Ba chàng thi sĩ đã ra đi...
"Ta không phái các ngôn sứ ấy đi, thế
mà chúng lại chạy. Ta đâu có bảo chúng, thế mà chúng lại nói lời tiên
tri", Kinh thánh. Thế là ba chàng thi sĩ ấy đã ra đi vào thập niên đầy phấp
phỏm đầu tiên của thế kỷ 21. Họ để lại một khoảng trống xót xa trên bản thảo
thi ca kỳ lạ và sự nghiệp ít nhiều dang dở đầy tiếc nuối của thi đàn Việt Nam
hiện đại. Họ là Lãng Thanh (1977-2001), Nguyễn Lương Ngọc (1958-2001) và Dương
Kiều Minh (1960-2012).
Nếu dựa vào địa đồ nước Đại Việt hồi trước năm 1831, thời vua
Minh Mạng, thì cả ba người này đều ở đất xứ Đoài - một miền đất sơn cước rộng lớn
như cái vỏ áo bao bọc lấy phía trên miền hạ du sông Hồng và là cái đai đất bán
sơn địa, trời trộn đá ong nhiều hơn đất vào tâm tình con người làm thành một
khoảng trống cằn cối nối với vùng thượng du bạt ngàn rừng núi. Vùng đất thời ấy
bao gồm một địa vực các tỉnh Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ và một phần Tuyên
Quang… làm thành phên dậu cho phía Tây thành Thăng Long. Dư địa chí của Nguyễn
Trãi đã từng ca ngợi đây là miền quê nhân vật và phong tục thuần phác, đôn hậu.
Dần dần, người ra thu hẹp lại cái ý tưởng xứ Đoài nghìn năm mây trắng chỉ còn tỉnh
Sơn Tây. Cả Lãng Thanh, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh đều đã rời xứ ấy đi ở
với thiên thu. Họ không bao giờ nói thêm được gì nữa về bản thân và thi ca của
họ.
Câu chuyện cổ tích cảm động về thơ và cuộc đời Lãng Thanh xốn
xang tình đời, tình thi sĩ. Anh làm thơ rất sớm, từ tuổi hoa niên, chưa kịp in
báo và in sách lần nào trước khi lưỡi dao định mệnh cướp sự sống thi nhân vào một
trời trưa oan nghiệt và thảm khốc. Anh để lại bản thảo chừng độ 10 bài thơ. Sau
này tìm thấy tất cả chỉ hơn 20 bài. Hai bài viết trước 1996 gồm Thơ trước
tuổi 21 có 9 đoạn. Thực ra là 9 bài và Bài ca trái tim – những
truyền thuyết về tình yêu và kỷ niệm. Đã manh nha một cái gì đó là lạ chưa định
hình. Một lối thơ tự do mạch chậm, giãi bày cảm xúc trong sáng giản dị hồn quê
bâng khuâng bóng nước. Trái tim thi sỹ ẩn chứa bóng hoa bèo tím ngát mỗi buổi
người em bé nhỏ nơi đô thành xa ngắt trở về… Thơ trước 1996 chỉ phảng phất chất
siêu thực ở từng câu, từng đoạn. Dường như thi nhân còn đang khép nép với bộ
cánh mới mẻ khi chuẩn bị bước vào làng thơ. Nhưng tất cả, tất cả đều ngân lên bằng
cảm xúc tinh tế và phương thức biểu đạt trực diện trong một ngôn ngữ thơ giản dị
mà chân thành. Tựa như là: Tiếng lông chim rơi chậm hơn là giọt mưa thánh
thót. Hay như là Lá thu! Như lãng quên hiện về đỏ sẫm. Dường như
không thể chờ đợi và chậm trễ hơn được nữa, cảm xúc thơ Lãng Thanh bùng nổ sau
năm 1996. Vẫn là tiếng lòng ấy, tiếng kêu đau đớn đứt đoạn về tình yêu, những
xao xuyến khôn nguôi về tình mẫu tử, những bi kịch máu và nước mắt của oan hồn,
những mùa thu chưa cắt nắng ngang chừng để đêm xuống rơi như một giọt mực. Những
bông hoa phù dung hết chậm như nghiên mực nhà nho… Lãng Thanh phủ lên thơ mình
một lớp màu siêu thực đầy hoang dại và mới lạ. Những bài thơ hoàn hảo đến ngạc
nhiên. Thư pháp. Những mảnh vỡ. Mùa thu I. Hai mươi mốt tuổi. Hồi kịch bất
kỳ. Ghi chép nhỏ. Hàng cơm chay. Bài ca Phương Đông. Từ chiếc ốc đến thị trường
chứng khoán. Con mèo đen… Một tập hợp những mảnh vỡ siêu hình lấp lánh tâm trạng
làm thành vẻ đẹp của thơ… Đó là năm 21 tuổi bàn chân ngủ dưới đất, đôi mắt ướt
nỗi buồn lang thang, đã ưa màu đỏ đặc sản của máu vì nó tỏ ra không gì hợp với
màn hài kịch để lắng nghe thời gian hiện hình về trong âm thanh buồn bã và màu
sắc lạ lùng của sự sống.
Tiếng ve sầu thu gom rừng già
Cặp môi màu hoa gạo rơi xuống giữa đường biên.
Ngắt ngang nửa mặt bên phải đang già hơn nửa kia bên trái.
Bài thơ Hồi kịch bất kỳ là một bức tranh siêu thực,
phi lô gic giữa sa mạc mọng nước đẹp mê hồn mà cô đơn, cánh kiến mỏng như
vàng quỳ và thiên thần đã khóc trong sự viên mãn đầy nhân tính của cõi người.
Thiên thần òa khóc đàn bò nhanh nhánh vàng đen
Hít căng bầu gió
Trong có nắng nặng mùi sữa người.
Đọc thơ Lãng Thanh, ta gặp một lối tư duy thơ độc đáo, một lối
tư duy siêu hình thường dựa trên nền tảng từ cái phi lý đến cái có lý, đi qua
cái vô hình để tiếp cận cái hữu hình. Và ngược lại. Cái phi logic làm sáng tỏ
cái logic… Với cách tư duy như vậy, làm được thơ hay phải là những thi sỹ có
tài năng.
Đặc trưng tiêu biểu của thơ Lãng Thanh ở những bài thành công
nhất là sự đan xen giữa hình tượng thơ hiện thực một cách tinh khôi, giản dị với
hình tượng được cảm xúc chắp cánh bởi sự tưởng tượng kỳ diệu của siêu thực để từ
đó làm sâu sắc những ý tưởng xã hội và triết ký nhân sinh. Bài thơ Những mảnh
vỡ là một ví dụ điển hình cho đặc trưng ấy. Bắt đầu bằng sự miêu tả hiện
thực tinh tế: và chiếc lông chim rơi chậm hơn là những giọt mưa thánh
thót. Liền sau đó là những âm thanh và tiếng vọng siêu hình:
Tôi trầm ngâm dạo trong nhà bảo tàng
Nghe hàm răng đã cười sáu ngàn năm trong miệng đất
Tiếng loảng xoảng gươm khua, tiếng hát ru từ các bộ xương.
Rồi tiếp đến là một thế giới siêu thực khi cánh cò trắng
muốt cắt ngang bầu trời, Bầu trời bên trái che xuống mộ ông bà, Bầu trời bên
phải kéo cha mẹ trở về ruộng đất quê tôi… Cứ ngỡ không thoát ra được một thế giới
bị phân đôi mong manh miền giới hạn mà Lãng Thanh lại có thể tỉnh táo trở về hiện
thực đời thường trong lời hứa: tôi không nỡ đổi nửa đồng xu mẻ đặng lấy đồng bạc
nguyên đâu, không nỡ đổi là nhờ cánh cò trắng muốt đầy ảo giác mà thêm yêu
thương cánh đồng nứt nẻ và mương nước đục như bát đất. Sự đan xen ấy giữa hiện
thực và siêu hình làm sáng tỏ triết lý về mối liên hệ giữa lịch sử và con người.
Tình yêu quê hương, đạo lý hiếu thảo với tổ tiên cha mẹ như những giá trị tinh
thần bền vững của người Việt Nam.
Tiếng thơ Lãng Thanh tôi nghe như tiếng vạc kêu thảng thốt
lúc chạng vạng bình minh, để rồi khi ánh dương ló rạng, tôi không nhìn thấy
cánh chim ấy nữa. Một ngày mới sắp đến. Một thời đại chưa đến rồi sẽ đến. Lãng
Thanh bay lên bằng sức bay kì diệu của tuổi trẻ, trên đôi cánh của văn hóa
phương Đông và phương Tây. Khen cho con mắt tinh đời và tấm lòng nhân hậu, nhà
văn Thiên Sơn đã làm một việc nghĩa cử là giữ gìn bản thảo, nhuận sắc điều cần
thiết để đưa thơ Lãng Thanh đến được với công chúng và để một tài thơ như Lãng
Thanh không bị lãng quên. Sau khi Lãng Thanh mất 1 năm, tập thơ Hoa được
xuất bản năm 2003. Một năm sau. Năm 2004. Hoa được trao giải thưởng của
Hội nhà văn Việt Nam.
Lãng Thanh vẫn còn sống ở phố cổ Hà Nội hay một thị trấn heo
hút miền trung du xứ Đoài xưa cũ. Bởi vì Chàng học trò lười đây sống hoang
mái phố. Đuổi bóng con mèo của Bauderaire đến con mèo của Đặng Tiểu Bình. giữa
dăm người hành khất đang nhặt hoa dưới đất và ếch, dế kêu người tha hương.
Nguyễn Lương Ngọc có 3 tập thơ: Từ nước 1991, Ngày
sinh lại 1991, Lời trong lời 1994. Có người nói Từ nước và Ngày
sinh lại manh nha sự đổi mới thi pháp để đi đến sự trọn vẹn ở Lời
trong lời. Tôi rất nể trọng người đã có nhận xét này vì người ấy cùng thế hệ với
Ngọc và cùng được hưởng một cuộc giao ban thế kỷ. Những thực ra tập Từ nước 1991
mới là khởi đầu một sự manh nha. Tập Ngày sinh lại là đột phá về cách
tân thi ca hơn cả. Lời trong lời tiếp tục đổi mới thi pháp ở một số
bài rồi dường như chững lại? Một sự chững lại để tiếp tục tìm một phương cách mới
chăng? Nhiều người khi nói về thành tựu thơ của Ngọc thường chủ yếu trích dẫn
thơ từ tập Ngày sinh lại, để minh chứng cho sự đổi mới thi ca những năm cuối
cùng của thế kỷ 20.
Bắt đầu là những cảm xúc dịu dàng: Anh yêu em anh yêu
em, vui buồn một lá cỏ thèm bơ vơ. Hay phong cảnh thanh bình vào dịp mưa bụi cuối
xuân, tôi nghĩ là lúc đầu xuân thì đúng hơn, khi những con đường lác thác đất
nâu non, hoa xoan phấp phồng trước ngõ, những cánh én xập xòe trong bụi mưa làm
tổ, xa chợt thấy bức tranh muôn thuở dung dị của làng quê trong sự thơ ngây của
khói bếp dịu dàng như làm mùa xuân dài ngày thêm trên mái rạ….
Tập thơ đầu tiên Từ nước có bài hay như Bên
nhau và đặc biệt là Gửi, đánh dấu sự chuyển biến thi pháp Nguyễn
Lương Ngọc. Đó là một bài thơ mà cảm xúc và nhịp điệu của nó tự dâng lên, trào
lên mà không có hồi kết.
Ngày sinh lại là bước chuyển mạnh mẽ. Các bài Tiên
cảm. Lời hát. Đàn giang. Hoang lại. Tìm gặp…. như những bức tranh đa sắc,
hình ảnh và cảm xúc siêu thực được chắt lọc, dồn nén trong những bài thơ thường
không có kết, tưởng như hờ hững như không mà nặng trĩu triết lỹ nhân sinh.
Đó là Tiên cảm với cơn mơ đau thắt ngực khi những
hình xưa bóng cũ lững thững hiện về để thi nhân xanh da trời mà em thì trắng giữa
sương dâng ngang trời, móc bay lất phất vào cõi lạnh người không đầu không cuối
nghe đâu đây bài hát buồn tiên cảm nơi chân cầu lưu thủy.
Đó là nghịch lý của Lời hát khi thi nhân cảm nhận
cuộc sống lạnh lẽo làm sao mà cuộc chết lại ấm áp nhường nào trong tình yêu
không thể giải thích và giải thoát được để đi đến sự hòa quyện giữa ta và người.
Đó là Đàn giang trắng khoảnh khắc rạch từ đất lên
trời, làm thi nhân chẳng nỡ ngắt lời người em gái đang nói về tương lai theo
cánh giang bay mải miết đến nỗi trên cao đám mây vàng cũng sững sờ vì siêu thực
của cảnh sắc tình người.
Đó là Tìm gặp như là lời cảnh thức con người phận mỏng
cánh chuồn đậu trên cành tầm xuân xanh biếc, bên dòng kiến đói ngược xuôi như cảm
thấy ngọn gió man mát ở đầu ngón tay. Giống một ảo giác nhiều hơn là hiện thực.
Với lối bày tỏ cảm xúc vừa tinh tế vừa thanh thoát những bài
thơ trên có lẽ là những bài thơ hay nhất, góp phần định hình phong cách riêng của
Nguyễn Lương Ngọc. Nó thoát ly khỏi xu hướng kể lể và “du dương nhễ nhại” thường
thấy trong không ít bài thơ thời đó. Có điều tôi chưa thấy trong thơ anh nét uyển
chuyển kỳ diệu và sự tài hoa phóng túng của thi sỹ Tản Đà – người mà ông thân
sinh ra Ngọc gọi bằng chú ruột.
Gọi hạc là bài thơ hay nhất của tập Lời trong lời và
cũng là của đời thơ Lương Ngọc. Nó như một tuyên ngôn sinh tử của cuộc cách tân
thơ đương đại, cũng như đó là tấm lòng trong suốt và thanh thản cho sự mất mát
thường có trong một cuộc cách tân. Lời trong lời cố gắng thể hiện sự
đổi mới trên phương diện thể loại thơ. Thơ văn xuôi. Thơ tự do. Thơ lục bát ngắt
dòng không theo nhịp 6/8. Đây đó xuất hiện những vần thơ đầy ý nghĩa và đậm chất
suy tưởng.
Tôi thỉnh một tiếng chuông, xin một tiếng chuông
Bên chùa sư nữ thở dài, người tỉnh dậy lần tràng hạt, nghĩ thế
nào lại thôi
Nàng nằm, đầu nhớ tóc lênh láng quanh gối, tóc là gì?
Nhưng sự đổi mới của Nguyễn Lương Ngọc trong việc xây dựng
câu thơ trọn nghĩa không phải trên một dòng mà được chia ra nhiều dòng, tạo ra
dòng thơ không trọn vẹn đã không mang lại hiệu ứng thẩm mỹ như mong đợi. Bảy
bài thơ viết về miền trung dừng lại ở mức vừa vừa phải. Người ngang tàng một
cách kiêu hãnh như Ngọc chắc anh chẳng hài lòng với điều đó. Tiếc thay một tài
thơ như Ngọc số phận đã bắt anh phải dang dở trên những tờ bản thảo thơ thế kỷ
21 đang chờ đợi anh viết tiếp như dòng nước lặng lẽ vô thủy vô chung đã chảy
bao lâu quanh hào thành Sơn Tây không bao giờ muốn trở thành phế tích trong mưa
nắng của đời người ở quê hương anh
Một sớm vắng
Ùa lên khói bếp
Về đây củi lửa ngày xưa…
Dương Kiều Minh bắt đầu cuộc đời thơ của mình như thế bằng một
ký ức đẹp về sự giản dị mà huyễn hoặc của Củi lửa ngày xưa. Liền
trong 3 năm: 1989, 1990, 1991, anh liên tục cho in 3 tập thơ Củi lửa, Dâng
mẹ, Những thời đại thanh xuân như là sự trào lên sôi sục của hồn thơ đầy
sung mãn mà lặng lẽ đến mức khiêm nhường. Điều kỳ lạ anh đã hoàn thiện phong
cách thơ của mình trong 3 tập thơ ấy và có thể nói ngay trong tập thơ đầu
tiên Củi lửa. Một sự hoàn chỉnh không hề chập chững. Nó là tổng hòa những
ký ức đầy cảm xúc và hình tượng, dung dị và mới lạ trong ngôn ngữ thơ về quê
hương, dòng sông, cánh đồng, về những bước đi xa vắng của thời gian qua sự chuyển
tiếp của ánh sáng và màu sắc của âm thanh và tiếng lòng thi sỹ. Đặc biệt là ký ức
về người mẹ thân thương tưởng như là nét cảm xúc chủ đạo – sợi dây của độc huyền
cầm ngân suốt 3 tập thơ Củi lửa, Dâng mẹ và Những thời đại thanh
xuân.
Thơ anh là những trường đoạn dài của ký ức và cả đời anh đi
theo tiếng gọi ấy:
Ngoảnh lại ngày xưa xa xôi quá
Tôi đi trong tiếng gọi đổ hồi
Thơ Dương Kiều Minh – một hồn thơ trong sáng mà tinh khiết bởi
những khúc tâm tình nhỏ nhẹ, bởi những ký ức giản dị mà chân thành được lưu giữ
kín đáo và thầm lặng trong những bài thơ cấu trúc chặt chẽ, thư thái mà lại nhẹ
nhàng trong phút thăng hoa. Với anh, đổi mới không phải là quá trình lên giọng,
cầu kỳ và phức tạp hóa thơ mà biết soi chiếu tiếp thu những giá trị truyền thống
bằng lối cảm lối nghĩ giản dị, xúc tích đầy liên tưởng của hình ảnh và cảm xúc
tạo ra một nốt trầm trong những bài thơ. Củi lửa và Dâng mẹ chắt
lọc tâm trạng và ngôn từ kết hợp với cấu tứ thơ chặt chẽ kiểu như Chính Hữu ở Đầu
súng trăng treo. Hãy xem những điều đó được diễn tả trong những vần thơ về mẹ:
. Đời con thưa dần mùi khói
Mẹ già nua như những buổi chiều.
. Đâu những mùa gieo vãi
Tôi lon ton theo mẹ hái bông vàng.
. Đâu mẹ gọi con đường quê kiểng
Trưa ngun ngút đồng bằng,
. Chẳng đâu nhiều buồn như phương Bắc
Mẹ nghiêng nghiêng mùa gặt nhọc nhằn.
. Mẹ một mình vun lá
Mẹ một mình nhóm lửa canh mùa thu.
Dương Kiều Minh thường khắc khoải với bước đi của thời gian,
cảm thấy sự thần diệu của thiên nhiên qua sự biến đổi của màu sắc bốn mùa. Cái
bức tranh tứ bình của xứ Việt ấy được anh phả hồn vào đôi khi huyền ảo mà rực rỡ
gây cho tôi một tâm trạng sờ sợ những bí ẩn của thiên nhiên, tựa như anh truyền
cho cái cảm giác ren rét trước sự biến hóa khôn cùng của lực lượng siêu nhiên.
Cảm xúc về mùa thu như là một nguồn thi hứng day dứt mà định mệnh đã trao riêng
cho Dương Kiều Minh suốt cuộc đời cầm bút. Lúc đầu chỉ là mơ hồ rồi dần dần mùa
thu, lá thu, sắc thu, hơi thu… như báo trước điều gì không lý giải nổi. Mùa thu
thật rực rỡ mà như ẩn chứa điều gì bất trắc:
Khúc thu, Khúc thu, Bần bật lá vàng, …cây vĩ cầm tôi vừa cầm
lên, Triệu ngón nến thắp mùa thu vàng rực.,
Mùa thu đến tự bao giờ ta không biết. Bỗng đâu bập bùng lửa nắng
lơ phơ vườn vắng mang câu hát rờn rờn nhưng ý mong manh:
Ở đâu ngăn ngắt lời ru
Lá vàng kiếp kiếp soi mờ hoàng hôn
Mùa thu trong thơ Dương Kiều Minh như thời gian dâng lên để
đi đến sự tắt.
Cho đến năm 2008, khi cho in tập Tôi ngắm mãi những ngày
thu tận, người đọc mới giật mình cảm thấy cái manh nha về sự tắt của thân phận
con người rải rác ở những câu thơ trước đây giờ đã trở nên thôi thúc. Thơ về
mùa thu của Dương Kiều Minh là những cảnh báo đầy ám ảnh về số phận của con người.
Anh không phải là ngôn sứ. Thiên Chúa buộc anh phải nói điều đó cho loài người
biết. Như thế còn chưa đủ, anh phải trả giá bằng cả cuộc đời mình khi cầm lấy sự
linh thiêng của ngọn bút thi ca, để minh chứng cho điều đó. Vì vậy, đổi mới
ngôn ngữ thơ, chắt lọc cảm xúc và hình tượng, chặt chẽ trong câu tứ không phải
là mục đích tự thân, mục đích cuối cùng. Điều cần khẳng định là: Tất cả sự đổi
mới ấy tạo ra một hiệu ứng thẩm mỹ, một ma lực trong thơ, ám ảnh khôn nguôi về thân phận con người, về khát vọng sống của con người trước những thách thức của
thời gian và định mệnh đã làm nên vẻ đẹp của thi ca.
Dương Kiều Minh không dừng lại ở đó, anh bắt đầu tiến trình
cách tân mới ở 4 tập thơ tiếp theo. Thành công đáng kể nhất ở chặng này, nhất
là bắt đầu từ tập Tựa cửa, là những bài thơ văn xuôi. Thơ văn xuôi Dương
Kiều Minh giàu chất suy tưởng và trí tuệ. Nhưng anh khác các nhà thơ lớp trước
thường hay xuất phát từ những luận đề thời sự chính trị. Anh cập bến vào những
sự việc, cảnh sắc, tình huống cụ thể của cuộc đời thường để bàn về những vấn đề
triết lý nhân sinh. Những chiếc lá sen khờ. Qua cầu sông Tích. Buổi sớm trên
bãi tự nhiên sông Hồng. Chạnh miền thôn dã. Dưới vòm hoa phượng vĩ… Ám ảnh người
đọc bởi những nỗi buồn nhân thế, sự âu lo rớm màu ảm đạm… Và thật là đáng sợ,
đôi khi cái không khí rờn rợn của định mệnh cứ như nhắc nhở anh, viết ra để báo
cho người đời biết được.
Họ không phải là những ngôn sứ do Thiên Chúa cử đi. Vậy mà họ
đã nói những lời tiên tri. Lời tiên tri của 3 thi sĩ xứ Đoài cổ xưa là một thời
đại mới của thi ca có lẽ sắp đến và đang đến. Thế kỷ 20 trung bình cứ 20 đến 30
năm lại có một thế hệ các nhà thơ trẻ ra đời để đáp ứng yêu cầu nội tại của bản
thân nền văn học. Friedrich Nietzche có lần nói: Sự tự do hoành tráng của
khí chất là bầu không khí kỳ diệu và hiểm nghèo để trong đó người Hy Lạp sung
sướng trưởng thành. Cũng như thế, những năm cuối của thế kỷ 20, 3 chàng thi sỹ
của chúng ta đã được tận hưởng sự tự do sáng tạo, điều mà Nietzche đã lý giải về
văn minh Hy Lạp. Không phải Thiên Chúa, không phải thực hiện bởi một quyết định
hành chính nào; các anh đã thực hiện mệnh lệnh của thời đại, cùng với dân tộc
Việt Nam bước ra hòa nhập với thời đại, lịch sử và cộng đồng nhân loại đi đến
các đích cuối cùng là bởi con người và vì con người.
Những ngôi sao lấp lánh phía xa xa tồn tại như một điều nghi
hoặc
Cái gì thực dường như bị bỏ quên, cái gì không thực sống
chung niềm ảo vọng của con người.
Ôi! Thế gian hai mấy nghìn năm thực thực hư hư luẩn quẩn
không ra ngoài chuyện con người.
Vâng. Chuyện con người. Ngày 4 tháng 4 năm 2017, nhân dịp kỷ
niệm 60 năm thành lập, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh đã được truy tặng giải
thưởng Hội nhà văn vì có những tác phẩm văn học có giá trị, để lại dấu ấn trong
tiến trình phát triển của văn học Việt Nam. Họ là hai người trẻ nhất trong số
22 người được vinh danh.
Khuất Bình Nguyên
Nguồn: Văn nghệ
Theo http://vanvn.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét