựng sữa ngựa và hai cái bát
gỗ mộc. Hốt Tất Liệt rót sữa ra hai cái bát.
- Cha ông ta chỉ uống thứ này thay nước, thế mà các vị đã lập
nên biết bao vương quốc.
Đêm ấy hai cha con Hốt Tất Liệt nằm trên thảm da gấu nhưng cả
hai đều không ngủ. Hoàng đế nhà Đại Nguyên nói cho con nghe kế hoạch đánh chiếm
nước Đại Việt.
- Chúa tôi nước này không chịu thần phục chúng ta. Chúng ta
là thiên triều. Chúng ta muốn mở cương giới xuống biển phương nam. Nước Đại Việt
lại án ngữ con đường nam chinh của chúng ta mà hai mươi nhăm năm trước quân ta
đã bị họ đánh cho thua to cho nên không thể không trừng trị. Đánh vào Đại Việt
phải tiến quân mấy mặt. Ta đã sai Toa Đô đem quân vào Chiêm Thành rồi. Khi con
xuất quân, hai mặt thuỷ bộ cùng tiến, Toa Đô sẽ từ mé nam đánh úp vào lưng nước
Đại Việt.
Hốt Tất Liệt bình tĩnh dặn dò con. Thoát Hoan sẽ có một cánh
quân tinh nhuệ gồm người man mặc áo đen, man áo trắng tiến từ nước Đại Lý cũ
vào mé tây bắc nước Đại Việt. Quân chủ lực sẽ chọn những tu man Thát Đát thiện
chiến nhất cưỡi toàn ngựa Đại Lý. Ngựa thảo nguyên không chịu nổi khí hậu nóng
nước Việt. Quân thuỷ sẽ chọn người Hán vùng Lưỡng Quảng. Quân bộ có các chiến cụ
đánh thành cũng là quân Hán. Lương thảo biện ở vùng mé nam sông Đại Giang.
- Đại Việt thạo sông nước, lại có một đội voi trận rất ghê gớm.
Nhưng quân thiên triều là vô địch. Con sẽ có những tướng lỗi lạc và thâm trầm
nhất.
Hốt Tất Liệt kể tên A Lý Hải Nha. Tên này đã chỉ huy cuộc
đánh diệt nhà Nam Tống. Hắn đánh bộ giỏi, đánh ngựa cũng giỏi, biết dùng lửa,
dùng nước làm vũ khí, biết chiêu hàng, biết làm cỏ... Nói tóm lại, hắn là danh
tướng bậc nhất của Nguyên triều. Ngoài ra còn Lý Hằng, người đã đánh bại tể tướng
nhà Nam Tống ở mỏm Nhai Sơn. Gã là một tên tướng Hán rất thông thạo dân tình mé
nam. Còn Ô Mã Nhi, dũng tướng vô địch người Hồi Hột. Còn Lý Quán, gã gian thần
nhà Tống đầu hàng, thằng này rất giỏi việc đánh thành...
Rút lại Thoát Hoan sẽ có một đội quân đông và thiện chiến đủ
ngựa, đủ thuyền, một kế sách đánh chắc thắng rất hiểm ác. Và nếu thắng, ngôi
vua nước Việt sẽ về tay Thoát Hoan, và cả ngôi Đại Hãn nữa. Khác với nhiều nước,
ngôi vua thường về con trưởng, người Nguyên có tục các con lớn đi mở nước ở nơi
xa rồi làm vua nơi ấy, ngôi vua đất gốc hay truyền cho con út.
Mờ sáng Hốt Tất Liệt nhắc lại cho con nghe sự tích ra đời của
người Thát Đát. Sự tích cũ kể rằng ngày xưa trên thảo nguyên mênh mang chân núi
Thiên Sơn có một con sói thần lông xám. Nó chính là tổ của người Thát Đát. Một
nạn lụt lớn xảy ra. Muôn loài đều bị cuốn trôi đi, chỉ còn một đôi trai gái Thát
Đát sót lại giữa một hẻm núi bốn bề vách dựng đứng thấu trời. Họ sinh con đẻ
cái. Họ phát rừng trồng lương thực và chăn nuôi gia súc. Đây là một thung lũng
rất phì nhiêu, nhưng lạ thay giông tố luôn luôn giáng xuống, mỗi lần có giông tố
thì sấm sét nổ ra dữ dội, sét đánh vào các chỏm núi, sét đánh sạt cả những chỏm
núi. Tuy thế, dân trong thung lũng đông dần lên. Đến lúc cái lũng không chứa nổi
số dân nữa. Họ tìm đường thoát khỏi vách núi nhưng không sao trèo qua được. Nếu
chịu bó tay thì sẽ bị chết đói hết. Mãi sau có người tìm ra tại sao sấm sét cứ
đánh vào vách núi mãi: Đó là vì nó chứa sắt. Bộ lạc chia ra làm ba đội. Một đội
gồm những chàng trai khoẻ mạnh nhất, họ đi đẵn tất cả cây cối trong lũng đem về
làm củi. Một đội khác gồm những cô gái Mông Cổ đảm đang khéo tay, họ làm thịt tất
cả gia súc lấy da khâu thành nhưng túi hơi làm bễ thổi lửa nung vách núi. Việc
đốt lửa giao cho đội thứ ba gồm toàn người già yếu trông lửa nung vách núi. Họ
nung mười ngày chín đêm, vách núi đỏ rừng rực rồi chảy thành một dòng suối sắt
đỏ xuống đồng bằng. Những người Thát Đát theo dòng suối thép cũng tràn đi. Họ
trở thành những dũng sĩ vô địch, đi mở nước, mở rất nhiều nước. Họ là những người
sinh ra để cai trị muôn dân tộc khác.
Hốt Tất Liệt nằm ngửa trên tấm da gấu, kể cho con nghe sự
tích Sói thần lông xám và núi sắt bằng giọng kiêu hãnh, bồi hồi.
- Ông nội ta khi lên ngôi Đại Hãn đã ban ra một bộ luật Yassa
để cho thiên hạ tuân theo. Đại Hãn đã sai mười bảy vạn tù binh lấy đá xếp điều
luật thứ nhất lên trên đỉnh Thiên Sơn.
Thoát Hoan biết điều luật ấy và đã nhìn thấy nó trên đỉnh núi
rất cao. Nó được xếp bằng những tảng đá thành một hàng chữ khổng lồ, mỗi chữ có
chiều dài bằng ba mươi tầm tên. Cách Thiên Sơn vài trăm dặm, nếu tốt trời người
ta có thể đọc dễ dàng điều luật đó:
“Nếu trên trời chỉ có một Thượng đế vô hình thì dưới đất cũng
chỉ có một vị chúa tể hữu hình: Đó là ta, Thành Cát Tư Hãn!”
Nằm trên cỏ thiêng, nghe kể sự tích oai hùng, không dễ mấy ai
được diễm phúc như hoàng tử Thoát Hoan.
Sáng hôm sau hoàng đế nhà Đại Nguyên Hốt Tất Liệt phong tước
vương cho con trai. Chính hoàng đế chọn mĩ tự cho tước vương của Thoát Hoan: Trấn
Nam vương. Chỉ riêng điều đó đã chứa đựng ý tứ sâu xa. Chiếc lều trận ngủ đêm
trước cũng được ban cho Trấn Nam vương theo tục “cấp vốn” của Thát Đát. Hốt Tất
Liệt bảo con trai:
- Ngôi báu cũng phải tự mình đi kiếm lấy, vương quốc cũng phải
do mình chiếm lấy. Có thế hai phía mới xứng với nhau. Thiên tử mà mất ngôi còn
nhục hơn con chó ghẻ bị bầy đuổi đi. Ngày xưa cố nội ta lúc còn là tù trưởng
phiên trấn mà trong tiệc đại hạ, người giả say rượu chếnh choáng cứ nắm râu
thiên tử nhà Tống mà giật lia giật lịa. Thế mà vua nhà Tống sợ, cứ phải chịu
thôi. Con sẽ xuống phía nam núi Ngũ Lĩnh sắp sửa binh lương. Con sẽ dùng ngọn
thương này mở đường đến ngôi vua của mình.
Lễ mừng thân vương Thoát Hoan diễn ra tưng bừng ở kinh thành
Đại Đô. Nhưng sự việc đáng lưu ý trong ngày hôm đó lại là mệnh lệnh lập hành tỉnh
Kinh Hồ và cử A Lý Hải Nha coi việc của Hành tỉnh này. Đây chính là Mạc phủ của
Trấn Nam vương Thoát Hoan và là bộ não điều khiển việc sửa soạn binh lương,
quân tướng, xe ngựa, thuyền bè cho cuộc tiến quân đánh Đại Việt sắp tới.
Chọn A Lý Hải Nha làm người phò tá cho con trai, Hốt Tất Liệt
tin rằng đúng. A Lý Hải Nha là một tướng gốc Hồi Hột đã từng chinh chiến nửa đời
người, một lão tướng rất mưu lược, trầm tĩnh, sâu sắc và tàn ác. Công lao tiễu
phạt Nam Tống và mở nước Đại Nguyên đã đưa A Lý Hải Nha lên địa vị cực phẩm của
triều đình. Ngay từ những năm trước đây, lúc Thoát Hoan chưa đến tuổi được đội
mũ, Hốt Tất Liệt đã chọn A Lý Hải Nha làm quan tư giảng để coi sóc việc dạy dỗ
cho Thoát Hoan thành một người đủ tài mở nước. Để tỏ bụng tin yêu, Hốt Tất Liệt
cho phép A Lý Hải Nha nhận lễ vương sư của Thoát Hoan.
Hốt Tất Liệt bảo A Lý Hải Nha:
- Ở vùng Kinh Hồ muốn lương thảo có lương thảo, muốn ngựa có
ngựa tốt nước Đại Lý, muốn thuyền có thuyền Lưỡng Quảng. Các ngươi sẽ có những
binh tướng Lĩnh Nam trèo núi không thua gì người Giao Chỉ. Các ngươi cũng sẽ có
những binh tướng thạo nghề sông biển như người phương nam. Nhà ngươi đã là công
thần khai quốc của ta. Tên ngươi đã được khắc lên sách vàng. Bây giờ nhà ngươi
mang ấn vàng thao gấm đi phò tá con ta. Hãy cố sức đem uy danh của thiên triều
đến mở mắt cho bọn man di phương nam. Nhà ngươi phải kính cẩn vâng nhớ ý trẫm!
Hốt Tất Liệt sai treo đèn lồng ở vườn hoa mẫu đơn để tiễn hai
tướng lên đường nam chinh cho trọng thể.
Trưa hôm sau nữa, theo lời tâu của quan giám toà Khâm Thiên
giờ Ngọ là giờ tốt, Thoát Hoan và A Lý Hải Nha rời Đại Đô lên đường xuống Lĩnh
Nam. Hốt Tất Liệt cho một nghìn thân quân Thát Đát đi theo làm đội hộ vệ đặc biệt
của con trai. Nghìn quân này do tên tướng tước Vạn Hộ hầu Lưu Thế Anh chỉ huy.
Hốt Tất Liệt cũng thăng cho Lưu Thế Anh từ tước hầu Vạn Hộ đeo thẻ phù chạm
hình con hổ có hai hạt minh châu lên tước thẻ phù có ba hạt châu.
Một kẻ đã được nuôi dạy để đi mở nước làm vua, một kẻ mang
trong huyết quản dòng máu kẻ cướp của bọn thảo tặc, một kẻ mang trong giấc mơ
tiếng ru man rợ của chó sói, một kẻ mang trong tim cái định kiến thiên triều
con trời tối ư ngu xuẩn, đã lên đường đi đánh cướp nước Đại Việt như thế đó.
Trong lúc giàn kèn vòi của hoàng thành Đại Đô thổi tu tu để
tiễn Trấn Nam vương Thoát Hoan thì cấm quân cung thủ Đại Đô bắn tên sơn đỏ tứ
tung ra tám hướng để báo với thần sông thần núi các nơi biết mà phù trợ cho con
trai của hoàng đế thiên triều. Kinh thành ăn mừng trước một chiến thắng lẫy lừng.
Duy một nghìn gia đình của những người lính trong đội quân của Lưu Thế Anh là
không vui.
Chương 11
Thoát Hoan rời Đại Đô được hai ngày thì ở nước Đại Việt cuộc
triều hội các vương hầu họ Đông A diễn ra tưng bừng trên bãi Bình Than, cái bãi
cát mênh mông được gọi là hòn châu có sáu rồng chầu. Sáng tinh mơ hôm ấy, các
vương hầu từ chỗ đóng quân ở các bến thuyền có quy định trước, đáp thuyền nhẹ về
Bình Than. Chung quanh bãi, những đội quân thuỷ tuần sát bằng những chiếc chải
sơn then trường mình như đàn cá trong thần thoại. Ở mũi thuyền, những người cầm
trống gõ nhịp cho trạo nhi từng tiếng tong tong. Những lá cờ đại, những lá phướn
các màu cắm la liệt, một khu nhà rạp rất lớn cất trên một khu đất cao nhất bãi.
Trước khu nhà, một lá cờ to bằng bốn chiếc chiếu màu đỏ trên đính chữ Trần bằng
nhung đen. Chữ này do chính tay Trần Nhật Duật viết trên giấy rồi thư nhi theo
hình cắt chữ trên nhung. Nét chữ của Trần Nhật Duật nom thật xương kính, trộn
cũng không lẫn. Giáp binh túc vệ Thượng đô đeo kiếm tuần sát quanh khu nhà rạp,
còn quân gia đồng hương Vạn Kiếp dưới quyền chỉ huy của hai gia tướng Yết Kiêu
và Dã Tượng đứng thị lập ở ngoài rìa. Người ta còn thấy những người lính gia đồng
ở thái ấp cũ An Sinh cũng có mặt dưới sự chỉ huy của Nguyễn Địa Lô.
Lúc chuông chùa Phả Lại thỉnh hồi chiêu, Chiêu Minh vương và
Hưng Đạo vương phò hai vua xuống thuyền ở bến Vạn Kiếp. Con thuyền Long Phụng
nhổ sào chậm mất một khắc vì một chiếc thuyền đinh lướt qua bến theo lõng nước
chảy xiết gần bờ. Thượng hoàng sửng sốt vì sự táo tợn của chủ thuyền. Người chú
mục nhìn những người ngồi trên đầu thuyền đinh và kinh ngạc nhận ra vẻ mặt của
một người thân. Người phán nhỏ với đức ông Chiêu Minh:
- Kìa! Đúng là cái thằng hỗn láo ấy nó ngồi kia!
Đức ông Hưng Đạo lại nghe tiếng và cũng nhận ra cái người cầm
lái cái thuyền hỗn hào dám chẹn trước mặt thuyền Long Phụng của vua. Trần Quốc
Tuấn nói ngay:
- Nhân Huệ vương rồi. - Và Hưng Đạo vương tâu vua: - Tâu bệ hạ,
xin cho triệu ngay Nhân Huệ vương đến Bình Than. Việc chống giặc chắc chắn phải
cậy tới quân thuỷ mà người thạo thuỷ chiến không ai hơn nổi Nhân Huệ vương.
Thượng hoàng rất đẹp lòng nói:
- Để Quan gia xuống chỉ triệu cho thuận phép nước.
Trần Nhân Tông vâng lời cha bèn sai ngay các quan cận thần
đem thuyền nhẹ đuổi theo chiếc thuyền đinh.
Khi đoàn thuyền vua đến Bình Than, vị vương chủ hội là Chiêu
Văn vương đã dàn quân hổ bôn đứng nghênh đón từ bến thuyền.
Tiếng tung hô vạn tuế vang dội cả một vùng sông nước mênh
mang. Trống đồng đánh điệu mừng. Quân Long Dực, Hổ Dực giơ khiên đao múa bài đại
hạ. Các vương hầu hôm nay không mang võ khí nhưng đều mặc áo chiến nên họ không
lạy mà chỉ vái hai vua theo lệ quân ngũ.
Thánh Tông bước vào nhà rạp. Trần Nhật Duật đã khéo bài trí
bên trong nhà rạp như bạch hổ đường của tướng võ. Trên vách tường hậu bằng tre
đực ken dày treo những lá mộc của các tướng thao lược nhất của triều Trần. Đây
là chiếc mộc bằng gỗ bọc da trâu sơn xanh tròn to như cái nong, trên vẽ bảy vì
sao theo nhóm tinh tú. Đó là tướng huy của đức ông Chiêu Minh. Đây là chiếc mộc
khác sơn màu cỏ áy trên vẽ mặt trời mặt trăng hai màu chu sa và nguyệt bạch. Đó
là tướng huy của đức ông Tĩnh Quốc. Đức ông Tĩnh Quốc vốn là người giỏi binh
pháp của phái Âm Dương. Người ta còn nhận trên những lá mộc khác tướng huy của
các đức ông Hưng Đạo, Chiêu Quốc, Tá Thiên... trong đó lá mộc của đức ông Chiêu
Văn vẽ tướng huy chòm sao Thiên Đồng.
Nền nhà rạp trải sàm sạp một thứ chiếu cói thô vẽ hoa đỏ. Những
chiếc kỉ nhỏ bày thành hai hàng liền nhau trên để sẵn giấy mực nghiên bút. Đầu
nhà rạp, xoay lưng vào vách treo mộc là hai chiếc kỉ chạm rồng sơn son. Trên kỉ
bày sẵn hai chiếc ống bằng gỗ. Hai chiếc ống này đựng thẻ phù và tín bài. Khi
hai đức vua đã cho phép các tướng ngồi thì quan tướng vương tá là Trần Nhật Duật
đem phù và bài cắm vào ống.
Tất cả đã ngồi yên. Quan tướng giữ việc điển nghi là Hưng Nhượng
vương Trần Quốc Tảng tâu vua rằng kẻ lạ mặt trên thuyền đinh đã bị bắt giải về
Bình Than rồi. Nhân Tông sai dẫn người đó vào. Người ấy chính là Nhân Huệ vương
Trần Khánh Dư. Một Nhân Huệ vương gân guốc, ánh mắt bướng bỉnh giễu cợt trong một
bộ quần áo ngắn may bằng vải thô nhuộm chàm. Trần Khánh Dư lại còn khoác một
cái nón mê, màu lá nón đã mốc. Các vương hầu muốn cười mà không dám, vì ai nấy
đã từng biết tính nóng nảy và hay gây gổ của Nhân Huệ vương ngay từ khi ông còn
giữ chức Phiêu kị đại tướng quân ở kinh thành.
Nhân Huệ vương đường hoàng đến trước mặt hai vua bỏ nón xuống
rồi mới làm lễ triều bái. Sau đó ông ngoảnh sang hai bên vái chào các vương hầu.
Thượng hoàng cười bảo Trần Khánh Dư:
- Ta không ngờ một trang nam tử lẫm liệt mà bây giờ đến nỗi
này!
Trần Khánh Dư kiêu hãnh:
- Thưa vua anh, áo em cộc nhưng thân này vẫn cứng cáp hữu dụng
như xưa.
Thượng hoàng phán bảo Trần Khánh Dư rằng bây giờ là lúc đem
cái thân hữu dụng ấy ra mà giúp nước. Thượng hoàng cho phép Trần Khánh Dư ngồi
cuối hàng vương trên hàng hầu.
Cuộc triều hội vừa mới bắt đầu đã sôi sục ngay. Không ai là
không muốn bộc bạch lòng mình khi Thượng hoàng hỏi về thế nước. Thượng hoàng hỏi
ba câu:
Một là chúa Trung Quốc nhà Đại Nguyên muốn gì? Quân Nguyên đã
vào Chiêm Thành, triều Nguyên dụ ta cấp lương và cho mượn đường bộ để đem quân
vào Chiêm Thành.
Hai là ta nên đối phó thế nào?
Ba là phải làm gì ngay bây giờ?
Cả ba câu hỏi này thực ra hai vua đã bàn bạc kĩ với các đức
ông Tĩnh Quốc, Chiêu Minh và Hưng Đạo.
Về câu hỏi thứ nhất, có người phân vân rằng nếu giặc muốn
đánh ta thì chúng sẽ tiến quân vào bờ cõi chứ còn mượn đường làm gì cho thêm
phiền phức thế. Thế là cuộc triều hội sôi sùng sục lên ngay. Thượng hoàng cho
phép các vương hầu lần lượt nói. Ai nấy đều cho rằng giặc dù muốn đánh ta nhưng
cũng phải có cớ. Nhưng mượn đường mà là cớ thì không ai giảng giải cho rõ được.
Đến lượt đức ông Hưng Đạo. Trần Quốc Tuấn nói:
- Giặc có mưu hiểm ác đánh ta. Hiện nay Hốt Tất Liệt gồm cả
tính chất hung hãn thiện chiến của người Thát Đát du mục lẫn cả cái thâm hiểm
sâu xa có mưu toan của các vua chúa Hán. Hắn không còn như ông nội hắn xưa kia,
mỗi khi đánh chiếm một nước nào là cướp hết của cải, giết hết người dân mà hắn
sẽ chia quận huyện để cai trị, lột da lột thịt trăm họ đời này qua đời khác.
Lòng tham của Hốt Tất Liệt không đáy, nhưng hiện nay, ngoảnh về phía bắc, Hốt Tất
Liệt vướng đất của dòng trưởng Lều Vàng. Ngoảnh về phía tây và tây nam, Hốt Tất
Liệt cũng vướng đất của ngành thứ hai và ngành thứ ba, mặt đông là biển rồi. Chỉ
còn phía nam. Chỉ còn các nước ở vùng biển phương nam giàu có này mới thực sự
làm cho Hốt Tất Liệt thèm thuồng. Nhưng ngặt vì trước đây, sau khi bị thua ta một
trận to thời Nguyên Phong, Hốt Tất Liệt đã phải cam đoan với ta là không đem
quân sang xâm phạm bờ cõi nước ta và để ta giữ nguyên triều nghi, phong tục
riêng. Giặc muốn xuống phương nam nhưng nước ta như cái then đóng cửa đường đi
của chúng. Vậy theo ý thần, giặc muốn có cớ ta cưỡng lệnh, để chúng chính danh
tiến quân vào bờ cõi nước ta. Vả chăng muốn tiến quân không thể khinh thường mà
cứ đánh bừa đi được. Những người thân tín mà ta cho sang nước chúng báo tin về
rằng việc sắm sửa quân mã lương thuyền của chúng chưa đủ dùng cho một cuộc viễn
chinh với một nước như nước ta đã từng đánh chúng đại bại. Như ý thần tính
toán, giặc sẽ xuất quân khoảng một hai năm tới.
Thật rõ ràng và chính xác. Mọi người đều bằng lòng. Ngay
Chiêu Quốc vương đến lượt tâu vua, cũng phải nhận rằng ý kiến của đức ông Hưng
Đạo thật sâu sắc.
Ấy thế mà đến câu hỏi thứ hai của Thượng hoàng vẫn cứ có hai
cách kiến giải khác nhau:
- Mưu mẹo của giặc hiểm độc như vậy, lọ là phải bàn gì nữa. Cứ
việc phát quân phòng thủ biên giới. Nếu chúng trưng lương, đóng thuyền thì tiến
đánh đốt thuyền đốt lương cho mất hậu hoạ. Ý kiến này của các đức ông Tá Thiên,
Chiêu Quốc...
- Mềm dẻo giữ mối bang giao. Giặc phải sắm sửa binh lương, tướng
tá. Ta cũng phải sắm sửa binh lương tướng tá. Thảng hoặc nước chúng có nội loạn
mà cuộc binh đao không phải xảy ra thì đó là phúc lớn cho trăm họ và xã tắc nước
Đại Việt. Kiến giải này của các đức ông Chiêu Minh, Chiêu Văn, Nhân Huệ...
Kiến giải này làm đẹp lòng yên dạ hai vua. Nhân Tông cho ngừng
cuộc triều hội ban ngự tửu cho các vương hầu. Nhân lúc này, vị vua trẻ đến gần
Nhân Huệ vương. Nhân Tông cởi chiếc áo bào vàng ra, bên trong nhà vua mặc chiếc
áo gấm tía hoa bạc thêu cầm kiếm. Nhân Tông ban chiếc áo tía cho Nhân Huệ
vương. Vua phán bảo Trần Khánh Dư.
- Dân ta có câu “đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”,
chú Nhân Huệ nên nhớ câu đó.
Đến lúc này thì Nhân Huệ vương rơm rớm nước mắt. Chắc rằng từ
nãy đã có người thuật lại lúc Trần Khánh Dư lướt thuyền qua bến Vạn Kiếp thì đã
có chuyện gì xảy ra trên thuyền vua nên Nhân Huệ vương sau khi tạ ơn vua đã vái
đức ông Hưng Đạo hai vái.
Thượng hoàng sai bày bánh trái và hoa quả để các vương hầu ăn
cho thêm phấn chấn. Không khí trong nhà rạp thân thiết hẳn lên. Nghĩa chúa tôi
lui bước nhường chỗ cho tình máu mủ thiết tha. Đức ông Chiêu Minh bưng một bát
rượu lớn đến mời đức ông Hưng Đạo:
- Anh là bậc tôn trưởng, xin mời uống trước cho cả họ mừng.
Trần Quốc Tuấn đỡ lấy bát rượu từ tay Trần Quang Khải. Hai
người nhìn nhau đăm đăm. Hai hôm vừa qua, các đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo đã
gặp nhau tay đôi. Những gì họ nói với nhau trong cuộc gặp gỡ đó không được kể lại,
có lẽ các nhà chép sử rồi cũng chịu không tìm ra được chuyện thực. Nhưng chỉ biết
đêm trước đây, hai đức ông rủ nhau đi thuyền ngắm cảnh sông. Họ đi chơi hay bàn
việc nước, việc họ hàng? Hay họ luận bàn về anh hùng hoặc tình người? Không một
ai đoán biết được. Bằng vào nét mặt bình lặng của hai người, ai nấy cho rằng
hai đức ông không còn sự xung đột về lí trí và tình cảm nữa.
Riêng Trần Nhật Duật nhận xét thì vẻ bâng khuâng đã mất trên
vầng trán của đức ông Hưng Đạo và thay vào đấy là mấy nếp nhăn hằn sâu thêm, dấu
hiệu của những đêm suy tính căng thẳng.
Trần Quốc Tuấn nâng bát rượu lên, ngập ngừng một lát, xúc động
bồi hồi. Đôi mắt vị tướng già bỗng nhoà mờ. Trần Quốc Tuấn nói, giọng lạc hẳn
đi:
- Tôi con nước Việt kì vọng ở họ Đông A. Gánh nặng non sông
xã tắc nặng trĩu trên vai chúng ta. Tôi mời các chú các bác uống bát rượu nguyền
cả họ hoà vui đại thống. Nào, cả các cháu các con cũng uống với chúng ta đi.
Đột nhiên một sự im lặng trang trọng làm mọi người nghẹn
ngào, xúc động. Những bát rượu uống không ồn ào có sức thề nguyền thôi thúc lắm!
Uống xong bát rượu, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư trợn mắt quật
cái bát vỡ tan trên mặt đất. Nhân Huệ vương nói như quát:
- Xin thề một lòng một dạ tận trung báo quốc. Xin thề thà chết
không làm tổn hại đến mối đại thống họ Đông A.
Thế là tiếng thề cùng cất lên. Các vương hầu quật bát thề độc,
đòi quỷ thần chứng giám lòng mình. Thượng hoàng nghiêm khắc nói:
- Vậy thì bây giờ các khanh cho nghe cao kiến phá giặc.
Các vương hầu bàn tiếp kế giữ kế đánh. Đột nhiên có tiếng xôn
xao bên ngoài. Đức ông quan tướng điển nghi Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng phụng
mệnh vua ra xem có chuyện gì đã xảy ra bên ngoài nhà rạp.
Hưng Nhượng vương ra bến thuyền thấy lính túc vệ đang cố đuổi
mấy chiếc thuyền nhỏ đậu ở bến. Đứng trên thuyền, ngoài đám gia đồng chân sào,
còn có vài thiếu niên mặc áo vóc tía xúng xính.
Một thiến niên đã nhảy được lên bờ, hai tay đẩy chiếc giáo
túc vệ ngáng đường mình.
- Dẹp ra! Tội vạ đâu đã có ta chịu! Ta đã bảo ngươi dẹp ra
ngay!
Hưng Nhượng vương lại gần đám xô xát. Viên tiểu tướng giữ bến
thuyền thấy Hưng Nhượng vương thì mừng quá reo to:
- Nào! Đức ông quan tướng điển nghi đã ra. Xem hầu gia còn nạt
mắng anh em chúng tôi nữa không nào?
- Ta đã bảo các ngươi cứ dẹp ra mà! Nào ta có nộ nạt gì ai
đâu.
Hưng Nhượng vương nhận ra người vừa nói là Hoài Văn thượng vị
hầu áo tía Trần Quốc Toản. Hoài Văn hầu là cháu nội của Hoài Đức vương Trần Bà
Liệt. So về thế thứ, Quốc Toản còn là anh họ của Hưng Nhượng vương. Viên tiểu
tướng túc vệ thưa với Hưng Nhượng vương:
- Bẩm đức ông, tiểu hầu gia nhất định đòi vào, không cho bề
dưới chúng tôi làm tròn phép nước.
Hoài Văn hầu lừ mắt:
- Phép nước mà ngươi không giữ tròn thì chính ta cũng trị
ngươi đến nơi đến chốn.
Hưng Nhượng vương cười gạt đi:
- Được rồi! - Ông nói với viên tiểu tướng:- Ta cho phép ngươi
thu giáo lại. - Ông ngoảnh sang Hoài Văn hầu: - Thưa hầu huynh, vậy thì thế nào
là làm tròn phép nước?
Hoài Văn hầu cũng hay đến vương phủ Hưng Đạo chơi nên giữa
hai người cũng có mối giao tình thân mật, nhưng hôm nay Hoài Văn hầu đang cơn bực
tức và Hưng Nhượng vương đang làm việc quân nên Hoài Văn không dám suồng sã:
- Thưa đức ông, viên tướng này làm việc quân khá lắm.
Trần Quốc Toản ngoảnh ngay sang viên tiểu tướng:
- Đây ta thưởng cho ngươi. - Trần Quốc Toản đưa ngay cho viên
tiểu tướng cái quạt nhài vàng trong tay rồi lại quay sang Hưng Nhượng vương -
Nhưng tôi cũng hiểu phép nước. Các vương hầu được Quan gia triệu về đại hội,
tôi chẳng ra gì cũng là hầu tước thượng vị áo tía. Hầu tước thường còn được dự
huống là tôi, sao lại ngăn đường tôi? Mà anh Hoài Nhân kia (Trần Quốc Toản chỉ
vào một chú bé áo tía trạc mười ba tuổi) lại tập tước vương cơ mà.
Hưng Nhượng vương ôn tồn nhưng nghiêm nghị:
- Vậy hai thế huynh có mang bài chỉ Quan gia triệu không?
Hưng Nhượng vương thấy mặt hai người ngẩn ra. Đại hội này chỉ
triệu các vương hầu từ mười bảy tuổi trở lên.
- Không có bài chỉ hả? Vậy thì hai anh vui lòng ra khỏi đất cấm
để cho quân tướng bề dưới làm tròn việc quân.
Trần Quốc Toản xoay ra nài nỉ Trần Quốc Tảng. Thiếu niên hầu
tước kể lể rằng khi biết tin có đại hội thì chậm quá rồi, hai vua đã ngự giá
sang đông cho nên cậu không tiến triều để xin vua cho bài chỉ vào dự đại hội được.
Từ Thăng Long về đây hai cậu đã thay ngựa ba lần. Đến bến Đại Than, hai cậu phải
đổi một chiếc lược vàng mới có được chiếc thuyền câu bé teo kia để đáp sang
Bình Than. Bây giờ thì chết sống hai cậu cũng phải được bệ kiến Quan gia để thỉnh
mệnh. Trần Quốc Toản tán:
- Cho chúng tôi vào nhé!
- Không được.
- Cứ cho chúng tôi vào, tội vạ đâu chúng tôi chịu mà.
Trần Quốc Tảng chỉ cái biển cấm:
- Các anh mà vượt qua cái biển này thì cả tôi cũng rơi đầu.
Hoài Văn hầu tức đỏ mặt nhưng cũng biết phép đành đứng thộn mặt
ra. Hưng Nhượng vương ngoảnh ra hỏi một thiếu niên áo đỏ còn ngồi trên chiếc
thuyền câu:
- Còn anh tên là gì, tước gì để tôi thỉnh mệnh Quan gia luôn
thể cho.
Thiếu niên ngồi trên thuyền đẹp trai vô cùng. Anh ta có đôi mắt
đen láng và cái miệng cười thì rất nghịch ngợm. Hai con mắt đen láng ấy thoáng
loé lên hóm hỉnh. Anh ta đáp:
- Tôi là Phi Liêm hầu.
Trần Quốc Tảng gật đầu, quay về nhà rạp. Bỗng thấy Hưng Nhượng
vương chân bước ngập ngừng. Hưng Nhượng vương ngần ngừ muốn quay lại rồi lại
thôi. Phi Liêm! Mĩ tự này hơi lạ lùng. Phi Liêm là tên một vì sao trên trời,
theo khoa chiêm tinh, coi về sự bay bướm và óng ả của các mớ tóc. Phi Liêm! Kể
ra thì vẻ đẹp của thiếu niên ngồi thuyền cũng xứng với mĩ tự đó.
Nhưng các thiếu niên không được vua cho vào dự đại hội. Nhà
vua sai Trần Quốc Tảng mang ra ban cho mỗi người một trái cam và dụ họ trở về bến
Đại Than đợi mệnh.
Trần Quốc Toản uất người lên. Những người lính túc vệ đứng
canh vừa thương vừa buồn cười mà không dám cười sợ ông hầu tước trẻ con này nổi
giận đổ quạu. Cậu bé hầu tước trợn mắt muốn nạt muốn quát nhưng ở đây thì cậu nạt,
cậu quát ai cho được. Quả cam trong tay Trần Quốc Toản bị bóp nát ra còn trơ bã
và hai giọt nước mắt từ từ lăn trên má cậu.
Trong lúc Trần Quốc Toản nhìn quanh tìm Phi Liêm hầu để gọi
anh ta vào diện kiến đức ông Chiêu Văn nhưng không thấy anh ta đâu cả. Nhìn mãi
ra xa, Trần Quốc Tảng nhìn thấy chiếc thuyền chở Phi Liêm hầu đang sắp sửa vào
bãi Đại Than, chỗ cái bến dành cho những thuyền quá giang.
Không một ai biết Phi Liêm hầu là ai, trừ một người theo hầu
mặc áo chiến quân túc vệ hoàng thành. Đức ông Chiêu Văn khi biết lập tức truy
tìm tông tích anh ta. Mãi sau này, theo lệnh của Trần Nhật Duật, quan Đại Doãn
kinh sư tra soát mãi mới tìm ra tung tích Phi Liêm hầu: Đó là công chúa An Tư mặc
giả trai, nàng cũng là người mang mặt nạ “thương phu trích lệ” vào dự tiệc rượu
mặt nạ mo nang mấy hôm trước. Thái hậu phải bênh che mãi, cô công chúa út mới
khỏi bị trị tội.
Sau hai ngày bàn sôi nổi về kế đánh giữ, chiều hôm nay hai
vua và tất cả các vương hầu về thái ấp Vạn Kiếp. Ở đây, từ trước vẫn thiết lập
nhà thờ tổ mặc dù ở kinh sư vẫn làm nhà thái miếu trong hoàng thành. Nhà thờ ở
đây là nhà thờ tổ do chi trưởng đèn hương phụng thờ. Thánh Tông sai quan điển
nghi sửa lễ để hai vua và các vương hầu tế cáo tổ tông. Đúng giờ Ngọ quan điển
nghi dâng hương. Tông trưởng Trần Quốc Tuấn mở cửa hậu cung, mở tấm màn lụa đỏ
phủ bài vị, thần chủ nội ngoại tông tộc họ Đông A.
Nhân Tông làm chủ tế, dẫn nội ngoại tôn tử tế tổ một tuần. Mục
đích tế lễ này để cáo ngoại với tổ tông về mối đại thống họ Đông A ngày một
thêm bền chặt. Lễ tế càng thêm long trọng lúc cha con Thánh Tông, Nhân Tông và
hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo múa khiên thờ.
Khiên của Thánh Tông vẽ rồng mây long vân khánh hội. Khiên của
Nhân Tông vẽ con thuồng luồng uống nước. Khiên của đức ông Chiêu Minh vẽ chòm
sao Bắc Đẩu. Khiên của đức ông Hưng Đạo vẽ thanh long vờn bạch hổ. Quân sĩ dàn
mấy hàng bên ngoài, khí giới sáng loà. Trong nhà thờ, các vương hầu chia hai
ban đứng nghiêm chỉnh. Chính giữa nhà thờ, chầu vào cửa giữa nội cung trải những
chiếc chiếu dệt bằng cói thô. Hai vua và hai đức ông khoác khiên, cầm kiếm tuốt
trần múa một bài khiên kiếm. Dàn trống đồng của quân Thánh Dực nổi một điệu
quân trầm hùng.
Trần Nhật Duật đứng đầu vương hầu ban tả. Một cảm xúc mãnh liệt
làm đức ông hoàng Sáu thấy nóng ran cả người. Họ Đông A quả là một dòng họ thượng
võ. Cáo với tổ tông rằng con cháu không buông lơi vũ khí, con cháu không quên
tráng chí của tổ tông truyền lại chính là ý thành kính của hai vua.
Trần Nhật Duật nhớ lại hai ngày sôi nổi vừa qua. Biết bao ý
sâu lời hàm súc đã được tâu bày. Ý chí quyết thắng, ý chí quyết giữ từng tấc đất
của giang sơn đã biểu lộ rõ rệt. Bây giờ đây, đứng chầu hai vua múa khiên thờ,
Trần Nhật Duật chợt hiểu rằng nhờ khí thiêng sông núi mà mối đại thống họ Đông
A mới xoá được những oán cừu truyền kiếp. Này kia, trên hai tấm da hổ trải hàng
dưới, các đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo đang song song xoay khiên. Những cây
kiếm sáng múa chậm chậm từng đường kiếm bí truyền của phái võ Tức Mạc. Vẻ mặt
nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn, vẻ mặt cương cường của Trần Quang Khải bây giờ
trở nên thân thiết với Chiêu Văn vương.
Chiều hôm ấy, thái ấp Vạn Kiếp mở tiệc lớn. Nửa đêm tiệc tan,
hai vua và quân tuỳ giá lên thuyền về kinh ngay trong đêm. Các vương hầu cũng
chia nhiều đường thuỷ bộ khác nhau rời Vạn Kiếp. Họ được lệnh về Thăng Long bằng
mọi cách sao cho kín đáo.
Nửa tháng sau, triều đình cử lại một số chức trọng yếu:
- Đức ông Chiêu Minh tiến phong đại vương và giữ chức Thái sư
đầu triều.
- Đức ông Hưng Đạo tiến chức Tiết chế coi quản chư quân thuỷ,
bộ, tượng, mã.
- Đức ông Chiêu Quốc thôi giữ chức trấn thủ lộ Tam Đái, chuyển
trấn thủ lộ Đà Giang. Nhưng thực ra triều đình giao cho Chiêu Quốc vương luyện
một đội quân tinh nhuệ để khi có chinh chiến xảy ra, giặc lấn ta mặt này thì
Chiêu Quốc vương sẽ tiến quân đánh vòng ngay sang đất địch. Thế xung sát sẽ diễn
ra và cuộc tiến quân của địch sẽ bị đập một truỳ nặng.
- Đức ông Nhân Huệ được phục tước vương, được tiến chức Phó
đô tướng quân coi quản quân thuỷ, các bến thuyền, xưởng đóng thuyền chiến, xưởng
bện thừng, xưởng dệt vải buồm. Nhân Huệ vương sẽ đóng ở Vân Đồn và chịu trách
nhiệm kiểm tra thuyền buôn biển của lái buôn ngoại quốc.
- Đức ông Hoài Thượng hầu Trần Văn Lộng tiến chức trấn thủ lộ
Tam Đái.
- Đức ông Chiêu Văn thôi giữ chức trấn thủ lộ Đà Giang. Trần
Nhật Duật được tiến chức trấn thủ lộ Quy Hoá. Lộ này là một khu vực quan trọng
nhằm án ngữ con đường tây bắc mà giặc có thể tiến quân sang. Đồng thời Chiêu
Văn vương cũng được tiến chức Phó đô tướng quân coi quản phần việc phòng kẻ
gian tế và việc phân phó do thám của ta sang dò tìm tin tức về giặc. Chính Trần
Quốc Tuấn đã tâu vua trao chức này cho Chiêu Văn vương vì đức ông Chiêu Văn là
một người trí lự và rất thông minh, quen biết rộng rãi nhiều người ngoại quốc.
Ông cũng nói được nhiều thứ tiếng nước ngoài.
Bên cạnh những việc thuyên chuyển chức tước, triều đình còn
ban ra trăm họ nhiều lệ mới:
- Bãi một nửa thuế ruộng, thuế bãi dâu.
- Bãi hẳn thuế hoá vật của các phường lò rèn và đồ da.
- Tuyển người giỏi sông nước vào các đoàn đội trạo nhi và cử
Tá Thiên vương Trần Đức Việp ra ven biển lập thêm sáu sở đóng thuyền.
- Thu đồ đồng và đồ sắt thừa trong dân.
...
Tất nhiên những việc ấy trước sau cũng lọt đến tai mắt của gã
Đạt Lỗ Hoa Xích Buyan Têmua. Buyan Têmua đã mấy lần tiến triều diện kiến với
vua ta để lục vấn nhưng lần nào vua ta cũng từ chối khéo. Nhà vua mở tiệc lớn
đãi Buyan Têmua và tặng ngọc châu biển Đông cho gã. Nhà vua còn tặng Buyan
Têmua cả những tảng trầm hương to đến mức ngay những bậc phú gia địch quốc của
Trung Quốc cũng chưa bao giờ trông thấy.
Cô gái Phi Liêm hầu không giả trai nữa. Cô lại trở về với cuộc
sống quen thuộc với cô. Cô đàn cho các tì nữ nghe, rồi để cho họ trang điểm, để
cho họ đeo vàng ngọc lên tai, lên cổ, để cho họ dâng hầu chén trà thơm.
Rồi cô lại dẫn họ đi xem vườn hồng sau nội cung. Và tất cả ô,
a như trên đời chỉ có cuộc sống nhiều kì thú như thế này thôi.
Tết năm ấy, vua Nhân Tông trao ấn nguyên soái cho Trần Quốc
Tuấn. Thế là Trần Quốc Tuấn phải tạm biệt thái ấp Vạn Kiếp trù phú có những chiếc
cọn nước dẫn thuỷ nhập điền, có vườn cúc ẩn sĩ, có dãy nhà sách bằng trúc vàng
lợp lá thông nhã thú, có căn phòng riêng sáng mát và yên ắng để về Thăng Long
làm việc trong hoàng cung.
Còn Trần Nhật Duật thì nay đây mai đó, lúc ở lộ Quy Hoá, lúc ở
cửa Vân Đồn. Đức ông Hưng Đạo trở thành người nắm giữ tất cả mối rường trong
quân đội, còn đức ông Chiêu Văn thì trở thành con người có hành tung kì bí nhất
kinh thành Thăng Long và nhất cả nước nữa.
Chương 12
Đã lâu lắm Trần Quốc Tuấn mới trở lại thái ấp Vạn Kiếp thân
thương, nơi ông sống bao nhiêu năm tháng nhàn nhã, xa cuộc đời bon chen, xa quyền
thế, vui với những cuốn sách quý, vui với vườn tược cúc ẩn hương và nghiền ngẫm
như một nhà hiền triết về chữ trung chữ hiếu.
Đã lâu lắm ông mới lại ăn một cái tết ở nhà. Ngày ba mươi ông
còn trên đường, ngày mồng một ông dừng lại một làng bên đường cái quan. Thế là
các bô lão trong làng đem cờ lọng tế thần ra xúm xít rước Quốc công Tiết chế về
ngôi đình làng. Đó là một làng nửa nông nửa chài. Sự trù phú, nết văn hiến của
làng khiến Quốc công cao hứng ở lại qua ngày mồng hai. Mãi tới chiều mồng ba
ông mới lên đường về Vạn Kiếp sau khi đã cầm trống trịch hội vật trong hai ngày
hội làng.
Mồng bốn, Vạn Kiếp mở hội võ mùa xuân. Từ hội võ trở về, ông
đã gặp một người do con trai út của ông tiến cử. Đó là Đỗ Vỹ. Ông đã trao cho Đỗ
Vỹ một trọng trách. Đỗ Vỹ sẽ phải bí mật đi ra nước ngoài để dò tìm những tin tức
về địch. Điều quan trọng là Đỗ Vỹ phải bằng con mắt trí tuệ nhận xét về các tướng
địch, về cách bày, cách chuyển lương để phán đoán cho ra hướng tiến quân của
triều Nguyên.
Ông đã gặp Đỗ Vỹ trong căn nhà dành cho con trai ông ngủ đêm ở
đầu dãy nhà sách. Theo con mắt ông, Đỗ Vỹ quả có đủ trí lự và tầm mắt để tìm được
những tin tức quý. Và đó thật là một con người tài hoa. Cái tài hoa ấy nếu gặp
thời chắc chắn sẽ có chỗ đắc dụng. Bây giờ trước mắt ông, trên vách tường kia,
còn treo bốn bức tranh do con người tài hoa ấy vẽ. Bức thứ nhất, Đỗ Vỹ vẽ mùa
xuân ở cửa Đầu Quỷ. Bức thứ hai là cảnh đêm trăng hè ở cửa Vân Đồn. Bức thứ ba
vẽ cảnh heo hút thu tàn ở rặng núi Yên Tử, còn bức cuối cùng vẽ một cảnh quen
thuộc với Trần Quốc Tuấn. Đó là cảnh rừng bàng mùa đông ở phía bắc kinh thành
Thăng Long. Bốn bức tranh vẽ thật có hồn. Ông đã từng đi qua các nơi đó. Ông
cũng đã từng thưởng thức cảnh đẹp của những nơi đó vào đủ các mùa. Nhưng Trần
Quốc Tuấn phải nhận rằng con người nghệ sĩ kia đã tinh lọc những cái gì tâm đắc
nhất để đưa lên trang giấy nứa thô ráp và làm cho cảnh đó trở thành bất tử.
Sáng hôm rằm tháng giêng, một chiếc thuyền chiến nhẹ cặp bến
Vạn Kiếp đưa đức ông Nhân Huệ tới. Nhân Huệ vương đã quen cuộc sống dân dã nên
mặc dù đã được phục tước và trao một chức cao nhưng ông vẫn mặc một bộ áo chiến
bằng vải chàm bạc màu. Cho nên gia nô hương Vạn Kiếp không biết đã ngăn đức ông
tại cửa rào chông của thái ấp và bắt Nhân Huệ vương xưng danh hiệu.
- Ngươi vào trình với Quốc công có ta là Dư xin vào ra mắt.
Câu nói nửa kính cẩn nửa suồng sã làm cho người gia nô đoán
ngay ra. Anh ta vội mở rộng cửa mời Trần Khánh Dư vào chính đường. Sau đó một
gia tướng vội đi thông báo có khách với Trần Quốc Tuấn. Chỉ một lát sau đã nghe
tiếng Trần Quốc Tuấn oang oang:
- Ông Phó đô tướng quân phải không?
- Lạy anh. Em từ Vân Đồn tới theo lệnh đòi của phủ Tiết Chế.
Trần Khánh Dư vái chào Trần Quốc Tuấn. Nom dáng của Nhân Huệ
vương thật ngang tàng, cao ngạo. Cuộc đời chìm nổi chịu nỗi bất công đã làm cho
Nhân Huệ vương luôn luôn có một cái nghiêng nhìn ngạo nghễ.
- Ngồi xuống đây. - Trần Quốc Tuấn mời Trần Khánh Dư ngồi.
Gia đồng bưng trà tới.
- Trời rét ngăn ngắt mà em từ biển vào ban đêm chắc không ngủ
được?
- Thưa anh, đêm qua em ngủ lại ở mé bến dưới. Mãi sáng hôm
nay em mới về đây.
Nói xong Trần Khánh Dư trình Trần Quốc Tuấn những tờ cáo mật
của các tướng thuỷ đạo về tình hình binh thuyền của ta và của quân Nguyên. Những
bản cáo này là công lao của hàng trăm thám tử lành nghề đi thu thập tin tức. Họ
đã phải trá hình làm người đánh cá, làm người lái buôn, làm người ngoại quốc và
trải trăm nghìn nỗi đắng cay mới mang được về. Nhưng sau khi liếc qua, Trần Quốc
Tuấn nhận ra tầm nhìn của những thám tử này không đủ rộng cho nên họ không rút
ra được những điều chính yếu.
Để những tờ cáo sang một bên ông từ tốn hỏi Trần Khánh Dư:
- Nói đi. Thuỷ đạo cần cái gì bây giờ?
Trần Khánh Dư biết tính Trần Quốc Tuấn làm việc gì cũng nhanh
gọn, Nhân Huệ vương trình Trần Quốc Tuấn về đạo quân dưới quyền ông:
- Quân thuỷ dư thuyền chiến nhưng thiếu nhiều thuyền vận tải.
Nhất là những thuyền vận tải loại vừa. Những thuyền này dùng ở ven biển và
trong các sông ngòi rất tiện. Thưa anh, xin cho lệnh gấp để đức ông Tá Thiên
đóng sớm.
Trần Quốc Tuấn trầm ngâm:
- Có thể thay bằng thuyền nan được không? Dùng thuyền nan có
lợi là dễ làm, tre bương không tốn kém lắm mà sau này khi tan giặc ta sẽ phải
dùng tới nhiều gỗ. Nguồn lợi về gỗ không thể hao phí được.
Trần Khánh Dư thấy ngay Trần Quốc Tuấn tính toán đúng.
- Thưa anh, chỗ em có nhiều người biết đan thuyền nan.
- Vậy thì em hãy lập lấy hai xưởng đan thuyền. Ừ, để ta xem
nào... Một xưởng nên lập ở cửa An Hưng, còn một xưởng lập ở cửa sông Mã. Ai coi
thuỷ đạo cửa sông Mã?
- Thưa anh, đức ông Văn Túc.
- À, con trai của Thái sư. Thằng cháu này biết nhiều nghề
khéo lắm. Giao cho y lập xưởng sông Mã.
- Thưa anh, quân thuỷ thiếu nhiều câu liêm. Giáo và kiếm thì
đủ, chỉ thiếu câu liêm. Ngoài Vân Đồn không có thợ rèn. Xin cho ít người giỏi
nghề rèn để lập lò ngay ngoài đảo.
- Được, em có nhớ viên gia tướng theo hầu ta ở Bình Than
không nhỉ?
- Bẩm, Yết Kiêu?
- Không phải, người kia cơ, Dã Tượng cơ. Ta sẽ giao cho Dã Tượng
ra ngoài đảo để dạy nghề rèn. Ta cho em mượn Dã Tượng một năm.
Và Trần Quốc Tuấn kể qua về Dã Tượng cho Nhân Huệ vương. Dã
Tượng vốn là người của trang Bát Đụn phủ Long Hưng. Trang này là điền trang do
An Sinh vương Trần Liễu sau khi đã được triều đình tha tội đã bỏ của ra chiêu tập
dân lưu tán về mở điền trang ở Bát Đụn. Lúc đó đất này còn là vùng lầy ven biển
trải qua mấy chục năm khai phá, lấy nước sông Hoá dẫn thuỷ nhập điền đến nay đã
thành ruộng tốt. Trần Quốc Tuấn đã cho lập ở đây một loạt đồn dân binh, lấy gia
đồng thôn Bát Đụn và dân các hương chung quanh đóng để canh giữ hai cửa sông
Hoá và sông Sinh. Ngoài số dân binh, Trần Quốc Tuấn còn đặt ở đây một xưởng
thuyền chuyên đóng thuyền kiểu Chiêm Thành, loại thuyền lườn thon, mũi nhọn vượt
thác rất tốt, và một lò rèn. Người chỉ huy lò rèn ở đây và coi việc xưởng thuyền
chính là Dã Tượng. Dã Tượng rất giỏi nghề dạy voi. Anh ta cũng rất giỏi nghề
rèn. Dã Tượng chính là cái tên mà bạn bè quý anh ta tặng cho anh ta. Nó có thể
giảng ra là voi rừng hoặc người thợ rèn. Vì Dã chính là rèn.
Trần Khánh Dư được Dã Tượng mừng lắm vì viên Phó đô tướng biết
Trần Quốc Tuấn thấy việc rèn câu liêm là quan trọng nên mới cho Dã Tượng đi. Trần
Khánh Dư đưa trình Trần Quốc Tuấn xem mẫu câu liêm định làm.
- Bẩm đây là mẫu thường dùng ở trên biển của bọn cướp Trảo
Oa. Nhưng chúng dùng cán dài hơn. Nay nếu ta dùng thì chỉ cần chọn luồng hoặc
tre đực chừng trượng rưỡi là vừa.
Trần Quốc Tuấn im lặng không nói thêm nữa. Ông biết nếu chỉ
có bấy nhiêu việc thì Trần Khánh Dư đâu có chịu về mà về kín đáo trong đêm như
vậy.
Quả nhiên, Trần Khánh Dư đắn đo một hồi rồi nói:
- Thưa anh, cách đây ba hôm thuỷ đạo Vân Đồn bắt được một chiếc
thuyền gian tế.
Thấy Trần Quốc Tuấn vẫn im lặng, Nhân Huệ vương tiếp.
- Chiếc thuyền này chỉ có ba người. Hai người là phu thuyền
đã bị bắn chết ngay khi chặn bắt. Người duy nhất còn lại đã nhai nuốt một phong
thơ. Khi quan tuyển phong tra hỏi thì y cắn lưỡi tự tử. Thành thử vẫn không ra
gốc tích y là người của ai.
- Em nghĩ thế nào?
- Thưa anh, chiếc thuyền này chắc có hẹn với một thuyền to ở
ngoài khơi chờ. Thuyền ba người thì đi biển thế nào được.
- Đúng đó. Sao nữa?
- Bẩm, hắn nhất định đi Trung Quốc vì hành trang của cả ba
tên đều có nhiều áo ấm.
Trần Quốc Tuấn đăm chiêu:
- Quần áo của chúng thế nào?
- Bẩm, quần áo sang trọng. Vâng đúng là quần áo nhà sang.
Riêng đôi hia bằng nỉ đen thì đúng là hia của các tướng tuỳ thân của các đức
ông thân vương.
- Những ai biết chuyện này?
- Bẩm, chỉ bên đồn tuyển phong và em biết. Mà họ cũng không
nhận ra đôi hia.
- Vậy thì em không được nói cho ai biết về đôi hia ấy nữa
nhé.
Trần Quốc Tuấn sai dọn rượu cho Trần Khánh Dư ăn uống rồi
trưa hôm ấy Nhân Huệ vương được lệnh về ngay Vân Đồn. Ở Vân Đồn, Trần Khánh Dư
sẽ tra soát xem có những ai sẽ tới trong những ngày nối tiếp sau đây.
Năm ngày sau Trần Quốc Tuấn nhận được cáo mật của Trần Khánh
Dư:
“Chỉ có mấy gia tướng của các đức ông Chiêu Minh, Chiêu Quốc
và vài người nhà của viên thượng thư nhà vong Tống Tăng Uyên Tử.”
Đọc tờ cáo xong, Trần Quốc Tuấn chau mày suy nghĩ giờ lâu rồi
cầm bút viết một thủ thư gửi đức ông Chiêu Minh.
Nửa đêm về sáng, Trần Quốc Tuấn vẫn làm việc trong nhà sách với
cậu thư nhi Trương Hán Siêu. Theo sự chỉ dẫn của ông, Trương Hán Siêu đang chép
một cuốn sách ra những tờ mẫu để thợ khắc chữ lên ván in. Đó là bản in của cuốn
Binh thư yếu lược.
- Không được đá thảo. Cháu chép đá thảo thì đẹp đấy nhưng các
tướng sĩ ít được học làm sao đọc được. Mà sách không đọc thông thì còn giá trị
gì nữa. Đã gọi thợ khắc lên chưa?
- Bẩm hai hiệp thợ mỗi hiệp sáu người.
- Thưởng trước mỗi người một quan tiền. Thưởng chung một vò
rượu ngon và một đôi gà béo. Cho họ nghỉ một ngày. Ngày kia bắt đầu khắc ván.
Đã có gỗ mít chưa.
- Bẩm các thứ dùng cho việc in đã sửa soạn từ trong năm.
- Tốt lắm. À còn cụ Uẩn đã vào trong này ở chưa?
Cụ Uẩn chính là ông già bến Bình Than đã cho Chiêu Văn vương
thưởng thức món gỏi cá nhớ đời. Ông cụ chính lại là một trong những tay kiếm giỏi
ngày xưa đi tuỳ thân theo Hiển hoàng. Trong ngày hội võ mùa xuân năm nay Trần
Quốc Tuấn mới biết điều đó. Trần Quốc Tuấn đã thưởng cho ông cụ một chiếc nậm
rượu và bảo ông cụ hễ nậm vơi thì cứ việc bảo gia tướng hương Vạn Kiếp rót cho
đầy. Trần Quốc Tuấn cũng bảo ông cụ vào thái ấp mà ở.
- Thưa Quốc công ông cụ vào được hai hôm lại xin ra. Ông cụ bảo
ở trong này nó làm sao ấy, không ngủ được, ăn cũng không được, người cứ bần thần.
Trần Quốc Tuấn cười:
- Ta cũng vậy. Hồi mới về Thăng Long năm ngoái, ta cũng bần
thần mấy tháng mãi sau mới quen dần đi đó.
- Thưa Quốc công còn việc mở khoa thi năm nay?
- Đó là việc của đức ông Chiêu Minh! Cháu muốn lên kinh dự
thi à?
- Bẩm không. Cháu xét thấy mình chưa đủ sức thi khoa này.
- Thôi được. Triều đình không hẹp với ai cả. Nếu sau này lúc
nào xét mình đảm đương việc nước được thì xin dự thi. Còn bây giờ việc ở Mạc phủ
của ta cũng nặng lắm đối với cháu đó.
Tất nhiên việc ở Mạc phủ của Trần Quốc Tuấn rất nặng nề. Có
khi còn nặng và trọng yếu hơn việc trong một bộ. Nhưng Trần Quốc Tuấn hiểu lòng
Trương Hán Siêu muốn có đỗ đạt để thành danh với người đời. Đó là một cách nghĩ
chưa đúng, nhưng cậu bé thư nhi này còn trẻ. Cứ để thời gian sẽ làm cho cậu hiểu
dần ra rằng kết quả công việc làm là giá trị, còn thi đỗ, làm quan chỉ là thứ
phù phiếm, chẳng qua người đời mới hiểu có một mặt trong cách tuyển chọn người
tài của triều đình đó thôi. Muốn chỉ khéo cho Trương Hán Siêu biết điều đó, Trần
Quốc Tuấn đọc một lá sớ cho Trương Hán Siêu chép. Sớ tâu vua cử một ông lang lộ
Thượng Hồng làm quan chữa thuốc cho đội quân đông bắc. Ông lang này có mấy
phương thuốc gia truyền cực lạ. Một là cao dán vết thương. Vừa cầm máu chóng
lên da non vừa làm vết thương không sưng tấy nên người bị thương rất dễ chịu.
Hai là, ông ta nắn khớp tuyệt giỏi. Ba là một phương thuốc chữa đi tả hiệu nghiệm.
Tuy thế nhiều quan ngự y ở kinh sư vẫn coi thường ông ta coi ông ta là thứ lang
vườn. Bây giờ sớ tâu vua xin cử ông ta làm chức điều hộ quân trung hàm tứ phẩm
hẳn làm cho các quan ngự y phải tức lồng lên.
Trương Hán Siêu chừng đoán được ý của Trần Quốc Tuấn nên thảo
xong sớ nhưng cứ cúi đầu im lặng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét